Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Đường lối câu 6-10

Câu hỏi:

Câu 6: Tại sao nói Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử ?

Câu 7: Trình bày nội dung cơ bản của cương lĩnh chính trị đầu tiên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam 3/2/1930 thông qua?

Câu 8: Trình bày hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và nhận thức mới của đảng trong những năm 1936-1939?

Câu 9: Trình bày nội dung, ý nghĩa,chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ 1939-1945?

Câu 10: Trình bày hoàn cảnh nội dung và ý nghĩa lịch sử của bản chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12/3/1945 của Ban thường vụ Trung Ương Đảng?

Câu 6: Tại sao nói Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử ?

Trả lời :

          Từ năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, đến năm 1884 chúng đã thiết lập sự thống trị trên toàn đất nước ta. Nhân dân ta rơi vào thân phận nô lệ, mất độc lập, tự do. Thực dân Pháp đã thi hành những chính sách bóc lột và nô dịch phản động về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Việt Nam chuyển từ xã hội phong kiến độc lập sang xã hội thuộc địa nữa phong kiến.

Không chịu khuất phục, ngay từ khi Pháp xâm lược nhân dân ta từ Nam ra Bắc đã đứng lên chống Pháp dưới ngọn cờ dân tộc của các sĩ phu yêu nước. Các phong trào yêu nước nổi lên chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp như: phong trào Đông Du (1906 – 1908) do Phan Bội Châu lãnh đạo; phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1908) do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền lãnh đạo; phong trào Duy Tân (1906 – 1908) do Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp khởi xướng; phong trào của Việt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu; phong trào của Việt Nam Quốc Dân Đảng (1927) do Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Thái Học lãnh đạo… và còn nhiều cuộc khởi nghĩa khác, nhưng đều bị đàn áp..

Tóm lại, các phong trào yêu nước Việt Nam chống Pháp từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nổi lên mạnh mẽ, cổ vũ tinh thần yêu nước, căm thù giặc của nhân dân ta. Nhưng do không có đường lối chính trị khoa học, tổ chức lỏng lẻo, không có cơ sở rộng rãi trong quần chúng nên đều thất bại. Điều đó chứng tỏ sự khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước ở nước ta. Cách mạng Việt Nam bức thiết đòi hỏi phải có lực lượng lãnh đạo tiên tiến, với đường lối cách mạng đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam đi đến thành công.

Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh lịch sử ấy. Đó là một tất yếu của lịch sử

Câu 7: Trình bày nội dung cơ bản của cương lĩnh chính trị đầu tiên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam 3/2/1930 thông qua?

Trả lời :

          Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

 Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng.

Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.

Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ Quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng,…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8giờ.

Về văn hóa - xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền; phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Về lực lượng cách mạng: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến; phải làm cho các đoàn thể, thợ thuyền và dân cày khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia; phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt…để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.

Về lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo Việt Nam. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.

Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.

Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong gần 80 năm qua đã chứng minh rõ tính khoa học và tính cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Câu 8: Trình bày hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và nhận thức mới của đảng trong những năm 1936-1939?

Trả lời :

          a) Hoàn cảnh lịch sử

Tình hình thế giới:

- Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.

- Một số nước đi vào con đường phát xít hoá: dùng bạo lực để đàn áp phong trào đấu tranh trong nước và ráo riết chạy đua vũ trang phát động chiến tranh thế giới mới. Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức, Ý, Nhật, chúng liên kết với nhau lập ra phe “Trục”, tuyên bố chống Quốc tế Cộng sản và phát động chiến tranh chia lại thế giới. Nguy cơ phát xít và chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm trọng nền hoà bình và an ninh quốc tế.

- Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcơva (7-1935) xác định:

+ Kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít.

+ Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền mà là chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hoà bình và cải thiện đời sống.

+ Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập Mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.

Tình hình trong nước:

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống của mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương ra sức vơ vét, bóc lột và khủng bố phong trào đấu tranh của nhân dân làm cho bầu không khí chính trị trở nên ngột ngạt, yêu cầu có những cải cách dân chủ.

b) Chủ trương và nhận thức mới của Đảng

- Tháng 7-1936, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ hai tại Thượng Hải. Xuất phát từ tình hình thực tế Hội nghị đã xác định:

+ Mục tiêu chiến lược: không thay đổi so với Hội nghị lần thứ nhất- “cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền công nông bằng hình thức Xô viết”, “để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa”.

+ Kẻ thù trước mắt và nguy hại nhất là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.

+ Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Để thực hiện được nhiệm vụ này, BCH TƯ quyết định lập Mặt trận nhân dân phản đế gồm các giai cấp, đảng phái các đoàn thể chính trị và các tôn giáo khác nhau, các dân tộc xứ Đông Dương để cũng đấu tranh đòi những quyền dân chủ đơn sơ.

+ Về đoàn kết quốc tế: Đoàn kết với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp, ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp để cùng chống kẻ thù chung là phát xít và phản động thuộc địa ở Đông Dương.

+ Về hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp. Mục đích mở rộng quan hệ của Đảng với quần chúng.

- Tháng 10-1936, Trung ương Đảng được tổ chức lại do đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới Ban Chấp hành Trung ương cũng đặt ra vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng Đông Dương: cách mạng giải phóng dân tộc không nhất thiết phải gắn kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. “Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì phải chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước”. Đó là nhận thức mới phù hợp với tinh thần Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.

- Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ giữa năm 1936 trở đi khẳng định sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng đúng đắn của Đảng. Hội nghị lần thứ ba (3-1937), lần thứ tư (9-1937), tiếp đó là Hội nghị lần thứ năm (3-1938) đã đi sâu về công tác tổ chức của Đảng, quyết định chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp được đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa, chống phát xít, đòi tự do, cơm áo, hòa bình.

- Tại Hội nghị tháng 7-1939 Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích, nhằm rút kinh nghiệm về những sai lầm, thiếu sót của Đảng viên, hoạt động công khai trong cuộc vận động tranh cử ở Hội đồng quản hạt Nam kỳ (4-1939). Tác phẩm đã phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm cuộc vận động dân chủ của Đảng, nhất là về đường lối xây dựng Mặt trận dân chủ Đông Dương. Tác phẩm không chỉ có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh khắc phục những lệch lạc, sai lầm trong phong trào vận động dân chủ, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, mà còn là một văn kiện lý luận quan trọng về công tác xây dựng Đảng, vận động quần chúng.

Tóm lại, trong những năm 1936-1939, bám sát tình hình thực tiễn, Đảng đã phát động được một cao trào cách mạng rộng lớn trên tất cả các mặt trận: chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng với các hình thức đấu tranh phong phú và linh hoạt. Qua cuộc vận động dân chủ rộng lớn, uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng và nâng cao trong quần chúng, chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của Đảng được tuyên truyền rộng rãi trong khắp mọi tầng lớp nhân dân, tổ chức Đảng được củng cố và mở rộng

Câu 9: Trình bày nội dung, ý nghĩa,chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ 1939-1945?

Trả lời:

          a. Tình hình thế giới và trong nước

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:

Ngày 1-9-1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, trong đó Pháp là nước tham chiến. Chính phủ Pháp thi hành một loạt các biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa.

Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đã đầu hàng. Ngày 22-6-1941, quân phát xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.

Tình hình trong nước:

Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản động: thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn.

Lợi dụng sự thất thủ của Pháp ở Đông Dương, tháng 9-1940 Nhật Bản cho quân xâm lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đông Dương cho Nhật. Chịu cảnh “một cổ hai tròng” đời sống của nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp, Nhật và tay sai phản động ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

b) Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

Thể hiện qua:

+ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939)

+ Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (11-1940)

+ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) - quan trọng nhất

Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể ở trong nước, BCH Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:

Một là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu

Tạm gác khẩu hiểu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiều “tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo” chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm tô, giảm tức.

Hai là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương

Ở Việt Nam, Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.

Ba là, quyết định phải xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Để khởi nghĩa vũ trang đi đến thắng lợi cần phải phát triển lực lượng cách mạng, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Hội nghị cũng chú trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.

c. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

'Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo BCH Trung ương Đảng đã giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu ấy.

Đường lối đúng đắn gương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đã dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân. Chủ trương đúng đắn của Hội nghị thực sự là kim chỉ nam đối với hoạt động của Đảng cho tới thắng lợi cuối cùng năm 1945.

Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh tuyên bố ra đời. Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điều cụ thể để thực hiện 2 điều cơ bản là làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dân Việt Nam được sung sướng, tự do. Thông qua Mặt trận Việt Minh, Đảng mở rộng các tổ chức quần chúng và lãnh đạo phong trào đấu tranh của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Phong trào Việt Minh phát triển mạnh nhất ở Bắc Kỳ sau đó lan rộng tới Trung kỳ và Nam kỳ.

Chuẩn bị về lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng: Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), đội du kích Bắc Sơn được duy trì và đổi tên thành Cứu Quốc quân. Ngày 22-12-1944 Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập ở Nguyên Bình (Cao Bằng) do đồng chí Võ Nguyên Giáp lãnh đạo. Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân phát triển mau chóng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vũ trang, xây dựng cơ sở cách mạng, thúc đẩy và cổ vũ phong trào đấu tranh cách mạng trong cả nước.

Đảng và Hồ Chí Minh chỉ đạo việc thành lập các chiến khu và căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu là căn cứ Bắc Sơn-Vũ Nhai và căn cứ Cao Bằng

Năm 1943, Đảng công bố Đề cương Văn hóa Việt Nam - khẳng định Văn hóa là một trong ba mặt trận cách mạng do Đảng lãnh đạo, tiến tới xây dựng nền văn hóa mang 3 tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng.

Song song với việc lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống Pháp - Nhật. Đảng đã dày công chuẩn bị lực lượng trên cả ba phương diện lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng, văn hóa tư tưởng để tiến tới giải phóng dân tộc khi thời cơ đến.

Câu 10: Trình bày hoàn cảnh nội dung và ý nghĩa lịch sử của bản chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12/3/1945 của Ban thường vụ Trung Ương Đảng?

Trả lời :

*Hoàn cảnh lịch sử:

Cuối 1944- đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc, Hồng quân Liên Xô quét sạch bọn phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình và tiến như vũ bão về phía Béc lin .Phát xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn.Mâu thuẫn Nhật –Pháp ngày càng gay gắt.

- Dự đoán trước tình hình Nhật sắp sửa lật Pháp ở Đông Dương, Tổng bí thư Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), ngay trước lúc Nhật nổ súng.

- Để tránh nguy cơ đối mặt cùng lúc với nhiều đối thủ, ngày 9/3/1945, phát xít Nhật lật đổ thực dân Pháp độc chiếm Đông Dương.

- Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta".

        * Nội dung:

- Chỉ thị Nhận định cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc làm cho điều kiện cuộc khởi nghĩa trở nên chín muồi nhanh chóng:

+ Chính trị khủng hoảng, kẻ thù không rảnh tay đối phó với cách mạng;

+ Nạn đói ghê gớm làm cho quần chúng thêm oán ghét quân cướp nước;

+ Chiến tranh bước vào giai đoạn kết thúc.

-Chỉ thị xác định kẻ thù trước mắt và duy nhất của cách mạng lúc này là phát xít Nhật, vì vậy phải thay khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật-Pháp" bằng khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật" "thành lập chính quyền nhân dân".

-Chỉ thị chủ trương:phát động một cao trào kháng Nhật,cứu nước mạnh mẽ,làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.Mọi hình thức tuyên truyền ,cổ động ,tổ chức và đấu tranh lúc này phải thay đổi cho thích hợp với thời kì tiền khởi nghĩa như tuyên truyền xung phong,biểu tình tuần hành bãi công chính trị,biểu tình phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói,đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc.

-Chỉ thị nêu rõ phương châm chiến đấu lúc này là:phát động chiến tranh du kích giải phóng từng vùng ,mở rộng căn cứ địa.

-Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa như :

+khi quân đồng minh tiến vào Đông Dương đánh Nhật ,quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân đồng minh để phía sau sơ hở .

+cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập .

+ Nhật bị mất nước như pháp và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.

Tuy nhiên, Đảng ta nêu cao tinh thần: phải dựa vào sức mình là chính, không trông chờ, ỷ lại.

-Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần ,giành chính quyền bộ phận:Chỉ rõ tương quan lực lượng của ta và địch ở mọi nơi không giống nhau, CM có thể chín muồi ở những địa phương khác nhau nên nơi nào thấy so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho CM thì lãnh đạo quần chúng đứng lên khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận rồi tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

           * Ý nghĩa:

- Bản chỉ thị ngày 12/3/1945 có giá trị như 1 chương trình hành động, 1 lời hiệu triệu, 1 ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta tiến hành cao trào kháng Nhật cứu nước, tạo điều kiện cho sự sáng tạo của các địa phương trên cơ sở đường lối chung của Đảng.

- Thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó là kim chỉ nam cho

mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào chống Nhật cứu nước, trực tiếp dẫn

đến thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: