Đường vào Phnôm-Pênh - Bùi Cát Vũ - Phần I
1
NGÀY HỘI CỦA NGƯỜI LÍNH
Chiều này 05-01-1979;
Đoàn xe chúng tôi phóng như lao trên đường số 1, đến ngã tư Prasát ngoặt trái vào một đường đất đỏ, rồi dừng lại trước cổng ngôi nhà ngói hai tầng.
Trên xe nhảy xuống ai nấy đều lấm đầy bụi từ đầu tới chân, lông mày, lông mi, mái tóc bạc phếch trông đến buồn cười. Trời nóng như nung, không một tí gió. Anh Dũng, Tư lệnh Đoàn 7 tươi cười xua tay nói với mấy chiến sĩ vệ binh đang xoay trần đào công sự dưới gốc cây vú sữa:
- Thôi, tàm tạm thôi các cậu, lợi dụng hầm cũ được rồi, ghé một chút rồi lại đi mà.
Năm hôm nay, từ hôm Đoàn 7 vào chiến dịch, đã chuyển Sở chỉ huy sáu lần. Chưa chỗ nào dừng lại quá một ngày đêm.
Một chiến sĩ vệ binh gạt mồ hoi trán, tủm tỉm đáp:
- Mệt mà vui thủ trưởng ạ, chứ ở lì một chỗ như mấy tháng mùa mưa chán quá, phải không thủ trưởng?
Anh Dũng nhăn mặt cười, lầu bầu:
- Cậu này lém thật.
Tôi biết anh vui lắm. Tính anh ít nói, những lúc tình huống khó khăn, anh suy nghĩ nhiều, lại càng ít nói.
Không khí trong Sở chỉ huy rất rộn rịp. Anh em tất bật triển khai cho công tác chỉ huy, chuẩn bị cho cuộc họp vào bảy giờ tối nay, lo bữa ăn chiều ...
Mấy hôm nay Sở chỉ huy tiền phương của Binh đoàn đi cùng với Sở chỉ huy Đoàn 7 để kịp thời cùng nhau xử trí tình huống diễn biến hết sức nhanh chóng và phức tạp.
Anh em tác chiến phân công tôi ở gian nhà ngói trệt bên cạnh ngôi nhà hai tầng.
Ở đây đêm qua còn là Sở chỉ huy Sư đoàn 805 của Pôn-Pốt. Trong nhà bày biện đủ thứ tủ, giường, đi-văng, bàn ghế thuộc loại đắt tiền. Xung quanh nhà còn những đống lông gà còn bốc hơi, da bò nhầy nhụa máu, bếp còn ngún lửa, tài liệu giấy tờ bị đốt cháy lam nham, phảng phất một mùi khăng khẳng rất khó chịu.
Trong lúc chúng tôi đang nghe trực ban tác chiến Cừ báo cáo về tình hình phát triển của các trung đoàn thì anh Phức, chủ nhiệm hậu cần sư đoàn đâu từ ngoài đường vào. Như một chủ nhiệm hợp tác xã Hoằng Hóa mới đi thăm đồng về, anh nói bông lông:
- Chu choa, đích thị là hậu cứ Sư đoàn tám linh năm rồi, đủ thứ, kho lúa, kho muối, nhà máy xay xát … hai khẩu một trăm linh năm còn nớ, mà xe thì các bố nhót đi mô mất rồi …
Anh Thẩm, chính ủy Đoàn, nói gạt ngang với giọng Nghệ Tĩnh nằng nặng nhưng dễ nghe:
- Hậu cần của ông phải giữ những thứ đó, phân phối lúa muối cho dân, đừng để bộ đội bận bịu mà chậm mất. À, nghe nói anh em vừa đem được thực phẩm ở hậu cứ lên, có đúng không?
- Báo cáo, có đấy ạ, đường 1 vừa thông thì anh em vọt lên ngay, có đủ bò, heo, gà, vịt, cá, rau … đủ thứ …
Chúng tôi chưa nghe hết lời nói đầy tự hào nghề nghiệp của chủ nghiệm hậu cần Phức, thì xe anh Ngọc Anh, phó tư lệnh và anh Vịnh, phó chính ủy về đến. Hai anh vừa chắt (tr.6) cạn bình trà mới châm, vừa báo cáo với chúng tôi những trận đánh rất hay của Tiểu đoàn 2 xe tăng và đoàn bộ binh 14 hồi trưa này.
Các sư đoàn của địch từ đường Mười và hướng Svairiêng rút chạy về Niếk-lương. Chứng tổ chức ngăn chận ta từng tuyến. Chúng lợi dụng bờ đê và làng mạc phía đông cầu Kompong-Trà béc bố trí tuyến phòng ngự. Cán bộ và trinh sát Trung đoàn 14 đi trước phát hiện được toàn bộ đội hình của chúng. Khi xe tăng của ta đến ngoài tầm pháo bắn thẳng, thì Trung đoàn 14 đã bọc vòng hai cánh luồn ra phía sau địch. Năm chiếc xe T54 đi theo đường 1, tám chiếc M113 chia đôi, đi cặp song song hai bên bờ ruộng với T54. Bằng bốn phát pháo, xe tăng ta tiêu diệt ngay hai chiếc xe tăng PT85 của địch bên trái, trong lúc chúng vừa bắn vừa tháo chạy ra khỏi chỗ ẩn nấp. Ba chiếc PT85 địch bên phải cũng bị T54 ta bắn cháy một chiếc. Đồng thời bộ binh và thiết giáp ta xung phong như vũ bão vào trước mặt và hai bên sường địch. Chúng hoảng loạn, bỏ hai chiếc BT85 còn lại tháo chạy. Các đồng chí kỹ thuật của Tiểu đoàn 2 xe tăng ta vào lấy ngay hai chiếc PT85 dùng nó cùng với M113 truy kích địch. Dịch tan tác, lớp chạy chết, lớp đầu hàng. Tù và hàng binh khai đủ cả thành phần các Sư đoàn 805, 703, 221, 340 của Pôn-Pốt.
Sẵn đà, Tiểu đoàn 2 xe tăng trở lên đường 1 chở bộ binh mở hết tốc độ lên cầu Trà-béc để giành lại hàng ngàn dân bị địch lùa đi theo. Địch rất dã man, chúng bắt nhân dân làm trái độn giữa chúng. Từ trên dốc cầu Trà-béc chúng bắn bừa xuống đám dân chúng. Nếu ta từ dưới đường bắn lên thì chết dân. Đồng chí Thuyết, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 14 xử trí rất thông minh. Anh cho hai tiểu toàn bộ binh luồn sau trong ruộng vòng ra chiếm bờ sông hai bên đầu cầu. Còn xe tăng thì vừa dùng trọng liên bắn trên cao để tránh dân, vừa nhích dần lên cầu. Nhân dân lợi dụng chỗ ruộng thấp, men theo bờ đê hai bên đường lộ, chạy ngược về phía sau. Thế là ta vừa cứu được dân, vừa chiếm được cầu mà địch không kịp phá. Chúng bỏ lại hai xe Hoàng Hà và hai pháo 105.
Báo cáo xong, anh Ngọc Anh còn nhắc đi nhắc lại mãi: "Coi xe tăng và bộ binh hiệp đồng tấn công ban ngày sướng quá trời, đẹp như diễn tập".
...........
Xe Jeep các đơn vị lần lượt về đến, có dủ cả các cán bộ quân sự, chính trị, hậu cần, bộ binh, pháo binh, phòng không, xe tăng, công binh, thhông tin của Đoàn và Binh Đoàn. Nhôi nhà ngói hai tầng ở ngã tư Prasát này đêm nay lại thắt thêm một gút, nối dài chuỗi kỉ niệm đẹp trong cuộc đời chiến đấu của chúng tôi.
Trước khi vào hội nghhi, anh Thẩm mời tất cả đại biểu dự một bữa tiệc liên hoan. Anh bảo: "Ăn trước rồi họp sau ngon hơn, chớ để họp rồi thì nôn nao không ăn được".
Hậu cần Sư đoàn 7 có thành tích và kinh nghiệm tăng gia sản xuất cải thiện sinh hoạt cho bộ đội. Trưa nay khi đường 1 vừa thông thì cá mè, cá trắm cỏ từ bầu Đồng Trư, bò từ đồng cỏ Phước Vĩnh, Phước Sang, heo gà vịt từ trại chăn nuôi Lai Khê, cũng đã theo chân bộ đội đến đây. Chiều nay tất cả đơn vị trực thuộc xung quanh Sở chỉ huy đều được một bữa tươm tất.
Những cuộc sum họp hiếm hoi ở mặt trận như thế này thường làm cho người ta nhớ dai. Anh Can, phó chủ nhiệm chính trị thao thao nhắc lại những kỷ niệm năm xửa năm xưa. Có lẽ vì tôi ngồi đối diện với anh nên trở thành đối tượng của anh. Anh nhắc chuyện anh và tôi lọt vào ổ phục kích của Mỹ năm 1967, chuyện chúng tôi chui xuống hầm ngầm trong nhà tên Tỉnh trưởng Phước Long, những chuyên đi của Đoàn 7 ở Thái Hưng, Đồng Xoài, Phước Long, Định Quán, Lâm Đồng, Xuân Lộc, Sài Gòn trong những năm 1974-1975. Rồi anh kết luận vừa tìng cảm vừa triết lý:
- Không biết anh Ba đi với ép 7 lần này nữa có phải là lần cuối cùng chưa?
Muốn hướng sang chuyện khác, tôi bảo;
- Tôi nhớ mãi trận tụi mình bị lọt vào ổ phục kích của Mỹ ở Bù Đốp năm 1967, mới đây mà đã mười hai năm. Nếu chết thì đến nay xương đã mục. Thế mà anh vẫn cứ phây phây, trẻ đẹp trai như thường.
Anh Can bật đứng dậy, trịnh trọng:
- Báo cáo anh tôi vừa có con rể rồi đấy ạ!
Dù sao, tôi cũng thoáng nhớ lại ngày giải phóng tỉnh Phước Long của Binh đoàn, chỉ còn thiếu một ngày nữa thôi là tròn bốn năm.
Mỗi nggười một tí bia tráng bát mà nhằm nhè gì, thế mà mặt anh Can như chói nắng chiều. Anh say sưa chuyển sang đề tài khác:
- Hôm ngày hai, đoàn ta mới khựng ở đư5ờng 10 có một hôm mà trên cơ quan Binh đoàn có người tán với nhau là "Coi chừng Đoàn 7 gặp cái dớp như Long Khánh trong chiến dịch Hồ Chí Minh đấy".
Anh Dũng nhăn mày cười, lầm bầm:
- Hừ! Các bố chỉ được cái tán phét.
Nhìn anh Dững, tôi nhớ đôi vai lệch tròn vo, xuôi xị của anh chạy đi chạy lại tthâu đêm tren bờ đê ở ngã ba Xăng-Ke, khi mà Đoàn 7 đục một ngày đêm không thủng tuyến phòng thủ trên đường 10 của các sư đoàn Pôn-Pốt. Mới cách đây bốn hôm thôi.
Ở cuối bàn, anh Nhạn, Trung đoàn trưởng Trrung đoàn 209, trở thành chủ xướng nhóm dưới ấy. Giọng khàn khàn như ngạt mũi, anh kể chuyện hôm anh đến thăm một đám cưới ở ấp Phước Lưu vừa bị bọn Pôn Pốt tập kích làm chết mất cô dâu. Anh nói:
- Đang buồn nẫu ruột, lại có một đồng chí thiếu tá thương binh về hưu. Ông ấy trợn mắt qúat bọn tớ: "Tụi Mỹ mà ta đánh còn phải chạy cong đuôi, đánh cái thứ chuột đồng này mà các anh làm ăn không ra làm sao hết, chán quá". Ức quá, nhưng chỗ bà con đông mình đành nhịn. May mà có cậu Nhẫn trợ lý chính trị. Cậu ta kể về chuyện chuột đồng. Cậu ta nói đại khái là ở miền Tây nông dân hay bắt chuột đồng cột giẻ tẩm dầu vào đuôi nó rói đốt. Chuột mang lửa khói chạy vào hang làm chuột mẹ chuột con ngộp phải chạy ra, bị nông dân ta chộp bắt đem về nhậ. Trẻ con bắt chước làm giống như vậy, nhưng chuột nhà nó không chui hang mà mang lửa chạy lên nóc nhà làm cháy cả xóm. Chừng đó cậu Nhẫn ta mới kết luận với đồng chí thiếu tá về hưu: "Anh bảo quân đội Pôn-Pốt là chuột đồng, nhưng chuột đồng có mang lửa đấy, mà không phải vài chục vài trăm con đâu nhé, đến hai trăm ngàn con đấy. Hở một chút là nó chui vào, cho nên phải vận động nhân dân xây làng ấp chiến đấu, tổ chức dân quân tự vệ cho chắc vào thì mới bảo vệ được xóm làng, tận diệt được chuột đồng chứ." Cậu ấy kể chuyện hấp dẫn lắm, bà con cô bác tỏ vẻ thông cảm với bộ đội, còn đồng chí thiếu tá thì cũng cười giả lả.
***
Một chiếc xe reo chở đầy những chiến sĩ Quân đội Nhân dân Cách mạng Kampuchia cuốn bụi, đỗ xịch trước cổng. Đồng chí lái xe Việt Nam thò đầu ra ca-bin hỏi:
- Các đồng chí ơi, phòng chính trị ở đâu?
Các chiến sĩ vệ binh, thông tin đang lúi húi dọn bữa ăn trên sân gạch không đáp đồng chí lái xe mà reo ầm:
- Chị Sà-Vây! Chị Sà-Vây!
Một số cán bộ trong bàn ăn của chúng tôi cũng buông đũa bước ra cửa. Anh Khải, chủ nhiệm chính trị, chạy ra đón một cô gái Kampuchia từ ca-in bước xuống. Anh Khải lùn thấp nên cô (tr.10) gái đứng cao hơn anh nửa đầu. Không hiểu vì thẹn hay vì chói nắng chiều mà mặt cô gái ửng đỏ như trái dừa lửa.
Theo hiệu lệnh của Sà-Vay, các cô khác cũng lần lượt xuống phía sau xe. Các cô đều mặc áo bà ba xanh, quần đen mới, đội khăn rằn. Chiếc khăn rằn có nhiều tác dụng, dùng để tắm, thay quần áo, đội đầu che bụi che nắng và lúc cần như lúc này thì cắn hai mí lại để che mặt, chỉ chừa cặp mắt như phụ nữ ả-rập.
Anh em vệ binh, công binh, thông tin xúm lại, kéo nài mời cho được khách lạc đường dùng bữa cơm liên hoan với đơn vị mình. Anh nuôi chạy mượn đũa bát để mời Sà-Vây và hai đồng chí nữa cùng ngồi chung mâm với chúng tôi. Sà-Vây và đội công tác do cô phụ trách mới về Đoàn 7 hôm mở màn chiến dịch, thế mà trong toàn Đoàn đều biết tên cô.
Dạo tháng sáu năm rồi có một đoàn gồm trên hai ngàn người dân Kampachia từ Preyveng vượt biên sang Việt Nam. Chuyện đó đã gây xúc động mạch trong quân và dân ta trên toàn tuyến biên giới Tây nam. Đoàn người phần lớn gồm ông già, bà lão, phụ nữ và trẻ con, khi đến được Việt Nam, chỉ cờn hơn tám trăm người. Trong lúc bị địch vây hãm trong rừng Tà-săng có một người phụ nữ đã dùng chiếc khăn rằn đai con trước ngực cùng các bạn xông pha chiến đấu để bảo vệ đoàn người, chờ bộ đội Việt Nam đến cứu. Lương thực khô kiệt, nước cũng thiếu, người mẹ phải nhai lá rừng cầm hơi thì còn lấy đâu ra sữa cho con. Đứa con gái mới bốn tháng của chị gào khóc đòi sữa. Để bảo đảm sinh mạng cho hàng ngàn bà con, chị cứa đầu vú mình nặn dòng máu tươi cho con bú. Rồi máu mẹ cũng cạn nốt. Chị phải ôm ghì mặt con vào ngực, ru dỗ cho con nín. Đến khi cảm thấy một khối mềm nhũn lành lạnh trên ngực chị mới kinh hoàng và chỉ còn biết khóc thầm, rồi xoay con ra sau lưng, tiếp tục chiến đấu. Khi đến đất sống, chị mở gút khăn rằn trao đứa con cho anh bộ đội Việt Nam rồi ngất lịm.Người phụ nữ ấy là Sà-Vây.
Giờ đây trong ngôi nhà ở ngã tư Prasát này, các đồng chí đội viên công tác trở thành những nhân vật trung tâm trong bữa tiệc liên hoan. Anh em ai cũng săn sóc gắp thức ăn, rót nước ngọt cho các đồng chí đội viên công tác.
Anh Can chọn lúc bớt ồn ào, hỏi Sà-Vây bằng tiếng Việt:
- Cô Sà-Vây này, đội công tác của cô đang công tác với đơn vị nào, đố cô biết, trả lời bằng tiếng Việt Nam.
Sà Vây chớp chớp đôi mi dài và rậm trên khuôn mặt tươi cười, đáp từng tiếng một:
- A ... A ... Đội công tác em công tác ở ... binh đoàn Cửu long ... Đoàn bảy ... Phòng chính tr-rị.
Anh em cười ồ! Tôi hỏi tên hai cô kia, rồi nói bằng tiếng Khơ-me:
- Các cô Sà Vây, Chan-Thu, Sam-Môn này! Bộ đội cơ động nhanh, thời gian gặp nhân dân rất ngắn ngủi, trong trường hợp ấy các cô sẽ nói gì với nhân dân?
Chan-Thu, Sam-Môn nhìn xuống cười bẽn lẽn, Sà-Vây đáp:
- Nói bà con đoàn kết lại dưới sự lãnh đạo của Mặt Trận Đoàn kết Dân Tộc cứu nước Kampuchia, đứng lên tiêu diệt Pôn-pốt, Iêng-Xari cứu nước, cứu mình. Nói nhân dân Campuchia đoàn kết thương yêu bộ đội Việt Nam của cụ Hồ, người ơn đã cứu mình.
Tôi dịnh từng câu cho anh em nghe. Ai nấy đều tỏ vẻ xúc động.
Các cô ăn uống trông ngon lành, thật tình như người nhà. Qua vài câu trao đổi, tôi biết Chan-Thu và Sam-Môn đều ở tỉnh Kandal bị Pôn Pốt lùa sang Svairiêng. Chan-Thu trước đã học trung học, biết một ít tiếng Pháp. Hai cô đã cùng với gần hai chục ngàn dân Kampuchia lánh nạn sang Việt Nam hôm ngày 6 tháng giêng năm 1978. Nhắc lại ngày hôm ấy các cô vui lắm. (tr.12)
- Ồ! Không có bộ đội Việt Nam thì chết hết, chao ôi! Pôl Pốt nó đuổi ở phía sau. Sam-Môn vừa nói vừa quạt bàn tay trước mặt.
Anh Khải hỏi:
- Các cô sang Việt Nam, ở Bến-Sắn phải không?
- Ôi! Bến Sắn, Bến Sắn, phải rồi, chúng em được đẻ lại ở bến Sắn. Bến Sắn là quê em đó. Chan-Thu nói dịu dàng, đệm vài tiếng tắc lưỡi hít hà.
Anh Thẩm hỏi:
- Từ chỗ này hai cô biết đường về Kandal, quê hương của hai cô không?
- Biết chứ, quê em ở hướng này này - Chan-Thu chỉ đúng hướng Tây Bắc.
- Nếu đi luôn đến Phnom-Pênh. Các cô có thích không?
- Ồ! Thích lắm chứ ... Đi Battambang, Xiêm Rệp em cũng đi - Ba cô lao xao tranh nhau đáp.
Bỗng dưng trong lòng tôi hiện lên hai tiếng "Hồi Sinh", trước nay tôi hay dùng, mà bây giờ tôi mới thấy hết nghĩa của nó.
Ở ngoài sân gạch, trong các nhà bên cạnh cũng rầm rang những câu nói bằng hai thứ tiếng lẫn trong giọng cười trẻ trung: "Xamaki Đoàn Kết Việt Nam - Kampuchia" - "Boong bờ-ên - anh em - Việt Nam Kampuchia".
Chiếc máy điện honđa đốt sáng mấy bóng đèn huỳnh quang trong nhà ngoài sân, càng làm cho đêm liên hoan thêm náo nhiệt. Do kinh nghiệm bản thân, nhạy cảm với tình hình như chim én với mùa xuân mà mỗi người ở đây từ già đến trẻ, đều cảm thấy rằng mình sắp sửa bước vào những ngày lịch sử, NGÀY HỘI CỦA NHỮNG NGƯỜI LÍNH.Thật thế , chốc lát nữa đây chúng tôi tiến hành một cuộc hội nghị để thực hiện một nhiệm vụ lịch sử quan trọng mà chúng tôi vừa nhận nơi đồng chí tư lệnh Binh đoàn hồi 13 giờ trưa hôm nay tại Sở chỉ huy cơ bản ở phum Đôn Tông. Nhiệm vụ vinh quang đó là: Vâng lệnh Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Kampuchia và Bộ chỉ huy tiền phương của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Binh đoàn chúng tôi cùng với Binh đoàn 1 của Quân đội cách mạng Kampuchia đảm nhiệm một hướng, hiệp đồng cùng với các hướng khác và phối hợp với nổi dậy của quần chúng mở cuộc tiến công chiến lược giành thắng lợi quyết định cho cách mạng Kampuchia.
Đây là mệnh lệnh quân sự tuyệt mật, chỉ có mình tôi được biết và chỉ được phổ biến giao nhiệm vụ cho các đơn vị từng bước một. Tôi nhẩm tính: chỉ còn hai ngày ba đêm, phải vượt qua trên một trăm cây số đường độc đạo với hai con sông rộng, địch vẫn còn rất đông đang củng cố phòng thủ, mà phương tiện cơ động và nhất là phương tiện vượt sông ta chưa điều lên kịp.
Tôi phái đồng chí Phùng, phó phòng tác chiến chạy ngược về Svairiêng tìm anh Biểu, lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 25 Công binh để giục đội phà nặng lên nhanh.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com