1
Ở vùng đất Kinh Bắc lặng lẽ mà nồng nàn, có một làng chuyên dệt lụa nổi tiếng tên gọi là Hạ Lâm. Lụa Hạ Lâm mềm như nước sông Hồng, óng như tóc thiếu nữ, ai cũng nói: "Có về Kinh Bắc thì ghé lấy một vuông lụa Hạ Lâm mà giữ duyên.
Cái nơi đất đỏ như son và lụa óng như tơ trời ấy,có nhà họ Phác – ba đời làm lụa. Từ thời cụ tổ từng dâng khúc vải tơ cho vua,đến đời cha Lộc Hàn là thợ cả làng lụa, người khéo tay đến độ thêu hoa sen mà nhìn như thật, ai cũng trầm trồ: "Lụa ông Phác mềm hơn bánh đúc làng Ngọc!"
Lộc Hàn là con trai út, dáng dong dỏng, mắt phượng, tay búp măng – đúng chất con nhà nghề. Từ bé đã được mẹ dạy se tơ, cha uốn nắn từng đường dệt, cứ mười tuổi đã dệt được khăn, mười ba dệt áo lót, mười lăm tuổi đã có khách tận tỉnh lặn lội về đặt hàng cưới. Cô nào trong làng đi lấy chồng cũng mong được một dải lụa do chính tay cậu se. Ấy thế mà cậu chẳng dòm ngó cô nào. Mấy bà hàng trầu ngồi chợ phiên còn kháo nhau: "Gớm, đẹp trai thế mà chẳng thấy đưa đón ai, chắc là... giữ thân chờ duyên trên trời rơi xuống."
Duyên ấy quả thực rơi xuống thật. Một sáng tháng Ba, khi gió xuân còn mơn man trên vòm cau và tiếng chim sâu còn đuổi nhau trong khóm duối, thì làng Hạ Lâm đón một người lạ mặt.Thầy đồ mới từ tỉnh về – người tên Nghiêm Thành Huyên, con nhà quan nhưng bỏ kinh thành xuống dạy chữ cho trẻ con làng quê. Người cao, vai rộng, nét mặt khôi ngô, áo dài chững chạc, giọng nói vang như chuông đình mà cười lại hiền khô như người ruộng. Về trọ đúng tại nhà cụ Đồ Mẫn, nhà nằm bên giếng làng và gốc cây vôi cổ – nơi dân làng tin rằng ai gặp được người mình thương dưới tán vôi thì nên duyên suốt đời.
Buổi đầu về làng, thầy Huyên đi lạc. Đang ngơ ngác thì thấy Lộc Hàn gánh nước
Người mặc áo nâu,vai khoác nón mê, khăn vấn cao.Thầy Huyên hỏi giếng,cậu chỉ tay:
"Dạ, thầy tìm giếng thì ngay đây thôi ạ. Nước mạch trong, múc buổi sớm thì... mát lòng mát dạ."
Thầy Huyên cười khẽ:
"Cảm ơn cậu. Tôi mới về trọ đầu làng, còn chưa quen nếp."
"Vâng... làng mình nhỏ, đi vài bước là quen thôi ạ. Thầy cứ thong thả."
"Cậu là người làm lụa dưới xóm Đông?"
"Dạ... vâng, cháu là Lộc Hàn. Nhà cháu ba đời bám khung."
Thầy Huyên nhìn người thanh niên gánh nước, dáng đi thong thả, chân bước không kêu, mà gió qua tay áo cũng không động – chợt nghĩ, người thế này chắc dệt ra tấm vải cũng biết kể chuyện bằng tơ.
"Chiều mai... nếu trời không mưa, cậu có ra gốc vôi không?"
Buổi chiều ấy, trời không nắng, cũng chẳng mưa. Gió nhè nhẹ, như người thổi sáo đâu đó sau lũy tre.Giếng làng vẫn trong như mọi ngày. Nhưng dưới gốc cây vôi già, hôm nay có thêm hai bóng người.
-Một người mặc áo dài sẫm, kê tráp, tay cầm bút lông, chữ tàu chạy đều trên giấy xuyến chỉ.
-Một người mặc áo nâu, tay đỡ khung, mắt theo từng đường sợi. Khung dệt không kêu. Gió khẽ thổi qua mà không xô được sợi nào.
Cả hai cùng lặng. Lặng như thể đã quen cái yên của nhau.Lộc Hàn ngồi nghiêng vai, nhìn sợi tơ óng ánh dưới nắng nhạt, rồi khe khẽ nói:
"Gốc vôi này... từ nhỏ em vẫn ngồi. Chỗ mát nhất làng mình đấy."
Thầy Huyên ngừng tay, đặt bút xuống, ngước nhìn lên tán lá xanh rì:
"Ừm... tôi mới về mà thấy chỗ này cũng quen lạ lắm. Như đã từng ngồi rồi ấy."
Hàn cười khẽ. Giọng nhẹ như gió phất vạt áo:
"Chắc tại... thầy hợp với làng mình. Cây cối cũng thấy thầy hợp."
"Hay là tại ngồi cạnh cậu, nên tôi thấy... vừa."
Làng nhỏ. Người thưa. Cái gì lạ cũng dễ lọt tai.Mấy bà ngoài chợ xúm xít:
– "Thầy đồ ấy... ngày nào cũng ra ngồi với cậu Hàn."
– "Lụa nhà cậu Hàn dạo này đẹp hơn. Không chừng... lòng cũng đang khung đều."
Thực ra... cũng không có gì nhiều.
Chỉ là chiều nào cũng thấy bóng người nọ, người kia.
Chỉ là hôm trời mưa to, đất nhão, mái rạ dột từng giọt, thì người lội mưa tới, áo ướt đẫm, tay ôm bó củi khô.
"Tôi... sợ nhà cậu thiếu lửa."
"Trời mưa, thầy ướt mất rồi..."
"Ướt người thì còn hong được, thiếu củi thì... biết hong bằng gì?"
Lộc Hàn mời vào. Cậu rút chiếc khăn cũ, lau trán cho thầy. Lúc tay chạm trán, hơi ấm tràn sang, như mạch tơ căng đều trên khung.
Từ đó, chẳng ai hỏi cũng biết. Mỗi khi ai đám cưới, lại bảo nhau:
– "Lụa cưới thì phải đặt cậu Hàn. Nhưng muốn cười yên ổn cả đời thì kiếm người như thầy đồ ấy."
Cha Lộc Hàn – một hôm ngồi uống nước chè xanh, nghe người ngoài ngõ hỏi vói vào:
"Ông ơi, cậu Hàn... có cưới xin gì không?"
Ông chỉ nhấp ngụm, cười móm mém:
"Nó sống cho yên, cho lành, cho không vỡ nghề, không vỡ nghĩa, thế là tốt rồi."
Năm đó, cây vôi nở hoa muộn. Mà trắng đến lạ. Như muối đọng đầu lá.Trẻ con vẫn đùa quanh giếng. Mấy cụ già ngồi uống trà chỗ bậc đá.Và bên dưới tán vôi – hai người vẫn ngồi. Một người dệt. Một người viết. Mắt không nhìn nhau. Nhưng dáng thì chừng như... đã quen ở cạnh.
Trên đầu, một chiếc lá vôi già rụng xuống, rơi đúng giữa hai người. Hàn nhặt lên, đặt vào khe sách của thầy.
"Lá đầu mùa.Thầy giữ lấy mà làm dấu."
"Cảm ơn cậu."
Giọng thầy nhỏ, nhưng ấm. Tay khép sách lại, giữ chặt chiếc lá mỏng như giữ một cái nhìn chưa kịp nói.Không trầu cau, không thiệp hồng. Nhưng trời đất biết. Người làng biết. Gió biết. Giếng làng cũng biết.
"Dưới gốc vôi già, thầy viết mây,
Em ngồi dệt nắng tựa chiều lay.
Không ai ngỏ một lời thương nhớ,
Mà gió qua rồi cũng biết say."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com