Gatsby vĩ đại - F Scott Fitgerald
Chương 1:
Trong những năm khi tôi còn trẻ và dễ bị ảnh hưởng chi phối, cha tôi có cho tôi một vài lời khuyên và chính những lời khuyên này đã khiến tôi thay đổi tư tưởng của mình từ lúc đó.
“Bất cứ khi nào con muốn phê bình chỉ trích ai, con nên nhớ rằng trên đời này không phải ai cũng có những điều kiện thuận lợi như con.” Cha tôi nói.
Cha tôi không nói nhiều hơn, nhưng bởi vì giữa hai chúng tôi vẫn thường có lối truyền đạt tư tưởng kín đáo cho nên tôi hiểu rằng những lời cha nói còn chứa đựng nhiều cái thâm sâu hơn. Kết quả, lời khuyên đó đã khiến tôi có khuynh hướng dè dặt trong mọi phán đoán của mình, giúp tôi nhìn ra và hiểu được những bản tính kỳ lạ của người chung quanh, nhưng đồng thời nó cũng biến tôi trở thành nạn nhân của không ít những kẻ đến quấy rầy làm phiền. Đặc tính mà tôi vừa nói, nếu được thể hiện ở nơi một con người bình thường thì nó sẽ nhanh chóng thu hút những đầu óc không bình thường tìm đến. Do đó hồi còn đi học trong trường đại học, tôi thường bị gán cho một cách bất công là một con buôn chính trị, lý do là vì tôi biết được nhiều những chuyện đau buồn riêng tư kín đáo bí mật của người ta, ngay của cả chuyện của những người đàn ông phóng túng mà tôi không quen. Không phải tôi tự mình đi tìm tòi những chuyện riêng tư cá nhân của người khác. Tôi đã phải thường giả bộ ngủ, giả bộ như đang bận rộn, hoặc tảng lờ với có thái độ không thân thiện khi tôi nhận thấy có dấu hiệu biểu hiện chắc chắn một chuyện riêng tư đang sắp được tiết lộ. Thật ra tâm sự của những thanh niên trẻ, hay ít ra những lời lẽ mà họ dùng để tự diễn đạt, cũng chỉ là những lời trộm văn trộm ý từ người khác mà họ đã sửa sang cắt xén khiến cho ý tưởng của chúng không còn mạch lạc rõ ràng nữa. Dè dặt trong phán đoán thực ra là không ngừng nuôi hy vọng. Tôi cứ sợ nếu quên làm như vậy mình sẽ bỏ xót không nhìn ra nhiều việc, giống như những điều cha tôi đã từng tự phụ đưa ra và tôi cũng lại tự phụ lập lại, đó là, ý thức căn bản về phép xử thế lịch sự không phải lúc nào cũng được chia đồng cho mọi người lúc sanh ra.
Sau khi đã tự khoe khoang về tính kiên nhẫn của mình như thế, tôi cũng phải thú nhận rằng sự kiên nhẫn nhịn nhục của tôi thật ra có giới hạn. Hạnh kiểm của con người có thể được xây dựng trên nền đá cứng hay trên mặt đầm lầy, tuy nhiên đến một mức nào đó thì tôi không còn cần quan tâm xem nó đã được xây trên nền tảng nào. Mùa thu năm ngoái khi tôi quay trở về nhà từ miền Đông, tôi cảm thấy tôi muốn cả thế giới đều mặc quân phục và muốn họ mãi mãi đứng trong hàng quân với tư thế nghiêm chỉnh đạo đức. Tôi không còn muốn những cuộc giải trí náo động ồn ào với cái đặc quyền được nhìn thoáng vào trong tim của con người ta nữa. Chỉ có Gatsby, người mà tôi đã lấy tên để đặt cho quyển sách này được coi là ngoại lệ trong phản ứng của tôi. Gatsby là người đại diện cho mọi thứ mà tôi khi bỉ. Nếu như bản tính con người là những chuỗi thể hiện thành công liên tục của họ, như thế thì anh ta quả thật là tốt đẹp. Với những nhạy cảm cao độ có thể cảm nhận được tương lai, anh ta giống những bộ máy phức tạp có thể ghi nhận được những trận động đất cách sâu cả vạn dặm. Phản ứng nhạy cảm này của anh không liên quan gì tới cái khả năng nhạy cảm yếu đuối ủy mị đáng kính trọng dưới cái từ “tính khí sáng tạo”. Nó chỉ là một năng khiếu về sự hy vọng hiếm có, một tư thế sẵn sàng đầy tính lãng mạn mà tôi chưa bao giờ thấy ở bất cứ ai và cũng có thể sẽ không bao giờ tìm được. Kết cục Gatsby lại là người tốt, chính cái đã dày vò ám ảnh Gatsby, chính cái lớp bụi bẩn thỉu bay lơ lửng bên trên giấc mơ vừa tỉnh giấc của anh đã tạm thời khép lại sự quan tâm hứng thú của tôi về những nỗi đau buồn và những niềm vui ngắn ngủi của con người.
Trải qua ba thế hệ, gia đình tôi là một gia đình tiếng tăm và khá giả ở cái thành phố miền Trung Tây này. Giòng họ Carraways sống giống như một thị tộc, theo như truyền lại, chúng tôi là con cháu của công tước xứ Buccleuch. Thế nhưng nói cho chính xác, người sáng lập lên cánh bên dòng tôi là anh trai của ông nội tôi. Ông đã đến đây từ năm 1851, sau đó gửi người thay mình đi làm nghĩa vụ tham gia trận nội chiến, và đã lập nên cơ sở kinh doanh buôn bán sỉ dụng cụ cơ khí kim loại mà cha tôi đã kế thừa và cai quản mãi cho tới ngày nay.
Tôi chưa bao giờ thấy mặt người bác tổ này, nhưng tôi cho rằng tôi giống ông, căn cứ vào khuôn mặt sắt đá trong bức tranh truyền thần treo trong phòng cha tôi. Tôi tốt nghiệp từ trường đại học Yale ở New Haven năm 1915, đúng một phần tư thế kỷ sau cha tôi. Sau đó tôi tham gia vào cuộc chiến chống di dân của người Đức, được mọi người biết tới qua cái tên cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất. Tôi đã tham gia cuộc phản công quá hăng say đến độ khi trở về nước rồi tôi vẫn còn hiếu động.
Miền Trung Tây đối với tôi bây giờ không còn là một trung tâm kích thích sôi nổi nhất trên thế giới nữa, nó dường như đã trở thành một bờ riềm rách nát của vũ trụ. Do đó tôi quyết định đi về miền Đông để học hỏi ngành khố phiếu, giấy nợ tài chánh. Tất cả những người tôi quen biết đều làm ngành này, cho nên tôi cho rằng thị trường vẫn còn đủ sức nuôi thêm một thanh niên độc thân như tôi. Tất cả các cô dì chú bác của tôi đều bàn thảo về chuyện này giống như họ đang lựa chọn một trường dự bị cho tôi. Cuối cùng họ tuyên bố “Cũng được” với những khuôn mặt nghiêm trang do dự. Cha tôi đồng ý chu cấp cho tôi một năm. Sau nhiều lần đình hoãn khác nhau, cuối cùng, mùa xuân năm 1922 tôi đã đến miền Đông, tưởng là mình sẽ ở đó vĩnh viễn, .
Nếu như tôi đi tìm mướn phòng ở trong thành phố, có lẽ nó sẽ thực tế và tiện lợi cho tôi hơn. Thế nhưng vì lúc đó đang là mùa ấm áp, mà tôi lại vừa mới rời khỏi vùng có những đồng cỏ rộng lớn cây cối thoải mái, cho nên khi một đồng nghiệp trẻ đưa đề nghị hai chúng tôi ra mướn nhà ở ngoại ô thì tôi cho ngay đó là ý kiến hay. Anh đồng nghiệp tìm ra được căn nhà, nó là một căn nhà trệt bằng gỗ đã giãi dầu mưa nắng với giá tám mươi đô la một tháng. Thế nhưng đến lúc cuối, công ty thuyên chuyển anh ta đi Washington và thế là tôi phải dọn ra ngoại ô một mình. Tôi đã có một con chó - ít ra con chó này cũng ở với tôi được vài ngày cho đến khi nó bỏ đi mất - một chiếc xe Dodge cũ kỹ và một chị giúp việc người Phần Lan. Công việc hàng ngày của chị là giúp tôi thu dọn giường, nấu điểm tâm và lẩm bẩm một mình bên bếp điện những câu cách ngôn Phần Lan.
Tôi cảm thấy cô đơn lạc lõng mất một ngày hay hơn gì đó, cho đến một buổi sáng khi có một người đàn ông mới dọn đến vùng sau tôi, chặn tôi lại trên đường.
“Anh làm ơn chỉ cho tôi đường đến làng West Egg được không?” Người này ngơ ngác hỏi.
Tôi chỉ đường cho anh ta, và thế là khi tôi tiếp tục bước đi tôi không còn thấy cô đơn nữa, tôi đã trở thành người hướng dẫn, người chỉ đường, người định cư trước. Người đàn ông này một cách ngẫu nhiên đã khiến tôi cảm thấy thoải mái với vùng mình ở.
Và rồi, dưới ánh dương tươi hồng và sự đâm trồi nẩy lộc như bùng phát của những mầm non trên cây, mọi vật chung quanh phát triển chớp nhoáng trông giống như những đoạn phim quay nhanh, nó khiến tôi liên tưởng đến một lý lẽ thông thường, đó là đời sống sẽ lại bắt đầu lại từ đầu khi hè sang.
Có quá nhiều sách để mà đọc và biết bao nhiêu sức khỏe dồi dào có thể hưởng được từ không khí trong lành tươi trẻ. Tôi mua khoảng một chục bộ sách viết về ngân hàng, tín dụng và đầu tư chứng khoán. Những bộ sách mang màu đỏ và màu mạ vàng đứng thẳng trên kệ trông giống như những đồng tiền mới toanh vừa đúc từ lò, hứa hẹn sẽ tiết lộ những bí quyết cực hay mà chỉ có ba ông Midas, Morgan và Maecenas[1] biết được. Tôi chủ định sẽ đọc thêm nhiều sách nữa. Lúc còn ở đại học tôi rất thích văn học. Có một năm tôi đã viết một loạt những bài xã luận mạch lạc mang tính chất nghiêm túc cho tờ báo trường Yale News. Giờ đây tôi sẽ đưa tất cả những kinh nghiệm đó trở về với đời sống của mình và một lần nữa trở thành một chuyên gia hiếm hoi nhất, một người toàn diện. Đây không phải là một câu nói trào lộng - cuối cùng mà nói, cuộc đời sẽ được dễ hiểu hơn khi ta quan sát nó chỉ từ một cửa sổ.
Thật đúng là cơ hội đã khiến tôi đến mướn nhà ở một nơi lạ lùng nhất nhất vùng bắc Mỹ. Nó là một hòn đảo dài, hẹp, phong phú, trải dài theo hướng đông của New York. Trong số những những thắng cảnh lạ lùng hiếm có khác ở đó là hai dải đất có hình dáng cấu tạo lạ lùng. Chúng cách xa thành phố khoảng hai mươi dặm, nhìn y như một cặp trứng khổng lồ, giống nhau hoàn toàn về hình dáng và được chia cách bởi một dải nước dài, gọi là eo biển cho thanh nhã. Hai trái trứng nằm nhô ra, lấn vào vùng nước mặn đã bị thuần hóa nhất ở Tây bán cầu, eo biển Long Island trại gia súc ẩm ướt khổng lồ. Hai dải đất này không hoàn toàn có hình bầu dục. Giống như trái trứng ở trong giai thoại của Columbus[2], cả hai đều dẹp đầu ở chỗ dính vào đất liền. Sự giống nhau về hình dáng là nguyên do khiến cho đám hải âu bay trên cao không ngừng bị lầm lẫn. Thế nhưng đối với những động vật không cánh khác thì cái lôi cuốn kỳ diệu ở đây chính là sự hoàn toàn khác biệt của mọi thứ giữa hai giải đất, ngoại trừ hình dáng và kích thước.
Nhà tôi ở West Egg (trái trứng phía tây) – so sánh giữa hai trái trứng thì bên này kém sang trọng hơn, tuy nhiên đây chỉ là lời nói sáo bình thường để diễn tả sự khác biệt kỳ quái giữa hai nơi, nó không phải lời so sánh mang ác ý. Nhà của tôi ở ngay mõm nhọn của trái trứng, cách eo biển chỉ chừng năm mươi thước, nằm kẹp giữa hai căn nhà đồ sộ mà giá thuê của chúng lên khoảng từ mười hai tới mười lăm ngàn đô la mỗi mùa nghỉ mát. Căn nhà bên phải của tôi là một tòa nhà kiến trúc khổng lồ nếu so sánh từ bất cứ phương diện nào. Nó được xây dựng dựa theo kiến trúc của một tòa thị sảnh nào đó ở Normandy bên Pháp. Tòa nhà còn mới nguyên núp dưới hàng dây thường xuân lưa thưa, nó bao gồm một ngọn tháp xây ở bên hông, một hồ bơi bằng đá hoa cương, cùng hơn bốn mươi mẫu cây cỏ vườn tược. Đó là tòa lâu đài của Gatsby. Nói cho đúng hơn, vì tôi chưa quen biết Gatsby, nó là tòa lâu đài đồ sộ nơi cư trú của một người quý phái với cái tên đó. Căn nhà của tôi nằm bên cạnh trở thành cái gai trong mắt, nhưng chỉ là cái gai mắt nhỏ bởi vì cũng chẳng ai để ý tới nó. Bởi vậy mà nói, tôi được ngắm cảnh biển cả, được ngắm một phần vườn cỏ của nhà hàng xóm và an ủi được ở gần những nhà triệu phú mà chỉ phải trả có tám mươi đô la một tháng.
Phía bên kia eo biển là những tòa lâu đài trắng của làng East Egg (trái trứng phía đông) sang trọng, nằm lộng lẫy tráng lệ dọc theo bờ biển. Mùa hè lịch sử đã thực sự bắt đầu bằng một buổi chiều khi tôi lái xe sang đó ăn tối với vợ chồng Tom Buchanan. Daisy là em họ xa lắc xa lơ của tôi, còn Tom thì tôi đã quen biết từ hồi còn ở đại học. Khi chiến tranh mới vừa chấm dứt, tôi đã từng ở chung với họ hai ngày ở Chicago.
Ngoài nhiều thành tích khác nhau về thể lực, Tom, chồng của Daisy đã từng là một trong những cầu thủ môn bóng bầu dục khỏe nhất ở New Haven. Anh ta cũng được coi như là một cầu thủ có tầm vóc quốc gia, người mà khi trình độ suất sắc nhất đã đạt tới đỉnh cao ở tuổi hai mươi mốt thì tất cả mọi thứ anh đạt được sau đó không còn thể nào bằng được. Gia đình của Tom vô cùng giàu có, ngay từ lúc còn học đại học, cách thức Tom tự do tiêu xài tiền bạc đã gây nên bao chỉ trích phê bình. Bây giờ tuy Tom đã rời Chicago để về sống ở miền Đông, cách sống của anh vẫn làm người ta nín thở, thí dụ như cách anh ta đã đem theo từ Lake Forest đến đây nguyên cả một bầy ngựa chơi polo. Thật khó có thể tưởng tượng được rằng một thanh niên trẻ sanh cùng
thế hệ như tôi mà đã giàu có đến độ tiêu xài cỡ đó.
Tôi không biết lý do vì sao vợ chồng họ lại dọn về sống ở miền Đông. Họ đã từng sang sống ở Pháp một năm chẳng vì lý do gì cả. Sau đó họ không ngừng trôi dạt từ chỗ này đến chỗ kia, đến ở bất cứ nơi nào miễn nơi đó có dân chơi polo và người giàu có tụ tập. Lần này họ sẽ định cư lâu dài cố định ở đây, Daisy đã nói với tôi như vậy qua điện thoại, thế nhưng tôi không tin. Tôi không thể nhìn thấu trái tim của Daisy, nhưng tôi cảm thấy Tom sẽ mãi luôn phiêu bạt, luôn khao khát mong tìm lại những náo động đầy cảm xúc của những trận đấu bóng ngày nào mà anh không bao giờ còn tìm lại.
Thế rồi vào một buổi chiều ấm áp lộng gió tôi lái xe đi đến East Egg để thăm hai người bạn cũ mà tôi hầu như không thấu hiểu gì mấy. Tòa nhà của họ ở được xây quá công phu và cầu kỳ hơn tôi tưởng. Nó là một dinh thự kiến trúc theo kiểu thời thuộc địa Georgian, sơn hai màu trắng đỏ vui mắt, hướng mặt nhìn ra khắp vùng vịnh. Thảm cỏ dài gần một phần tư dặm, bắt đầu từ ngoài biển trải dài vào tận đến cửa trước, nhẩy cắt qua những đồng hồ mặt trời, những lối đi lát gạch, những khu vườn rực rỡ, cuối cùng khi đến tới tòa nhà thì làm như đang trên đà chạy, nó trườn lên bên hông biến thành những dây leo rực rỡ. Mặt tiền tòa nhà được gắn một hàng những cánh cửa sổ kính cao rộng. Những cánh cửa màu vàng ròng này giờ đang chói sáng vì nắng phản chiếu và đang được mở rộng để chào đón buổi chiều lộng gió nóng. Trong bộ đồ cưỡi ngựa, Tom Buchanan lúc đó đang đứng dạng chân trước hiên nhà.
Tom đã thay đổi so với những năm đi học ở New Haven. Anh ta bây giờ là một người đàn ông ở tuổi ba mươi cường tráng, tóc màu vàng rơm khô, nghạnh miệng và dáng điệu khinh khỉnh. Đôi mắt sáng ngời đầy nét ngạo mạn tạo cho khuôn mặt một vẻ áp đảo và tạo cho Tom một dáng điệu hung hăng chũi về phía trước . Ngay cả lối trưng diện tao nhã qua bộ đồ cưỡi ngựa cũng không che dấu được cái sức mạnh lo lớn của cơ thể. Đôi chân nhấn đầy chặt đôi ủng bóng loáng trông như muốn căng đứt sợi dây buộc giầy phía trên và ta có thể nhìn thấy những bắp thịt cuồn cuộn di chuyển mỗi khi đôi vai của anh cử động bên dưới chiếc áo khoác mỏng. Đây là một cơ thể có khả năng sức mạnh ghê gớm, một cơ thể tàn bạo.
Giọng nam khan cao cộc lốc của Tom càng làm tăng vẻ cau có trong lối diễn đạt. Cộng thêm lối khinh người kẻ cả ngay cả đối cả với những người anh thích, khi còn trong trường ở New Haven đã không thiếu người ghét Tom cay đắng.
“Đừng cho rằng ý kiến của tôi về những vấn đề này đến đây là đã được quyết định,” Khi Tom nói như thế, thì dường như ý lại là “Chỉ vì tôi mạnh hơn và đàn ông hơn anh”. Hai đứa chúng tôi đã cùng ở trong hội sinh viên cấp đàn anh trong trường, tuy chúng tôi không bao giờ thân nhưng tôi luôn có cảm tưởng anh ta thích tôi và muốn tôi thích lại anh ta ở cái cách thô bạo ngang nghạnh của mình.
Chúng tôi đứng hàn huyên với nhau vài phút trước hiên nhà ngập nắng.
“Tôi kiếm được nơi này ở tuyệt quá.” Tom nói, đôi mắt mang đầy nét phô trương di động không ngừng.
Tom đưa một tay xoay mình tôi lại, sau đó chìa bàn tay bè rộng chỉ ra phía trước để khoe. Nhìn theo vòng đảo của bàn tay tôi thấy gồm có một khu vườn chìm kiểu Ý, nửa mẫu hoa hồng loại gắt hương và một chiếc tàu máy mũi hếch đang bồng bềnh trên sóng nước ngoài khơi.
“Nhà này trước của Demain, vua giầu hỏa.” Tom xoay người tôi thêm một lần nữa, một cách lịch sự nhưng đột ngột. “Mình hãy vào trong nhà đi.”
Chúng tôi đi ngang qua một hành lang cao vào tới một căn phòng màu hồng phấn tươi, hai đầu căn phòng được nối dính vào căn nhà một cách thanh tú bởi những cửa sổ kính. Những cửa sổ này đang hé mở, màu trắng chiếu lấp lánh tương phản với màu thảm cỏ tươi bên ngoài và đám cỏ dường như đang muốn mọc lấn cả vào bên trong. Một làn gió nhẹ hiu hiu thổi qua căn phòng làm những tấm màn cửa bay lên như những lá cờ, gió xoắn chúng lại rồi thổi phồng lên trên trần nhà được trang trí theo kiểu mặt kem bánh cưới, sau đó gió tiếp tục thổi lướt qua tấm thảm màu rượu vang tạo thành những vết gợn trên mặt thảm giống như gió gợn trên mặt biển.
Chỉ có một vật đứng yên không di động trong phòng là chiếc ghế dựa dài to khổng lồ với hai thiếu nữ đang ngồi ở trên, họ trông giống như đang thả nổi lơ lửng trên chiếc bong bóng bị cột neo bên dưới. Cả hai đều mặc áo đầm trắng, áo của họ uốn lượn phập phồng giống như cả hai vừa được thổi về lại chỗ cũ sau một chuyến bay ngắn chung quanh căn nhà. Tôi chắc hẳn đã đứng đó yên một lát để lắng nghe tiếng quật đập phành phạch của tấm màn cửa và tiếng rên rỉ kẽo kẹt của tấm tranh treo trên tường. Một tiếng đập sầm thật to khi Tom đóng cánh cửa sổ bên hông lại, thế là gió tắt hẳn, kể cả những tấm màn cửa, kể cả những tấm thảm, và chiếc bong bóng chứa hai thiếu nữ cũng từ từ hạ xuống dưới đất.
Trong hai người, tôi không quen biết người thiếu nữ trẻ tuổi hơn. Cô ta nằm duỗi người bên một đầu chiếc ghế hoàn toàn không cử động, cằm hơi nhếch lên một chút làm như đang cố thăng bằng vật gì đó trên cằm đang sắp rớt. Thật ra nếu cô gái đó có nhìn thấy tôi qua khóe mắt của mình hay không thì tôi cũng không biết, bởi vì cô chẳng biểu lộ một biểu hiện gì cả. Tôi ngạc nhiên đến nỗi gần như tính lầm bầm nói câu xin lỗi vì sự xuất hiện của mình đã làm phiền họ.
Người thứ hai, Daisy ít ra cũng có cố gắng nhổm lên. Nàng hơi nghiêng mình tới trước với vẻ mặt cẩn trọng, sau đó bật lên tiếng cười nhỏ, một cái cười lố bịch duyên dáng. Tôi cũng cười theo và sau đó bước vào phòng.
“Em vui mừng đến nỗi đờ đẫn cả người ra,” Daisy lại buông tiếng cười lần nữa làm giống như mình vừa nói cái gì đó rất dí dỏm. Daisy nắm tay tôi một chặp, sau đó ngước mắt lên nhìn vào mặt tôi như cam đoan nàng không mong gặp ai hơn ngoài tôi ra; cách thức của Daisy xưa nay luôn như vậy. Nàng thì thầm giới thiệu cho tôi biết họ của cô gái đang làm động tác cân bằng kia là Baker. (Tôi nghe người ta đồn rằng Daisy hay nói thì thầm chỉ cố ý để người ta nghiêng lại gần nàng hơn. Một câu trỉ chích không chính đáng như vậy không làm giảm đi nét duyên dáng của nàng).
Đôi môi của Baker bắt đầu mấp máy. Cô gật đầu chào tôi, nhẹ đến nỗi khó có thể nhìn ra, sau đó lại nhanh chóng ngửa đầu đầu ra sau như cũ. Vật mà Baker đang cân bằng rõ ràng như sắp rớt khiến cô sợ hãi. Một lần nữa tôi lại xém thốt thoát ra những lời giống như xin lỗi.
Tôi quay lại nhìn Daisy khi cô em họ bắt đầu hỏi han với giọng nói trầm trầm đầy truyền cảm. Đó là loại giọng nói khiến cho tai người nghe phải hướng theo lên xuống, làm như mỗi lời nói là mỗi sắp xếp của những nốt nhạc sẽ không bao giờ được đánh thêm lần nữa. Khuôn mặt của Daisy mang nét trầm buồn xinh đẹp, trên nó có chứa đựng những cái tươi sáng rực rỡ - đó là đôi mắt tươi sáng long lanh và chiếc miệng tươi nồng nàn quyến rũ. Tuy nhiên, sự quyến rũ nhất của Daisy chính là giọng nói, nó chứa đựng một sự sống động khiến cho những người đàn ông đang yêu nàng sẽ rất khó có thể quên: chẳng hạn như lời nài nỉ du dương, lời thì thầm “hãy lắng nghe em nói”, lời kể lể thiết tha rằng mình mới vừa trải qua những giây phút vui tươi và rằng còn nhiều chuyện vui hơn nữa đang chuẩn bị tới trong vòng một giờ đồng hồ.
Tôi kể cho Daisy nghe chuyện trên đường đi qua miền Đông tôi đã ghé ngang qua Chicago như thế nào, và đã có khoảng một chục người nhắn gửi tình cảm của họ tới Daisy ra sao.
“Bọn họ nhớ em thật sao?” Daisy ngây ngất reo lên.
“Nguyên cả thành phố đều sầu não. Tất cả mọi chiếc xe đều cho sơn đen chiếc bánh bên trái phía sau để tượng trưng cho vòng hoa tang, và có những tiếng than van thương khóc dai dẳng suốt đêm trường dọc theo bờ bắc biển hồ.”
“Tuyệt quá! Hãy quay về đó đi, Tom. Ngày mai!”
Sau đó Daisy nói thêm chẳng ăn nhằm gì tới chuyện đang nói.
“Anh muốn gặp con của em không?”
“Anh muốn lắm.”
“Con bé ngủ mất rồi. Nó lên ba tuổi. Anh chưa bao giờ gặp nó phải không?”
“Chưa bao giờ.”
“Thế thì anh nên gặp nó. Con bé…”
Tom Buchanan nãy giờ vẫn cứ không ngừng lượn qua lượn lại trong căn phòng, bây giờ đứng lại và đặt tay lên vai tôi.
“Nick, bây giờ anh đang làm nghề gì?”
“Tôi làm khố phiếu tín dụng”
“Với công ty nào?”
Tôi đưa câu trả lời.
“Chưa bao giờ nghe tới tên những công ty này.” Tom trả lời một cách quả quyết. Cách nói này khiến tôi bực mình. Tôi trả lời cộc lốc.
“Anh sẽ biết nếu như anh ở lại miền Đông này.”
“Ổ, anh đừng lo, tôi đương nhiên sẽ ở lại miền Đông này.” Tom nói, liếc nhìn Daisy rồi lại quay sang nhìn tôi hình như đang cảnh giác cho những phản ứng khác. “Tôi có ngốc mới đi ở nơi khác.”
Ngay lúc đó đó Baker lên tiếng “Đương nhiên rồi!” Lời nó đột ngột này làm tôi giật mình. Đây là lời đầu tiên cô thốt lời kể từ lúc tôi bước vào phòng. Rõ ràng, điều này cũng gây ngạc nhiên ngay cả cho chính Baker chắng kém gì cho tôi. Cô ngáp dài và đứng lên sau một loạt những cử động khéo léo nhanh nhẹn.
“Người em tê cứng cả lên, em đã nằm đó không biết từ thủa nào.” Baker than phiền.
“Đừng đổ lỗi cho chị, chị đã gắng sức rủ em đi New York nguyên cả chiều nay.” Daisy đối đáp lại.
“Cám ơn không uống.” Baker từ chối khi bốn ly cocktail vừa mới được đưa lên từ phòng ăn. “Em đang trong thời gian huấn luyện.”
Người chủ nhà nhìn Baker một cách hoài nghi. “Vậy à?” Sau đó Tom cầm nốc cạn ly rượu của mình làm giống như nó chỉ có một giọt dưới đáy.
“Tôi không biết cô làm sao có thể thực hiện được mọi chuyện của mình.”
Tôi nhìn Baker tự hỏi việc mà cô có thể làm được là việc gì. Tôi thích ngắm nhìn Baker. Cô có thân người mảnh dẻ, bộ ngực nhỏ nhắn, dáng đi thẳng đứng. Baker cố làm nổi bật dáng người mình lên hơn nữa bằng cách ưỡn vai ra sau như một thiếu sinh quân. Đôi mắt mang vẻ kém tươi sáng vì mỏi nắng trên một khuôn mặt duyên dáng nhưng uể oải và khó chịu. Baker lịch sự đáp trả lại tôi cũng bằng một cái nhìn tò mò. Tôi nhận ra rằng hình như tôi đã gặp cô hay đã nhìn thấy hình của cô trước đây ở đâu rồi .
“Anh ở bên West Egg hả, tôi cũng có quen vài người bên đó”. Baker hỏi một cách khinh khỉnh.
“Tôi không quen một ai.”
“Anh chắc phải biết Gatsby.”
“Gatsby? Gatsby nào?” Daisy gặng hỏi.
Trước khi tôi có dịp trả lời rằng người đó là hàng xóm của tôi thì mọi người đã được thông báo cho biết bữa ăn chiều đã sẵn sàng. Đưa cánh tay cứng ngắc của mình ra nắm chặt lấy cánh tay tôi, Tom Buchanan đẩy tôi ra khỏi căn phòng giống như đang đẩy một con cờ từ ô này sang ô khác.
Thong thả, chậm chạp, hai tay chống nhẹ lên hai bên hông, hai phụ nữ trẻ dẫn đầu đi trước chúng tôi bước ra ngoài hàng hiên nhà sơn màu hồng phấn hướng nhìn ra cảnh chiều tà hoàng hôn. Trên bàn, bốn ngọn nến đã được thắp sáng lung linh trong làn gió nhẹ.
“Tại sao lại thắp nến?” Daisy nhăn mặt phản đối rồi búng ngón tay tắt chúng đi. “Hai tuần nữa sẽ là ngày dài nhất trong năm. Có phải mọi người ai cũng mong đợi cho đến ngày dài nhất trong năm nhưng sau đó thì lại lỡ để nó trôi qua không biết đến? Em lúc nào cũng chờ đợi cho tới ngày dài nhất trong năm nhưng rồi lại để nó lỡ trôi qua.” Daisy nhìn chúng tôi khuôn mặt tươi tắn rạng rỡ.
“Chúng ta nên tổ chức làm cái gì đi.” Baker ngáp dài, ngồi xuống bàn cách thức giống như đang chuẩn bị nằm xuống giường ngủ.
“Đúng đó. Mình nên tổ chức cái gì đây?” Daisy nói, quay lại tôi hỏi. “Người ta thường tổ chức gì nhỉ?”
Trước khi tôi có thể trả lời, đôi mắt Daisy đã dán chặt vào ngón tay út của mình với nét mặt kinh sợ.
“Trông nè, ngón tay em bị đau.” Daisy phàn nàn.
Mọi người chúng tôi quay sang nhìn, khớp đốt tay đã tím bầm.
“Anh làm đó Tom” Daisy đổ lỗi. “Em biết anh không cố ý, nhưng chính anh đã gây nên. Đó là cái giá mà em phải trả cho việc kết hôn với một người đàn ông thô bạo, một thứ người to xác.”
Đôi khi cả Daisy và Baker đều cùng nói một lúc những câu nói diễu cợt, không quấy rầy ai, không huyên thuyên nhưng trầm tĩnh mát mẻ như những chiếc áo đang mặc trên người và như những đôi mắt trống rỗng thiếu vắng ham muốn của họ. Hai thiếu nữ họ ngồi đây, chấp nhận sự có mặt của Tom và tôi, cố gắng lịch sự để nói chuyện giải trí cho chúng hoặc tự giải trí cho chính mình. Cả hai đều biết bữa ăn chiều rồi cũng sẽ chấm dứt, chẳng bao lâu buổi chiều rồi cũng sẽ qua đi. Đời sống ở nơi đây toàn toàn khác biệt so với đời sống ở miền Tây, nơi mà những buổi chiều lúc nào cũng vội vã đi hết từ giai đoạn này đến giai đoạn kia cho đến khi chấm dứt trong một đoán biết trước đầy thất vọng hay trong niềm hoàn toàn kinh sợ chính giây phút hiện tại.
“Daisy, em làm cho anh cảm thấy mình giống như người không văn minh.” Tôi thú nhận sau khi uống ly rượu vang đỏ thứ hai nồng mùi nút chai. “Em có thể nói về đồng ruộng, vụ mùa hay đề tài nào khác được không?”
Tôi không có ẩn ý gì trong câu nói này, nhưng nó đã được tiếp nhận một cách khác. Tom thốt lên một cách mạnh bạo dữ tợn.
“Nền văn minh sẽ tan thành từng mảnh, tôi thật cảm thấy bi quan về sự việc này. Anh đã đọc qua quyển “Sự hưng thịnh của các đế quốc da màu” do ông Goddard nào đó viết chưa?”
“Chưa, thì sao?” Tôi trả lời, cảm thấy ngạc nhiên vì giọng nói của Tom.
“Đó là một quyển sách hay mà mọi người nên đọc. Ý tưởng của quyển sách là nếu ta không cẩn trọng thì giống dân da trắng sẽ bị nhấn chìm hoàn toàn.
Những ý kiến đó hoàn toàn khoa học và đã được chứng minh.”
“Tom càng lúc càng uyên bác.” Daisy nói với vẻ mặt buồn bã không sâu sắc lắm. “Anh ấy đọc những quyển sách thâm sâu đầy những từ ngữ dài. Có nhớ cái từ gì mà chúng ta…”
“Thật ra những quyển sách này đều là sách khoa học.” Tom khăng khăng, liếc nhìn vợ một cách thiếu kiên nhẫn. “Tác giả này đã nghiên cứu mọi thứ cẩn trọng. Mọi thứ giờ đang nằm trong tay của chúng ta là giống dân thống trị, chúng ta cần canh chừng những giống người khác, nếu không họ sẽ ngoi lên nắm quyền điều khiển mọi thứ.”
“Chúng ta phải đánh bại họ.” Daisy thì thầm, nháy mắt một cách dữ tợn về phía mặt trời nóng bỏng.
“Hai người nên sống ở California.” Baker lên tiếng nhưng Tom đã cắt lời cô bằng cách xoay người nặng nề trên ghế.
“Tác giả đưa ra ý tưởng rằng chúng ta là người Bắc Âu. Tôi, cậu, cô và..” Sau một chút do dự ngắn ngủi anh ta gộp luôn cả Daisy vào trong danh sách bằng cái gật đầu nhẹ khiến Daisy nháy mắt với tôi them một lần nữa. “Và chính chúng ta đã sáng tạo nên tất cả những thứ đã làm thành nền văn minh, từ khoa học, đến nghệ thuật và tất cả mọi thứ khác. Cậu có công nhận không?”
Có cái gì đó thật tội nghiệp trong lối Tom gắng óc suy nghĩ, làm như tính tự mãn của Tom tuy bây giờ còn cao độ hơn xưa nữa, nhưng nó cũng vẫn không đủ sức cho Tom suy nghĩ. Đúng ngay lúc đó có tiếng chuông điện thoại reo trong nhà, người quản gia rời hiên nhà đi vào trong. Daisy nhân cơ hội gián đoạn này nghiêng mình về phía tôi nói.
“Em sẽ tiết lộ cho anh nghe một bí mật của gia đình.” Daisy thì thầm một cách hăng hái. “Chuyện về cái mũi của ông quản gia. Anh có muốn nghe chuyện cái mũi ông quản gia không?”
“Thì anh đến đây chính là vì muốn nghe chuyện đó.”
“Thật ra trước kia ông ta không phải là làm nghề quản gia mà làm nghề đánh bóng đồ bạc cho người nào đó có tiệm khoảng hai trăm khách hàng ở New York. Ông ta phải đánh bóng đồ bạc từ sáng mãi cho tới tối cho đến khi mũi ông ta bị nhiễm độc.”
“Bịnh tình càng lúc càng tệ.” Baker tiếp lời gợi ý.
“Đúng như vậy. Càng lúc càng tệ cho đến cuối cùng ông ta phải bỏ việc đang làm.”
Trong một khoẳng khắc, giọt nắng cuối cùng rơi một cách lãng mạn lên khuôn mặt rạng ngời của Daisy. Giọng nói của nàng khiến tôi phải chồm người tới trước và nín thở mới nghe được. Sau đó vẻ rạng ngời này bớt dần khi từng giọt nắng thay phiên nhau giã từ bỏ đi trong nuối tiếc, giống như đám trẻ nhỏ phải ngừng chơi để rời khỏi con đường tràn đầy vui thú khi trời chạng vạng tối.
Người quản gia quay trở lại và thì thầm điều gì đó vào sát tai Tom. Nghe xong Tom nhăn mặt, xô ghế ra sau, đứng lên bỏ vào trong nhà mà không mói một lời nào. Sự vắng mặt của Tom khiến Daisy nhanh chóng nắm lấy cơ hội, nàng nghiêng người tới phía trước lần nữa, giọng rạng rỡ và du dương.
“Nick, em rất thích anh đến đây dùng bữa với em. Anh làm em liên tưởng tới một đóa hồng, một đóa hồng thuần túy. Phải vậy không?” Daisy quay qua Baker chờ câu xác nhận. “Phải một đóa hồng thuần túy không?”
Điều này không đúng. Tôi chẳng có chút xíu gì giống một đoá hồng. Daisy thật là chỉ tùy hứng ứng khẩu, thế nhưng làn hơi ấm áp tỏa ra từ cơ thể của nàng làm như trái tim của nàng đang muốn thổ lộ tới người nghe bằng cách ẩn núp dưới dạng những lời nói không vương hơi thở, truyền ra làm rung cảm lòng người. Thế rồi, đột nhiên Daisy ném khăn chùi miệng lên bàn và xin lỗi mọi người rồi bỏ vào trong nhà.
Baker và tôi liếc nhẹ mắt nhìn nhau cố tình không để lộ ý tưởng gì. Khi tôi chuẩn bị lên tiếng thì Baker đã nhanh nhẹn đứng lên một và nói “Shuỵt” với một giọng cảnh giác. Những tiếng nói chuyện rì rầm cố dằn nhỏ giọng có thể nghe được từ căn phòng bên kia. Baker chẳng xấu hổ gì nghiêng người về phía trước cố lắng nghe. Tiếng rì rầm vang to lên gần như có thể hiểu được, sau đó lại hạ thấp xuống, rồi lại nổi nên sôi nổi và sau đó thì hoàn toàn im lặng.
“Ông Gatsby mà cô đã nhắc qua là hàng xóm của tôi..” Tôi gợi chuyện.
“Đừng nói. Tôi muốn lắng nghe coi chuyện gì đang diễn ra.”
“Có chuyện gì đang xẩy ra sao?” Tội dò hỏi một cách ngây thơ.
“Anh bộ không biết thật hả? Tôi tưởng ai cũng biết rồi.” Baker nói một cách ngạc nhiên thật sự.
“Tôi không hề biết gì cả.”
“Vậy sao…” Baker ngập ngừng, “Tom có người đàn bà khác ở New York.”
“Có người đàn bà khác?” Tôi ngây người lập lại
Baker gật đầu
“Nếu cô đó là người biết điều thì không nên gọi điện thoại cho Tom ngay giữa bữa ăn chiều như vậy. Anh nghĩ đúng không?”
Trước khi tôi kịp thấu hiểu ý nghĩa câu nói của Baker thì đã nghe tiếng áo đầm phần phật và tiếng nghiến giày, cả Tom và Daisy đều quay trở lại bàn ăn.
“Em không thể cưỡng nổi!” Daisy nói lớn với giọng nói tươi vui không tự nhiên.
Daisy ngồi xuống, sau khi hết liếc nhìn Baker rồi lại liếc nhìn tới tôi, nàng nói tiếp. “Em mới vừa ra ngoài ngắm một phút, cảnh trí ngoài trời thật là nên thơ. Có một con chim đậu trên bãi cỏ mà em đoán là chim sơn ca đã theo con con tàu Cunard hay tàu Starline đến đây. Chú chim vừa bay vừa hót..” Giọng của Daisy thánh thót. “ Đúng là lãng mạn phải không Tom?”
“Thật là lãng mạn.” Tom trả lời, sau đó quay sang tôi một cách khổ sở. “Sau bữa ăn chiều, nếu trời còn sáng, tôi muốn dẫn anh đi xuống chuồng ngựa.”
Chuông điện thoại trong nhà lại reo lên làm mọi người giật mình. Trong khi Daisy nhìn Tom lắc đầu một cách kiên quyết thì đề tài của những chuồng ngựa, đúng ra mà nói tất cả mọi đề tài, đều tan biến vào không gian. Trong khoảng khắc đứt đoạn năm phút đó, tôi nhớ rằng ở trên bàn những ngọn nến đã được thắp sáng trở lại, lạc lõng vô nghĩa. Tôi có ý muốn nhìn thẳng vào khuôn mặt của mỗi người nhưng lại tránh không muốn nhìn vào mọi cặp mắt. Tôi không có thể suy đoán xem Daisy và Tom đang nghĩ gì, nhưng tôi cho rằng ngay chính cả Baker, người dường như rất tài giỏi về nghi ngờ, có thể hoàn toàn xua đuổi khỏi đầu tiếng kêu lanh lảnh dục dã của người khách thứ năm này. Tùy tính tình, hoàn cảnh này có thể sẽ khiến cho vài người cảm thấy thích thú. Nhưng với bản năng của tôi, thì tôi sẽ gọi điện thoại ngay cho cảnh sát.
Những con ngựa, khỏi cần nói, đương nhiên đã không còn được nhắc tới nữa. Cách nhau vài bước trong bóng tối chiều tà, Tom và Baker thong thả đi vào thư viện, làm như để đi canh gác một thi thể bằng xương bằng thịt. Còn tôi cố gắng làm ra vẻ thú vị và hơi có chút giả điếc, theo gót Daisy đi ngang qua dãy hàng hiên nối dài ra tới hiên nhà trước. Trong bóng tối dày đặc, chúng tôi ngồi xuống cạnh nhau trên chiếc ghế mây.
Daisy lấy hai tay chống mặt như để cảm giác được đường nét yêu kiều xinh đẹp của nó. Đôi mắt của nàng thong thả hướng nhìn vào trong bóng hoàng hôn mượt mà như nhung. Tôi thấy nàng đang bị xúc cảm dữ dội cho nên gợi hỏi vài câu về đứa con gái để nàng được dịu lại.
“Nick, tuy hai chúng ta là anh em họ nhưng thật ra chúng ta không hiểu nhau nhiều lắm.” Daisy đột ngột nói. “Anh đã không đi dự đám cưới của em.”
“Lúc đó còn chiến tranh anh đi trận chưa về.”
“Đúng rồi.” Daisy ngập ngừng. “Thật ra em đã trải qua một thời gian đau khổ. Bây giờ thì em cay cú với hết tất cả mọi thứ.”
Đương nhiên Daisy có lý do để suy nghĩ như vậy. Tôi đợi cho Daisy nói tiếp nhưng nàng không nói gì thêm. Sau một lúc tôi rụt rè quay lại gợi chuyện đứa con gái nhỏ.
“Anh đoán con gái em đã biết nói, biết ăn và biết làm nhiều thứ rồi.”
“Dạ, đúng như vậy.” Daisy nhìn thẫn thờ. “Nghe đây Nick. Để em kể cho anh nghe em đã nói gì lúc con gái của em mới sanh. Anh có muốn nghe không?”
“Anh muốn nghe lắm.”
“Nghe xong anh sẽ biết tại sao em lại có cách suy nghĩ về cuộc đời như bây giờ. Chuyện như thế này, con bé sanh ra chưa được một giờ thì Tom đã đi đâu mất biệt chỉ có trời mới biết anh ở đâu. Sau khi tan thuốc mê, em thức dậy với cảm giác mình đã bị ruồng bỏ. Em ngay lập tức hỏi người y tá xem đứa bé sơ sanh là trai hay gái. Cô y tá trả lời con em là con gái, nghe xong em quay mặt đi không cầm được nước mắt. Em nói, “Cũng được, cũng mừng nó là con gái. Em hy vọng nó sẽ trở thành một đứa con gái ngu ngốc. Trên đời, điều tốt nhất cho một đứa con gái là trở thành một con ngốc xinh đẹp.”
“Anh thấy đó, em cho rằng mọi thứ trên đời đều là khủng khiếp.” Daisy nói tiếp giọng quả quyết. “Ai cũng nghĩ như vậy, ngay cả những người tiến bộ nhất. Em thực sự biết mà. Em đã từng đi mọi nơi, từng chứng kiến đủ mọi thứ và từng làm đủ mọi điều.” Đôi mắt của Daisy lóe lên niềm thách thức, đảo nhìn chung quanh trông giống như ánh mắt của Tom, sau đó Daisy bật lên cười khanh khách một giọng cười đầy khinh bỉ xúc động. “Khôn ngoan tinh tế, trời ơi, em thật quá khôn ngoan tinh tế.”
Ngay sau khi giọng nói của Daisy đã ngưng lại không còn khiến tôi phải chú tâm nghe và tin theo nữa thì tôi bắt đầu nhận ra sự không chân thật trong những điều nàng vừa nói. Nó khiến tôi cảm thấy khó chịu, làm như nguyên cả buổi chiều nay đều là một trò đùa nhắm vào khai thác cảm giác của tôi để đóng góp vào trò chơi đó. Tôi chờ đợi, và đúng y như thế, chỉ trong chốc lát Daisy đã lại nhìn tôi với một nụ cười điệu và hoàn toàn tự mãn trên khuôn mặt xinh đẹp, làm như Daisy đã khẳng định được địa vị của mình trong một xã hội ưu tú kín mà nàng và Tom đang là hội viên.
Bên trong nhà, căn phòng đỏ thẫm đã được bừng sáng dưới ánh đèn.
Tom và Baker mỗi người ngồi một đầu của chiếc ghế dựa dài, Baker đang đọc tin tức trên tờ báo Saturtday Evening Post cho Tom nghe với giọng đọc rì rầm không biến đổi, những lời đọc quyện lẫn lấy nhau tạo thành một âm thanh như vuốt ve xoa dịu. Ánh đèn chiếu sáng loáng trên đôi ủng của Tom, mờ đục trên mái tóc vàng màu lá úa của Bakey và phản chiếu ánh lấp lánh dọc theo trang giấy khi Baker đưa tay giở trang bằng những bắp tay thon thả rung nhẹ.
Khi hai chúng tôi bước vào, Baker dơ tay lên ra hiệu cho chúng tôi giữ im lặng.
“Còn tiếp, xin đón đọc số báo kế tiếp.” Cuối cùng Baker nói, vứt tờ tạp chí lên trên bàn
Baker lắc đầu gối chỉnh lại tứ thế mình cho thẳng rồi đứng lên.
“Mười giờ rồi, con gái nết na thì nên đi ngủ vào giờ này.” Baker nói, dáng điệu giống như đang coi giờ trên trần nhà.
“Jordan sẽ đi tranh giải vào ngày mai ở Westchester.” Daisy giải thích.
“Ồ, thế ra cô là Jordan Baker.”
Bây giờ tôi mới biết tại sao khuôn mặt của cô ta trông quen thuộc như vậy. Cái vẻ mặt khinh khỉnh đáng yêu đó đã từng nhìn thẳng vào tôi từ trong những bức hình chụp đăng trên báo thể thao ở những thành phố như Asheville, Hot Springs và Palm Beach. Tôi cũng đã từng nghe đồn đại về cô ta, toàn là những lời phê bình chỉ trích về một chuyện không được hay ho thú vị, nhưng là chuyện gì thì tôi đã quên mất tiêu rồi.
“Chúc ngủ ngon. Ngày mai nhớ đánh thức em dậy lúc tám giờ sáng.” Baker nói một cách nhỏ nhẹ.
“Nếu mà em dậy được thì chị cũng sẽ làm.”
“Dậy được mà. Chúc anh ngủ ngon, anh Carraway. Mong sớm có dịp gặp lại anh.”
“Em chắc chắc sẽ có dịp gặp lại mà.” Daisy xác nhận.” Thật ra chị sẽ sắp xếp làm mai cho hai người. Nick, anh nhớ đến đây thường xuyên và em sẽ làm mai cho hai người, kiểu như tình cờ nhốt hai người vào trong một tủ quần áo rồi đẩy lên trên một chiếc tàu đưa ra biển, đại khái những mánh khóe như thế.”
“Chúc ngủ ngon, em không nghe thấy gì đâu nhé.” Baker nói vọng xuống từ trên cầu thang.
“Cô ấy là một cô gái dễ thương. Người ta không nên để cô đi lung tung như vậy.” Sau một hồi Tom nói.
“Người nào không nên làm vậy?” Daisy lạnh lùng hỏi.
“Thì là gia đình của cô ta.”
“Baker chỉ còn có một người dì đã khoảng một ngàn tuổi là người thân. Nhưng mà Nick sẽ chăm sóc cho cô ta, phải vậy không Nick? Mùa hè này Baker sẽ ở đây nhiều cuối tuần với chúng ta. Em nghĩ khung cảnh gia đình sẽ có ảnh hưởng tốt cho Baker.”
Daisy và Tom nhìn nhau một lúc trong im lặng.
“Có phải cô ta nhà ở New York không?” Tôi hỏi nhanh.
“Từ Louisville. Thời thiếu nữ thơ ngây trong trắng chúng em đã lớn lên ở đó. Thời trong trắng xinh tươi…”
“Em đã tâm sự nhiều với Nick ở hiên nhà rồi phải không?” Tom đột nhiên tra hỏi.
“Phải vậy không?” Daisy nhìn tôi. “Em cũng không nhớ rõ nữa nhưng em nghĩ tụi em đã nói chuyện về giống người Bắc Âu. Đúng rồi, em nhớ chắc chắc là tụi em đã nói về chuyện đó. Thì cũng là do câu chuyện tự đưa đẩy, đến lúc nhận ra…”
“Đừng tin vào hết những gì cậu nghe Nick ạ.” Tom khuyên tôi.
Tôi nhẹ nhàng trả lời rằng tôi chưa nghe gì hết cả. Vài phút sau tôi đứng dậy cáo từ ra về. Hai vợ chồng họ tiễn chân tôi ra cửa, đứng cạnh nhau trong khoảng ánh sáng tươi vui. Khi tôi vừa rồ máy xe thì Daisy gọi giật tôi lại. “Đợi một lát.”
“Khoan đã, em quên hỏi anh một điều quan trọng. Tụi em nghe nói anh đã đính hôn với một thiếu nữ ở miền Tây.”
“Đúng rồi.” Tom phụ hoạ giọng thân mật. “Chúng tôi nghe nói anh đã đính hôn.”
“Đó chỉ là tin bôi nhọ thôi. Tôi nghèo quá mà.”
“Nhưng đúng là tụi em đã nghe được như vậy.” Daisy vẫn khăng khăng. Tôi ngạc nhiên thấy Daisy đã nói cười trở lại như một bông hoa. “Tụi em đã được nghe lại từ ba người, như vậy nó phải là sự thật.”
Đương nhiên tôi hiểu họ đang ám chỉ gì nhưng tôi chưa hề đính hôn dù chỉ là mập mờ. Thật ra những lời đồn nhảm đó đã được lan tới cả công bố nhà thờ và đã là một trong những lý do khiến tôi dọn về miền Đông. Ta không thể không giao thiệp với một người bạn lâu năm chỉ vì những lời đồn đại. Mặt khác tôi không có ý định lấy người ấy vì muốn biến lời đồn thành sự thật.
Sự quan tâm của hai vợ chồng Tom khiến tôi cảm động và khiến khoảng cách giàu sang của họ với tôi được thu ngắn lại. Dù sao đi nữa, lúc chia tay họ ra về tôi vẫn cảm thấy bối rối, lẫn lộn, pha chút phẩn nộ. Với tôi, dường như việc Daisy có thể làm bây giờ là nên ôm con trong tay chạy cho nhanh ra khỏi nhà. Nhưng trong đầu Daisy dường như không có ý tưởng đó. Về phần Tom, chuyện anh ta thật sự “có một người đàn bà khác ở New York” có lẽ còn ít ngạc nhiên hơn chuyện anh ta bị chán nản sau khi đọc một quyển sách. Không biết cái gì đó đã khiến Tom phải chịu gặm nhấm những tư tưởng cũ rích nhàm chán, làm như cái sự tự đại về thân thể cường tráng của mình đã không còn đủ sức nuôi trái tim quyết đoán của anh ta.
Mùa hè đến cũng đã lâu rồi trên mái của những quán ăn và phía trước của những tiệm sửa xe dọc đường, nơi những máy bơm xăng màu đỏ mới toanh đứng sững trong vũng ánh đèn rọi sáng chan hoà. Khi về tới nhà ở West Egg, tôi đậu cất xe và ngồi xuống một lát trên chiếc máy cắt cỏ bỏ phế trên sân. Gió đã ngừng thổi, chừa lại một đêm trăng sáng với tiếng những cánh chim đập vào những tàng lá cây và tiếng kêu la không dứt từ bầy ếch nhái đang được lòng đất thổi hơi căng phồng sứs sống. Có chiếc bóng lung linh của con mèo đang trườn mình ngang qua bóng trăng, khi tôi quay đầu nhìn theo con mèo, tôi thấy mình thật ra không lẻ loi. Cách tôi khoảng năm mươi thước là một dáng người vừa mới hiện ra từ chiếc bóng đen của toà lâu đài hàng xóm bên cạnh. Anh ta đang đứng với hai tay thọc trong túi quần, ngắm nhìn những ngôi sao lấm tấm như bạc rắc trên bầu trời. Có cái vẻ gì đó nhàn nhã ung dung trong dáng điệu của anh ta và cách anh đặt chân kiên cố vững chắc trên thảm cỏ căn nhà cho tôi thấy anh chính là Gatsby. Anh đang ra ngoài để khẳng định xem giữa hai khu cư trú của chúng tôi, sở hữu nào là thuộc về của anh .
Tôi tính gọi Gatsby. Baker có nhắc tới anh trong bữa chiều, như vậy coi như tạm đủ là lời giới thiệu. Thế nhưng tôi đã không gọi, bởi vì tôi thấy Gatsby đột ngột ra dáng gợi ý anh muốn được đứng một mình. Gatsby dơ hai cánh tay ra phía trước hướng về phía bóng nước đen trước mặt, vẻ như tò mò. Với khoảng cách xa từ chỗ mình, tôi có thể thề rằng tôi thấy anh ta đang run rẩy. Không tự chủ, tôi cũng hướng nhìn về phía biển, tôi không thấy gì hơn ngoài một đốm ánh sáng màu xanh lục, nhỏ bé và xa tít, có lẽ là từ phía đầu của một bến tàu. Khi tôi quay lại nhìn một lần nữa thì Gatsby đã biến mất, tôi tiếp tục ở lại đơn độc một mình trong cái bóng đen khắc khoải.
[1]
Macenas: người giàu có bảo trợ cho những nghệ sĩ ở thành Rome thời cổ đại.
Midas: Vị vua của Greek có bàn tay huyền diệu đụng thứ gì thì thứ đó sẽ biến ra vàng
Morgan: Một trong những nhà tài chính thành công nhất của Hoa Kỳ trong thế kỷ thứ 19.
[2]
Theo như truyền thuyết, sau khi khám phá ra Châu Mỹ và trở về nhà, trong một bữa tiệc, một người ghanh ghét với Columbus đã đưa nhận xét rằng thành tích mà ông đạt được không có gì đáng khâm phục cả, ai cũng làm được. Columbus thản nhiên đưa ra một trái trứng và thách người đó làm sao có thể để trái trứng đứng thẳng lên trên đầu nhọn của nó được. Không ai làm được. Columbus cầm lấy trái trứng đập dập một đầu, và thế lá trái trứng có thể đứng thăng bằng trên một đầu nhọn.
Chương 2
Anh sống ở Scarborough. Một người nhỏ nhắn, mảnh mai, cao không quá một thước sáu. Tóc đen, mắt đen. Bắt đầu hoa râm hai bên thái dương. Trông không thể quá bốn mươi. Nước da màu cà phê dễ chịu. Mói vào tiết thu mà đã khoác áo choàng mùa đông có mũ chùm lót lông để đi ăn tối. Gương mặt biểu cảm. Nói nhanh, hai tay huơ theo lời. Không chuyện vặt. Đã vào chuyện là kể liền.
Chương 3
Tên tôi là tên một cái bể bơi, cũng là chuyện lạ vì cha mẹ tôi chẳng bơi lội bao giờ. Một trong những người có công chuyện sớm nhất với ba tôi là ông Francis Adirubasamy. Ông trở thành người bạn tốt của gia đình. Tôi gọi ông là
Mamaji.
Tiếng Tamil,
mama
nghĩa là bác, còn
ji
là vĩ đại hay dùng ở Ấn Độ để biểu lộ lòng yêu mến và kính trọng. Khi ông còn trẻ nghĩa là rất lâu trước khi tôi ra đời,
Mamaji
là quán quân bơi lội của toàn vùng Nam Ấn. Cả đời trông ông lúc nào cũng ra một nhà quán quân. Anh Ravi của tôi có lần bảo rằng khi
Mamaji l
ọt lòng mẹ
, ông ấy vẫn đòi tiếp tục thở trong nước đến nỗi bác sĩ, để cứu sống ông, đã phải túm lấy hai chân thằng bé rồi quay tròn trên đầu mình một lúc.
"Như thế này này!" Ravi nói, tay quay tít trên đầu. "Thằng bé ho sặc hết nước ra và bắt đầu thở không khí, nhưng máu thịt nó bị quay dồn hết lên phần trên của cơ thể, nên ngực nó mới đầy thế và chân nó mới khẳng khiu thế".
Tôi tin Ravi. (Anh Ravi là tên trêu người lưỡi nhọn. Lần anh gọi Mamaji là " Ông Cả" ngay vào mặt tôi, tôi đã vứt vỏ chuối vào giường anh.) Ngay ở tuổi sáu mươi, khi Mamaji đã hơi còng và thịt ông đã hơi bị trọng lực kéo xuống dưới, ông vẫn hàng sáng bơi đủ 30 lần chiều dài của bể bơi Aurobindo Ashram (1)
Ông cố dạy cha mẹ tôi bơi, nhưng chẳng bao giờ cha mẹ tiến bộ quá mức lội xuống nước đến đầu gối ở bãi biển và làm các động tác khoát tròn. Nếu cha mẹ tôi đang tập bơi ếch chẳng hạn, thì trông như họ đang đi trong rừng, vừa đi vừa lấy tay vạch cỏ trước mặt. Còn nếu cha mẹ tập bơi sải thì trông như họ đang chạy từ trên đồi xuống và cứ phải vung tay cho khỏi ngã. Anh Ravi thì cũng kém hăng hái chẳng thua gì thế.
Mamaji phải đợi đến khi tôi xuất hiện để có thể có được một môn đệ hăng hái. Ngày tôi đến tuổi bơi lội, tức là lên 7, theo tuyên bố của Mamaji và khiến mẹ tôi phát phiền, ông đem tôi xuống bãi biển, khoát tay về phía chân trời và nói: "Đây là món quà của ta cho con."
"Rồi ông ấy suýt để con chết đuối". Mẹ tôi bảo vậy.
Tôi vẫn trung thành với thủy sư phụ của mình. Dưới con mắt canh chừng của ông, tôi nằm trên bãi biển, quẫy chân, quạt tay trên cát, đầu quay bên này bên kia để thở theo mỗi động tác. Chắc hẳn trông tôi như một thằng nhóc đang làm mình làm mẩy một cách chậm chạp rất lạ. Dưới nước, ông giữ cho tôi nổi và tôi hết sức bơi. Khó hơn nhiều so với tập trên cạn. Nhưng Mamaji kiên trì và đầy khích lệ.
Khi ông thấy tôi tiến bộ rồi, chúng tôi bắt đầu chấm dứt những cuộc chạy nhảy nô rỡn với những làn sóng xanh biếc sủi bọt của bờ biển và bắt đầu việc luyện tập qui củ (và phải trả tiền) trong cái phẳng phiu nghiêm túc của hồ bơi cư xá.
Mỗi tuần ba lần, vào Thứ Hai, Thứ Tư và Thứ Sáu, trong suốt những năm thơ ấu, tôi đã đi với ông đến bể bơi vào sáng sớm và thực hiện một thứ nghi lễ chính xác và đều đặn như một cỗ máy đồng hồ của bài luyện tập bơi sải. Tôi còn nhớ như in hình ảnh sinh động của ông già đáng kính đang bắt đầu khoả thân bên cạnh tôi, cơ thể ông lô ra dần, và cuối cùng chỉ hơi quay đi để giữ thể diện với bộ quần bơi của vận động viên chính cống nhập khẩu đẹp tuyệt. Ông đứng thẳng người trong tư thế sẵn sàng. Hình ảnh ấy thật giản dị và hùng tráng. Học bơi, rồi tập bơi, thật cực nhọc nhưng có niềm khoái lạc sâu xa khi cảm thấy mỗi động tác của ta ngày càng nhẹ nhàng và đưa ta lướt tới nhanh chóng hơn, nhanh hơn nữa, cho tới lúc như mê đi, và khối nước nặng như chì trở thành một chất lỏng nhẹ bổng.
Từ ấy tôi lẻn trở lai biển một mình, một khoái lạc tội lỗi, đáp lại sự mời mọc của những ngọn sóng hùng vĩ ào ạt đổ vào bờ để rồi lại khiêm tốn lăn tăn chạy đến với tôi, những vòng tay dịu dàng choàng lấy thằng bé Ấn Độ tự nguyện đến với chúng.
Món quà tôi tặng Mamaji một dịp sinh nhật, lúc đó chắc tôi mười ba mười bốn tuổi gì đó, là 2 vòng bơi buớm hoàn chỉnh. Tôi đến đích mệt đến nỗi không giơ nổi tay để chào vẫy ông nữa.
Bên cạnh việc bơi lội còn có việc nói về nó nữa. Cha tôi rất thích nói đến bơi. Cha càng không chịu tập bơi bao nhiêu thì càng thích bơi bấy nhiêu. Bơi lội là chuyện xả hơi của ông mỗi khi ko nói chuyện công việc hàng ngày của ông tại vườn thú. Nuớc không có hà mã có vẻ dễ cai quản hơn nhiều so với nước có hà mã.
Mamaji du học Paris hai năm, nhờ có chính sách thực dân. Đó là thời kì đáng nhớ nhất của ông. Dạo ấy là đầu những năm 1930, lúc người Pháp vẫn còn cố đồng hoá Pondichery, cũng như người Anh đang còn cố đồng hoá những vùng còn lại của Ấn Độ. Tôi ko nhớ rõ Mamaji học gì. Hình như có dính dáng đến thương mại. Ông là người kễ chuyện tuyệt vời nhưng lại quên sạch các câu chuyện học hành của mình, cũng chẳng nhớ gì đến tháp Eiffel, cung diện Lourve, hoặc các quán cafe dọc đại lộ Champs Elysees. Tất cả các câu chuyện ông kể đều là về các hồ bơi và các cuộc thi bơi. Ví dụ, có Piscine Deigny (2), bể bơi cổ nhất của kinh thành, có từ năm 1796, là một cái xà lan neo tại bến tàu Orsay và là nơi diễn ra các cuộc tranh tài bơi lội trong thế vận hội Olympics 1990. Nhưng không có kỉ lục nào trong bể bơi này được liên đoàn Bơi lội Quốc tế công nhận vì hồ này dài hơn kích thước tiêu chuẩn 6m. Nước trong bể lấy thẳng từ sông Seine, chẳng lọc mà cũng chẳng sưởi. "Vừa lạnh vừa bẩn," Mamaji kể, " nước ấy đã chảy qua khắp thành phố thành ra rất bẩn. Rồi đám người xuống bơi lại làm cho nó bẩn đến phát khiếp lên được." Với giọng thì thầm đầy âm mưu và đưa ra những chi tiết kinh khủng để chứng minh, ông đảm bảo với tôi là người Pháp có những tiêu chuẩn vệ sinh rất thấp. "Deligny đã bẩn thế rồi, mà bể bơi Royal, một cái nhà tiêu nữa trên sông Seine, lại còn bẩn hơn. Dù sao thì ở Deligny người ta cũng chịu khó vớt những con cá chết vứt ra ngoài." Nhưng gì thì gì, một bể bơi Olympic vẫn cứ là một bể bơi Olympic, đã từng đuợc vinh quang bất hủ. Cho nên có bẩn như một cái bể phốt đi chăng nữa thì Mamaji vẫn nhắc dến Deligny với nụ cười âu yếm.
Dễ chịu hơn là các bể bơi ở Chateau - Landon, Rouvet, hoặc ở đại lộ Nhà ga. Đó là các bể bơi trong nhà có mái, xây trên đất liền, và mở cửa quanh năm. Nuớc bể lấy từ nguồn ngưng đọng trong các động cơ hơi nuớc của các nhà máy quanh đó, sạch hơn và ấm hơn. Nhưng chúng vẫn là những bể bơi tối tăm và thưòng quá đông đúc. "Nuớc ở đấy lềnh phềnh rất nhiều đờm dãi," Mamaji chặc lưỡi, "cứ như bơi giữa đám sứa."
Các bể bơi Hebert, Ledru-Rollin và Butteuxa-Caillé thì sáng sủa. hiện đại, rộng rãi, và dùng nước từ những giếng khoan sâu. Chúng là tiêu chuẩn cho các bể bơi đô thị. Tất nhiên còn có Piscine des Tourelles, một bể bơi Olympic nữa của thành phố khai trương trong thế vận hội Paris năm 1924. Và còn nhiều bể khác nữa, rất nhiều.
Nhưng trong mắt Mamaji, ko có bể bơi nào sánh được vẻ huy hoàng của Piscine Molitor. Đó là vuơng miện cho những vinh quang bơi lội của kinh thành Paris, và quả thật, toàn thể nhân loại văn minh.
"Đến các đấng thần linh cũng phải sung sướng khi đuợc bơi ở đấy. Molitor có câu lạc bộ thi đấu bơi lội xuất sắc nhất Paris. Có 2 bể, một trong nhà, một ngoài trời. Cả hai đều mênh mông như các tiểu đại dương. Bể trong nhà luôn có hai làn dành riêng cho những người luyện tập bơi đường dài. Nước bể sạch và trong đến độ ta có thể lấy nó pha cafe buổi sáng. Các phòng thay đồ bằng gỗ, sơn xanh nuớc biển và trắng, nằm xung quanh bể thành 2 tầng. Ta có thể nhìn xuống và thấy toàn cảnh bể bơi, chẳng sót vật gì. Những người phục vụ dùng phấn đánh dấu phòng thay đồ để mọi người biết ta đang ngự trong đó. Họ là các ông già chân đi khập khiễng, thân thiện với một vẻ dễ cáu bẳn. Họ phớt lờ những la hét và hành vi ngốc nghếch của mọi người. Nước tắm từ các vòi hoa sen nóng hổi và dễ chịu vô cùng. Có cả phòng tắm hơi và phòng thể dục. Bể ngoài trời thì mùa đông trở thành sân trượt băng. Có một quầy ruợu, một quán cafe, một hiên nằm phơi nắng, thậm chí có cả 2 bãi tắm nhỏ trải cát tự nhiên. Tất cả các viên gạch men, đồ đồng và đồ gỗ đều bóng loáng. Đó là...đó là...
Đó là bể bơi duy nhất khiến cho Mamaji rơi vào im lặng, kí ức ông phải bơi quá xa để có thể biết hết về nó.
Mamaji nhớ nó. Cha tôi mơ về nó.
Vì vậy mà cuối cùng, khi tôi ra đời, ba năm sau anh Ravi, một thành viên nữa được cả nhà mong mỏi, tôi đã được đặt tên là Piscine Molitor Patel.
Chú thích:
(1) Ashram là danh từ chỉ một khu trường trại của những người theo cùng một tín nguỡng hoặc giáo phái. Aurobindo (1872 -1950) là một học giả và lãnh tụ tôn giáo nổi tiếng của Ấn Độ.
(2) Piscine, tiếng Pháp, nghĩa là bể bơi (nhân tạo), độc giả cứ đọc tiếp sẽ hiểu tại sao chúng tôi không dịch từ này ra tiếng Việt (ND)...
Dân tộc già nua và tốt đẹp của chúng tôi được tròn bảy tuổi trong thể chế cộng hoà thì lớn thêm ra với một lãnh thổ nhỏ. Pondicherry gia nhập Liên minh Ấn Độ ngày 1 tháng 11 năm 1954. Thành tựu dân sự này dẫn đến một thành tựu dân sự khác. Một phần đất của vuờn bách thảo Pondicherry được chính quyền khoanh riêng ra, tạo một cơ hội làm ăn mới, lại không phải trả thuế thổ trạch, và thế là, như một phép lạ, Ấn Độ lại có một vuờn bách thú mới toanh, thiết kế và quản lý theo những nguyên tắc sinh học lành mạnh và hiện đại nhất.
Đó là một vuờn bách thú khổng lồ không biết là bao nhiêu diện tích đất, đến nỗi phải có hẳn một đường tầu hỏa để cho người xem đi cho hết, mặc dù khi lớn lên tôi cũng thấy nó cứ nhỏ dần, kể cả đoàn tàu. Giờ thì nó nhỏ đến độ nằm vừa xoẳn trong đầu tôi. Hãy mường tuợng một vùng nóng ẩm tràn ngập ánh nắng và rực rỡ màu sắc. Hoa nở liên miên, ào ạt. Cây cao bụi thấp, và dây leo xoắn xuýt đủ các loại, nếu không có các bảng tên rõ ràng gắn dưới gốc chúng thì chẳng ai có thể biết được chúng là cây gì.
Có những chiếc ghế dài. Trên những chiếc ghế dài ấy ta thấy những người nằm ngủ duỗi dài, hoặc những cặp trai gái, những đôi trẻ măng vẫn còn thẹn thò đầu mày cuối mắt và giật mình khi tay chạm phải tay. Bất thình lình trong đám cây cao mảnh dẻ trước mắt, ta nhận ra một cặp hươu cao cổ đang nhìn ta chăm chú. Chưa hết, chỉ ngay sau đấy thôi, ta giật nảy mình vì những tiếng kêu váng óc của một đàn khỉ bất thần ở đâu ào tới, quện lẫn với những âm thanh lảnh lót đinh tai của các loài chim gì nữa chẳng biết. Ta đến chỗ soát vé, lơ đãng trả một món tiền nhỏ, rồi đi tiếp. Ta thấy một bức tuờng thấp. Có thể thấy gì sau dãy tường lè tè ấy? Chẳng nhẽ lại là chuồng tê giác? Ấy thế mà là chuồng tê giác thật, hai con tê giác Ấn Độ hùng vỉ trong một hố đất nông. Khi ta quay sang bên thì thấy ngay một con voi, đã lù lù ở đó từ bao giờ nhưng vì to quá mà ta không nhìn ra. Rồi thì ta nhận ra những con hà mã đang bập bềnh ngay dưới ao. Càng nhìn càng thấy. Hết cảnh này đến cảnh khác. Ta thực đang ở vuờn bách thú có cái tên Zootown (1).
Truớc khi dọn đến Pondicherry, cha tôi quản lý một khách sạn lớn ở Madras. Lòng ưa thích động vật khiến ông chuyển qua nghề vuờn thú. Một bước quá độ tự nhiên, ta có thể nghĩ vậy. Nhưng cũng không hẳn thế. Về nhiều phương diện, cai quản một vuờn thú là cơn ác mộng của một người quản lý khách sạn. Này nhé: Khách trọ không bao giờ rời phòng đi đâu cả, chúng đòi hỏi không phải chỉ một nơi trú chân, mà thực sự là nơi ăn chốn ở hẳn hoi, chúng lại luôn luôn có khách đến thăm, lắm bọn rât ồn ào và bừa bãi. Muốn dọn chuồng cho chúng, ta phải chờ lúc chúng quá bộ ra ngoài bao lơn, rồi lại phải chờ cho chúng chán cảnh ngoài bao lơn, quay vào buồng rồi thì mới lại quét dọn bao lơn cho chúng được. Phải dọn dẹp liên miên, vì khách trọ đứa nào cũng bẩn thỉu như bọn nghiện rượu cả. Khác nào cũng đòi hỏi một chế độ ăn uống riêng, suốt ngày kêu ca là phục vụ chậm, và tuyệt đối không bao giờ cho tiền boa. Nói thật tình, nhiều khách trọ còn là bọn bệnh hoạn tình dục, hoặc bị nhịn quá mà thỉnh thoảng lại lên những cơn động cỡn điên cuồng, hoặc công khai bậy bạ khiến những cuộc mây mưa đá lở đất long không khuôn phép gì hết và cả những vụ loạn luân công khai ầm ĩ. Có ai làm khách sạn mà muốn có những loại khách như thế không chứ? Vườn bách thú Pondicherry là nguồn vui thú và cũng là nguồn đau đầu của ông Santosh Patel, người sáng lập, chủ sở hữu, giám đốc, ông chủ của năm mươi ba người làm công, và là cha tôi.
Với tôi, nó là chốn địa đàng. Tôi chỉ có những ký ức đáng yêu của quãng đời lớn lên trong vuờn bách thú đó. Tôi sống cuộc sống của một ông hoàng. Có đứa con trai nào của một vị vương giả nào có được một sân chơi mênh mông và xum xuê như thế? Lâu đài nào mà có được một bầy thú nuôi trong nhà như thế? Suốt thời niên thiếu, bầy sư tử đã là những chiếc đồng hồ báo thức của tôi. Chẳng cần đến những đồng hồ Thuỵ Sĩ làm gì. Sáng nào cũng thế, khi bầy sư tử cất tiến gầm vang dội của chúng, ấy là đã đến 5 rưỡi 6 giờ rồi. Bữa điểm tâm diễn ra trong những tiếng kêu lảnh lót và kéo dài của bầy khỉ to mồm, các loài yểng, sáo và lũ vẹt Moluccan. Tiễn tôi đi học không phải chỉ có ánh mắt dịu hiền của mẹ, mà còn có những cái nhìn lưu luyến của bọn rái cá mắt sáng như sao, con bò rừng Châu Mỹ khổng lồ, và đám khỉ độc đang vuơn vai duỗi chân và ngáp ngắn ngáp dài. Tôi phải trông chừng khi chạy qua dưới đám cây của bầy chim công vì chúng rất hay thích phóng uế xuống người tôi. Tốt nhất là chạy qua dưới rặng cây của bọn dơi rừng vì giờ đó sẽ chỉ có tiếng chí choé chói tai của chúng mà thôi. Trên đường ra tôi có thể dừng lại chỗ nuôi các loài trên cạn để ngắm những con ếch như đuợc tráng men xanh biếc, hoặc vàng với xanh nước biển sẫm, hoặc nâu với xanh lá cây nhạt. Cũng có khi bọn chim ở đó khiến tôi phải để mắt đến chúng: những con hồng hạc màu hồng rực, đàn thiên nga đen, bầy đà điểu một mào, hoặc những con chim nhỏ hơn như bọn bồ câu lông bạc, những con tình điểu có bộ mặt giống như trái đào tơ, hoặc đàn vẹt to mồm có những đám lông màu da cam trước ngực.
Rất ít khi thấy đám voi, hổ báo, gấu hoặc hải cẩu dậy vào giờ sáng sớm đó, nhưng khi bọn khỉ đầu chó, vuợn bạc má, vuợn đít đỏ, huơu nai, huơu cao cổ và các con lama (2) là những bọn dậy sớm. Sáng nào cũng vậy, tôi buớc ra khỏi cổng chính với một ấn tượng cuối cùng vừa bình dị vừa không thể nào quên. Đó có thể là hình ảnh bầy rùa xếp lên nhau thành một kim tự tháp, cái mõm óng ánh của một con khỉ đầu chó, dáng im lìm oai vệ của một con hươu cao cổ, cái miệng béo mỡ và vàng óng đang há ra của một con hà mã, một con vẹt macaw đang dùng mỏ và chân từng buớc leo lên hàng rào, tiếng chép miệng lanh lảnh của một con lạc đà. Tất cả những hình ảnh và ấn tuợng ấy kéo qua tâm trí tôi thật nhanh chóng. Chỉ lúc từ trường trở về, tôi mới có thời gian khám phá từ từ những cảm giác khi được một chú voi hít ngửi khắp người một cách thân thiện như thể muốn xin một vài củ lạc có thể có trong túi tôi, hoặc khi một chú khỉ độc vần vò tìm chấy trên đầu tôi, kết thúc bằng một tiếng thở dài khi chẳng thấy món gì chén đuợc. Giá mà tôi có thể truyền đạt được cái hoàn hảo của một con hải cẩu truờn mình xuống nước hoặc của một con khỉ nhện tung người đu từ chỗ này sang chỗ kia, hoặc chỉ đơn thuần là cái vẻ quay đầu của một con sư tử. Ngôn ngữ không thể truyền đạt nổi những cái đó. Tốt hơn cả là khi nào người ta muốn cảm lại đuợc sự hoàn hảo ấy, ta hãy tưởng tượng lại đúng những cảnh đó ở trong đầu.
Trong vườn thú cũng như ngoài thiên nhiên, thời gian tốt đẹp nhất để thăm viếng là bình minh và chiều tà. Đó là lúc hầu hết các loài vật trở nên sinh động nhất. Chúng động cựa và rời nơi ẩn nấp của mình để rón rén đến những mép nuớc. Chúng khoe lông khoe cánh. Chúng hát những khúc hát riêng của mình. Chúng tìm đến nhau và cử hành các nghi lễ của giống loài. Phần thưởng cho những ai biết ngắm nhìn và lắng nghe thật lớn lao. Tôi đã có những giờ phút triền miên không thể đếm được chỉ để im lặng chứng kiến những biểu hiện phong phú và đẹp đẽ cực kỳ của sự sống đã đem phúc lành cho hành tinh của chúng ta. Đó là một cái gì thật tươi sáng, vang dội, kì bí và tinh tế khiến cho các giác quan của ta phải tê dại.
Tôi đã nghe nhiều chuyện phi lí về các vườn thú, cũng nhiều như các chuyện phi lí về Thượng Đế và các tôn giáo. Những người có thiện chí nhưng bị thông tin sai lầm tưởng rằng các loài vật hoang dã ngoài thiên nhiên sống rất "hạnh phúc" bởi vì chúng đuợc "tự do". Khi nói vậy, họ thường nghĩ đến một con thú to lớn và đẹp, ví dụ như sư tử hoặc loài báo cheetah (đời sống của một con sơn duơng hoặc một con thú ăn kiến mõm dài thì ??? có ai muờng tuợng làm gì). Họ tưởng tuợng cảnh con thú hoang dã đó đang thả bộ sau khi đã ăn hết con mồi vừa ngoan ngoãn chấp nhận số phận bị ăn thịt của mình, hoặc đang chạy nhịp nhàng trong tư thế luyện tập để giữ cho cơ thể thon thả sau một bữa ăn quá đà. Họ tuởng tuợng như con thú ấy coi sóc bầy con của nó một cách dịu dàng đầy tự hào, cả gia đình đang cùng nằm trên những cành cây và thoả mãn ngắm nhìn cảnh mặt trời đang lặn. Cuộc sống của loài vật hoang dã thật giản dị, cao thuợng và đầy ý nghĩa, họ tuởng tuợng vậy. Thế rồi những con vật ấy bị bọn người xấu bắt nhốt vào những chuồng lồng nhỏ xíu. "Hạnh phúc" của chúng bị tiêu tan. Chúng khao khát "tự do" và tìm đủ mọi cách để chạy trốn. Bị chối bỏ "tự do" quá lâu, chúng trở thành như những cái bóng của chính mình, tinh thần chúng bị bẻ gẫy. Một số người đã tuởng tượng thế.
Thực tế không phải vậy.
Các loài thú hoang dã có một đời sống khắc nghiệt để sinh tồn trong một kỉ cương xã hội không khoan nhuợng và một môi truờng trong đó nguồn sợ hãi thì nhiều mà nguồn thức ăn thì ít, và chúng phải luôn luôn bảo vệ lãnh địa của mình, suốt đời chịu cảnh rỉa rói của các loài kí sinh. Tự do có nghĩa gì trong hoàn cảnh ấy? Thực tế các loài thú hoang dã không hề đuợc tự do trong không gian, thời gian, và cả trong các quan hệ giữa chúng với nhau. Lý thuyết mà nói, một con vật có thể bỏ bầy đàn mà đi, phớt lờ tất cả những lề thói xã hội và những cương toả vốn có của giống loài. Nhưng chuyện đó hiếm hơn cả khi ta so với chính chúng ta, ví dụ như chuyện một người chủ tiệm chẳng hạn, với tất cả những ràng buộc bình thuờng- với gia đình, bạn bè, xã hội - tự nhiên bỏ tất cả để ra đi với vài đồng bạc lẻ trong túi và bộ quần áo trên người. Nếu một con người, là loài vật thông minh và mạnh dạn nhất, còn không muốn lang thang làm lữ thứ, làm kẻ lạ mặt trong thiên hạ để chẳng có ai mong ai đợi, thì một con thú hoang dã muốn thế làm gì, nhất là khi ta nghĩ rằng loài vật bao giờ cũng bảo thủ hơn nhiều so với loài người. Quả thật loài vật bảo thủ, còn có thể nói là phản động nữa. Chỉ một thay đổi nhỏ xíu thôi cũng khiến chúng lo sợ rồi. Chúng chỉ mong mọi thứ cứ y nguyên như thế, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác. Những điều ngạc nhiên trong các quan hệ về không gian của chúng. Một con vật chiếm cái chỗ ở của nó, cho dù trong vuờn thú hay ngoài hoang dã, cũng giống như một quân cờ chiếm cái chỗ của mình trên bàn cờ, nghĩa là rất trọng đại. Vị trí của con tướng trên bàn cờ ra sao, thì chỗ ở đó của một con thằn lằn, một con gấu hoặc một con huơu cũng như vậy, không hề có tí tự do lựa chọn nào trong việc này. Cả quân cờ và con vật đều bị ràng buộc bởi tình thế và mục đích. Trong hoang dã, các con vật đi theo những đuờng nhất định vì những lý do bắt buộc, mùa này qua mùa khác. Trong vườn thú, nếu một con vật không có chỗ bình thường của nó, với dáng điệu mà nó vẫn có vào giờ đó, thì tức là đã có chuyện. Có thể chỉ là những phản ứng của con vật đối với một thay đổi rất nhỏ trong môi truờng. Một đoạn ống nuớc cuộn tròn bị quên ở ngoài kia khiến cho con vật lo sợ. Một vũng nước vừa đọng làm cho nó không yên. Cái bóng của một cái thang. Nhưng cũng có thể là một nguyên nhân gì khác nghiêm trọng hơn. Mà sợ nhất đối với một người chủ vuờn thú đó có thể thực sự là một "triệu chứng", phải kiểm tra phân con vật ngay, phải hỏi kĩ người chăm sóc con vật đó về mọi chi tiết, phải mời bác sĩ thú y. Tất cả những cái này chỉ vì một con cò không thấy đứng ở chỗ nó vẫn thường đứng.
Nhưng gượm đã, hãy cho phép tôi tiếp tục đề cập đến chỉ một khía cạnh của vấn đề mà ta đang bàn bạc
Nếu như ta vào một nhà nọ, phá cửa trước, rồi đuổi mọi người trong nhà ra ngoài phố và nói " Đi đi! Các người đuợc tự do! Tự do như chim trời! Đi! Đi!" - Liệu họ có nhảy nhót vui mừng hay không? Làm gì mà có chuyện đó. Chim chóc đâu có tự do. Những người mà ta vừa giải phóng ấy sẽ cự lại "Các người có quyền gì mà đuổi chúng ta? Đây là nhà ta. Ta sỡ hữu nó. Ta đã sống ở đây bao nhiêu năm rồi. Ta sẽ gọi cảnh sát. Chúng mày là đồ lưu manh!"
Chúng ta chẳng có câu, Chẳng đâu bằng ở nhà mình đấy ư? Đó cũng chính là cảm thức của loài vật. Chúng có ý thức sâu sắc về lãnh thổ. Lãnh thổ là chìa khóa để hiểu các hành vi của chúng. Chỉ có một lãnh thổ quen thuộc mới cho phép chúng đáp ứng được hai đòi hỏi thường trực của cuộc đời hoang dã: né tránh kẻ thù và kiếm được thức ăn nước uống. Một khuôn viên vườn thú lành mạnh về sinh học - cho dù đó là một cái chuồng, một cái hố, một hòn đảo nhân tạo, một bãi thả, một hồ nước - cũng là một lãnh thổ, chỉ khác về kích thước và sự gần cận với lãnh thổ của loài người. Việc nó rất nhỏ so với hoang dã cũng chẳng có ý nghĩa gì. Các lãnh thổ trong hoang dã rộng lớn không phải do thị hiếu mà là vì bắt buộc. Trong một vườn thú, ta làm cho các con vật điều mà ta làm cho chính chúng ta ở nhà: ta đem vào trong một không gian nhỏ hẹp những thứ nằm rải rác ở khắp thế giới hoang dã. Ngày xưa với chúng ta chẳng hạn, cái hang thì ở đây, dòng sông thì ở đàng kia, chỗ săn bắn thì phải đi hàng dặm, nơi rình mồi ở gần đó, rừng dâu thì lại ở một nơi khác - mà nơi nào cũng đầy rẫy sư tử, rắn rết, kiến, đỉa và lá độc - còn bây giờ thì con sông chảy luôn qua vòi nước có thể với ta là đến và ta có thể tắm rửa ngay cạnh chỗ nằm ngủ, ăn ngay nơi nấu nướng, có thể rào kín tất cả bằng một bức tường bảo vệ, giữ lãnh thổ của ta sạch sẽ và ấm áp. Mỗi ngôi nhà là một lãnh thổ thu nhỏ trong đó các nhu cầu cơ bản của ta được thỏa mãn an toàn và gần gụi. Một khuôn viên trong vườn thú lành mạnh cũng là một ngôi nhà như thế đối với con vật ở trong đó (nhưng không có những thứ như là lò sưởi chẳng hạn). Tìm thấy trong đấy tất cả những gì nó cần - một nơi để canh chừng, một chỗ để nghỉ, để ăn, uống, tắm, chải chuốt... - và thấy không còn cần phải săn mồi nữa vì thức ăn ngày nào cũng có, con vật sẽ chiếm lĩnh một không gian mới trong hoang dã, thăm dò và đánh dấu không gian ấy theo cách thường làm của giống loài mình, chẳng hạn như đánh dấu bằng nước giải. Một khi cái nghi lễ dọn vào đó đã xong và con vật đã ở yên, nó sẽ không cảm thấy như một kẻ thuê nhà hồi hộp, càng không như một tù nhân, mà như một chủ nhà hẳn hoi, và nó sẽ hành xử như hệt khi nó ở ngoài hoang dã, nghĩa là sẽ bảo vệ cái lãnh thổ ấy của nó cho đến cùng nếu bị xâm phạm. Chủ quan mà nói, một khuôn viên như thế không tốt hơn mà cũng chẳng tồi hơn so với một lãnh thổ của con vật ngoài hoang dã. Chừng nào còn đáp ứng được các nhu cầu của con vật, thì một lãnh thổ, hoang dã hay nhân tạo, chỉ đơn thuần là một thực tế, không phải đánh giá gì hết, cũng như những chấm đen trên da con báo mà thôi. Ta cũng có thể lí luận rằng nếu một con vật có thể lựa chọn bằng trí khôn, nó nhất định sẽ chọn cuộc sống trong vườn thú, vì cái khác biệt chính giữa một vườn thú và thế giới hoang dã là vườn thú thì vừa không có kí sinh và kẻ thù lại vừa thừa thãi thức ăn, còn ngoài hoang dã thì ngược lại. Cứ thử nghĩ mà xem,. thà ở khách sạn Ritz với các dịch vụ không mất tiền và tha hồ gọi bác sỹ còn hơn lang thang không nhà và chẳng có ma nào để mắt đến mình. Nhưng các con vật thì không có khả năng phân biệt được như thế. Trong những hạn chế của bản chất mình, chúng thỏa mãn với những gì chúng có mà thôi.
Một vườn thú tốt là một chung cư được tổ chức chu đáo: nơi mà con vật bảo chúng ta Đừng có vào! bằng dấu hiệu nước giải hoặc bài tiết khác, thì chúng ta cũng bảo Đừng có ra! bằng các loại rào chắn của chúng ta. Trong điều kiện như vậy của một nền ngoại giao hoà bình, tất cả các con vật đều hài lòng và chúng ta có thể yên tâm nhìn ngắm lẫn nhau.
Có rất nhiều những câu chuyện trong sách vở về các con vật có thể trốn chạy khỏi vườn thú mà lại không trốn, hoặc trốn rồi lại quay trở về. Có trường hợp một con khỉ độc, cửa chuồng của nó người ta quên không khóa và để mở toang. Con khỉ lo lắng đến nỗi kêu gào thảm thiết và bắt đầu lấy tay đập cánh cửa ầm ầm, cho đến khi người coi chuồng, được 1 khách thăm gọi, vội chạy đến khóa cửa chuồng lại cho nó. Một đàn hươu sao trong 1 vườn thú châu Âu kéo nhau ra khỏi khi trại vì cửa rào không đóng. Những người khách làm cho chúng hoảng sợ chạy vào 1 khu rừng gần đó. Trong khu rừng cũng có hươu sao sống và có thể nuôi dưỡng được đàn hươu này. Thế mà đàn hươu vườn thú lại nhanh chóng tìm đường về trại của mình. Trong một vườn thú khác, một người làm công đang đi đến chỗ làm của mình vào lúc sáng sớm, vác theo các tấm gỗ, thì thình lình thấy 1 con gấu từ đám sương mù buổi sớm bước ra và đi thẳng về phía anh ta. Người ấy vất các tấm gỗ xuống và ù té chạy trốn. Lập tức người ta bổ đi tìm con gấu xổng chuồng. Ho thấy nó đã lại ở trong chuồng, thì ra nó leo ra leo vào nhờ một cành cây mới gẫy. Chắc là tiếng các tấm gỗ rơi xuống đất đã làm con gấu sợ và vội quay lại chỗ ở của nó.
Nhưng tôi không dám khăng khăng đâu. Tôi không định bảo vệ các vườn thú đâu. Nếu muốn thì ta cứ việc đóng cửa tất tật chúng lại (và hy vọng là các loài vật hoang dã có thể sống sót trong những gì còn lại của thiên nhiên ngày nay). Tôi biết rằng các vườn thú không còn là niềm vui của con người nữa. Tôn giáo cũng đang đối mặt với vấn đề này. Có những ảo tưởng nhất định về tự do đang giết chết cả hai.
Vườn thú Pondicherry không còn nữa. Người ta đã lấp hết các hố nuôi, tháo dỡ hết các chuồng trại. Giờ đây, tôi chỉ thám hiểm nó tại một nơi duy nhất còn lại là kí ức của tôi mà thôi.
(1) Nghĩa là "thành phố bách thú" (ND)
(2) Lama: tên một loài lừa có lông giống như lông cừu, cổ dài, đầu nhỏ, gốc gác ở vùng núi cao Peru, Nam Mỹ.
Cái tên tôi chưa phải là kết cục của câu chuyện về cái tên tôi. Khi tên ta là Bob, không ai phải hỏi cái tên ấy viết thế nào. Nhưng với cái tên Piscine Molitor Patel thì là chuyện khác.
Nhiều người tưởng đó là P. Singh (1) và nghĩ tôi là người Sikh, và họ lấy làm lạ sao tôi không đội khăn cuốn lên đầu.
Khi còn học Đại học tôi có đến Montreal 1 lần với mấy người bạn. Có một đêm đến lượt tôi phải đặt mua pizza. Tôi đã phát chán mỗi lần nghe giọng Pháp trên dây nói quát hỏi tên tôi là gì, nên khi người bán hàng hỏi: Thưa ông cho biết tính danh , tôi nói I am who I am. (2) Nửa tiếng sau người ta mang hai cái pizza đến cho ông Ian Hoolihan .
Sự thực là những người ta gặp có thể thay đổi cuộc đời ta, nhiều khi sâu sắc đến mức ta trở thành 1 người khác hẳn, kể cả chính cái tên của ta. Cứ xem thì thấy: Simon trở thành thánh Peter, ông thánh Matthew thì còn có tên là Levi, Nathaniel cũng là Bartholomew, Judas, không phải Iscariot, sau này còn lấy tên là Thaddeus, Simeon thì đội tên Niger, Saul thì thành ra Paul. (3)
Tên lính La Mã của tôi đứng trong sân trường một sáng nọ khi tôi 12 tuổi (4). Tôi vừa mới đến. Hắn thấy tôi và một tia sáng thiên tài ma quỉ chợt lóe lên trong cái trí não đần độn của hắn. Hắn giơ tay chỉ vào tôi và hét lên: Này là thằng Pissing Patel! (5)
Trong giây lát mọi người đều cười váng lên. Người ta chỉ thôi cười khi đã xếp hàng vào lớp. Tôi đi cuối hàng, vòng gai nhọn thít trên đầu. (6)
Chẳng ai lạ gì tính tàn ác của trẻ con. Nào tôi có trêu chọc gì chúng, có làm cái gì khiến chúng phải để ý đến tôi đâu, mà sao khắp sân trường chỗ nào tôi cũng nghe thấy chúng hò hét, nào là Thằng Pissing đây rồi, tao phải đi đây , rồi Mày đang đứng úp mặt vào tường thế kia, có phải mày là thằng Pissing không hở? , đại loại thế. Tôi chỉ biết rùm người một chỗ, hoặc phải tảng lờ như không nghe thấy gì. Những tiếng hò hét ấy rồi cũng qua đi, nhưng nỗi đau đọng lại, như mùi khai của bãi nước đái đã khô.
Rồi đến lượt các thầy giáo. Chắc tại trời nóng quá. Càng về chiều, bài địa lí buổi sáng còn chắc gọn như ốc đảo bắt đầu nhão dài ra như sa mạc Thar; bài lịch sử, sinh động là thế lúc mở đầu nay cũng thành khô nẻ và bốc bụi; bài học toán, lúc đầu chính xác là thế, nay thành be bét lầy lội. trong cơn mệt mỏi buổi chiều, khi họ mãi dùng khăn tay lau mồ hôi trán và gáy, các thầy quên cả cái âm hưởng đầy nước mắt trong cái tên của tôi, và bắt đầu vô tình xuyên tạc nó thậm tệ. Tôi có thể nghe thấy sự thay đổi trong cách phát âm có những uốn éo hầu như không nghe thấy được của họ. Tưởng chừng như lưỡi các thầy là các chiến binh đang phải cầm cương các cỗ chiến xa do bầy ngựa hoang kéo. Họ có thể phát âm rõ cái âm tiết đầu, âm Pit , nhưng rồi vì nóng nực gia tăng, họ không kiểm soát được lũ ngựa sùi bọt mép kia và không thể kiềm cương để chúng leo lên cái âm tiết thứ hai, âm Xin . Thế là họ đâm nhào xuống âm Xinh , và thế là hết. Mỗi lần tôi giơ tay xin phát biểu, họ sẽ bảo Nào, mời em Pit-xinh. . Phần lớn họ cũng chẳng biết vừa gọi tôi là gì nữa. Sau một lúc không thấy tôi nói năng gì, họ sẽ ném vào tôi một cái nhìn mệt mỏi. Và nhiều khi, như thể kiệt sức vì nóng nực, cả lớp cũng chẳng có phản ứng gì. Không ai cười, chẳng ai thì thào trêu ngươi gì hết. Thế mà tôi vẫn luôn luôn nghe thấy một cái gì đó như một lời miệt thị.
Năm cuối cùng ở trường Saint Joseph, tôi cảm thấy như mình là nhà tiên tri Mohammad đang bị hành hạ ở thành Mecca, cầu cho Ngài được yên nghỉ. Nhưng cũng giống như việc Ngài chuẩn bị trốn về vùng Medina, chuyến du hành sẽ trở thành sự khởi đầu của thời đại Hồi giáo, tôi cũng chuẩn bị cho cuộc trốn chạy của mình và khởi đầu một giai đọan mới cho cuộc đời tôi.
Học xong ở trường Saint Joseph, tôi vào trường Petit Seminaire, trường trung học tư thục dùng tiếng Anh tốt nhất ở Pondicherry. Ravi đang học ở đó, và như số phận của tất cả các đứa em trai khác, tôi phải chịu cực hình của việc noi theo dấu chân của một ông anh nổi tiếng. Ravi là một nhà thể thao của thế hệ anh tại Petit Seminaire, một tay bowler (7) đáng sợ và 1 tay bóng chày khiếp đảm, giữ chân thủ quân của đội tuyển bóng chày hay nhất thành phố. Việc tôi là một tay bơi cừ khôi chẳng gây được tiếng tăm gì hết. Hình như có một thứ quy luật là sống ở biển thì người ta nghi ngờ những ai biết bơi, cũng như sống ở núi thì người ta nghi ngờ những ai biết trèo. Nhưng tôi không tính đến việc trốn chạy bằng một cái tên nào khác với Pit-xinh , thậm chí đội tên Em thằng Ravi cũng xong. Tôi có một kế hoạch hay hơn thế.
Và tôi triển khai nó ngay ngày đầu ở trường, ngay trong tiết học đầu tiên. Ngồi quanh tôi là những học sinh khác cũng từ Saint Joseph đến. Tiết học bắt đầu như tất cả các tiết học mới khác, nghĩa là bằng việc điểm danh. Chúng tôi lần lượt xướng tên mình tại chỗ.
Ganapathy Kumar, Ganapathy Kumar nói.
Vi pin Nath , Vipin Nath nói.
Shamshool Hudha , Shamshool Hudha nói.
Peter Dharmaraj , Peter Dharmaraj nói.
Mỗi cái tên xướng lên là 1 cái đánh dấu vào danh sách, kéo theo một cái nhìn chòng chọc của ông thầy. Tôi hồi hộp khủng khiếp.
Ajith Giadson , Ajith Giadson nói, cách tôi bốn bàn...
Sampath Saroja , Sampath Saroja nói, cách ba bàn...
Stanley Kumar , Stanley Kumar nói, còn có hai bàn...
Sylvester Naveen , Sylvester Naveen nói, ngay trước mặt tôi.
Rồi đến lượt tôi. Đã đến lúc giết quỷ Satan. Medina hỡi, ta đến đây rồi.
Tôi đứng dậy và bước vội lên bảng đen. Trước khi ông thầy kịp mở miệng, tôi đã nhặt cục phấn và vừa nói vừa viết:
Tên tôi là
Piscine Molitor Patel
Thường gọi là
tôi gạch đít 2 lần hai chữ đầu tiên của tên tôi
Pi Patel
Để cho chắc ăn, tôi viết thêm:
Pi = 3,14
rồi tôi vẽ một vòng tròn to tướng, chia một nhát thành hai phần với một đường kính thẳng băng, để nhắc đến bài hình học cơ bản.
Cả lớp im phăng phắc. Ông thầy dán mắt lên bảng. Tôi nín thở, rồi ông nói: Được rồi, Pi, em ngồi xuống. Lần sau phải xin phép trước khi lên bảng.
Thưa thầy, vâng ạ.
Ông đánh dấu tên tôi. Rồi đưa mắt đến thằng tiếp theo.
Mansoor Ahamad , Mansoor Ahamad nói.
Tôi thoát rồi.
Gautham Selvaraj , Gautham Selvaraj nói.
Tôi thở được rồi.
Arun Annaji , Arun Annaji nói.
Một sự khởi đầu mới đã đến.
Tôi làm lại cái trò ấy với tất cả các thầy giáo. Lặp đi lặp lại là điều quan trọng trong việc huấn luyện không những với súc vật mà cả với con người. Xen giữa hai thằng học sinh mang những cái tên tầm thường, tôi chạy ào lên bảng và bốc lửa, có khi còn nghe thấy cả tiếng phấn ken két trên bảng, với những chi tiết của cuộc tái sinh cho chính mình. Đến nỗi sau một vài lần như thế, bọn trẻ bắt đầu vào hùa như hát theo sự chỉ huy của tôi, và tiếng chúng vang lên cao trào khi tôi gạch đít cái nốt chính, và tên tôi được hát lên đẹp đẽ chẳng kém gì niềm vinh hạnh cho bất kì một nhà chỉ huy đồng ca nào khác. Một vài thằng còn theo sát tôi, khẩn trương, Ba! Phẩy! Một! Bốn! trong lúc tôi viết con số ấy, và tôi kết thúc bài ca của mình bằng một nét chém chia đôi vòng tròn, mạnh mẽ đến nỗi vụn phấn bay ra tứ tung.
Ngày hôm đó, khi tôi giơ tay xin phát biểu, và tôi không bỏ sót một cơ hội nào để làm việc đó, các thầy đã cho phép tôi được nói với một âm tiết duy nhất vang lên như âm nhạc trong tai tôi. Kể cả lũ quỷ sứ từ Saint Joseph sang. Sự thực là, cái tên ấy sống rồi. Và hiện tượng này đã khích lệ các thành viên khác của dân tộc thông minh chúng tôi: chẳng mấy chốc, một thằng tên là Omprakash đã tự gọi mình là Omega, một thằng khác bắt đầu đội tên Upsilon, rồi tiếp theo đó là một thằng Gamma, 1Lambda và 1 Delta. Nhưng tôi đã là người đầu tiên và là người Hy Lạp kiên trì nhất ở Petit Seminaire. Thậm chí ông anh tôi, thủ quân đội bóng chày, ông thánh địa phương, cũng tán thưởng tôi. Ravi kéo tôi ra một chỗ:
Này, tao nghe mày mới có tên hiệu gì đó hả?
Tôi lặng im. Bởi vì hễ phải nghe một lời giễu cợt thì kiểu gì cũng chẳng ngăn chặn nó được. Không thể chạy đi đâu được.
Tao không biết là mày thích màu vàng đến thế.
Màu vàng? Tôi nhìn quanh. Lạy trời đừng ai nghe thấy, nhất là bọn tay sai của Ravi. Ravi, anh định nói gì cơ? Tôi thì thầm.
Không sao, chú em. Tên gì thì cũng hơn là Pit-xinh. Kể cả Lemon Pie . (8)
Chậm rãi quay gót, Ravi mỉm cười và nói: Mày hơi đỏ mặt rồi đấy.
Nhưng không gây sự gì khác.
Và thế là, trong cái con chữ Hy Lạp trông giống như một cái lều có mái tôn ấy, trong cái con số phi lí, không nắm bắt được, mà các nhà khoa học dùng để tìm hiểu vũ trụ ấy, tôi đã tìm thấy nơi ẩn nấp của mình.
Chú thích
(1) piscine nghĩa là bể bơi trong tiếng Pháp, và phát âm là pít-xin . Nhưng nhiều người nghe thành pi-xinh (P. Singh), là tên 1 họ phổ biến của người Sikh tại Ấn Độ. Rắc rối nhất là khi người ta gọi nhân vật của chúng ta là pít-xinh , âm của chữ pissing trong tiếng Anh, nghĩa là đang đi đái, đi tiểu tiện
(2) I am who I am - Tôi là cái thằng tôi , phát âm là ai-em-hu-ai-em , và người bán hàng nghĩ đây là âm thanh của tên Ian Hoolihan cũng có âm thanh tương tự. Montreal là vùng dân cư Cananda nói tiếng Pháp, nên việc nghe nhầm các âm thanh trong tiếng Anh là rất dễ xảy ra.
(3) Tất cả những tên này là của các môn đồ của Chúa Jesus, lúc chưa đi theo Jesus thì có 1 tên, khi đã thành môn đồ thì được đặt tên khác, rồi khi hiển thánh thì lại có tên khác nữa.
(4) Nhân vật của chúng ta có ý ví mình với Jesus một cách hài hước. Jesus bị lính La Mã bắt và đưa đi đóng đanh câu rút với 1 cái biển đề giễu cợt tên này là vua của dân Do Thái đây
(5) Cũng như thể là Này là thằng Patel đái dầm , hoặc Patel đang tè , chữ pissing nghĩ là đang đái
(6) Jesus bị lính La Mã đội lên đầu 1 vòng gai nhọn, giễu cợt là mũ triều thiên của Vua Do Thái . Câu này ám chỉ Patel cảm thấy đau đớn cũng như đội vòng gai nhọn của Jesus.
(7) Bowler: môn bóng lăn trong nhà rất fổ biến ở Âu Mỹ.
(8) Lemon Pie, có nghĩa là 1 món bánh nướng có chanh yên. Lemon là quả chanh có màu vàng. Chữ p trong tiếng Anh thường đọc là pai . Ravi có lẽ nghe gà hóa cuốc và tưởng rằng em mình đã có biệt hiệu như vậy. Chương này có ý vị đặc biệt đvới người nói tiếng Anh, hy vọng cách dịch này không để mất mát nhiều những ẩn ý tôn giáo và hài hước của nguyên tác.
Anh là một người nấu ăn giỏi. Căn nhà luôn sưởi ấm quá mức của anh lúc nào cũng sực nức mùi thức ăn hấp dẫn. Giá để gia vị của anh trông giống như tủ thuốc của một nhà bào chế. Khi anh mở tủ lạnh hoặc chạn thức ăn, có nhiều nhãn hiệu mà tôi không hiểu gì cả, thậm chí không biết chúng là tiếng nước nào. Anh nấu các món Âu Mỹ cũng thành thạo như các món Ấn Độ. Anh làm cho tôi món mỳ ống pho-mát ngon và tinh tế chưa từng thấy. Món bánh tráng kẹp nhân rau chay anh làm có thể là nỗi ghen tị của cả xứ Mexico.
Tôi còn để ý thấy một điều: chạn thức ăn của anh đầy ắp. Ngăn nào, khoang nào cũng chất hàng núi các loại hộp và gói giấy. Một kho lương thực có thể sống qua cuộc phong tỏa Leningrad
Tôi có cái may được học một số thầy giáo giỏi trong thủa thiếu thời, những người này, cả đàn ông và đàn bà, đã thâm nhập vào cái đầu tôi và đánh lên một que diêm. Một trong số họ là ông Satish Kumar, thầy dạy môn sinh học ở trường Petit Seminaire và là một người cộng sản tích cực luôn hy vọng Tamil Nadu sẽ thôi bầu các minh tinh màn bạc lên nắm chính quyền và theo gương xứ Kerala. Ông có bề ngoài rất đặc biệt. Đỉnh đầu ông hói và nhọn lại có những ngấn sệ dưới cằm rất kì, rồi đôi vai hẹp chạy xuôi xuống cái bụng khổng lồ như cái chân núi, chỉ tội là quả núi ấy lại lơ lửng trên không, vì cái bụng phệ đột ngột biến mất theo chiều ngang vào hai cái ống quần. Điều bí ẩn đối với tôi là không biết đôi chân khẳng khiu ấy chống đỡ cái khối nặng thân hình ông bằng cách gì, nhưng chúng đỡ được, mặc dù đôi lúc chúng chuyển động rất lạ, như thể hai đầu gối ông cứ cong ra cong vào theo các hướng khác nhau. Cơ thể ông cấu tạo theo kỉ hà học: trông ông như hai tam giác, cái nhỏ cái to, thăng bằng trên hai đường kẻ song song. Nhưng sinh động, còn sần sùi là đằng khác, với những túm lông đen tua tủa đâm ra từ hai lỗ tai. Và thân thiện. Nụ cười ông dường như chiếm hết đáy của cái đầu hình tam giác.
Ông Kumar là người vô thần nhiệt thành đầu tiên mà tôi từng biết. Tôi phát hiện điều này không phải trong lớp học mà là ở vườn thú. Ông ta là vị khách thường xuyên, là người đọc kĩ hết các bảng mô tả và khâm phục tất cả các con vật mà ông đã thấy. Với ông, con vật nào cũng là một chiến thắng của logic và cơ giới, và thiên nhiên nói chung là một minh họa tuyệt hảo của khoa học. Trong tai ông, khi một con vật cảm thấy động lực giao phối, nó nói Gregor Mendel , nhắc đến vị cha đẻ của ngành di truyền học, còn khi đến lúc khoe lông khoe sức của mình thì là Charle Darwin , cha đẻ của thuyết chọn lọc tự nhiên, và những gì mà chúng ta coi là những tiếng hí, gầm, rú, rít, khịt, hót, hét... thì với ông là những âm hưởng của các ngoại ngữ thật sự. Khi ông Kumar đến thăm vườn thú, đó là để bắt mạch vũ trụ, và trí khôn thăm dò của ông luôn luôn khẳng định với ông rằng mọi vật có trật tự, rằng mọi vật là trật tự. Ông rời vườn thú với cảm giác được tươi mới trở lại một cách khoa học.
Lần đầu tiên tôi thấy khuôn hình tam giác của ông đang thao thao bất tuyệt về vườn thú, tôi không dám đến gần ông. Tôi ưa thích ông trong tư cách một thầy giáo bao nhiêu thì tôi cũng e dè ông như thần dân đối với quan phụ mẫu bấy nhiêu. Quả thật tôi có sợ ông chút ít. Tôi quan sát ông từ xa. Ông đã vừa đi đến chỗ hố nuôi tê giác. Hai con tê giác Ấn Độ là trung tâm thu hút khách đến xem nhờ có lũ dê. Tê giác là loài vật cần có giao tiếp xã hội. Khi chúng tôi có được Peak, một con tê giác đực còn non, nó có biểu hiện buồn chán vì bị cách ly và ngày càng bỏ ăn. Trong khi chưa tìm được một con tê giác cái, cha tôi muốn áp dụng một biện pháp tức thời và nghĩ đến việc thử xem Peak có chịu sống chung với một bầy dê hay không. Nếu nó chịu, chúng tôi sẽ cứu được một con vật quý. Còn không thì cũng chỉ mất một vài con dê. Thật tuyệt vời. Peak và bầy dê không rời nhau nửa bước, ngay cả khi có Summit về sống cùng. Lúc bấy ngờ, khi cặp tê giác tắm dười nước thì bầy dê đứng xung quanh mép hồ, còn khi dê ăn ở góc của chúng, Peak và Summit đứng ngay cạnh như thể canh gác cho bạn. Dân chúng đi xem rất khoái cảnh chung sống này.
Ông Kumar ngẩng lên và thấy tôi. Ông mỉm cười, một tay vịn hàng rào, tay kia vẫy tôi lại gần.
Chào Pi, ông nói.
Chào thầy ạ. Thầy đến thăm vườn thú thế này thật tốt quá.
Tôi vẫn thường đến mà. Có thể nói đây là ngôi đền của tôi. Thật là thú vị kìa... Ông đang nói về đám tê giác và dê. Nếu chúng ta có các nhà chính trị như những con dê và tê giác kia, đất nước sẽ đỡ linh tinh lắm. Không may là chúng ta lại có một ngài thủ tướng có đủ hết bộ giáp trụ của tê giác nhưng thiếu hết những ý thức tốt đẹp của nó.
Tôi có biết gì nhiều về chính trị đâu. Cha với mẹ tôi luôn luôn phàn nàn về bà Gandhi, nhưng chuyện đó chẳng có ý nghĩa gì mấy đối với tôi. Bà Gandhi sống mãi tận miền Bắc, đâu có ở trong vườn thú mà cũng chẳng ở Pondicherry. Dù sao tôi thấy mình cũng phải nói cái gì đó.
Tôn giáo sẽ cứu chúng ta, tôi nói. Từ khi tôi có trí nhớ, tôn giáo đã rất gần gụi trong tôi.
Tôn giáo? Ông Kumar cười ngoác miệng. Tôi không tin vào tôn giáo. Tôn giáo là tăm tối.
Tăm tối? Thật khó hiểu. Tôi nghĩ không thể thế được. Tôn giáo là ánh sáng. Liệu ông ta có đang thử tôi không đây? Liệu ông có đang nói Tôn giáo là tăm tối theo kiểu đôi khi ông nói ở trên lớp, ví dụ như Các loài có vú đẻ trứng , chỉ cốt để xem có ai bẻ lại không mà thôi.
Không có lí do gì để đi quá cách giải thích của khoa học và không có lí lẽ lành mạnh nào để tin vào bất kì cái gì ngoài những trải nghiệm giác quan của chúng ta. Chỉ cần một đầu óc sáng sủa một chút, một ý thức quan sát các chi tiết và một chút hiểu biết khoa học cũng đủ lột trần tôn giáo như một thứ dị đoan vô bổ. Không, làm gì có Thượng đế.
Có đúng là ông ấy nói vậy không? Hay là tôi đang nhớ lại những lời của các nhân vật vô thần khác về sau này? Dù sao những lời ấy cũng là một cái đó. Trước đấy, tôi chưa bao giờ nghe những thứ tương tự như thế.
Tai sạo phải chịu đựng tăm tối. Mọi vật đều ở ngay đây, rõ ràng, chỉ cần ta nhìn cho cẩn thận.
Ông chỉ con Peak. Ấy, dù tôi vẫn rất khâm phục Peak, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng một con tê giác cũng là một cái bóng đèn sáng.
Ông nói tiếp: Có người nói Thượng đế đã chết trong thời chia cắt đất nước ta hồi 1947. Ông ấy cũng có thể đã chết trong chiến tranh nằm 1971. Hoặc qua đời ngay hôm qua thôi trong một trại mồ côi ở Pondicherry này. Đấy là những gì người ta nói, Pi ạ. Khi tôi bằng tuổi em, tôi sống trên giường, mắc bệnh bại liệt. Ngày nào tôi cũng hỏi, Thượng đế ở đâu? Thượng đế ở đâu? Thượng đế ở đâu? Thượng đế chẳng bao giờ đến. Không phải Thượng đế cứu sống tôi, mà là y học. Lí trí là nhà tiên tri của tôi và nó bảo tôi rằng khi chiếc đồng hồ ngừng chạy, là chúng ta chết. Là hết. Nếu chiếc đồng hồ không chạy tốt, phải chữa nó ngay. Một ngày nào đó chúng ta sẽ chiếm hữu được các công cụ sản xuất và sẽ có công lý trên trái đất này.
Điều đó hơi quá đối với tôi. Giọng nói thì vừa phải - có tình và can đảm - nhưng các chi tiết có vẻ nhợt nhạt. Tôi lặng thinh. Không phải vì sợ phật lòng ông Kumar. Điều tôi sợ hơn là trong một vài lời thôi ông có thể sẽ phá hủy hết những gì tôi đã yêu. Nhỡ những lời ông nói lại khiến cho tôi mắc bệnh bại liệt thì sao nào? Căn bệnh đó hẳn phải khủng khiếp lắm vì nó có thể giết chết cả Thượng đế trong lòng một con người.
Ông bước đi, khập khà khập khiễng trên mặt biển hoang dại vốn chỉ là mặt đất yên ổn dưới chân. Đừng quên bài kiểm tra ngày thứ Ba nhé. Học cho tốt, 3.14 nhé!
Vâng, thưa thầy Kumar.
Ông trở thành thầy giáo tôi ưa thích nhất ở Petit Semiraire và là lí do khiến tôi theo học ngành động vật học Toronto. Tôi cảm thấy có mối thân tình với ông. Đó là cái đầu mối tiên khởi cho tôi hiểu rằng những người vô thần là anh chị em có một niềm tin khác của tôi, rằng mỗi lời họ nó đều là những lời nói của niềm tin. Cũng như tôi, họ đi đến tận cùng trên đôi chân của lí trí - rồi cất bước nhảy theo lòng tin.
Tôi phải trung thực về chuyện này. Những người vô thần không làm tôi khó chịu, mà là những kẻ hoài nghi. Tính hoài nghi cũng có công dụng, nhưng cho một lúc thôi. Chúng ta ai cũng phải qua chỗ Đồi Sọ (1). Nếu Đấng Christ còn phải chơi với hoài nghi, thì chúng ta tất cũng đều phải vậy. Nếu Đấng Christ đã phải qua một đêm cầu nguyện khẩn thiết trong đau khổ, nếu Người đã kêu lên trên thập giá: Cha ơi, Cha ơi, sao Cha nỡ bỏ con? , thì tất nhiên chúng ta ai cũng có quyền nghi hoặc. Nhưng chúng ta phải bước tới. Lấy hoài nghi làm triết lí sống ở đời thì cũng như lấy sự bất động làm phương tiện giao thông vậy.
Tôi đã học được bài học rằng một con vật là một con vật, cơ bản và thực tế là khác hẳn chúng ta, những hai lần: một lần với cha tôi, và một lần với Richard Parker.
Đó là một buổi sáng Chủ Nhật. Tôi đang tha thẩn chơi một mình thì cha tôi gọi.
“Các con, hãy ra đây.”
Có chuyện gì rồi. Giọng nói của cha làm reo một cái chuông báo động tí tẹo trong đầu tôi. Tôi vội kiểm điểm lại lương tâm. Không có gì cả. Chắc hẳn phải là Ravi thôi. Không biết Ravi có chuyện gì đây. Tôi bước vào phòng khách. Mẹ ở đó. Không bình thường chút nào. Việc kỷ luật con cái, cũng giống như việc chăm sóc súc vật, thường chỉ là việc của cha. Ravi vào cuối cùng, mặt đầy vẻ tội lỗi.
“Ravi, Piscine, cha có một bài học rất quan trọng cho các con hôm nay.”
“Ôi, có thực cần thiết không mình?” Mẹ nói. Mặt mẹ ửng đỏ.
Tôi nuốt nước bọt. Nếu mẹ, thường bình tĩnh và thản nhiên là thế, mà bây giờ có vẻ lo lắng đến độ bực bội thế kia, thì có nghĩa là có chuyện gì nghiêm trọng thật rồi. Tôi và Ravi lén nhìn nhau.
“Có. Rất cần.” Cha nói, có vẻ khó chịu. “Bài học này có thể sẽ cứu mạng sống của chúng.”
Cứu mạng sống của chúng tôi! Cái chuông báo động trong đầu tôi không còn bé tí tẹo nữa, nó trở thành quả chuông khổng lồ, giống như quả chuông của ngôi nhà thơ Tâm Thiêng của Giáo hội Jesus mà chúng tôi vẫn nghe thấy, không xa vườn thú là mấy.
Mẹ vẫn chưa chịu: “Piscine? Nó mới lên tám.”
“Nó là đứa mà tôi lo lắng nhiều nhất.”
“Con vô tội!” Tôi òa lên. “Lỗi ở anh Ravi hết, gì cũng là lỗi của anh ấy hết ạ!”
“Cái gì?” Ravi kêu. “Con có làm cái gì sai trái đâu cơ chứ.” Rồi anh nhìn tôi hằn học.
“Lặng im nào!” Cha tôi nói, giơ tay lên. Cha đang nhìn thẳng vào mẹ. “Gita, em đã thấy Piscine rồi đấy. Nó đang tuổi với bọn nhóc suốt ngày loăng quăng và thọc mũi vào khắp mọi nơi.“
Tôi ư? Một thằng loăng quăng? Một thằng thọc mũi vào khắp mọi nơi? Đâu có phải thế? Không phải thế! Mẹ ơi, hãy bảo vệ con đi mẹ, tôi khẩn khoản trong lòng. Nhưng mẹ chỉ thở dài và gật đầu, dấu hiệu cho thấy cái việc khủng khiếp kia sẽ được thi hành.
"Đi theo cha.“
Chúng tôi đi như một bọn tử tù ra pháp trường.
Chúng tôi ra khỏi nhà, bước qua cổng, vào vườn thú. Hãy còn sớm và vườn thú còn chưa mở cửa cho công chúng vào.
Những người coi thú và làm vườn đang làm các công việc của họ. Tôi thấy Sitaram, người trông nom bọn khỉ độc, người tôi có cảm tình nhất. Anh đang dừng tay đưa mắt nhìn theo chúng tôi. Chúng tôi đi qua khu chuồng chim, gấu, khỉ độc, khỉ con, tê giác, voi, hươu cao cổ. Chúng tôi đến chỗ hổ, sư tử và báo hoa. Bubu, người chăm sóc chúng, đang chờ ở đó. Chúng tôi đi vòng xuống con đường quanh chuồng, và anh mở khóa cánh cửa dẫn vào chuồng, nằm trên một hòn đảo nhỏ giữa hào nước. Chúng tôi bước vào. Đó là một cái hang xi-măng rộng và tối, hình tròn, nóng và ẩm, sặc mùi nước đái hổ. Khắp xung quanh là những chuồng lớn ngăn với nhau bởi những song sắt to vật sơn xanh lá cây. Một luồng ánh sáng vàng vọt lọt xuống từ những ổ cửa trên trần. Qua các lối ra của chuồng, chúng tôi có thể nhìn thấy cây cối trên đảo, tràn ngập ánh mặt trời. Các ngăn chuồng rỗng không – trừ một ngăn: Mashisha, con hổ Bengal đầu đàn của chúng tôi, một con vật dài rộng và to lớn, nặng gần hai tạ rưỡi, đang bị nhốt trong chuồng. Đúng lúc chúng tôi bước vào, nó đứng dựa vào các chấn song và bắt đầu gầm gừ rất sâu trong cổ, cặp tai nó ép sát vào đầu và đôi mắt tròn xoe dán chặt vào Babu. Tiếng gầm gừ của nó to và vang đến nỗi tưởng như làm cả khu chuồng rung lên. Đầu gối tôi bắt đầu run. Tôi nép vào mẹ. Mẹ cũng run. Ngay cha tôi cũng có vẻ đang trấn tĩnh lại. Chỉ có Babu vẫn tỉnh bơ như không trước tiếng gầm và cái nhìn xoáy vào anh ta như lưỡi khoan. Anh đã được thử thách để tin tưởng vào các chấn song sắt. Mashisha bắt đầu đi đi lại lại trong giới hạn của chuồng.
Cha quay sang chúng tôi. "Con vật gì đây?” Cha quát để át được tiếng gầm gừ của Mashisha.
“Dạ, con hổ ạ,” Ravi và tôi đồng thanh, ngoan ngoãn chỉ ra điều hiển nhiên không thể nhầm lẫn.
“Hổ có nguy hiểm không?”
“Thưa cha có ạ, hổ nguy hiểm ạ.”
“Hổ rất nguy hiểm,” cha hét lên. “Cha muốn các con hiểu rằng không bao giờ, trong bất cứ hoàn cảnh nào, được chạm đến một con hổ, vuốt ve một con hổ, thò tay qua song sắt chuồng hổ, và ngay cả đến gần một cái chuồng hổ. Đã rõ chưa? Ravi?”
Ravi gật đầu lia lịa.
“Piscine?”
Tôi gật đầu còn lia lịa hơn.
Cha nhìn tôi chằm chặp.
Tôi gật đầu mạnh đến nỗi lấy làm ngạc nhiên sao chưa bị gẫy cổ và rơi đầu xuống sàn lúc đó.
Tôi muốn có vài lời tự bạch rằng, mặc dù tôi có thể đã nhân cách hóa các con vật đến mức chúng có thể nói trôi chảy được tiếng Anh, với đám chim trĩ than phiền bằng giọng quý phái Anh chính hiệu rằng trà của chúng nguội quá, và bọn khỉ đầu chó bàn bạc kế hoạch chạy trốn sau khi cướp nhà băng bằng giọng găng-tơ Mỹ đặc sệt, nhưng tôi lúc nào cũng tỉnh táo và ý thức được rằng đó chỉ là những huyễn hoặc mà thôi. Tôi hoàn toàn cố tình khoác cho những con vật hoang dã những bộ cánh hiền lành của trí tưởng tượng. Song tôi không bao giờ mụ mị đến hoang tưởng về bản chất thực của chúng. Cái mũi thọc mạch của tôi tỉnh táo hơn thế. Không hiểu sao mà cha tôi lại nghĩ rằng đứa con út của ông lại có thể ngứa ngáy đến mức bước chân vào chuồng một con thú dữ ăn thịt được kia chứ. Nhưng cho dù nỗi lo lạ lùng ấy của cha có nguồn gốc ở đâu đi nữa – mà cha là người cả lo – rõ ràng là ông đã quyết tâm phải trừ bỏ mối này trong buổi sáng hôm đó.
“Để cha cho các con thấy loài hổ nguy hiểm đến mức nào,” cha tiếp tục nói. “Cha muốn các con ghi nhớ bài học này suốt đời.”
Cha quay sang gật đầu với Babu. Babu đi ra. Mashisha đưa mắt nhìn theo anh ta và không chịu rời khỏi đầu của mà Babu vừa đi qua. Vài giây sau, Babu trở lại, vác theo một con dê đã trói hết chân vào với nhau. Mẹ ôm lấy tôi từ phía sau. Tiếng gầm gừ của Mashisha biến thành một tiếng tru ầm ào sâu tít bên trong cổ.
Babu mở khoá, mở cửa, bứơc vào, khép và khóa cửa một ngăn chuồng ngay cạnh chuồng Mashisha. Hai ngăn cách nhau bằng các sập cửa và các chấn song. Mashisha lập tức bám vào hàng chấn song đó, cào cấu chúng. Nó bắt đầu thêm vào tiếng gầm gừ kéo dài những tiếng hộc mạnh mẽ như có thuốc nổ. Babu đặt con bê xuống sàn; hai bên sườn con vật phập phồng dữ dội, lưỡi nó thè lè khỏi mồm, và mắt nó trợn ngược. Babu cởi trói cho con dê. Nó đứng lên. Babu ra khỏi chuồng cũng thận trọng như khi vào. Ngăn chuồng đó có hai mức sàn, một mức ngang với chỗ chúng tôi đang đứng, một mức nữa ở phía sau, cao hơn độ một thước, dẫn ra phía ngoài đảo. Con dê lập cập trèo lên sàn trên. Mashisha, không để ý gì đến Babu nữa, chuyển động trong căn chuồng của nó theo bước đi của con dê trong một dáng điệu uyển chuyển như nước chảy. Nó phủ phục và nằm im, cái đuôi đung đưa chậm rãi là dấu hiệu căng thẳng duy nhất.
Babu bước lên chỗ cái cửa sập ngăn giữa hai căn chuồng và bắt đầu kéo nó lên. Biết là sắp được thỏa mãn, Mashisha im phăng phắc. Tôi nghe thấy hai thứ vào giây phút đó: cha nói: “Đừng bao giờ quên bài học này” trong khi ông nhìn lên một cách nghiêm nghị; và tiếng kêu be be của con dê. Chắc nó đã kêu lảnh lót như vậy ngay từ đầu, chỉ có điều đến lúc ấy tôi mới nghe thấy.
Tôi thấy bàn tay mẹ áp chặt lên chỗ tim tôi đang đập thình thịch.
Cái cửa sập kêu rít lên mấy tiếng. Mashisha không tự chủ được nữa – trông có vẻ như sắp nổ tung qua các chấn song sắt. Nó có vẻ lưỡng lự, không biết nên ở nguyên tại chỗ, gần chỗ con mồi nhất nhưng lại không thể với được tới, hay là chuyển xuống sàn dưới, xa con mồi hơn nhưng lại gần cái cửa sập hơn. Nó vươn người lại và bắt đầu gầm gừ.
Con dê bắt đầu nhảy. Nó nhảy cao lạ lùng. Tôi không ngờ dê lại có thể nhảy cao đến thế. Song phía sau căn chuồng là một bức tường xi măng cao và nhẵn nhụi.
Thình lình, cánh cửa sập nhẹ nhàng trượt lên. Rồi yên lặng trở lại, chỉ nghe tiếng con dê kêu và tiếng móng chân nó gõ liên hồi xuống sàn.
Một dòng thác màu đen và da cam chảy ào từ căn chuồng nay sang căn chuồng kia.
Bình thường, người ta không cho hổ báo ăn một ngày mỗi tuần, để mô phỏng theo điểu kiện sống của chúng ngoài hoang dã. Về sau chúng tôi được biết là cha đã ra lệnh bỏ đói Mashisha trong 3 ngày liền.
Không biết là tôi có nhìn thấy máu trước khi nhào vào lòng mẹ hay là tôi đã vẽ ra máu trong kí ức mình sau này bằng những nét bút lông to bè. Nhưng mà tôi nghe thấy. Đủ hãi hùng để thổi tắt ngấm những tia sáng của sự sống chỉ biết ăn chay ra khỏi linh hồn tôi. Mẹ lập cập ôm lùa chúng tôi ra khỏi đó. Chúng tôi sợ phát cuồng. Mẹ tức giận thật sự.
“Sao anh có thể thế được, anh Santosh? Chúng nó chỉ là trẻ con! Anh đã làm chúng sợ hãi đến hết đời!”
Giọng mẹ nóng giận và run rẩy. Tôi thấy cả nước mắt đọng trong mắt mẹ. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn.
“Gita, con chim nhỏ của anh, cũng là vì chúng mà thôi. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Piscine thò tay qua chấn song chuồng hổ một ngày nào đó để vuốt ve bộ lông da cam đẹp đẽ kia? Thà mất con dê còn hơn, phải không nào?”
Giọng cha êm, gần như thì thầm. Trông cha rất căng thẳng. Cha chưa khi nào gọi mẹ là “con chim nhỏ của anh” trước mặt chúng tôi.
Anh em tôi quấn chặt lấy mẹ. Cha ôm lấy chúng tôi. Nhưng bài học chưa hết, mặc dù phần sau có vẻ nhẹ nhàng hơn.
Cha dẫn chúng tôi tới chỗ sư tử và báo.
“Có một người mất trí ở Australia có võ karate đến hắc đai. Hắn ta muốn chứng tỏ sức mạnh của mình với sư tử. Hắn thua. Thậm tệ. Người ta chỉ tìm thấy một nửa thi thể của hắn vào sáng hôm sau.”
“Vâng, thưa cha.”
Đến bọn gấu Hymalaya và gấu cu li.
“Chỉ một nhát cào của các con vật củ mỉ cù mì kia cũng đủ ruột gan các con lòi đầy mặt đất.”
“Vâng, thưa cha.”
Bọn hà mã.
“Với cái mõm mềm mại và mỡ màng kia, chúng sẽ nghiền nát thân thể các con thành một đống bầy nhầy. Lên cạn, chúng chạy còn nhanh hơn các con.”
“Vâng, thưa cha.”
Bọn linh cẩu.
“Những bộ hàm khoẻ nhất trong thiên nhiên. Đừng tưởng chúng hèn nhát hoặc chỉ biết ăn thịt chim chóc. Chúng không nhát và không ăn thịt chim! Chúng sẽ ăn ngay các con khi các con vẫn còn sống hẳn hoi.”
“Vâng, thưa cha.”
Bọn khỉ độc.
“Khỏe bằng mười người. Chúng bẻ xương các con như bẻ que. Cha biết vài con đã từng được nuôi chơi trong nhà và các con đã từng đùa rỡn với chúng khi chúng còn bé. Nhưng bây giờ chúng đã lớn, hoang dại và khó lường.”
“Vâng, thưa cha.”
Bọn đà điểu.
“Trông xơ xác và ngốc nghếch, phải không nào? Hãy nghe đây: chúng là một trong những loài vậy nguy hiểm nhất trong vườn thú. Chỉ một cú đá của chúng thôi là đủ bẻ gẫy xương sống xương sườn của con rồi.”
“Vâng, thưa cha.”
Bon hươu sao.
“Thật xinh đẹp, phải không nào? Nếu các con đực cảm thấy cần thiết, nó sẽ tấn công các con và những nhánh sừng ngắn ngủi kia sẽ xuyên thủng các con như dao găm vậy.”
“Vâng, thưa cha.”
Bọn lạc đà Arập.
“Một miếng đớp của nó thôi là các con đi toi mảng thịt xương rồi.”
“Vâng, thưa cha.”
Bọn thiên nga đen.
“Với những cái mỏ kia, chúng sẽ bổ vỡ sọ các con. Và sẽ bẻ chân tay các con bằng những đôi cánh của chúng.”
“Vâng, thưa cha.”
Bọn chim lau nhau.
“Chúng sẽ cắt đứt ngón tay của các con bằng mỏ nhọn như thể tay các con là bơ vậy.”
“Vâng, thưa cha.”
Lũ voi.
“Con vật nguy hiểm nhất tất cả. Trong vườn thú voi là con vật đã giết chết nhiều người làm và khách tham quan nhất. Một con voi non sẽ có thể xé rời chân tay và giày xéo thân thể các con thành bẹp gí. Đó là số phận của một người làm trong một vườn thú bên châu Âu, đã dám trèo vào chuồng voi qua một cửa sổ. Một con voi chín chắn hơn, bình tĩnh hơn, sẽ nghiền nát các con vào tường hoặc ngồi lên các con. Nghe thì buồn cười đấy - những hãy nghĩ mà xem!”
“Vâng, thưa cha.”
“Còn nhiều các con chúng ta không thể đến được. Đừng tưởng chúng vô hại. Sinh vật nào cũng biết tự vệ, không kể to nhỏ. Con vật nào cũng dữ tợn và nguy hiểm cả. Nó có thể không giết chết các con, nhưng chắc chắn sẽ làm các con thương tổn. Nó sẽ cào cấu, cắn xé và các con chỉ việc đợi đó để bị nhiễm trùng, sưng tấy và đầy mủ, rồi thì sốt cao và mười ngày trong bệnh viện.
“Vâng, thưa cha.”
Chúng tôi đến chỗ bọn chuột khoang, loài vật duy nhất bị cha tôi ra lệnh bỏ đói cùng với Mashisha. Chúng không được ăn bữa tối hôm trước. Cha mở khoá chuồng. Ông lấy ra một túi đồ ăn trong túi quần và dốc hết xuống sàn.
“Các con thấy những con chuột khoang này chứ?”
“Vâng, thưa cha.”
Các chú chuột run rẩy vì mệt khi chúng hối hả gậm nhấm những hạt ngô.
“Này, này… cha cuối xuống bế một con lên tay. Chúng không nguy hiểm đâu.” Đám chuột chảy tản ra ngay lập tức.
Cha cười. Ông đưa cho tôi con chuột khoang đang còn kêu lí nhí. Ông đã chuẩn bị cho bài học kết thúc một cách nhẹ nhàng.
Con chuột khoang căng thẳng nép mình trong cánh tay tôi. Một con còn non. Tôi bước đến chuồng và thận trọng đặt nó xuống sàn. Nó chạy vụt đến bên mẹ nó. Lí do duy nhất khiến những con chuột khoang này không gây nguy hiểm – nghĩa là không gây đổ máu bằng răng và móng của chúng – là chúng thực sự đã đựơc thuần hóa. Nếu không, túm một con chuột khoang hoang dã bằng đôi bàn tay trần sẽ giống như túm một con dao đằng lưỡi.
Bài học kết thúc. Ravi và tôi nín lặng và né tránh cha suốt một tuần. Mẹ cũng lờ cha đi. Khi tôi đi qua chỗ bọn tê giác, tôi tưởng tượng rằng chúng đang cúi đầu buồn bã vì đã mất một trong số những bạn bè thân thiết của chúng.
Nhưng biết làm sao được khi ta yêu quý cha? Cuộc sống cứ tiếp tục và ta đừng có mà chạm đến hổ. Chỉ trừ có chuyện là tôi đã trót đổ tội vu vơ cho anh Ravi sáng hôm đó và bây giờ thì coi như đã chết rồi. Trong nhiều năm sau, khi Ravi muốn khủng bố tôi, anh sẽ rít lên khe khẽ vào tận tai tôi, “Hãy cứ đợi cho đến khi chỉ còn mày với tao. Mày sẽ là con dê tiếp theo đấy!”
Chú thích
(1): Đồi Sọ, nguyên văn Gethsemane, (theo bản dịch Tân Ước của Phan Khôi) là tên quả đồi nơi Jesus ẩn trốn và cầu nguyện trước khi bị quân La Mã bắt.
(2): Chữ Latinh, nghĩa là con vật mang hình người
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com