Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

QUẢN LÝ LỚP HỌC BẰNG CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỶ LUẬT TÍCH CỰC

Thực hiện: GV Lê Hoài Nhân
Đơn vị:THPT Long Thành

I. Khái quát về phương pháp giáo dục học sinh bằng biện pháp kỷ luật tích cực
1. Khái niệm
– Giáo dục kỷ luật dựa trên nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của học sinh, không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của học sinh và phù hợp với tâm sinh lý học sinh.
– Kỷ luật tích cực là dựa trên cơ sở cùng thảo luận khi có đầy đủ thông tin và tôn trọng lẫn nhau. Kỷ luật tích cực nhấn mạnh đến việc thay đổi hành vi hơn là xử phạt, theo tư duy nguyên nhân và hậu quả.
– Kỷ luật tích cực là cách giúp các em tự kiểm điểm bản thân, có trách nhiệm với hành vi của mình, đồng thời xây dựng cho các em kỹ năng giải quyết vấn đề và tinh thần hợp tác.
2. Nguyên tắc
– Không nên chỉ áp đặt quy tắc từ phía giáo viên chủ nhiệm. Việc cả giáo viên chủ nhiệm và học sinh cùng xây dựng quy tắc thể hiện rõ giáo viên chủ nhiệm tôn trọng học sinh.
– Giáo viên chủ nhiệm cần giải thích rõ các quy tắc cho học sinh,
để hiểu rõ tại sao cần phải tuân thủ các nguyên tắc đó, tránh gây tranh cãi liên miên. Tương tự như vậy, học sinh cũng cần giải thích rõ tại sao các em đặt ra quy tắc.
– Các quy tắc có thể thay đổi nếu có lý do chính đáng. Những sự thay đổi này phải được cả giáo viên chủ nhiệm lẫn học sinh đồng ý.
– Học sinh có quyền thắc mắc về những quy tắc và những lý do cần phải có nguyên tắc đó. Giáo viên chủ nhiệm phải lắng nghe và giải thích cho học sinh hiểu.
– Quá trình xây dựng những nguyên tắc này giúp học sinh phát triển tính độc lập và khả năng tự kiểm soát hành vi của mình.
– Mọi chiến lược kỷ luật hợp tác đều nhắm tới giáo dục để học sinh không chỉ là vâng lời người lớn mà chính là phải xây dựng những giá trị của chính mình và học cách xử sự một cách rõ ràng, mạch lạc theo những giá trị đó.
II. Thực hiện quản lý lớp học bằng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực
2.1. Tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục
Nhà giáo dục vĩ đại Nga Usinxki nói rằng: "muốn giáo dục con người về mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt"
– Nếu hiểu học sinh thì có thể chọn lựa được những tác động thích hợp. Nếu không hiểu học sinh thì không thể tìm được những phương pháp giáo dục phù hợp với đối tượng và do đó có thể thất bại. Kể cả việc lựa chọn nội dung và các hình thức giáo dục cũng cần căn cứ vào đặc điểm đối tượng. Chú ý đặc điểm đối tượng là nguyên tắc quan trọng của giáo dục học. Tìm hiểu học sinh và tập thể học sinh vừa là điều kiện vừa là một nội dung quan trọng trong công tác chủ nhiệm lớp.
– Giáo viên chủ nhiệm cần tìm hiểu và nắm vững các đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý, tính cách, năng lực, sức khỏe, năng lực phát triển trí tuệ, sở thích, nguyện vọng, năng khiếu, phẩm chất đạo đức của học sinh. Về hoàn cảnh sống, mối quan hệ với tập thể, bạn bè .... Qua đó để thấy mặt mạnh, mặt yếu của từng học sinh, của tập thể lớp để phát huy và khắc phục. Trên cơ sở đó phát hiện những yếu tố mới, những mầm mống, những nhân tố tích cực để làm nòng cốt cho phong trào chung của lớp.
– Để tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục, Giáo viên chủ nhiệm có thể vận dụng những cách thức sau:
a. Thông qua phiếu lý lịch đầu năm học, trong buổi đầu tiên lớp gặp Giáo viên chủ nhiệm trước khi bước vào năm học mới: (PHỤ LỤC trang 28)
– Tác dụng:
Từ phiếu lý lịch trên, giáo viên chủ nhiệm sẽ nắm bắt kịp thời đặc điểm sơ lược của các em, đây cũng là cơ sở quan trọng để giáo viên chủ nhiệm lựa chọn Ban cán sự lớp – lực lượng nòng cốt và quan trọng hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong quá trình áp dụng biện pháp kỷ luật tích cực.
b. Thông qua, giấy tờ cá nhân của học sinh (khai sinh , hộ khẩu ...), phiếu học sinh do nhà trường chuẩn bị: ( PHỤ LỤC trang 29 – 30)
Nếu giáo viên chủ nhiệm không có thời gian chuẩn bị phiếu lý lịch trên thì sử dụng từ nguồn do nhà trường cung cấp
– Tác dụng:
Từ giấy khai sinh hoặc hộ khẩu của học sinh chúng ta nắm bắt những thông tin chính xác hơn về học sinh, kịp thời sửa chữa những sai sót về lý lịch của các em. Kết hợp với tư liệu từ phiếu học sinh, chúng ta tổng kết những thông tin cần thiết về học sinh về mọi mặt, để từ đó có biện pháp giáo dục thích hợp với từng đối tượng.
c. Thông qua giấy tờ, hồ sơ, sổ sách của lớp :
c1.Sổ gọi tên và ghi điểm trung học phổ thông (PHỤ LỤC trang 31)
– Điểm danh số ngày vắng của học sinh trong sổ gọi tên và ghi điểm ( PHỤ LỤC trang 32 )
– Tác dụng:
Rút ra đặc điểm về chuyên cần học tập của học sinh, căn cứ vào số lượng ngày nghỉ trong tháng, giáo viên chủ nhiệm có thể nắm được những đối tượng thường xuyên nghỉ học. Từ đó tìm hiểu nguyên nhân và có biện pháp giúp đỡ các em trong học tập.
– Điểm số của học sinh trong sổ gọi tên và ghi điểm (PHỤ LỤC trang 33)
– Tác dụng:
Theo dõi quá trình học tập hàng tháng của học sinh, cập nhật những thông tin quan trọng như học sinh giỏi, khá, học sinh yếu, kém. Những môn học có nhiều học sinh điểm thấp...nhằm kịp thời khắc phục trong tháng sau.
c2. Sổ đầu bài (PHỤ LỤC trang 34)
Từ sổ đầu bài giáo viên chủ nhiệm sẽ nắm được đặc điểm của lớp học có tích cực hay không tích cực, có nhiều hay ít học sinh vi phạm nội quy, theo dõi những em thường xuyên vi phạm ....(PHỤ LỤC trang 35)
d. Thông qua sổ chủ nhiệm của giáo viên chủ nhiệm (cẩm nang quan trọng của giáo viên chủ nhiệm trong tìm hiểu đặc điểm của đối tượng giáo dục). Vì vậy trong sổ chủ nhiệm giáo viên phải liên tục cập nhật những thông tin sau :
– Giáo viên chủ nhiệm phải nắm bắt đầy đủ, kịp thời tất cả các thông tin cá nhân của từng học sinh trong lớp (PHỤ LỤC trang 36)
– Giáo viên chủ nhiệm phải biết rõ tình hình cư trú theo từng địa bàn của học sinh, để có những phương pháp giáo dục thích hợp với từng học sinh theo đặc điểm của địa phương nơi học sinh ở. (PHỤ LỤC trang 37)
– Giáo viên theo dõi những trường hợp học sinh có hoàn cảnh khó khăn trong suốt năm học.
Ví dụ:
HỌC SINH CÓ HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN

HỌ TÊN

HOÀN CẢNH GIA ĐÌNH

1

Nguyễn Vũ Phương Ánh

Ba mới qua đời, mẹ đi làm nuôi hai chị em đi học

2

Nguyễn Thị Mai Phương

Hộ nghèo ( có chứng nhận của địa phương )

3

Nguyễn Thị Phương Thảo

Gia đình làm ruộng, Ba đang điều trị Lao, Mẹ phải phẫu thuật ung bướu, nuôi người cô ung thu u sọ hầu

– Giáo viên chủ nhiệm phải quan tâm theo dõi các học sinh xa nhà và đang phải ở trọ, cần biết chính xác nơi các em ở trọ. (PHỤ LỤC trang 37)
– Ngoài ra giáo viên chủ nhiệm còn phải nắm thông tin chi tiết về phụ huynh học sinh như số điện thoại di động, để biết hoàn cảnh đặc biệt của các em thông qua phụ huynh học sinh (do các em ngại trình bày với giáo viên chủ nhiệm) như ba mẹ đã ly dị, ly thân, gia đình có thành phần phức tạp, mâu thuẫn..... (PHỤ LỤC trang 38)
– Những thông tin thu được qua quá trình tìm hiểu học sinh cần được Giáo viên chủ nhiệm phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại.... để rút ra những kết luận chính xác, khách quan về đối tượng giáo dục, tránh kết luận vội vàng, nhầm lẫn, thiếu thiện chí.
2.2. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa Giáo viên chủ nhiệm và học sinh – nền tảng quan trọng của phương pháp quản lý lớp học bằng các biện pháp kỷ luật tích cực
Quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa người với người ở đất nước ta hiện nay là điều kiện thuận lợi để hình thành quan hệ tốt đẹp giữa người lớn và thanh niên mới lớn. Đặc biệt chúng ta đang thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". Tuy vậy khó tránh khỏi những xung đột nhỏ giữa thanh thiếu niên và người lớn, hay giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh. Điều đó một phần do học sinh và giáo viên chủ nhiệm sống và phát triển ở hai giai đoạn khác nhau. Mặt khác nó phụ thuộc nhiều vào thái độ của hai phía đối với nhau, quan điểm của hai phía về nhau.
Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh có thể tốt đẹp nếu giáo viên chủ nhiệm thực sự tin tưởng vào học sinh, tạo điều kiện để các em được thỏa mãn tính tích cực, độc lập trong hoạt động, tạo điều kiện để nâng cao tinh thần trách nhiệm của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm không được quyết định thay, làm thay cho học sinh, như vậy các em sẽ mất hứng thú và cảm thấy phiền toái. Mặt khác , thái độ "đỡ đầu" quá cặn kẽ của giáo viên chủ nhiệm sẽ củng cố ở học sinh tính trẻ con, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu quen với cảm giác "đỡ đầu" đó các em sẽ rụt rè, không dám quyết định khi cần thiết. Giáo viên chủ nhiệm cần tổ chức lớp tích cực, tự quản nhưng không phải thờ ơ, để mặc lớp làm gì thì làm, phải lôi kéo tất cả học sinh vào hoạt động chung, kích thích được tinh thần trách nhiệm, sự tự giáo dục và giáo dục lẫn nhau của các em.
Về điều này tôi đã tiến hành khảo sát và tìm ra được những điều học sinh cần và chưa đồng ý về giáo viên chủ nhiệm, để từ đó giáo viên chủ nhiệm rút kinh nghiệm để xây dựng được mối quan hệ tốt và nhận được sự ủng hộ của học sinh trong quá trình quản lý lớp : (PHỤ LỤC trang39 – 40 – 41)
Từ các ý kiến của học sinh được khảo sát, tôi rút ra những kết luận sau:
a. Những điều các em cần: (PHỤ LỤC trang 42)
– Thái độ quan tâm nhiều hơn đến các em, nhất là hoàn cảnh sống của các em, giúp đỡ các em gặp hoàn cảnh khó khăn trong học tập.
– Khi các em vi phạm nội quy, không la mắng vội mà tìm hiểu nguyên nhân vì sao các em vi phạm. Tùy vào mỗi hoàn cảnh mà có hình thức xử lý khác nhau.
– Tôn trọng ý kiến của các em. Nếu các em hiểu sai vấn đề thì điều các em mong muốn không phải những lời nặng nhẹ mà là sự hướng dẫn cho các em thấy trách nhiệm việc mình làm và sửa đổi.
– Thông cảm, lắng nghe các em nhiều hơn
– Thái độ nghiêm khắc, công bằng, thưởng phạt phân minh.
b. Những điều các em chưa đồng ý: (PHỤ LỤC trang 43)
– Thiếu quan tâm, thờ ơ, nhất là đối với các bạn có hoàn cảnh khó khăn, khi lớp tham gia phong trào của trường thì không ủng hộ, không theo dõi và khi các em đạt thành tích cũng không thấy khen ngợi, động viên.
– Can thiệp quá sâu vào tình cảm riêng tư của các em.
– Tạo áp lực về thành tích
– Lời lẽ thái quá, xúc phạm các bạn vi phạm trước tập thể lớp
– Áp đặt theo ý muốn của giáo viên chủ nhiệm, không tôn trọng ý kiến của học sinh.
– Thiếu công bằng .
Từ đó cá nhân tôi nhận thấy ở các em hình thành một số nguyện vọng cơ bản sau:
– Được yêu thương
– Được tôn trọng
– Được hiểu, thông cảm
c. Biện pháp của giáo viên chủ nhiệm đáp ứng được nguyện vọng cơ bản của học sinh
– Hiểu đặc điểm tâm lý của học sinh qua từng giai đoạn
– Lắng nghe học sinh một cách quan tâm, chăm chú
– Tạo ra môi trường thân thiện ở trường mà học sinh có thể biểu lộ, thể hiện chính bản thân các em.
– Cử chỉ nhẹ nhàng, ân cần. Luôn giữ cho âm điệu, giọng nói hài hòa trong lớp học. Tuỳ theo tình huống, có lúc giọng nói mang tính chất quan tâm, phấn khởi, khuyến khích, có lúc rõ ràng, kiên quyết, nghiêm khắc
– Tôn trọng ý kiến của học sinh.
– Động viên, giúp đỡ, khích lệ, khoan dung, độ lượng, vị tha . . .
– Công bằng với tất cả học sinh, không phân biệt đối xử
– Tạo giới hạn và bình tĩnh khi học sinh vi phạm nội quy. Nếu học sinh có mắc lỗi, hãy chú ý đến hành vi của học sinh. Không được đồng nhất lỗi lầm của học sinh với nhân cách, con người của các em.
Tôi tin là nếu chúng ta căn cứ vào tâm tư, nguyện vọng của các em để có các phương pháp kỷ luật thích hợp thì chắc chắn chúng ta sẽ tạo được mối quan hệ tốt với học sinh, tạo cho các em sự tin tưởng và tôn trọng, từ đó chúng ta mới có thể thiết lập các hình thức kỷ luật tích cực được, vì căn bản phương pháp này dựa trên sự tự ý thức của các em. Nếu giáo viên chủ nhiệm thiết lập được mối quan hệ vững chắc giữa thầy và trò dựa trên nền tảng tôn trọng thì tập thể lớp sẽ tự giác thực hiện nội quy nghiêm túc , vì kính trọng giáo viên và nhận thức được điều đúng đắn. Dù biết rằng việc này sẽ rất khó khăn vì ngoài công tác chủ nhiệm, giáo viên còn công tác giảng dạy và cuộc sống bận rộn của gia đình, nhưng nếu chúng ta cố gắng một chút thì sẽ tạo nên rất nhiều thay đổi tích cực.
2.3. Xây dựng quá trình quản lý lớp học bằng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực
– Căn cứ vào quá trình khảo sát, tôi rút ra được những hình thức kỷ luật mà học sinh nhận thấy là chưa tích cực, thiếu hiệu quả giáo dục: (PHỤ LỤC trang 44)
+ Dùng vũ lực đối với học sinh: dùng thước đánh, tát vào mặt, nhéo tai, gõ vào đầu...
+ La mắng, dùng lời lẽ nặng nề xúc phạm đến các em
+ Bản kiểm điểm thường xuyên sẽ không tạo được hiệu quả kỷ luật.
+ Dù vi phạm nhẹ cũng gọi điện thoại cho phụ huynh
+ Đuổi ra khỏi lớp khi vi phạm nội quy lần đầu.
+ Đi lao động (theo các em vừa mất thời gian mà không có tác dụng răn đe vì khi lao động do phạm vi lao động trong sân trường rộng nên có nhiều bạn lén ngồi chơi, nói chuyện hoặc không làm gì cả ...)
* ỨNG DỤNG THỰC TIỄN
Căn cứ vào quá trình chủ nhiệm của bản thân và sự đồng ý của hơn 90 % trong tổng số 249 học sinh được khảo sát thăm dò ý kiến tôi xin mạnh dạn đề ra phương pháp quản lý lớp học bằng biện pháp kỷ luật tích cực như sau:
Đầu năm học giáo viên chủ nhiệm và học sinh cùng tiến hành bàn bạc với nhau về nội quy của lớp, hình thức kỷ luật đối với học sinh (dựa trên Điều lệ trường THPT, Quy định về khen thưởng và kỷ luật học sinh của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Việt Nam – trích Quyết định 1118/QĐ của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục ký ngày 1.12.1987). Sau khi học sinh tự bàn bạc, thống nhất mọi điều, giáo viên chủ nhiệm sẽ tổng hợp thành một bản "quy ước lớp học" hoặc "hình thức kỷ luật của lớp" và phổ biến. Bản quy ước này có thể bổ sung hoặc sửa đổi tùy theo tình hình học tập của học sinh và tình hình cụ thể của từng lớp.
Mỗi giáo viên chủ nhiệm sẽ căn cứ vào kinh nghiệm thực tế và tình hình cụ thể của lớp chủ nhiệm của mình mà đưa ra nội dung bản quy ước hoặc hình thức kỷ luật cho phù hợp, riêng cá nhân tôi thì tôi xin trình bày :
THANG ĐIỂM HẠNH KIỂM
I. ĐỒNG PHỤC
– Nam sinh: mang giày, xăngđan có quai hậu, không mang dép lê, quai chẻ. Mặc quần màu xanh, không mặc quần màu đen, không nhuộm tóc, xịt keo, không để móng tay quá dài ...
– Nữ sinh: mang giày, xăngđan có quai hậu, không mang dép lê, quai chẻ. Không mang giỏ xách đi học, không nhuộm, uốn tóc, không sơn móng tay, chân. Mặc áo dài kín đáo, đúng quy định
Nếu vi phạm trừ 5 điểm/lần
Vi phạm 2 lần/ tháng: trừ 10 điểm
Vi phạm 3 lần/tháng: mời phụ huynh phối hợp cải thiện tình hình
Vi phạm 4 lần trở lên/ tháng: hạ 1 bậc hạnh kiểm
* Cấm tuyệt đối học sinh nam và nữ mặc quần đáy ngắn. Vi phạm:
Lần đầu: bản kiểm điểm + trừ 5 điểm
Lần 2: mời PHHS làm bản cam kết mới cho vào lớp
Lần 3: hạ hạnh kiểm xuống 1 bậc
Lần 4: trở lên/ học kỳ: hạ hạnh kiểm xuống trung bình
II. CHUYÊN CẦN
1 . Đi học trễ: trừ 1 điểm/1 lần.
Nếu đi học trễ trên 3 lần/tháng tăng lên trừ 2 điểm/1 lần
2 . Nghỉ học không phép: trừ 2 điểm/1 lần, có phép: trừ 1 điểm/1 lần (áp dụng cho cả những buổi học trái buổi)
Nghỉ học không phép từ 3 buổi trở lên trong 1 tháng: khiển trách trước lớp và trừ 4 điểm/1 lần
3. Cúp tiết:
– Vi phạm lần đầu: cảnh cáo và trừ 10 điểm
– Tái phạm nhiều lần trong tháng: Mời phụ huynh học sinh, hạ hạnh kiểm
4 . Không thuộc bài, không làm bài tập (ở nhà và trên lớp): trừ 5 điểm/lần.
– Không thuộc bài, không làm bài tập từ 3 lần trở lên trong 1 tháng: khiển trách trước lớp và trừ 10 điểm/lần.
– Tái phạm nhiều lần trong tháng: Mời phụ huynh học sinh, hạ hạnh kiểm
5 . Nói chuyện, ngủ gục trong giờ học, nói chuyện trong giờ chào cờ, ăn vụng trong giờ học: trừ 3 ñeán 10 ñieåm/lần
– Tái phạm nhiều lần trong tháng: Mời phụ huynh học sinh, hạ hạnh kiểm
III. NỘI QUY KHÁC
1. Sử dụng điện thoại di động trong giờ học:
– Lần đầu vi phạm: nhà trường tịch thu điện thoại di động, cuối năm học trả cho phụ huynh học sinh, đánh giá hạnh kiểm
– Tiếp tục vi phạm: hạ hạnh kiểm xuống trung bình, yếu
2. Xả rác, ném phấn bừa bãi, mang thức ăn, nước uống vào: trừ 5 điểm/lần .
– Tái phạm trên 3 lần trong tháng: trừ 10 điểm / lần
– Tiếp tục vi phạm nhiều lần trong tháng: hạ 1 bậc hạnh kiểm.
3. Ban cán sự lớp, Ban chấp hành chi đoàn lớp không hoàn thành nhiệm vụ: trừ 5 ñieåm/ lần
4. Học sinh nhận được sự phân công hợp lý của nhà trường, giáo viên chủ nhiệm, Ban cán sự lớp, Đoàn trường mà cố tình không thực hiện : trừ 5ñieåm/ lần
5. Học sinh nào vi phạm nội quy bị Giáo viên bộ môn ghi tên vào Sổ đầu bài : trừ điểm gấp đôi hoặc gấp ba tùy theo mức độ vi phạm năng hay nhẹ .
– Tiếp tục vi phạm nhiều lần trong tháng: Mời phụ huynh học sinh, hạ hạnh kiểm
6. Lười biếng, cố tình không tham gia phong trào chung của lớp, của nhà trường: trừ 5 ñieåm/lần
7. Vi phạm an toàn giao thông có xử lý biên bản của công an giao thông: Mời phụ huynh học sinh, hạ hạnh kiểm
IV. HẠNH KIỂM YẾU
Nếu học sinh vi phạm vào những hành vi bị cấm đối với học sinh theo quy định tại Điều 39 Điều lệ trường trung học như sau:
– Vô lễ, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể của giáo viên, nhân viên nhà trường
– Gian lận trong học tập, kiểm tra, thi cử
– Xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bạn: đánh nhau, gây rối trật tự, an ninh trong nhà trường và ngoài xã hội
– Đánh bạc; vận chuyển, tàng trữ và sử dụng ma túy; vũ khí, chất nổ, chất gây cháy, các loại chất độc hại, lưu hành văn hóa phẩm đồi trụy.
– Hút thuốc, uống rượu, bia.
V. ĐUỔI HỌC (Theo Quy định về khen thưởng và kỷ luật học sinh của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Việt Nam – trích Quyết định 1118/QĐ của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục ký ngày 1.12.1987)
– Đuổi học 1 tuần lễ
Khi vi phạm những nội dung sau (Dù vi phạm lần đầu):
+ Trộm cắp
+ Trấn lột
+ Gây gổ đánh nhau có tổ chức và gây thương tích
– Đuổi học 1 năm:
+ Mắc khuyết điểm tái phạm sau khi bị đuổi học 1 tuần
+ Vi phạm những nội dung sau (Dù vi phạm lần đầu):
· Chủ động tham gia các tổ chức trộm cắp, trấn lột, trụy lạc...
· Dùng vũ khí (dao găm, lưỡi lê, súng, lựu đạn...) đánh nhau có tổ chức gây thương tích cho người khác
· Can án ngoài trường bị công an bắt giữ
VI. ĐIỂM CỘNG KHUYẾN KHÍCH
Do các em chỉ có 50 điểm hạnh kiểm trong 1 học kì nên các em sẽ tự giác không vi phạm nhiều lần, các em sẽ phấn đấu hơn để kiếm thêm điểm thưởng cộng vào điểm hạnh kiểm của các em. Ví dụ: cộng từ 5 đến 10 điểm hạnh kiểm khi các em:
+ Tham gia hăng hái trong các giờ học của lớp và được lớp bình chọn là học sinh có thành tích tốt nhất trong tuần hoặc tháng
+ Học sinh không vi phạm bất cứ nội quy nào trong tháng, học kì
+ Tham gia tích cực các phong trào của nhà trường và Đoàn Thanh niên
+ Tham gia tích cực trong hoạt động ngoài giờ .....
CÁCH TÍNH ĐIỂM VÀ XẾP LOẠI HẠNH KIỂM

Tổng điểm / học kì

Xếp loại

Chú ý

35 – 50 ĐIỂM

TỐT

– Không vi phạm nội quy tại nội dung I, II, III của thang điểm hạnh kiểm trên 3 lần trong 1 tháng
– Không vi phạm nội quy tại nội dung IV, V của thang điểm hạnh kiểm trên

20 – 34 ĐIỂM

KHÁ

– Không vi phạm nội quy tại nội dung I, II, III của thang điểm hạnh kiểm trên 4 lần trong 1 tháng
– Không vi phạm nội quy tại nội dung IV, V của thang điểm hạnh kiểm trên

10 – 19 ĐIỂM

TRUNG BÌNH

– Không vi phạm nội quy tại nội dung IV, V của thang điểm hạnh kiểm trên

1 – 9 ĐIỂM

YẾU

0 ĐIỂM

KÉM

Nếu đây là bản quy ước do chính các em đặt ra (dưới sự hướng dẫn, phân tích của giáo viên chủ nhiệm) thì các em sẽ thực hiện nghiêm túc. Vì các em chỉ có 50 điểm hạnh kiểm trong 1 học kì nên các em sẽ tự giác không vi phạm nhiều lần. Các em cũng phấn đấu hơn để kiếm thêm điểm thưởng cộng vào điểm hạnh kiểm của các em (theo quy định trong thang điểm hạnh kiểm nêu trên)
* TÁC DỤNG:
Bản "Thang điểm hạnh kiểm" là kết quả hợp tác dựa trên cơ sở cùng tôn trọng lẫn nhau giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh nên sẽ tạo không khí thân thiện giữa thầy và trò, học sinh không cảm thấy có áp lực nặng nề, gò bó, mất dân chủ... Giáo viên chủ nhiệm cũng đã thiết lập được mối quan hệ vững chắc với học sinh và nhận được nơi học sinh sự kính trọng, thương yêu, nhờ đó mà các em cố gắng rèn luyện. Các em sẽ có cảm giác các em đang cùng giáo viên chủ nhiệm và cùng nhau xây dựng tập thể lớp vững mạnh, đoàn kết, như vậy các em đang tự hoàn thiện đạo đức của bản thân ngày càng tiến bộ hơn.
IV. TÌNH HÌNH THỰC TẾ KHI TRIỂN KHAI PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ LỚP HỌC BẰNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỶ LUẬT TÍCH CỰC
Quản lý lớp học bằng biện pháp "Thang điểm hạnh kiểm" là biện pháp dựa trên sự tự ý thức của các em là chính, hay nói cách khác chúng ta sẽ tạo ra một tập thể lớp tự quản, tự giác thực hiện nghiêm chỉnh nội quy nhà trường. Nhưng tập thể này sẽ thực hiện có hiệu quả hơn khi có sự quản lý chặt chẽ của giáo viên chủ nhiệm, của Ban cán sự lớp năng động, nhiệt tình, trung thực và tận tâm vì tập thể lớp. Tâm lý của học sinh là muốn tự mình quản lý mình, làm theo ý thích, nhưng nếu chúng ta không quan tâm, để mặc thì các em sẽ đi quá đà, vì tuổi các em còn thiếu kinh nghiệm sống và khả năng ức chế thần kinh. Do đó vẫn cần quan tâm, cố vấn của của giáo viên chủ nhiệm nhiều hơn, nhưng đồng thời giáo viên chủ nhiệm không nên tạo ra quá nhiều áp lực cho các em. Cụ thể giáo viên chủ nhiệm sẽ tiến hành biện pháp sau:
1. Kết hợp "Thang điểm hạnh kiểm" và sự quản lý chặt chẽ của giáo viên chủ nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm không thể dành hết thời gian quản lý lớp học cho nên giáo viên sẽ quản lý lớp thông qua Ban Cán sự lớp. Chính vì thông qua trung gian nên giáo viên chủ nhiệm cần có các biện pháp thích hợp để sự quản lý tiến hành được chặt chẽ, chính xác, thuận lợi và đạt hiệu quả. Muốn đạt được điều đó giáo viên chủ nhiệm cần:
a. Dựa vào kinh nghiệm của mình phải chọn Ban cán sự lớp năng động, tích cực, trung thực, tự giác, có tinh thần trách nhiệm
b. Phân công công việc rõ ràng và chi tiết, càng cụ thể càng tốt, tránh quy định chung chung, các em sẽ rất khó làm việc vì không biết đó có phải nhiệm vụ của mình không, rồi nảy sinh tình trạng đùn đẩy nhau, khiến công việc bế tắc và thiếu hiệu quả.
c. Cách thức tiến hành:
– Theo dõi và quản lý lớp thông qua báo cáo hàng tuần của ban cán sự lớp bằng sổ theo dõi. (PHỤ LỤC trang 45)
– Hàng tuần tổ trưởng sẽ theo dõi hoạt động học tập, rèn luyện đạo đức của tổ viên và chịu trách nhiệm ghi chép à báo cáo chi tiết cho Giáo viên chủ nhiệm
– Hàng tháng các tổ trưởng sẽ tổng kết thang điểm hạnh kiểm của các tổ viên và nộp báo cáo cho Giáo viên chủ nhiệm (PHỤ LỤC trang 46)
– Giáo viên chủ nhiệm phải tổng kết các hoạt động của lớp và các vi phạm của học sinh thông qua nhiều nguồn từ giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên, lớp trưởng đến tổ trưởng à phân tích, xem xét, điều tra à lắng nghe các em giải thích à tìm hình thức xử lý phù hợp hơn.
d. Tác dụng:
Khi giáo viên chủ nhiệm tổng kết hạnh kiểm cho các em, tự bản thân các em sẽ thấy mình tiến bộ hay tuột hậu. Đối với các em tiến bộ thì giáo viên chủ nhiệm hãy khen ngợi hết lời để các em hãnh diện và phấn đấu giữ vững thành tích, đồng thời cũng giúp các bạn chưa tiến bộ cố gắng hơn .
Đối với các em vi phạm nhiều có nghĩa là các em không tự ý thức được quyền lợi của mình thì đến lúc này giáo viên chủ nhiệm mới áp dụng hình thức xử phạt nặng hơn để thực hiện 2 mục tiêu giáo dục:
– Thứ nhất các em sẽ thấy mình đã đánh mất cơ hội sửa chữa lỗi lầm và bây giờ các em sẽ ý thức được các em sẽ phải nhận những hình thức kỷ luật nghiêm khắc hơn, khi đó các em mới tâm phục khẩu phục và chấp nhận sửa đổi.
– Thứ hai đây là hình thức nhắc nhở các em chưa vi phạm biết cố gắng trân trọng những cơ hội của mình.
e. Kết quả thực hiện trên thực tế:
Trong quá trình nhận công tác chủ nhiệm theo sự phân công của Ban Giám hiệu, cá nhân tôi đã áp dụng biện pháp kỷ luật bằng "Thang điểm hạnh kiểm" trên đối với các lớp do tôi quản lý. Tôi nhận được những kết quả thực tế như sau:
Ví dụ 1:
– Tập thể lớp có học sinh có học lực giỏi và đa phần các em đều có ý thức học tập chăm chỉ và rèn luyện đạo đức nghiêm túc thì bản "Thang điểm hạnh kiểm" đã được lớp thực hiện nghiêm túc và kết quả các em đạt được rất tốt

Năm học 2004-2005: lớp 10A7 (Sĩ số 46)

Xếp loại hạnh kiểm Học kì I

Xếp loại hạnh kiểm Học kì II

Tốt: 45 học sinh
TB: 01 học sinh (do vi phạm quy chế thi )

Tốt: 46 học sinh

Ví dụ 2:
– Tập thể lớp có nhiều đối tượng học sinh từ giỏi đến yếu thì bản "Thang điểm hạnh kiểm" đã góp phần cải thiện được tình hình rèn luyện đạo đức của các em còn lười học, chưa thực sự tự giác .

Năm học 2006-2007 : lớp 11A7 ( Sĩ số 43 )

Xếp loại hạnh kiểm Học kì I

Xếp loại hạnh kiểm Học kì II

Tốt: 17 học sinh
Khá: 19 học sinh
TB: 7 học sinh

Tốt: 24 học sinh
Khá: 16 học sinh
TB: 3 học sinh

2. Thực trạng khó khăn: Lớp học có nhiều học sinh cá biệt
a. Thế nào là học sinh cá biệt?
Những học sinh có thái độ lười biếng trong học tập
Những học sinh thường xuyên gây mất trật tự, vô kỷ luật, tập hợp những học sinh cùng ý chí để quấy phá, gây trở ngại cho việc tổ chức và tiến hành các hoạt động của tập thể
b. Vì sao các em trở thành học sinh cá biệt?
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng nói "...Hiền dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên", cho thấy việc hình thành nhân cách của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố bên ngoài, như môi trường gia đình, học tập, giao tiếp xã hội... trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong phát triển tâm lý của học sinh. Giáo dục phải đi trước một bước, phải đón trước sự phát triển, tạo cho học sinh hình thành những phẩm chất nhất định của cá nhân, đáp ứng được những yêu cầu của xã hội. Do đó, với đối tượng học sinh cá biệt thì giáo viên chủ nhiệm càng phải tìm hiểu kỹ lưỡng hơn, đừng vội đồng nhất hành vi với nhân cách của các em.
Tìm hiểu đối tượng là bước quan trọng đầu tiên đảm bảo cho quá trình giáo dục được tiến hành có kết quả, công tác này đòi hỏi tinh thần trách nhiệm rất cao và sự tận tụy, chịu khó của giáo viên chủ nhiệm. Nếu chịu khó tìm hiểu chúng ta sẽ thấy đa phần các học sinh cá biệt là do chịu những ảnh hưởng chưa tích cực như:
– Các em là một nạn nhân của một gia đình có tiềm ẩn nhiều yếu tố tiêu cực như ba mẹ ly thân, mạnh ai nấy sống, bạo hành, nghiện ngập, vướng vào hoạt động ma túy, cờ bạc, đánh đề, mại dâm ...
– Các em không nhận được sự quan tâm đúng mức của người lớn: ba mẹ chỉ lo làm ăn không có thời gian chú ý đến hoạt động ở nhà và học tập của con cái; ba mẹ ly dị, sống với ông bà già yếu, mồ côi cha hoặc mẹ thiếu thốn tình thương; thái độ thường xuyên phẫn nộ, đánh đập khi các em phạm lỗi của phụ huynh...
– Các em ngỗ ngược, chống đối hoặc ham chơi, nghiện net, do ba mẹ quá nuông chìu, muốn gì được đó ( nhất là ngày nay mỗi gia đình chỉ có 1 đến 2 con mà đời sống vật chất thì tương đối khá hơn )
– Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải phụ giúp gia đình không có nhiều thời gian đầu tư vào việc học, khi bị giảm sút trong học tập thì nảy sinh cảm giác chán nản, buông xuôi.
– Học tập sa sút do điều kiện sức khỏe không tốt....
Từ những tác động trên, dần dần các em hình thành tâm lý chán nản, mất phương hướng, dễ có những quan niệm lệch lạc về suy nghĩ, dẫn đến hành vi sai trái.
c. Khắc phục khó khăn bằng cách phối hợp giữa "Thang điểm hạnh kiểm" và các biện pháp kỷ luật giáo dục tích cực khác
Cũng có năm tôi chủ nhiệm lớp có học sinh cá biệt. Tôi xin cam đoan rằng bản "Thang điểm hạnh kiểm" và cách quản lý chặt chẽ của Ban cán sự lớp, Giáo viên chủ nhiệm đã ít nhiều kềm chế được các em. Nhưng tôi cũng gặp một số học sinh cá biệt không tuân theo những thỏa thuận ban đầu giữa các em và giáo viên chủ nhiệm, đến giai đoạn này thì giáo viên chủ nhiệm sẽ phải kết hợp thêm các phương pháp kỷ luật khác như:
c1. Kỷ luật bằng sức mạnh của tập thể lớp hay còn gọi là phương pháp "tác động song song":
– Thông qua các thành viên khác trong lớp (Ban Cán sự lớp, nhóm bạn bè nhỏ) nhắc nhở , theo dõi các học sinh cá biệt, để các em cảm nhận được sự quan tâm đó mà thay đổi suy nghĩ theo hướng tích cực hơn
– Dùng dư luận trong lớp điều chỉnh hành vi cá nhân, phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh, lôi kéo các em cá biệt vào những hoạt động chung của tập thể bằng cách thay vì trách phạt, hãy giao cho các em những công việc của tập thể, quan tâm giúp đỡ em hoàn thành tốt để nhận được sự khen thưởng từ tập thể, từ đó các em nhận thức được lợi ích của những hành vi đạo đức đúng đắn.
c2. Kỷ luật bằng phương pháp " bùng nổ sư phạm":
Sự tác động trực tiếp nhưng sử dụng với mức độ tác dộng mạnh, bất ngờ vào quá trình hưng phấn và ức chế của hoạt động sinh lý thần kinh, dẫn tới sự thay đổi trạng thái tâm lý của học sinh cá biệt, làm thay đổi các quá trình tâm lý như nhận thức, xúc cảm, tình cảm, hành vi của đối tượng tác động
– Phương tiện thực hiện: ngôn ngữ, hành vi, quyết định của giáo viên chủ nhiệm và tập thể lớp
– Chú ý:
Sử dụng phương pháp này rất khó, đòi hỏi kinh nghiệm chủ nhiệm lâu năm và khả năng nắm bắt tâm lý, khéo léo trong ứng xử, khả năng thuyết phục cao của giáo viên chủ nhiệm, vì phương pháp này giống như con dao hai lưỡi, nếu giáo viên chủ nhiệm để học sinh biết ý đồ của mình thì chẳng những không còn tác dụng giáo dục mà sẽ mang lại nhiều hậu quả đáng tiếc xảy ra ngoài ý muốn.
Do đó tác động bùng nổ sư phạm phải đúng thời cơ, khéo léo, gây được cảm xúc mạnh, bất ngờ mà đối tượng tác động hoàn toàn không hiểu được ý đồ của nhà sư phạm.
d. Kết quả đạt được trên thực tế:

Năm học 2006-2007: lớp 11A7 ( Sĩ số 43 )

Học sinh cá biệt

Vi Phạm

1. Tạ Quốc Duy

– Thường xuyên nói chuyện, cười giỡn gây mất trật tự trong giờ học
– Thường xuyên không thuộc bài, không làm bài tập

2. Bùi Thị Thùy Duyên

3. Nguyễn Phú Hậu

4. Nguyễn Hoàng Khải

5. Phan Bình Trọng

– Giáo viên chủ nhiệm áp dụng "Thang điểm hạnh kiểm" đối với các đối tượng trên không đạt hiệu quả như mong muốn, các em vẫn tiếp tục vi phạm. Vì vậy giáo viên chủ nhiệm đã bỏ ra nhiều thời gian hơn tìm hiểu về các em và nhận được những nguyên nhân sau đây đã khiến các em chưa ý thức tốt:

Học sinh cá biệt

Đặc điểm gia đình

1. Tạ Quốc Duy

Cha mất, thiếu thốn sự chỉ bảo quan trọng từ người cha

2. Bùi Thị Thùy Duyên

Gia đình có 6 người con, cha làm mướn, mẹ vừa nội trợ vừa đi phụ việc ở quán café. Bản thân em cũng phải đi làm phụ mẹ ở quán.

3. Nguyễn Phú Hậu

Tính tình cố chấp, ngoan cố do sự nuông chìu của gia đình, trong khi cả ba và mẹ đều là giáo viên. Có thái độ vô lễ, hay nói leo trong khi giáo viên giảng bài

4. Nguyễn Hoàng Khải

Ba và mẹ đi làm, buôn bán, không có thời gian quan tâm đến em. Nhà xa trường không liên lạc được bằng điện thoại, mà em lại không đưa giấy mời họp phụ huynh của giáo viên chủ nhiệm, khiến quá trình liên lạc của giáo viên chủ nhiệm với gia đình gặp rất nhiều khó khăn

5. Phan Bình Trọng

Do gia đình có cơ sở làm ăn phát đạt nên không cần con cái phải học nhiều, không đầu tư vào việc học mà chỉ cho con tiêu xài hoang phí vào xe máy, điện thoại....

– Căn cứ vào đặc điểm gia đình giáo viên lựa chọn các biện pháp kỷ luật khác nhau cho phù hợp:

Học sinh cá biệt

Biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực

1. Tạ Quốc Duy

– Giáo viên chủ nhiệm và Ban cán sự lớp thỏa thuận với các bạn khác trong lớp bất ngờ bình bầu hai bạn vào 2 vị trí của Ban cán sự lớp như Duy: lớp phó lao động; Duyên: tổ phó tổ 1, cho 2 em tham gia vào hoạt động quản lý lớp để hai em có tinh thần trách nhiệm và cố gắng học tốt hơn (vì Ban cán sự lớp thì phải nêu gương tốt cho các bạn trong lớp học tập)
– Bắt buộc em phải nhận sự kiểm tra và theo dõi quá trình học tập của Ban cán sự lớp và giáo viên chủ nhiệm.
– Bên cạnh đó GVCN quan tâm thăm hỏi gia đình, phối hợp với Ban đại diện CMHS lớp và tập thể lớp giúp đỡ, hỗ trợ cho 2 em về chi phí học tập để 2 em an tâm đầu tư cho việc học, đồng thời GVCN động viên các em về mặt tinh thần nhiều hơn.

2. Bùi Thị Thùy Duyên

3. Nguyễn Phú Hậu

– Tìm gặp riêng gia đình các em để thông báo tình hình và yêu cầu gia đình phối hợp chặt chẽ hơn với giáo viên chủ nhiệm trong quá trình rèn luyện đạo đức của các em
– Kỷ luật bằng cách giao việc của tập thể lớp như giúp lớp bôi bảng, đóng cửa sổ, tắt đèn quạt khi ra về , giúp lớp làm vệ sinh phòng học, giúp lớp chuẩn bị phòng thí nghiệm, sân bãi khi tập thể dục....để các em tham gia nhiều hơn vào các hoạt động tập thể.
– Chịu sự kiểm tra của Ban cán sự lớp về vấn đề học bài và làm bài tập trong giờ truy bài trước khi vào học, bên cạnh đó có sự giám sát của giáo viên chủ nhiệm
– Lôi kéo các em tham gia vào những phong trào thi đua của lớp như văn nghệ, hội khỏe phù đổng....sẵn sàng giao cho các em những nhiệm vụ quan trọng để các em thấy mình có giá trị, có tinh thần trách nhiệm hơn.

4. Nguyễn Hoàng Khải

5. Phan Bình Trọng

Ban đầu cũng gặp nhiều khó khăn nhưng dần dần từ ảnh hưởng của tập thể lớp, sự khuyên bảo của giáo viên chủ nhiệm các em đã điều chỉnh hành vi theo hướng tích cực hơn và tiến bộ rất nhiều trong học kì II.

Học sinh cá biệt

Hạnh kiểm học kỳ I

Hạnh kiểm học kỳ II và cả năm

1. Tạ Quốc Duy

Trung bình

Khá

2. Bùi Thị Thùy Duyên

Trung bình

Khá

3. Nguyễn Phú Hậu

Trung bình

Khá

4. Nguyễn Hoàng Khải

Trung bình

Khá

5. Phan Bình Trọng

Trung bình

Khá

e. Trường hợp những biện pháp giáo dục kỷ luật trên vẫn không hiệu quả
Đối với những học sinh cá biệt không hợp tác thì GVCN phải áp dụng hình thức kỷ luật cao hơn theo đúng quy định kỷ luật của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo:
– Mời phụ huynh và hạ hạnh kiểm xuống mức trung bình, yếu ....
– Khiển trách trước Hội đồng kỷ luật nhà trường
– Cảnh cáo trước toàn trường
– Đuổi học 1 tuần
– Đuổi học 1 năm
Khi chấp nhận sử dụng phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực thì giáo viên chủ nhiệm chỉ có thể làm như vậy. Chúng ta không thể chửi bới, xúc phạm các em nặng nề, hay phạt lao động liên tục được. Rõ ràng chúng ta biết những phương pháp đó không hề tạo ra kết quả tích cực mà đôi khi còn tạo ra nhiều tình huống nguy hiểm như học sinh bỏ nhà đi, tự tử ...
Dù đối tượng của chúng ta là học sinh giỏi, khá hay cá biệt thì các em đều cần ở chúng ta sự tin tưởng, yêu thương, tôn trọng , cho các em thấy các em có giá trị, trưởng thành. Chúng ta nên giúp các em tự nhận ra lỗi lầm và hướng dẫn các em khắc phục để tiến bộ hơn. Tuy rằng giáo viên chủ nhiệm không thể thay đổi được suy nghĩ của tất cả học sinh nhưng với sự cố gắng, nỗ lực hết khả năng của mình, giáo viên chủ nhiệm sẽ giảm thiểu được tối đa số học sinh bị buộc phải thôi học vì vi phạm nội quy.
C. KẾT LUẬN
I. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ LỚP HỌC BẰNG CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỶ LUẬT TÍCH CỰC
1. Ưu điểm
Qua quá trình nghiên cứu và từ thực tế của bản thân tôi nhận thấy: Quản lý lớp học bằng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực nếu được giáo viên chủ nhiệm và tập thể lớp hợp tác thực hiện nghiêm túc thì sẽ:
– Giảm áp lực quản lý lớp học vì học sinh hiểu và tự giác chấp hành kỷ luật. Từ đó giáo viên chủ nhiệm tạo ra sự tin tưởng nơi học sinh, được học sinh tôn trọng, quý mến, xây dựng được mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò
– Nâng cao hiệu quả quản lý lớp học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
– Được sự đồng tình, ủng hộ từ phía gia đình, học sinh và xã hội.
– Học sinh có nhiều cơ hội chia sẻ, bày tỏ cảm xúc, được mọi người quan tâm, tôn trọng và lắng nghe ý kiến .
– Các em sẽ tích cực , chủ động hơn trong học tập.
– Các em sẽ tự tin hơn trước đám đông và phát huy được khả năng cá nhân
– Chúng ta sẽ góp phần đào tạo được những công dân tốt, giàu khả năng phục vụ, cống hiến, cho gia đình, xã hội trong tương lai.
– Giảm thiểu được tệ nạn xã hội, bạo hành, bạo lực. Từ đó góp phần xây dựng nhiều gia đình hạnh phúc và xã hội phồn vinh.
2. Hạn chế
– Quản lý lớp học bằng các biện pháp giáo dục tích cực phụ thuộc rất nhiều vào sự tự ý thức của học sinh cho nên giáo viên chủ nhiệm sẽ gặp nhiều khó khăn khi tiến hành. Giáo viên chủ nhiệm phải bỏ ra nhiều thời gian tìm hiểu đặc điểm của học sinh trong tập thể lớp, chuẩn bị hồ sơ, sổ theo dõi cho Ban cán sự lớp, tổng kết hạnh kiểm hàng tuần để có biện pháp khắc phục nhanh chóng các trường hợp vi phạm
– Đòi hỏi ở giáo viên chủ nhiệm nhiều kinh nghiệm, năng lực và uy tín cao.
– Nếu giáo viên chủ nhiệm không chọn được Ban cán sự lớp vững mạnh, tích cực, trung thực thì không thu nhận được các kết quả khách quan và chính xác và bản "Thang điểm hạnh kiểm" sẽ không phát huy được tác dụng.
– Đối với một số học sinh nhút nhát, sống khép kín hoặc những học sinh lì lợm thì giáo viên chủ nhiệm sẽ không nhận được ý kiến phản hồi hay thái độ hợp tác từ các em, gây khó khăn trong quá trình quản lý lớp.
II. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:
– Để đạt được mục đích giáo dục học sinh bằng biện pháp kỷ luật tích cực, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát thích hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng học sinh để lựa chọn biện pháp thích hợp.
– Ngoài bản thân giáo viên chủ nhiệm nỗ lực phấn đấu quản lý lớp thì giáo viên chủ nhiệm còn phải phối hợp chặt chẽ với Ban giám hiệu, chi hội CHMS trường, tổ chức Đoàn Thanh niên, tổ chức địa phương ... trong suốt quá trình triển khai biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực thì mới đạt được hiệu quả giáo dục học sinh toàn diện.
– Giáo viên chủ nhiệm phải là người có uy tín, có năng lực thực sự để tạo được sự tin tưởng nơi học sinh, tạo được mối quan hệ thân thiết giữa thầy và trò, điều này góp phần rất lớn tạo nên sự trưởng thành ở mỗi học sinh, sự vững mạnh và ngày càng tiến bộ của mỗi lớp học. Cho nên bản thân giáo viên chủ nhiệm phải luôn luôn cố gắng học tập hoàn thiện phẩm chất và năng lực của người giáo viên CNXH, rèn luyện đạo đức, tác phong, mẫu mực trong giao tiếp xã hội, đồng nghiệp và thầy trò, xứng đáng là tấm gương đạo đức cho học sinh noi theo.
Trên đây là một vài ý kiến của cá nhân tôi trong quá trình giáo dục đạo đức học sinh trong vai trò giáo viên chủ nhiệm, vì thế sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận đ­ược sự góp ý quý báu của Hội đồng xét duyệt chuyên đề cùng quý thầy cô và các đồng nghiệp rất nhiều. Xin gửi lời cảm ơn và lời chúc sức khỏe đến Hội đồng xét duyệt, các quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp kính mến .

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: #giaoduc