Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Dòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái

Đề bài: Nhà giáo Trần Đồng Minh nhận xét về tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân: "Nhà văn dùng Vợ nhặt để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng" (dẫn theo Hoài Việt – Nhà văn trong nhà trường: Kim Lân, NXB Giáo dục, 1999, tr.39).
Trình bày cảm nhận của anh / chị về bóng tối và những tia sáng ấm lòng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.
-------------------
Họ tên: Nguyễn Hà Lâm Thy
Trường Trung học phổ thông Nam Hà
Thành phố BIên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Số điện thoại: 090220xxxx
Email: [email protected]
----------------------------------
Khi xét về những sự đối kháng trong cuộc sống, thì có lẽ cặp hình ảnh "bóng tối" và "ánh sáng" được người ta nghĩ đến đầu tiên. Mối quan hệ giữa chúng là sự tương phản đến cùng cực và dường như là "không đội trời chung". Và bản chất tương phản vốn có của chúng cũng được các nhà nghệ sĩ kết hợp với bàn tay nhào nặn điêu luyện của họ để tạo ra nhiều tác phẩm mang tính triết lí cho trang viết riêng của chính mình. Cũng như tác phẩm "Vợ Nhặt" của Kim Lân, đã từng được nhà văn Trần Đồng Minh nhận xét rằng: "Nhà văn đã dùng Vợ Nhặt làm cái đòn bẫy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Vợ Nhặt đầy bóng tối nhưng từ đó đã được lóe lên những tia sáng ấm lòng."
Kim Lân – một cây bút danh tiếng của nền Văn học Việt Nam chuyên viết truyện ngắn – tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920 và mất năm 2007, quê ở Bắc Ninh. Trước Cách mạng Tháng 8, bản thân Kim Lân đã nhiều năm phải sống lăn lóc trong cảnh đói nghèo, đó có lẽ cũng là lý do khiến ông trở thành nhà văn của những số phận thiệt thòi, những kiếp người cùng khổ của làng quê Việt Nam giữa thế kỉ XX. Các nhân vật của ông đều mang hình bóng của tác giả, là con người hiền hậu,chất phác và giàu yêu thương, tình nghĩa. Kim Lân được ví như một loại đồ cổ quý hiếm cất giữ trong đó là những hạt bụi vàng văn hóa thẳm sâu của nền văn minh sông Hồng.
Truyện ngắn Vợ Nhặt là một bức tranh nghệ thuật khắc họa rõ nét khung cảnh ngày đói của dân tộc ta vào năm 1945. Đó là giai đoạn vô cùng tang thương của đất nước ta, sự thảm khốc ấy cũng đã được chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên trong "Bản Tuyên Ngôn Độc Lập" vào ngày 02 tháng 09 năm 1945: "... từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta đói.." Nhưng cái đặc sắc của Vợ Nhặt chính là không cần dùng một từ ngữ đanh thép nào để khắc họa khung cảnh nạn đói ấy, mà thông qua tình huống truyện độc đáo tác giả vẫn có thể làm bật lên sự kinh hoàng của nó. Và cũng từ đó tác giả đã thể hiện được nét đẹp trong tâm hồn con người, truyền thống yêu thương đùm bọc lẫn nhau, niềm khát khao, hy vọng sống mãnh liệt của con người thông qua các nhân vật của mình.
Theo lời nhận xét của nhà văn Trần Đồng Minh thì "đòn bẫy" ở đây có nghĩa là giá trị nghệ thuật của tác phẩm, là cái tình huống truyện độc đáo với cái tài dẫn truyện vô cùng hấp dẫn kia của Kim Lân. Còn "bóng tối" của bức tranh là hình ảnh ẩn dụ chỉ sự "hủy diệt khủng khiếp" của nạn đói năm 1945, qua đó cũng thể hiện được giá trị hiện thực của tác phẩm. Mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau chính là phông nền cho những giá trị nhân đạo cao đẹp được bật lên những "tia sáng" ấm lòng – vẻ đẹp của tâm hồn con người, nơi mà tình người và niềm tin, khát vọng sống được bùng cháy.
Ngay từ nhan đề, hai từ "vợ nhặt" đã hiện lên đầy mỉa mai, chua xót, một nỗi đau không sao nói được thành lời. Từ đó có thể thấy rằng "vợ nhặt" là cái đòn bẫy tạo nên tình huống truyện bi hài, sự hấp dẫn bất ngờ cho thiên truyện. Ngay giữa cái lúc nạn đói đã tràn đến xóm này, tác giả đặt vào đó một mối tình, thật táo bạo. Một anh cu Tràng dân ngụ cư, nghèo khổ, xấu xí lại còn thô kệch, vậy mà chỉ với "bốn bát bánh đúc" và vài câu "hò chơi cho đời bớt nhọc" đã có được cô "vợ nhặt" – người đàn bà vô gia cư, bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách. Đây quả là một tình huống vừa bi lại vừa hài. Bi là ở chỗ là trong cái cảnh nạn đói đang diễn ra, "người chết như ngã rạ" vậy mà anh Tràng lại còn dắt về một cô vợ. Còn cái hài nằm ở chổ là vợ mà lại nhặt về, đơn giản vậy sao? Từ xưa đến nay, việc dựng vợ gả chồng là ấn đề trọng đại cần phải cưới, phải treo vậy mà cái đói đã đẩy người lao động đến bước đường cùng: giá trị con người trở nên rẻ rúng đến thảm hại. Người ta có thể nhặt được vợ như nhặt bất kì cái rơm, cái rác vương vãi trên đường. Vậy đấy, anh cu Tràng chỉ mất có bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một bữa cơm mà đã có thể lấy được vợ. Với nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng của mình, Kim Lân đã đem đến một luồng gió mới cho đề tài về nạn đói. Chính tác giả cũng đã từng nói về tác phẩm của mình rằng: " Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cà. Có tình người là có hy vọng vào tương lai." Tác giả đã khẳng định vẻ đẹp của tình người, tình nhân ái của những con người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống kia.
Ngay từ đầu câu truyện, tác giả đã vẽ ra một "Vợ Nhặt" đầy bóng tối, tái hiện lại bức tranh tang thương sặc mùi tử khí của cái nạn đói lịch sử kinh hoàng năm Ất Dậu (1945). "Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người" "Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma." Ở đây, tác giả đã hai lần so sánh người với ma để cái giai đoạn đó như một lần nữa sống dậy trước mắt bạn đọc, cái giai đoạn mà ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ mong manh như sợi tóc, cõi dương như hòa vào cõi âm, trần gian thì mấp mé bờ vực của âm phủ. Sự rùng rợn của cái cảnh tượng ấy lại càng tăng lên khi tác giả kết hợp kênh âm thanh "tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết." "tiếng hờ khóc vẳng đến đến từ phía những nhà có người chết đói" với "mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt."
Ở đây, tác giả không sa vào việc diễn tả lại nạn đói đó mà chủ yếu là miêu tả số phận bèo bọt của những người cùng khổ trong thời bấy giờ. Anh cu Tràng là dân ngụ cư, nghèo khổ xấu xí, thô kệch, làm nghề kéo xe bò thuê, sinh sống cùng với một người mẹ già trong một căn nhà chẳng khác căn nhà của chị Dậu trong tác phầm "Tắt Đèn" của Nam Cao là mấy. Còn vợ Tràng xuất hiện với một vẻ ngoài thảm thương hơn, người gầy yếu xanh xao, gày sọp đi, quần áo rách tả tơi như tổ đỉa, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Phải nói nhân vật vợ nhặt là người đàn với năm cái không :không rõ lai lịch, không nhà cửa, không gia đình, không nghề nghiệp, thậm chí đến cái tên cũng không có. Thị lúc bấy giờ đang lê từng bước chân nặng nề của mình đến gần hơn với bờ vực của cái chết, như bản năng sinh tồn của một kẻ sắp chết Thị cố gắng bám víu vào bất cứ thứ gì mình có thể bám được. May mắn thay, anh cu Tràng lại xuất hiện vào đúng thời khắc ấy, không hẳn là "cái phao cứu sinh" cho cuộc đời Thị nhưng có thể coi Tràng như "một khúc cây" mà Thị có thể bám víu vào để tiếp tục chiến đấu giữa "cái biển người chết của tử thần" kia. Là thân phận phụ nữ trước mặt một người đàn ông xạ lạ, thế mà Thị lại đanh đá, sưng sỉa, cong cớn, gạ gẫm đòi ăn, đã vậy lại còn "cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì", chẳng nhẽ Thị không biết xấu hổ ư? Không, Thị biết chứ, biết rõ lắm nhưng vào cái thời khắc đó "sự kêu gào của dạ dày" cùng với "bản năng sinh tồn mãnh liệt" đã cùng nhau vùng lên đánh bại "thế lực" của danh dự, sĩ diện, lòng tự trọng và cả phẩm giá của một người đàn bà. Và sau đó tiếp diễn theo sự phát triển của suy nghĩ, Thị đã đem cuộc đời mình ra đặt cược bằng cách theo không Tràng về làm vợ, với Thị bấy giờ thắng hay thua có lẽ cũng chả còn quan trọng nữa bởi Thị chẳng còn gì để mất cả nhưng như thế ít ra Thị có được một gia đình để làm điểm tựa về mặt tinh thần. Hình tượng của người vợ nhặt chính là hình ảnh tiêu biểu cho số phận những con người trong "cái đám tang khổng lồ năm Ất Dậu" ấy. Như Kim Lân đã từng bộc bạch: "Dịch đói dạo đó thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa có người chết đói, vừa có người bỏ đi, dần dần mất hẳn. Tôi tận mắt chứng kiến người chết đói nằm rải rác ở khắp nơi. Khi con người vị đẩy đến bờ vực cuối cùng của cuộc sống thì toàn bộ số phận và tính cách con người họ sẽ biểu lộ ra. Chết đói là một thực tế khốc liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần, quằn quại dần. Tôi được biết nhiều chuyện qua những năm tháng đó. Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ. Có những người đói ngày ngày bới rác tìm một mẩu thức ăn thừa, buổi tối họ lại về nằm cạnh nhau bàn tán về chuyện làng quê, chuyện mùa màng. Có người giữ nề nếp rất nghiêm dù đói khát, con cái đi xin mang phần về cho, ông ta vẫn áo the, đội khăn xếp ngồi giữa nhà để ăn. Có người đói xô vào cướp cám để ăn, bị đánh cũng chịu không đánh lại, họ biết rằng chuyện cướp cám của họ là sai nhưng họ vẫn phải làm vì đói. Nói tóm lại, bi kịch sống của mọi người vào thời điểm đó hầu như giống nhau: Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đớn đau..." đó cũng chính là giá trị hiện thực của tác phẩm.
Nếu như các nhà văn cùng thời đều hướng ngòi bút vào việc khắc họa cái bức tranh nạn đói kinh hoàng kia với hai gam màu trắng đen, thì Kim Lân đã tạo ra một nét riêng biệt không lẫn vào đâu được bằng cách dùng ngòi bút vàng của ông để tô lên đó là "những tia sáng ấm lòng". Ông đã muốn khẳng định rằng: "Tôi muốn phân tích tâm trạng và thân phận của con người trong cái hoàn cảnh cùng đường ấy, nơi cuộc sống dường như không còn lối thoát. Tôi muốn hướng họ vào sự sống, sự thương yêu nhau, không phải là sự giành giật nhau." Để chứng minh cho quan điểm đó của mình tác giả đã đi sâu vào việc khám phá và nâng niu,trân trọng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người. Nhà văn đã miêu tả anh Tràng xấu xí, thô kệch nhưng ẩn sau vẻ ngoài đó lại là một con người luôn lạc quan, trong lúc kéo xe thóc mệt nhọc như thế nhưng anh vẫn buông vài câu hò cho cuộc sống thêm tươi vui. Không những thế anh cu Tràng còn là một người giàu tình nhân ái, khát khao hạnh phúc, bởi lẽ anh vốn chẳng khá giả hơn ai cả cũng nghèo đói như bao người khác thôi nhưng đứng trước một người đàn bà đáng thương anh đã chấp nhận cưu mang cô. Không phải là anh muốn thể hiện mình ga-lăng hay giàu có gì cả mà là vì khi ấy cái tình người cao thượng trong anh trỗi dậy một cách mạnh mẽ, như câu ca dao: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương – Người trong một nước phải thương nhau cùng" hay "Lá lành đùm lá rách". Ở trường hợp của Tràng không hẳn là "lá lành" mà ta cần nói khác đi một chút để thấy rõ hơn hành động cao đẹp của anh là: " Lá rách nhiều đùm lá rách nhiều hơn." Phải nói anh là một con người nghèo nàn về vật chất nhưng là một "tỉ phú về tình người".
Không dừng lại ở đó, Kim Lân còn đi sâu vào ý thức xây dựng và vun đắp hạnh phúc gia đình ở từng nhận vật. Đối với anh Tràng, chính sự lo toan, đảm đang của người vợ, sự hòa thuận của cả gia đình đã nhen nhóm trong anh một ước mơ, khát vọng hạnh phúc, một cuộc sống đầy yêu thương "Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng" . Bên cạnh anh Tràng thì không thể thiếu người vợ của anh,nếu ngày hôm qua, cái đói đã bóp méo đi những gì tốt đẹp ở chị, thì hôm nay chúng đã được bộc lộ rõ nét. Chị có ý thức vun vén cho tổ ấm của mình, quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang... Nhờ bàn tay săn sóc của chị, túp lều rách nát, tăm tối của mẹ con Tràng bỗng trở nên sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với cảnh. Cái hạnh phúc đơn sơ mà đầm ấm ấy đã đem đến một sự đổi thay thật sự trong hình dáng và tính cách của người đàn bà, khiến cho Tràng phải ngạc nhiên, bỡ ngỡ. Rõ ràng, bản chất sâu xa của hành động ấy là đi theo tiếng gọi của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc gia đình. Nhưng ở đoạn này ngòi bút của Kim Lân không chú trọng vào sự thay đổi của hai vợ chồng Tràng mà lại tập trung vào miêu tả tâm lý nhân vật bả cụ Tứ, đặc biệt là tình mẫu tử bao la của người mẹ.
Là một người phụ nữ, một người mẹ, bà có biết bao nhiêu âu lo, bà thấu rõ hoàn cảnh của nhà mình cũng đang cận kề cái chết, nhưng khi tường tận mọi cờ sự thì sâu thẳm trong lòng bà là tình thương "bao la như biển Thái Bình". Bà hiểu nếu người ta không có đi đến bước đường cùng này thì người ta không nghĩ đến con mình, thì con mình làm gì có được vợ. Cũng từ tình thương con, thương người bà đã dang rộng vòng tay mình để đón nhận người con dâu đáng thương đó. Cũng chính người mẹ tảo tần ấy là ngọn lửa mạnh mẽ nhen nhóm lên trong các con của mình là một niềm hy vọng, niềm tin vào ngày mai tươi sáng hơn với câu răn dạy "ai giàu ba họ, ai khó ba đời" và hình ảnh "đàn gà". Và tia sáng tình người chói sáng nhất là ở hình ảnh "nồi cháo cám" ở cuối thiên truyện. Món quà mà bà cụ Tứ dành cho hai con của mình lại là nồi chè khoáng nghẹn bứ và chát xít ở nơi cổ họng nhưng chất chứa yêu thương của người mẹ. Một bữa ăn gia đình vào ngày đói có nước mắt xen lẫn tiếng cười, khiến đọc giả không khỏi chạnh lòng song cũng thật khâm phục những con người dẫu đang mấp mé nơi miệng hố tử thần nhưng họ vẫn yêu thương nhau, đùm bọc lấy nhau.
Một cái nhìn mới mẻ về cuộc sống của người dân sau cách mạng tháng Tám, Kim Lân đã vẽ lên một bức tranh hiện thực về nạn đói và cái chết đầy bi thương của những năm tháng này. Qua đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc góp phần tạo nên thành công trong tác phẩm. Từ đó ta thấy được chiều sâu so với các tác phẩm văn học hiện thực trước đó.
Với tài năng xây dựng tình huống truyện độc đáo nhà văn không nhằm tạo ra tiếng cười mà nhằm để phản ánh những thứ thiên về bản chất con người, về tình người trong những thời điểm khắc nghiệt nhất bấy giờ. Không chỉ dừng lại ở đó, tài năng của Kim Lân còn được thể hiện qua cái lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn kết hợp với cái chọn lọc và vận dụng ngôn từ tạo nên được một sự hòa quyện giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ chân quê, mộc mạc và giản dị. Nhưng yếu tố quyết định thành công nhất của "Vợ Nhặt" là việc miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo. Nhà văn đã dồn hết bút lực của mình vào việc xây dựng tâm lý, nội tâm ba nhân vật cụng như tâm lý của người dân xóm ngụ cư, để từ đó toát lên được sự xót thương, trân trọng của tác giả đối với nỗi lòng của người dân thời đó.
Qua việc phân tích trên, ta thấy ý kiến trên là một ý kiến đúng. Câu nói đã khẳng định một cái nhìn lạc quan hơn về cuộc sống, nó còn là một minh chứng sinh động cho ta thấy sức mạnh tình người có thể đưa con người vượt qua ranh giới khốc liệt của cuộc sống. Ý kiến đó còn góp phần làm sáng tỏ giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật mà tác giả muốn gửi gắm đến đọc giả của mình. Ngoài ra, câu nói ấy còn làm sáng thêm cái tài năng bậc thầy của Kim Lân. Như nhà văn Nguyễn Khải cũng từng nhận xét: "...cũng như Kim Lân viết " Làng" và " Vợ nhặt". Đó không phải là người viết mà là thần viết. Thần mượn tay người để viết nên những trang bất hủ"
Xin cảm ơn nhà văn Trần Đồng Minh đã cho chúng ta một nhận định hay để ta thấy hết được nét đẹp ẩn sâu trong "thành quả vàng" của một cây đại thụ trong nền văn học Việt Nam như Kim Lân. Cũng xin cảm ơn Kim Lân đã cho ta một bài học quý báu giáo dục thế hệ sau về tình người, để từ đó chúng ta học tập và noi theo, dựng xây một quê hương Việt Nam giàu mạnh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: