Sông Đà và Sông Hương
Phân tích vẻ đẹp của Sông Đà và Sông Hương từ đó làm nổi bật văn phong của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường
Dàn bài:
A- Mở bài
- Giới thiệu đề hai tác giả Nguyễn Tuân và Hoang Phủ NGọc Tường và hai tác phẩm" Người lái đò Sông Đà" và " Ai đã đặt tên cho dòng sông"
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài
B- Thân bài:
1- Vẻ đẹp độc đáo của Sông Đà
- Trong tuỳ bút " Người lái đò Sông Đà" Nguyễn Tuân đã xây dựng SôngĐà như một nhân vật có tính cách, rất sinhđộng:
a- Tính cach hung bạo thể hiện qua:
- Hai bên bờ sông đá dựng vách thành, có những chỗđá chẹn lấy lòng sông như một cái yết hầu, có nhữngđoaạnn sông chỉ chính ngọ mới có mặt trời.....
- Có những đoan như ở mặt ghềnh Hat Lo óng dài hàng cây số" Nước xô đá, đá xô sóng, cuồn cuộn luồng sóng gung ghè suốt năm"
- Sông Đà hung bạo vì có nhưng cái hút nược ghê rợn. Nước ở đó lúc nào cũng réo lên như vừa mới rót dầu sôi vào, kêu ằng ặc như cửa cống cái bị sặc. Có chiếc thuyền nào vô ý rơi vào những hút nước ấy, lập tức trồng ngay cây chuối ngược, đi ngầm dưới lòng sông và mươi phút sau mới thấy tan xác ở dưới khuỷnh sông....
- SôngĐà hung bạo bởi những thác nước ở thượng lưu:
+ Tiếng nước thác được miêu tả đặc biệt( Trích dẫn)
+ Đá lớn đá nhỏ dàn bày thạch trận trên sông ( trích dẫn)
-> Sông Đà hiện lên hùng vĩ và có diện mạo như kẻ thù số 1 của con người.
b- Tính cách trữ tình của Sông Đà:
- Sông Đà như một mái tóc tuôn dài...( dẫn chứng)- mang dáng vẻ của một thiếu phụ
- Nước sông Đà thay đổi theo mùa, mùa xuân dòng xanh ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bị bầm đi vì rượu bữa..
- Bờ sông Đà hoang dại như đôi bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích ngày xưa...
- Sông Đà mang dáng vẻ của một cố nhân" Đi rừng dài ngày rồi bắt ra Sông Đà nó đằm đằm âm ấm như gặp lại cố nhân"
- Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà đều đẹp một cách đặc biệt....
- Thỉnh thoảng trên sông những đàn cá dầm xanh, cá anh vũ quẫy mình vọt lên mặt nước bụng trắng như bạc rơi thoi.
- Sông Đà còn mạng vẻ đẹp rất cổ điển của Đường Thi " Yên hoa tam nguyệt". Vẻ đẹp của truyện thần thoại" Sơn tinh Thuỷ tinh" ....
-> Vẻ đẹp tuyệt mĩ của Sông Đà chính là vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước.
2- vẻ đẹp của Sông Hương
a- Sông Hương ở thượng nguồn
+ Sông Hương tựa như "một bản trường ca của rừng già" với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi " rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn", lúc " mãnh liệt vượt qua ghềnh thác", khi " cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu", lúc " dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng".
+ Sông Hương hiện ra tựa "Cô gái Digan phóng khoáng và man dại" với một "bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng".
=> Theo tác giả, nếu ai đó mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của dòng sông thì sẽ không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ. Cái tâm hồn vừa sục sôi vừa đằm thắm của "thiếu nữ A Pàng".
b- Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế
* Trong cái nhìn minh triết và lãng mạn của tác giả: Trước khi trở thành "Người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đô", toàn bộ thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màn cổ tích:
- Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại: Sông Hương là "cô gái đẹp ngủ mơ màng".
- Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi: Sông Hương như nàng tiên được đánh thức: Bừng lên sức trẻ và niềm khát khao của tuổi thanh xuân trong sự "chuyển dòng liên tục", rồi "vòng những khúc quanh đột ngột", "vẽ một hình cung thật tròn", "ôm lấy chân đồi Thiên Mụ", rồi "trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách".
- Khi chảy qua kinh thành Huế Sông Hương như cô gái Huế: tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình mà kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình. Khéo trang điểm mà không loè loẹt, giống như cô dâu Huế ngày xưa trong sắc áo điều lục.
=> Như từng thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, số Hương "vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long" rồi kéo một nét thẳng đầy cá tính " theo hướng tây nam – đông bắc", rồi "uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Huế" những dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng "Vâng!" không nói ra của tình yêu."
Và rồi "Như sực nhớ điều gì chưa kịp nói", sông Hương đột ngột đổi dòng, "rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối cùng ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ.". Trong cái nhìn đa tình của tác giả: khúc quanh bất ngờ đó tựa như "một mỗi vương vấn", và dường như còn có cả "một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu"...
c- Sông Hương với vẻ đep văn hoá và lịch sử
- Là dòng sông bảo vệ biên thuỳ "dòng sông Viễn Châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc Đại Việt qua những thế kỷ trung đại".
- Là dòng Linh Giang (dòng sông thiêng) ghi dấu những thế kỷ vinh quang thuở các Vua Hùng.
- Từng soi bóng "kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ."
- "Nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa."
- Sông Hương chứng kiến thời đại mới với cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Với cuộc đời: sông Hương là nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời.
- Với thi ca và âm nhạc:
+ Có một dòng thi ca về sông Hương: "Một dòng thơ không lặp lại mình". Đó là:
. "Dòng sông trắng – lá cây xanh" trong thơ Tản Đà.
. Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan.
. Là vẻ đẹp hùng tráng "như kiến dựng trời xanh" trong thơ Cao Bá Quát.
. Và nhất là Nguyễn Du: "Hương giang nhất phiến nguyệt- kim cổ hứa đa sầu".
=> Xin nói thêm: Cả cái "Màu thời gian tím ngát" của Đoàn Phú Tứ, "nhân loại tím" của Trần Dần cũng từ màu tím Sông Hương mà ra.
+ Sông Hương gắn với nhã nhạc cung đình Huế:
. Có lúc trở thành "Người tài nữ đáh đàn lúc đêm khuya".
. Sông Hương là Kiều trong mối quan hệ "Thi trung hữu nhạc": -> Đó là "Tứ đại cảnh" trong hai câu thơ: "Trong như tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa nửa vời."
-> Ca ngợi vẻ đẹp của Sông Hương tức là ngợi ca vẻ đẹp của đất nước
3- Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường
a- Văn phong Hoang Phủ Ngọc Tương
- Ngoài so sánh, trí tưởng tượng, tác giả còn sử dụng nhièu phép nhân hoá và ân dụ và lối thuyết minh cócảm xúc như một kiểuđon bẩy nghệ thuật giàu hình ảnh, giàu sức gợi cảm.
-Nét đặc sắc của văn phong của ông còn thể hiện ở tình yêu say đắm, niềm tự hào tha thiết với quê hương xứ sở, với đối tượng miêu tả khiến dòng sông hiện lên lung linh huyền ảo, đa dạng như đời sống như tâm hồn của con người.
-Đặc biệt ta còn cảm nhận ở đây sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết sâu sắc về địa lí, lịch sử và văn hoá nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân tác giả. Đó là những nguyên nhân cơ bản làm nên nét đặc biệt của văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tường.
b- Văn phong của Nguyễn Tuân
- Phong cách nghệ thuật là lối chơi ngông bằng văn chương : Cố ý làm khác người, thích cái độc đáo, cái duy nhất không giống ai... từ đề tài, lối kết cấu, hành văn, cách dùng từ, đặt câu.
- Tính uyên bác, tài hoa của Nguyễn Tuân là ở :
+ Tiếp cận mọi sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mỹ của nó để khám phá, phát hiện khen hay chê .
+ Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa ng/th khác nhau để quan sát hiện thực, sáng tạo h/ tượng.
+ Luôn nhìn người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ và sáng tạo nên những nhân vật tài hoa nghệ sĩ .
+ Tô đậm cái phi thường xuất chúng,gây cảm giác m/ liệt, dữ dội đến mức khủng khiếp – Đẹp đến tuyệt vời
- Nguyễn Tuân cung thiết tha vô cùng với quê hương đấtt nước
C- Kết bài:
- Qua hai tuỳ bút "NLDSĐ" va" ADDTCDS" ta cảm nhận được sâu sắc tình yêu quê hương đất nước, Tự hào về vẻ đẹp của quê hương đất nước
- Hiểu sâu sắc hơn về văn phong của các cây bút tài hoa: NfGuyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tương
Cảm nhận của anh (chị) về cái tài và cái tâm của Nguyễn Tuân thể hiện qua hai kiệt tác của hai chặng đường sáng tạo: truyện ngắn Chữ người tử tù và tùy bút Người lái đò Sông Đà.
Gợi ý
- Kiểu bài: phát biểu cảm nghĩ về một số vấn đề mà tác phẩm văn học nêu ra.
- Nội dung: cái tài và cái tâm của nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện trong truyện ngắn Chữ người tử tù sáng tác trước 1945 và tùy bút Người lái độ Sông Đà sáng tác sau 1945.
- Lưu ý: trước khi đi vào nệi đung cái tài và cái tâm trong hai kiệt tác trên, cần có đôi dòng xác định khái niệm cái tài (tài năng, tài hoa) và cái tâm (tấm lòng) của tác giả.
Dàn bài chi tiết:
I. Đặt vấn đề
Giới thiệu nhà văn Nguyễn Tuân: Sinh 1910 mất 1987, là một tác giả được sách giáo khoa Văn 12 nhận định như: "Một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn".
Nghĩ đến Nguyễn Tuân người ta thưởng nói đến một nghệ sĩ tài hoa, có phong cách độc đáo và cái "ngông" nổi tiếng. Nhưng Nguyễn Tuân còn là một nhà văn có tấm lòng tha thiết với đất nước, với tiếng Việt, với cuộc sống, với cái đẹp và cái thật.
- Giới thiệu truyện ngắn Chữ người tử tù và tùy bút Người lái đò Sông Đà:
"Chữ người tử tù" in trong tập truyện "Vang bóng một thời" xuất bản 1940 là một truyện có giá trị nổi bật viết về ông Huấn Cao – một khách tài hoa nghệ sĩ đồng thời là một trang anh hùng nghĩa sĩ tuy chí lớn không thành vẫn ung dung, bất khuất.
"Người lái đò Sông Đà" rút trong tập tùy bút "Sông Đà" của Nguyễn Tuân in lần đầu năm 1960, miêu tả một cách sắc sảo cảnh thác đá sông Đà và tài nghệ tuyệt vời của ông lái đò khi lao thuyền vượt thác.
Cả hai kiệt tác trên đã thể hiện được cái tài và cái tâm của Nguyễn Tuân ở hai chặng đường sáng tạo trước 1945 và sau 1945.
II. Giải quyết vân đề
1. Về cái tài là cái tâm của nhà nghệ sĩ lớn Nguyễn Tuân
- Tài: ở đây là tài năng, tài hoa thể hiện ở sự hiểu biết sâu rộng uyên bác, sự khám phá thiên nhiên, khám phá tâm hồn con người, sự tạo dựng những hình tượng mãnh liệt gây ấn tượng, sử dụng ngôn ngữ phong phú giàu tính tạo hình...
- Tâm: tấm lòng, sự hướng thiện, sự rung cảm chân thành đối với con người, cuộc sống, đất nước.
- Ở Nguyễn Tuân cả tâm và tài đều ở độ chín muồi, thăng hoa.
2. Cảm nhận về cái tài và cái tâm trong truyện ngắn "Chữ người tử tù"
a) Cái tài của Nguyền Tuân ở đây là sáng tạo được một nhân cách kiêu dũng, bất khuất trong vị thế một người tử tù trong một truyện ngắn trang nghiêm, cổ kính. Cần chú ý:
+ Tư thế ông Huân Cao: "Thản nhiên nhận rượu và ăn thịt" mặc dù ông là kẻ tù tù sắp đến ngày vào Kinh để chịu hành huyết.
+ Câu nói của ông Huấn Cao với quản ngục: "Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây".
- Tuy nhiên cái tài của Nguyễn Tuân trong việc sáng tạo nhân vật kiêu dũng này còn ở chỗ phát hiện được cái tính biết phục thiện của ông khi ông biết được nỗi lòng viên quản ngục.
+ Chú ý câu nói của ông Huấn Cao: "Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất tấm lòng trong thiên hạ".
+ Chú ý lời khuyên của ông Huân Cao: "Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiện lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi".
- Cảnh ông Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong cái đêm cuối cùng ở nhà lao là một đoạn "tuyệt bút", thể hiện tài năng tuyệt vời của ngòi bút Nguyễn Tuân. Đó là cảnh tượng "sưa nay chưa từng có" vừa trang trọng cổ kính, vừa dữ đội làm nổi rõ nhân cách cao cả và tài năng của Huấn Cao và "thiên lương" của quản ngục giữa cảnh ngục tù u ám, tối tám.
b) Cái tâm của Nguyễn Tuân ở truyện ngắn Chữ người tử tù.
- Việc phát hiện, xây dựng hai nhân cách cao đẹp là ông Huấn Cao và viên quản ngục ở chốn lao tù thể hiện rõ tấm lòng yêu tin trân trọng của nhà văn đối với con người, đối với cuộc sông "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
- Toàn bộ truyện ngắn toát lên tính nhân hậu, sự hướng thiện, hướng mĩ, nói lên tư tưởng tiến bộ, nhân văn của nhà văn ngay từ trước Cách mạng tháng Tám 1945.
3. Cảm nhận về cái tài và cái tâm của Nguyễn Tuân trong tùy bút "Người lái đò Sông Đà"
a) Cái tài của Nguyễn Tuân ở Người lái đò Sông Đà:
+ Tác giả đã dựng lên được một thạch trận sông Đà và một con người – ông lái đò – nghệ sĩ vượt thạch trận đó.
+ Thạch trận trên sông Đà: "Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này... Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông".
+ Ông lái đò – nghệ sĩ vượt thạch trận: "Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới (...) Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hẩt lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình (...) Không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật (...) Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ".
- Cái tài của Nguyễn Tuân ở đây còn thể hiện ở sự sử dụng ngôn ngữ, tạo dựng hình tượng gây ấn tượng mạnh mê đến người đọc. Ví dụ: "Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gẫy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thế quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt".
b) Cái tâm của Nguyễn Tuân ở Người lái đò Sông Đà.
- Thác dữ sông Đà bày thạch trận, ba lần trùng vi, ba lần hiểm nguy, song con người vẫn vượt lên thác dữ, cưỡi lên thác dữ như cười hổ và vượt thác xong, người lái đò sông Đà lại trở lại với cuộc sống bình thường. Nhà văn ca ngợi tài nghệ con người và nhất là cái chí vượt thác dữ chế ngự thiên nhiên của con người. Ở đây ông lái đò được nhà văn miêu tả như một nghệ sĩ tài hoa, có chí lớn vượt thác.
- Miêu tả cảnh thác dữ, miêu tả vẻ hùng vĩ của con sông Tây Bắc, Nguyễn Tuân tỏ ra rất mến yêu trân trọng thiên nhiên đất nước. Ông miêu tả sông Đà: "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo".
III. Kết thức vấn đề
- Nhà vãn Nguyễn Tuân đã đi xa từ mùa thu 1987 nhưng tác phẩm của ông vẫn còn lại với hậu thế. Đọc những tác phẩm của ông, người đọc cầm nhận được sâu sắc cái tâm, cái tài ông gửi gắm trong những tác phẩm ấy.
- Ông đúng là một nhà nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn, lớn cả tài năng và tấm lòng, mà Chữ người từ tù và Người lái đò sông Đà, hai kiệt tác bất hủ cũng đủ để minh chứng cho cái tài và cái tâm của nhà văn.
Đề bài : Hãy phân tích nhân vật người lái đò trong tùy bút "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân.
So sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù) để thấy chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945
HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU ĐỀ:
Tuy đề bài yêu cầu phân tích nhân vật người lái đò, nhưng trước khi tiến hành, cần giới thiệu vài nét về hình ảnh con sông Đà – cái nền để người lái đò xuất hiện. Khi so sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao, phải làm rõ vài nét về vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao để tìm được chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI:
Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà:
+Vài nét về hình ảnh con sông Đà: Sông Đà hiện lên thật hung dữ nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình là cái nền để người lái đò xuất hiện..
+ Nhân vật người lái đò sông Đà
-Ông lái đò có ngoại hình và những tố chất khá đặc biệt: tay "lêu nghêu", chân "khuỳnh khuỳnh", "giọng ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh", "nhỡn giới vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó"... Đặc điểm ngoại hình và những tố chất này được tạo nên bởi nét đặc thù của môi trường lao động trên sông nước
-Ông lái đò là người tài trí, luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ: ông hiểu biết tường tận về "tính nết" của dòng sông, "nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở", "nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá", "thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở", biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên "thạch trận" sông Đà. Đặc biệt, ông chỉ huy các cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn những thử thách đã qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn...
-Ông lái đò rất mực dũng cảm trong những chuyến vượt thác đầy nguy hiểm: tả xung hữu đột trước "trùng vi thạch trận" của sông Đà, kiên cường nén chịu cái đau thể xác do cuộc vật lộn với sóng thác gây nên, chiến thắng thác dữ bằng những động tác táo bạo mà vô cùng chuẩn xác, mạch lạc (tránh, đè sấn, lái miết một đường chéo, phóng thẳng...).
-Ông lái đò là một hình tượng đẹp về người lao động mới. Qua hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày. Ông lái đò chính là một người anh hùng như thế.
2. So sánh với nhân vật Huấn Cao:
a. Nhân vật Huấn Cao:
-Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, "thiên lương" trong sáng.
-Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng "biệt nhỡn liên tài".
Hình tượng ông Huấn Cao là hình tượng điển hình cho vẻ đẹp 'vang bóng một thời" nay đã lùi vào quá khứ chỉ còn dư âm trong tâm trạng của những tấm lòng tích cổ thương kim ( Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ- Vũ Đình Liên)
b. Từ việc tìm hiểu vài nét về vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao, chúng ta sẽ dễ thấy được chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám.
+ Nét chung (tính thống nhất):
– Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
– Vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện.
– Vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Các phép tu từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện.
+ Nét riêng (tính khác biệt):
– Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi là những "con người đặc tuyển, những tính cách phi thường". Sau Cách mạng tháng Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân.
– Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi "ngông", mắc cái bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái Đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Nhưng không còn là một Nguyễn Tuân "nghệ thuật vị nghệ thuật" nữa. Ông đã nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nẩy nở sinh sôi, đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới.
Đánh giá chung
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com