H20, skmt
CUNG CẤP NƯỚC SẠCH
MỤC TIÊU:
1.Trình bày được vai trò của nước đối với cuộc sống
2.Phân tích được các chỉ số dùng để đánh giá chất lượng môi trường nước.
3.Lựa chọn được các hình thức cung cấp nước cho cộng đồng theo vùng địa lý.
4.Đề xuất được các giải pháp xử lý nước để cung cấp nước sạch
NỘI DUNG:
1.Vai trò của nước với cuộc sống con nguới.
Nước vô cùng thiết yếu đối với cuộc sống, là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của con người. Giống như oxy để thở, con người không thể tồn tại được nếu không có nước.
Nước sạch là nhu cầu không thể thiéu trong đời sống hàng ngày của mọi người, là yêu cầu đầu tiên trong việc bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân cũng như trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Việc cung cấp nước sạch bảo đảm chất lượng và an toàn cũng như việc xây dựng công trình vệ sinh đúng quy cách là những mục đích và điều kiện tiên quyết để cải thiện sức khoẻ cộng đồng và phát triển kinh tế xã hội; Việc cấp nước sạch
đầy đủ sẽ có những lợi ích như sau:
Về sức khoẻ:
-Góp phần giảm tỷ lệ ốm đau cho người dân, tăng tuổi thọ cho người già. Làm giảm các nguy cơ lan truyền các bệnh bệnh liên quan đến nước như tả, lỵ, thương hàn, viêm gan, bại liệt. Các bệnh do các chất độc hoá học, các chất phóng xạ do nước bị ô nhiễm gây ra.
-Góp phần tăng năng xuất lao động, cải thiện đời sống cho gia đình do: không mất thời gian tiền bạc để chữa chạy khi bản thân hay người trong gia đình bị ốm đau. Tiết kiệm được thuốc men hoặc chạy thầy để chữa bệnh.
Về kinh tế:
-Giảm thời gian dành cho việc đi lấy nước và lo cho có nước.
-Tạo điều kiện để phát triển công nghiệp, nông nghiệp chăn nuôi, du lịch
Về xã hội:
Góp phần cải thiện đời sống cho gia đình và xã hội. Hàng xóm láng giềng sống hoà thuận và đoàn kết. Phụ nữ và những người trong gia đình có điều kiện sống, làm việc và học tập tốt hơn.
Với cá nhân:
-Nước là thực phẩm cần thiết cho đời sống và nhu cầu sinh lý của cơ thể, nước chiếm thành phần quan trọng trong cơ thể con người.
-Trong cơ thể, nước tham gia các quá trình chuyển hoá các chất, đảm bảo cân bằng các chất điện giải, điều hoà thân nhiệt.
-Mỗi ngày, mỗi người cần từ 1,5 lít đến 2,5 lít nước, để bù đắp lượng nước đã bài tiết qua da, qua phổi, qua thận. Khát nước là dấu hiệu của cơ thể bị thiếu nước.
Nhờ nước mà chất dinh dưỡng được đưa vào cơ thể để duy trì sự sống: Nước cung cấp cho cơ thể các nguyên tố cần thiết như I-ốt, Flor, Mang gan, Kẽm, Sắt, các vitamin, các axit amin. Do vai trò quan trọng như vậy, cho nên nước phải được cung cấp đủ và sạch.
2.Các chỉ số cơ bản đánh giá chất lượng mẫu nước
Các chất gây ô nhiễm nước gồm rất nhiều loại: các chất vô cơ, hữu cơ, các hoá chất, các vi sinh vật, cặn rác, nhiệt, phóng xạ. Để đánh giá chất lượng tổng thể nguồn nước, cần phải kiểm tra rất nhiều thông số, đòi hỏi phải có các phòng thí nghiệm với phương tiện hiện đại và rất tốn kém. Thông thường, nguời ta chỉ kiểm tra được một số chỉ tiêu thường xuyên còn những chỉ tiêu khác sẽ được chỉ định khi có những yêu cầu đặc biệt. Những chỉ tiêu sau là những chỉ tiêu phải kiểm tra, dễ thực hiện và đánh giá được chất lượng mẫu nước:
2.1. Nước ăn uống.
2.1.1.Các chỉ số cảm quan. Màu, mùi, vị, độ đục
2.1.2.Các chỉ số hoá học.
Độ Oxy hoá; Dẫn xuất Nitơ: NH4+, NO2-, NO3-; Cl-, Fe
Độc chất học: As, kim loại nặng,
2.1.3.Các chỉ số vi khuẩn: Tổng Coliform, Fecal Coliform hoặc E.Coli.
2.2.Nước thải và một số nguồn nước khác.
2.2.1.Các chỉ số cảm quan: Màu, mùi, độ đục
2.2.2.Các chỉ số hoá học.
Nhu cầu Oxy sinh hoá BOD5, nhu cầu Oxy hóa hoá học (COD), Oxy hoà tan trong nước (DO), tổng nitơ, tổng phot pho.
Độc chất học: As, Kim loại nặng.
2.2.3.Vật lý.
Nhiệt độ, hàm lượng cặn lơ lửng và không tan.
2.2.4.Các chỉ số vi sinh: Tổng Coliform, Fecal Coliform, vi khuẩn gây bệnh
2.3.Một số chỉ số đánh giá chất lượng
2.3.1.Màu sắc:
Nước sạch không có màu. Nước có màu biểu hiện nước bị ô nhiễm. Nếu bề dày của nước lớn, ta có cảm giác nước có màu xanh nhẹ đó là do nước hấp thụ chọn lọc một số bước sóng nhất định của ánh sáng mặt trời. Nước có màu xanh đậm chứng tỏ trong nước có các chất phú dưỡng hoặc các thực vật nổi phát triển quá mức và sản phẩm phân huỷ của thực vật đã chết.
Quá trình phân huỷ chất hữu cơ sẽ làm xuất hiện axit humic (mùn) hoà tan làm nước có màu vàng. Nước thải của các nhà máy, công xưởng, lò mổ... có nhiều màu sắc khác nhau.
Nước có màu tác động đến khả năng xuyên qua của ánh sáng mặt trời khi đi qua nước, do đó gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái.
Màu do hoá chất gây nên rất độc với sinh vật trong nước.
Cường độ của màu thường được xác định bằng phương pháp đo quang sau khi đã lọc các chất vẩn đục. Theo tiêu chuẩn về nước ăn uống, màu của nước phải <15TCU.
2.3.2.Mùi vị:
Nước sạch không mùi, không vị. Nước có mùi vị lạ là triệu chứng nước bị ô nhiễm. Mùi vị trong nước gây ra do hai nguyên nhân chủ yếu:
-Do các sản phẩm phân huỷ các chất hữu cơ trong nước.
-Do nước thải có chứa những chất khác nhau, màu mùi vị của nước đặc trưng cho từng loại.
Các mùi hay gặp trong nguồn nước sử dụng làm nước cấp cho ăn uống và sinh hoạt:
-Nước giếng ngầm: mùi trứng thối là do có khí H2S, kết quả của quá trình phân hủy các chất hữu cơ trong lòng đất và hòa tan vào mạch nước ngầm, hoặc mùi tanh của sắt và mangan.
-Nước mặt (sông, suối, ao hồ): mùi tanh của tảo là do sự xuất hiện của các loại tảo và vi sinh vật. Trong trường hợp này nước thường có màu xanh.
-Nước máy: mùi hóa chất khử trùng (clo) còn dư lại trong nước.
Mùi của nước được xác định theo cường độ tương đối quy ước. Tiêu chuẩn nước uống phải không có mùi, vị lạ.
2.3.3. Độ pH
Nguồn nước có pH > 7 thường chứa nhiều ion nhóm carbonate và bicarbonate (do chảy qua nhiều tầng đất đá). Nguồn nước có pH < 7 thường chứa nhiều ion gốc axit.
Bằng chứng dễ thấy nhất liên quan giữa độ pH và sức khỏe của người sử dụng là nó làm hỏng men răng.
pH của nước có liên quan đến tính ăn mòn thiết bị, đường ống dẫn nước và dụng cụ chứa nước. Đặc biệt, trong môi trường pH thấp, khả năng khử trùng của Clo sẽ mạnh hơn. Tuy nhiên, khi pH > 8,5 nếu trong nước có hợp chất hữu cơ thì việc khử trùng bằng Clo dễ tạo thành hợp chất trihalomethane gây ung thư. Theo tiêu chuẩn, pH của nước sử dụng cho sinh hoạt là 6,0 – 8,5 và của nước uống là 6,5 – 8,5.
2.3.4. Độ đục:
Nước tự nhiên thường bị vẩn đục do những hạt keo lơ lửng trong nước. Các hạt keo này có thể là mùn, vi sinh vật, sét. Nước đục làm giảm sự chiếu sáng của ánh sáng mặt trời qua nước.
Độ đục của nước được xác định bằng phường pháp so độ đục của nước với độ đục của một thang chuẩn.
Nước đục gây cảm giác khó chịu cho người dùng và có khả năng nhiễm vi sinh. Tiêu chuẩn nước sạch quy định độ đục nhỏ hơn 5NTU, nhưng giới hạn tối đa của nước uống chỉ là 2 NTU.
2.3.5.Tổng chất rắn hoà tan (TDS):
Thường làm cho nước có mùi vị khó chịu, đôi khi làm cho nước có màu. Các chất rắn tan trong nước thường là các chất khoáng vô cơ và đôi khi cả một số chất hữu cơ. Nước có hàm lượng chất rắn hoà tan cao không dùng cho sinh hoạt được, không dùng để tưới trong nông nghiệp trong thời gian dài được vì sẽ gây mặn cho đất. Nước có chứa nhiều chất rắn hoà tan có thể dẫn tới các vi sinh vật trong nước bị hoại sinh, oxi bị tiêu thụ nhiều và nước trở nên kỵ khí, dẫn đến hậu quả cá bị chết và do quá trình kỵ khí chiếm ưu thế nên giải phóng các bọt khí như CO2, NH3, H2S, CH4... làm cho nước có mùi. Nước có hàm lượng chất tan lớn cũng không dùng được trong công nghiệp vì các chất rắn sẽ dẫn đến đóng cặn trong bể chứa, nồi hơi, máy móc gây ra ăn mòn kim loại.
Người ta cũng dùng phương pháp trọng lượng để xác định tổng chất rắn hoà tan trong nước.
Tiêu chuẩn nước sạch quy định TDS nhỏ hơn 1.000 mg/l. Tiêu chuẩn nước uống quy định TDS nhỏ hơn 500 mg/l.
2.3.6. Độ oxy hóa (Chất hữu cơ)
Độ oxy hóa được dùng để đánh giá mức độ ô nhiễm của nguồn nước. Các chất bị oxy hoá trong nước gồm 3 nhóm: Nhóm cacbon hữu cơ từ thực vật, động vật, vi sinh..., nhóm thuộc chu trình nitơ và nhóm các chất vô cơ như sunphua, ion sắt II.... Nồng độ các chất này tương đương với lượng oxy tiêu thụ do các chất oxy hoá mạnh giải phóng ra dùng để oxy hoá chúng.
Phương pháp xác định: Chuẩn độ bằng KMnO4.
Tiêu chuẩn nước sạch quy định độ oxy hóa theo KMnO4) nhỏ hơn 4 mg/l. Tiêu chuẩn nước uống quy định độ oxy hóa (theo KMnO4) nhỏ hơn 2 mg/l.
2.3.7.Amoni:
Thuật ngữ Amoni bao gồm cả 2 dạng: dạng không ion hoá (NH3) và dạng ion hoá (NH4+) Amoni có mặt trong môi trường có nguồn gốc từ các quá trình chuyển hoá các chất hữu cơ có Nitơ, trong nông nghiệp, công nghiệp và từ sự khử trùng nước bằng Cloramin. Việc chăn nuôi gia súc qui mô lớn có thể làm gia tăng mạnh lượng amoni trong nước bề mặt. Amoni trong nước là một chỉ danh ô nhiễm do chất thải động vật, nước cống và khả năng nhiễm khuẩn.
2.3.8.Nitrit (NO2-)
Là sản phẩm trung gian giữa việc oxy hoá sinh học Amoniac và khử hoá Nitrat. Nước có nhiều Nitrit có thể là nguồn nước nhiễm bẩn do phân hay nguồn thải động vật hay do nước thải công, nông nghiệp. Khi mưa rào Nitrit có thể tăng vì acid Nitrơ (HNO2) hình thành trong không trung bị nước mưa hoà tan và xâm nhập vào các nguồn nước.
2.3.9. Độ cứng
Độ cứng là đại lượng đo tổng các cation đa hóa trị có trong nước, nhiều nhất là ion canxi và magiê. Nước mặt thường không có độ cứng cao như nước ngầm. Tùy theo độ cứng của nước người ta chia thành các loại sau:
Độ cứng từ 0 – 50mg/l -> Nước mềm
Độ cứng từ 50 – 150mg/l -> Nước hơi cứng
Độ cứng từ 150 – 300mg/l -> Nước cứng
Độ cứng > 300mg/l -> Nước rất cứng
Nước cứng thường cần nhiều xà phòng hơn để tạo bọt, hoặc gây hiện tượng đóng cặn trắng trong thiết bị đun, ống dẫn nước nóng, thiết bị giải nhiệt hay lò hơi. Ngược lại, nước cứng thường không gây hiện tượng ăn mòn đường ống và thiết bị.Theo tiêu chuẩn nước sạch, độ cứng được quy định nhỏ hơn 350 mg/l. Đối với nước ăn uống, độ cứng nhỏ hơn 300 mg/l. Tuy nhiên, khi độ cứng vượt quá 50 mg/l, trong các thiết bị đun nấu đã xuất hiện cặn trắng. Trong thành phần của độ cứng, canxi và magiê là 2 yếu tố quan trọng thường được bổ sung cho cơ thể qua đường thức ăn. Tuy nhiên, những người có nguy cơ mắc bệnh sỏi thận cần hạn chế việc hấp thụ canxi và magiê ở hàm lượng cao.
2.3.10.Sắt
Do ion sắt hai dễ bị oxy hóa thành hydroxyt sắt ba, tự kết tủa và lắng nên sắt ít tồn tại trong nguồn nước mặt. Đối với nước ngầm, trong điều kiện thiếu khí, sắt thường tồn tại ở dạng ion Fe2+ và hoà tan trong nước. Khi được làm thoáng, sắt hai sẽ chuyển hóa thành sắt ba, xuất hiện kết tủa hydroxyt sắt ba có màu vàng, dễ lắng. Trong trường hợp nguồn nước có nhiều chất hữu cơ, sắt có thể tồn tại ở dạng keo (phức hữu cơ) rất khó xử lý. Ngoài ra, nước có độ pH thấp sẽ gây hiện tượng ăn mòn đường ống và dụng cụ chứa, làm tăng hàm lượng sắt trong nước.Khi hàm lượng sắt cao sẽ làm cho nước có vị tanh, màu vàng, độ đục và độ màu tăng nên khó sử dụng. Tiêu chuẩn nước uống và nước sạch đều quy định hàm lượng sắt nhỏ hơn 0,5 mg/l.
2.3.11.Mangan
Mangan thường tồn tại trong nước cùng với sắt nhưng với hàm lượng ít hơn. Khi trong nước có mangan thường tạo lớp cặn màu đen đóng bám vào thành và đáy bồn chứa.
Ở hàm lượng cao hơn 0,15 mg/l có thể tạo ra vị khó chịu, làm hoen ố quần áo. Tiêu chuẩn nước uống và nước sạch đều quy định hàm lượng mangan nhỏ hơn 0,5 mg/l.
2.3.12.Asen (thạch tín)
Do thấm qua nhiều tầng địa chất khác nhau, nước ngầm thường chứa asen nhiều hơn nước mặt. Ngoài ra asen có mặt trong nguồn nước khi bị nhiễm nước thải công nghiệp, thuốc trừ sâu.
Tiêu chuẩn nước sạch quy định asen nhỏ hơn 0,05 mg/l. Tiêu chuẩn nước uống quy định asen nhỏ hơn 0,01 mg/l.
2.4.Tiêu chuẩn nước uống
Các tiêu chuẩn nước uống và nước sinh hoạt
Nước cấp cho sinh hoạt và ăn uống phải không màu, không mùi vị, không chứa các chất độc hại, các vi khuẩn và tác nhân gây bệnh. Hàm lượng các chất hoà tan không được vượt tiêu chuẩn cho phép.
Khi đánh giá chất lượng nước, chúng ta phải căn cứ vào tình hình điều tra vệ sinh nguồn nước, lấy mẫu đúng quy cách và xét nghiệm theo thường quy chuẩn.
Các tiêu chuẩn chất lượng nước cấp cho mục đích sinh hoạt và ăn uống theo tiêu chuẩn do Bộ Y tế quy định trong Quyết định số 1329/2002 BYT/QĐ ngày 18 tháng 4 năm 2002 cho nước dùng ăn uống và Quyết định số 1329/2005 BYT/QĐ ngày 18 tháng 4 năm 2005 cho nước dùng sinh hoạt.
3.Các loại mô hình cấp nước
Hiện nay cả 3 loại nguồn nước: Nước mưa, nước mặt và nước ngầm đều được sử dụng để cung cấp nước cho cộng đồng. Các hình thức cung cấp phổ biến là giếng khơi, giếng khoan, bể chứa nước mưa và cả hệ thống cung cấp nước tập trung bằng đường ống... Tuy nhiên, có một đặc điểm chung cho cả vùng nông thôn và các thị trấn nhỏ là một hộ gia đình thường có nhiều nguồn nước sử dụng cho các mục đích khác nhau. Hình thức cung cấp nước cho cộng đồng được phân làm hai loại:
- Công trình cấp nước phân tán, phục vụ cho từng hộ gia đình, từng nhóm gia đình.
- Công trình cấp nước tập trung: hệ thống nước tự chảy, hệ thống dẫn nước bằng đường ống phục vụ cho các khu vực dân cư.
3.1.Cácmô hình cấp nước nhỏ lẻ:
3.1.1. Công trình thu nước mưa: Bể chứa nước mưa.
Từ ngàn đời nay phần lớn người dân nông thôn Việt Nam có tập quán thu hứng, dự trữ, sử dụng nước mưa. Nước mưa được sử dụng thích hợp cho các vùng:
1.Miền núi cao không có mạch nước ngầm, nước mặt
2.Vùng ven biển, hải đảo không có nguồn nước ngọt.
3.Các vùng đồng bằng nơi nguồn nước ngầm nông chất lượng kém.
Tuy nhiên nước mưa phụ thuộc theo mùa, không đủ để sử dụng trong cả năm.
Đối với nguồn nước mưa, thường xây dựng các bể chứa cho các hộ gia đình. Vật liệu xây dựng bể phổ biến nhất là gạch, có thể xây bằng đá hoặc đổ bê tông. Bể chứa có thể được xây ngầm, xây nổi hoặc nửa nổi, nửa chìm. Khi bể có dung tích lớn nên chia làm nhiều ngăn để tiện cho việc sử dụng và thau rửa.
Để thu được nước mưa có chất lượng tốt cần phải theo những quy định sau:
-Thường xuyên quét sạch rác, bụi có trên mái hứng và máng thu nước.
-Loại bỏ nước mưa ban đầu đến khi mái hứng và máng thu đã được rửa sạch.
-Các dụng cụ chứa nước phải có nắp đậy kín, có vòi để dễ lấy nước, định kỳ thau tát làm vệ sinh và nên nuôi cá vàng để diệt bọ gậy.
3.1.2.Các công trình thu nước ngầm
•Giếng thu nước ngầm nông.
Nhiều vùng còn gọi là giếng khơi, giếng thơi hoặc giếng đào, áp dụng cho các vùng nguồn nước ngầm nông có chất lượng tốt.
Giếng khơi thường có đường kính từ 0,8m đến vài mét, được đào bằng phương pháp thủ công, thành giếng có thể xây bằng gạch, đá, đổ bê tông cốt thép. Chiều sâu giếng phụ thuộc vào độ sâu tầng chứa nước.
Tuỳ theo điều kiện địa chất từng vùng, nước có thể lấy hoàn toàn từ đáy giếng, xung quanh thành giếng hoặc cả cả từ thành và đáy.
Để lấy nước từ đáy, thành giếng được xây và chít kỹ mạch. Dưới đáy giếng, đổ một lớp vật liệu đỡ gồm cát, sỏi, đá gọi là lớp lọc ngược với chiều dày khoảng 0,3 - 0,6m. Cách này áp dụng cho các vùng đất đá yếu dễ sụt lở, chiều dày tầng chứa nước lớn hoặc khi cần bảo vệ vệ sinh. Khi tầng chứa nước mỏng, các giếng được đào xuyên tới lớp đất không thấm nước, nước chảy vào giếng sẽ được lấy vào từ thành giếng. Phần nhận nước thường xây gạch, châm lỗ các mạch xây hoặc dùng bê tông có các lỗ rỗng.
Thành giếng được xây bằng gạch, đá, khi đường kính lớn có thể sẽ bằng bê tông toàn khối và thi công theo phương pháp đánh tụt - thông thường nhất là lắp ghép từ các khoanh xây gạch (đường kính bé) hay là khoanh bêtông khi đường kính lớn.
Để đảm bảo vệ sinh, giếng phải đạt các yêu cầu sau:
-Thành giếng cao hơn mặt đất 0,8m.
-Cổ giếng phải chèn lớp đất sét dày 0,5m và sâu 1,2m
-Sân giếng xây bằng gạch, bêtông, có rãnh thoát nước
-Có nắp đậy giếng
-Nếu dùng gầu múc nước, phải có giá để gầu
-Giếng phải xa nguồn ô nhiễm nhất là hố xí, chuồng gia súc với khoảng cách vệ sinh tối thiểu 10m.
-Khi nước trong các giếng khơi không bảo đảm yêu cầu về chất lượng, cần phải xây dựng các công trình xử lý: làm trong hoặc khử sắt... phổ biến nhất là bể lọc chậm.
•Giếng đào nông
Thích hợp cho vùng ven biển và hải đảo, do gần biển nên giếng và sông ngòi vùng này dễ bị nhiễm mặn, chua, phèn. Các giếng đào sâu sẽ có tỷ lệ nhiễm mặn khá cao. Do vậy, người ta phải đào giếng nông để tận dụng nước mưa thấm qua cát hoặc đất pha cát tập trung thành một lớp nước nổi trên nước mặn.
Đối với giếng nông, để có nước sạch, nên cho nước lọc qua qua một lớp cát dày khoảng 40 cm dưới đáy giếng. Giếng không nên sâu quá 3m và có đường kính lớn hơn các giếng khơi ở vùng đồng bằng để thu được thể tích nước nhiều hơn. Ngoài ra, thành giếng cũng phải được trát kín bằng xi măng cát, có chu vi bảo vệ giếng và có rãnh thoát nước.
•Giếng hào lọc
Tại các vùng nguồn nước ngầm nông chất lượng kém hoặc đào sâu vẫn không gặp mạch nước, hoặc vùng ven biển gặp mạch nước mặn, phải đào giếng hào lọc để lấy nước lọc từ hồ, ao, mương máng dẫn nước.
Cấu tạo của giếng hào lọc gồm 2 phần: Giếng và hào lọc.
Hào lọc có đường kính bằng 1/2 đường kính của giếng, cách ao 2 m, sâu hơn hoặc bằng đáy ao, dốc thoai thoải đến giếng. Có 2 loại hào lọc: Hào lọc đáy hở và hào lọc đáy kín, tốt nhất nên dùng hào lọc đáy kín khi có điều kiện. Hào lọc đáy hở có thể dùng cho vùng đồng bằng. Cấu tạo là hào đất trong đổ cát vàng, cát đen, sỏi được lèn kỹ để lọc nước. Hào đất không tới ao mà có một đoạn đất mỏng giữa hào và ao để tránh bùn và các hạt cặn ở ao, hồ vào hào lọc. Vách giếng được miết xi măng cho kín nhưng chỗ tiếp giáp với hào lọc không trát kín để cho nước thấm vào giếng.
Ở vùng ven biển phải dùng hào lọc đáy kín. Hào được xây bằng gạch, được trát kín ở đáy và vách để tránh sự xâm nhập của nước mặn, nước bẩn. Khác với hào đất, hào gạch ăn thông với giếng. Vách giếng và hào lọc có đặt thêm vỉ tre đan và sát thành giếng đổ một lớp sỏi nhỏ để giữ cát không tràn vào giếng. Có thể làm nắp đậy bằng bê tông để thay cát sỏi khi cần thiết.
Nước ao, hồ, mương qua hào lọc cát, sỏi sẽ có chất lượng tốt hơn: nước trong, hàm lượng các chất hữu cơ giảm.
Khi sử dụng giếng hào lọc cần chọn ao hồ sạch, giữ gìn vệ sinh ngoại cảnh tốt và thay lớp lọc khi cần thiết. Giếng hào lọc có yêu cầu vệ sinh như giếng khơi xây khẩu.
• Giếng mạch lộ
Những vùng núi, ven núi, vùng bán sơn địa... có những điểm nước ngầm chảy thành dòng ra bên ngoài. Người ta thường gọi đó là giếng mạch lộ, giếng tiên. Chất lượng các nguồn nước này thường rất tốt, lưu lượng ổn định.
Có thể xây bể chứa để tập trung nước và bảo vệ vệ sinh, sau đó được lắp các thiết bị lấy nước rồi dẫn đi tới các nơi dùng. Đối với nguồn nước này có hai cách sử dụng:
- Nguồn mạch lộ thấp hơn các khu dân cư: Nguồn nước sẽ được xây lại, bảo vệ như một giếng khơi. Người sử dụng tự đưa nước về nhà, có thể dùng bơm điện hút lên, đẩy tới các nơi sử dụng nước.
- Nguồn nước mạch lộ cao hơn các khu dân cư:
Nước được đưa tới các gia đình bằng các ống nhựa hoặc các cây nứa, vầu đã được đục mắt.
Loại công trình này ít khi phải xây dựng công trình xử lý chất lượng.
•Nước giếng cạnh chân đồi, chân núi:
Miền núi, trung du và vùng có gò đồi có thể đào giếng ở chân đồi, chân núi.
Nước trong lòng núi là nước đã lọc, được tích tụ lại ở những chỗ trũng. Do đó, đào giếng dưới chân đồi thoải, cách ruộng vài mét sẽ có nhiều nước. Giếng đào nông sẽ có nhiều oxy để oxy hoá chất hữu cơ và giảm được độ cứng.
Khi đào giếng, cần xây bờ cao quanh miệng giếng để tránh nước bẩn từ trên đồi hoặc xung quanh chảy vào giếng.
•Nước giếng đào ven suối:
Ở các vùng núi, người ta đào giếng cạnh các suối sẽ thu được nước có chất lượng tốt hơn nước suối.
Cách suối 2m đào giếng nước có đáy sâu hơn đáy của suối. Nước sẽ thấm từ đáy suối qua một lớp sỏi, cát và chảy vào giếng sẽ được nước sạch.
•Các giếng khoan nước ngầm.
Nhiều vùng đã sử dụng giếng khoan nước ngầm với các độ sâu khác nhau, trung bình vài chục mét (15-30m), đôi khi sâu tới vài trăm mét, nhất là các vùng ven biển bị nhiễm mặn thường phải khoan sâu nên đòi hỏi đầu tư kinh phí lớn.
Chất lượng nước giếng khoan khác nhau tuỳ theo độ sâu của giếng và cấu tạo địa chất của từng vùng. Thông thường các giếng khoan có nhiều sắt nên vấn đề đặt ra là phải xây dựng đồng thời các bể lọc sắt.
Để bảo vệ nguồn nước ngầm, giếng khoan riêng lẻ cho từng hộ gia đình chỉ nên dùng cho các vùng dân cư sống cách xa nhau hoặc khi các nguồn nước khác là rất khó khăn có thể có được.
3.2.Các công trình cấp nước tập trung
Những năm gần đây, hệ thống cấp nước tập trung không chỉ phục vụ cho các đô thị mà ngay ở các vùng nông thôn như các thị tứ hoặc nơi dân cư sống tập trung cũng đang ngày càng được phát triển. Hệ thống cấp nước tập trung có thể đảm bảo được chất lượng nước tốt, rất thích hợp với vùng có mật độ dân số cao.
Chiến lược Quốc gia cấp nước vệ sinh nông thôn cũng nhấn mạnh đây là mô hình mà Chính phủ khuyến khích và Nhà nước sẽ đóng góp chi phí xây dựng, xem như một phương thức hiện đại hoá nông thôn. Hiện nay Ngân hàng thế giới đang hỗ trợ Việt Nam cho vay vốn để đẩy mạnh việc phát triển loại hình cấp nước này.
Tuỳ theo từng vùng, các hệ thống cấp nước tập trung có thể sử dụng nguồn nước ngầm (ngầm nông hoặc ngầm sâu) hoặc nguồn nước bề mặt. Các nguồn nước này được hút lên nhờ trạm bơm cấp 1, sau đó phải qua khâu xử lý để đạt tiêu chuẩn nước sạch. Nước sau xử lý được chứa vào các bể chứa, qua trạm bơm cấp 2 mới dẫn theo đường ống đến các hộ sử dụng. Những vùng miền núi có nguồn nước ở các khe núi cao chảy quanh năm có thể xây dựng bể chứa nước và dẫn nước về các cụm dân cư bằng đường ống, không cần phải bơm nước. Một số hệ thống cấp nước tập trung đang được sử dụng hiện nay là:
-Trạm khai thác nước ngầm sâu:
-Trạm khai thác nước bề mặt
-Trạm khai thác nước ngầm nông (giếng đào).
-Hệ thống nước tự chảy:
4.Các phương pháp xử lý nước
Để thu được nước có chất lượng tốt hơn, thường phải qua khâu xử lý nước. Tuỳ theo nguồn nước và chất lượng nước, các công đoạn xử lý nước có thể khác nhau nhưng nhìn chung bao gồm các khâu: Khử sắt đối với nước ngầm, làm trong với nước bề mặt, sau đó qua các công đoạn lắng, lọc và cuối cùng là tiệt khuẩn. Một số nguồn nước có thể thêm các công đoạn khác như giảm độ cứng, khử mùi, giảm hàm lượng As, NH4+...
4.1.Các phương pháp khử sắt:
Việc khử sắt là hết sức quan trọng trong khâu xử lý nước, làm tăng độ trong và nâng cao chất lượng nước. Tuỳ theo nguồn nước mà các giai đoạn xử lý có thể thay đổi. Thông thường các nguồn nước càng sâu thì càng nhiều sắt, tuy không ảnh hưởng đến sức khoẻ nhưng hàm lượng sắt lớn ảnh hưởng đến màu, mùi vị của nước.
Trong nước ngầm, sắt thường tồn tại ở dạng ion sắt hoá trị II dưới dạng các muối hoà tan như bicacbonat, sunfat, clorua. Vì thế, các hợp chất vô cơ của sắt hoà tan trong nước hoàn toàn có thể xử lý bằng phương pháp lý học: làm thoáng để lấy oxy của không khí oxy hoá sắt hoá trị II thành sắt hoá trị III và quá trình thuỷ phân, keo tụ Fe(OH)3 xảy ra hoàn toàn trong các bể lắng, bể lọc.
Các loại phức chất và hỗn hợp các ion hoà tan của sắt, không thể khử hết bằng phương pháp lý học mà phải kết hợp với phương pháp hoá học. Muốn khử sắt ở dạng này phải cho thêm vào các chất oxy hoá (Cl2, KMnO4, H2O2) để phá vỡ liên kết và được kiềm hoá để có giá trị pH thích hợp cho quá trình keo tụ. Sau đó các chất lắng đọng sẽ được loại bỏ triệt để trong các bể lắng và bể lọc.
4.1.1.Phương pháp làm thoáng (phương pháp oxy hoá sắt bằng oxy)
Nguyên lý của phương pháp này là oxy sắt (II) thành sắt (III) và tách chúng ra khỏi nước dưới dạng sắt (III) hydroxyt và Fe2O3. Trong nước ngầm sắt (II) bicacbonat là một muối không bền, nó dễ thuỷ phân thành sắt (II) hydroxyt theo phản ứng:
Fe(HCO3)2 + 2H2O = Fe(OH)2 + 2H2CO3 (1)
Nếu trong nước có oxy hoà tan, sắt (II) hydroxyt sẽ bị oxy hoá thành sắt (III) hydroxyt theo phản ứng:
4Fe(OH)2 + 2H2O + O2 = 4Fe(OH)3 (2) Fe(OH)3 Ĝ>Fe2O3 + 3H2O
Sắt (III) hydroxyt trong nước kết tủa thành bông cặn màu vàng (Fe2O3) và có thể tách ra khỏi nước nhờ quá trình lắng, lọc.
Dựa vào nguyên lý trên, một số nhà máy nước thường dùng phương pháp oxy hoá bằng giàn mưa hoặc bơm khí ép vào nước.Trong điều kiện ở nông thôn không có bộ phận làm giàn mưa, có thể xây dựng kiểu bể lọc hở dựa trên nguyên tắc bể lọc cát chậm.
4.1.2.Khử sắt bằng hoá chất
a. Khử sắt bằng vôi.
Phương pháp này có thể áp dụng cho cả nước mặt và nước ngầm. Khi cho vôi vào nước, độ pH của nước tăng lên. ở điều kiện giàu ion OH¬-, các ion Fe2+ thuỷ phân nhanh chóng thành Fe(OH)2 và lắng xuống một phần, thế oxy hoá khử tiêu chuẩn của hệ Fe(OH)2 /Fe(OH)3 giảm xuống, do đó sắt (II) dễ dàng chuyển hoá thành sắt (III). Sắt (III) hydroxyt kết tụ thành bông cặn và tách ra khỏi nước nhờ quá trình lắng, lọc.
Phản ứng diễn ra như sau: Fe(HCO3)2 + Ca(OH)2 Ĝ> Ca(HCO3)2 + Fe (OH)2
Sau đó phản ứng tiếp tục diễn ra như (2), (3). Việc khử sắt bằng vôi làm tăng độ cứng của nước.
b. Khử sắt bằng clo
Khi trong nước ngầm có hàm lượng các tạp chất hữu cơ cao, các chất hữu cơ sẽ tạo ra dạng keo bảo vệ các ion sắt. Tiến hành phá vỡ được màng hữu cơ bảo vệ bằng tác dụng của các chất oxy hoá mạnh, ví dụ như khử sắt bằng Clo.
Quá trình khử sắt bằng clo được thực hiện nhờ phản ứng sau:
2Fe(HCO3)2+ Cl2 +Ca(HCO3)2 + 6H2O = 2Fe(OH)3+CaCl2+6H+ +6HCO3
Đồng thời với việc khử sắt bằng clo, các chất hữu cơ cũng được khử khỏi nước, do đó liều lượng clo cần thiết cho quá trình còn phụ thuộc vào hàm lượng các chất hữu cơ có trong nước.
Trường hợp nước nguồn có các hợp chất amoni hoà tan, clo sẽ kết hợp với chúng để tạo thành cloramin. Với thế oxy hoá khử của clo là 1,36V và của cloramin là 0,76V, chỉ bằng một nửa thế oxy hoá khử của clo, do vậy quá trình oxy hoá bị chậm lại. Vì vậy, với nước có chứa các hợp chất amoni hoà tan với nồng độ đáng kể thì việc sử dụng clo để khử sắt là hoàn toàn không có lợi.
4.2.Làm trong
Làm trong là quá trình tách các tạp chất lơ lửng gây ra độ đục của nước, đồng thời làm giảm một phần lớn lượng vi khuẩn có trong nước. Có 2 phương pháp làm trong nước: Làm trong tự nhiên và làm trong bằng hoá chất.
- Làm trong tự nhiên: Để các cặn đục tự lặng xuống bằng trọng lực, theo thời gian, nước sẽ trong và cặn lắng xuống đáy dụng cụ chứa đựng. Tuy nhiên, cách này đòi hỏi thời gian lâu và khi cặn có kích thước nhỏ hoặc ở dạng keo sẽ không lắng được, nước sẽ không đạt độ trong.
- Làm trong bằng hoá chất: Sử dụng phèn nhôm hoặc phèn sắt để làm trong nước. Phèn sắt thường tốt hơn phèn nhôm vì ngoài tác dụng làm trong, phèn sắt còn có khả năng trung hoà các chất độc trong nước nhưng phải tính toán liều lượng phù hợp nếu không sẽ làm tăng hàm lượng sắt.
Liều lượng: Muốn tính toán đúng lượng phèn phù hợp cần phải thực hiện Test làm trong vì độ đục của nước rất khác nhau. Dùng phèn để làm trong nước có thể loại cả vi khuẩn và trứng giun.
Cơ chế phản ứng:
Al2(SO4)3 + 3Ca(HCO3)2 3CaSO4 + 2Al(OH)3 + 6 CO2
Al(OH)3 -> Al+++ + 3 OH-
Tương tự như vậy đối với phèn sắt. Đối với các trạm cấp nước tập trung, giai đoạn keo tụ này được thực hiện nhờ các công trình sau đây:
- Dự trữ hoá chất, pha chế và định lượng phèn.
- Bể trộn phèn với nước (không quá 2 phút).
- Bể phản ứng: phản ứng hoá học hình thành các bông cặn (thời gian từ 10 đến 20 phút)
Giai đoạn lắng: Thực hiện trong các bể lắng và giữ lại phần lớn các hạt cặn trong nước. Hoạt động theo nguyên tắc: nước chảy từ từ qua bể, các hạt cặn sẽ rơi xuống đáy bể.
a) Bể lắng ngang: giống như một bể chứa hình chữ nhật, nước chảy vào ở một đầu chuyển động theo chiều ngang và chảy ra ở đầu bể kia .
b) Bể lắng đứng: bể hình trụ tròn có đáy hình nón, nước chảy trong bể theo phương thẳng đứng từ dưới lên.
c) Bể lắng ly tâm: Nước chảy theo hướng ly tâm từ trung tâm bể ra tới ra các màng thu nước ở quanh bể.
Giai đoạn lọc: là giai đoạn làm trong cuối cùng, thực hiện trong các bể lọc nhanh hoặc bể lọc chậm bằng cách cho nước đi qua lớp vật liệu lọc, thường là cát thạch anh, dầy 0,7-1,3 m. Để giữ cho cát khỏi đi theo nước vào ống thu nước, dưới lớp cát người ta đặt một lớp cuội hoặc đá dăm.
Bể lắng lọc đơn giản cho gia đình Có thể dùng các phương tiện chứa đựng cổ truyền như chum, vại sành hoặc xây như khẩu giếng với khoanh gạch nghiêng hình trụ, có đáy, xây trát bằng xi măng như khi xây giếng, ở đáy có lỗ thoát nước để dễ thau rửa, đường kính khoảng 0.7-0.8m.
Một gia đình có 2-3 dụng cụ như cụ như vậy có thể chứa nước hàng ngày. Một bể chứa nước đã đánh phèn, một bể để đựng nước đã trong. Nếu khi đánh phèn nước vẫn còn đục thì có thể lọc qua lớp lọc là cát sỏi, thứ tự xếp vật liệu lọc vào chum vại các lớp từ dưới lên trên như sau:
-Lớp đá, sỏi to dưới cùng dày khoảng 10-15cm
-Lớp giữa là lớp đá, sỏi vừa và nhỏ, dày 15-20cm
-Trên cùng là lớp cát sạch dày từ 25-30cm.
Để tránh xáo trộn vật liệu lọc khi đổ nước vào bể, có thể đặt trên lớp cát một tấm xi măng mỏng có lỗ, hoặc tấm tải đay.
Nếu xây một bể lọc ba ngăn bằng gạch, kích thước có thể như sau : Dài : 120-130cm Rộng : 70-80cm. Cao : 60-70cm.
Các lớp vật liệu xếp vào bể tương tự như trên.
Bảo quản và sử dụng : Sau thời gian sử dụng khoảng 1 đến 2 tháng hoặc có thể sớm hơn, ở những vùng nước có nhiều sắt cần phải hớt lớp cát bùn bẩn ở phía trên hoặc rửa lại lớp vật liệu lọc và thay lớp cát mới, sau đó lại sử dụng bình thường
4.3.Khử màu: Khử màu là loại trừ các tạp chất làm cho nước có màu, chủ yếu là các hợp chất keo có kích thước hạt trong khoảng 10-4 đến 10-6 mm. Nước mặt thường đục và có màu nên hai quá trình này thường được thực hiện đồng thời.
4.4.Khử mùi:Bình thường nước không có mùi. Mùi của nước có thể do: cấu tạo địa chất, trong nước có rong rêu, tảo, do nước bị ô nhiễm. Trong quá trình làm thoáng nước, mùi của nước có thể mất hoặc giảm đi. Muốn khử mùi, người ta cho nước chảy qua một lớp than hoạt hoặc than hoa xếp thành một lớp lọc giữa cuội và cát.
4.5.Giảm độ cứng:
- Giảm bằng hoá chất: dùng vôi sượng (CaO.CaCO3).
- Dùng nhựa trao đổi ion: Để làm mềm nước người ta dùng Natri cationit (Na2R) và hydro cationit (H2R).
Cho nước đi qua ống hấp thụ có cationit, các ion Ca và Mg có trong nước sẽ bị thay thế, độ cứng còn lại không đáng kể:
Ca(HCO3)2 + Na2R = CaR + 2NaHCO3
Mg(HCO3) + Na2R = MgR + 2NaHCO3
Sau một thời gian sử dụng, có thể tái tạo lại các chất cationit bằng cách cho dung dịch NaCl 5-10% chảy qua lớp cationit:
CaR + 2NaCl = CaCl2 +Na2R
MgR + 2NaCl = MgCl2 +Na2R
4.6.Tiệt trùng nước: Là giai đoạn cuối cùng trong quá trình xử lý nước, vì sau khi qua bể lắng, bể lọc lượng vi khuẩn đã giảm đáng kể (khoảng 90%) song chưa diệt hết các vi khuẩn gây bệnh.
4.6.1.Phương pháp cơ học: Cho nước chảy qua các nến lọc được chế tạo bằng kaolin, sứ xốp hay chất dẻo như nến lọc Chamberland, Bát Tràng, Biên Hoà hoặc các bình lọc nước đang được bán trên thị trường. Phương pháp này không đảm bảo tiệt trùng triệt để.
4.6.2.Phương pháp vật lý:
4.6.2.1. Dùng nhiệt độ: Đun sôi nước:
Trong trường hợp khẩn cấp, đun sôi nước là cách tốt nhất để làm sạch nước vì đun sôi nước có thể loại bỏ được vi khuẩn và ký sinh trùng. Để đảm bảo tiệt khuẩn nước phải được đun sôi tối thiểu trong 3 phút. Nếu nước đục, cần phải lọc nước trước khi đun sôi. Lợi ích của đun sôi nước ngoài loại bỏ được các mầm bệnh ẩn náu trong nước còn có thể loại bỏ được các chất hữu cơ bay hơi.
4.6.2.2. Dùng tia tử ngoại:
Tia tử ngoại có khả năng diệt khuẩn với các loại nước có độ trong tốt và bề dầy của cột nước là không quá 10 cm. Phương pháp này đang được áp dụng ở các xí nghiệp nước đóng chai và trong các thiết bị xử lý nước uống cho các gia đình, trong các nhà máy hoặc thiết bị xử lý nước phục vụ cho công nghiệp thực phẩm bia, nước ngọt...
4.6.3.Phương pháp hoá học:
Sử dụng phổ biến và có hiệu quả nhất, tiệt trùng được khối lượng lớn nước và giá thành rất rẻ.
Phổ biến nhất là người ta dùng các hoá chất sinh ra Clo: như Clo lỏng và hợp chất của Clo như Clorua vôi, nước Javen, Chloramin, Pantocid... Nhược điểm của phương pháp là làm cho nước có mùi Clo và nếu trong nước có lẫn phenol (nhựa đường, nước thải) sẽ tạo thành Clorophenol là chất rất độc. Cần phải làm Test Clo để tính được lượng Clo cần thiết cho vào nước để đảm bảo tiệt trùng có hiệu quả và đảm bảo được lượng Clo thừa có trong nước ở hộ dân cư trên 0,3 mg/lít. Tuy nhiên nếu trong nước có nhiều Amoni, Clo có thể kết hợp với các hợp chất Amoni trong nước để tạo thành Chloramin, đôi khi được gọi là clo hoá hợp. Do hoá hợp với Amoni, Clo tự do trong nước không còn. Cloramin có hiệu quả tiệt khuẩn giảm 60-80 lần so với clo tự do.
Ngoài ra, người ta còn dùng ozone (O3) để tiệt trùng nước: Ozone là một chất oxy hoá rất mạnh. Nó oxy hoá được tất cả các vi khuẩn, nấm mốc, men, các chất hữu cơ và các vi rút. Ozone còn có khả năng diệt được cả tảo và rêu. Dùng ozone để tiệt khuẩn không để lại mùi và vị trong nước. Tuy nhiên ozone không loại bỏ được các chất khoáng hoà tan và muối. Do ozone phân huỷ rất nhanh thành oxy nên nếu dùng ozone để tiệt khuẩn nước phải cho thêm clo hoặc các chất tiệt khuẩn khác để giảm tối thiểu lượng vi khuẩn khi dự trữ và cung cấp nước.
4.7.Các thiết bị xử lý nước gia đình
Trên thị trường hiện tại đang bán rất nhiều thiết bị xử lý nước, chủng loại các thiết bị này rất đa dạng. Có loại chỉ đơn thuần là các bình nến lọc cơ học giá thành thấp, nhưng có những thiết bị rất đắt tiền và phức tạp. Tuỳ theo giá thành thiết bị và chất lượng nước cần xử lý có thể lựa chọn một hay kết hợp nhiều phương pháp xử lý nước chung như: các phương pháp lọc, các hệ thống làm mềm nước, các bình chưng cất nước, các bộ lọc ngược (RO), thiết bị tiệt trùng, loại bỏ sắt.
4.7.1.Lọc nước
Lọc nước có thể được phân loại theo cơ chế cơ học (màng vi lọc) hoặc hấp thụ.
Lọc cơ học có thể bao gồm màng lưới lọc nhưng thông thường các ống lọc được làm từ các sợi thiên nhiên, sợi tổng hợp hoặc bằng cát.
Lọc hấp thụ sử dụng cac bon hoạt tính, một dạng của than là vật liệu lọc. Điển hình lọc các bon được sử dụng để loại bỏ vị, mùi và số lượng nhỏ các các chất hữu cơ.
4.7.2.Các thiết bị làm mềm nước:
Phương pháp chung để làm mềm nước là sử dụng sự trao đổi ion như phần trên. Hệ thống làm mềm nước sẽ loại bỏ được số lượng nhỏ các ion sắt hòa tan (5-10ppm). Tuy nhiên, nếu có sắt bị oxy hóa và vi khuẩn sắt trong nước, nhựa trao đổi ion sẽ trở nên bị bao phủ hoặc bị bít tắc lại và mất khả năng làm mềm. Trong trường hợp này, cần một phương pháp khác để loại bỏ sắt như lọc sắt hoặc phối hợp lọc - clo hóa nước trước khi cho nước chảy qua hệ thống làm mềm nước.
4.7.3.Thiết bị xử lý nước RO (Reverse Osmois Unit).
Một thiết bị RO có thể loại bỏ được hơn 95% các chất nhiễm bẩn vô cơ như nitrat, can xi và magie. Nó cũng loại bỏ được một số chất hóa học hữu cơ. Trong thiết bị RO, màng RO có hiệu quả để loại bỏ các chất khi còn mới và hiệu quả sẽ giảm theo thời gian, do vậy tuỳ theo chất lượng nước phải định kỳ thay màng RO. Trong gia đình, chỉ nên sử dụng thiết bị RO để xử lý nước uống và nước nấu ăn.
4.7.4.Các thiết bị tiệt trùng
- Các thiết bị dùng tia tử ngoại
- Các thiết bị dùng ozon.
2.3.2.Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020 và các giải pháp
Ngày 25/8/2000 Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 104/2000/QĐ-TTg về việc phê duyệt chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020. Quyết định nêu rõ: Mục tiêu đến năm 2020: Tất cả dân cư nông thôn sử dụng nước sạch đạt TCVN với số lượng ít nhất 60 lít / người/ngày.
Để đạt được các mức phấn đấu mà chiến lược Quốc gia đặt ra, các giải pháp chiến lược bao gồm:
-Triển khai công tác thông tin-giáo dục- truyền thông và sự tham gia của cộng đồng
-Cải tiến tổ chức, tăng cường pháp chế và phát triển nguồn nhân lực, đưa khoa học công nghệ vào phục vụ sự nghiệp cấp nước.
-Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
-Ban hành các văn bản, tạo lập môi trường pháp lý và môi trường xã hội thuận lợi cho việc cấp nước.
-Đổi mới cơ chế tài chính, huy động các nguồn vốn trong xã hội.
-Nghiên cứu phát triển và áp dụng công nghệ thích hợp.
-Đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động cấp nước sạch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ Y tế (2006), Xây dựng Y tế Việt nam công bằng và phát triển. Nhà xuất bản Y học, 2006.
2.Quyết định của Thủ tướng chính phủ: 104/2000/QĐ-TTg. Chiến lược quốc gia về cấp nước và vệ sinh môi trường đến năm 2020.
3.Home Water -1079Treatment Equipment: An Overview. G92
4.Tổ chức Y tế thế giới (1993), Hướng dẫn về chất lượng nước uống. Geneva, 1993.
5.Trường Đại học Y Hà Nội, Vệ sinh môi trường dịch tễ tập 1, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội 1998.
6.Viện Y học lao động và Vệ sinh môi trường (2002), Thường quy kỹ thuật Y học lao động và vệ sinh môi trường, Hà Nội 2002.
Ô NHIỄM NƯỚC VÀ SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG
MỤC TIÊU:
Sau khi học xong bài này, học viên :
1.Phân tích các nguồn, tác nhân gây ô nhiễm nước và trình bày được các chỉ số cơ bản đánh giá ô nhiễm nước
2.Trình bày được những nguy cơ cho sức khỏe do ô nhiễm nước và các bệnh do ô nhiễm nước gây ra.
3.Trình bày được các biện pháp phòng chống ô nhiễm nước.
4. Phân tích thực trạng ô nhiễm nước tại Việt Nam
NỘI DUNG
1.Đại cương
1.1.Định nghĩa
-Ô nhiễm nước là sự biến đổi các thành phần của nước khác biệt với trạng thái ban đầu làm cho chúng trở thành độc hại, không có lợi cho sức khoẻ.Đó là sự biến đổi các thành phần lý hoá, sinh vật trong nước và sự có mặt của chúng gây ra: Các thay đổi về lý học: mầu, mùi, vị, độ trong... Các thay đổi về thành phần hoá học: các chất vô cơ, hữu cơ, chất độc. Các thay đổi về sinh vật: làm tăng hay giảm các vi sinh vật hoại sinh, các vi khuẩn và virus gây bệnh, hoặc có thêm các vi sinh vật mới.
- Định nghĩa của hiến chương châu Âu:
"Sự ô nhiễm là một biến đổi nói chung do con người gây ra đối với chất lượng nước, làm ô nhiễm nước và gây nguy hại đối với việc sử dụng của con người, cho công nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghỉ ngơi giải trí cũng như đối với các loài động vật nuôi và các loài hoang dại".
1.2.Nguyên nhân của sự ô nhiễm nước:
1.2.1.Sự gia tăng dân số:
Dân số trên toàn cầu nói chung và ở Việt Nam nói riêng đang gia tăng. Năm 2009 dân số nước ta gần 86 triệu người, với tỷ lệ tăng dân số hàng năm là 1,2%. Sự gia tăng dân số kéo theo việc gia tăng các nhu cầu về cung cấp lương thực, thực phẩm và các nhu cầu khác để phục vụ cuộc sống con người. Dân số tăng lên làm tăng việc sử dụng nước, làm gia tăng ô nhiễm môi trường.
1.2.2.Quá trình đô thị hoá gia tăng:
Quá trình đô thị hoá gia tăng do hàng triệu người di chuyển từ nông thôn ra thành thị làm ăn. Dân số đô thị tăng lên, nhu cầu cung cấp nước sạch và các dịch vụ công cộng cũng tăng thêm, các chất thải rắn, nước thải sinh hoạt ngày càng nhiều. Các chất thải này nếu không được xử lý thích đáng sẽ làm tăng thêm sự ô nhiễm môi trường.
1.2.3.Khoa học kỹ thuật phát triển:
Để phục vụ cho cuộc sống của con người, khoa học và kỹ thuật, kinh tế ngày càng phát triển. Công nghiệp hoá tăng, nhiều sản phẩm được chế tạo, các chất thải ngày càng nhiều. Ví dụ, tăng sử dụng trong nông nghiệp các hoá chất bảo vệ thực vật, chất kích thích tăng trưởng để tăng sản lượng.
1.2.4.Ý thức con người
Trình độ văn hoá có cao, khoa học kỹ thuật phát triển, song con người vẫn thiếu ý thức tự giác trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường. Trong sản xuất: chạy theo lợi nhuận, không xây dựng hệ thống xử lý chất thải. Trong nông nghiệp sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tràn lan, không nghĩ đến tác hại đối với môi trường và sức khoẻ con người. Trong nếp sống còn thiếu ý thức tự giác.
1.3.Phân loại ô nhiễm nước Có nhiều cách phân loại ô nhiễm nước. Có thể phân loại ô nhiễm nước theo nguồn gốc phát sinh, theo nguồn ô nhiễm, theo tác nhân gây ô nhiễm hoặc theo sự phân huỷ của các chất trong nước:
1.3.1 Phân loại theo nguồn gốc phát sinh:
- Ô nhiễm nước có nguồn gốc tự nhiên: Các hiện tượng như mưa, tuyết, băng tan, núi lửa.
- Ô nhiễm nước có nguồn gốc nhân tạo: chủ yếu do con người gây ra như nước thải, chất thải trong công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, chiến tranh và sinh hoạt của con người.
1.3.2Phân loại theo nguồn gây ô nhiễm:
-Nguồn gây ô nhiễm xác định (nguồn gây ô nhiễm có địa chỉ): Có thể xác định được vị trí, kích thước, bản chất lưu lượng phóng thải.
Ví dụ: Như các cống thải của các xí nghiệp, nhà máy...
-Nguồn gây ô nhiễm không xác định (không có địa chỉ): Là nguồn gây ô nhiễm không cố định, không xác định được vị trí, bản chất và lưu lượng của tác nhân gây ô nhiễm
Ví dụ: Dòng chảy qua các vùng đất sử dụng, nước mưa đổ xuống khu dân cư rồi đổ vào sông rạch. Các bãi cỏ, sân gôn...
1.3.3Phân loại theo tác nhân gây ô nhiễm:
-Do các tác nhân vật lý
-Do các tác nhân hoá học
-Do các tác nhân sinh học
-Ô nhiễm phóng xạ
1.3.4Phân loại theo sự phân huỷ của các chất gây ô nhiễm trong nước bao gồm:
-Các chất dễ bị phân huỷ bởi các vi sinh vật như các chất hữu cơ trong nước thải sinh hoạt, nước thải chế biến thực phẩm, thuộc da...
-Các chất ít bị phân huỷ trong nước hoặc phân huỷ chậm như các chất tẩy rửa, thuốc trừ sâu diệt cỏ, phenol....
-Các chất không bị phân huỷ trong nước như các chất vô cơ, các muối kim loại nặng (chì, thuỷ ngân, Asen...)
Tuy nhiên trong thực tế không thể tách rời các loại ô nhiễm riêng biệt, bởi vì trong một nguồn ô nhiễm có thể có nhiều tác nhân gây ô nhiễm và ngược lại một tác nhân gây ô nhiễm có thể do nhiều nguồn gốc khác nhau. Ví dụ: trong nước thải công nghiệp giấy, cellulose có cả tác nhân ô nhiễm sinh học và tác nhân ô nhiễm hoá học.
2. Các nguồn và tác nhân gây ô nhiễm nước
2.1.Nguồn gây ô nhiễm nước:
2.1.1.Ô nhiễm nước do nước thải sinh hoạt và đô thị
-Là nước thải trong quá trình làm việc và sinh sống của con người được thải từ các cơ quan, công sở, trường học, bệnh viện, khách sạn và khu dân cư.
-Đặc điểm: Chứa nhiều tạp chất khác nhau, phần lớn là chất hữu cơ, chất khoáng dễ phân huỷ và nhiều vi sinh vật hoại sinh, vi khuẩn, vi rút gây bệnh.
2.1.2.Ô nhiễm nước do nước thải công nghiệp.
-Nước thải của các ngành công nghiệp chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng lượng nước thải hàng năm. Số lượng và thành phần của nước thải công nghiệp thay đổi và phụ thuộc vào từng ngành công nghiệp khác nhau.
-Đặc điểm : Có thể chứa các nguyên liệu, sản phẩm trung gian, các chất thải bỏ, các chất xúc tác nên có nhiều các chất hữu cơ tổng hợp, các kim loại nặng, hoặc các chất hữu cơ dễ phân huỷ sinh học (công nghiệp chế biến thực phẩm).
2.1.3.Ô nhiễm nước do hoạt động nông nghiệp và các nguồn khác tại nông thôn
Ô nhiễm nước do nông nghiệp: có thể từ nước tưới tiêu hoặc do chăn nuôi.
-Nước tưới tiêu: Thành phần có thể là các loại phân bón hoá học, thuốc trừ sâu diệt cỏ, thuốc kích thích tăng trưởng.
-Chất thải động vật: Bao gồm phân, nước tiểu, nước tắm rửa, cọ rửa chuồng trại gia súc nên có nhiều chất hữu cơ, vô cơ và cả các vi khuẩn, vi rút, tác nhân sinh học gây bệnh.
Các nguồn khác:
-Nước thải và chất thải rắn từ các làng nghề gây ô nhiễm trầm trọng nguồn nước tại nhiều điểm, nhất là các làng nghề làm giấy, giết mổ gia súc, dệt nhuộm.
-Các hoạt động nuôi trồng thủy, hải sản gây ô nhiễm nước và tạo điều kiện cho nước mặn xâm nhập vào các tầng nước ngầm.
2.1.4.Ô nhiễm nước do giao thông đường thuỷ, -Dầu do sự cố, do máy; chất thải, nước thải của thủy thủ, hành khách do giao thông đường thuỷ.
2.1.5.Ô nhiễm nước do ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất và do hoạt động của hệ sinh vật có trong nước:
-Sự ô nhiễm nước cũng liên quan đến ô nhiễm không khí và ô nhiễm đất. Chúng có tác động qua lại lẫn nhau, đặc biệt là không khí tại các trung tâm công nghiệp; đất tại các bãi rác thải, các hố chôn lấp… là những nguồn làm ô nhiễm nước.
-Nước còn bị ô nhiễm bởi các hiện tượng tự nhiên: mưa, nước băng tan, núi lửa, cháy rừng...
-Hoạt động của các hệ sinh vật có trong nước cũng làm cho vấn đề ô nhiễm nước trầm trọng thêm như hiện tượng nở hoa trong nước do nước thải giàu dinh dưỡng.
2.2. Tác nhân gây ô nhiễm nước
2.2.1.Tác nhân sinh học: Vi khuẩn; Vi rút; Ký sinh trùng
Những tác nhân này có trong nước thải sinh hoạt, chất thải bỏ của người và động vật.
2.2.2.Tác nhân hoá học:
Bao gồm các chất hữu cơ nguồn gốc động thực vật và tổng hợp, các chất vô cơ, các chất độc hoá học, các chất gây ung thư. Những tác nhân này có trong nước thải công nghiêp, nông nghiệp, sinh hoạt cũng như do các quá trình đốt cháy, chiến tranh, thiên tai gây ra.
2.2.3.Tác nhân vật ly: Nhiệt, các chất lơ lửng không tan. Tác nhân này chủ yếu có trong nước thải công nghiệp.
2.2.4.Tác nhân phóng xạ: Có từ các nguồn: Chiến tranh; trung tâm nghiên cứu, sử dụng nguyên tử, các bệnh viện sử dụng chất phóng xạ trong điều trị và chẩn đoán bệnh; công nghiệp khai thác các mỏ quặng phóng xạ.
2.2.5. Một số tác nhân gây ô nhiễm nước
Ô nhiễm do chất hữu cơ :
Chất hữu cơ là tác nhân ô nhiễm phổ biến nhất trong các sông hồ. Tác nhân ô nhiễm này có nồng độ lớn trong nước thải sinh hoạt và nước thải một số ngành công nghiệp (chế biến thực phẩm, thuộc da, dệt, nhuộm,...)
Ô nhiễm hữu cơ được đánh giá qua các chỉ số cân bằng oxy COD, BOD và DO. Từ số liệu của hàng trăm trạm quan trắc cho thấy, trên thế giới có khoảng 10% số dòng sông bị ô nhiễm hữu cơ rõ rệt (BOD > 6,5 mg/l hoặc COD > 44 mg/l); 5% số dòng sông có nồng độ DO thấp (< 55% bão hòa); 50% số dòng sông trên thế giới bị ô nhiễm hữu cơ nhẹ (BOD khoảng 3mg/l, COD khoảng 18mg/l).
Trong các thập kỷ gần đây ở các nước phát triển mức độ ô nhiễm hữu cơ trong sông hồ giảm rõ rệt. Tại Thụy Điển, tổng tải lượng BOD từ công nghiệp đưa vào dòng sông là 600.000 tấn năm 1950, tăng đến 700.000 tấn vào năm 1960 nhưng chỉ còn trên 300.000 tấn vào năm 1980
Tại một số quốc gia đang phát triển, nhờ sự quan tâm xử lí ô nhiễm, tải trọng BOD đưa vào nguồn nước cũng giảm dần. Tại Malaysia, tải lượng BOD từ công nghiệp chế biến dầu được xử lí 76% vào năm 1978, 96% vào năm 1980 và 99% vào năm 1982.
Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia đang phát triển, tải lượng BOD đưa vào nguồn nước ngày càng tăng.
Vi sinh vật gây bệnh:
Do các dòng sông nhận khối lượng lớn nước thải sinh hoạt từ các trung tâm dân cư nên ô nhiễm do vi khuẩn xảy ra thường xuyên. Theo tiêu chuẩn của WHO, tổng vi sinh coliform trong nước uống không quá 1/100ml và feacal coliform không được có trong 100ml nước uống. Tuy nhiên chỉ có dưới 10% số trạm quan trắc đạt tiêu chuẩn nàyÔ nhiễm nguồn nước do vi khuẩn là nguyên nhân gây chết 25.000 người mỗi ngày ở các nước đang phát triển
Ô nhiễm do dinh dưỡng:
Khoảng 10% số con sông trên thế giới có nồng độ nitrat rất cao ( 9 – 25mg/l), vượt nhiều lần so với tiêu chuẩn nước uống của WHO (10mg/l)... khoảng 10% các sông có nồng độ phosphore 0,2 – 2,0 mg/l, tức cao hơn 20 – 200 lần so với các sông không bị ô nhiễm
Nguồn nước giàu các chất dinh dưỡng N, P có khả năng bị phì dưỡng hóa. Hiện nay, trên thế giới có 30 – 40% số hồ chứa bị phì dưỡng hóa. Trên 30% trong số 800 hồ ở Tây Ban Nha và nhiều hồ ở Nam Phi, Australia và Mexico cũng bị phì dưỡng hóa. Tuy nhiên, các hồ cực lớn như hồ Baikal (chứa 20% lượng nước ngọt toàn cầu) chua bị phì dưỡng
Ô nhiễm do kim loại nặng:
Nguồn chủ yếu đưa kim loại nặng vào nước là từ các mỏ khai thác, các công nghiệp sử dụng kim loại nặng và từ các bãi chôn lấp chất thải công nghiệp. Ô nhiễm do kim loại nặng chủ yếu ở các nước công nghiệp. Trong nước sông Rhine tại Hà Lan; nồng độ kim loại nặng không tan trong nước tăng dần từ đầu thế kỷ đến 1960, sau đó giảm dần như các biện pháp xử lý nước thải. Nồng độ thủy ngân, cadmi, crom và chì trong các năm 1900 tương ứng là 1µg/l, 2µg/l, 80 µg/l, và 200 µg/l. Nồng độ các nguyên tố này vào năm 1960 tương ứng là 8 µg/l, 10 µg/l, 600 µg/l và 500 µg/l. Đến năm 1980, nồng độ thủy ngân, cadmi, crom và chỉ trong nước sông Rhine là 5 µg/l, 20 µg/l, 70 µg/l và 400 µg/l.
Ô nhiễm do các chất hữu cơ vi lượng:
Các chất hữu cơ vi lượng là các hóa chất hữu cơ bền vững như clo hữu cơ, polyclobiphenyl (PCB) và dung môi công nghiệp được đưa vào nguồn nước từ các nhà máy lọc dầu, dệt, giấy, hóa chất và nguồn nước chảy tràn từ ruộng được
phun hóa chất trừ sâu bệnh.
Trong các năm 1979 – 1984, khoảng 25% số quan trắc phát hiện được hóa chất hữu cơ chứa clo như DDT, aldrin, dieldrin và PCB với nồng độ thường nhỏ hơn 10ng/l (nanogam/l). Tuy nhiên ở một số dòng sông nồng độ các hóa chất này khá cao (100 ÷ 1000ng/l) như sông Trent ở Anh, hồ Biwa và Yodo ở Nhật Bản. Ô nhiễm do clo hữu cơ nặng nhất trên 100ng/l là ở một số sông thuộc Columbia (DDT và dieldrin), Indonesia (PCB), Malaysia (dieldrin) và Tanzania (dieldrin). Các sông châu Âu, Bắc Mỹ không bị ô nhiễm nặng do hóa chất bảo vệ thực vật nhờ sự hạn chế sử dụng nó.
3.Tác hại của ô nhiễm nước đến sức khỏe
Có hai dạng tác hại của ô nhiễm nước cho sức khoẻ con người liên quan tới nước:
-Do các tác nhân sinh học có khả năng truyền bệnh cho người qua nước uống, qua thức ăn bị nước làm ô nhiễm và qua tiếp xúc với nước hoặc do các vật chủ trung gian và côn trùng gây bệnh.
-Do các chất hoá học, phóng xạ có trong nước:
Nguy hại đến sức khoẻ con người do uống nước trực tiếp, do ăn các loại thực phẩm bị ô nhiễm qua hệ sinh thái do các hoá chất hay các chất phân huỷ của chúng (Thuỷ ngân, Cadimium, thuốc trừ sâu...) hoặc do sử dụng nước trong vệ sinh cá nhân, trong lao động phục vụ nông nghiệp, công nghiệp, trong nghỉ ngơi hoặc do sống gần các nguồn nước.
3.1.Những tác hại do tác nhân sinh học: Những tác nhân sinh học chính truyền qua nước có thể xếp thành 4 loại: vi khuẩn gây bệnh, virus, ký sinh trùng và các tác nhân sinh học khác.
3.1.1.Vi khuẩn gây bệnh nhiễm qua đường tiêu hoá:
Các loại vi khuẩn gây bệnh xâm nhập vào cơ thể con người trực tiếp qua uống nước hoặc gián tiếp qua các loại thực phẩm và nước dùng để chế biến thực phẩm.
Các vi khuẩn gây bệnh tồn tại trong nước có thể gây ra các bệnh hiểm nghèo như:
- Bệnh tả (Cholera): là bệnh truyền nhiễm cấp tính do phẩy khuẩn tả (Vibrio Cholerae) gây ra. Ở Việt Nam chủ yếu do type sinh học El tor lây truyền bằng đường tiêu hoá. Bệnh có biểu hiện lâm sàng là ỉa lỏng nhiều và nôn nhiều lần, nhanh chóng mất nước-điện giải, truỵ tim mạch, suy kiệt và tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Đây là bệnh dịch điển hình của các bệnh truyền nhiễm lây đường tiêu hoá, dịch thường lan rộng nhanh trong vùng theo cùng bếp ăn, nguồn nước...
- Bệnh thương hàn (Typhoid fever): là bệnh nhiễm trùng toàn thân do Salmonella typhi hoặc Salmonella patatyphi A, B, C gây ra có đặc điểm lâm sàng là sốt kéo dài và gây nhiều biến chứng như xuất huyết tiêu hoá và thủng ruột.
Vi khuẩn thương hàn lây qua đường tiêu hoá. Đa số các trường hợp mắc phải là do ăn, uống phải thực phẩm, đồ uống nhiễm phân người bệnh và người mang vi trùng, nước sinh hoạt bị nhiễm phân có vi khuẩn thương hàn không được nấu chín, hoặc do ăn phải thức ăn tươi sống được rửa bằng nguồn nước đã bị nhiễm khuẩn thương hàn.
- Bệnh lỵ trực khuẩn (Shigellosis): Là một viêm đại tràng cấp tính gây bởi vi khuẩn Shigella.
Bệnh lây theo đường tiêu hoá, theo cơ chế phân-miệng hoặc từ người sang người hoặc từ bàn tay bẩn nhiễm khuẩn, lây gián tiếp chủ yếu qua nước uống, thức ăn. Ở nước ta, nước uống là trung gian truyền lỵ hàng đầu, nhất là vùng nhân dân ít dùng nước sôi, thường uống nước lã bị ô nhiễm bởi phân thải bừa bải, bị rò rỉ từ nhà tiêu do xây không đúng qui cách...
Các vi khuẩn gây bệnh tồn tại trong nước cũng gây ra các bệnh dễ lan truyền nhanh như:
-Tiêu chảy trẻ em do chủng Escherichia coli gây bệnh.
-Các bệnh đường ruột khác như phó thương hàn.
Tỷ lệ mắc một số bệnh liên quan đến nước:
Loại bệnhTỷ lệ mắc /100.000 dân theo các năm 20012001200320042005
Tả0,020,40,420,080
Lỵ trực trùng64,8157,3354,0453,4752,26
Tiêu chảy1390,171332,41201,751124,961095,61
Thương hàn12,458,897,355,195,56
Sốt rét327,62232,68203,54156,79119,44
Nguồn: Báo cáo quốc gia về sức khỏe môi trường năm 2006.
3.1.2.Virus:
3.1.2.1. Virus nhiễm qua đường tiêu hoá:
Một số virus phát triển trong bộ máy tiêu hoá của người và có thể được đào thải một lượng lớn trong phân. Khi nước bị ô nhiễm có chứa virut đường ruột có thể mắc các bệnh:
+ Viêm dạ dày ruột nguồn gốc virus:
Thường kéo dài 24-72 giờ kèm theo buồn nôn, nôn mữa, ỉa chảy xảy ra ở mọi lứa tuổi. Trầm trọng nhất là trẻ nhỏ và người già khi mà sự mất nước và rối loạn cân bằng điện giải có thể xảy ra nhanh chóng và đe doạ tính mạng nếu không được xử lý kịp thời.
+ Bệnh viêm gan A:
Virus nhiễm qua đường tiêu hoá rồi thải ra phân và nhiễm vào nước. Viêm gan A xảy ra theo kiểu dịch địa phương và thường bộc phát thành vụ dịch quan trọng. Virus viêm gan A có tính đề kháng cao ở môi trường bên ngoài. Hai bệnh trên có thể phát triển thành dịch khi trong nguồn nước nhiễm virus.
+ Bệnh bại liệt: Vi rút nhiễm vào người qua đường ăn uống rỗi cũng thải qua phân. Trong cơ thể, virut di chuyển qua đường máu tới cư trú ở não và tuỷ sống, gây tổn thương các tế bào thần kinh tại đó. Tổn thương gây liệt ở người bệnh, liệt mềm, không phục hồi sau khi chữa khỏi bệnh..
Ngoài ra còn có virus đường tiêu hóa khác như viruts viêm gan E, virus Rota, Enterovirus: Coxsackie; Echovirus; Reovirus ....
3.1.2.2. Virus nhiễm qua đường niêm mạc:
Đó là Adenovirus, đóng vai trò trong bệnh viêm kết mạc. Các virus này được xem là nguyên nhân gây ra bệnh viêm kết mạc ở các bể bơi công cộng.
3.1.3.Ký sinh trùng (nguyên sinh động vật - Rhizopoda)
3.1.3.1. Ký sinh trùng gây bệnh nhiễm qua đường tiêu hóa
Trong số nhiều loài nguyên sinh động vật gây bệnh cho người gồm có:
+ Bệnhlỵ Amip: Gây ra do Etamoeba histolytica. Tổn thương bệnh lý xảy ra chủ yếu ở đại tràng (bệnh lỵ amip) và có thể ngoài đại tràng (bệnh amip ở gan, phổi, não, da... )
Kén amip nhiễm vào người qua đường tiêu hoá, bằng nhiều cách: qua rau sống, nước lã, thức ăn bị nhiễm phân có kén amip...
+ Bệnh do Giardia intestinalis và Balantidium coli: gây rối loạn nghiêm trọng đường ruột. Chúng được đào thải theo phân ở dạng kén bền vững. Kén này có thể tồn tại trong nước từ 2 đến 3 tuần, bền vững với các tác nhân khử khuẩn thông thường, ngược lại chúng bị cản trở bởi quá trình lọc nước bằng cát.
+ Ký sinh trùng Cyclospora (hoặc Cyanobacterium like bodie) có trong nước gây bệnh tiêu chảy kéo dài.
3.1.3.2. Bệnh do ký sinh trùng thâm nhập từ nước qua da và niêm mạc:
Khi tiếp xúc với nước, các ký sinh trùng có thể thâm nhập qua da hoặc niêm mạc như các loại sán máng gây nên bệnh sán máng. Bệnh này gây nên những tổn thương bệnh học lớn làm suy kiệt, giảm sức đề kháng và năng lực lao động và có thể phát triển thành ổ dịch. Sán máng có loại gây rối loạn đường ruột, có loại gây bệnh sán máng đường sinh dục, tiết niệu, bàng quang.
3.1.4.Những tác hại do tác nhân sinh học truyền qua nước bằng những đường khác.
3.1.4.1. Bệnh nhiễm sán do vật chủ trung gian sống trong nước:
Các bệnh sán lá gan (clonorchiasis), sán lá ruột (Fassei - slipsiasis), sán máng (Schistosomiasis) và bệnh sán lá phổi (Paragonimiasis).
Cách khống chế:
+Không ăn sống các loại thuỷ sản nuôi trồng trong nước.
+Điều trị triệt để người mắc bệnh.
3.1.4.1. Các bệnh do côn trùng có liên quan đến nước:
+Muỗi gây bệnh sốt rét: gồm 4 loài chính: Anophen minimus, Anophen dirus, Anophen sundaicus – Anophen subpictus.
+Muỗi gây bệnh sốt xuất huyết gọi là Aedes aegyppti hay còn gọi là muỗi vằn. Chúng sống và đẻ trứng trong nước, đốt người và gây ra bệnh sốt xuất huyết.
+Muỗi gây bệnh giun chỉ tên gọi là tulex pipiens, sống trong ao tù nước đọng, các vùng nước bẩn lưu cữu lâu ngày.
Cách phòng chống các bệnh trên:
-Tiêu diệt các nơi muỗi đẻ; dụng cụ đựng nước phải có nắp đậy, thường xuyên thau rửa dụng cụ đựng nước ăn, khơi thông cống rãnh, loại bỏ các nơi có nước tù đọng.
-Diệt ấu trùng muỗi: Thả cá để cá ăn bọ gậy trong bể đựng nước; nhỏ dầu diesel vào những vũng nước đọng...
-Diệt muỗi bằng phun thuốc, hương diệt muỗi, đèn bắt muỗi hoặc vượt diệt muỗi.
-Chống muỗi đốt: ngủ trong màn; ở những nơi thường xuyên có dịch dùng màn có tẩm hoá chất diệt muỗi.
3.1.5.Các bệnh do thiếu nước hoặc nước không sạch:
Cách lây truyền: Trực tiếp từ người bệnh sang người lành. Nguyên nhân là do thiếu nước sử dụng trong vệ sinh cá nhân hoặc dùng phải nước không sạch.
Các bệnh thường gặp:
Bệnh đau mắt hột, viêm màng tiếp hợp, các bệnh ngoài da: ghẻ, lở, hắc lào, chàm, nấm ngoài da và chấy, rận.
Cách phòng chống:
-Cung cấp đầy đủ nước sạch.
-Vệ sinh cá nhân sạch sẽ.
3.2.Những tác hại do các chất hoá học và phóng xạ
Các tác nhân hoá học gây hại cho sức khoẻ con người khi sự có mặt của chúng vượt quá nồng độ cho phép trong nước. Các chất này ảnh hưởng đến sức khoẻ con người qua các đường:
-Gây nguy hiểm trực tiếp lên con người qua đường ăn uống, vệ sinh cá nhân hoặc qua việc sử dụng nước để nghỉ ngơi, giải trí.
-Gián tiếp tác động lên sức khoẻ con người qua việc phá huỷ môi trường và tích luỹ các chất gây ô nhiễm nước vào cơ thể khi con người sử dụng thực phẩm.
3.2.1.Bệnh do các chất vô cơ
- Nitrát (NO3-) Nguy hại cho sức khoẻ khi vi khuẩn trong hệ thống tiêu hoá chuyển NO3- thành NO2-:
+Gây bệnh Methemoglobin hay hội chứng xanh tím
+Nguy cơ gây ung thư tiềm tàng: NO2- sẽ phản ứng với amin và amid trong cơ thể hình thành nitrosamin là một chất có khả năng gây ung thư.
- Fluoride
Fluoride là chất độc tích luỹ, khi phơi nhiễm lâu dài với Fluoride có thể gây ra:
+Tích luỹ trong xương răng
+Làm xương giòn, rạn nứt xương
+Fluorosis răng: làm xốp men răng, làm cho răng có nhiều lỗ thủng và hoen ố răng
+Một độc tính mới được phát hiện, Fluoride có thể tương tác với nhôm gây bệnh Alzheimer.
- Asen (As)
Sự phơi nhiễm lâu dài As qua nước uống gây ra:
+Ung thư da, phổi, bàng quang và có thể gây ung thư gan, thận.
+Thay đổi khác về da: Thay đổi sắc tố, làm tăng chai cứng da.
+Một số ảnh hưởng khác nhưng chưa rõ ràng: Bệnh tim mạch, tiểu đường, ảnh hưởng đến sinh sản.
+Bệnh máu ngoại vi: Bệnh đen chân dẫn đến chứng hoại thư (xảy ra duy nhất ở Đài Loan).
- Chì (Pb) Chì trong cơ thể gây nên những phá huỷ nghiêm trọng đến não, thận, hệ thống thần kinh và tế bào hồng cầu. Trẻ em đặc biệt nhạy cảm với chì do hấp thu rất nhanh lượng chì tiêu thụ. Hậu quả sẽ kìm hãm sự phát triển trí tuệ và thể lực của trẻ.
- Đồng (Cu): Đồng là nguyên tố vi lượng thiết yếu cho cơ thể nhưng cơ thể chỉ cần một lượng nhỏ. Thừa Cu sẽ dẫn đến những cơn đau dạ dày, ruột, buồn nôn, ỉa chảy, co thắt dạ dày. Những người có rối loạn về gen rất nhạy cảm với đồng.
3.2.2.Bệnh do các chất hữu cơ:
- Hydrocacbua thơm đa vòng: Benzen, pyren, benzidin, hợp chất nitro: Có khả năng gây ung thư, làm tăng sinh khối u của người và động vật.
- Các chất trừ sâu, diệt cỏ, diệt côn trùng: Nhiều chất trừ sâu, diệt cỏ phân huỷ chậm và tích tụ lại trong môi trường qua chuỗi thức ăn theo nước và các thực phẩm vào cơ thể con người. Một số chất gây hậu quả rất tai hại làm ảnh hưởng đến di truyền, gây quái thai, dị dạng.
3.2.3.Bệnh do các chất phóng xạ.
Các chất phóng xạ thâm nhập vào con người qua nước uống và thực phẩm nhiễm xạ. Tuỳ theo mức độ ô nhiễm nặng nhẹ có thể làm chết sinh vật và người, và làm thay đổi cấu trúc tế bào gây ra các bệnh di truyền, bệnh máu, ung thư.
4.Các biện pháp bảo vệ nguồn nước và các giải pháp chống ô nhiễm nước
4.1.Các biện pháp bảo vệ nguồn nước
4.1.1.Đối với nguồn khai thác nước mặt:
Phân khu 1 có chế độ nghiêm ngặt gồm: nơi hút nước, hệ thống lắng lọc, tiệt khuẩn và bể chứa, các đường ống trong khu sản xuất. Khu vực này phải rào kín, có người bảo vệ, không có người ở, không có công trình vệ sinh và trồng rau, bón phân
Phân khu thứ 2: Tất cả dòng sông đối với sông nhỏ hoặc một đoạn sông đối với sông lớn, phía trên chỗ lấy nước từ 300-500 mét và phía dưới chỗ lấy nước từ 150-300 mét không có cống thải, tụ điểm dân cư, bến đỗ tầu thuyền..
4.1.2.Đối với nguồn nước ngầm:
Khu vực khai thác nước: Bán kính bảo vệ tối thiếu 50 mét, phải có tường bảo vệ, không được đào hố nước, hố xí, hố tiểu, hố rác, không cho mương nước thải đi qua…
4.2. Các giải pháp phòng chống ô nhiễm nước
Để bảo vệ môi trường nước, các giải pháp cần được ưu tiên là:
1. Xây dựng hệ thống quản lý môi trường các cấp theo hướng quản lý nhà nước về môi trường gắn kết với quản lý nhà nước về tài nguyên thiên nhiên. Lực lượng cán bộ của hệ thống quản lý các cấp phải có đủ số lượng và đủ năng lực để đảm nhận công việc.
2. Hoàn thiện hệ thống chính sách, luật pháp về bảo vệ môi trường, thực thi và chấp hành nghiêm chỉnh theo luật định. Đó là các hệ thống luật pháp:
-Luật bảo vệ môi trường.
-Luật bảo vệ tài nguyên nước.
-Luật bảo vệ sức khoẻ sức khoẻ nhân dân.
-Luật hình sự và luật xử phạt các vi phạm hành chính.
-Kèm theo các bộ luật, xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn về chất lượng nước:
-Tiêu chuẩn nước cấp cho các mục đích khác nhau
-Tiêu chuẩn chất lượng nước thải cho phép xả vào môi trường
-Tiêu chuẩn chất lượng nước nguồn dùng cho các mục đích khác nhau....
Bên cạnh việc ban hành các chủ trương, chính sách và luật pháp, việc tổ chức triển khai thực thi các văn bản này cần phải được chú trọng. Nguyên tắc chung để quản lý chống ô nhiễm là: "kẻ gây ra ô nhiễm, kẻ ấy phải xử lý (thanh toán chi phí ô nhiễm). Các luật lệ đều phải thể hiện được nguyên tắc này.
3. Các giải pháp kỹ thuật: Để phòng ngừa ô nhiễm cần phải sử dụng các kỹ thuật làm sạch: làm sạch nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp... xử lý nước thải để đạt các tiêu chuẩn trước khi xả vào môi trường.
4. Nâng cao hiểu biết và nhận thức của mọi người dân: Các chiến dịch tuyên truyền và các chương trình giáo dục góp phần thuyết phục các tầng lớp nhân dân tham gia bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên nước. Tuyên truyền, giải thích để cho các công dân thấy rõ những tác hại của ô nhiễm nước và hậu quả của nó tới sức khoẻ để có ý thức và tự giác trong việc giữ gìn và bảo vệ môi trường.
5. Tăng cường hợp tác quốc tế: Sự cạnh tranh nhu cầu về nước, nạn ô nhiễm lan qua biên giới và sự cần thiết phải chia xẻ các thông tin về nước đang kêu gọi phải có một sự hợp tác thân thiện giữa các quốc gia
6. Xã hội hoá bảo vệ môi trường: Theo quan điểm “Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi người”. Huy động ở mức cao nhất sự tham gia của xã hội vào hoạt động bảo vệ môi trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ Tài nguyên Môi trường (2005). Báo cáo hiện trạng môi trường Quốc gia, Hà Nội 2005.
2.Đào Ngọc Phong, Môi trường và con người, Nhà xuất bản giáo dục 1997.
3.Quyết định của Thủ tướng chính phủ: 104/2000/QĐ-TTg. Chiến lược quốc gia về cấp nước và vệ sinh môi trường đến năm 2020.
4.Trung tâm tài nguyên môi trường, Đại học Quốc Gia Hà Nội (1995). Phát triển bền vững và chiến lược bảo vệ môi trường, Hà Nội 1995
5.Tổ chức Y tế thế giới (1993), Hướng dẫn về chất lượng nước uống. Geneva, 1993.
6.Trường Đại học Y Hà Nội (1995), Vệ sinh môi trường. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội 1995 .
7.Trường Đại học Y Hà Nội, Vệ sinh môi trường dịch tễ tập 1, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội 1998.
8.Asenic in Water supplies, AusAID Guidelines and Operating Procedures for Managing. Fabruary 2004.
9.Water Resource Management. Published by Cooperative Extension, Institute of Agriculture and Natural Resources University of Nebraska – Lincolm. G92-G98.
10. WHO/UNICEF 2000 Grobal Water Supply and Sanitaton Assessment Report. World Health Organization and United Nation Children’s Fund.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com