Ham doi tuan duong ham hang nhe Nhat trong WW2
Loại tàu: tàu tuần dương hạng nhẹ
Lớp trước: Chikuma
Lớp sau: Kuma
Thời gian chế tạo: 1917 - 1919
Thời gian hoạt động: 1919 - 1944
Tổng số tàu hoàn tất: 2
Tổng số tàu bị mất: 2
Các đặc tính chung
Lượng rẽ nước: 3.948 tấn (tiêu chuẩn); 4.350 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 142,9 m (468 ft 10 in)
Mạn thuyền: 12,3 m (40 ft 4 in)
Tầm nước: 4 m (13 ft 1 in)
Lực đẩy: 3 × turbine hộp số
10 × nồi hơi Kampon
3 × trục
công suất 51.000 mã lực (38 MW)
920 tấn dầu, 150 tấn than
Tốc độ: 61 km/h (33 knot)
Tầm xa: 9.260 km ở tốc độ 26 km/h
(5.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)
Quân số: 327
Vũ khí: 4 × pháo 140 mm (5,5 inch)
3 × pháo 80 mm (3,15 inch)
2 × súng máy 13 mm
6 × ống phóng ngư lôi 550 mm (21,65 inch)
Vỏ giáp: Đai giáp: 50 mm (2 inch)
Sàn tàu: 25 mm (1 inch)
Lớp tàu tuần dương Tenryū (tiếng Nhật: 天龍型軽巡洋艦; Tenryū-gata keijunyōkan) là những tàu tuần dương hạng nhẹ đầu tiên mà Hải quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng. Chúng được tiếp nối bởi lớp Kuma to lớn và linh hoạt hơn. Những chiếc trong lớp từng tham gia nhiều hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và không còn chiếc nào sống sót sau cuộc chiến này.
Bối cảnh
Được đặt hàng trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, lớp Tenryū là loạt đầu tiên của những tàu sân bay hạng nhẹ được chính Nhật Bản thiết kế, cho dù vẫn dựa trên những kiểu tàu đang có của Hải quân Hoàng gia Anh.Mặc dù đã được hiện đại hóa đáng kể vào đầu những năm 1930, chúng vẫn được xem là lạc hậu khi bắt đầu chiến tranh tại Mặt trận Thái Bình Dương. Tương phản với những tàu tuần dương hạng nhẹ sau này, lớp Tenryū không được thiết kế thành những soái hạm hải đội khu trục hạm, nhưng được dự định để hoạt động trong các hải đội tuần dương.
Thiết kế
Lớp tàu tuần dương hạng nhẹ Tenryū có thiết kế thực chất là những tàu khu trục mở rộng, chịu ảnh hưởng và được thiết kế theo cùng khái niệm với lớp tàu tuần dương Arethusa và lớp C của Hải quân Hoàng gia Anh. Với những cải tiến về kỹ thuật động cơ turbine đốt dầu, lớp Tenryū có công suất động lực mạnh hơn gấp đôi so với Chikuma và có khả năng đạt được tốc độ tối đa lên đến 61 km/h (33 knot).Về vũ khí trang bị, lớp Tenryū là những tàu chiến đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được trang bị kiểu pháo 140 mm (5,5 inch), cũng như những ống phóng ngư lôi ba nòng 550 mm. Tuy nhiên, việc bố trí các khẩu pháo không được hiệu quả do bị giới hạn góc quay. Đối với các mục tiêu ngay phía trước mũi hoặc sau đuôi tàu, chỉ có một khẩu 140 mm có thể khai hỏa; góc bắn của các tháp pháo số 2 và số 3 cũng rất giới hạn. Hỏa lực phòng không vào lúc ban đầu cũng rất hạn chế, chỉ bao gồm một khẩu 80 mm (3,1 inch) và hai súng máy 13 mm.
Lịch sử hoạt động
Hai chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Tenryū đã được chế tạo, không còn chiếc nào sống sót sau Thế Chiến II.Tenryū (天龍) được hoàn tất vào ngày 20 tháng 11 năm 1919 tại xưởng hải quân Yokosuka. Trước Thế Chiến II, nó từng tham gia vụ can thiệp Siberi, tuần tra trên sông Dương Tử và hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ quân lính Nhật dọc theo bờ biển Trung Quốc. Trong giai đoạn đầu của mặt trận Thái Bình Dương, Tenryū tham gia trận chiến đảo Wake cùng các cuộc chiếm đóng quần đảo Solomon, New Guinea và trận chiến đảo Savo. Nó bị đánh chìm sau trận hải chiến Guadalcanal bởi tàu ngầm Mỹ Albacore, và được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 20 tháng 1 năm 1943.Tatsuta (龍田) được hoàn tất vào ngày 31 tháng 3 năm 1919 tại xưởng hải quân Sasebo. Trước Thế Chiến II, nó từng tham gia vụ can thiệp Siberi và hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ quân lính Nhật dọc theo bờ biển Trung Quốc. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, Tatsuta tham gia trận chiến đảo Wake cùng các cuộc chiếm đóng quần đảo Solomon, New Guinea, trận chiến đảo Savo và hải chiến Guadalcanal. Nó bị tàu ngầm Mỹ Sand Lance đánh chìm cách Hachijōjima 64 km (40 dặm) vào ngày 13 tháng 3 năm 1944, và được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 10 tháng 5 năm 1944.
Loại tàu: tàu tuần dương hạng nhẹ
Lớp trước: Tenryū
Lớp sau: Nagara
Thời gian chế tạo: 1917 - 1921
Thời gian hoạt động: 1920 - 1946
Tổng số tàu hoàn tất: 5
Tổng số tàu bị mất: 4
Các đặc tính chung
Lượng rẽ nước: 5.500 tấn (tiêu chuẩn); 5.832 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 162,1 m (531 ft 10 in) chung
158,6 m (520 ft 4 in) mực nước
Mạn thuyền: 14,2 m (46 ft 7 in)
Tầm nước: 4,8 m (15 ft 9 in) tiêu chuẩn
Lực đẩy: 4 × turbine hộp số
12 × nồi hơi (10 × đốt dầu, 2 × đốt than)
4 × trục
công suất 90.000 mã lực (67 MW)
Tốc độ: 66,7 km/h (36 knot)
Tầm xa: 16.700 km ở tốc độ 18,5 km/h
(9.000 hải lý ở tốc độ 10 knot)
Quân số: 450
Vũ khí: 7 × pháo 140 mm (5,5 inch)/50-caliber
2 × pháo phòng không 80 mm (3,2 inch)/40-caliber
8 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)
48 × mìn sâu
Vỏ giáp: đai giáp 60 mm (2,5 inch)
sàn tàu 30 mm (1,2 inch)
Máy bay: 1 × thủy phi cơ Kawanishi E7K1 "Alf"
Lớp tàu tuần dương Kuma (tiếng Nhật: 球磨型軽巡洋艦; Kuma-gata keijunyōkan) bao gồm năm tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lớp Kuma được tiếp nối bởi lớp Nagara rất tương tự. Chúng từng tham gia nhiều hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và chỉ còn lại một chiếc sống sót sau khi chiến tranh kết thúc.
Bối cảnh
Cho dù có sự thành công trong thiết kế của lớp tàu tuần dương hạng nhẹ tốc độ cao Tenryū, Hải quân Đế quốc Nhật Bản vẫn e ngại rằng họ sẽ bị áp đảo về hỏa lực bởi lớp tàu Omaha lớn hơn lúc đó đang được Hải quân Hoa Kỳ phát triển. Lớp Kuma là sự tiếp nối của lớp Tenryū, dựa trên thiết kế một thân tàu lớn hơn cho phép trang bị cỡ pháo lớn hơn, và được dự tính để hoạt động trong cả vai trò tuần tiễu tốc độ cao cũng như chỉ huy các hải đội tàu khu trục hay tàu ngầm.Với sự phát triển của loại ngư lôi Kiểu 93 "Long Lance" tầm xa vận hành bằng oxygen trong những năm 1930, Hải quân Nhật bắt đầu vạch ra kế hoạch thành lập một "Lực lượng Tác chiến Đêm" đặc biệt bao gồm tàu tuần dương-ngư lôi. Ý tưởng này căn cứ vào thành công của Nhật ở cuộc hải chiến trong trận chiến cảng Lữ Thuận của cuộc Chiến tranh Nga-Nhật. Vì loại ngư lôi mới Kiểu 93 có tầm hoạt động xa hơn tầm bắn hải pháo của mọi thiết giáp hạm đương thời, ý tưởng đưa ra sẽ sử dụng một lực lượng tác chiến tốc độ cao tấn công hạm đội đối phương vào ban đêm bằng một hàng rào ngư lôi số lượng lớn và áp đảo. Các tàu nổi chủ lực sẽ tiếp nối vào lúc bình minh để thanh toán nốt những tàu đối phương bị hư hại.Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của không lực hải quân và chiến tranh tàu ngầm trong những năm 1930 đã khiến cho kế hoạch này trở thành lạc hậu. Cho dù lớp tàu tuần dương Kuma không đáp ứng được mục tiêu thiết kế ban đầu dành cho nó, đặc tính thiết kế trở nên hữu dụng trong các hoạt động tác chiến sau này, trải dài từ quần đảo Aleut đến Ấn Độ Dương.
Thiết kế
Thiết kế lườn của lớp Kuma dựa trên trọng lượng rẽ nước biểu kiến 5.500 tấn, và tỏ ra linh hoạt đến mức chúng trở thành tiêu chuẩn căn bản cho mọi tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Nhật sau này.Hệ thống động lực của lớp Kuma dựa trên bốn turbine hộp số đồng trục và 12 nồi hơi, cung cấp một công suất 90.000 mã lực (67 MW). Mười nồi hơi được thiết kế để đốt dầu, trong khi hai chiếc còn lại đốt than. Động cơ này giúp con tàu đạt được tốc độ tối đa 66,7 km/h (36 knot), và một tầm hoạt động 16.700 km (9.000 hải lý) ở tốc độ 18,5 km/h (10 knot). Kiểu dáng của lớp Kuma có thể nhận biết bởi ba ống khói mà phía trên loe ra theo dạng loa kèn.Ban đầu, dàn hỏa lực chính bao gồm bảy khẩu pháo 140 mm (4,7 inch)/50-caliber gắn trên các tháp súng đơn (hai phía trước, ba phía sau và một khẩu mỗi bên cầu tàu), hai pháo 80 mm (3,2 inch)/40-caliber gắn bên hông, cùng tám ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch). Kuma và Tama có một máy phóng dùng cho một thủy phi cơ (tiêu biểu là một chiếc Kawanishi E7K1 "Alf") cho mục đích trinh sát tuần tiễu, và Kiso độc đáo vì có cấu trúc thượng tầng mặt phẳng ở cả phía trước và phía sau tàu cùng một bệ xoay để phóng thủy phi cơ phía sau tàu. Các bệ phẳng này dường như chưa bao giờ được sử dụng. Mọi chiếc tàu chiến trong lớp Kuma đều dần dần được nâng cấp với hỏa lực phòng không, mìn sâu, radar và sonar trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương.Ōi và Kitakami được cải biến thành những tàu tuần dương-ngư lôi ngay trước khi diễn ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Hai năm sau, Kitakami lại được cải biến thành một tàu sân bay đổ bộ cho đến khi bị hư hại nặng. Sau khi được sửa chữa, một lần nữa Kitakami lại được cải biến thành một tàu chở Kaiten (ngư lôi cảm tử có người lái).
Lịch sử hoạt động
Năm tàu chiến thuộc lớp Kuma đã được chế tạo. Tất cả đều được đặt hàng vào năm 1917, hạ thủy trong giai đoạn 1919-1920 và được đưa ra hoạt động trong những năm 1920-1921. Chỉ còn lại chiếc Kitakami sống sót trong chiến tranh Thái Bình Dương.Kuma (球磨) được đặt lườn tại xưởng hải quân Sasebo. Nó từng hoạt động tích cực trong các chiến dịch đổ bộ binh lính Nhật suốt khu vực Đông Nam Á trong Thế Chiến II. Nó trúng phải ngư lôi của chiếc HMS Tally-Ho tại bờ biển phía Tây Malaya vào ngày 11 tháng 1 năm 1944.Tama (多摩) được đặt lườn bởi hãng Mitsubishi Heavy Industries tại Nagasaki. Nó từng tham gia trận chiến quần đảo Aleut và trận chiến quần đảo Komandorski, và trãi qua hầu hết giai đoạn đầu của Thế Chiến II tại các vùng biển phía Bắc. Sau đó nó được sử dụng như phương tiện vận chuyển nhanh, và đã thực hiện nhiều chuyến đi đến Rabaul và các địa điểm khác trong quần đảo Solomon. Cuối cùng, nó có mặt trong trận chiến vịnh Leyte ở Philippines, và trúng phải ngư lôi của tàu ngầm Mỹ về phía Đông Bắc Philippines vào ngày 25 tháng 10 năm 1944.Kitakami (北上) được đặt lườn tại xưởng hải quân Sasebo. Nó từng tham gia trận Midway trong thành phần hộ tống cho lực lượng tấn công quần đảo Aleut. Sau đó nó được sử dụng như phương tiện vận chuyển nhanh, và đã thực hiện nhiều chuyến đi đến Rabaul và các địa điểm khác trong quần đảo Solomon và New Guinea. Vào giai đoạn cuối của Thế Chiến II, nó trở thành một tàu chở ngư lôi cảm tử có người lái Kaiten, nhưng chưa bao giờ được sử dụng trong vai trò này. Nó sống sót sau cuộc chiến và được sử dụng để chở binh lính Nhật hồi hương sau chiến tranh. Nó được tháo dỡ vào ngày 10 tháng 8 năm 1946.Ōi (大井) được đặt lườn bởi hãng Kawasaki Heavy Industries tại Kobe. Nó từng tham gia trận Midway trong thành phần hộ tống cho lực lượng tấn công quần đảo Aleut. Sau đó nó được sử dụng như phương tiện vận chuyển nhanh, và đã thực hiện nhiều chuyến đi đến Rabaul và các địa điểm khác trong quần đảo Solomon và New Guinea. Nó trúng phải ngư lôi về phía Nam Hong Kong vào ngày 19 tháng 7 năm 1944.Kiso (木曾) được đặt lườn bởi hãng Mitsubishi Heavy Industries tại Nagasaki. Nó từng tham gia trận chiến quần đảo Aleut, và trãi qua hầu hết giai đoạn đầu của Thế Chiến II tại các vùng biển phía Bắc. Sau đó nó có mặt trong trận Hải chiến Guadalcanal tại quần đảo Solomon và trận chiến vịnh Leyte ở Philippines. Nó bị máy bay từ tàu sân bay Mỹ đánh chìm về phía Tây Manila vào ngày 13 tháng 11 năm 1944.
Những chiếc trong lớp
Tàu Đặt lườn Hạ thủy Hoạt động Số phận
Kuma (球磨)
29 tháng 8 năm 1918
14 tháng 7 năm 1919
31 tháng 8 năm 1920[1]
Bị đánh chìm 11 tháng 1 năm 1944 bởi tàu ngầm HMS Tally-Ho gần Penang
Tama (多摩)
10 tháng 8 năm 1918
10 tháng 2 năm 1920
29 tháng 1 năm 1921 [1]
Bị đánh chìm 25 tháng 10 năm 1944 bởi tàu ngầm Jallao gần Luzon
Kitakami (北上) 1 tháng 9 năm 1919
3 tháng 7 năm 1920
15 tháng 4 năm 1921 [1]
Bị tháo dỡ 10 tháng 8 năm 1946
Ōi (大井)
24 tháng 11 năm 1919
15 tháng 7 năm 1920
10 tháng 10 năm 1921 [1]
Bị đánh chìm 19 tháng 7 năm 1944 bởi tàu ngầm Flasher gần Hong Kong
Kiso (木曾)
10 tháng 8 năm 1918
10 tháng 2 năm 1920
29 tháng 1 năm 1921 [1]
Bị đánh chìm 13 tháng 11 năm 1944 bởi máy bay Mỹ ngoài khơi Cavite, Philippines
Loại tàu: tàu tuần dương hạng nhẹ
Lớp trước: Kuma
Lớp sau: Sendai
Thời gian chế tạo: 1920 - 1925
Thời gian hoạt động: 1922 - 1945
Số tàu đặt hàng: 6
Số tàu hoàn tất: 6
Số tàu bị mất: 6
Các đặc tính chung
Lượng rẽ nước: 5.088 tấn (tiêu chuẩn)
5.832 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 163 m (534 ft 9 in)
Mạn thuyền: 14,8 m (48 ft 5 in)
Tầm nước: 4,9 m (16 ft)
Lực đẩy: 4 × Turbine hơi nước Gihon
12 × nồi hơi Kampon (10 đốt dầu, 2 hỗn hợp)
4 × trục
công suất 90.000 mã lực (67 MW)
Tốc độ: 67 km/h (36 knot)
Tầm xa: 16.700 km ở tốc độ 18,5 km/h
(9.000 hải lý ở tốc độ 10 knot)
Quân số: 438
Vũ khí: (thiết kế) 7 × pháo 140 mm (5,5 inch)
2 × pháo phòng không 25 mm
6 × súng phòng không 13 mm
8 × ống phóng ngư lôi 610 mm Kiểu 91 (4×2)
48 mìn
Vỏ giáp: đai giáp: 62 mm (2,5 inch)
sàn tàu: 30 mm (1,2 inch)
Máy bay: 1 × thủy phi cơ, 1 × máy phóng
Lớp tàu tuần dương Nagara (tiếng Nhật: 長良型軽巡洋艦, Nagaragata Keijunyōkan) là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng tham gia nhiều hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng được tiếp nối bởi lớp Sendai khá tương tự.
Bối cảnh
Lớp Nagara là lớp tàu tuần dương hạng nhẹ thứ hai của Hải quân Đế quốc Nhật Bản dựa trên trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn 5.500 tấn. Ở khía cạnh kích cỡ và khả năng hoạt động của tàu tuần dương hạng nhẹ, nó hầu như tương đương với lớp Kuma trước đó. Tuy nhiên, đây là lớp tàu tuần dương đầu tiên được trang bị kiểu ngư lôi mới Long Lance Kiểu 62 610 mm.
Thiết kế
Sự sắp xếp của lớp Nagara tương tự như của các tàu tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh đương thời, bao gồm một máy phóng cố định dành cho thủy phi cơ hướng về phía mũi tàu bên trên pháp pháo số 1 và số 2. Tuy nhiên, vào những năm 1930, những máy phóng này được tháo dỡ do ưa chuộng kiểu bệ xoay phía sau đuôi tàu. Lớp Nagara trải qua nhiều đợt tái trang bị và nâng cấp vũ khí trong quá trình chiến tranh tại Thái Bình Dương.
Vũ khí trang bị
Vũ khí chính của lớp Nagara là bảy khẩu pháo 140 mm (5,5 inch) bố trí trên những tháp pháo đơn bọc thép kín.: hai khẩu trên trục giữa hướng ra trước, ba khẩu trên trục giữa phía sau cầu tàu hướng ra sau, và một khẩu mỗi bên mạn cạnh cấu trúc thượng tầng. Tuy nhên, chỉ có sáu trong số bảy khẩu pháo có thể bắn ngang mạn tàu. Hỏa lực hạng hai bao gồm hai khẩu 76 mm (3 inch).Sau trận Midway, giới lãnh đạo cấp cao Hải quân Nhật bắt đầu nhận thức sự mong manh của hạm đội trước các cuộc tấn công bằng máy bay và tàu ngầm Mỹ, và tiến hành các biện pháp nâng cấp vũ khí chống máy bay và chống tàu ngầm trên các con tàu nổi. Các khẩu pháo chính 140 mm của lớp Nagara trở nên vô dụng đối với máy bay vì chuyển động xoay chậm (vận hành bằng tay) và vì chúng không thể nâng cao hơn góc 45 độ.Mỗi chiếc trong lớp Nagara được gọi quay về Nhật Bản để tái trang bị và nâng cấp. Tháp pháo 140mm số 5 (ngay phía sau ba ống khói) được tháo bỏ, và khẩu đội súng máy 13 mm bốn nòng phía trước cầu tàu được thay thế bởi một khẩu đội 13 mm hai nòng. Với trọng lượng tiết giảm được, Hai khẩu đội pháo phòng không ba nòng Kiểu 96 25mm được trang bị, cùng một hệ thống radar dò tìm trên không Kiểu 21.Tương tự, tháp pháo số 7 tận cùng cũng được thay thế bằng một khẩu đội 5-inch (127mm) Kiểu 89 40 caliber đa dụng nòng đôi không che chắn. Một khẩu đội phòng không Kiểu 96 25 mm ba nòng và bốn khẩu 25mm phòng không nòng đơn được bổ sung. Cùng với việc tháo bỏ máy phóng thủy phi cơ, một hệ thống radar dò tìm mặt đất Kiểu 22 được trang bị; mười khẩu 25 mm nòng đơn cũng được bổ sung (nâng tổng cộng lên 30 khẩu) cùng năm khẩu súng máy 13 mm nòng đơn. Thêm vào đó, các giá thả mìn sâu thay thế cho mìn mang theo trước đây, và thiết bị dò âm dưới nước cũng được trang bị.Các cải tiến này đã đưa đến trọng lượng rẽ nước cuối cùng vượt quá 7.000 tấn, làm giảm tốc độ tối đa xuống dưới 59 km (32 knot).
Lịch sử hoạt động
Có tổng cộng sáu chiếc trong lớp được chế tạo. Không có chiếc nào sống sót qua Chiến tranh Thế giới thứ hai.Nagara (長良) được chế tạo tại xưởng hải quân Sasebo và được đưa vào hoạt động ngày 22 tháng 4 năm 1922. Nagara phục vụ trong những trận chiến ban đầu của cuộc Chiến tranh Trung-Nhật, bao gồm trận Thượng Hải và cuộc xâm chiếm Đông Dương thuộc Pháp. Sau cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Nagara hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên Malaya và Đông Ấn thuộc Hà Lan. Nó tháp tùng Lực lượng Tấn công t̀au sân bay của Đô đốc Nagumo trong trận Midway. Sau đó, nó có mặt trong trận chiến Đông Solomons, trận Santa Cruz và trận Guadalcanal thứ nhất. Cuối cùng nó bị đánh chìm do trúng phải ngư lôi từ tàu ngầm USS Croaker trên đường đi giữa Kagoshima và Sasebo vào ngày 7 tháng 8 năm 1944.Isuzu (五十鈴) được chế tạo tại hãng đóng tàu Uraga, và được đưa vào hoạt động ngày 15 tháng 8 năm 1923. Isuzu hỗ trợ các cuộc đổ bộ lực lượng Nhật Bản tại Trung Quốc, Đông Dương thuộc Pháp, Malaya và Đông Ấn thuộc Hà Lan vào đầu Thế Chiến II. Trong chiến dịch Quần đ̉ao Solomon, nó từng tham gia trận Santa Cruz và Hải chiến Guadalcanal rồi sau đó là trận chiến vịnh Leyte. Nó bị một nhóm tàu ngầm Mỹ đánh chìm ngoài khơi Sumbawa vào ngày 7 tháng 4 năm 1945.Yura (由良) được đưa vào hoạt động tại xưởng hải quân Sasebo ngày 20 tháng 3 năm 1923. Yura từng can dự vào vụ đánh chìm Prince of Wales và Repulse, và tham gia hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên Malaya và Sarawak. Sau đó, nó tham gia trận đột kích Ấn Độ Dương, trận Midway và trận chiến Đông Solomons. Nó bị máy bay của Hải quân và Không lực Mỹ đánh chìm tại quần đảo Solomon vào ngày 25 thàng 10 năm 1942.Natori (名取) được hoàn tất tại xưởng đóng tàu của hãng Mitsubishi tại Nagasaki vào ngày 15 tháng 9 năm 1922. Natori hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên Philippines và Đông Ấn thuộc Hà Lan. Nó bị đánh đắm ngoài khơi Samar bởi ngư lôi của tàu ngầm Mỹ USS Hardhead vào ngày 19 tháng 8 năm 1944.Kinu (鬼怒) được hoàn tất tại xưởng đóng tàu của hãng Kawasaki tại Kobe vào ngày 10 tháng 11 năm 1922. Kinu từng can dự vào vụ đánh chìm Prince of Wales và Repulse, và tham gia hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên Malaya và Đông Ấn thuộc Hà Lan. Sau đó nó tham gia nhiều chiến dịch tại quần đảo Solomon và Philippines, và bị máy bay Mỹ đánh chìm trong vùng biển Visayan vào ngày 26 tháng 10 năm 1944.Abukuma (阿武隈) được hoàn tất bởi hãng đóng tàu Uraga vào ngày 26 tháng 5 năm 1925. Abukuma từng tham gia trận tấn công Trân Châu Cảng, rồi sau đó tham gia trận chiến quần đảo Komandorski trước khi bị đánh chìm trong trận chiến eo biển Surigao vào ngày 26 tháng 10 năm 1944.
Những chiếc trong lớp
Tàu Đặt lườn Hạ thủy Hoạt động Số phận
Nagara (長良) 9 tháng 9 năm 1920
25 tháng 4 năm 1921
21 tháng 4 năm 1922[1]
Bị tàu ngầm Croaker đánh chìm ngày 7 tháng 8 năm 1944 ngoài khơi Amakusa, biển Đông Trung Quốc
Isuzu (五十鈴) 10 tháng 8 năm 1920
29 tháng 10 năm 1921
15 tháng 8 năm 1923[1]
Bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm ngày 7 tháng 4 năm 1945 ngoài khơi Sumbawa, biển Java
Yura (由良) 21 tháng 5 năm 1921
15 tháng 2 năm 1922
20 tháng 3 năm 1923[1]
Tự đánh đắm ngày 25 tháng 10 năm 1942 sau khi bị máy bay Mỹ đánh trúng ngoài khơi đảo Savo
Natori (名取) 14 tháng 12 năm 1920
16 tháng 2 năm 1922
15 tháng 9 năm 1922[1]
Bị tàu ngầm Mỹ Hardhead đánh chìm ngày 19 tháng 8 năm 1944 phía Đông đảo Samar, biển Philippine
Kinu (鬼怒) 17 tháng 1 năm 1921
29 tháng 5 năm 1922
10 tháng 11 năm 1922[1]
Bị máy bay Mỹ đánh chìm ngày 26 tháng 10 năm 1944 ở Tây Nam Masbate, biển Sibuyan
Abukuma (阿武隈) 8 tháng 12 năm 1921
16 tháng 3 năm 1923
26 tháng 5 năm 1925[1]
Bị máy bay ném bom Mỹ đánh chìm ngày 26 tháng 10 năm 1944 ngoài khơi đảo Negros, biển Mindanao
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com