Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Phần 3. Họ không thể ngừng nói về tình yêu

10. Chuyện cảm nắng và chuyện yêu

Qua hai mùa podcast với gần 40 tập về mọi thứ chuyện trên đời qua lăng kính của tâm lý học, những chủ đề luôn nhận được rất nhiều lượt nghe của mọi người đều có liên quan đến tình yêu. Mình đã nhiều lần nói về tình yêu dưới góc nhìn của tâm lý học xã hội và sinh học về não bộ khi yêu. Vậy có một bí mật mình chưa bao giờ tiết lộ trên podcast của mình. Mình là một "bông hoa nở muộn". Ý mình khi nói điều này chính là việc mình đã không yêu hay luôn cố không "dính vào" tình yêu cho đến khi mình tốt nghiệp đại học vào mùa hè năm 20 tuổi, tức là mình đã lại nhảy về tình yêu rất nhiều lần ngay cả khi mình còn chưa yêu bao giờ.

Chuyện mình bắt đầu hẹn hò và yêu đương cũng diễn ra một cách rất tình cờ. Mình đã luôn là một "bông hoa bên lề" ngượng ngùng. Thời còn học đại học và đi làm ở trường, mỗi lần các bạn trai đến bắt chuyện, mình đều trả lời "cụt" nhất có thể rồi vội vàng luống cuống bỏ đi để không phải nói chuyện với họ. Chuyện tương tự cũng xảy ra lặp đi lặp lại trong lớp học và những lần mình miễn cưỡng đi giao lưu cùng câu lạc bộ. Mình đã luôn là một đứa vừa ngại ngùng vừa ngại yêu. Nhờ có công việc làm thêm, thời gian học đại học của mình cũng tương đối bận rộn, mình càng có thêm lý do để là tránh nói chuyện với các bạn khác giới và "biện hộ" cho truyện nhác yêu của bản thân.

Cũng tự tính nhác yêu này, mình đã luôn thấy tình yêu là một khía cạnh gì đó rất mù mờ, không cần thiết và được đánh giá thái quá. Không yêu cũng không chết, không yêu vẫn có thể phát triển bản thân, tập trung vào sự nghiệp và tìm kiếm nhiều thú vui hay ho có thể làm khi chỉ có một mình. Độc thân là một trạng thái khiến mình đặc biệt hài lòng. Mình đã luôn rất thoải mái với việc ở một mình và tự làm mọi thứ, là một "bông hoa bên lề", một kẻ cô độc và vui vẻ với chuyện đó. Vậy nhưng mình cũng không chối bỏ sự tò mò khó cưỡng mỗi khi suy nghĩ hay nói về tình yêu. Bằng chứng là rất rất nhiều tập podcast đã được ra đời, rất nhiều thời gian đã được đổ vào các bộ phim diễm tình hàng giờ đồng hồ tận tụy đọc các nghiên cứu tâm lý về tình yêu. Bên cạnh tất cả những danh tính mình đã bộc bạch với mọi người, mình còn là một kẻ lãng mạn. Và chấp nhận chuyện ngại yêu, quãng thời gian đại học của mình ngập tràn những đêm nằm cười một mình nghĩ về những chàng trai mình thầm thương trộm nhớ. Chuyện cảm nắng luôn mang lại một điều gì đó thật trong trẻo và đáng yêu, có chút dại khờ và ngây thơ, khiến cuộc sống nở bừng một màu hồng ngọt ngào.

Vậy nhưng những cơn cảm nắng của mình chưa bao giờ có một cái kết trọn vẹn ngoài việc những chàng trai này đều biến mất khỏi cuộc sống của mình theo một kịch bản quen thuộc: họ tốt nghiệp và rời khỏi trường, mình đã luôn quá ngại ngùng để có một cuộc trò chuyện ra hồn với họ, mình quên họ và nhanh chóng cảm nắng một người khác. Một vòng tuần hoàn vừa vô hạn khiến cuộc sống của mình có một điều gì đó thật hào hứng bên ngoài chuyện học tập, công việc, bạn bè, gia đình và bản thân. Những đối tượng cảm nắng này luôn xuất hiện theo một công thức được giải thích bằng tâm lý học.

Thứ nhất, những chàng trai này luôn nằm trong thế giới nhỏ bé của mình, nằm trong khuôn viên trường đại học, cùng lớp học viết sáng tạo, cùng chỗ làm... Đây chính là yếu tố khoảng cách trong truyện tình cảm. Nghiên cứu của Festinger, Schachter và Back (1950) với các sinh viên đại học ở cùng ký túc xá cho thấy những sinh viên có phòng cạnh nhau sẽ rẽ trở thành bạn thân hơn những sinh viên sống trên cùng một hành lang nhưng lại cách nhau vài ô cửa. Hiện tượng này còn được gọi là "hiện tượng phơi nhiễm" (Zajonc, 1968). Moreland và Beach (1992) cho các sinh viên đánh giá về độ thu hút của bốn cô gái và những cô gái này sẽ tham gia số lượng lớp học khác nhau. Kết quả cho thấy càng tham gia nhiều lớp học, các cô gái càng được đánh giá là quyến rũ, thân thiện và gần gũi hơn. Điều này có nghĩa là bạn càng gặp người ta nhiều thì bạn càng dễ cảm nắng họ hơn.

Yếu tố thứ hai bên cạnh khoảng cách chính là sự tương đồng. Yếu tố này ảnh hưởng rất nhiều đến quyết định lựa chọn bạn đời tiềm năng của chúng ta. Nghiên cứu của Walster và Walster (1969) chỉ ra rằng chúng ta có xu hướng thích những người có cùng tần số vệ ngoại hình trí, thông minh và mức độ được yêu thích bởi người khác giới. Sự tương đồng về tầng lớp và gia cảnh cũng quyết định nhanh chóng việc bạn có bị hấp dẫn bởi đối phương hay không. Bởi bề ngoài của một người, cách họ ăn mặc, cách họ trưng diện bản thân thường phản ánh điều kiện tài chính. Chúng ta qua đó nhìn nhận rằng người ở cùng địa vị với mình sẽ chia sẻ được nhiều giá trị sống và sở thích tương đồng, người này cũng sẽ biết cách thưởng thức gu của bạn hơn. Hai nhà nghiên cứu cũng phát hiện đàn ông có xu hướng coi trọng nhan sắc khi lựa chọn đối tượng tiềm năng, trong khi đó phụ nữ thường muốn quen những người có trí thông minh cao hơn bản thân.

Yếu tố cuối cùng cho công thức cảm nắng của mình là sự hồi đáp. Khi những chàng trai này bắt chuyện, cười với mình hay trộm nhìn mình, mình liền ảo tưởng họ cũng có chung cảm xúc, điều này càng làm mình thích họ hơn và mơ mộng về họ nhiều hơn. Nghiên cứu của Curtis và Miller (1986) cho thấy khi cảm nhận được sự yêu thích từ người đối diện, chúng ta sẽ có xu hướng trải lòng nhiều hơn, ít thể hiện những hành động bất đồng hơn, đồng tình với người kia nhiều hơn và sử dụng tông giọng dễ chịu hơn để hồi đáp lại điều đó. Từ đó, các nhà tâm lý học cũng kết luận rằng người ta có xu hướng hồi đáp việc được thích, do đó yếu tố này cũng ảnh hưởng nhiều đến việc lựa chọn người thương.

Vậy nhưng cảm nắng và tình yêu lại là hai khái niệm gần như tách biệt với nhau. Bởi tình yêu không chỉ đơn thuần là những mơ mộng trong đầu về một chàng trai mà chúng ta không biết chút gì về con người họ. Lý thuyết tam giác tình yêu, được phát triển bởi Robert Sternberg vào năm 1986 mà mình được học trong lớp Tâm lý học gia đình vào năm ba Đại học thể hiện sự phức tạp của khái niệm "yêu". Lý thuyết này cho rằng ba yếu tố cấu tạo nên tình yêu là sự đam mê, sự gần gũi và sự cam kết. Đam mê ở đây là dục vọng hay sự hấp dẫn về mặt thể xác. Gần gũi ám chỉ sự ấm áp, thân mật và chia sẻ, đó là khi bạn có thể tự do thể hiện bản thân với đối phương và biết rằng cả hai sẽ luôn hiểu rõ về nhau. Cuối cùng, cam kết là sự cố gắng của hai người để duy trì và bảo vệ mối quan hệ ngay cả trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhất.
Từ ba nguyên tố này, tám mối quan hệ sẽ được hình thành.

1. Loại quan hệ trống vắng nhất là không có sự hiện diện của tình yêu, hai người không có hứng thú tình dục, không có nhu cầu gần cuối cũng như không có sự cam kết dành cho đối phương.
2. Say mê là loại tình yêu chỉ tập trung vào nhu cầu tình dục, không có sự gần gũi cũng không có cam kết.
3. Tình yêu trống rỗng chỉ đòi hỏi sự cam kết mà không hề có yếu tố đam mê hay gần gũi, loại tình cảm này thường được thấy trong hôn nhân cha mẹ ở đâu con ngồi đó.
4. Thích thú là loại quan hệ chỉ bao gồm yếu tố gần gũi.
5. Loại tình yêu thứ nhất gồm có sự đam mê và chung thủy được Sternberg gọi là tình yêu giải khờ. Mặc dù cả hai đều có tha ham muốn về thể xác và sự cam kết dành cho đối phương, họ lại không thật sự hiểu và đủ gần gũi để thấu hiểu đối phương.
6. Loại tình yêu thứ hai là tình yêu lãng mạn. Đây là loại tình yêu mà đôi bên đều dành cho nhau sự đam mê và gần gũi nhưng lại không hề có mong muốn bảo vệ và duy trì mối quan hệ lâu dài. Họ chỉ tận hưởng một tình yêu thấu hiểu và nồng cháy nhưng lại dễ dàng để mối quan hệ đổ vỡ khi gặp trở ngại.
7. Loại tình yêu thứ ba là tình tri kỷ, trong đó đôi bên thấu hiểu nhau và chung thủy với nhau nhưng lại không thể giữ được ngọn lửa đam mê.

Hatfield và Rapson (2002) cho rằng những mối tình thường bắt đầu với tình yêu lãng mạn và dần dần theo thời gian, sự cam kết sẽ thế chỗ đam mê và đưa mối quan hệ giữa đôi bên trở thành tri kỷ. Giai đoạn này thường kéo dài trong khoảng thời gian trung bình là 2,5 năm.

8. Và cuối cùng, tình yêu lý tưởng nhất là tình yêu hoàn mỹ, là loại tình yêu có đủ cả sự đam mê, cam kết và gần gũi. Tuy nhiên, cũng vô cùng hiếm gặp.

Trong nghiên cứu được thực hiện năm 1980, Murstein cho rằng khi yêu, chúng ta thường không thể ngừng suy nghĩ về người tình và luôn vẽ ra những viễn cảnh và phiên bản phi thực tế về họ.Milardo, Johnson và Huston (1983) kết luận rằng trong tình yêu, người tình sẽ trở thành trung tâm thế giới của chúng ta và cũng không có gì bất ngờ khi chúng ta vì yêu mà bỏ bê hết những mối quan hệ khác. Tình yêu là một loại cảm xúc vô cùng mãnh liệt và khó có thể kiểm soát được. Aron và các cộng sự (1995) cho các sinh viên đại học tham gia một cuộc khảo sát kéo dài trong 10 tuần. Trong khoảng thời gian này, họ sẽ điền vào bảng tự đánh giá bản thân sau mỗi 2 tuần. Kết quả cho thấy, những sinh viên đang yêu trong khoảng thời gian khảo sát nhận thấy họ quan tâm nhiều hơn đến những khái niệm về bản thân. Khi được yêu, chúng ta sẽ trải nghiệm sự gia tăng của lòng tự trọng và nỗ lực mở rộng thế giới quan để hòa quyện vào thế giới của người tỉnh. Sau cùng, những sinh viên đang yêu cũng báo cáo về sự gia tăng trọng hiệu suất cá nhân của họ trong công việc, học tập và sinh hoạt hằng ngày.

Tình yêu là một sản phẩm mà chúng ta, với vai trò một xã hội đã tạo nên ý nghĩa và dán nhãn cho nó. Hatfield và Walster (1985) đề xuất lý thuyết ba nguyên tố của tình yêu. Họ cho rằng tình yêu là một khái niệm được xây dựng nên bởi ba yếu tố: thứ nhất là những yếu tố văn hóa của một xã hội công nhận sự tồn tại của tình yêu, ví dụ như truyền thông tuyên truyền những tư tưởng lãng mạn qua phim ảnh, quảng cáo vào âm nhạc. Thứ hai là những thông lệ định hình sự tồn tại của đối phương lãng mạn mà chúng ta hướng đến. Như trong nhiều nền văn hóa, phần lớn chúng ta có xu hướng tìm kiếm bạn đời trạc tuổi, tương xứng về thu nhập, học vấn và môn đăng hộ đối. Thứ ba là sư kích thích trong cảm xúc, sự hưng phấn mà chúng ta tự gắn nhãn là tình yêu khi giao tiếp, trao đổi hay suy nghĩ về một ai đó. Ba yếu tố này cộng hưởng với nhau để tạo nên một lý tưởng về tình yêu mà chúng ta theo đuổi và đặt thật nhiều giá trị lên đó. Lý thuyết này cho rằng tình yêu là một thứ được xã hội hóa và có thể học được

Là một kẻ lãng mạn, suốt những năm tuổi teen mình đã luôn tin rằng khi tình yêu đến, cả thế giới của mình sẽ bừng sáng, mình cảm thấy như được lấp đầy, chàng trai đó sẽ là "the one" (nửa còn lại), là "soulmate" (tri kỷ) của mình. Cho rằng đến khi đã có bạn trai, mình mới nhận ra rằng, thì ra tình yêu cũng thể hiện một khía cạnh khác của con người mình, một bài học về việc mình là ai. Người kia không phải là một mảnh ghép lấp đầy vào khoảng trống trong đời mình mà mở ra một cánh cửa tiến vào tâm hồn mình, giúp mình nhìn thấy những nhân dạng, những phần tính cách mình không hề nhận thức tồn tại bên trong - sự yếu đuối, sự bạo dạn, sự dễ tổn thương, sự thẳng thắn,...

Chúng ta luôn theo đuổi lý tưởng về tình yêu, cho rằng người tình sẽ là mảnh ghép hoàn hảo để hoàn thiện cuộc đời chúng ta, rằng tình yêu là thứ sẽ lấp đầy tâm hồn và chúng ta cần tình yêu để tận hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Lý tưởng tình yêu kỳ diệu này có thực sự là mục đích sống của chúng ta, là đích đến của mọi nỗ lực tìm kiếm hay không? Hay truyền thông, những bộ rom-com (hài kịch lãng mạn), những bài ca tình yêu, những mẫu quảng cáo về sữa hạnh phúc đôi lứa là nguồn cơn khiến bạn cảm thấy ở một mình là không đủ và cô đơn làm sao. Ở tuổi 21, mình nhận ra tình yêu vẫn là một khái niệm vô định. Vậy nhưng có gì đó thật đẹp về việc yêu và được yêu. Rốt cuộc có lẽ mình vẫn đang trên hành trình khám phá về tình yêu và qua tình yêu, khám phá chính mình.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com