Chương 11 : Cỗ xe bạc, cùng ta đi đến vùng đất tăm tối
Người xưa kể rằng, vượt xa những vùng đất tăm tối và sâu thẳm nhất bắc đại dương, có một nơi ẩn mình. Đó là vương quốc quanh năm bị bao phủ bởi lớp tuyết trắng bất tận, và được bảo hộ bởi một vị thần quyền năng đến từ dòng sông Styx.
Trong những tín ngưỡng cổ xưa nhất, các vị thần bảo hộ nền văn minh thường được gọi là "Aether".
Theo truyền thuyết của tộc Northeria cổ đại, khi những linh hồn dũng cảm khao khát kết thúc chu kỳ luân hồi vô tận của sự sống, họ sẽ được Aether của Cái Chết dang tay đón lấy. Ra đi trong vòng tay của "ngài"—vị thần đã đắm mình trong dòng sông tử vong, ban phước lành giải thoát cho những ai mong muốn thoát khỏi gông cùm của vòng sinh tử.
Aether của Cái Chết là một vị thần của sự khiêm tốn tột cùng. Ngài lặng lẽ, không thích những tiếng ồn ào. Mọi thứ xung quanh ngài đều tĩnh mịch, hệt như những phước lành mà ngài ban tặng cho kẻ khổ đạo, những người dấn thân theo ngài để tìm kiếm ngày cuối cùng.
Thần nữ của thành bang Northeria, được cả vương quốc tôn thờ, chính là sứ giả của ngài, người hầu cận của bàn tay tử thần.
Sự tôn thờ Aether của Cái Chết hoàn toàn khác biệt với niềm tin vào Aether của Trí Tuệ. Với những người sùng bái Selmyra (Aether của Trí Tuệ), trí tuệ siêu việt để vươn tới đỉnh cao là ân huệ tối thượng. Thế nhưng, trước Necros (Aether của Cái Chết), cái chết mà ngài trao ban trong vòng tay lại mang đến sự bình yên vĩnh hằng, vượt lên trên dòng chảy của thời gian.
Trong khi Thần nữ của Selmyra mang đến trí tuệ và lời tiên đoán từ mặt trăng, thì Thần nữ của Necros, với đôi bàn tay được thần linh ban phước, lại ôm ấp những con người khổ hạnh đang cận kề sinh tử.
Người Northeria khao khát được tử vong ôm lấy, bởi lẽ, họ là những người được trời cao ban ân từ khi sinh ra với số mệnh trường sinh. Trong thời đại hoàng kim kéo dài, hầu hết dân chúng đều tận hưởng niềm vui bất tận trên vùng đất ấm áp. Thế nhưng, một thiểu số lại cảm thấy chán ghét chu kỳ ngày đêm trì trệ, và quyết tâm tìm kiếm điểm kết thúc cho sự sống.
"Sinh mệnh khởi nguồn từ đâu, và rồi sẽ đi về đâu ?". Đó là câu hỏi thường trực trong tâm trí của những người mang lý tưởng khổ hạnh.
Tuy nhiên, thời kỳ hoàng kim ấy trôi qua nhanh chóng như một cơn gió lạnh buốt. Đại thủy triều diệt vong ập đến, và làn sóng tri thức cấm kỵ đã lan tràn đến tận điện thờ của người Northeria. Chẳng ai biết bằng cách nào tri thức cấm ấy đã cướp đi sự phồn vinh của một Northeria khiêm nhường. Họ chỉ biết rằng, sau đó, thành bang này bị bao phủ trong một màu trắng xóa : cây cối khô cằn, sỏi đá vất vưởng, tất cả diễn ra chỉ trong một đêm. Khi ánh bình minh ló rạng, Northeria đã trở thành một thành cổ bị tuyết lạnh phủ kín từ đầu đến chân, sự phồn vinh bị xóa sổ một cách tàn nhẫn.
Và trong số những người trường sinh, người đầu tiên đã gục ngã.
Cái chết đầu tiên được thế giới ghi nhận, chính là của một người đến từ Northeria.
Người đó đã nhận được món quà tối cao từ Aether của Cái Chết – Necros. Đó không chỉ là lòng thương xót vô hạn, mà còn là vinh dự tối cao nhất.
Vài năm sau, cư dân Northeria dần thích nghi với thời tiết khắc nghiệt, lạnh lẽo quanh năm. Tuyết rơi ở đây cũng nhuốm màu tín ngưỡng của Necros, bởi lẽ, vừa chạm đất, nó đã cướp đi hơi thở của sự sống. Những lữ khách bước vào lãnh thổ Northeria luôn dễ dàng nhận ra những xác chết vô danh nằm dọc bên đường, như thể đã trở về vòng tay của bàn tay hắc ám. "Ngài" luôn hiện hữu ở Northeria, dù chỉ một cách thầm lặng.
Gió bắc kèm theo tiếng rít dài, biến những người đã khuất thành những dấu hiệu trên đường, vừa chỉ dẫn vừa cảnh tỉnh những lữ hành lạc bước trong gió tuyết. Bởi vậy, những lữ khách ở Northeria luôn vội vã lên đường, tranh thủ từng hơi thở sự sống còn vương trong họ.
---
Người Northeria phước mỏng, ân phước tử vong họ nhận chỉ mỏng như một sợi tơ. Lại không biết rằng, sau này, thành bang của họ cũng có ngày nhìn thấy nắng ấm, cho dù điều đó đối với họ hoàn toàn vô nghĩa.
Thành cổ trở thành trường học.
Phòng cầu nguyện trở thành đại sảnh dường
Rừng già trở thành cấm địa.
Nhưng mỗi năm, khi đông về, tuyết trắng vẫn bao phủ vùng đất từng thuộc về cư dân tôn thờ Cái Chết ấy, nhắc nhở về sự tồn tại của vị aether tử vong.
"Aether của thời gian – Xeronyx từ chối đáp lại lời cầu nguyện của tín đồ, sự biến mất của bà ta có liên quan đến Necros ?".
Blaise Zabini không cho việc Theodore Nott nói là đúng.
Necros là kẻ khiêm nhường nhất trong số các Aether, nếu không muốn nói là người đã biến mất cả nghìn năm chưa từng lộ diện, ngay cả tín đồ của Necros cũng chưa từng thực sự diện kiến bà ta. Thế giới này có vẻ đáng nghi, nghe thì giống như Necros có thể là kẻ đứng sau tất cả, nhưng đó là bàn tay tử vọng, nếu bà ta muốn, một cái chạm của bà đủ đưa thế giới này về cõi hư vô rồi.
... Nhưng hắn thực sự không dám phủ nhận chuyện này.
Bọn họ có thể hoàn toàn chắc chắn, kẻ đứng sau những sự việc kỳ lạ xảy ra ở thế giới này hoàn toàn có bàn tay của Xeronyx, kẻ còn lại có thể là bất cứ ai, kể cả Necros.
"Nhưng còn Aether nào sẽ trả lời chúng ta ngoài bà ta đâu", Theodore lắc đầu, giống như đã đạt đến cực điểm của sự chán nản, "Selmyra sẽ không trả lời chúng ta. Hơn nữa, tôi không bao giờ tin vào tầm nhìn của bà ta, logic sẽ không mơ hồ giống như tiên tri. Thậm chí tầm nhìn hạn hẹp của Selmyra còn không thể giải quyết vấn đề thực sự của thế giới này, và cậu đã nhìn thấy rồi còn gì – lời tiên tri vớ vẩn đó. Thế giới này đã tàn tạ đến mức không thể xuất hiện đấng cứu thế nữa rồi, có hi vọng nữa hi vọng mãi thì con người vẫn chọn đặt niềm tin vào những thứ vô dụng".
Để tìm được Necros, giải quyết nguyên nhân tạo ra vấn đề cốt lõi của thế giới này, bọn họ tới Hogwartz – nơi Necros đang ngủ sâu.
Thậm chí, có thể sẽ tìm được cả thần nữ phục vụ bàn tay hắc ám.
Thành bang tuyết phủ trong từng bước đi đều dẫn tới tịch diệt, ngày nay, được biết đến là trường đào tạo phù thủy và pháp sư Hogwartz.
Để đi đến đó, cần vào sân ga 9¾, lên chuyến tàu đến ga Hogsmade.
Như thế là quy trình của một học sinh, hai người họ cũng là một phần nho nhỏ trong số đó.
Sân ga Ngã Tư Vua, London. Từng đoàn người Muggle hối hả kéo va li, tay cầm vé tàu, mắt nhìn đồng hồ vội vã. Âm thanh của loa phát thanh vang vọng trên trần nhà cao vút, hòa cùng tiếng bánh xe lăn ken két và tiếng còi tàu thỉnh thoảng ré lên xa xa. Nhưng ở giữa nhịp sống bận rộn, có một thứ gì đó kỳ lạ đang diễn ra.
Ngay giữa hai cột trụ mang số hiệu 9 và 10, một nhóm người tụ tập như thể vô tình, nhưng ánh mắt họ liếc ngang dọc đầy thận trọng. Những đứa trẻ mặc áo khoác rộng, tay ôm những con cú trong lồng hoặc con cóc trong hộp gỗ, đứng cạnh cha mẹ với vẻ háo hức lẫn bồn chồn. Tất cả dường như đang chờ đợi điều gì đó.
Bỗng, một cậu bé tóc nâu được mẹ vỗ nhẹ lên vai, gật đầu rồi bước về phía bức tường gạch giữa sân ga số 9 và 10. Chỉ trong chớp mắt, cậu biến mất khỏi tầm mắt—một cách êm đềm đến kỳ lạ, như thể chưa từng tồn tại. Một đứa trẻ khác theo sau, rồi một đứa nữa. Họ dần dần tan biến vào hư không, như những cơn gió bị bức tường nuốt chửng.
Harry tần ngần đứng giữa sân ga, dù mấy hôm trước nghe Stella nói về mấy bức tường giữa hai sân ga vẫn cảm thấy có gì đó không đúng.
Mới nghe thì có vẻ là hơi ảo thật.
Có chắc là cậu không đụng đầu vào tường vì làm một điều ngu ngốc hay không ? Trường không có cổng dịch chuyển như trên tiểu thuyết pháp thuật hay nói hả ?
Cậu chưa từng thấy sân ga nào lại đông đúc đến như vậy. Người qua người lại, du khách lũ lượt đổ ra đổ vào, tiếng gọi nhau ơi ới, tiếng bánh xe lăn trên nền gạch hòa vào nhịp vang vọng của loa phóng thanh. Mùi bánh mì kẹp thịt và trà nóng thoảng trong không khí, phảng phất đâu đó là tiếng còi tàu vọng lại từ xa.
Harry đẩy cái rương to nặng trên xe đẩy, Hedwig đang nằm gọn trong chiếc lồng, cậu đảo mắt tìm kiếm giữa những biển hiệu : Sân ga số chín... Sân ga số mười... Nhưng hoàn toàn không thấy gì gọi là chín ba phần tư cả. Cậu bắt đầu bối rối.
"Đầy nhóc Muggle, biết ngay mà...", một giọng đàn bà vang lên, khiến cậu quay phắt lại.
Đó là một người phụ nữ béo tròn, khuôn mặt phúc hậu, đang trò chuyện với bốn cậu con trai – tất cả đều có mái tóc đỏ rực và mỗi người đều đẩy theo một cái rương cùng một con cú. Trống ngực Harry đập thình thịch. Đám người đó nhất định là phù thủy. Cậu lập tức đẩy xe đẩy theo họ, giữ khoảng cách vừa đủ để không gây chú ý nhưng cũng đủ gần để nghe rõ từng lời.
Người phụ nữ nhìn quanh rồi hỏi :"Xem coi, sân ga số mấy ?".
"Chín – ba – phần – tư!", một trong số những cậu bé trả lời.
Một bé gái nhỏ hơn, tóc đỏ rực như các anh trai, níu tay mẹ :"Mẹ ơi, con muốn đi...".
"Con chưa đủ tuổi đi học đâu, Ginny. Yên nào. Được rồi, Percy, con đi trước"
Cậu chàng thiếu niên lớn nhất chỉnh lại phù hiệu sáng bóng trên áo chùng, rồi đẩy xe đẩy đi thẳng về phía hàng rào giữa hai sân ga. Harry nín thở nhìn theo, không dám chớp mắt. Nhưng đúng lúc Percy gần tới hàng rào thì một nhóm khách du lịch lướt ngang qua che mất tầm nhìn. Khi người cuối cùng bước qua, Percy đã biến mất không dấu vết.
"Fred, tới phiên con" — người mẹ quay sang nói.
Một trong hai chàng trai song sinh nhe răng cười :"Con không phải là Fred, con là George. Thiệt tình, thưa mẹ, mẹ là mẹ của tụi con mà còn không nhận ra sao ?"
"Xin lỗi con, George à...".
"Đùa thôi, con là Fred đó".
Fred chạy vút đi trước khi mẹ cậu kịp phản ứng, người song sinh còn lại lập tức chạy theo, gọi í ới. Cả hai mất hút trong chớp mắt, biến mất y như Percy.
Đến lượt cậu con trai còn lại – Ron, như cậu đoán – rón rén tiến về phía hàng rào. Cậu ta bước gần đến... và đột ngột biến mất. Không có gì xảy ra cả. Không tiếng động, không ánh sáng, chẳng có gì khác thường.
Harry bèn đánh liều tiến đến gần người phụ nữ.
"Xin phép hỏi bác...".
Bà quay sang, nụ cười hiền hậu nở trên khuôn mặt tròn trĩnh :"Chào con, lần đầu tiên đến Hogwarts hả ? Thằng Ron nhà bác cũng mới như con thôi".
Bà chỉ về phía cậu bé tóc đỏ cao lêu nghêu, tay chân dài ngoằng, mặt lấm tấm tàn nhang, đang đứng đợi bên xe đẩy.
"Dạ... nhưng mà... con không biết làm sao để...".
"Muốn vào sân ga hả ?", bà mỉm cười, như đã quá quen với chuyện này. Đừng lo, con yêu. Tất cả những gì con cần làm là đi thẳng vào hàng rào giữa sân ga số chín và số mười. Đừng dừng lại, và đừng sợ. Tốt nhất là cứ chạy nhanh một chút nếu con thấy lo lắng. Nào, thử đi, trước Ron cũng được".
"Ơ... dạ... cảm ơn bác nhiều lắm".
Harry gật đầu, nắm chặt tay cầm xe đẩy. Cậu nhìn chăm chăm vào cái hàng rào gạch xám trông hết sức chắc chắn. Cậu hít sâu một hơi. Người ta vẫn tiếp tục đi ngang qua cậu để vào các sân ga khác, chẳng ai để ý đến sự lưỡng lự của cậu bé nhỏ với cái xe đẩy nặng trịch.
Rồi cậu bắt đầu bước nhanh hơn. Bước... rồi chạy. Hàng rào ở ngay trước mắt. Cậu dồn toàn lực vào chiếc xe đẩy, để nó kéo cậu lao tới. Gần hơn. Gần hơn. Cậu nhắm nghiền mắt lại — chắc chắn mình sắp đâm sầm vào tường mất rồi.
Nhưng... không có cú va chạm nào cả.
Cảm giác như vừa bước xuyên qua một làn sương mỏng. Harry mở mắt ra.
Trước mắt cậu là một đầu máy hơi nước màu đỏ tươi đang nằm ìm trên đường ray, tỏa khói nghi ngút. Trên thân tàu là tấm bảng bằng đồng sáng bóng : Tốc hành Hogwarts – Khởi hành lúc 11 giờ. Chung quanh cậu là sân ga náo nhiệt, đầy học sinh, phụ huynh, xe đẩy, mèo, cú, có cả một vài con cóc nhảy loi choi dưới chân.
Harry quay lại nhìn phía sau. Cái hàng rào gạch đã biến mất, thay vào đó là một cổng sắt với tấm biển cong cong phía trên, đề rõ : Sân ga số chín – ba – phần – tư.
Tấm áo choàng của Stella đung đưa khẽ theo làn gió, mùi kim loại và than đá lẫn trong khói tàu cuộn lại thành một màn sương mỏng lửng lơ quanh sân ga. Cô đứng yên lặng gần một cột đèn sắt, ánh mắt lướt qua đoàn tàu đỏ rực đang tỏa khói như con rồng cổ xưa sắp thức giấc.
Stella vươn vai một cái, ngước nhìn đoàn tàu đỏ rực đang phun khói ì ạch như con rồng đang ngáp ngủ.
"Trông nó không cổ như em tưởng". Cô nhận xét, đôi mắt đảo quanh sân ga đầy những học sinh đủ mọi cỡ tuổi đang lăng xăng đẩy rương, ôm mèo, vác cú, và chạy nháo nhào.
"Em tưởng tượng nó giống kiểu... xe bò kéo hay gì à ?". Asterion hỏi, một tay thọc túi áo choàng, một tay xách vali giúp em gái, tay bên kia kéo theo chiếc vali cũng to không kém của chính mình.
"Không, nhưng ít ra em cũng nghĩ nó phải cũ kỹ, mùi ẩm mốc, mấy ông lão đứng kế bên gảy mandolin. Ai ngờ lại đông như cái chợ!"
"Chà, hoan nghênh đến sân ga chín ba phần tư. Nơi những học sinh lần đầu đi học luôn tưởng sẽ đi đến chỗ bí hiểm, nhưng hóa ra lại là... tàu lửa. Khá khẩm hơn tàu điện ngầm một chút. Mà nhiều cú hơn".
Stella cười khẽ, liếc nhìn những con cú đang lồng lộn trong lồng của đám học sinh quanh đó.
"Nhìn đống cú này làm em thấy tội nghiệp cho con cú của một người bạn mới quen. Con cú đó từng khá... im lặng".
"Im lặng vì không ai dám làm phiền nó. Con đó có khí chất. Còn mấy con này thì...". Asterion hất đầu về phía một con cú màu xám đang cố giành bánh quy của chủ nó "... đang có vẻ mất phẩm giá trầm trọng".
Stella quay sang anh trai :"Này, anh từng đi tàu này bao giờ chưa ?"
"Có chứ. Lần đầu đi là lúc mười một tuổi. Lúc đó ngồi cùng một lũ nhóc ồn ào đến mức anh suýt nổ đầu. Cũng có một thằng cu luống cuống làm tràn mực lên áo anh, sau đó còn xin lỗi bằng cách... tặng anh một thanh kẹo chanh đã cắn dở".
"Thế à ? Hào hứng thật", Stella nghiêng đầu, cười nhẹ. "Em thì thấy tò mò không biết mình sẽ ngồi với ai. Hy vọng không bị xếp với một đám nói liên tục suốt hành trình".
"Với gương mặt của em thì yên tâm, nhiều người muốn ngồi chung lắm, còn muốn hỏi xem em còn độc thân không nữa kìa". Asterion nhún vai, nháy mắt.
"Em còn nhỏ, hơn nữa, thần nữ không thể kết hôn trước khi hoàn thành trách nhiệm".
"Đó. Đáng sợ là vậy. Nhưng ở Hogwartz không thiếu những đứa nhóc liều lĩnh, biết là không thể nhưng vẫn trèo tường vào nhà thánh nữ".
Stella bật cười khúc khúc khích, lần này là cười thật. Cô lắc đầu :"Không phải Hogwartz có an ninh sao, dù sao em chỉ là một cô nhóc 11 tuổi, em học dưới anh – hoàng tử học đường hai lớp, còn là em gái của anh, anh yên tâm"".
Asterion liếc đồng hồ, rồi hất đầu về phía đoàn tàu :"Tàu sắp khởi hành. Bây giờ lên thôi chứ nhỉ ? Không thì lại muộn mất".
"Lên thôi. Em hy vọng toa tàu của em không bị ai tràn mực lên áo".
"Còn anh hy vọng không phải thấy em từ chối kẹo chanh một cách lạnh lùng đến thương tâm".
Hai anh em đẩy rương đi về phía đầu tàu, lẫn vào đám đông học sinh đang rộn ràng tạm biệt cha mẹ, ôm hôn tạm biệt mèo, và tranh thủ nhét nốt miếng bánh ngọt cuối cùng trước khi leo lên tàu.
Draco đứng thẳng lưng giữa đám học sinh đang cười nói rộn ràng, gương mặt không biểu lộ cảm xúc nào rõ rệt. Cậu lặng lẽ quan sát khói tàu đang cuộn lên như sương mù, thi thoảng liếc nhìn quanh bằng ánh mắt có chút sốt ruột giấu kỹ.
"Draco. Cổ áo con lệch".
Giọng Narcissa vang lên sau lưng, nhẹ nhàng nhưng không cho phép phản kháng. Bà Malfoy đặt tay lên vai con trai, chỉnh lại cổ áo đồng phục cho cậu, rồi khẽ phẩy một sợi bụi tưởng tượng ra khỏi vạt áo choàng. Mùi nước hoa dịu nhẹ từ bà khiến Draco hơi dịu đi.
"Mẹ, con tự làm được".
"Biết là vậy. Nhưng con nên để mẹ làm khi mẹ còn có thể".
Draco im lặng. Một thoáng, cậu quay sang bà. Khuôn mặt mẹ cậu vẫn xinh đẹp và điềm tĩnh như mọi khi, dù trong ánh mắt có thứ gì đó lạ lẫm — không hẳn là lo lắng, càng không phải sợ hãi. Chỉ là... thứ gì đó lặng thinh và lẩn khuất.
"Con sẽ ổn thôi". Cậu nói, không chắc là đang trấn an mẹ hay chính mình.
"Mẹ không nghi ngờ điều đó". Bà đáp, môi khẽ cong lên một nụ cười. "Con là người nhà Malfoy".
Draco gật đầu. Cậu không cần thêm lời nào. Không ôm, không hôn má, không nắm tay. Giữa họ, tình cảm là một điều yên lặng và kín đáo như chiếc khăn tay cài nơi túi áo. Không cần phô trương.
"Đi đi. Tàu sắp chuyển bánh. Và nhớ viết thư. Không được để mẹ phải gửi cú ba ngày một lần".
"Con nhớ rồi".
Draco nhấc chiếc rương lên, bước lên tàu. Trước khi khuất bóng sau cánh cửa toa, cậu quay lại nhìn mẹ mình một lần. Bà vẫn đứng đó, thẳng người, gọn gàng, sang trọng trong chiếc áo choàng màu xanh nhạt, như một bức tượng bằng sương bạc giữa biển người nhốn nháo.
Một cái gật đầu nhẹ. Một ánh mắt. Không cần nói thêm gì nữa.
Tàu rít còi vang lên — và rồi Draco biến mất vào khoang tàu, như thể được nuốt chửng bởi khói trắng của buổi sáng đầu tháng Chín.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com