ho xuan huong
Trong văn học Việt nam nửa cuối thế kỷ XVIII - lửa đầu thế kỷ XIX, Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ, Không phải người phụ nữ lầu son gác tía, chinh phụ hay cung tần, mà là người phụ nữ bình thường, ngưởi phụ nữ lao động có nhiều bất hạnh trong cuộc sống, Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy, những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay.
Ai cũng biết cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phận riêng dành cho phụ nữ, Nhưng cái đau khổ của phụ nữ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng của nó, Phụ nữ cũng là người làm lụng đầu tắt mặt tối, cũng đói cơm rách áo, cũng bị trăm nghìn thứ chà đạp như bất cử một người bị áp bức nào khác, Nhưng xã hội phong kiến còn dành cho họ nhiều sự bạc đãi: các qui chế nặng nề của đạo đức, của lễgiáo, của tập tục xã hội... mà cái đau khổ về tinh thần nhiều khi còn day dứt đau đớn hơn nhiều lần cái đau khổ về thể chất!
Hồ Xuân Hương là nhà thơ phụ nữ, và nhà thơ của phụ nữ, bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung, và,kinh nghiệm của cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình, nhà thơ đứng về phía những người phụ nữ bị áp bức. Trong thơ mình, Xuân Hương không nói đến toàn bộ nổi khổ của phụ nữ. Xuân Hương hình như chỉ muốn nói đến nỗi đau khổ riêng có tính chất giới tính của mình, Viết về đề tài phụ nữ, nhà thơ thường xoáy sâu vào các ngóc ngách éo le của cuộc đời để nêu lên những bi kịch không kém phần chua chát, song bình thường nó bị xóa nhòa trong một cuộc sống vốn dĩ đã rập khuôn theo những chế ước nặng nề của lễ giáo, Hồ Xuân Hương viết về nỗi khổ của người phụ nữ ''lấy chồng chung'' hay nỗi khổ của người phụ nữ ''không chồng mà chửa'' v.v... Trong bài Cảnh chồng chung, nhà thơ vạch ra làm lẽ chẳng qua chỉ là một thứ làm mướn, thậm chí còn tệ hơn làm mướn nữa: đó là thứ làm mướn không công, Hồ Xuân Hương nêu lên được một nét điển hình nổi bật của chế độ hôn nhân phong kiến. Xã hội phong kiến bắt người phụ nữ phải chính chuyên một chồng trong khi cho phép đàn ông có quyền năm thê bảy thiếp. Trừ trường hợp cá biệt, lấy vợ lẽ vì người vợ cả không có con trai ''nối dõi tông đường'', thông thường trong xã hội phong kiến lấy lẽ là để thỏa mãn cuộc sống dâm dật của bọn địa chủ, đồng thời để có thêm sức lao động. Đó là cách thuê nhân công mà không phải trả tiền công, ý nghĩa phê phán sâu sắc trong bài thơ của Hồ Xuân Hnơng là ở đó. Và ý nghĩa ấy được nhân lên rất nhiều, do chỗ người phụ nữ của Xuân Hương cố hết sức để chịu đựng:
Năm thì mười họa hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần cỏ cũng không,
Cố đấm ăn xôi ,xôi lại hẩm,
cầm bằng làm mướn, mướn không công!
và đã không chịu đựng nổi, đã thét lên:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Hồ Xuân Hương nhận thức được cảnh bất công, ngang trái của việc lấy chồng chung, nhà thơ lên tiếng chửi mắng quyết liệt, nhưng điều kiện xã hội phong kiến vẫn cứ cho phép nó nghiễm nhiên tồn tại. Lịch sử hạn chế nhà thơ, Xuân Hương không tìm được lối thoát. Bài thơ kết thúc không mở ra bước ngoặt nào cả, mà đóng lại bằng một tiếng thở dài bất lực:
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong !
Nhà thơ không thể vuợt lên trên hoàn cảnh xã hội. Bất mãn với thực tại, Xuân Hương nghĩ giá gì ngày trước, dừng đi lấy chồng! Đó là một cách nói chứ không phải một giải pháp, và tiếng thở dài của Xuân Hương chỉ làm đậm thêm cái mỉa mai của thực tại.
Đặc điểm của thơ Xuân Hương là không bao giở dửng dưng, lạnh nhạt. Nhà thơ luôn luôn có một trái tim cháy bỏng, nói đến cái gì là nói đến với tất cả sự xúc động chân thành của mình, Khi giận dữ thì thét lên, mắng chửi; khi yêu thương thì đằm thắm, ngọt ngào. Nếu bài Cảnh chồng chung là tiếng nói phẫn uất chua xót đối với chế độ đa thê bất công mà người phụ nữ phải chịu đựng, thì bài Không chồng mà chửa lại là một bời nói rất mực khoan dung, độ lượng đối với cảnh ngộ không may của họ.
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ chửa hoang là một tai họa tầy đình, Thời Hổ Xuân Hương sống và sáng tác, bộ luật Gia Long ghi rõ: ''Nam nữ đã đính hôn với nhau, nhưng chưa cưới mà dã thông gian thì phải phạt một trăm trượng''. Và chú thêm: ''người đàn bà phạm tội gian dâm thì hết cả liêm sỉ, nên bắt cởi áo cánh, cho để mặc váy mà gia hình; còn tội khác, khi phạt cũng được mặc cả áo''.
Đấy là ''tội'' của những người có đính hôn, nhưng chưa cưới xin đã ăn nằm với nhau.Chứ những người không có đính hôn, những phụ nữ ''không chồng mà chửa'' thì ''tội'' không thể hình dung được. Giai cấp phong kiến thống trị lấy việc lăng nhục nhân cách con người để trả thù cho cái mà chúng gọi ''phá hoại nhận cách'', là ''hết cả liêm sỉ'', Thật không có sự lệ thuộc nào bằng sự lệ thuộc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Pháp luật, lễ giáo, tập tục, những tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức đã hoàn toàn biến phụ nữ thành một thứ sở hữu của người gia trưởng, của đàn ông. Họ biết tước hết mọi quyền lợi, kể cả quyền được yêu, và quyền đối với con cái của họ.
Trong hoàn cảnh như vậy, quan hệ vợ chồng chưa chắc đã là quan hệ yêu đương, và việc ''không chồng mà chửa'' chưa hẳn là chuyện bừa bãi, trong bộc trên dâu, mà nhiều khi lại là kết qua của một tình yêu thật sự. Người phụ nữ ''không chồng mà chửa'' trong bài thơ của Xuân Hương là trường hợp ấy, Nàng nói với người tình của mình nửa như trách móc, nửa như tâm sự:
Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng !
không coi việc làm của nàng là tội lỗi. Đó chỉ là chuyện ''cả nể'' đối với người tình, và vì cả nể nên mới hóa dở dang như vậy. Lễ giáo, luật pháp phong kiến khắc nghiệt làm cho người tình không dám nhìn nhận kết quả tình yêu của chàng. Chỗ nhút nhát ấy của bạn tình, nguời phụ nữ của Xuân Hương cũng rất độ lượng:
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng !
nàng chỉ yêu cầu một điều là phải nhìn nhận sự việc cho đúng đắn. Đây là chuyện tình, chuyện nghĩa chứ không phải chuyện bướm ong trong chốc lát: ''Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa''. Còn kết quả của nó, bạn tình không dám nhận, nàng xin đảm đương tất cả:
''Mảnh tình một khối thiếp xin mang'',
Cuối cùng nguời phụ nữ của Xuân Hương thấy không thể sống khuất phục được, nàng đã ngẩng cao đầu tuyên chiến với lễ giáo phong kiến, bằng những lời lẽ hùng hồn, đanh thép:
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
không có, nhưng mà có, mới ngoan,
Thái độ của, Xuân Hương bắt gặp thái độ của quần chúng nhân dân trong ca dao:
Không chồng mà chửa mới ngoan,
Có chăng mà chửa thế gian sự thường,
Cố nhiên, quần chúng nhân dân cũng như Hồ Xuân Huơng không phải bênh vực cho quan hệ bừa bãi giữa nam nữ, mà ở đây là cách nói ''ăn miếng trả mếng'' có tính cách đốp chát trong lối đối thoại của nhân dân với giai cấp phong kiến thống trị.
Xuân Hương là nhà thơ yêu con nguời, yêu cuộc uống, Tình cảm chân thành làm cho thơ Xuân Hương dường như lúc nào cũng che dấu bên trong một nụ cười. Đối với Xuân Hương, nụ cười có ý nghĩa nhiều hơn nhũng giọt nước mắt. Tất nhiên nói thế chẳng phải nước mắt không có ý nghĩa. Nhất là đối với những giọt nước mắt hết sức chân thành và thông cảm như của một Nguyễn Du chẳng hạn, thì đó vẫn là niềm an ủi lớn đối với con người, đó vẫn là một bằng chứng rằng con người không phải tất cả là láng sói, mà còn có những tấm lòng. Song dù sao cũng phải nhận rằng, cuộc sống cũ nước mắt đã đọng lại thành sông, thành biển, khóc thêm vài giọt nữa phỏng có ích gì? Xuân Hương không muốn khóc, Xuân Hương không muốn phủ một màu đen lên cuộc đời vốn đã đen ngòm của những con người đau khổ, mà muốn đem đến cho họ một nụ cười, giúp họ có nghị lực để sống và chống chọi với cuộc sống. Nhà thơ sẽ bảo một bà lang khóc chồng:
Văng vẳng tai ghe tiếng khóc gì,
Thương chồng nên nỗi khóc tì ti,
sẽ bảo một cô gái chồng chết:
Nín đi kẻo thẹn với non sông,
Ai về nhắn nhủ đàn em bé...
Sẽ đem đến chút ánh sáng của lòng tin vào một lẽ phải công bằng và nhân đạo hơn để cho những cô gái không chồng mà chửa có thể tiếp tục sống, làm mẹ và làm người:
Không có, nhưng mà có, mới ngoan!
Nhưng đối với phụ nữ, Xuân Hương không phải chỉ có thông cảm và bênh vực. Đặc biệt hơn nữa là nhà thơ còn hết sức đề cao và ca ngợi họ. Xuân Hương tìm thấy vẻ đẹp thật sự chân chính của họ.
Trong một loạt hình tượng nói về số phận bấp bênh hẩm hiu của người phụ nữ như chiếc bánh trôi '' bảy nổi ba chìm với nước non''; con ốc nhồi ''đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi'', hay quả mít ''da nó sù sì” v.v... nhà thơ chú trọng nêu bật cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn của họ. Quả mít da sù sì, nhưng ''múi nó dày'', Chiếc bánh trôi bảy nổi ba chìm và ''rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn'', nhưng ''vẫn giữ tấm lòng son''...
Trong bài thơ Đề tranh tố nữ, Xuân Hương ca ngợi người phụ nữ ,ở một khía cạnh khác: ca ngợi tuổi trẻ tươi mát, trắng trong của các cô gái đang xoan:
Chị cũng xinh mà em cũng xinh,
Đôi lứa như in tờ giấy trắng, ,
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh,,,
Và trong bài Thiếu nữ, ngòi bút của nhà thơ lại đi vào một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ về cái đẹp của họ: cái đẹp trong cơ thể. Bài thơ là một bức tranh khỏa thân truyền thần sinh động:
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông, ,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc,nồng,
Lược trúc biếng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long,
Đôi gò bồng đảo hương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên suối chửa thông,
Quân tử dùng dằng đi chẳng đứt,
Đi thì cũng dở ở không xong,
Không phải bằng đường loét và màu sắc, mà bằng một thứ ngôn ngữ trang trọng, bức tranh khỏa thân của Xuân Hương mới sinh động biết bao!
Có người cho đây là một cách nhảm nhí của nhà thơ, một thứ ''dâm hay tục'', Nhưng bài thơ có gì là nhảm nhí, có gì là dâm, là tục? Ở đây người đọc chỉ thấy một thân hình cân đối mĩ lệ của người thiếu nữ, một quang cảnh nên thơ với những bồng đảo, đào nguyên...
Bức tranh không hề khiêu gợi một sự thèm khát nào của dục vọng thấp hèn, mà chỉ đem đến cho người đọc những rung động thẩm mỹ thanh cao.
-------------------------------------
Trong xã hội phong kiến, phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ không chỉ chịu sự áp bức về mặt giai cấp cũng làm lụng đầu tắt mặt tối, cũng đói cơm rách áo cũng trăm nghìn thứ trà đạp mà còn chịu áp bức về mặt giới tính, tinh thần mà cái đau khổ về tinh thần nhiều khi còn day dứt, đau đớn hơn nhiều lần cái đau khổ về thể chất. Họ giống như những “tội nhân chung thân” suốt đời gánh trên vai bao nhiêu ràng buộc của luật “tam tòng”, bởi những hủ tục giết chết tình yêu, tuổi trẻ, hạnh phúc. Đã có rất nhiều nhà văn nhân đạo thể hiện niềm cảm thông xót xa với thân phận người phụ nữ như người cung nữ (Cung oán ngâm khúc), người chinh phụ (Chinh phụ ngâm khúc)… Đến Hồ Xuân Hương, người phụ nữ trong thơ bà không phải người phụ nữ lầu son, gác tía chinh phụ hay cung tần mà là những người phụ nữ hết sức bình thường, những người phụ nữ lao động chịu nhiều bất hạnh trong đời sống.
Trong thơ mình Hồ Xuân Hương không nói đến toàn bộ nỗi khổ của người phụ nữ, bà dường như hướng đến nỗi khổ có tính chất giới tính của mình. Viết về đề tài phụ nữ, nhà thơ thường xoáy sâu vào các ngóc ngách éo le của cuộc đời để nêu lên những bi kịch khong kém phần chua chát, song bình thường nó bị xóa nhòa trong một cuộc sống vốn dĩ đã dập khuôn theo những chế ước nặng nề của lễ giáo.
Xuân Hương nêu lên một nét điển hình nổi bật của chế độ hôn nhân phong kiến đó là “Cảnh chồng chung”. Nhà thơ vạch ra cảnh làm lẽ chẳng qua chỉ như một thứ làm mướn, thậm chí là làm mướn không công. Người đàn ông có quyền có năm thê bảy thiếp nhưng người phụ nữ chính chuyên một chồng. Người phụ nữ chịu cảnh làm lẽ ngoài thỏa mãn cuộc sống dâm dật của bọn địa chủ còn trở thành thứ nhân công mà không mất tiền thuê. Những câu thơ của bà cất lên đầy niềm đồng cảm xót thương:
Năm thì mười họa chăng hay chớ, Một tháng đôi lần có cũng không, Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm Cầm bằng làm mướn, mướn không công!
Khi uất ức không chịu được bà đã lên tiếng chửi mắng quyết liệt nhưng điều kiện xã hội vẫn ngang nhiên cho phép nó tồn tại. Trước thực tại, bà cũng đành bất lực trong tiếng thở dài. Tiếng thở dài này càng làm đậm thêm cái mỉa mai của thực tại:
Thân này ví biết đường này nhỉ, Thà trước thôi đành ở vậy xong!
Một đặc điểm của thơ Xuân Hương là bà không hề dửng dưng lạnh nhạt mà nhà thơ luôn có một trái tim bỏng cháy, nói cái gì là nói với tất cả sự chân thành xúc động của mình. Khi giận dữ thì thét mắng, khi yêu đương thì đằm thắm ngọt ngào. Bà nhìn sự việc với thái độ cảm thông, khoan dung đại lượng với cảnh ngộ không may của họ qua bài “Không chồng mà chửa”.
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ chửa hoang là một tội tày đình. Họ coi người phụ nữ mà đã thông gian thì đã mất hết cả liêm sỉ nên khi hành hình thì bắt cới áo cánh, để cho mặc váy gia hình còn những tội khác khi phạt cũng được mặc áo. Với Hồ Xuân Hương, bà quan niệm đó không phải là tội lỗi mà đó chỉ là chuyện “cả nể” đối với người tình, bởi vì cả nể nên mới hóa dở dang như vậy “Cả nể cho nên hóa dở dang”. Phụ nữ luôn giàu đức hi sinh, người phụ nữ trong thơ Xuân Hương cũng vậy, dám sẵn sàng chấp nhận, đương đầu với tất cả “Mảnh tình một khối thiếp xin mang” và tuyên chiến với lễ giáo phong kiến bằng lời lẽ hùng hồn đanh thép:
Quản bao miệng thế lời chênh lệch Không có, nhưng mà, có mới ngoan
Trong những vần thơ của mình Hồ Xuân Hương luôn đem đến cho những người phụ nữ bất hạnh những lời động viên, muốn đem đến cho họ một nụ cười, giúp họ có nghị lực sống và chống chọi với cuộc sống. Đó là tiếng nói tri âm với một bà lang khóc chồng:
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì Thương chồng nên nỗi khóc tỉ ti
Nàng sẽ bảo với một cô gái chồng chết:
Nín đi kẻo thẹn với non sông Ai về nhắn nhủ đàn em bé!...
Sẽ đem đến chút ánh sáng của lòng tin vào một lẽ phải công bằng và nhân đạo hơn cho những cô gái không chồng mà chửa có thể tiếp tục sống làm mẹ và làm người:
Không có, nhưng mà có, mới ngoan
Qua đó ta thấy, Xuân Hương không chỉ có cảm thông và bênh vực mà bà còn hết sức đề cao và ngợi ca họ. Bà tìm thấy vẻ đẹp thật sự chân chính của họ. Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ đẹp về ngoại hình mà họ còn mang những phẩm chất vô cùng cao quý. Hồ Xuân Hương không ngại ngần dựng nên một bức tranh khỏa thân truyền thần sinh động về cái đẹp cơ thể của một thiếu nữ:
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng. Lược trúc biếc cài trên mái tóc, Yếm đào trễ xuống dưới nương long. Đôi gò bông đảo hương còn ngậm, Một lạch đào nguyên suối chửa thông. (Thiếu nữ)
Bức tranh người thiếu nữ ở đây không gợi lên những dục vọng thấp hèn, mà chỉ đem đến cho người đọc những rung động thẩm mỹ thanh cao. Bởi đó là vẻ đẹp mà tự nhiên đã ban tặng cho người phụ nữ.
Thông qua những hình ảnh chiếc bánh trôi nước “bảy nổi ba chìm với nước non”; con ốc nhồi “Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”, hay quả mít “da nó xù sì”... nữ sĩ đã chú trọng phát hiện và khẳng định vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn người phụ nữ. Dù hình thù xấu xí, dù bị “rắn nát” bởi “tay kẻ nặn” nhưng bản chất tốt đẹp, thánh thiện của người phụ nữ không bao giờ bị mất đi “mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
2.1.2 Phê phán, đả kích giai cấp phong kiến thống trị
Giai cấp phong kiến, mà đại diện là vua chúa, quan lại, hiền nhân quân tử... luôn cho mình có sứ mạng truyền bá, hành xử đạo lí thánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội. Đó là những “quân tử”, những người mang trong mình bao nhiêu tốt đẹp, trong sạch, thanh cao. Nhưng Hồ Xuân Hương đã vạch trần bộ mặt thật, lột chiếc áo đạo đức giả thùng thình, phơi bày cái xác thân phàm tục của họ. Với vũ khí tiếng cười, bà đã đánh rất trúng rất đau từ ông vua ngất ngưởng trên ngai vàng đến anh thư sinh nghiên bút đến cửa Khổng sân Trình để học đạo thánh hiền. Có thể thấy, đối tượng đả kích trong thơ bà rất rộng. Với vua chúa, bà chỉ mắng nhè nhẹ mà đau vô kể, và chỉ có thế cũng đủ làm cho vua chúa tối mặt, bà hạ bệ vua chúa ngang hàng với những kẻ vẫn bị người “quân tử” cho là “phàm phu tục tử”:
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy Chúa dấu vua yêu một cái này.
Hình ảnh “một cái này” là cái quạt: “chành ra ba góc da còn thiếu, khép lại đôi bên thịt vẫn thừa” mà Hồ Xuân Hương đã từng phẩy vào mặt, che lên đầu đấng anh hùng, người quân tử.
Nếu đối với vua chúa, nữ sĩ châm chích thói mê hoa, hiếu sắc thì với bạn quan thị, nữ sĩ giơ cao đánh thẳng vào cuộc sống trái lẽ tự nhiên của chúng:
Đố ai biết đó vông hay chóc Còn kẻ nào hay cuống với đầu
Có lẽ kẻ chịu nhiều thương tích nhất là bọn “hiền nhân quân tử”, bọn mô phạm phong kiến. Tự xưng hiền nhân quân tử, tức đồ đệ của Nho giáo, nhưng việc làm lén lút, thậm chí ý nghĩ trong đầu chúng cũng bị Hồ Xuân Hương phát hiện và phơi bày ra ánh sáng cho mọi người thấy rằng những kẻ giả dối ấy, chúng rất đói và háo ăn, song vì khoác chiếc áo đạo đức trên người nên chúng phải “ăn vụng”. Bà đi guốc trong bụng chúng và chộp ngay được ý nghĩ mờ ám của chúng:
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt, Đi thì cũng dở ở không xong
Đó còn là đám nho sĩ dốt nát, còn huênh hoang, hợm mình là con quan, là cậu ấm, tương lai sẽ là “rường cột nước nhà” nên ngổ ngáo, xem dưới gầm trời không còn ai nữa. Học không lo học lại còn đi ghẹo gái, thơ không ra thơ mà dám đề thơ ở chùa, ở miếu. Hồ Xuân Hương đã gọi chúng là “phường lòi tói”, lũ “ngẩn ngơ”, xưng “chị” và đòi “dạy” chúng “làm thơ” và dọa “Muốn sống đem vôi quét trả đến” ngay.
Nhắc đến cửa chùa, Hồ Xuân Hương cũng vạch trần những hành vi dâm đãng diễn ra ngay trước cửa đền chùa:
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà. Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Qua đó ta thấy tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương rất đa dạng hướng đến mọi đối tượng khác nhau trong cuộc sống từ bọn vua chúa đến bọn quan thị, từ bọn “hiền nhân quân tử” đến bọn tu hành núp dưới bóng nhà Phật làm điều xấu. Điều đó đã thể hiện sức bao quát của Hồ Xuân Hương đối với thế thái nhân tình. Bà đã cười với mọi giọng dõng dạc, chủ động, đàn chị “cười nhọn, cười sắc, cười gằn”, “cười vào tận óc” những kẻ tự xưng là địa diện cho nề nếp đạo đức xã hội.
2.1.3 Bộc lộ tiếng lòng của chính mình
Thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương ngoài mục đích chĩa mũi nhọn vào chế độ và lễ giáo phong kiến còn đề cập đến nỗi niềm riêng tư của nhà thơ. Đó là sự thể hiện ước mơ, khát khao hạnh phúc lứa đôi, muốn có một cuộc sống trần tục thiên về mặt bản năng. Hồ Xuân Hương có ba bài thơ trữ tình bộc lộ về mình của tác giả. Đó là những bài thơ viết về duyên phận chìm nổi, lênh đênh của nhà thơ. Lê Trí Viễn đã viết: “Đau đớn ê chề là như vậy, nhưng Xuân Hương vẫn trở về với bản ngã yêu đời. Lời thơ vẫn trào lộng, hóm hỉnh. Cái luật của đời: bi quá hóa hài. Hài để mà chua xót, vơi nỗi buồn chán. Càng chua xót, đau thương lại càng tìm đến cái cười... ra nước mắt.”
Qua chùm ba bài thơ Tự tình I, Tự tình II, Tự tình III đã thể hiện trong sâu thẳm tâm hồn Hồ Xuân Hương những bi kịch của cuộc đời mà thường ngày cái bản lĩnh cứng cỏi làm lu mờ. Bà là một người phụ nữ tài hoa nhưng lại vấp phải cuộc đời nhân duyên dở dang, số phận long đong. Trong đêm khuay khi đối diện với chính mình thì nỗi đau ùa về. Dường như Xuân Hương đã “ngồi nhẫn tàn canh”, ngồi một mình cô đơn đối diện với đêm khuya, với vầng trăng lạnh. Nhưng những vần thơ của bà không phải vì thế mà trở nên mềm yếu, trong cái mềm yếu ấy vẫn chứa đựng một bản lĩnh thách thức, hóm hỉnh :
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy, Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh! (Tự tình III)
Ba bài Tự tình là “ba bài than thân làm thành một bộ ba song song nhau, bài nào cũng tiêu tao, cũng nói ra đáy lòng của người phụ nữ.” Qua ba bài thơ này, nhà thơ thể hiện tấm lòng chân thật của người phụ nữ về thân phận ê chề, đau khổ của mình. Đồng thời nói lên niềm khát khao cháy bỏng, ước mơ được yêu, được trao duyên gửi tình của nhà thơ. Nỗi niềm riêng tây của Hồ Xuân Hương không chỉ được thể hiện ở ba bài thơ Tự tình này mà còn thể hiện ở nhiều bài thơ khác khi thì trực tiếp khi thì gián tiếp. Nhiều bài thơ Hồ Xuân Hương viết về người cũng chính là viết về mình và ngược lại khi viết về mình cũng là viết về người.
--------------------------------
Tiếng thơ Xuân Hương là tiếng thơ của một người phụ nữ tài hoa, cá tính nhưng phải chịu sự gò bó của lễ giáo phong kiến khắt khe, kìm kẹp cuộc sống. Bao khao khát, bao nguồn sống mãnh liệt không được bộc lộ trong cuộc sống được bà gởi gắm cả vào trong thơ. Thơ Xuân Hương là những nỗi niềm không chỉ của riêng tác giả mà của tất cả những phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong kiến thế kỉ XIV.
Ảnh minh họa: internet
Có thể nói, thơ Xuân Hương là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ. Không phải là những “cung tần” như trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều hay những người chinh phụ trong “chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn mà là những người phụ nữ bình dân, lam lũ; những số phận bất hạnh. Ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy. Đó không chỉ là những tiếng than:
“Năm thì mười họa chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công”
(Lấy chồng chung)
mà còn là những tiếng thét căm hờn:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
(Cảnh chồng chung)
Ai cũng biết, cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai, nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình; và bằng tiếng thơ, muốn nói lên những tiếng nói chia sẻ với họ. Vì vậy, thơ Xuân Hương luôn là tiếng kêu xé lòng của những người con gái nhẹ dạ:
“Cả nể cho nên hoá dở dang
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng”
(Dở dang)
Của những thân phận lỡ dở:
“Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
Sau giận vì duyên để mõm mòm”
(Tự tình 1)
Và của những số kiếp nổi nênh:
“Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”
(Chiếc bách)
Đặc điểm của thơ Xuân Hương là không bao giờ dửng dưng, lạnh nhạt. Nhà thơ luôn có một trái tim cháy bỏng yêu thương. Trái tim ấy cùng chung nhịp đập với những thân phận phụ nữ bất hạnh, thay họ nói lên những tiếng nói phản kháng, thách thức, tuyên chiến với lễ giáo phong kiến:
“Không có, nhưng mà có, mới ngoan”
(Dở dang)
Trong xã hội cũ, có ai dám như Xuân Hương đứng ra bênh vực cho những người con gái dở dang ấy, có ai dám ngang nhiên thừa nhận những quy tắc đi ngược lại khuôn mẫu của lễ giáo phong kiến như bà. Những điều đó chỉ có ở bản lĩnh, một trái tim tha thiết, nồng ấm sự cảm thông của một tâm hồn nghệ sĩ.
Từ những tiếng nói cảm thông ấy, Xuân Hương còn lên tiếng đề cao ca ngợi họ, tìm thấy vẻ đẹp thực sự chân chính ở họ. Trong một loạt hình tượng nói về số phận bấp bênh, hẩm hiu của người phụ nữ như “chiếc bánh trôi” “bảy nổi ba chìm”; hay quả mít “vỏ nó xù xì”; con ốc nhồi “đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”... nhà thơ luôn chú trọng nêu bật cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn của họ. Quả mít tuy “vỏ nó xù xì” nhưng “múi nó dày”, còn chiếc bánh trôi:
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
(Bánh trôi nước)
Nhà thơ ca ngợi tuổi trẻ trắng trong, ngồn ngộn sức sống của những cô gái đang xoan trong “đề tranh tố nữ”:
“Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh”
(Đề tranh tố nữ)
Trong lịch sử văn học dân tộc, có lẽ Xuân Hương là người đầu tiên dám cất lên tiếng nói khẳng định tài năng trí tuệ của người phụ nữ, nói lên ước vọng được khẳng định mình:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
(Đề đền Sầm Nghi Đống)
Cái ước vọng ấy là của một người luôn ý thức được giá trị của mình, luôn có những cái vỗ ngực tự xưng đầy thách thức:
“Quả cau nho nho miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi”
(Mời trầu)
“Tài tử văn nhân ai đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom”
(Tự tình 1)
Có thể nói, tuy chưa phản ánh được những mâu thuẫn lớn của thời đại, chưa có tầm nhìn xa để thấy hết những đau khổ và khát vọng của con người, song Hồ Xuân Hương cũng đã đóng góp cho nền thơ ca dân tộc một tiếng thơ hết sức độc đáo. Thơ bà là thứ thơ giải phóng cá tính, dám khẳng định cá tính và bản lĩnh riêng. Bà là nhà thơ đầu tiên dám đưa cá tính vào trong thơ. Chính cá tính ấy đã giúp cho tiếng thơ của bà khi nói về người phụ nữ có một sắc thái riêng, hoàn toàn khác với những nhà thơ viết về phụ nữ trước đó và cả sau này. Nếu như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm nói về người phụ nữ bằng sự xót thương, với những giọt nước mắt cảm thông, và người phụ nữ trong thơ họ hiện lên hết sức đáng thương thì hình tượng người phụ nữ trong thơ Xuân Hương lại khác hẳn: luôn ngẩng cao ở tư thế hiên ngang, đầy bản lĩnh và bà không chìm vào khóc thương cho số phận của họ. Bởi Xuân Hương hiểu rằng, cuộc đời cũ nước mắt đã đọng thành sông thành bể, khóc thêm vài giọt nữa phỏng có ích gì. Xuân Hương không muốn khóc. Bà muốn nói lên tiếng nói đầy mạnh mẽ để người phụ nữ có thêm nghị lực để sống và để chống chọi với cuộc sống.
Chính điều đó đã làm nên một Hồ Xuân Hương độc đáo trong lịch sử thơ ca Việt Nam.
Ngày nay, cuộc sống đã đổi thay nhiều, xã hội đã công bằng hơn với người phụ nữ. Nhưng có những nỗi đau khổ đã trở thành hằng số muôn đời của người phụ nữ và đâu đó xung quanh ta vẫn còn nhiều mảnh đời chị em bất hạnh. Vì vậy, mà thơ Xuân Hương vẫn còn vẹn nguyên giá trị và sức sống. Đọc thơ Xuân Hương, không chỉ là để đồng cảm, để sẻ chia mà còn là chiêm nghiệm, suy ngẫm.
------------------------------------
HỒ XUÂN HƯƠNG, chưa rõ lai lịch, hành trang. Con một nhà nho ở Nghệ An. Bà sống nhiều năm ở Thăng Long. Có học, có tài thơ văn, có mối quan hệ với nhiều danh sĩ, trong đó có Nguyễn Du. Cuộc đời riêng của bà nhiều bi kịch- Bà là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc. Tác phẩm còn lại khoảng 50 bài thơ chữ Nôm và tập thơ chữ Hán “Lưu Hương Ký” – Thơ của bà sắc sảo, trào phúng thì sắc nhọn, trữ tình thì tê tái xót đau, có giá trị nhân đạo sâu sắc. Bà được ca ngợi là “Bà chúa thơ Nôm”.
BÁNH TRÔI NƯỚC
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
Bài thơ “Bánh trôi nước” là bài thơ đa nghĩa.
Tác giả tả thực cái bánh trôi nước, làm bằng bột nếp, nhân bằng đường phen (lòng son), dạng bánh “tròn”, sắc bánh “trắng”, được luộc trong nồi nước sôi “bảy nổi ba chìm”. Nữ sĩ viết về một món ăn dân tộc, với tất cả lòng yêu mến tự hào bản sắc nền văn hóa Việt Nam. Bài thơ giàu tính nhân dân.
Bài thơ còn mang hàm nghĩa độc đáo.
Câu 1 có 2 tiểu đối: “Thân em vừa trắng” // “lại vừa tròn”, gợi tả chất bánh ngon lành, tinh khiết, chiếc bánh xin xắn, dân đã bình dị đáng yêu, hàm ẩn sự duyên dáng, trinh trắng, vẻ đẹp xinh xắn của người thiếu nữ Việt Nam. Hai tiếng “Thân em” không chỉ nhân hoá chiếc bánh trôi nước, thể hiẹn một cách nói đậm đà màu sắc dân gian (“thân em” như hạt mưa sa…, thân em như tấm lụa đào…) mà còn ngợi ca đức tính khiêm nhường, kín đáo duyên dáng của người con gái làng quê.
Hai câu 2, 3, ngôn ngữ tương phản: “rắn” với “nát”, nghĩa đen là bánh ngon hay bánh không ngon; nghĩa bóng là hạnh phúc hay bất hạnh, đều tuỳ thuộc vào “tay kẻ nặn”, vào người cha, người chồng… vào lễ giáo phong kiến, vào số phận. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” được vận dụng tài tình nhằm gợi tả số phận người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.
Hai câu 3, 4 cấu trúc: “mặc dù… mà … vân …” nhằm khẳng định một tâm thế.
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
“vẫn giữ” biểu thị một thái độ kiên trinh, bền vững. “Tấm lòng son” tượng trưng cho phẩm chất sắt son thuỷ chung, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc đời. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và biểu lộ khá đậm tính cách Xuân Hương. Bài thơ nói về bánh trôi nước, một món ăn dân tộc bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân gian. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã được Việt hóa hoàn toàn. Thơ hàm súc đa nghĩa giàu bản sắc Xuân Hương. Bài thơ biểu lộ niềm cảm thông và tự hào đối với số phận, thân phận và phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, nó có giá trị nhân bản đặc sắc.
----------------------------
Thơ Hồ Xuân Hương là những tiếng cười chế giễu, đôi khi như ai oán, phản ảnh số phận nghiệt ngã người phụ nữ và chính cuộc đời mình. Thơ của bà muốn vượt qua cái suy nghĩ hẹp hòi của chế độ phong kiến về thân phận người phụ nữ và phải sánh tầm với non sông đất nước.
“Ví như đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”.
Nhưng số phận nghiệt ngã của cuộc đời, vì gia cảnh khó khăn, mẹ ngày càng già yếu, ở cái tuổi trăng tròn Xuân Hương đã từ giã bạn bè, thầy cô. Và bao thiệt thòi đã giáng xuống thân phận của Hồ Xuân Hương
Với tiếng tăm hay chữ lại giao lưu rộng rãi, những người yêu thơ văn thường lui tới nhà Xuân Hương rất đông, trong những số đó kẻ lắm chữ không ít, nhưng người không chữ thì nhiều, Xuân Hương cảm thấy chán chường cho những vỏ bọc hào hoa phong nhã nhưng bên trong rỗng tếch đó, và đòn bút bà được tung ra chào đón họ, một kiểu mời “khách xơi trầu” của Hồ Xuân Hương:
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên xưa thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.
Lận đận về chuyện tình duyên, ở cái tuổi gần 30 mà chưa lấy được tấm chồng, lòng Xuân Hương cũng thấy băn khoăn và trống trải lắm, có lãng khách hay chữ ghé thăm...và sau này người khách lạ năm ấy đậu thủ khoa, được bổ nhiệm làm quan tri phủ Vĩnh Tường. Hồ Xuân hương đã kết nghĩa trăm năm với ông quan hay chữ này. Có lẽ thời gian sống với ông quan phủ này, là quãng thời gian mà Xuân Hương cảm thấy tràn đầy hạnh phúc. Nhưng trớ trêu thay, hạnh phúc này có được bao lâu? Bà phải chia tay vĩnh viễn với chồng cũng là người bạn tri kỷ văn chương, (Bài thơ khóc chồng):
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi
Cái nợ ba sinh đã trả rồi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hòn thỉ bốn phương trời
Cán cân tạo hóa rơi đâu mất
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hai bẩy thăng trời là mấy chốc
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi
Nhưng số phận nào có buông tha, vì cuộc sống khó khăn, bà phải làm vợ lẽ cho Tổng Cóc. Một Xuân Hương vui vẻ, yêu đời phơi phới, giờ trở thành người hầu, kẻ hạ, thật cay đắng, đọa đày làm sao, bà đã chửi thẳng vào cái kiếp vợ lẽ cay đắng này:
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp cảnh chồng chung
Năm thì mười họa chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân này biết ví đường nào nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy không
Không biết Xuân Hương đã “khóc hay cười” khi Tổng Cóc qua đời, phải góa chồng thêm lần nữa, nhưng bà cũng đã thoát ra cái cảnh vợ lẽ đọa đày ấy và mọi người lại được nghe thêm bài thơ khóc chồng mạng đậm phong cách Xuân Hương:
Chàng Cóc ơi
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Ngàn vàng không chuộc dấu bôi vôi.
Và từ ấy một “Cổ Nguyệt Đường” xuất hiện bên bờ Hồ Tây, là nơi đọc sách ngâm thơ, xướng họa cùng với văn nhân, thi sĩ, nhưng với Xuân Hương yêu thơ, yêu thiên nhiên và cuộc sống, bà không muốn tự trói mình trong cái vòng lễ nghi, gia giáo “trinh nữ bất canh nhị phu”, Xuân Hương mong mỏi có được mối tình chung để cùng sẻ chia cuộc sống và đối ẩm thơ văn, nhưng những văn nhân đến và đi như cơn gió thoảng bên hồ. Bà đã dành nhiều thời gian để du ngọn, vui thú trong cảnh thiên nhiên, và dạy học cho con cái của những người hay tin Xuân Hương hay thơ giỏi chữ gửi đến. Có lẽ bài thơ “bánh trôi nước” là vịnh cả cuộc đời của chính thi sĩ Hồ Xuân Hương:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com