Văn án
Năm Vân An thứ 20, triều đình mục rỗng, lòng người rối ren, nạn đói liên miên, nhiều cuộc bạo loạn liên tiếp diễn ra.
Trong đó, Diệp Khang từng thi đến chức cử nhân, nay trở mặt với triều đình cùng với em trai - Diệp Vô trở thành thủ lĩnh nghĩa quân cũng là toán nghĩa quân mạnh nhất.
Được lòng dân nhất.
Mãi đến năm Vân An thứ 22, Hoàng Đế đầu hàng, Hoàng Thất tán loạn mỗi người một phương nhưng đều bị hai huynh đệ họ Diệp bắt giữ.
Duy chỉ trưởng công chúa điện hạ - Kỳ Ngọc Cẩn, 12 tuổi đột ngột biến mất, như chưa hề tồn tại.
Chiếm được Hoàng Thành, hai huynh đệ Diệp gia ra lệnh tận diệt Hoàng Thất, chém đầu thị chúng.
Duy chỉ, thập nhị hoàng tử mới một tuổi là được tha, phong làm Kính Vương - Kỳ Ô Tước[¹] để thể hiện lòng nhân từ.
_____
Huynh đệ Diệp gia,
Diệp Khang đăng cơ xưng Hoàng đế, kiến quốc hiệu[²] Dực, định niên hiệu[³] Vĩnh Thần.
Đệ đệ Diệp Vô được phong tước[⁴] Càn Minh Đại Vương, ban thực ấp[⁵] ngàn hộ, phong đất Quảng Lăng, cho nuôi tư binh[⁶].
____
Lại bàn về vị trưởng công chúa mất tích kia, nàng không mất tích mà là được ngoại gia[⁷] đem về nuôi dưỡng chờ ngày đông sơn tái khởi[⁸].
____
Năm Vĩnh Thần thứ 1.
Kỳ Ngọc Cẩn lúc này đã mai sơn ẩn tích núi Hòa Sơn.
Đông sơn tái khởi không phải chuyện dễ càng là chuyện nguy hiểm tính mạng.
Cho nên vị điện hạ này quyết định nhận nuôi 1 nữ tử mồ côi nhỏ hơn nàng 2 tuổi - biến nàng ấy thành một quân cờ quan trọng trong ván cờ của nàng.
____
Chú giải:
[¹] Về cái tên "Kỳ Ô Tước" (奇烏爵)
Tước (爵) vốn chỉ tước vị (Công, Hầu, Bá, Tử, Nam) hoặc chỉ loài chim nhỏ bé, thấp kém.
Ô (烏): con quạ, trong văn hóa cổ là loài chim gắn với điềm gở, ô uế.
Kỳ (奇): nghe có vẻ hoa lệ, kỳ lạ, nhưng đặt trước "Ô Tước" lại thành một thứ kỳ dị, chẳng ra gì.
→ Ghép lại: Kỳ Ô Tước có thể hiểu là "con chim đen kỳ dị, thấp kém" - ý châm biếm Kỳ gia sau này chỉ xứng đáng làm chư hầu nhỏ nhoi, chẳng đủ phẩm chất làm Hoàng Đế.
[²] Quốc hiệu: tên nước, dùng để phân biệt triều đại.
Ví dụ: "Hán", "Đường", "Tống"...
Ở đây, Diệp Khang chọn Dực làm quốc hiệu → tức nước của gọi là Dực quốc.
[³] Niên hiệu: tên gọi đặt cho từng triều Hoàng đế để tính năm tháng (dùng trong lịch và chiếu chỉ).
Ví dụ: "Vĩnh Thịnh năm thứ ba", "Càn Long năm thứ mười hai".
Ở đây, Diệp Khang chọn Vĩnh Thần → văn thư về sau sẽ ghi: "Dực quốc Vĩnh Thần nguyên niên".
[⁴] Phong tước: ban chức vị quý tộc.
[⁵] "Ban thực ấp ngàn hộ"
Thực ấp: số hộ dân được cấp để thu thuế lương thực nuôi sống bản thân và gia thuộc.
"Ngàn hộ" → tức có 1000 hộ dân nộp thuế trực tiếp cho ông ta.
[⁶] "Cho nuôi tư binh"
Tư binh: quân đội riêng, do vương gia tự nuôi và điều khiển.
Đây là đặc quyền rất lớn, vì bình thường binh quyền phải tập trung trong tay triều đình.
[⁷] Ngoại gia (外家)
Chỉ gia tộc bên mẹ của nàng.
Trong bối cảnh cung đình, ngoại gia thường là thế lực trọng yếu: nếu công chúa bị thất thế trong triều, ngoại gia có thể nuôi dưỡng, che chở, đợi thời cơ.
[⁸] Đông sơn tái khởi (東山再起)
Thành ngữ này vốn chỉ chuyện Tạ An đời Đông Tấn từng ở ẩn Đông Sơn, sau mới ra giúp nước, lập công danh hiển hách.
Ý nghĩa: tái xuất sau thời gian mai danh ẩn tích, trở lại mạnh mẽ hơn xưa.
Gắn vào công chúa → nàng chính là người được nuôi dưỡng trong im lặng, đợi ngày trở về giành lại chính vị.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com