Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

bai van thu khoa dh

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

  1

MÃ ĐỀ

Basic      Advanced

TÀI LIỆU DẠY VĂN – HỌC VĂN 

Biên soạn:Thạc sĩ Phạm Hữu Cường

Nick Y!M: cuongvans Email:

[email protected]

Mobile: 0168 313 6566   www.cuongvan.co.cc 

*****

/12CB

*****

/12NC

Innovative – original – professional – economic – effective - impressive

NHỮNG BÀI VĂN ĐẠT ĐIỂM CAO TRONG KÌ THI ĐẠI HỌC

1. Nguyên văn bài thi đạt điểm 10 của thí sinh Nguyễn Thị Thu Trang tại

Đại học Huế, kì thi tuyển sinh ĐH, CĐ năm 2005 

Câu 1:

        Xuân Diệu (1916-1985) - một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, đã để lại cho

đời một sự nghiệp sáng tác thật lớn lao và rất có  giá trị. Hơn năm mươi năm lao động miệt

mài trong thế giới nghệ thuật ấy, con người và thơ văn của Xuân Diệu đã có sự chuyển biến

rõ nét từ một nhà thơ lãng mạn thành nhà thơ cách mạng. Đó là bước chuyển tất yếu của một

trí thức yêu nước, một tài năng nghệ sĩ. Thơ  văn Xuân Diệu có đóng góp lớn vào quá trình

phát triển của văn học Việt Nam. Có thể tìm hiểu sự nghiệp văn học của nhà thơ qua thơ và

văn xuôi:

        Về lĩnh vực thơ ca, chúng ta có thể tìm hiểu qua hai giai đoạn chính, trước và sau cách

mạng tháng Tám. Trước cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn. Các tác

phẩm  chính:  tập  thơ  "Thơ  thơ"  (1938)  và  "Gửi  hương  cho  gió"  (1945).  Nội  dung  của  thơ

Xuân Diệu trong thời kỳ này là: Niềm say mê ngoại giới, khát khao giao cảm trực tiếp, cháy

bỏng, mãnh liệt với cuộc đời ("Vội vàng", "Giục  giã"). Nỗi cô đơn rợn ngợp của cái tôi bé

nhỏ giữa dòng thời gian vô biên, giữa không gian vô tận (Lời kỹ nữ). Nỗi ám ảnh về thời gian

khiến nhà  thơ nảy sinh  một triết lý  về nhân sinh: lẽ sống  vội  vàng ("Vội  vàng"). Nỗi  khát

khao đến chảy bỏng được đắm mình trọn vẹn giữa cuộc đời đầy hương sắc và thể hiện nỗi đau

đớn, xót xa trước khát vọng bị lãng quên thật phũ phàng trước cuộc đời ("Dại khờ", "Nước đổ

lá khoai").

        Sau cách mạng, thơ Xuân Diệu đã vươn tới chân trời nghệ thuật mới, nhà thơ đã đi từ

"cái tôi bé nhỏ đến cái ta chung của  mọi người" (P.Eluya). Xuân Diệu giờ đây đã trở thành

một nhà thơ cách mạng say mê, hăng say hoạt động và ông đã có thơ hay ngay trong giai đoạn

đầu.  Xuân Diệu chào mừng cách mạng với "Ngọn quốc kỳ" (1945)  và "Hội nghị non sông"

(1946) với tấm lòng tràn đầy hân hoan trước lẽ sống lớn, niềm vui lớn của cách mạng.

        Cùng với sự đổi mới của đất nước, Xuân Diệu có nhiều biến chuyển trong tâm hồn  và

thơ ca. Ý thức của cái Tôi công dân, của một nghệ sĩ, một trí thức yêu nước trước thực tế cuộc

sống. Đất nước đã đem đến cho ông những nguồn mạch mới trong cảm hứng sáng tác. Nhà

thơ hăng say viết về Đảng, về Bác Hồ, về Tổ quốc Việt Nam, về quá trình xây dựng chủ nghĩa

xã  hội  miền  Bắc  và  công  cuộc  thống  nhất  nước  nhà.  Các  tác  phẩm  tiêu  biểu:  tập  "Riêng

chung" (1960), "Hai đợt sóng" (1967), "tập "Hồn tôi đôi cánh" (1976)...

        Từ những năm sáu mươi trở đi, Xuân Diệu tiếp tục viết thơ tình. Thơ

tình Xuân Diệu lúc này  không  vơi cạn  mà lại có những nguồn  mạch,  cảm

hứng mới. Trước cách mạng, tình yêu trong thơ ông hầu hết là những cuộc

tình xa cách, cô đơn, chia li, tan vỡ... Nhưng sau cách mạng, tình yêu của hai

con người ấy không còn là hai vũ trụ bé nhỏ nữa mà đã có sự hòa điệu cùng

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

      2

mọi người. Tình cảm lứa đôi đã hòa quyện cùng tình yêu tổ quốc. Xuân Diệu nhắc nhiều đến

tình cảm thủy chung gắn bó, hạnh phúc, sum vầy chứ không lẻ loi, đơn côi nữa (Dấu nằm",

"Biển", "Giọng nói", "Đứng chờ em").

        Về lĩnh vực văn xuôi có thể nói Xuân Diệu quả thật tài tình. Bên cạnh tố chất thơ ca bẩm

sinh  như thế, Xuân Diệu còn rất thành  công trong lĩnh  vực  văn  xuôi. Các tác  phẩm  chính:

"Trường ca" (1939)  và  "Phấn thông  vàng" (1945). Các tác  phẩm này được  Xuân Diệu  viết

theo bút pháp lãng mạn nhưng đôi khi ngòi bút lại hướng sang chủ nghĩa hiện thực ("Cái hỏa

lò", "Tỏa nhị Kiều").

        Ngoài ra, Xuân Diệu còn rất tài tình trong  việc  phê bình văn học,  dịch thuật thơ nước

ngoài. Các tác phẩm tiêu biểu: "Kí sự thăm nước Hung", "Triều lên", "Các nhà thơ cổ điển

Việt Nam", "Dao có mài mới sắc".

        Dù ở phương diện nào, Xuân Diệu cũng có đóng góp  rất to lớn với sự nghiệp văn học

Việt Nam. Vũ Ngọc Phan từng nhận xét "Xuân Diệu là người đem nhiều cái mới nhất cho thơ

ca hiện đại Việt Nam". Sự đóng góp của Xuân Diệu diễn ra đều đặn và trọn vẹn trong các thể

loại và các giai đoạn lịch sử của dân tộc. Chính vì thế có thể nói rằng Xuân Diệu xứng đáng là

một nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn.

Câu 2:

        Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân-một nhà văn

hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu

phong thủy" ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" khi

hòa bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối

cùng,  truyện  ngắn  "Vợ  nhặt"  đã  ra  đời.  Trong  lần  này,  Kim  Lân  đã  thật  sự  đem  vào  thiên

truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của

tình người  và niềm hi  vọng  vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như

Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện,

dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.

        Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về

sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con

người  chỉ  nghĩ  đến  cái  chết.  Tôi  muốn  viết  một  truyện  ngắn  với  ý  khác.  Trong  hoàn  cảnh

khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn

hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con

người". Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác  phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là

tình người và niềm hi vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với

cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống "nhặt vợ" tài tình kết hợp với khả

năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông

dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kỹ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại

trước mắt ta một không gian năm đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những

kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh

hoàng của đám quạ. Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành nhà văn đã gửi gắm vào trong không

gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân

thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh

Tràng, người  vợ nhặt  và  bà  cụ  Tứ được thăng  hoa trước ngọn cờ đỏ  phấp

phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện.

        Có thể nói rằng, Kim  Lân đã thật sự xuất sắc khi dựng lên tình huống

"nhặt vợ" của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật

bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

  3

xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm

người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và

người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá

ra một điều ngược lại như ở các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta

từng kinh hãi trước "xác người chết đói ngập đầy đường", "người lớn xanh xám như những

bóng ma", trước "không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người", từng

ớn lạnh trước "tiếng qua kêu từng hồi thê thiết" ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm

lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả

người  vợ  của  Tràng  nữa.  Một  anh  thanh  niên  của  cái  xóm  ngụ  cư  ấy  như  Tràng,  một  con

người-một thân xác vạm vỡ, lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại

chứa  đựng  biết bao nghĩa tình cao đẹp.  "Cái đói đã tràn đến xóm  này tự lúc nào",  vậy  mà

Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi  anh không biết cuộc đời  phía trước mình ra

sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại

thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con

người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường

như hắn đang ngầm chứa  một ao ước thiết thực  về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của

hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào

cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương,

cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ

ngàng, hắn đã "sờ sợ", "ngờ ngợ", "ngỡ ngàng" như không phải nhưng chính tình cảm của vợ

chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình

trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính. Từ

một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự

khi đón nhận hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ "ôm ấp, mơn man

khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng". Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến

"trong một lúc Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những

tháng ngày đã qua". Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong

Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi thật bất ngờ nhưng rất hợp logic. Những thay đổi ấy

không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao? Trong con

người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh

Tràng ngày trước nữa  mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách

nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng

thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc. "Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ

lùng", "hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này". Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn

dẹp nhà cửa. Hành động cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự

biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong

hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người

đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của

hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.

        Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi

để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước trước sức mạnh của cách mạng.

Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật

của mình. Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện

đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn

mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô

vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế? Đó chính

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

      4

là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và

hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách

thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt quyền sống con người. Thị

xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong thư thế "vân vê tà áo đã rách bợt", điệu bộ trông thật

thảm hại nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không

khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy

chỉ có được  khi trong  con người thị dung  chứa  một niềm tin, một ước  vọng  cao cả  vào sự

sống, vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu đi trong

tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong

đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân  vật này để góp thêm

tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những

con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lai, niềm tin vào hạnh

phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại

khám phá ra một nét độc đáo vô cùng: tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung

miêu tả khá kỹ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già

dặn của mình trong bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất

hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật

bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người

trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường

đặt  nhân  vật  vào  một  tình  thế  thật  căng  thẳng.  Ở  đó  dĩ  nhiên  phải  có  sự  đấu  tranh  không

ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm của nhân

vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy  vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm

thức người  mẹ nghèo  vốn thương con ấy. Bà ngạc  nhiên ngỡ ngàng  trước sự xuất hiện của

một người đàn  bà trong nhà  mình  mà lâu nay  và  có lẽ  chưa  bao giờ  bà nghĩ đến.  Hết ngỡ

ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã "cúi đầu nín lặng". Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng.

Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nổi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau

khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang "vân vê tà áo đã

rách bợt" mà lòng đầy thương xót. Bà thiết nghĩ "người ta có gặp bước khó khăn này, người ta

mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ". Và thật xúc động bà cụ đã nói, chỉ một

câu thôi nhưng sâu xa  và có ý nghĩa  vô cùng:  "Thôi, chúng  mày  phải duyên  phải kiếp  với

nhau u cũng mừng lòng".

        Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé

trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là

vật cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng mà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân

thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi

lo, nỗi tủi cực về gia cảnh  vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đã

giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một

sức  sống  thật  mãnh  liệt.  Chính  ở  người  mẹ  nghèo  khó  ấy,  ngọn  lửa  của  tình  người,  tình

thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng

hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến

việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi  việc sinh con đẻ cái, bà

lão  nói  toàn  truyện  vui  trong  bữa  cơm  ngày  đói  thật  thảm  hại.  Bà  đã  đón

nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt chi tiết nồi

cám ở cuối thiên truyện thể hiện  khá rõ  ánh sáng của tình người. Nồi chè

cám nghẹn bứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu

chất  chứa  yêu  thương.  Bà  lão  "lễ  mễ"  bưng  nồi  chè  và  vui  vẻ  giới  thiếu:

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

  5

"Chè khoán đây. Ngon đáo để  cơ".  Ở đây nụ cười đã xen lẫn nước  mắt. Bữa cơm gia đình

ngày đói ở cuối thiên  truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta,  một nỗi xót thương cay

đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình

thường và đáng quý ấy.

        Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong

đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân

vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người  và niềm hi vọng vào

cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia. Ba nhân vật:

Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những

điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề

tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng

dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân-một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm

nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.

        "Cái đẹp cứu  vớt con  người" (Đôxtôiepki). Vâng, "vợ nhặt" của nhà  văn  Kim  Lân thể

hiện  rõ  sức  mạnh  kì  diệu  ấy.  Ánh  sáng  của  tình  người,  lòng  tin  yêu  vào  cuộc  sống  là  con

nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói

chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong

thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời

ấy.

Câu 3:

        Tố  Hữu,  một nhà thơ  chiến sĩ,  một người thư  ký trung thành  của thời  đại ấy đã  cùng

hành  trình làm  cách  mạng  tiếp  cận  với  thơ  ca.  Thơ  ca  đối  với  ông  không  ngoài  mục  đích

chính trị, phục vụ cho lý tưởng của Đảng, của cách mạng. Trong nguồn mạch về các đề tài

chính trị của Đất nước ấy, Tố Hữu đã tìm về với quá khứ lịch sử của cha ông, một thế hệ hôm

nay vọng về thế hệ cha ông xưa để đồng cảm, thấu hiểu, để tìm nguồn sinh lực mới cất bước

cho cuộc kháng chiến hôm nay. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho đề tài này không thể

không kể đến bài thơ "Kính gửi cụ Nguyễn Du", trích trong tập "Ra trận".

        Tháng 11/1965 khi giặc Mỹ bắn phá ác liệt, nhà thơ có dịp qua quê hương của Nguyễn

Du và nhân kỷ niệm đúng hai trăm năm ngày sinh của Người, Tố Hữu xúc động viết lên bài

thơ này. Bài thơ đã thể hiện một cách cảm nhận, suy nghĩ và đánh giá của Tố Hữu tiêu biểu

cho thế hệ hôm nay nhìn về quá khứ lịch sử của cha ông xưa để từ đó khẳng định cuộc kháng

chiến chống Mỹ hôm nay của dân tộc.

       Trong tiếng vọng của tấc lòng tri âm tri kỷ ấy, Tố Hữu đã thốt lên:

Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày

Hỡi Người xưa của ta nay

Khúc vui xin lại so dây cùng Người!

        Bài thơ trừ bốn câu thơ đầu và cuối, tất cả có năm khổ thơ với ba cặp lục bát tương xứng.

Bằng hình thức tập Kiều nhuần nhuyễn, sáng tạo, ngôn ngữ trong sáng, giản

dị, giàu hình ảnh, những so sánh bất ngờ... ấy đã diễn tả thật thành công tấm

lòng của một người con cúi mình trước đại thi hào vĩ đại của dân tộc Nguyễn

Du, một thi hào kỳ tài ấy đã chắp bút lên "Truyện Kiều", một công trình đồ

sộ và có giá trị thật lớn lao, góp phần tăng giá trị đạo đức, nhận thức vào kho

tàng văn học Việt Nam. Cảm khái và ngưỡng mộ trước tài năng ấy kết hợp

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

      6

với một tấm lòng khát vọng tìm về với quá khứ xưa, Tố Hữu đã viết:

Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

        Tố Hữu đã ca ngợi giá trị nhân bản của tiếng thơ Nguyễn Du, một tiếng thơ vang động

đến hồn thiêng sông núi, đến tạo vật muôn loài. Bằng cách sử dụng lối so sánh, ẩn dụ tài tình,

nhà thơ đã nâng cao tầm vóc, giá trị của thơ ca Nguyễn Du. Ông đã ví tiếng thơ ấy là "non

nước" vọng về từ ngàn năm trước, của thời gian xa xưa, của quá khứ. Tiếng thơ ấy vọng về

đây trong niềm tự hào, hân hoan, đón nhận của một tấm lòng hậu thế muốn đền đáp tấm lòng

cha ông xưa. Nỗi niềm ấy, tình cảm ấy thật đáng ngưỡng vọng. Hai câu thơ không những khái

quát được tầm vóc, giá trị to lớn của tài năng Nguyễn Du mà còn thể hiện sâusắc tình cảm cao

đẹp của Tố Hữu- thế hệ hôm nay ngưỡng vọng về quá khá của cha ông.

        Lối thơ ấy, tiếng lòng hân hoan Tố Hữu lại tiếp tục rộng mở vươn tới những giá trị vĩnh

hằng khác:

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày

        Nghìn  năm là khoảng thời  gian của hồi tưởng, của ngưỡng  vọng, của  khát  vọng  mãnh

liệt, của tấc lòng tri kỷ biết ơn của thế hệ hôm nay. Đó còn là khoảng thời gian của  thế hệ

hôm nay trả lời cho nỗi đau lịch sử của cha ông trong quá khứ.. Một lần nữa cảm hứng ngợi

ca chắp bút cho Tố Hữu cất tiếng lòng tự hào trong khúc hát tràn đầy hân hoan, hứng khởi,

trong sự ngưỡng vọng trước một thiên tài. Tiếng thơ của Nguyễn Du được ví như "tiếng mẹ",

mà "tiếng mẹ" thì gần gũi, thiết tha quá. Đó là lời ru nhẹ nhàng ân tình, chan chứa tình yêu

thương và trong ấy gửi gắm bao mơ ước thật cao đẹp. Và vì thế tiếng thơ của Nguyễn Du là

tiếng ru của  mẹ ân tình, ngọt ngào thổi vào lòng bao thế hệ có sức mạnh thật lớn lao. Tình

cảm ấy, khúc hát ru ân tình ấy là lời nhắc nhở, thủ thỉ cho con- thế hệ hôm nay vững bước

trưởng thành.

        Tiếng lòng đồng vọng của cõi xưa nhập cùng thế hệ hôm nay để con lại vang lên lời ca

tự hào: 

Hỡi người xưa của ta nay

Khúc vui xin lại so dây cùng Người!

        Trên trục kết cấu "xưa-nay", "con-Người" cùng vang lên tiếng lòng khát khao tìm kiếm

tri âm. "Con" sẽ cùng "Người" hát tiếp khúc tráng ca ấy chào đón cách mạng. Chữ "cùng" đã

thể hiện đầy đủ ước vọng của chúng con và Người. Tình cảm ấy, nghĩa cử ấy thật đáng tự hào

và trân trọng.

        Sáu câu thơ, ba cặp lục bát song hành ấy là tình cảm, tiếng lòng của chúng con thế hệ

hôm nay đáp lời quá khứ. Đó cũng là lời hứa chân thành nhất của thế hệ hôm nay cùng ngân

vang theo nhịp đập của quá khứ.

       Bằng lối tập Kiều nhuần nhuyễn, sử dụng hình ảnh có tính gợi hình, giọng điệu ân tình,

ngọt ngào, đậm chất dân tộc, khổ thơ đã thể hiện trọn vẹn phong cách thơ Tố

Hữu: khuynh hướng thơ trữ tình - chính  trị, một giọng điệu tâm  tình ngọt

ngào và đậm đà tính dân tộc. Khổ thơ khép lại nhưng lại mở ra một chân trời

mới, tương lai mới trong hành trình chống Mỹ hôm nay:

Sông Lam nước chảy bên đồi

Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

  7

2. Toàn văn bài thi văn đạt điểm 10 của thí sinh Hoàng Thuỳ Nhi tại ĐH

Đà Nẵng, kì thi tuyển sinh ĐH khối D năm 2006 

Câu 1. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Việt Bắc” - Tố Hữu:

        Cuộc  kháng  chiến  chống  Pháp  kết  thúc  thắng  lợi,  hiệp  định  Giơ-ne-vơ  được  ký  kết.

Tháng 10 năm 1954 cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời căn cứ Việt Bắc về thủ

đô Hà Nội. Trong không khí buổi tiễn đưa mang tầm vóc lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết

bài thơ “Việt Bắc”. “Việt Bắc” trở thành khúc hát ân tình thuỷ chung giữa người miền ngược

với người miền xuôi, giữa nhân dân với Đảng, giữa cách mạng với Bác Hồ. “Việt Bắc” là bài

thơ có giá trị, để viết nên một bài thơ hay như thế, Tố Hữu đã sử dụng những hình thức nghệ

thuật:

- Sử dụng thể thơ dân tộc, thơ lục bát. 

- Những hình ảnh so sánh ví von, gần với lời ăn tiếng nói của dân tộc.

- Giọng văn tâm tình, ngọt ngào, tha thiết. 

- Ngôn ngữ giàu nhạc điệu như những câu hát giao duyên. Câu hỏi lời đáp giữa hai nhân vật

Ta và Mình trong  bài thơ thực chất chỉ là một. Đó là sự phân thân, hoá thân của tác giả để

cảm xúc được thể hiện một cách tự nhiên, tha thiết. 

Câu 2:

        “Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình

nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu.

Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động,

đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc

khoải, có một hình tượng sóng được  vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi,

miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.

        Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con

sóng  tâm  tình  xôn  xao  trong  lòng  người  con  gái  đang  yêu  khi  đứng  trước  biển  ngắm  nhìn

những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hoá thân của cái tôi

trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hoà nhập, lúc sự phân thân của “em” - người con gái đang yêu một

cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình

tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái.

        Sóng biến hoá, sóng vỗ liên hồi, triền miên và bất tận: 

“Dữ dội và dịu êm

ồn ào và lặng lẽ”

       Trạng thái của sóng cũng là tâm trạng khi yêu, là khát vọng to lớn, mạnh mẽ về một tình

yêu chân thành. Hành trình của sóng từ sông ra đại dương:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Có đến nơi mênh mông dạt dào, có đến nơi biển rộng trời cao sóng mới được vẫy vùng, mới

thực sự tìm thấy mình trong sức sống mạnh mẽ với những khát khao to lớn. Sóng được làm

biểu tượng của tình yêu. Miêu tả sóng biến hoá là cũng để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó

hiểu của tình yêu. Cũng giống như sóng biển, tình yêu là một hiện tượng kỳ diệu của con

người. Con sóng “ngày xưa” và con sóng “ngày sau” vẫn thế - triền miên, bất tận. Cũng như

tình yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, của đôi lứa, cuả anh và em:

                                                            “Ôi con sóng ngày xưa 

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ” .

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

      8

        Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình. Cũng như em “khát” được đến

bên anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực của

em. Người con gái hỏi sóng hay đang tự hỏi chính mình: 

“Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau”

        Cái giây phút giao duyên của đôi lứa. “Khi nào ta  yêu nhau” tìm được  một câu trả lời

thật khó, bởi tình yêu là một hiện tượng, một thứ tình cảm khó có thể cắt nghĩa được. Bởi vậy

trong bài thơ tình số 21 của thi hào Tagor đã viết rằng :

“Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy

Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu”

        Câu thơ  “khi nào ta  yêu nhau” đã  diễn tả đúng nỗi niềm điển  hình của những trai  gái

đang sống trong tình yêu đẹp. Sóng vỗ “dữ dội - dịu êm” , “ồn ào - lặng lẽ”, sóng “dưói lòng

sâu” “sóng” trên mặt nước”, sóng nhớ bờ, đó là biểu hiện của tình yêu và nỗi nhớ. Yêu chân

thành tha thiết, nhớ bồi hồi triền miên. Nỗi nhớ ấy day dứt, dày vò, choán đầy cả không gian,

thấm trong chiều sâu, bề rộng, trải trong chiều dài thời gian: 

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được”

        Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với

thời gian và đại dương. Cũng giống như bên đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người

con gái cũng bồi hồi nhớ thương: 

“Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

        “Còn thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh ... Một tình

yêu cuồng nhiệt, say mê. Con sóng khao khát được đến bờ để được vỗ về, ve vuốt: 

“Hôn thật khẽ thật êm

Hôn êm đềm mãi mãi”

(Xuân Diệu)

        Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hoà nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình

yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa  vời cách trở vẫn tìm được tới bờ,

cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn

vẹn của lứa đôi.

“Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng nhỏ

Con nào cũng tới bờ

Dù muôn vời cách trở”

        Người con gái đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành, say đắm, thắm thiết. Chân thật

và thuỷ chung là đặc tính của tình yêu: 

“Dẫu xuôi về phương Bắc ...

Hướng về anh một phương”.

        Sóng đã  bày  tỏ nỗi lòng  của người con  gái, khát  vọng được sống hết

mình trong một tình yêu đẹp, sắt son thuỷ chung. Người ta thường nói xuôi

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

  9

vào Nam, ngược ra Bắc; nhưng ở đây, trong nỗi nhớ chất đầy nhà thơ lại dùng ngược lại. Từ

đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai

tâm hồn không có giới hạn.

        Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình

yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn

được hoà nhịp vào biển lớn của tình yêu cộng đồng: 

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ” .

        Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ

như tâm tình xôn xao. Sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng điệu

tâm tình, nhịp điệu của bài thơ. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc, trong sáng trong cách

diễn đạt của tác giả. Sóng vỗ trên đại dương  mênh mông cũng chính là sóng vỗ trong lòng

người con gái.

        Từ hình tượng “sóng” Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong

tình yêu. Với tình yêu chân thành,  thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn

vẹn trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm, người phụ nữ khát khao được hoà nhập

gần gũi trong tình yêu ấy. Họ yêu thật nồng nàn, say đắm, thủy chung !

        Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân

miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi

cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho

nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con

gái trong tình yêu.

“Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được” .

        Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam,

những con người luôn thuỷ  chung, luôn  sống hết mình  vì  một tình yêu.  Xuân Quỳnh xứng

đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.

Phần tự chọn:

Câu 3. a:

        Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên. Qua hai

cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp cho Nguyễn

Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh đất âm vang rộn tiếng cồng chiêng

trong  mùa lễ  hội, nơi  có những người  con trung dũng,  kiên cường. Nếu trong  kháng chiến

chống Pháp, Nguyễn Trung Thành - bút danh Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng

lên”;  thì  trong  những  năm  kháng  chiến  chống  Mỹ,  đặc  biệt  là  những  năm  1965  khi  cuộc

kháng chiến của nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho

ra mắt người đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi

cuộc sống  và con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong

tác phẩm chính là hình tượng cây xà nu.

        Cây  xà  nu  là  một  hình  tượng  nhân  vật  trung  tâm  trong  truyện  ngắn

“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt

gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là

một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày của người dân

Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

      10

bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội...”.

Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà

nu.  Sự  sống  của  dân  làng  Xô  Man  đều  gắn  liền  với  những  cánh  rừng  xà  nu.  Khi  Nguyễn

Trung Thành viết : “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng nó bắn đã thành lệ, ngày

hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà

gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn”,

nhà văn đã phản ảnh không khí căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự

sống và cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những

đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cũng như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham

ánh sáng và khí trời “trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy... ít có loài

cây nào ham ánh sáng đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên

giữa bầu trời cao rộng.

        Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh rừng khác

của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây

nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận

bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần

dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ

diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt “cạnh cây mới ngã

gục đã có  bốn,  năm  cây con  mọc lên, ngọn  xanh rờn,  hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu

trời”. Tư thế vươn lên mạnh mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến

tranh “đố chúng nó giết được cây xà nu đất ta”. Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng

xà nu vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ “cứ thế

hai ba năm sau, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô man”.

        Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên thật thành

công và rõ nét, ấn tượng về hình tượng cây xà nu. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trung Thành

còn đặt hình tượng cây xà nu vào trong quan hệ đối chiếu sóng đôi với con người mảnh đất

Tây  Nguyên.  Nếu  cây  xà  nu  là  một  loại  cây  ham  ánh  sáng  và  khí  trời,  thì  người  dân  Tây

Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi theo bước chân cách mạng như muôn cây vẫn hướng vào

ánh sáng mặt trời. Nếu cây xà nu bị tàn phá, huỷ diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người

dân Tây Nguyên phải chịu bao đau thương mất mát do chính kẻ thù gây ra. Bao nhiêu người

bị giặc giết chết như những cây xà nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình, bao nhiêu người còn

sống mà phải mang trong mình bao nỗi thương đau. Bằng cách miêu tả hình ảnh cây và người

trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội ác dã man của kẻ thù để

qua đó tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những thảm cảnh dân ta phải chịu do bọn giặc gây ra.

        Cũng  giống  như  những  cánh  rừng  quê  hương,  như  những  con  người  Việt  Nam  vẫn  ý

thức được rằng:

“Gươm nào chia được dòng Bến Hải

Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn

Căm hờn lại giục căm hờn

Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”

       Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng lên. ánh

sáng của niềm tin “Đảng còn thì núi nước này còn” đã soi đường chỉ lối cho

những bước chân đến với cách mạng. Thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau tiếp

nối đứng lên; anh Sút bà Nhan bị giặc giết, đi thay họ tiếp tế nuôi quân đã có

T Nú và Mai. Cứ như thế, các thế hệ người Tây Nguyên đã thay nhau  giữ

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

  11

vững ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc kiên cường, để giữ làng, giữ

nước của dân làng Xô man nói riêng và của người Tây Nguyên nói chung.

        Dưới  ngòi bút  miêu tả của Nguyễn  Trung  Thành,  cây xà nu  hiện lên sừng sững, đồng

hành với những bước đi, cuộc sống của dân làng Xô man. Gắn bó với cánh rừng anh dũng,

kiêu hùng, những người dân  Tây Nguyên như được tiếp  thêm sức  mạnh để đứng lên chiến

đấu. Và gắn bó với con người Tây Nguyên ân tình, thuỷ chung, trung dũng như thế. Cây xà

nu cũng luôn luôn sánh bước cùng họ để họ có cuộc sống bình yên hơn; để “hầu hết đạn đại

bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn” chứ không nhằm vào

những người dân vô tội lầm than. 

       Cây xà nu là hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm chất, số phận của

người dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm chất sử thi, tính hào

hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng xà nu”. Để xây dựng một hình tượng

xà nu như thế, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng những câu văn miêu tả, những từ ngữ, hình

ảnh chọn lọc đặc sắc, cùng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, giọng văn miêu tả trong tác

phẩm rất linh hoạt.

       Có đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta mới cảm nhận hết vẻ đẹp hình tượng

cây xà nu. Hình tượng này đã góp phần tạo nên một “Rừng xà nu” trọn vẹn, mang đậm giá trị

văn học. Nguyễn Trung Thành đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học dân tộc.

Nhận xét về bài văn đạt điểm 10

Người chấm 1: Thạc sĩ Lê An Vinh, giảng viên khoa Ngữ văn - ĐH Sư phạm Đà Nẵng: “Bài

làm hoàn chỉnh cả 3 câu, nếu áp với đáp án của Bộ thì vẫn còn thiếu một vài ý nhỏ. Nhưng bù

vào đó, là sự cảm thụ văn học rất tốt, tư duy mạch lạc, chất văn bay bổng, cảm xúc dồi dào,

đặc biệt giàu sáng tạo.

Người chấm 2: Thạc sĩ Lương Vĩnh An, giảng  viên khoa Ngữ  văn ĐH Sư  phạm Đà Nẵng:

“So với đáp áp của Bộ, bài làm chưa đạt tuyệt đối 100%. Nhưng sự sáng tạo trong tư duy,

ngôn ngữ, xúc cảm văn chương... thì thật đáng ngạc nhiên. Đọc câu một, nghĩ người làm học

thuộc bài, nhưng càng đọc càng không tin đó là một bài làm của thí sinh trong thời hạn 180

phút! Chữ viết đẹp, câu cú rành mạch. Nếu có điểm 11, tôi sẽ là người cho bài viết điểm đó!”.

3. Nguyên văn bài thi đạt điểm 9,5 của thí sinh Nguyễn Hồng Ngọc Lam tại

Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn - ĐH Quốc gia TP.HCM, kì thi

tuyển sinh ĐH, CĐ, khối D năm 2007 

Câu I:

        Tuyên ngôn độc lập  ra đời như sự đáp ứng yêu cầu tất yếu của lịch sử dân tộc, kết tinh ý

chí  và  nguyện  vọng  của toàn thể dân tộc Việt nam.  Khoảng tháng 7.1945 phe  Phát xít  sắp

thua, phe Đồng minh sắp thắng. Việt Nam lúc này là thuộc địa của Nhật. Vấn đề đặt ra là khi

Nhật đại bại, Việt Nam sẽ thuộc về ai? Không thèm đếm xỉa đến quyền lợi của nhân dân Việt

Nam, hội nghị Pốt đam (7.1945 tại Hà Lan do phe đồng minh triệu tập) quyết định: Quân đội

Tưởng mà nấp sau là Mĩ vào tước khí giới của quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc. Quân

Anh nấp sau là Pháp tước khí giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam.

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

      12

        Trong khi đó Thực dân Pháp lăm le quay trở lại. Chúng tung ra trước dư luận thế giới

một luận điệu vô cùng nham hiểm: Việt Nam vốn là thuộc địa Pháp, người Pháp có công bảo

hộ  và  khai hoá  văn  minh cho  xứ này nên khi Nhật đại bại Pháp  phải có quyền trở lại  Việt

Nam.

        Lợi dụng thời cơ nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản mà đại diện là

Việt Minh đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam độc  lập.

        Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo tại số nhà 48 phố Hàng Ngang

Hà Nội, được tập thể Thường vụ Trung ương Đảng thông qua, được đọc tại quảng trường Ba

Đình ngày 2 - 9 - 1945 trước hàng chục vạn đồng bào, trước khi quân Anh và quân Tưởng

kéo vào.

        Mục đích  của Tuyên  ngôn độc lập là  khẳng định quyền được hưởng tự do độc lập  và

thực tế tự do độc lập của dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam, khẳng định quyết tâm gìn giữ

nền độc lập đến cùng và bằng mọi giá.

Câu II: 

       Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi

của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh

năm  1919  và  mất  năm  2005.  Trước  Cách  mạng  tháng  tám,  thơ  ông  mang  nổi  sầu  về  kiếp

người  và  ca  ngợi  cảnh  đẹp  của  thiên  nhiên,  tạo  vật  với  các  tác  phẩm  tiêu  biểu  như:  "Lửa

thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở

nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao

động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu

sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng

Giang". Đây là  một  bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng

tháng tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam

bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước,  lòng  vời  vợi buồn,  cám cảnh cho

kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ

vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người

đọc.

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp

....

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

         Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng

giang" là  một cách nói chệch đầy sáng tạo  của  Huy Cận.  Hai  âm  "anh" đi

liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô

cùng  mà  còn  rộng  mênh  mông,  bát  ngát.  Hai  chữ  "tràng  giang"  mang  sắc

thái  cổ  điển  trang  nhã,  gợi  liên  tưởng  về  dòng  Trường  giang  trong  thơ

Đường  thi,  một  dòng  sông  của  muôn  thuở  vĩnh  hằng,  dòng  sông  của  tâm

tưởng.

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

  13

        Tứ thơ  "Tràng  giang"  mang nét cổ điển như thơ  xưa:  Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái

mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng

nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập,  giao  cảm, Huy  cận lại tìm  về

thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la.

Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

        Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo

của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà

bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ.

Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ

tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng

đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim

người đọc.

        Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não

như thế:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

        Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy

nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi.

Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ

loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man.

Trên dòng sông  gợi sóng  "điệp điệp", nước  "song song" ấy là  một  "con thuyền xuôi  mái",

lững lờ trôi đi. Trong  cảnh có sự  chuyển động  là thế, nhưng sao chỉ thấy  vẻ  lặng tờ, mênh

mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.

        Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong

lòng 

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

        Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế

mà Huy Cận lại thấy thuyền  và nước đang chia lìa, xa  cách "thuyền về nước lại", nghe sao

đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều

"trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn. 

        Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy  đủ nhất qua câu thơ  đặc sắc:  "Củi một

càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn

lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành

khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên

"mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình

ảnh giản dị, không tô vẽ mà  sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng,

đơn côi.

        Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã

gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ

còn  lại  để  người  đọc  có  thể  cảm  thông,  thấu  hiểu  về  một  nét  tâm  trạng

thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ

đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật

đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

      14

của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

        Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

        Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ

nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ.

Giữa  khung  cảnh  "cồn  nhỏ",  gió  thì  "đìu  hiu",  một  khung  cảnh  lạnh  lẽo,  tiêu  điều  ấy,  con

người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một

câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là

câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động,

âm thanh sự sống  của  con  người. Đó cũng có thể là  "đâu  có",  một sự phủ định hoàn toàn,

chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.

        Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

        "Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động,  mở rộng về không gian,  và gợi cả sự chia

lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy

sáng tạo của  Huy Cận,  mang  một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên

ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi

thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người

thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".

        Vẻ đẹp  cổ điển của  khổ thơ  hiện ra qua các  thi liệu quen thuộc trong Đường thi như:

sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ

đã tan rã, chia lìa.

        Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc

mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp

trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cần gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

        Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển,

nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong

thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng

càng khiến lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn.

Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la

vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút

sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.

        Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định hoàn

toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút

gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín,

chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang,

phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn

chìm, trôi đi nơi nào.

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

  15

        Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

        Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng

tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp

cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ

Đường cổ của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

        Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực

từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại,

bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.

        Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai

chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều,

cùng  sa  xuống  mặt  tràng  giang,  hay  chính  bóng  chiều  sa,  đè  nặng  lên  cánh  chim  nhỏ  làm

nghiêng lệch cả  đi. Câu thơ tả không gian nhưng  gợi  được  thời gian  bởi nó sử dụng "cánh

chim" và  "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ

điển.

        Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này

hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng

quê".  Nỗi  niềm  đó  là  nỗi  niềm  nhớ  quê  hương  khi  đang  đứng  giữa  quê  hương,  nhưng  quê

hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng

đau xót trước cảnh mất nước.

        Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói

sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu.  Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ,

còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế

mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.

        Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể

hiện  qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua

việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách

vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.

        Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các  câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ  như  "sâu chót

vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương

ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức

mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.

        Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp

cổ điển trang nhã sâu lắng  và  vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng  yêu nước,  yêu quê

hương. 

---------------------------------

Câu III.a: 

        Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915, mất năm 1951 một

nhà  văn hiện thực  xuất  sắc  của  văn  xuôi Việt Nam hiện đại. Xuất  thân từ

tỉnh  Hà  Nam,  nhà  văn  này  đã  từng  viết  rất  thành  công  về  cuộc  sống  của

người trí thức  và người nông dân  nghèo  trước Cách  mạng tháng tám. Sau

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

      16

Cách mạng tháng tám, ông lại tự rèn luyện mình, dứt khoát từ bỏ lối sống cũ để quyết tâm đi

theo cách mạng. "Đôi mắt", được Nam Cao sáng tác tết 1948, thời điểm nhận đường của giới

văn nghệ sĩ, thể hiện đầy đủ phong cách của ông sau  Cách  mạng tháng tám. Ban  đầu Nam

Cao đặt tựa là "Tiên sử thằng Tào Tháo", sau đổi là "Đôi mắt" vì ông nhận thấy vấn đề quan

trọng  hơn  hết  lúc  bấy  giờ  là  cách  nhìn  của  giới  văn  nghệ  sĩ.  Trong  tác  phẩm  hai  nhân  vật

chính,  Hoàng  và Độ, có  cách nhìn hoàn toàn trái ngược nhau,  mới nổi bật là  cách nhìn  về

người nông dân, đã phần nào nói lên vấn đề quan điểm, lập trường của Nam Cao.

        Hoàng và Độ là hai nhà văn, Hoàng là nhà văn anh, còn Độ thuộc lớp đàn em. Cả hai có

cách sống, cách suy nghĩ và cách nhìn đời, nhìn người đối lập hẳn nhau, đặc biệt là khi nhìn

người nông dân.

        Hoàng sống phong lưu, xa hoa, tách rời với quần chúng nhân dân nên anh có cách nhìn

lệch lạc, sai trái, phiến diện một chiều về người nông dân. Anh không thể nhìn ra được nét

đẹp bên trong tâm hồn họ, mà chỉ thấy cái ngố bề ngoài.

        Trong  mắt  Hoàng những người nông dân nghèo khổ  ấy đầy những tính xấu:  "Toàn là

những người ngu đần, lỗ mãng, ích kỉ, tham lam, bần tiện cả". Dường như với Hoàng mọi sự

xấu xa của con người đã tập trung về cả người nông dân. Anh nhìn thấy họ là một lũ lố lăng:

"Cái ông thanh niên,  các bà phụ nữ lại còn nhố nhăng", anh phiền vì sự  "nhăng  xị" của họ:

"Viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên. Không chỉ nhố

nhăng họ còn lại hay nói chữ mở miệng ra "đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo". Hoàng cho

đó là chuyện thật nực cười. Anh không thấy được sự cố gắng của người nông dân kém hiểu

biết nhưng lại rất đỗi yêu nước. Thấy người nông dân đọc thuộc lòng bài "ba giai đoạn", anh

cho đó là con vẹt biết nói, dây dưa, lôi thôi, mồm nói vội lắm vậy mà đọc cho anh nghe "cả

một bài dài đến năm trang giấy".

       Anh lại càng phiến diện hơn khi nhìn người nói dân toàn là những người tò mò, tọc mạch:

"Anh chỉ giết một con gà, ngày mai cả làng này đã biết". Hoàng khăng khăng với Độ: "Ngày

mai, chuyện anh đến chơi tôi thế nào cũng đã chạy khắp làng. Họ sẽ kể rất rạch ròi tên anh,

tuổi anh, anh gầy béo thế nào, có bao nhiêu nốt ruồi ở mặt, có mấy lỗ rách ở ống quần bên

trái". Có thể đó  là sự thật, bởi Hoàng đã thề  không hề bịa  chuyện,  và người đọc  cũng  biết

người nông dân có tính xấu đó. Nhưng Hoàng đã nói quá, đã thổi phồng lên khiến người nông

dân trở nên đầy xấu xa. Anh không hề có cái nhìn thông cảm. Bởi thế, Hoàng mới cho người

nông dân  mới thật độc ác, tàn nhẫn =  chị dâu đẻ  mà  em  bắt ra cái lều ngoài  vườn.  Hoàng

không hề hay giả vờ không biết những tập tục kiêng kị của người nông dân?

       Tất cả những tính xấu của người nông dân hiện lên trong mắt Hoàng, lại càng trở nên xấu

xa. Hoàng không nhận ra đó là hoàn cảnh nghèo đói đã biến hóa người nông dân, mà anh qui

tất cả  về  bản chất.  Anh bêu rếu,  nói  xấu,  mỉa  mai chua  chát nhưng người nông dân lương

thiện đã cưu mang anh. Lối sống vị kỉ, xa rời quần chúng đã đem đến cho Hoàng cách nhìn

lệch lạc, một chiều, một phía. Anh thấy người nông dân "quả là không chịu được, không chịu

được". Anh khinh bỉ họ đến cùng cực: "Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài, theo cái bĩu môi

dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối".

        Là nhà văn đáng lẽ Hoàng phải có tấm lòng nhân ái, cảm thông, nhưng đằng này anh lại

hiện lên như một  kẻ tàn  nhẫn,  ích kỉ. Bởi không chỉ là nhà  văn,  Hoàng là

một "tay chợ đen tài tình" sống phong lưu giữa cảnh nghèo đói của dân tộc,

giữa lúc những người nông dân nghèo vật chất nhưng giàu tinh thần cũng lăn

xả thân mình đóng góp cho đất nước. Hoàng không nhìn thấy cái nguyên có

thật đẹp đẽ bên trong, mà chỉ thấy cái ngố bên ngoài và đánh giá họ qua một

cái nhìn phiến diện không nên có ở một nhà văn. Chính vì không hề có cái

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

  17

tâm, lòng nhân ái mà Hoàng đã chỉ thấy những gì xấu xa của người nông dân. Hoàng tiêu biểu

cho  lớp  nhà  văn  ích  kỉ,  sai  lệch  về  cách  nhìn,  về  thái  độ  đối  với  người  nông  dân  và  cuộc

kháng chiến lúc bấy giờ.

        Trái hẳn với Hoàng, Độ lại có cái nhìn đầy cảm thông đối với người nông dân. Anh nhận

thấy lịch sử đã sang trang, thấy được sức mạnh quần chúng, thấy được cốt lõi bên trong của

người nông dân.

        Trước đây, Độ cũng có cái nhìn lệch lạc, phiến diện như Hoàng. Anh đã từng bi quan,

chán nản. Nhưng khi cách mạng mở ra, Độ đã "ngã ngữa  người ra" vì thấy được sức mạnh

thật sự của quần chúng, vẻ đẹp tâm hồn người nông dân.

        Độ nhận ra họ là những con người rất giàu lòng yêu nước, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc:

"Vô số anh răng đen mắt toét, gọi lựu đạn là nựu đạn, hát "Tiến quân ca" như người buồn ngủ

cầu kinh mà lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm". Anh đã "đi khắp làng này đến làng kia"

để tìm hiểu ngõ ngách sâu kín trong tâm hồn người nông dân, anh khao  khát thấu được nét

đẹp của họ, vì với anh thì những người nông dân "vẫn còn là một bí mật". "bí ẩn", bởi Độ đã

thấy được sức mạnh tiềm ẩn của họ, chứ không như Hoàng, chỉ thấy phơi bày trước mắt bao

nhiêu là tính xấu.

        Độ biết người nông dân yêu nước lắm, vì thế, cùng một sự việc anh thanh niên đọc thuộc

lòng bài "ba gia đoạn". Độ không cho anh ta là con vẹt biết nói, mà Độ thấy được bó tre anh

thanh niên vác đi để ngăn quân thù. Tấm lòng nhân hậu, đầy cảm thông của Độ đã nhìn thấu

một trái tim yêu nước bên trong "cái ngố bề ngoài".

        Phải hòa nhập vào nông dân, phải trải qua những khó khăn, gian khổ mà người nông dân

chịu đựng, Độ mới cảm nhận và hiểu sâu sắc suy nghĩ, tâm hồn của họ đến thế. Dù chỉ là một

"anh tuyên truyền viên nhãi nhép" nhưng có thể nói Độ đã đóng góp được rất nhiều cho đất

nước. Anh đã có cái nhìn đúng đắn, chân thật mà cũng đầy cảm thông, cái nhìn của một tấm

lòng nhân ái, chứ không phải của tâm hồn hẹp hòi, ích kỉ như Độ. 

        Nếu như Hoàng chỉ nhìn thấy vẻ bề ngoài rồi từ đó thổi phồng, qui thành bản chất thì Độ

cũng thấy sự thật rành rành, nhưng không dừng lại ở đó, Độ nhìn thấu vào tận sâu thẳm bên

trong tâm hồn người nông dân. Nếu như cái nhìn của Hoàng là phiến diện, lệch lạc một chiều,

một phía thì Độ có cái nhìn tiến bộ, đúng đắn, đầy cảm thông.

        Qua hai cái nhìn trái ngược, đối lập của hai nhân vật Hoàng và Độ. Nam Cao đã bộc lộ

quan điểm đầy tiến bộ về cái nhìn đời, nhìn người của văn nghệ sĩ kháng chiến. Nhà văn phải

"sống đã rồi hãy viết", phải nhìn ra thấu hiểu trái tim con người, mà muốn làm được điều đó

thì nhà văn cần có một trái tim nhân hậu, có cái tâm.

        Nhan đề  "Đôi  mắt"  giản dị nhưng rất gợi  mở, rất đặc  sắc đã  thâu tóm được  giá  trị tư

tưởng của cả bài. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở cách nhìn về người nông dân của Hoàng và

Độ, mà còn mở rộng ra là cách nhìn đời và người cho mọi người. Với tác phẩm này, đặc biệt

qua hai cách nhìn tương phản, đối lập. Nam Cao đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh những nhà

văn ích kỉ, chỉ quan tâm đến bản thân mình. Đồng thời ông cũng lên án những ai có cái nhìn

phiến diện một chiều lệch lạc, biểu dương cái nhìn đúng đắn, toàn diện. Ông quan niệm nhà

văn trước hết phải có tấm lòng để xác định đúng chổ, đúng lập trường. Từ đó có cách nhìn

đúng mà viết nên tác phẩm hay, có ích cho đất nước, nhân dân. Nếu không, dù có tài giỏi đến

mấy cũng chỉ là kẻ vô dụng, làm trò cười cho mọi người và tác phẩm dù có hay đến mấy cũng

sẽ không được đón nhận.

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

      18

4. Nguyên văn bài thi đạt điểm 10 của thí sinh Nguyễn Trung Ngân dự thi

ĐH Cần Thơ kì thi tuyển sinh ĐH, CĐ, khối D năm 2008 (Bài đạt 9,75 làm

tròn thành 10 điểm).

Câu 1 (2 điểm): Anh/ chị hãy nêu những nét chính trong quan điểm nghệ thuật của Nam

Cao trước Cách mạng tháng Tám.

Nam Cao là một nhà văn lớn của nền văn học hiện thực phê phán nói riêng và là một nhà văn

lớn của văn học Việt Nam nói chung. Sở dĩ Nam Cao có một vị trí xứng đáng như vậy bởi cả

cuộc đời cầm bút của mình, ông luôn trăn trở để nâng cao "Đôi Mắt" của mình. Tất cả những

gì Nam Cao để lại cho cuộc đời chính là tấm gương của một người "trí thức trung thực vô

ngần" luôn tự đấu tranh để vươn tới những cảnh sống và tâm hồn thật đẹp. Với những nét tiêu

biểu như vậy, Nam Cao đã thể hiện qua một hệ thống các quan điểm sáng tác của mình trước

cách mạng tháng Tám.

Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám được thể hiện qua "Trăng

Sáng" và "Đời Thừa". Trong "Trăng Sáng", nhà văn quan niệm văn chương nghệ thuật phải

"vị nhân sinh", nhà văn phải viết cho hay, cho chân thực những gì có thật giữa cuộc đời, giữa

xã hội mà mình đang sống. Ông viết "Chao ôi! Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không

nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp

người lầm than". Đó chính là quan điểm nghệ thuật của Nam Cao. Trước cách mạng, Nam

Cao mang tâm sự u uất, đó không chỉ là tâm trạng của một người nghệ sĩ "tài cao, phận thấp,

chí khí uất" (Tản Đà) mà đó còn là tâm sự của người người trí thức giàu tâm huyết nhưng lại

bị xã hội đen tối bóp nghẹt sự sống. Nhưng Nam Cao không vì bất mãn cá nhân mà ông trở

nên khinh bạc. Trái lại ông còn có một trái tim chan chứa yêu thương đối với người dân

nghèo lam lũ. Chính vì lẽ đó mà văn chương của ông luôn cất lên "những tiếng đau khổ kia

thoát ra từ những kiếp lầm than". 

Trong "Đời thừa", một tác phẩm tiêu biểu của văn Nam Cao trước cách mạng, Nam Cao cũng

có những quan điểm nghệ thuật. Khi mà ta đã chọn văn chương nghệ thuật làm nghiệp của

mình thì ta phải dồn hết tâm huyết cho nó, có như thế mới làm nghệ thuật tốt được. "Đói rét

không có nghĩa lý gì đối với gã tuổi trẻ say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một

hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài

của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, suy ngẫm, tìm tòi, nhận xét, suy tưởng không biết

chán. Đối với hắn lúc ấy, nghề thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không có gì đáng quan tâm

nữa...". Nam Cao còn quan niệm người cầm bút phải có lương tâm và trách nhiệm đối với bạn

đọc, phải viết thận trọng và sâu sắc: "sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là sự bất lương rồi,

còn sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện". Với Nam Cao, bản chất của văn chương

là đồng nghĩa với sự sáng tạo "văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo

một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi

khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Quan điểm của Nam Cao là,

một tác phẩm văn chương đích thực phải góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc: Nó phải

chứa đựng một cái gì đó vừa lớn lao vừa cao cả, vừa đau đớn vừa phấn khởi: "Nó ca ngợi tình

thương, lòng bác ái, sự công bình, nó làm người gần người hơn". 

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

  19

Văn nghiệp của Nam Cao (1915-1951) chủ yếu được thể hiện trước cách mạng tháng Tám.

Quan điểm sáng tác thể hiện trong hai truyện "Trăng Sáng" và "Đời Thừa" giúp ta hiểu sâu

hơn về Nam Cao. Qua đó, ta thấy được những đóng góp về nghệ thuật cũng như tư tưởng của

Nam Cao cho văn học Việt Nam. Từ đấy giúp ta hiểu vì sao Nam Cao - một nhà văn chưa

tròn bốn mươi tuổi lại để lại cho cuộc đời một sự nghiệp văn chương vĩ đại đến như vậy. 

Câu 2 (5 điểm): Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ

(Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài).

Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành

nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây Bắc" (1953)

của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã

có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô

Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ"

không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây

bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong

đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng

chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả

tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được

giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái "dù

làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó là tâm lý của một con người

cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính

cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người

mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân

nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành

một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật

sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã

mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống

lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của

mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó. 

Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong

muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm

mùa xuân. 

Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác

nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị

nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa...

Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A

Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ

không thể "trói" được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời.

Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

      20

hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy

quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.

Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này,

Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức

sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn

nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó.

Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi

rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên

ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ

chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay "Dù A Phủ là cái xác chết

đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói

người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều

đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" nên Mị

lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người

trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng,

"Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò

xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt

với cái chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh

trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước

Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ

không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng

cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia,

“chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị

nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng.

Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với

cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không

bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến

những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình:

“Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ

xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thôi là

người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế.

A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt

A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ

bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng,

Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ

một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu

thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà

ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng

kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông

cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị

nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại

nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

  21

lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là

một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm

mùa đông này.

Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời

đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị

vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của

Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế

là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối

lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh

chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A

Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở

đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói

ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân -

hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ

dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm

đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người

rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết

đến…

Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng.

Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa

với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm

chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung.

Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế

nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca

đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng

thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất

công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị.

Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.

Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì

sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ

thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính

tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng

đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 -

1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá

trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện

ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.

Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của

người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng

của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa

tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

      22

Phần riêng (3 điểm): Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc

Tử:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Cảm nhận thơ trữ tình xét cho cùng là cảm nhận "cái tình" trong thơ và tâm trạng của nhân

vật trữ tình trước thiên nhiên, vũ trụ, đất trời. Đến với thơ ca lãng mạn Việt Nam, giai đoạn

1932 -1945 "ta thoát lên trên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư,

ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu" (Hoài Thanh -

Thi nhân Việt Nam). Đúng thế, bạn đọc đương thời và hôm nay yêu thơ của Hàn Mặc Từ bởi

chất "điên cuồng" của nó. Chính "chất điên" ấy đã làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo,

riêng biệt, mới mẻ của Hàn Mặc Tử. "Chất điên" trong thơ ông chính là sự thay đổi của tâm

trạng khó lường trước được. Nét phong cách đặc sắc ấy đã hội tụ và phát sáng trong cả bài thơ

"Đây thôn Vĩ Dạ" của nhà thơ rất tài hoa và cũng rất đỗi bất hạnh này. "Đây thôn Vĩ Dạ" trích

từ tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Chất điên cuồng ấy thể hiên cụ thể và rõ nét trong khổ thơ:

"Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?"

Với lời trách cứ nhẹ nhàng dịu ngọt vừa như một lời mời, Hàn Mặc Tử trở về với thôn Vĩ Dạ

trong mộng tưởng:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cây nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ - một làng kề sát thành phố Huế bên bờ Hương Giang với những vườn

cây trái, hoa lá sum suê hiện lên thật nên thơ, tươi mát làm sao. Đó là một hàng cau thẳng tắp

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

  23

đang tắm mình dưới ánh “nắng mới lên” trong lành. Chưa hết, rất xa là hình ảnh “nắng hàng

cau nắng mới lên” còn rất gần lại là “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Mướt quá” gợi cả

cây non tràn trề sức sống xanh tốt. Màu “mướt quá” làm cho lòng người như trẻ hơn và vui

tươi hơn. Lời thơ khen cây cối xanh tốt nhưng lại như huyền ảo, lấp lánh mới thấy hết cẻ đẹp

của “vườn ai”. Trong không gian ấy hiện lên khuôn “mặt chữ điền” phúc hậu, hiền lành vừa

quen vừa lạ, vừa gần, vừa xa, vừa thực vừa ảo bởi “lá trúc che ngang”. Câu thơ đẹp vì sự hài

hòa giữa cảnh vật và con người. “Trúc xinh” và “ai xinh” bên nhau làm tôn lên vẻ đẹp của

con người. Như vậy tâm trạng của nhân vật trữ tình ở đoạn thơ này là niềm vui, vui đến say

mê như lạc vào cõi tiên, cõi mộng khi được trở về với cảnh và người thôn Vĩ.

Thế nhưng cũng cùng không gian là thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian có sự biến đổi từ “nắng mới

lên” sang chiều tà. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng có sự biến đổi lớn. Trong mắt thi

nhân, bầu trời hiện lên “Gió theo lối gió mây đường mây” trong cảnh chia li, uất hận. Biện

pháp nhân hóa cho chúng ta thấy điều đó. “Gió theo lối gió” theo không gian riêng của mình

và mây cũng thế. Câu thơ tách thành hai vế đối nhau; mở đầu vế thứ nhất là hình ảnh “gió”,

khép lại cũng bằng gió; mở đầu vế thứ hai là “mây”, kết thúc cũng là “mây”. Từ đó cho ta

thấy “mây” và “gió” như những kẻ xa lạ, quay lưng đối với nhau. Đây thực sự là một điều

nghịch lí bởi lẽ có gió thổi thì mây mới bay theo, thế mà lại nói “gió theo lối gió, mây đường

mây”. Thế nhưng trong văn chương chấp nhận cách nói phi lí ấy. Tại sao tâm trạng của nhân

vật trữ tình vốn rất vui sướng khi về với thôn Vĩ Dạ trong buổi ban mai đột nhiên lại thay đổi

đột biến và trở nên buồn như vậy?. Trong mộng tưởng, Hàn Mặc Tử đã trở về với thôn Vĩ

nhưng lòng lại buồn chắc có lẽ bởi mối tình đơn phương và những kỉ niệm đẹp với cảnh và

người con gái xứ Huế mộng mơ làm nên tâm trạng ấy. Quả thật “Người buồn cảnh có vui đâu

bao giờ” nên cảnh vật xứ Huế vốn thơ mộng, trữ tình lại bị nhà thơ miêu tả vô tình, xa lạ đến

như vậy. Bầu trời buồn, mặt đất cũng chẳng vui gì hơn khi “Dòng nước buồn thiu hoa bắp

lay”.

Dòng Hương Giang vốn đẹp, thơ mộng đã bao đời đi vào thơ ca Việt nam thế mà bây giờ lại

“buồn thiu” – một nỗi buồn sâm thẳm, không nói nên lời. Mặt nước buồn hay chính là con

sóng lòng "buồn thiu” của thi nhân đang dâng lên không sao giấu nổi. Lòng sông buồn, bãi bờ

của nó còn sầu hơn. “Hoa bắp lay” gợi tả những hoa bắp xám khô héo, úa tàn đang “lay” rất

khẽ trong gió. Cảnh vật trong thơ buồn đến thế là cùng. Thế nhưng đêm xuống, trăng lên, tâm

trạng của nhân vật trữ tình lại thay đổi:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Sông Hương “buồn thiu” lúc chiều dưới ánh trăng đã trở thành “sông trăng” thơ mộng. Cắm

xào đậu bên trên con sông đó là “thuyền ai đậu bến”, là bức tranh càng trữ tình, lãng mạn.

Hình ảnh “thuyền” và “sông trăng” đẹp, hài hòa biết bao. Khách đến thôn Vĩ cất tiếng hỏi xa

xăm “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu “thuyền ai” đó có chở trăng về kịp nơi bến hẹn, bến

đợi hay không? Câu hỏi tu từ vang lên như một nỗi lòng khắc khoải, chờ đợi, ngóng trông

được gặp gương mặt sáng như “trăng’ của người thôn Vĩ trong lòng thi nhân. Như thế mới

biết nỗi lòng của nhà thơ giành cho cô em gái xứ Huế tha thiết biết nhường nào. Tình cảm ấy

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường-Tài liệu tham khảo ôn thi Đại học-Cao đẳng 2010

================================================================================

      24

quả thật là tình cảm của “Cái thưở ban đầu lưu luyến ấy. Ngàn năm nào dễ mấy ai quên” (Thế

Lữ).

Đến đây ta hiểu thêm về lòng “buồn thiu” của nhân vật trữ tình trong buổi chiều. Như vậy

diễn biến tâm lí của thi nhân hết sức phức tạp, khó lường trước được. Chất “điên” của một

tâm trạng vui với cảnh, buồn với cảnh, trông ngóng, chờ đợi vẫn được thể hiện ở khổ thơ kết

thúc bài thơ này: 

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Vẫn là một tâm trạng vui sướng được đón “khách đường xa” - người thôn Vĩ đến với mình,

tâm trạng nhân vật trữ tình lại khép lại trong một nỗi đau đớn, hoài nghi “Ai biết tình ai có

đậm đà?”. “Ai” ở đây vừa chỉ người thôn Vĩ vừa chỉ chính tác giả. Chẳng biết người thôn Vĩ

có còn nặng tình với mình không? Và chẳng biết chính mình còn mặn mà với “áo em trắng

quá” hay không? Nỗi đau đớn trong tình yêu chính là sự hoài nghi, không tin tưởng về nhau.

Nhân vật trữ tình rơi vào tình trạng ấy và đã bộc bạch lòng mình để mọi người hiểu và thông

cảm. Cái mới của thơ ca lãng mạn giai đoạn 1932 - 1945 cũng ở đó.

Đọc xong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, nhất là khổ thơ “Gió theo lối gió -….

kịp tối nay” để lại trong lòng người đọc những tình cảm đẹp. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm tâm

tư của một nhà thơ sắp phải giã từ cuộc đời. Lời thơ vì thế trầm buồn, sâu lắng, đầy suy tư. 

Bạn đọc đương thời yêu thơ của Hàn Mặc Tử bởi thi nhân đã nói hộ họ những tình cảm sâu

lắng nhất, thầm kín nhất của mình trong thời đại cái “tôi”, cái bản ngã đang tự đấu tranh để

khẳng định. Tình cảm trong thơ Hàn Mặc tử là tình cảm thực, do đó nó sẽ ở mãi trong trái tim

bạn đọc. Ấn tượng về một nhà thơ của đất Quảng Bình đầy nắng và gió sẽ không bao giờ phai

nhạt trong tâm trí người Việt Nam.

Mobile: 0982106266   

Căn phòng dù chật chội 

Vẫn chứa được bao người. 

Tim anh dù rộng lớn 

Chỉ có mình Em thôi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: #nhan