Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

15. Lục lễ

Cuối thu năm ấy, trời như khoác lên mình một chiếc áo gấm vừa chín màu, loang loáng tím lam, vàng cháy, đỏ thắm. Những đợt gió đầu mùa từ phía núi Tam Đảo về, mang theo hương khói rơm rạ từ những bếp lửa sớm của làng chài ven sông. Mùi hương ấy thoang thoảng, quyện vào trong sương, trong nắng, như thể đất trời đang thì thầm một tin vui.

Trên con đường đá ong dẫn về phủ Hưng Đạo, vó ngựa gõ nhịp lộc cộc, dập dềnh giữa màn bụi vàng của lá rụng. Theo sau là đoàn nghi trượng lấp lánh ánh đồng chói mắt – những ngọn cờ tiết điều thêu rồng phượng bay phần phật trong gió, lọng tàn bảy màu nghiêm chỉnh nối đuôi nhau, đi giữa một hàng thị vệ áo tía, mỗi người nâng một tráp sính lễ bọc gấm điều. Những tráp ấy chứa trầu cau tươi rói còn đọng sương, chè Kinh Bắc ngát hương sen, rượu Kim Sơn trong như mắt cá, bánh phương dẻo thơm bọc giấy điều, lụa là bảy màu, một mâm vàng ngọc thêu long phụng, và đặc biệt hơn cả – hai đôi chim nhạn trống mái, tượng trưng cho uyên ương cát tường, sắt son vạn kiếp.

Bên trong phủ, lúc ấy cả nhà đang sum vầy bên bàn trà sau bữa sớm. Hương trà bánh quyện với tiếng chim ríu rít trên mái hiên. Trần Quốc Tảng vừa nâng tách sứ thì nghe tiếng chiêng đồng vọng từ cổng lớn, ông đặt tách cái "cạch", người bật dậy, đảo mắt nhìn ra ngoài hiên rồi phá lên một tràng cười như sấm vỡ núi:

– Nạp Thái rồi! Phen này thì ai cũng phải gọi chị Trinh là "Thái tử phi" cho coi!

Giọng cười của ông lớn như hồi trống mở trận, lan khắp nhà ngang nhà dọc. Đến mức Đào, đang thêu khăn cưới trong phòng trong, cũng phải giật mình.

Chưa ai kịp nói gì thì Tảng đã nhanh tay khoác lấy vai Trần Quốc Nghiễn, kéo đứng dậy như ra quân đánh giặc, miệng cười hềnh hệch:

– Mau ra nghênh lễ! Không khéo Thái thường đại nhân tưởng phủ mình thất lễ thì xấu hổ biết bao!

Phía sau bình phong khắc mai, Trần Thị Tĩnh ngồi lặng lẽ trên chiếc tràng kỷ khảm trai, nghe từng lời mà hồn vía như tan ra cùng làn khói trà đang bay mỏng. Đôi má nàng nóng bừng bừng, chẳng rõ do ánh nắng cuối thu rọi nghiêng qua song cửa hay vì câu trêu ghẹo từ anh Tảng. Bên cạnh, Đào – cô út lanh chanh nhất phủ – lén liếc nhìn chị, tay vẫn cầm kim, môi đã nở một nụ cười láu lỉnh:

– Còn chưa gọi được tiếng "phu quân" mà mặt đã đỏ như tôm chín.

Tĩnh mím môi, cúi đầu, chẳng nói một lời, chỉ nhẹ nghiêng vai trốn vào trong ống tay áo, giấu đi ánh mắt đang rối như tơ trời vướng lưới cá. Còn bên ngoài, tiếng xướng chỉ rành rọt của quan Thái thường đã vang lên như chuông ngân giữa đình làng:

"Thừa mệnh Hoàng thượng, truyền chỉ cho Hưng Đạo Đại Vương phủ:

Đông Cung Thái tử nay muốn lập chính thất, chọn trưởng nữ phủ Trần làm chủ cung nhân.

Vậy cử Thái thường ty hành lễ Nạp Thái, tiến vật sính, định lễ gia ân."

Tiếng chiêng đồng đánh ba hồi báo hiệu lệnh chiếu vừa dứt, gia nhân trong phủ quỳ rạp đồng loạt như sóng đổ, đầu chạm chiếu hoa. Riêng Hưng Đạo Vương, vẫn ngồi ngay ngắn trên ghế cao bọc gấm xanh, nét mặt ung dung như núi, chẳng gợn sóng, nhưng ánh mắt ông khẽ liếc sang tôi – Trần Thị Trinh – và Tĩnh, ẩn giấu một nụ nhìn mềm như lụa.

Tĩnh thì cúi đầu thật sâu, hai bàn tay đặt trên gối khẽ run nhẹ như cánh hoa trà sắp rơi.

Từ sau lưng, mấy bà vú già khẽ xì xào, giọng nhỏ như gió lùa qua giậu trúc:

– Từ giờ là người của Đông Cung rồi... Đâu còn được ngồi chơi ngoài bờ giếng hái sen nữa đâu...

Phủ Hưng Đạo công lại rợp cờ tiết điều, trướng gấm thêu chim loan nối liền từ tam quan đến tận cửa đại sảnh. Trên nền trời trong veo, nắng sớm phản chiếu qua những dải lụa màu, lung linh như hoa đăng giữa ban ngày. Nhân đó, đoàn nghi trượng triều đình tiến vào hành lễ Vấn Danh – nghi lễ long trọng bậc nhất, để hỏi tên chữ của tiểu thư, ghi vào gia phả hoàng tộc, chính thức định danh trước khi rước về cung.

Lần này dẫn đầu không phải là quan võ hay sứ thần, mà là một vị Tư lễ đại phu của Đông Các, thân hình cao gầy, râu bạc như mây, ánh mắt vừa nghiêm vừa từ. Giọng ông khi đọc chiếu như tiếng trống cổ, dội thẳng vào lồng ngực người nghe, chậm rãi mà chắc chắn:

"Chiếu truyền Đông Cung:

Xét theo lễ nghi, sau khi nhận sính lễ nạp thái, cần hành lễ vấn danh để xin tên chữ của người sẽ kết phối cùng Thái tử, hầu ghi vào hoàng gia gia phả, định ngày thành hôn, thuận ý trời, hợp lòng người.

Nay sai Tư lễ đại phu đến phủ Hưng Đạo, cầu xin tên chữ và sinh thần của hai tiểu thư Trần gia:
– Trưởng nữ, định ban ngôi chính vị Thái tử phi.
– Thứ nữ, định làm thứ thiếp Đông cung."

Lời vừa dứt, Trần Quốc Tuấn ra hiệu cho gia nhân dâng lên hai dải lụa vàng, mỗi dải vẽ hình phượng loan và khắc tên chữ bằng nét bút rồng bay. Đó là bút tích chính tay ông, mềm mại nhưng mạnh mẽ – giống như gươm lụa vạch trên mặt sóng, lưu lại mà không tan.

Tư lễ đại phu nâng hai mảnh lụa bằng cả hai tay, trân trọng giơ cao, rồi đọc lớn tên chữ, tên tự và sinh thần bát tự của Trần Thị Trinh và Trần Thị Tĩnh, hai viên ngọc quý của phủ Hưng Đạo.

Bên trong rèm thêu mai, Đào len lén trốn sau tấm trướng màu thiên thanh, lắc đầu cười rúc rích như trẻ con đánh trống đất, thì thào với anh Tảng:

– Kiểu gì thì kiểu, sau này nhất định phải ghé Đông Cung quậy phá thường xuyên!

Trần Quốc Tảng gật đầu như trống chầu, cười phớ lớ:

– Nhất định! Nhất định!

Lúc ấy, tôi nghe vậy liền ra vẻ trưởng nữ, hơi nhướng mày, hờ hững buông một câu:

– Gớm, sau đến cửa còn bị đuổi ra về thì đừng trách!

Đối với cưới hỏi trong nhà quyền quý nước Nam, sau lễ Vấn danh, nếu bên nhà trai thấy tuổi hợp, tâm đầu ý hợp, mới dám đánh tiếng xin làm lễ ăn hỏi – lễ mà sách gọi là Nạp Cát.

Đây là lễ quan trọng. Nó như lời chính thức từ nhà trai thưa thốt rằng: "Chúng tôi xin chọn người con gái ấy làm vợ chính, cưới hỏi đàng hoàng, rước về làm dâu trưởng." Bởi vậy, lễ này không thể qua loa. Phải chọn ngày lành, tháng tốt – có khi còn xem cả giờ, cả phương, cả hướng, rồi mới đặt tráp mà đi.

Dù nhà Trần trước đây đây có những khác biệt, lần này, thái tử cũng không là ngoại lệ.

Sau hơn nửa tháng, bên Đông cung sai người sang phủ hỏi nhỏ, rằng nếu định làm lễ ăn hỏi thì nên sắm những gì, biện lễ ra sao. Người ta không hỏi trực tiếp, mà dùng lời ý tứ, đại khái như:
– "Nay đôi trẻ thuận tuổi, thuận lòng, ngặt chỉ không rõ bên phủ giao du gần xa thế nào, e rằng sắm lễ thiếu sót, thành ra thất kính..."

Hưng Đạo Công không nói ngay, chỉ cười:
– "Thực ra cùng một dòng giống, nhưng bên nhà gái giao thiệp rộng, đằng trai cứ liệu đó mà biện lễ cho phải lẽ."

Chỉ một câu ấy thôi mà mấy ngày sau, Đông cung đã đưa sang bản lễ vật ghi chi chít: buồng cau to ba trăm quả, gần trăm chai rượu nếp trắng, chục mâm xôi gấc đỏ au, thêm trà sen Tây Hồ, bánh cốm, bánh phu thê, chè lam, và vài con lợn sữa quay nguyên con, bày giữa hòm gấm đỏ như ngọc, rải vàng lá và kết hoa giấy.

Nghe nói đích thân hoàng hậu cũng có góp lời: "Phải sắm đủ lễ nghĩa, để hai dòng thêm hòa thuận"

Sáng hôm ấy, trời đầu đông se lạnh, nhưng nắng hanh và khô, rất hợp để nghênh lễ. Đoàn nhà trai đến phủ từ sớm, đội ngũ chỉnh tề, lễ vật chia thành chín tráp, mỗi tráp có hai người thanh niên khỏe mạnh khiêng, ăn mặc đồng phục gọn ghẽ. Dẫn đầu vẫn là Quan Thái thường, nhưng có thêm một vị Học sĩ áo xanh, tay ôm sổ đỏ thiếp vàng – người chịu trách nhiệm đọc lời nguyện ước.

Mỗi tráp đặt lên chiếu điều đều được mở ra một lượt cho phủ nhà gái xem, rồi phủ vải điều lại. Mỗi món lễ đều tượng trưng: cau tượng trưng cho kết duyên, rượu cho say tình, xôi gấc cho son sắt, lợn sữa quay cho đủ đầy sung túc. Tất cả đều sắm hai phần: một để nhà gái nhận, một để làm lễ kính tổ tiên.

Tôi ngồi bên rèm the, không lộ mặt, chỉ nghe tiếng dâng tráp rì rầm, tiếng người truyền mệnh vang rõ:

"Nay Đông cung Thái tử, lòng đã quy thuận, tâm đã định, xin được chính danh nạp sính, cầu duyên bền lâu, trăm năm hòa thuận. Lễ mọn tỏ thành, kính xin phủ Hưng Đạo nhận cho, để chúng con có ngày chính rước người về làm dâu trưởng."

Tĩnh ngồi bên, tay đặt nhẹ lên tay tôi, siết khẽ. Tôi biết em sắp nói gì, nhưng vẫn quay sang nghe.

– Lễ này thế là xong, chị nhỉ.

Tôi cười, khẽ nói:

– Chưa cưới, nếu đúng còn phải lễ Thỉnh kỳ, lễ Nghênh thân... Ngày mẹ là Thiên Thành công chúa cưới

Tĩnh không đáp, chỉ mỉm cười rất nhẹ và quay đi.

- Sao thế? - tôi hỏi.

- Không có gì ạ, em hơi buồn vì phải xa nhà.

- Chị cũng thế... Chị cũng buồn vì xa nhà, không được gặp mẹ, Đào thường xuyên nữa.

Lúc ấy, Hưng Đạo công cùng Thiên Thành công chúa đi vào cung với người truyền mệnh gặp vua bàn ngày giờ cưới.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com