2. Âm Thi
Rồi một giọng nữ cất lên, không vang, không xa. Mà ngay trong đầu tôi.
"Giờ lành đã đến, nữ nhân mang vía hậu cung.
Linh châu ngươi cầm là ánh lửa chưa tắt.
Ngươi từng quỳ bên long sàng,
Từng nghe tiếng kinh tụng hòa vào đêm mưa mùa hạ.
Từng dặn lòng không được thương, không được oán...
Và rồi, ngươi đã thất hứa."
Một luồng khí lạnh lùa qua sống lưng khiến tôi tỉnh giấc. Mở mắt, tôi đã thấy mình đang đứng trên một con đường dài tít tắp, sương mũ giăng lối. Trời chưa sáng hẳn, nhưng phía đông đã lấp lánh mảng trời bạc. Đèn lồng bên đường lấp loé, lá cây ướt sương. Mọi thứ có vẻ rất thật.
Trong ngực áo tôi, mẩu tàn thư từ mộng khẽ rung. Có vẻ nó nghe thấy điều gì đó, hay đang hướng dẫn. Rồi nó bỗng bay ra theo gió, đến một ngọn lửa rồi cháy thành tro. Đống tro liền tạo thành dòng chữ.
Thanh Châu Khai Cổ Quan
Sương dần rẽ lối. Gió lạnh, và một tiếng mõ đều đều vang lên từ xa. Những ngọn núi dần hiện lên, khiến khung cảnh mơ hồ như tranh thủy mặc. Tầng tầng lớp lớp núi non chồng chất nhau như sóng vẽ bằng mực tàu, nét đậm nét nhạt, tan vào mây trắng.
Tôi đi tiếp. Con đường xuyên qua bãi cỏ và bụi trúc, tiến vào một khe núi hẹp. Mỗi bước đi, linh châu trong túi lại rung khẽ – như nhịp tim của một thứ gì đó đang sống.
Bãi cỏ trải dài theo con đường. Từng nhành cỏ non đẫm sương khẽ nghiêng khi tôi bước qua, để lại vệt ướt lạnh nơi gấu quần. Trên mặt cỏ, hoa dại nở rải rác trắng, tím, vàng - nhỏ thôi, nhưng tinh khiết như những đốm sáng le lói trong màn sương mù. Mùi cỏ non quyện cùng mùi đất ẩm sau mưa, dìu dịu và cổ xưa, như thể từng tầng đất dưới chân đang thì thầm kể lại chuyện của trăm năm trước.
Bên rìa bãi cỏ, bụi trúc mọc thành từng cụm, thân mảnh mà dẻo dai, lá rung lách cách trong gió, phát ra những âm thanh khô nhẹ, giống như tiếng giấy lụa cọ vào nhau. Có bụi trúc già thân đen bóng, rễ trồi lên mặt đất, quấn quanh tảng đá phủ rêu trông như một nét vẽ tự nhiên. Ánh sáng le lói rọi qua từng kẽ lá, đổ xuống con đường thành những vệt sáng đứt đoạn, chập chờn như mộng.
Lối mòn dẫn vào giữa bụi trúc rồi vòng lên, thoai thoải ôm theo sườn núi. Đá nhô ra ở nhiều đoạn, trơn trượt vì ẩm rêu, tôi phải lần tay vào thân trúc mà bước. Gió núi mỗi lúc một lạnh hơn, mang theo hơi sương từ khe sâu thổi ngược lên, khiến tóc tai dính vào má, áo quần lấm tấm ướt. Dọc lưng chừng núi, cảnh vật dần thay đổi: trúc thưa dần, thay vào đó là những gốc tùng lùn, dáng cong quái dị như đang cúi đầu nghe ngóng.
Tôi không biết đã đi bao xa, chỉ cảm thấy linh châu trong túi càng lúc càng nóng, tiếng rung khe khẽ ấy giờ đây vang vọng cả trong lồng ngực. Dường như nó không chỉ sống, mà còn đang dẫn đường cho tôi bước tới một điều chưa từng gọi tên.
Ở lưng núi, tôi thấy một đền to bằng đá xanh, rêu phủ kín. Trước cổng có một bà lão ngồi lặng, mặc áo nâu sồng, tay cầm quạt mo. Bà không nhìn tôi, nhưng khi tôi bước qua, bà cất tiếng bằng chất giọng vừa run vừa rõ:
- Lâu lắm rồi... mới lại có người quay về.
Tôi khựng lại.
- Bà... biết ta?
Bà không đáp. Chỉ đưa quạt mo ra trước, miệng đọc nhanh một bài văn, giọng cứ cao dần, ngân dài như đang lên đồng:
"Tam dạ thanh nguyệt,
Châu khắc khai lộ.
Cổ ấn vi dẫn,
Khả độ quan môn.
Người giữ lửa đã về,
Lối xưa đã mở,
Đêm nay, trước khi trăng cao,
Ngươi phải nhớ được một điều:
Ai đã phong ngươi lại?"
Tôi định hỏi, nhưng một làn khói trắng bay ra từ tay bà, cuộn lấy tôi như đám mây phủ kín đầu.
Mắt tôi mờ đi.
Tôi thấy một căn điện rộng, ánh sáng vàng mờ mịt, mùi trầm đốt quện với tiếng chuông ngân.
Tôi đang đứng giữa... một buổi lễ.
Khói hương bay là là giữa không trung, quyện thành từng dải mỏng, lượn lờ như dải lụa quấn quanh cột trụ. Ánh sáng từ những chiếc đèn lồng treo cao tỏa xuống một màu vàng ấm, chiếu qua rèm gấm thêu rồng phượng, in bóng người mờ mờ trên mặt sàn gỗ đánh bóng đến soi được gương mặt mình.
Điện lớn im phăng phắc. Trên ngai cao, đức vua khoác long bào, mặt nghiêm nghị nhưng ánh mắt vẫn thấp thoáng điều gì đó khó tả. Ngài vừa như suy tư, vừa như gắng giữ điều gì đang chực trào ra nơi đáy mắt. Bên cạnh ngai, các đại thần đứng thành hai hàng, phẩm phục chỉnh tề, tay chắp trước ngực, đầu hơi cúi xuống. Giọng xướng quan vang lên, trầm và kéo dài:
Người quỳ chính giữa chính là một người giống như tôi. Tóc vấn cao, trâm cài ngọc, áo lụa đỏ thêu hoa văn rồng nhỏ. Nàng không quay lại, cũng không nhìn quanh. Hai tay đặt ngay ngắn trên đùi, lòng bàn tay mở ra như đang dâng hiến điều gì đó. Đôi mắt khép hờ, hàng mi dài in bóng xuống má. Ở nơi khóe môi nàng mang một nét mỉm cười rất nhẹ, như chấp nhận, như thấu hiểu mà đã từ bỏ.
Phía trước, Trần Khâm - vừa được phong làm Vua khi ấy, miệng khẽ đọc lời thệ ước.
- Nay ban nàng làm Chính Cung. Xin trọn lời thề.
Nhưng sau đó... ánh sáng vụt tắt.
Một giọng khác vang lên. Giọng đàn bà, run rẩy và u uẩn:
- Người đã trao linh châu cho bậc đạo, mà không hay kẻ giữ châu chính là mình.
Trước mắt tôi, đền đá phủ rêu hiện lên. Tay tôi, ngoài cây quạt, cầm mảnh vải lụa cũ, thêu chỉ đỏ hai câu duy nhất:
"Khi trăng xanh mọc đủ ba lần, kẻ giữ châu phải chọn:
Hoặc mở cổng đi, hoặc ở lại làm bóng dưới trăng."
Tôi đi tiếp mong chuyện này sớm xong. Nếu tôi chết ở đây, tôi vẫn có thể thoát khỏi nơi này như cách tôi thoát khỏi Trần Khâm khi đập đầu vào cây, đúng không nhỉ?
Vậy nên tôi bước lên bậc thang thứ nhất. Giọng bà lão bắt đầu vang lên kể:
- Trống cái nổi ba hồi giữa giờ Mão, vang rền như tiếng đất thở. Kèn tiểu oán ngân lên, như có gió lạ đưa tiếng người xưa vọng về từ trong sương sớm.
Tiếng kèn từ đâu vang lên. Tôi cố bước tiếp, từng bước từng bước một. Tiếng phách bắt đầu kêu hòa với tiếng kèn. Rồi tiếng các nhạc cụ khác...
- Phách tre đánh theo nhịp long vũ, dìu dặt mà thành kính, khiến người nghe rợn da gà mà không rõ vì lạnh hay vì linh khí. Kèn bầu ngân một đường dài, gợn qua mái cung như rồng lượn, đáp xuống sân rồng như chim về tổ. Người trong mộng tỉnh cũng phải chắp tay nghe. Tiếng trống tiếng kèn chẳng phải từ một dàn nhạc hữu hình, mà như từ trời, từ đất, từ lòng người vọng lại. Trời chưa sáng, nhưng sương đã rẽ lối. Người ta bảo: đó là khi âm dương giao cảm, linh hồn các đời trước cũng kéo nhau về dự lễ hồng loan.
Đi đến bậc cuối cùng, tất cả dừng lại. Im thin thít. Tôi nuốt nước bọt, bước lên thềm chuẩn bị vào cửa chính.
Giọng bà lão tiếp tục run rẩy:
- Thệ ước là một, nhưng lòng người là hai...Bệ hạ... người có còn nhớ... thiếp không?
Quay ngoắt lại. Không có ai cả. Tôi nhìn vào ánh đồng của đồ vật xung quanh. Nó không phản chiếu tôi.
Tôi không hét lên. Chỉ đứng im, run nhẹ.
Rồi sau lớp bóng mờ của đồng, một bóng người từ từ hiện lên. Là tôi - nhưng không phải tôi. Là một người con gái tóc dài, búi cao, mặc xiêm y gấm thêu phượng, tay cầm quạt lụa đã rách. Ánh mắt người đó trầm và buồn. Đôi môi mấp máy không tiếng, chỉ thốt hai từ:
"Hồi... cung..."
Bóng người từ đâu khẽ lướt qua. Thoắt ẩn thoắt hiện. Bỗng nhớ lại câu lúc trước khi đến đây: ''Đêm trăng xanh, đỉnh Yên Tử,/Gió thổi ngược, trăng soi lưng,/Đạp lá đỏ thì tới, thấy âm khí thì dừng'', " Mạng mỏng treo chuông, trả - hay là vay?"
Tôi liền quỳ rạp xuống:
- Bẩm thưa, con xin vay tiếng chuông.
Cái bóng tạm dừng lại. Tôi khấn ba lần thể hiện lòng thành. Hai lần khấn đầu, trên cao có ánh sáng lập lòe. Đến hết lần ba, có chiếc gương đồng trên cao chiếu xuống, bóng người biến mất. Tiếng chuông đồng trong trẻo vang lên. Sương dần tan. Có cái giếng trời hiện ra. Trăng xuất hiện, tròn vành vạch, rồi rất nhanh mặt trời chói lóa thế chỗ, rồi lại trăng tròn... Đến lần thứ ba, mặt trời soi chiếu cả khu đền.
Giọng bà lão bỗng từ đâu vẫn còn, vang lên:
- Lần này, ngươi có thể đi. Nhưng khắc cốt ghi tâm: "An Nam tứ đại khí, trấn vật cường uy. Dụng chi hữu độ, quá tắc phản hại."
An Nam tứ đại khí... là cái gì? Tôi còn chưa kịp hiểu, thì ánh sáng trước mắt chợt chói loà. Nắng gắt như thiêu, gay gắt đến mức tôi có cảm giác mình vừa bị ném thẳng vào một lò luyện kim thời hiện đại, nơi một vụ nổ hạt nhân vừa diễn ra ở chế độ quay chậm.
Khi tôi nhìn rõ được, cảnh vật xung quanh đã hoàn toàn khác.
Đây là phòng tôi, hoặc ít nhất là một phiên bản rất quen thuộc của nó. Bức tường sơn trắng hơi ngả vàng, chiếc quạt trần cũ kỹ quay lừ đừ. Tôi đang nằm trên sàn gỗ, đầu hơi choáng.
Tôi lập tức đưa tay sờ túi áo. Trống rỗng. Không có viên linh châu nào cả. Cũng không thấy chiếc quạt hay bất kỳ dấu hiệu nào của "giấc mơ" vừa rồi. Không mùi trầm hương, không tiếng chuông, không khe núi, không lễ phong hoàng hậu nào hết. Chỉ có mùi bụi và ánh nắng gay gắt xuyên qua cửa sổ.
Tôi bật dậy, mở cửa chạy ra ngoài.
Tiếng xe cộ rì rầm. Người qua lại tất bật. Lá rơi đúng với vận tốc mà định luật Newton dự đoán. Không còn bất kỳ độ trễ nào của mộng mị hay ảo giác.
Đây là thế giới thực.
An toàn rồi. Không hiểu điều gì vừa xảy ra, nhưng cảm giác như vừa bơi từ một dòng sông sâu tối đen lên mặt nước, thấy lại bầu trời. Có thể tất cả chỉ là một giấc mơ hỗn độn, sản phẩm của chuỗi ngày mệt mỏi và cái đầu nhồi nhét toàn thư tịch cổ với giấy tờ kiến trúc mà người thuê trước để lại. Một cơn mê nửa đêm pha lẫn cổ thư, ánh trăng và stress thời kì hiện đại.
Nhưng dù sao, tôi đã trở lại. Và thế giới của tôi, vẫn còn nguyên.
" Con ơi, thay đồ rồi đi học đi! Không có thời gian ra ngoài tập thể dục đâu. Hình như trễ giờ rồi đấy!" - Tiếng bác chủ nhà vang từ ban công tầng trên.
Tôi mới nhớ ra mình phải đi học, chạy lên tầng thay quần áo và đi học. Và trên đường lần này, tất nhiên là mọi thứ rất đỗi chân thật, không hề có chút điều gì khiến tôi nghi ngờ, dù chỉ là cảm giác.
Suýt thì đi muộn. Đến lớp, mọi thứ vẫn diễn ra như bình thường tiết một bắt đầu với môn lịch sử. Một nhóm lớp tôi thuyết trình về triều đại Lý - Trần. Trùng hợp thật. Nhưng tôi dốt đặc cán mai môn sử, nghe chữ này lọt qua tai rồi chữ này cầm tay chữ kia đi ra khỏi tai cùng nhau đi du lịch. Và chắc chắn các chữ ấy không thể quay trở về.
Đến cuối bài, có hoạt động cuối tiết. Người thuyết trình hỏi, ai trả lời đúng được quà. Tôi ngồi góc lớp không thèm nghe, mải buôn chuyện với bạn. Có một câu đố mãi mà không ai trả lời được. Đáp án là: An Nam tứ đại khí.
Tôi liền bật dậy.
An Nam tứ đại khí? Tôi trước giờ chưa từng nghe qua, trừ lúc... trong mơ. Vậy là bằng một cách nào đó não tôi đã biết trước cả tôi và khiến cụm từ ấy xuất hiện trong giấc mơ của tôi?
" Bạn có câu hỏi gì ạ?" - Người thuyết trình hỏi.
Tôi giật mình, liên tục lắc đầu:
- Không không, chả là có mấy con muỗi định đốt mình nên mình định né. - Tôi ngồi xuống - Xin lỗi mọi người.
- Vậy mình tiếp tục bài nhé.
Tôi gật đầu. Bối rối thật.
- An Nam tứ đại khí là bốn kỳ quan, bốn quốc bảo và là bốn công trình nghệ thuật bằng đồng của văn hóa thời Lý, Trần bao gồm: tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền chùa Diên Hựu và Vạc Phổ Minh.
Trong số đó chẳng có cái nào liên quan tới núi Yên Tử cả. Nhưng có tiếng chuông đã xuất hiện lúc tôi sắp thoát ra khỏi giấc mơ. Nhưng đã ở núi Yên Tử, thì làm sao có tiếng chuông Quy Điền ở chùa Diên Hựu - chùa Một Cột ở tít Hà Nội?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com