Hồi Thứ 9-10
Hồi Thứ Chín
Trừ Hung Bạo, Lữ Bố Giúp Tư Ðồ
Chiếm Trường An, Lý Thôi Nghe Giả Hủ.
Người đi va vào Ðổng Trác, tức là Lý Nho.
Nho thấy Trác ngã, vội vàng đỡ Trác đứng dậy, dìu vào ngồi trong thư viện.
Trác hỏi Lý Nho:
- Ngươi đến đây làm gì?
Lý Nho thưa:
- Tôi chợt qua cửa phủ, thấy nói Thái Sư giận đi vào vườn sau tìm Lữ Bố, tôi vội vàng chạy vào, thì gặp Lữ Bố chạy ra, kêu lên rằng: Thái Sư giết ta. Bởi thế tôi hấp tấp vào đây để can ngăn Thái Sư, chẳng may chạm phải Thái Sư, thật đáng tội chết!
Trác nói:
- Không thể tha được thằng nghịch tặc ấy! Hắn dám đùa bỡn ái cơ của ta. Thế nào ta cũng giết chết hắn mới nghe.
Lý Nho can rằng:
- Thái Sư không nghĩ cho chín; ngày xưa vua Trang Vương nước Sở, trong bữa tiệc "Dứt dải mũ" đã tha tội cho Tưởng Hùng đã đùa bỡn với người vợ yêu đến sau bị binh nhà Tần làm khốn, được Tưởng Hùng cố sức liều chết cứu thoát được. Nay Ðiêu Thuyền chẳng qua là một đứa con gái mà Lữ Bố là một mãnh tướng tâm phúc của Thái Sư, nếu Thái Sư nhân dịp này đem Ðiêu Thuyền cho Bố, chắc Bố cảm ơn lắm, lấy chết báo lại Thái Sư, xin Thái Sư nghĩ đi nghĩ lại.
Trác nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói rằng:
- Ngươi nói cũng phải, để ta nghĩ kỹ xem.
Lý Nho từ tạ rồi ra.
Trác vào ngay hậu đường gọi Ðiêu Thuyền ra hỏi rằng:
- Sao ngươi có tư tình với Lữ Bố?
Ðiêu Thuyền khóc thưa rằng:
- Thiếp đang đứng xem hoa, bỗng Lữ Bố đột ngột ở đâu đến. Thiếp vội vàng toan tránh. Bố nói: Tôi là con Thái Sư, việc gì phải tránh? Rồi y cầm kích ép thiếp đến Ðình Phượng Nghi. Thiếp thấy y có lòng bất lương, sợ xâm phạm tại mình thiếp, định đâm đầu xuống ao sen tự vận, nhưng lại bị y ôm chặt lấy. Ðang lúc giằng co không biết sống chết thế nào, may có Thái Sư chạy lại cứu được tính mệnh.
Trác lại hỏi:
- Nay ta đem ngươi gả cho hắn, ngươi có thuận không?
Ðiêu Thuyền giật mình, khóc rằng:
- Thiếp đã được vào hầu quý nhân, nay lại đem gả cho thằng ở, thiếp thà chết chứ không chịu được nhục này!
Bèn rút ngay thanh bảo kiếm treo ở vách, toan tự vẫn.
Trác vội vàng giằng lấy thanh kiếm, ôm chặt lấy Ðiêu Thuyền và nói rằng:
- Ta nói bỡn đấy mà!
Thuyền nằm vào lòng Trác, bưng mặt khóc rằng:
- Ðây hẳn là mẹo của Lý Nho, Nho với Bố hai đứa là bạn thân với nhau, nên Nho mới bày ra mẹo này, không kể gì đến thể diện của Thái Sư và tính mệnh của tiện thiếp, thiếp phải xẻ thịt chúng nó ra.
Trác nói:
- Ta sao nỡ bỏ nàng.
Ðiêu Thuyền lại nói:
- Thái Sư dẫu có lòng thương yêu, cũng không nên ở đây lâu, sợ bị Lữ Bố làm hại.
Trác dỗ dành Ðiêu Thuyền rồi nói rằng:
- Ngày mai chúng ta về My , cùng hưởng sung sướng, đừng lo gì nữa.
Thuyền mới lau nước mắt lạy tạ.
Hôm sau Lý Nho vào ra mắt, nói rằng:
- Hôm nay tốt ngày Thái Sư nên đem Ðiêu Thuyền gả cho Lữ Bố.
Trác nói:
- Chuyện ấy ta đã nghĩ rồi. Lữ Bố với ta là quan hệ cha con, làm thế không tiện. Ta tha tội cho Bố, ngươi nên truyền đạt cho Bố biết ý ta và tìm lời an ủi Bố, thế là được rồi!
Nho nói:
- Thái Sư đừng dễ mê hoặc vì một người đàn bà.
Trác giận đổi sắc mặt mắng rằng:
- Thế thì vợ con ngươi, ngươi có đem cho hắn không? Việc Ðiêu Thuyền cấm được nói động đến nữa, còn nói ta sẽ chém đầu.
Lý Nho trở ra, ngẩng mặt lên trời than rằng:
- Lũ chúng ta chết cả về tay người đàn bà!
Ðời sau có thơ rằng:
Tư Ðồ khéo mượn khách má đào,
Chẳng dùng gươm giáo, chẳng dùng dao
Hổ Lao ba trận hoài bao sức,
Phượng Nghi chiến thắng ấy lạ sao!
Ngày hôm ấy Ðổng Trác hạ lệnh về My , trăm quan đều đi tống tiễn. Ðiêu Thuyền ngồi trên xe, xa trông thấy Lữ Bố đứng ở trong đám đông người, mắt nhìn vào trong xe.
Thuyền giả cách che mặt làm ra dáng đau khổ bi thảm.
Xe đã đi xa. Lữ Bố còn cầm cương ngựa đứng trên gò đất, nhìn đám bụi mù mịt than tiếc bực dọc. Chợt nghe sau lưng có người hỏi rằng:
- Ôn Hầu sao không theo Thái Sư đi, lại đứng đấy nhìn xe mà than thở?
Bố quay đầu lại xem ai, thì ra là Tư Ðồ Vương Doãn.
Chào hỏi xong, Doãn nói:
- Tôi mấy bữa nay, hơi khó ở, không đi đâu, cho nên chưa có dịp gặp tướng quân. Bữa nay Thái Sư về My , nên tôi phải gượng ra tiễn, may sao lại gặp tướng quân. Xin hỏi tướng quân làm sao lại đứng đây thở than?
Bố nói:
- Chỉ vì con gái ông đấy!
Doãn giả cách thất kinh hỏi rằng:
- Từ hôm ấy đến nay con tôi vẫn chưa về với tướng quân à?
Bố nói:
- Thằng giặc già ấy lấy làm thiếp của hắn đã lâu rồi!
Doãn lại giả cách thất kinh:
- Không ngờ lại như thế!
Bố bèn đem chuyện kể lại đầu đuôi cho Vương Doãn nghe. Vương Doãn mặt ngửa lên trời, chân dẫm xuống đất, thừ người ra không nói gì. Mãi hồi lâu, Doãn mới nói rằng:
- Không ngờ Thái Sư lại làm việc cầm thú ấy...
Rồi kéo tay Lữ Bố, nói rằng:
- Xin tướng quân hãy đến nhà tôi nói chuyện.
Bố theo Doãn về, Doãn mời Bố vào nhà trong kín đáo, sai làm rượu khoản đãi.
Bố lại đem việc gặp Ðiêu Thuyền ở Ðình Phượng Nghi kể hết đầu đuôi cho Doãn nghe.
Doãn nói:
- Thái Sư làm nhục con gái tôi, cướp vợ tướng quân. Thiên hạ người ta sẽ chê cười cho, nhưng người ta không chê cười Thái Sư đâu mà người ta chỉ chê cười tướng quân và tôi thôi. Tôi già yếu chẳng kể làm gì, chỉ tiếc thay tướng quân là bậc anh hùng tiếng tăm lừng lẫy một đời, mà phải chịu cái nhục này.
Bố nghe nói, cơn giận bốc lên bừng bừng, nắm tay đấm xuống bàn, kêu một tiếng thật to.
Doãn vội vàng nói rằng:
- Lão trót lỡ lời... xin tướng quân nguôi giận!
Bố nói:
- Ta thề sẽ giết chết thằng giặc già ấy để rửa nhục.
Doãn vội vàng lấy tay bưng miệng Bố can rằng:
- Tướng quân chớ nói, nhỡ ra có liên lụy đến lão.
Bố nói:
- Ðại trượng phu sinh ra trong trời đất, lẽ đâu lại cứ ngậm ngùi chịu làm tôi tớ người khác mãi ru!
Doãn nói thêm một câu rằng:
- Tài như tướng quân thì sao Thái Sư có thể kìm hãm được.
Bố lại nói:
- Tôi muốn giết thằng giặc già ấy, nhưng ngại rằng còn vương tình cha con, sợ người sau chê cười chăng?
Doãn tủm tỉm cười nói rằng:
- Tướng quân họ Lữ, mà Thái Sư họ Ðổng, thử hỏi lúc Thái Sư cầm kích lao tướng quân ở Ðình Phượng Nghi, liệu còn có tình cha con không?
Bố hăng hái đứng lên nói rằng:
- Nếu Tư Ðồ không dạy tôi câu ấy, suýt nữa tôi lầm.
Doãn thấy Lữ Bố đã quyết tâm giết Trác bèn bảo Lữ Bố rằng:
- Giúp nhà Hán, tướng quân mới thực là trung thần để tiếng trong sử xanh mãi mãi. Nếu tướng quân giúp Ðổng Trác thì là phản thần, sẽ để tiếng xấu muôn đời.
Bố đứng dậy lạy Vương Doãn nói rằng:
- Ý tôi đã quyết rồi. Tư Ðồ không nên nghĩ nữa.
Doãn nói:
- Tôi sợ việc không xong thì vạ to.
Bố liền rút con dao đeo ở mình, đâm một nhát vào cánh tay, chảy máu ra để thề.
Doãn quỳ xuống lạy tạ, nói rằng:
- Hương hỏa nhà Hán, nay không đến nỗi mất, đều là ơn tướng quân giữ kín, đừng để tiết lộ ra. Khi nào việc đến nơi tôi sẽ có mưu kế. Lúc đó tôi sẽ xin báo cho tướng quân biết.
Bố khẳng khái nhận lời rồi trở ra.
Doãn lập tức mời quan Bộc Sa là Sĩ Tôn Thụy, quan Tư Lệ Hiệu Úy là Hoàng Uyển đến để bàn việc ấy.
Thụy nói:
- Nay vua mệt mới khỏi, nên sai một người nói khéo đến Mỵ mời Trác vào đây để bàn việc nước. Một mặt lấy mật chiếu của thiên tử trao cho Lữ Bố, sai phục quân trong cửa triều, đợi Trác vào đến nơi sẽ giết đi. Chước ấy là hơn cả.
Uyển nói:
- Nhưng có ai dám đi mời không?
Thụy nói:
- Có quan Kỵ Ðô Úy Lý Túc là người cùng quận với Lữ Bố. Vì Trác không thăng chức cho, vẫn mang bụng oán tức, ta sai người ấy đi chắc Trác không nghi ngờ
Doãn cho là phải, bèn mời Lữ Bố đến nhà bàn bạc.
Bố nói:
- Ngày xưa xui ta giết Ðinh Nguyên cũng là người ấy. Nay hễ sai mà không đi, ta sẽ chém ngay trước.
Các quan mật sai mời Lý Túc đến. Bố bảo Túc:
- Xưa ông xui tôi giết Ðinh Kiến Dương để về với Ðổng Trác. Nay Ðổng Trác trên dối thiên tử, dưới hại sinh linh, tội ác đã nhiều, cả người và thần đều giận. Vậy ông hãy mang chiếu thiên tử, triệu Trác vào chầu, rồi ta phục binh giết nó đi, cố giúp nhà Hán, cùng làm trung thần nghĩa sĩ, ông tính thế nào?
Túc nói:
- Tôi cũng muốn trừ thằng giặc ấy đã lâu, hiềm vì chưa gặp ai cùng lòng. Nay tướng quân có bụng ấy, là trời giúp tôi đó. Tôi sao dám hai lòng?
Nói đoạn Túc bẻ một cái tên ra thề.
Doãn nói:
- Ông làm nổi việc này, lo gì chẳng được quyền cao chức trọng.
Hôm sau Túc dẫn vài mươi tên kỵ mã đến My , sai người báo tin cho Trác rằng có chiếu thiên tử đến. Trác cho mời vào, Lý Túc vào lạy, Trác nói:
- Thiên tử có chiếu gì?
Túc thưa:
- Thiên tử vừa mệt khỏi, muốn hội văn võ ở cung Vị Ương để bàn nhường ngôi cho Thái Sư, nên sai tôi cầm chiếu này đến đây.
Trác hỏi:
- Ý Vương Doãn thế nào?
Túc thưa:
- Vương Tư Ðồ đã sai người đắp đền thụ thiện, chỉ mong đợi Thái Sư về.
Trác mừng rỡ nói rằng:
- Thảo nào đêm ta nằm mộng thấy một con rồng quấn vào mình. Hôm nay quả nhiên có tin mừng. Dịp này không nên để lỡ.
Bèn sai bốn tướng tâm phúc là Lý Thôi, Quách Di, Trương Tế, Phàn Trù lĩnh ba ngàn quân phi hùng giữ My rồi ngay hôm ấy sắp xe kiệu vào kinh.
Trác ngoảnh lại bảo Lý Túc:
- Hễ ta làm vua thì cho ngươi làm chức Chấp Kim Ngô.
Túc lạy tạ, xưng thần.
Trác vào từ giả mẹ. Mẹ Trác bấy giờ đã hơn chín mươi tuổi, hỏi Trác:
- Con đi đâu?
Trác nói:
- Con sắp đi nối ngôi vua nhà Hán. Nay mai mẹ sẽ lên làm Hoàng thái hậu đấy.
Mẹ Trác nói:
- Ta mấy hôm nay cứ nóng ruột giật mình, sợ không phải điềm hay!
Trác nói:
- Mẹ sắp làm quốc mẫu, chẳng trách giật mình!
Nói rồi từ giã mẹ. Ðến lúc đi, bảo Ðiêu Thuyền rằng:
- Ta làm thiên tử, sẽ lập nàng làm quý phi.
Ðiêu Thuyền đã biết rõ mọi chuyện, giả cách hớn hở mừng rỡ, lạy tạ.
Trác lên xe về Trường An, quân sĩ đi tiễn tiền hô hậu ủng. Ði chưa được ba mươi dặm, tự nhiên xe gẫy một bánh. Trác xuống xe cưỡi ngựa, đi chưa được mười dặm, ngựa tự dưng lồng lên gầm thét dữ tợn, lôi đứt dây cương.
Trác hỏi Lý Túc:
- Xe gẫy bánh, ngựa đứt dây cương, là điềm thế nào?
Túc nói:
- Thế là cái điềm Thái Sư nối ngôi nhà Hán, thay cũ đổi mới. Từ nay Thái Sư sẽ ngồi kiệu ngọc yên vàng.
Trác nghe lấy làm lọt tai.
Hôm sau đương đi bỗng có cơn gió dữ nổi lên ầm ầm, mây kéo nghịt trời, Trác lại hỏi Túc:
- Thế là điềm gì?
Túc nói:
- Chúa công sắp lên ngôi rồng, cho nên mới có những ráng hồng mây tía, để thêm oai trời.
Trác lại mừng không lo gì nữa.
Khi Ðổng Trác đến Trường An, trăm quan đều ra đón rướt, duy có Lý Nho cáo bệnh ở nhà không ra đón.
Trác đến tướng phủ, Lữ Bố vào mừng.
Trác nói:
- Hễ ta làm vua, Phụng Tiên sẽ thống lĩnh cả binh mã trong thiên hạ.
Bố lạy tạ rồi nghỉ ngay ở dưới trướng.
Ðêm hôm ấy, có một lũ trẻ đi ngoài đường hát rong, gió đưa tiếng hát vào tận màn.
Hát rằng:
Thiên lý thảo
Hà thanh thanh
Thập nhật bốc
Bất đắc sinh!
(Cỏ ngàn dặm
Sao xanh xanh?
Trên mười ngày
Chẳng được sống)
Tiếng hát nghe thực ai oán.
Trác nghe thấy mới hỏi Lý Túc:
- Trẻ hát như thế, hay dở thế nào?
Túc thưa:
- Thế nghĩa là họ Lưu sắp mất, họ Ðổng sắp lên.
Mờ mờ sáng hôm sau Trác sai bày ghi vệ, rồi bắt kẻ hầu người hạ, đi theo vào trong triều. Bỗng thấy một đạo quân áo xanh, khăn trắng, tay cầm một cái sào dài trên buộc mảnh vải dài một trượng, hai đầu viết hai chữ khẩu .
Trác lại hỏi Lý Túc:
- Người ấy là người thế nào?
Túc nói:
- Hắn là một thằng rồ.
Rồi bảo tướng sĩ cứ việc đẩy xe đi.
Trác vào đến triều, các quan đều mặc áo trào, đứng đón cả hai bên đường. Lý Túc tay cầm thanh bảo kiếm, vịn xe Ðổng Trác đẩy đi. Ðến cửa Bắc Dịch, quân sĩ đều bị ngăn cả lại ở ngoài cửa, chỉ có hai mươi người được đẩy xe đi vào.
Trác vào khỏi cửa, thấy bọn Vương Doãn, ai nấy đều cầm kiếm đứng ở điện, sợ hỏi Lý Túc:
- Họ cầm kiếm là ý gì?
LÝ Túc không trả lời, cứ việc đẩy xe thẳng vào.
Vương Doãn bấy giờ mới thét to lên rằng:
- Phản tặc đã đến đây, võ sĩ đâu?
Hai bên hơn một trăm võ sĩ kéo ra, người cầm gươm, kẻ vác dao, cùng đổ xô lại đâm Ðổng Trác. Trác mặc áo giáp ở trong, giáo đâm không thủng, chỉ bị thương ở tay, ngã xuống xe, Trác gọi to lên rằng:
- Con ta Phụng Tiên đâu?
Lữ Bố đứng ở đằng sau, nghe thấy gọi đến tên, bèn thét to lên một tiếng rồi chạy ra nói rằng:
- Nay ta vâng chiếu vua giết thằng giặc này!
Một ngọn kích đâm trúng ngay cổ họng Ðổng Trác, Lý Túc liền cắt đầu Trác, lấy tay xách lên.
Lữ Bố tay trái cầm kích, tay phải thò vào bọc, lấy tờ chiếu ra, nói to lên rằng:
- Phụng chiếu vua, giết được tặc thần là Ðổng Trác rồi, còn các người khác tha cho cả!
Các tướng sĩ đều reo:
- Vạn tuế!
Ðời sau có thơ rằng:
Bá nghiệp thành công hóa đế vương
Không thành cũng vẫn được giàu sang
Ai biết lòng trời không thiên vị
My thành ra đất nát hoang.
Lữ Bố lại hô lên rằng:
- Giúp Ðổng Trác làm điều tàn ngược, đều tự Lý Nho cả, ai đi bắt nó cho ta?
Lý Túc xin đi.
Chợt có tiếng reo ngoài cửa triều rồi có người vào báo rằng:
- Người nhà Lý Nho đã trói Lý Nho đem lại nộp.
Vương Doãn sai điệu Lý Nho ra chợ chém; rồi lại sai đem đầu và thây Ðổng Trác đi diễu, loan báo khắp các ngả đường cho mọi người cùng biết.
Thây Trác to béo, quân sĩ lấy mồi cắm vào rốn đốt lửa làm đèn, mỡ chảy đầy cả ra đường cái; nhân dân ai đi qua cũng lấy gạch đá ném vào đầu, lấy chân đạp vào thây.
Vương Doãn lại sai Lữ Bố cùng với Hoàng Phủ Tung, Lý Túc lĩnh năm vạn quân đến My bắt người nhà Ðổng Trác và tịch biên gia sản.
Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù, nghe tin Trác đã chết, mà Lữ Bố thì đến My , liền dẫn quân phi hùng, ngay đêm hôm ấy chạy ra Lương Châu.
Lữ Bố đến My , trước hết tìm Ðiêu Thuyền.
Hoàn Phủ Tung sai đem những con gái nhà lương thiện bị Ðổng Trác bắt hiếp vào làm tỳ thiếp, tha cho về nhà cả. Còn bao nhiêu họ hàng thân thuộc nhà Ðổng Trác, không cứ lớn bé già trẻ đều đem ra giết sạch. Mẹ Trác cũng bị giết, em Trác là Ðổng Mẩn, cháu Trác là Ðổng Huynh cũng bị chém, đầu bêu đi các ngã ba. Lại tịch thu những của cải chứa ở trong nhà, vàng vài mươi vạn lạng, bạc vài trăm vạn lạng, vốc, nhiễu, châu báu, đồ đạc không biết bao nhiêu mà kể. Xong rồi Tung về báo với Vương Doãn biết.
Doãn khao thưởng quân sĩ thực to, mở tiệc yến ở lễ đường tướng phủ, họp cả các quan lại uống rượu ăn mừng.
Ðang ăn bỗng có người vào báo rằng:
- Thây Ðổng Trác đang phơi ở chợ, bỗng có một người đến cúi xuống thây khóc vang lên.
Doãn giận lắm, quát rằng:
- Giết được Ðổng Trác, quan dân ai ai cũng mừng cả, đứa nào lại dám khóc? Võ sĩ đâu, ra trói cổ hắn điệu vào đây ta hỏi?
Một lát quân dẫn người khóc vào, tưởng là ai, hóa ra quan Thị Trung Sái Ung. Doãn tức giận nói:
- Nay trừ được thằng giặc Ðổng Trác đi, là may cho xã tắc lắm. Ngươi là bề tôi nhà Hán, đã không mừng cho xã tắc, lại khóc thằng giặc là cớ làm sao?
Ung xin nhận tội nói rằng:
- Tôi tuy chẳng ra gì, cũng có biết đôi điều nghĩa lớn lẽ đâu lại theo Ðổng Trác. Nhưng vì tôi với Trác có chút ơn tri ngộ, nên tôi tự cảm xúc thương khóc. Tôi cũng biết như thế là có tội nặng. Nhưng xin ngài hãy rộng thứ cho: nếu bị thích chữ vào mặt, chặt chân nhưng vẫn được sống chép nốt pho Hán sử để chuộc tội, thì may cho tôi quá!
Các quan tiếc Ung là người tài, ai cũng cố sức nói hộ. Quan Thái Phó là Mã Nhật Ðề cũng ghé vào tai Doãn nói thầm rằng:
- Sái Ung là người tài, không mấy đời có được. Ðể cho hắn sống làm nốt pho Hán sử cũng là một điều hay! Vả lại Ung là một người hiếu hạnh, nay đem giết đi, e mất lòng thiên hạ.
Doãn nói:
- Ngày xưa, vua Hiếu Vũ không giết Tư Mã Thiên. Sau để cho Tư Mã Thiên chép nốt sách sử, vì thế cho nên mới có sách sử gièm pha truyền đến bây giờ. Nay đang lúc vận nước suy yếu, chính sự nhầm lẫn, không nên để kẻ nịnh thần cầm bút ở bên mình ấu chúa, chúng ta sẽ bị hắn chê cười.
Mã Nhật Ðê không nói gì nữa, đi trở ra, nói riêng với các quan rằng:
- Vương Doãn cũng không toàn mệnh được đâu! Người hiền là rường mối nhà nước, sách sử là điển cố nhà nước. Bỏ cả rường mối, đứt cả điển cố, bền lâu làm sao được?
Doãn không nghe lời Mã Nhật Ðê, sai bỏ Sái Ung vào ngục, bắt phải thắt cổ chết.
Các sĩ phu bấy giờ nghe thấy chuyện, ai cũng thương khóc.
Người đời sau bàn rằng Ung khóc Ðổng Trác đã là không phải, nhưng Doãn giết Ung thì cũng là quá lắm.
Có thơ than Ung rằng:
Ðổng Trác chuyên quyền thật bất nhân
Ung sao rước lấy vạ vào thân?
Bấy giờ Gia Cát nằm trong núi
Ðâu chịu ra thờ kẻ loạn thần?
Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù trốn sang Thiểm Tây, sai người đến Trường An, dâng biểu xin tha tội.
Vương Doãn nói:
- Ðổng Trác làm loạn, là bởi bốn đứa giúp cả. Nay tuy đại xá thiên hạ, duy bốn đứa ấy không thể tha được.
Sứ giả về báo Lý Thôi, Thôi nói:
- Xin tha không được, thì cùng đi trốn cả là xong!
Mưu sĩ là Giả Hủ bàn rằng:
- Các ông bỏ quân mà đi trốn một mình thì chỉ một người đình trưởng, cũng bắt trói lại được. Chi bằng ta dụ tập người Thiểm Tây, và quân mã của mình, kéo thẳng vào Trường An đánh báo thù cho Ðổng Công. Ðược ra thì lấy danh nghĩa triều đình mà hiệu lệnh thiên hạ. Ngộ thua, bấy giờ sẽ chạy cũng chưa muộn.
Bọn Lý Thôi lấy làm phải, liền nói phao lên ở Tây Lương rằng:
- Vương Doãn muốn giết sạch cả người ở Tây Lương.
Dân chúng đều sợ hãi.
Lũ Lý Thôi lại nói khích rằng:
- Chịu chết uổng cũng vô ích, có ai theo ta làm phản không?
Dân chúng xin theo cả. Bởi thế lũ Lý Thôi mộ được hơn mười vạn quân, chia làm bốn đường, kéo vào Trường An. Ði đường lại gặp con rể Ðổng Trác là Trung Lang tướng Ngưu Phụ, đem năm ngàn quân đi báo thù cho cha vợ.
Lý Thôi hợp hai toán làm một, sai Phụ làm tiền khu đi trước, bốn tướng dần dần kéo đi sau.
Vương Doãn nghe thấy binh Tây Lương kéo đến bèn bàn với Lữ Bố. Bố nói:
- Tư Ðồ đừng lo. Tôi coi chúng nó như đàn chuột!
Rồi cùng với Lý Túc đem quân ra. Túc đi trước nghênh địch, cùng Ngưu Phụ đánh nhau một trận.
Phụ chống không nổi, thua chạy.
Chẳng ngờ canh hai đêm hôm ấy, nhân lúc Túc không phòng bị, Ngưu Phụ kéo quân đến cướp trại Lý Túc. Quân Túc rối rít bỏ trại chạy ra hơn ba mươi dặm, chết mất quá nửa. Túc vào ra mắt Lữ Bố. Bố nổi giận mắng rằng:
- Sao ngươi dám làm mất nhuệ khí của ta?
Nói rồi liền chém đầu Lý Túc, treo đầu ở cửa quân.
Hôm sau Lữ Bố tiến binh, cùng Ngưu Phụ đối địch. Phụ địch sao nổi được Bố, cho nên lại thua chạy. Ðêm hôm ấy Ngưu Phụ gọi tướng tâm phúc tên là Hồ Xích Nhi bảo rằng:
- Lữ Bố kiêu dũng lắm, thế khó địch nổi. Sao bằng ta không cho bọn Lý Thôi biết, ngầm giấu vàng bạc, châu báu, đem vài ba người thân tín, bỏ trốn đi.
Hồ Xích Nhi ưng thuận. Ngay đêm hôm ấy Ngưu Phụ nhặt nhạnh vàng bạc, châu báu bỏ trại đi, chỉ đem ba bốn người đi theo. Ði đến một con sông, lúc sắp qua đó, Hồ Xích Nhi trông thấy của cải ngốt mắt, muốn chiếm lấy một mình, liền giết Ngưu Phụ đem đầu Phụ đến dâng Lữ Bố.
Bố hỏi đầu đuôi, người đi theo khai rằng:
- Xích Nhi giết Phụ để lấy của.
Bố giận, lập tức giết ngay Xích Nhi.
Lữ Bố dẫn quân tiến lên, gặp ngay quân mã Lý Thôi kéo đến. Bố không đợi cho bày trận, vác kích tế ngựa thúc quân xông vào, quân Lý Thôi không chống được, lui hơn năm mươi dặm, dựa vào sườn núi cắm trại.
Lý Thôi cho mời Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù lại bàn rằng:
- Lữ Bố tuy khỏe nhưng vô mưu, không lo sợ mấy. Nay ta đóng quân ở cửa hang, mỗi ngày ra khiêu chiến một lần. Quách tướng quân thì lĩnh quân đánh ở mặt sau, bắt chước lối Bành Việt quấy rối Sở ngày xưa. Nghe khua chiêng thì tiến binh, nghe đánh trống thì rút quân. Trong khi ấy thì hai ông chia quân ra hai đường đi tắt vào lấy Trường An. Bên nó đầu đuôi không tiếp ứng được nhau, tất nhiên sẽ thua.
Mọi người dùng kế ấy.
Lữ Bố dẫn quân đến dưới núi, Lý Thôi đem binh ra đánh, Bố hầm hầm xông vào trận. Thôi lui chạy lên núi. Trên núi tên đá bắn xuống như mưa, Bố không lên được. Chợt có người báo rằng:
- Quách Dĩ ở đằng sau đánh lại.
Bố vội vàng quay lại đánh, nhưng nghe thấy tiếng trống vang lên, quân Dĩ đã lui rồi. Bố vừa toan thu quân, thì một chiên khua, quân Thôi trên núi lại đánh xuống. Bố chưa kịp đối địch, đằng sau Quách Dĩ lại tiến lên đánh. Khi Lữ Bố trở lại thì Dĩ lại đánh trống rút quân về. Lữ Bố tức đầy ruột, ròng rã bốn hôm, Bố muốn đánh khống đánh được, muốn thôi cũng không thôi được. Ðang lúc tức mình có thám mã lại báo rằng:
- Trương Tế, Phàn Trù, hai cánh quân mã kéo vào Trường An, kinh thành nguy cấp lắm!
Bố vội vàng thu quân về, Lý Thôi, Quách Dĩ nhân thế đánh dấn lại. Bố vội quá không tham đánh nữa, chỉ tháo đường chạy về kinh cho nhanh, người ngựa xốn xáo tổn thất khá nhiều. Khi Bố về đến Trường An, thấy quân giặc đông nghịt, chẳng khác mây che mưa phủ, vây kín thành trì, Bố đánh không được. Quân sĩ thấy Bố hung bạo, bỏ đi theo giặc khá nhiều. Bố lo lắm.
Vài hôm sau, dư đảng của Ðổng Trác là Lý Mông, Vương Phương ở trong thành làm nội công cho giặc, mở trộm cửa thành, bốn mặt giặc kéo ùa cả vào. Lữ Bố hết sức chống cự không nổi, dẫn vài trăm quân kỵ mã đến trước của Thanh Tòa, gọi Vương Doãn bảo rằng:
- Thế nguy cấp lắm rồi, xin Tư Ðồ lên ngựa, cùng ra cửa quan với tôi, ta sẽ tìm kế khác.
Doãn cứ vững vàng nghiêm chỉnh như không, nói rằng:
- May ra nhờ thần linh xã tắc nhà nước được yên là sở nguyện của tôi; nếu không tôi xin đem thân cùng chết với nước. Gặp hoạn nạn mà bỏ trốn tránh để thoát thân, thì tôi không làm. Xin Ôn Hầu vì tôi mà nói với các bạn ở Quan Ðông hết sức lo tính việc nước.
Lữ Bố hai ba lần giục. Doãn nhất định không đi.
Ðược một lúc, các cửa thành lửa cháy ngùn ngụt, Lữ Bố phải bỏ cả vợ con, dẫn hơn một trăm quân kỵ mã chạy ra ngoài cửa ải, đi theo Viên Thuật.
Lý Thôi, Quách Dĩ thả cho quân tha hồ cướp bóc, Quan thái thường khanh Chủng Phất, quan thái bộc Lỗ Quỳ, quan đại hồng lô Chu Hoàn, thành môn hiệu úy Thôi Liệt, việt kỵ hiệu úy Vương Kỳ đều chết vì nạn nước.
Quân giặc vây kín nội đình. Các thị thần tâu xin vua lên cửa Tuyên Bình để dẹp loạn. Lúc vua lên cửa lũ Lý Thôi trông thấy lọng vàng, liền dừng ngựa lại, miệng hô vạn tuế.
Vua Hiến Ðế đứng trên lầu hỏi rằng:
- Các ngươi chưa tâu xin, dám tự tiện vào Trường An, ý các ngươi muốn làm gì?
Thôi, Dĩ ngẫng lên tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ, Ðổng Thái Sư là bầy tôi nhà vua tự dưng bị Vương Doãn mưu giết. Nay chúng tôi đến tìm Vương Doãn để báo thù cho Ðổng công, chứ không dám làm phản. Chúng tôi được trong thấy Vương Doãn xin rút quân ngay.
Vương Doãn bấy giờ đứng ở cạnh vua, nghe thấy nói thế, tâu rằng:
- Tôi nguyện vì nước giết Trác. Nay chẳng may sự đến thế này, xin bệ hạ đừng tiếc tôi mà lỡ việc nước ra. Tôi xin xuống gặp hai tên giặc.
Vua dùng dằng không nỡ. Doãn từ trên lầu Tuyên Bình nhảy xuống đất, quát to lên rằng:
- Vương Doãn đây!
Lý Thôi, Quách Dĩ rút gươm ra mắng rằng:
- Ðổng Thái Sư có tội tình gì mà ngươi giết?
Doãn nói:
- Tội Ðổng Trác đầy trời suốt đất, nói sao cho xiết. Hôm hắn chết ở Trường An, từ quan chí dân, ai là không mừng, các ngươi lại không biết à?
Thôi, Dĩ lại hỏi rằng:
- Ừ, Ðổng Thái Sư có tội đã đành, chúng ta thì có tội gì, sao xin tha cũng không được?
Vương Doãn chửi rầm lên mà mắng rằng:
- Nghịch tặc nói làm chi cho lắm! Vương Doãn ta chỉ chờ chết mà thôi.
Thôi, Dĩ giết Doãn ngay dưới lầu.
Sử quan có thơ khen Vương Doãn rằng:
Vương Doãn bày mưu hay,
Gian thần bị giết ngay.
Thương dân nên tức ruột,
Xót nước lại chau mày.
Sao tỏ, lòng trung giãi.
Mây cao, khí nghĩa đầy.
Ðến nay hồn vía ấy,
Quanh quất Phượng Lâu này.
Lũ Lý Thôi giết Vương Doãn xong rồi, một mặt sai người bắt cả họ hàng nhà Doãn giết sạch.
Sĩ dân ai nấy đều thương khóc.
Lý, Quách lại bàn nhau rằng:
- Ðã đến thế nầy, còn vua không giết nốt để mưu việc lớn, còn đợi đến bao giờ?
Hai đứa cầm gươm reo to, kéo vào trong cung.
Thế rõ thực:
Ðầu sỏ tạ tội, tai nạn hết
Gặp quân tặc đảng lại sinh nguy.
Chưa biết tính mệnh vua Hiến Ðế ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi Thứ Mười
Giúp Nhà Vua, Mã Ðằng Khởi Nghĩa.
Báo Thù Cha, Tào Tháo Cất Quân.
Lý Thôi, Quách Dĩ hai đứa muốn giết vua Hiến Ðế. Trương Tế, Phàn Trù can rằng:
- Không nên! Nay ta vội giết vua như thế, tôi e rằng thiên hạ không phục. Không bằng cứ để đấy, rồi dụ chư hầu vào trong cửa quan; trước hết trừ hết vây cánh, rồi sau ta sẽ liệu, như thế mới tính xong được việc thiên hạ.
Lý Thôi, Quách Dĩ nghe lời bèn đóng quân lại.
Vua ở trên lầu phán hỏi rằng:
- Vương Doãn đã bị giết rồi, sao quân mã chưa rút?
Lý Thôi, Quách Dĩ thưa rằng:
- Muôn tâu bệ hạ, chúng tôi có công với nhà vua, chưa được phong tước, cho nên chia dám lui quân.
Vua phán hỏi:
- Các ngươi muốn được phong tước gì?
Lý, Quách, Trương, Phàn bốn đứa cầu phong chức hàm gì, đều tự tay viết ra dâng lên, đòi vua phải phong như thế. Vua bắt buộc phải nghe theo:
Lý Thôi là Sa Kỵ tướng quân, Trì dương hầu, lĩnh Chức Tư Lệ Hiệu Úy, được dùng cờ tiết, lưỡi phủ việt.
Quách Dĩ, làm hậu tướng quân, Mỹ Dương Hầu cũng được dùng cờ tiết, lưỡi phủ việt.
Hai người cùng giữ quyền chính trong triều.
Phàn Trù, làm hữu tướng quân, Vạn Niên Hầu.
Trương Tế, làm phiêu kỵ tướng quân, Bình Dương Hầu
Trương, Phàm hai người lĩnh binh ra đóng đồn ở Hoàng Nông.
Còn lũ Lý Mông, Vương Phương đều được phong làm Hiệu Úy.
Vua phong xong, cả bọn tạ ơn, rồi lĩnh binh ra ngoài thành.
Bọn ấy lại sai người đi tìm đầu và thây Ðổng Trác. Tìm được ít nhiều da xương vụn nát, chúng lấy gỗ thơm, khắc thành hình thể, chắp ghép đâu vào đấy, cúng tế thực to, áo mũ quan quách, dùng theo đám ma nhà vua, chọn ngày tốt làm lễ cất đám rước sang táng ở My .
Táng xong, bỗng nhiên trời nổi sấm sét, mưa to gió lớn, mặt đất ngập sâu vài thước. Một tiếng sét đánh vào áo quan Ðổng Trác, đầu và thây bật cả ra ngoài.
Lý Thôi đợi tạnh mưa, lại đem táng lại. Ðêm hôm ấy trời lại mưa to, sấm sét lại đánh vào áo quan Trác như trước; ba lần cải táng không xong, da xương thịt vụn Ðổng Trác bị mấy lần sét đánh tan tành.
Lý Thôi, Quách Dĩ, cầm được quyền chính, tàn đãi dân chúng, trăm họ khổ sở điêu đứng. Chúng lại mật sai những người tâm phúc hầu bên cạnh vua để dò la ý tứ.
Vua Hiếu Ðế bấy giờ như ngồi trên chông gai.
Các quan trong triều thăng giáng đều do hai đứa Thôi, Dĩ cả. Muốn thu phục lòng người, chúng mời Chu Tuấn vào triều, phong làm chức Thái Bộc, cho dữ triều chính.
Một hôm có người báo rằng:
- Thái Thú Tây Lương là Mã Ðằng, Thái Sử Tịnh Châu là Hàn Toại, hai người dẫn hơn mười vạn quân, kéo đến Trường An, nói rằng vào để đánh giặc.
Hai người ấy vốn đã có sai người vào Trường An, mật kết với Thị Trung là Mã Vũ, gián nghị đại phu là Chủng Thiệu, Tá Trung Lang Tướng là Lưu Phạm, để ba người ấy làm nội ứng. Ba người mật tâu với vua phong cho Mã Ðằng làm chinh tây tướng quân, Hàn Toại làm chấn tây tướng quân, trao cho mỗi người một tờ mật chiếu, sai hợp sức nhau lại để đánh giặc.
Lý, Quách, Trung, Phàn nghe tin hai cánh quân ấy sắp đến, họp nhau để bàn. Mưu sĩ là Giả Hủ nói rằng:
- Hai đám quân ấy từ xa đến, chỉ nên đắp thành cao, hào sâu cố thủ để chống lại, bất quá chỉ độ trăm ngày, chúng cạn lương là phải rút. Bấy giờ ta sẽ kéo quân đuổi theo, chắc chắn bắt được.
Lý Mông, Vương Phương nói rằng:
- Kế ấy không hay. Chúng tôi xin lĩnh một vạn tinh binh ra đánh; lập tức chém đầu Mã Ðằng, Hàn Toại dâng dưới cờ.
Giả Hủ nói:
- Hể mà đánh nhau, tất ta thua!
Hai người bảo Hủ rằng:
- Nếu hai chúng tôi thua, xin chịu chém đầu. Nhưng nếu chúng tôi được, ông cũng phải nộp đầu cho chúng tôi.
Hủ mới bảo Lý Thôi, Quách Dĩ rằng:
- Phía Tây Trường An, ngoài hai trăm dặm, có núi Trập Chất, đường ấy hiểm trở, nên sai Trương Tế, Phàn Trù hai tướng ấy ra đóng đồn ở đấy giữ cho vững, rồi hãy để mặc Lý Mông, Vương Phương lĩnh quân ra đánh.
Lý, Quách nghe lời, điểm một vạn rưỡi quân mã giao cho Lý Mông, Vương Phương. Hai người mừng rỡ, đem quân đi, ra khỏi Trường An hai trăm tám mươi dặm hạ trại đóng quân ở đó.
Quân Tây Lương đến, hai người dẫn quân ra đánh. Lúc hai bên dàn trận rồi Mã Ðằng, Hàn Toại sóng ngựa cùng ra trước trận, trỏ Lý Mông, Vương Phương mắng rằng:
- Giặc phản nước kia, ai ra bắt lấy nó!
Nói chưa dứt lời, có tướng trẻ tuổi, mặt đẹp như ngọc, mắt sáng như sao, mình hổ tay vượn, bụng beo lưng sói, tay cầm một ngọn giáo dài, mình cưỡi con ngựa cực đẹp, từ trong trận tế ra.
Tướng ấy vốn là con Mã Ðằng, tên là Mã Siêu, tự là Mạnh Khởi, mới có mười bảy tuổi, khỏe mạnh không ai bằng.
Vương Phương thấy Siêu còn bé khinh thường, nhảy ngựa lại đánh. Chưa được mười hiệp, Mã Siêu đâm Phương chết ngã xuống đất, rồi quay ngựa trở về.
Lý Mông thấy Phương chết, tế ngựa theo sau Mã Siêu để đánh trả thù. Siêu cứ lững thững đi trở về làm ra vẻ không biết. Mã Ðằng ở cửa trận gọi to:
- Ðằng sau có người đuổi theo.
Ðằng nói chưa dứt lời, đã thấy Mã Siêu bắt sống Lý Mông ngay ở trên mình ngựa. Té ra Siêu vẫn biết có Mông đuổi, lờ như không trông thấy, đợi cho Mông đến, phóng đao ra đâm. Siêu mới tránh sang một bên. Mông đâm hụt, hai con ngựa giáp nhau. Siêu bấy giờ mời quờ tay vượn ra bắt sống được Mông.
Quân Lý Mông không có chủ, chạy trốn tán lạc cả.
Mã Ðằng, Hàn Toại thừa thế đuổi đánh, thắng to, xông thẳng đến cửa thành hạ trại rồi đem Lý Mông ra chém bêu đầu.
Lý Thôi, Quách Dĩ thấy Mông, Phương cùng bị giết cả, mới tin là Giả Hủ có tài biết trước, bấy giờ mới nhất định dùng kế của Hủ, chỉ giữ vững các cửa thành, mặc bên kia khiêu chiến thế nào cũng không ra. Quả nhiên chưa được hai tháng, quân Mã Ðằng, Hàn Toại cạn lương, hai tướng phải bàn nhau rút quân về.
Giữa lúc ấy thì ở trong thành, đầy tớ Mã Vũ ra thú với lũ Lý, Quách, kháo rằng chủ nó cùng với Lưu Phạm, Chủng Thiệu liên kết với Mã Ðằng, Hàn Toại để làm nội ứng. Lý, Quách giận lắm bắt hết cả già trẻ, bé lớn ba nhà đem ra chợ chém, rồi mang ba đầu lâu ra bêu trước cửa thành.
Mã Ðằng, Hàn Toại thấy quân lương đã hết, nội ứng lại bị tiết lộ, phải nhổ trại đem quân về.
Lý, Quách sai Trương Tế đem quân đuổi Mã Ðằng, sai Phàn Trù đem quân đuổi Hàn Toại.
Quân Tây Lương thua to, may được Mã Siêu đi hậu quân đánh lùi được quân Trương Tế.
Phàn Trù đuổi Hàn Toại dần dần kịp, gần đến Trần Thương, Hàn Toại quan ngựa lại bảo Trù rằng:
- Tôi với ông người cùng làng với nhau, nay sao vô tình quá thế!
Trù thấy nói, dừng ngựa lại nhìn rồi nói rằng:
- Có lệnh trên sai, ta phải tuân theo!
Toại lại nói:
- Tôi lại đây cũng vì việc nước, sao lại quá bức bách nhau như thế?
Trù nghe xong, quay ngựa lại, thu quân trở về, để cho Toại đi. Không ngờ có cháu Lý Thôi là Lý Biệt đi theo sau, thấy Phàn Trù tra Hàn Toại, về mách với chú. Thôi giận lắm, muốn đem binh ra đón đánh Phàn Trù.
Giả Hủ lại can rằng:
- Nay nhân tâm chưa được yên, mà cứ dấy binh mãi mãi không nên, sao bằng mở một tiệc rượu, mời Trương, Phàn đến để mừng công, rồi đang cuộc rượu bắt Trù đem chém chẳng phải khó nhọc gì.
Lý Thôi ưng theo kế ấy, bèn mở tiệc mời hai người đến. Trương, Phàn hớn hở đến ăn yến.
Ðang giữa tiệc Lý Thôi sầm mặt lại rồi nói rằng:
- Phàn Trù sao dám tư thông với Hàn Toại, định làm phản hay sao?
Trù giật nẩy mình, chưa kịp trả lời thì mấy tay đao phủ đã vào kéo Trù ra, chém ngay trước tiệc.
Trương Tế trong thấy khiếp đảm, cúi rạp xuống tận đất.
Lý Thôi nâng Tế dậy mà nói rằng:
- Trù mưu phản, nên ta phải giết. Ngươi là tâm phúc với ta, việc gì mà sợ.
Nói rồi Thôi đem quân của Trù, giao cho Tế quản lĩnh. Tế dẫn quân về Hoằng Nông.
Từ khi Quách Dĩ đánh được quân Tây Lương, chư hầu không ai dám chống lại, Giả Hủ lại khuyên rằng:
- Phải cốt giữ cho dân được yên; phải tin dùng những người hiền tài.
Từ bấy giờ trở đi, triều đình mới hơi thấy có vẻ dễ chịu.
Nhưng không ngờ lại có đám giặc Khăn Vàng ở Thanh Châu nổi dậy, tụ quân vài mươi vạn khởi loạn, cướp bóc của dân. Thái Bộc là Chu Tuấn xin tiến cử một người để đi dẹp giặc.
Thôi, Dĩ hỏi ai, Tuấn nói:
- Muốn phá giặc Sơn Ðông, phi Tào Tháo không xong.
Lý Thôi nói:
- Bây giờ Tào Tháo ở đâu?
Chu Tuấn thưa:
- Hiện Tháo đang làm Thái Thú Ðông Quận, trong tay có nhiều quân sĩ, giá sai người này đi đánh giặc, thì không mấy bữa giặc sẽ tan.
Lý Thôi mừng lắm, ngay đêm hôm ấy thảo tờ chiếu cho người mang ra Ðông Quận, sai Tào Tháo cùng với tướng Tế Bắc là Pháo Tín đi đánh giặc.
Tháo vâng chiếu họp với Pháo Tín, cùng tiến quân đánh giặc ở Thọ Dương.
Pháo Tín vào đất giặc, bị giặc giết chết. Còn Tào Tháo đuổi giặc đến tận Tế Bắc, giặc hàng vài vạn người. Tháo lại dùng ngay giặc làm tiền khu, quân đi đến đâu, giặc hàng đến đấy.
Mới được hơn một trăm ngày chiêu an được hơn bốn mươi vạn quân hàng. Vừa đàn ông, đàn bà kéo lại theo Tháo hơn một triệu người. Tháo tuyển lấy những quân tinh nhuệ, đặt riêng một cánh quân gọi là quân Thạch Châu, còn bao nhiêu đuổi về cho làm ruộng.
Từ đó uy danh Tào Tháo mỗi ngày một lừng lẫy, tiếng đồn về đến tận kinh, triều đình phong cho Tháo làm Chấn Ðông tướng quân.
Tào Tháo ở Duyện Châu chiêu mộ thu dùng những người hiền sĩ.
- Làng Dĩnh Âm châu Dĩnh Xuyên, có một nhà hai chú cháu cùng đi theo Tào Tháo. Người chu, họ Tuân tên Túc, tự là Văn Nhược, nguyên là con Tuân Côn. Úc trước đã thờ Viên Thiệu, bây giờ bỏ Thiệu về với Tháo.
Tháo cùng Úc nói chuyện xong rồi mừng lắm nói rằng: Người này là Tử Phòng của ta đây!, rồi cho làm hành quân tư mã.
Người cháu tên là Tuân Du, tên chữ là Công Ðạt, vốn có tiếng là một danh sĩ, trước đã làm hoàng môn thị lang, sau bỏ quan về làng, nay theo chú sang với Tào Tháo, Tháo cho làm hành quân giáo thụ.
Tuân Du lại nói với Tháo rằng:
- Tôi nghe ở Duyện Châu có một người hiền sĩ, vốn ở Ðông An, họ Trình tên Dục, tự là Trọng Ðức, nhưng không biết bây giờ ở đâu? Người ấy chúa công nên dùng.
Tháo nói:
- Ta đã biết tiếng Trình Dục từ lâu.
Nói rồi sai ngay người về tận Ðông An để hỏi cho được, thấy họ bảo rằng: Trình Dục đang ở trong núi đọc sách. Tháo cho mời ra, Trình Dục đến bái kiến, Tháo mừng lắm.
Dục lại bảo với Tuân Úc rằng:
- Tôi là người quê kệch, học hành chưa được mấy, không xứng đáng với sự tiến cử của ông. Nay tôi biết có một người cùng làng với ông, tên là Quách Gia, tự là Phụng Hiếu, người ấy thực là hiền sĩ thời nay. Sao ông không triệu ra?
Úc sực nhớ đến nói rằng:
- Suýt nữa tôi quên mất người ấy!
Úc nói chuyện ngay với Tào Tháo. Tháo cho đi mời Quách Gia. Gia đến Duyện Châu bàn việc thiên hạ với Tào Tháo, rồi lại tiến Tháo một người nữa, dòng dõi vua Quan Vũ, người ở Thanh Ðức, họ Lưu tên Hoa, tự là Tử Dương.
Tháo cho mời Hoa đến. Hoa lại tiến hai người nữa, một người ở Sương Ấp, họ Mãn tên Sủng, tự là Bá Ninh; người nữa ở Vũ Thành họ Lã tên Kiều, tự là Tử Khác.
Tháo cũng đã biết tiếng hai người ấy, cho nên đặt ngay làm trung quân tùng sự.
Hai người lại tiến Tháo một người nữa, họ Mao tên Giới ở Bình Kỳ, tự là Hiếu Tiên.
Tháo cũng cho làm tùng sự.
Ðược ít bữa lại có một tướng nữa, đem vài trăm quân mã lại xin theo Tháo, người ở Cự Binh, tên là Vu Cấm, tự là Văn Tắc.
Tháo thấy người ấy bắn cung cưỡi ngựa giỏi, võ nghệ hơn người, liền cho làm Tiền Quân Tư Mã.
Một hôm Hạ Hầu Ðôn lại dắt một người cực to lớn lại ra mắt Tào Tháo.
Tháo hỏi ai, Ðôn thưa rằng:
- Người ấy ở Trần Lưu, họ Ðiển tên Vi, sức khỏe không ai địch nổi. Trước Vi đã theo Trương Mạc, liền giết vài mươi người rồi trốn vào núi ở. Tôi đi săn gặp Ðiển Vi đang đuổi hổ nhảy qua suối, nay tôi đem về dâng chúa công.
Tháo nói:
- Ta xem người này, tướng mạo khôi ngô, tất là người có sức khỏe.
Ðôn lại nói:
- Ðiển Vi từng báo thù cho bạn, giết người xách đầu ra ngoài chợ, hàng mấy trăm người không dám đến gần. Y sử dụng được hai ngọn kích sắt, nặng tám mươi cân, cắp ngồi trên ngựa, vung múa nhẹ như bay.
Tào Tháo lập tức sai Vi ra thử kích.
Vi cắp đôi kích lên ngựa nhẹ nhàng đi lại như bay. Bỗng bấy giờ có một cơn gió to, lá cờ lớn trồng dưới trướng lung lay sắp đổ. Quân sĩ lại xúm xít ôm giữ không nổi.
Ðiển Vi thấy vậy, từ trên ngựa nhảy xuống, quát to một tiếng, đuổi quân sĩ lui ra, rồi một tay nắm chắc lấy, cột cờ đứng im phăng phắc giữa luồng gió.
Tháo thấy thế mừng nói rằng:
- Người nầy thực là Ác Lai ngày xưa đây!
Liền cho làm trướng tiền đô úy, cởi ngay áo gấm đang mặc cho Ðiển Vi, lại cho thêm một con ngựa thực tốt và một bộ yên chạm.
Từ bấy giờ bộ hạ Tào Tháo, văn có người tài, vũ có tướng giỏi, uy danh Tháo lẫy cả Sơn Ðông, Tháo bèn sai Thái Thú Thái Sơn là Ung Thiệu, về quận Lương Gia đón cha là Tào Tung.
Tung trước ở Trần Lưu, từ khi loạn lánh sang ở Lương Gia. Bấy giờ tiếp được thư bèn cùng em là Tào Ðức và người nhà hơn bốn mươi người, lại đem hơn một trăm đầy tớ, ngồi mấy trăm xe, kéo nhau về Duyện Châu.
Lúc đi qua Từ Châu, quan thái thú ở đấy là Ðào Khiêm, tên chữ là Cung Tổ, người ôn hậu hòa nhã, vốn xưa nay vẫn muốn làm quen với Tào Tháo, nay thấy cha Tào Tháo đi qua địa hạt mình bèn thân hành ra đón chào lạy cung kính, mở tiệc khoản đãi mấy ngày liền. Lúc Tung đi, Khiêm thân đưa ra khỏi thành, rồi lại sai Ðô Úy là Trương Khải đem năm trăm bộ binh đi hộ tống.
Khi Tung và người nhà đi đến địa giới đất Hoa và Phí, bây giờ vào cuối hạ sang thu, bỗng gặp cơn mưa to, phải vào nghỉ nhờ một ngôi chùa. Sư tăng trong chùa ra tiếp. Tung thu xếp cho người nhà nơi ăn chỗ nghỉ rồi sai Trương Khải đem quân mã đóng hai bên hành lang chùa.
Bị mưa ướt cả quần áo và hành trang, quân sĩ đều kêu ca oán thán. Trương Khải mới gọi những đầu mục thủ hạ đến một chỗ vắng bảo rằng:
- Chúng ta vốn là dư đảng Khăn Vàng, bất đắc dĩ phải đầu hàng Ðào Khiêm. Từ ấy đến giờ chưa thấy được lợi lộc gì. Nay của cải nhà họ Tào chất đầy bao nhiêu xe cộ, các anh em muốn phú quý, cũng chẳng khó gì. Canh ba đêm hôm nay, chúng ta bổ cửa chùa vào và giết hết cả nhà Tào Tung, lấy sạch của cải, rồi ta lại cùng nhau về rừng làm nghề lạc thảo, kế ấy anh em nghĩ thế nào?
Quân sĩ đều cùng thuận cả.
Ðêm hôm ấy mưa gió chưa dứt. Tung đương ngồi bỗng nghe bên ngoài bốn mặt có tiếng hò reo rầm rĩ, Tào Ðức cầm gươm ra xem việc gì, bị đâm chết ngay.
Tung vội vàng dắt một người thiếp chạy vào buồng phương trượng, định nhảy qua tường đi trốn, chẳng may phải người thiếp to béo không ra lọt. Tung vội vàng cùng người thiếp ẩn vào trong chuồng tiêu, rồi cả hai đều bị loạn quân giết mất.
Ung Thiệu là người Tào Tháo sai đi đón Tào Tung, chạy thoát, sang ở với Viên Thiệu.
Khải giết hết cả nhà Tào Tung, lấy sạch của cải, đốt chùa, đem năm trăm quân trốn về Hoài Nam.
Ðời sau có thơ rằng:
A Man vốn có tiếng gian hùng;
Hại cả nhà Sa thật nhẫn lòng.
Bỗng chốc gặp ngay người khác hại,
Lòng trời báo ứng khiếp hay không?
Bấy giờ bộ hạ Ung Thiệu có một người trốn được về báo với Tào Tháo.
háo nghe tin khóc lăn xuống đất, mọi người vực dậy, Tháo nghiến răng lại nói rằng:
- Ðào Khiêm hỡi! Dám thả cho quân giết cha ta. Thù này ngươi với ta không đội trời chung được! Nay ta khởi hết đại quân, sang giết sạch cả Từ Châu mới hả được giận này!
Liền sai Tuân Úc, Trình Dục lĩnh ba vạn quân ở lại giữ Nhân Thành, Phạm Huyện, Ðông An, còn bao nhiêu quân kéo cả đến Từ Châu, sai Hạ Hầu Ðôn, Vu Cấm, Ðiển Vi làm tiên phong. Tháo hạ lệnh rằng:
- Hễ đánh được thành trì nào, bao nhiêu dân trong thành đều phải đem giết nhẵn để báo thù cho cha ta.
Bấy giờ có thái thú ở Cựu Giang tên là Biên Nhượng, vốn là bạn thân với Ðào Khiêm, nghe thấy Từ Châu có nạn, đem năm ngàn quân lại cứu.
Tháo nghe thấy giận lắm, sai Hạ Hầu Ðôn đón đường giết chết Biên Nhượng.
Trần Cung khi ấy làm tùng sự ở Ðông Quận, chơi rất thân với Ðào Khiêm, nghe thấy tin Tào Tháo khởi binh báo thù cho cha, định giết cả dân Từ Châu, sáng tinh sương hôm ấy đến xin vào ra mắt Tào Tháo.
Tháo biết rằng Cung vào để nói cho Ðào Khiêm, đã toan không tiếp sau lại nghĩ đến ân cũ khi xưa, nên phải mời vào. Cung vào nói rằng:
- Nay tôi nghe thấy ông đem đại binh đến Từ Châu, báo thù cho tôn phụ, ông định đi đến đâu giết sạch muôn dân, cho nên tôi đến đây xin trình bày một lời: Ðào Khiêm vốn là hiền nhân quân tử, chứ không phải là đồ ham lợi quên nghĩa. Tôn phụ chẳng may bị hại là tội của Trương Khải, chứ không phải tội của Khiêm. Vả lại, dân chúng các châu huyện không có thù gì với tướng quân, xin tướng quân nghĩ lại cho kỹ rồi sẽ làm.
Tháo nổi giận nói rằng:
- Trước kia ông đã bỏ ta mà đi, nay còn mặt nào lại trông thấy nhau? Ðào Khiêm hắn giết cả nhà ta, ta thề moi ruột móc gan hắn ra, mới hả được giận. Ông làm thuyết khách cho Ðào Khiêm, nhưng ta chẳng nghe, thì làm thế nào?
Trần Cung từ biệt Tào Tháo trở ra, than rằng:
- Chuyến này ta cũng không mặt nào trông thấy Ðào Khiêm nữa!
Nói rồi giục ngựa sang với thái thú Trần Lưu là Trương Mạc.
Tào Tháo đi đến đâu cũng cho quân tàn hại dân chúng đến đấy, đào mồ cuốc mả người ta, ai ai cũng sợ.
Ðào Khiêm ở Từ Châu nghe thấy Tháo giết dân hại lắm, bèn ngửa mặt lên trời mà khóc rằng:
- Ta để cho dân Từ Châu mắc phải nạn này, phải mang tội với trời đất!
Rồi lập tức họp các quan lại để bàn. Tào Báo nói:
- Quân Tào đã đến nơi, lẽ đâu ta lại ngồi khoanh tay mà chịu chết. Tôi xin giúp sứ quân phá giặc.
Ðào Khiêm bất đắc dĩ phải đem quân ra đón, xa trông thấy quân Tháo trắng xóa, tựa hồ như sương sa tuyết tỏa, ở trung quân dựng hai lá cờ trắng, trên đề bốn chữ to: Báo thù rửa hận.
Quân mã dàn thành thế trận, Tào Tháo cưỡi ngựa ra, mình mặc đồ tang, trỏ roi thét mắng.
Ðào Khiêm cũng cưỡi ngựa ra dưới cửa cờ, nghiêng mình, vái mà nói rằng:
- Ta vốn muốn kết hiếu với minh công, nên mới sai Trương Khải đi hộ tống. Không ngờ tướng giặc Trương Khải, ngựa quen đường cũ; đến nỗi xảy ra việc như thế. Quả tình tội oan, xin minh công xét kỹ cho.
Tháo quát mắng rằng:
- Thằng già kia! Ngươi đã giết cha tao, còn dám nỏ mồm? Ai ra bắt sống thằng giặc già kia vào đây!
Hạ Hầu Ðôn nhảy ra.
Ðào Khiêm vội vàng chạy về trận.
Ðôn xong lại.
Tào Tháo thúc ngựa ra đánh.
Hai ngựa đang giao nhau, bỗng đâu nổi trận gió to, sỏi cát bay mù mịt; Hai bên đều thu quân về.
Ðào Khiêm vào thành bàn với quân sĩ:
- Quân Tháo thế to, khó địch lắm. Ta nên tự trói mình, thân đến dinh quân Tào, tùy nó hành tội, để cứu lấy dân trong quận Từ Châu!
Khiêm nói chưa dứt lời, có một người tiến lên thưa rằng:
- Sứ quân trấn thủ Từ Châu đã lâu, dân chúng ai cũng cảm phục. Nay quân Tào tuy nhiều, nhưng vị tất đã phá được thành ngay. Sứ quân hãy cứ cùng với trăm họ giữ thành cho vững. Tôi tuy rằng bất tài, nhưng dám hiến một kế nhỏ, làm cho Tào Tháo chết không có chỗ chôn.
Ai nấy giật mình hỏi kế làm sao?
Thế thực là:
Bởi muốn cầu thân nên kết oán
Ai hay đất tuyệt có đường sinh!
Chưa biết người hiến kế là ai, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com