hỏi và trả lời "vật chất và ý thức"
Câu 1: Đc hãy làm rõ cơ sở LLuận của quan điểm: Mọi đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng hành đôngj theo quy luật khách quan đồng thời nâng cao tính năng động chủ quan. Liên hệ địa phương
Với những thắng lợi giành được trong tk xx, nước ta từ một nước thuộc địa nữa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường XHCN, có quan hệ Q.tế mở rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới, nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước , làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công ngiệp hoá hiện đại hoá.
Báo cáo chính trị của BCHTW khoá 8 khẳng định năm năm qua, bên cạnh một số thắng lợi, nước ta gặp nhiều khó khăn: Những yếu kém vốn có của nền kinh tế, những thiên tai lớn liên tiếp, cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế ở một số nước Châu Á, tình hình thế giới và khu vực phức tạp. Trong hoàn cảnh đó, toàn Đảng và toàn dân ta ra sức thực hiện NQĐH8 đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhên việc thực hiện NQĐH 8 có những yếu kém, khuyết điểm .
Nền K.tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, một số vấn đề về VH,XH bức xúc và găy gắt chậm được giải quyết. Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Tình trạng tham nhũng , suy thoái ở một bộ phận không nhỏ cán bộ , đảng viên là rất nghiêm trọng . Sở dĩ có tình trạng đó là so những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chính : Việc tổ chức thực hiện NQ của đảng, chính sách của đảng chưa tốt ; kỷ luật kỷ cương chưa nghiêm. Một số quan điểm chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp , các ngành. Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết . Công tác tư tưởng, công tác lý luận, công tác tổ chức, cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập.
Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh được thông qua đại hội 7 của đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên CNXH ở nước ta. Chúng ta một lần nữa khẳng định: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước việt nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của đảng hiện nayvà trong những thập kỷ tới: Đảng và nhân dân ta quyết tâm XD đất nước ta theo con đường XHCN trên nền tảng CN Mác_ Lê Nin và tư tưởng HCM.
Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của CM Việt Nam, là kết quả của sự vận động và phát triển sáng tạo CN Mác - LêNin vào điều kiện cụ thể của nước ta , kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc , tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Tư tưởng HCM soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta . Khẳng định lấy CN Mác_ LêNin, tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của đảng ta.
Học tập một cách nghiêm túc để nắm vững tinh thần cách mạng và khoa học của CN Mác _LêNin, tư tưởng HCM, cơ sở lý luận và thực tiễn các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng là một nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của mỗi cán bộ, đảng viên
Báo cáo chính trị của BCHTW khoá 8 nêu rõ: Trước hết phải tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân . Toàn đảng nghiêm túc học tập CN Mác- LêNin và tư tưởng HCM. Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 BCHTW đảng khoá IX tiếp tục khẳng định: đẩy mạnh công tác lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng.
Đẩy mạnh công tác lý luận, tổng kết thực tiễn 20 năm đổi mới và phát triển đất nước,từng bước làm rõ những vấn đề cơ bản về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN trong điều kiện mới. Tập trung nghiên cứu một cách hệ thống, cơ bản và đồng bộ về sự lãnh đạo của đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Xây dựng và hoàn thiện các qui chế về sự lãnh đạo của đảng trên các lĩnh vực nhằm vừa nhân cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của đảng vừa phát huy quyền lực và hiệu lực quản lý nhà nứớc của các cơ quan chính quyền, phát huy vị trí và vai trò của MTTQ và các đoàn thể nhân dân.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ nêu trên chúng ta cần phải nghiên cứu và quán triệt bài học kinh nghiệm: Mọi đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng hành đôngj theo quy luật khách quan đồng thời nâng cao tính năng động chủ quan
Đây chính là kim chỉ nam cho hành động của chúng ta. Để hiểu một cách thấu đáo vấn đề này, chúng ta đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề.
V/c là một phạm trù CB, nền tảng của CNDV; xung quanh phạm trù V/c luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT. LêNin đã khái quát những thành tựu mới nhất của vật lý học, phê phán những quan điểm duy tâm, siêu hình, thuyết không thể biết về vật chất, bảo vệ và phát triển quan niệm DVBC của Mác và Anqghen về V/c và đã đưa ra định nghĩa nỗi tiếng, hoàn chỉnh về phạm trù V/c trong tác phẩm CNDV và CN kinh nghiệm phê phán: "V/c là một phạm trù khoa học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác , được cảm giác của chúng ta chép lại , chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác ".
Theo Lênin, phạm trù vật chất là một phạm trù rộng đến cùng cực, rộng nhất cho đến hiện nay thực ra về mặt nhận thức luận vẫn chưa vượt qua được. Vì vậy khi định nghĩa V/c không thể qui nó về vật thể, hoặc một hình thức, một thuộc tính cụ thể nào đó và cũng không thể qui về phạm trù rộng hơn vì đến nay chưa có phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với ý thức là phạm trù đối lập với nó và trong quan hệ ấy khẳng định vật chất là tính thứ 1, ý thức là tính thứ 2.
Phân tích định nghĩa vật chất của LêNin trước hết cần phân biệt V/c với tư cách là phạm trù khoa học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng, các dạng vật chất khác nhau. V/c với tư cách là một phạm trù khoa học, nó chỉ vật chất nói chung vô hạn, vô tận, không sinh ra và không mất đi. còn các đối tượng, các dạng vật chất mà các khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi để chuyển hoá thành cái khác.
Trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan trọng để nhận biết V/c chính là thuộc tính khách quan, khách quan theo LêNin là cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người. Trong đời sống xã hội vật chất là tồn tại xã hội, không phụ thuộc và ý thức xã hội của con người.
Con người có thể nhận thức được thế giới, thế giới vật chất chính là nội dung của ý thức.
Định nghĩa vật chất của Lênin Mang lại ý nghĩa quan trọng là: khi khẳng định vật chất là tồn tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác; tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác, LêNin đã thừa nhận rằng trong nhận thức luận vật chất là thuộc tính thứ 1 là nguồn gốc khách quan của cảm giác ý thức và khi khẳng định vật chất là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh. LêNin muốn nhấn mạnh rằng bằng những phương thức, nhận thức khác nhau con người có thể nhận thức được thế giới vật chật. Như vậy như vậy định nghĩa vật chất của LêNin đã bác bõ thuyết không thể biết, đã khắc phục được những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hìnhmáy móc về vật chất; đồng thời định nghĩa về vật chất của LêNin còn có ý nghĩa định hướng với khoa học cụ thể trong việc tiềm kiếm các dạng, các hình thức mới của vật thể trong thế giới.
Định nghĩa vật chất của LêNin cho phép xác định cái gì là vật chất trong xã hội, từ đó giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động, thuộc về phương thức sản xuất. Trên cơ sở ấy người ta có thể tìm ra những phương án tối ưu để vận động thúc đẩy xã hội phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ định nghĩa vật chất của LêNin là: Nếu vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người thì trong nhận thức và hành động thực tiễn cần phải xuất phát từ những điề kiện khách quan của thế giới bên ngoài, nhận thức thế giới khách quan đó, vận dụng những qui luật của nó để thúc đẩythực tiễn tiến lên.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vận động theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi nói chung (Điều này được ăngghen khẳng định). Như vậy CNDVBC thừa nhận sự tồn tại khách quan của vận động và vận động của vật chất là biến đổi nói chung không phụ thuộc vào tính chất, khuynh hướng hay kết quả. Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận độngvà thông qua sự vận động mà biểu hiện, bộc lộ sự tồn tại của mình. Do đó nhận thức sự vận động của sự vật cũng chính là nhận thức sự vật; muốn nhận thức được sự vật phải nhận thức nó trong quá trình vận động.
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình; Ăngghen đã phân chia vận động vật chất thành 5 hình thức cơ bản: Cơ hoc,Vật lý, hóa học, sinh học và xã hội. Các nguyên tắc làm cơ sở cho sự phân chia đó là:
1.Các hình thức vận động phải tương ứng với trình độ nhất định của tổ chức vật chất .
2.Giữa các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh; nghĩa là hình thức vận động cao nảy sinh trên cơ sở những hình thức vận động thấp;
3.Hình thức vận động cao có khác biệt về chất và không thể qui về những hình thức vận động thấp.
Quan niệm khoa học về hình thức vận động xã hội của vật chất chỉ có được nhờ phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử của Mác. Xã hội là một dạng vật chất đặc biệt trong đó nhân tố hoạt động là những con người có ý thức. Trong đời sống xã hội, các quá trình vật chất và quá trình tinh thần hoà quyện vào nhau, mặc dù ý thức với tư cách là thực tại tinh thần không độc lập với đời sống vật chất, với tồn tại xã hội. Do đó vận động xã hội không thể thực hiện được nếu thiếu mặt tinh thần trong hoạt động con người, nghĩa là vận động tư duy là một mắt khâu của vận động xã hội.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng vật chất luôn vận động nhưng đồng thời cũng thừa nhận có sự đứng im tương đối, không có hiện tượng đứng im tương đối thì không nhận thức được sự tồn tại của sự vật hiện tượng, nhưng CNDVBC cũng cho rằng đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc.
CNDVBC cũng khẳng định rằng đứng im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động trong một lúc chứ không phải đối với tất cả mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
Đứng im là biểu hiện trong một trạng thái vận động tức là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Do vậy, đứng im là tạm thời, thoáng qua và tương đối.
Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ vận đông:
Nếu vật chất luôn vận động và chuyển hoá - Tất yếu chúng ta phải xem xét sự vật trong trạng thái dộng, có như thế mới dự kiến được các khuynh hướng phát triển của sự vật hiện tượng. Vận động của vật chất là tự thân, là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng, giữa các bộ phận của chúng thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải hiểu được sự tác động qua lại giữa các bộ phận cấu trúc bên trong của SVHT, đồng thời dự kiến những tác động bên ngoài đến SVHT.
CNDVBC dựa trên những thành tựu khoa học và thực tiễn đã khẳng định rằng, không gian và thời gian là những hình thức tồn tại khách quan của vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu, sự tác động lẫn nhau. Thời gian cũng là hình thức tồn tại của vật chất xét về mật độ thời gian diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình.
Không gian và thời gian là tồn tại khách quan ở bên ngoài và độc lập với ý thức của con người. Không gian và thời gian là vĩnh viễn và vô tận. Trong thế giới chúng ta, không gian có ba chiều, thời gian chỉ có một chiều từ quá khứ đến tương lai. Không gian và thời gian là không gian và thời gian của vật chất vận động nên không gian và thời gian không phải bất biến mà tuỳ thuộc vào vận động và biến đổi của vật chát. Một tính chất của không gian bao giờ cũng liên quan đến một tính chất của thời gian tương ứng và do vậy, không gian và thời gian là một thực thể thống nhất không - thời gian và có số chiều là 4.
Ý nghĩa phương pháp luận rút ra khi nghiên cứu không gian và thời gian: Quá trình nhận thức SVHT phải gắn liền với điều kiện không gian và thời gian tồn tại của SVHT, phải tính đến quá khứ, hiện tại và tương lai phát triển của sự vật.
Quan niệm DVBC về sự thống nhất vật chất của thế giới giữ một vị trí quan trọng trong triết học MacLênin. Căn cứ vào đời sống thực tiễn và sự phát triển khoa học, CNDVBC chứng minh rằng, bản thân của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
- Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất.Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người
- Mọi bộ phận của thế giới điều có mối liên hệ vật chất thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật chất, quan hệ vật chất và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của TGVC
- TGVC tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không sinh ra và không mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Như đã trình bày ở trên, học thuyết MacLenin về vật chất, vận động, không gian, thời gian và về sự thống nhất vật chất của thế giới. Học thuyết đó đã góp phần xác lập thế giới quan duy vật khoa học và ý nghĩa của phương pháp luận to lớn trong nhận thức khoa học và hành động thực tiễn, cũng như trong cuộc đấu tranh chống những quan điểm duy tâm và tôn giáo về đời sống xã hội.
Nếu như TGVC với những thuộc tính và quy luật của nó không phụ thuộc và ý thức con người thì từ đó phải rút ra ý nghĩa phương pháp luận quan trọng là: Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, phải lấy hiện thực làm cơ sở cho mọi hoạt động của mình.
Mục đích, chủ trương mà chúng ta đề ra cho hoạt động thực tiễn không thể đơn thuần rút ra từ nguyện vọng chủ quan, mà phải rút ra từ hiện thực khách quan, phản ánh nhu cầu chín muồi và tất yếu của đời sống vật chất trong từng giai đoạn nhất định của lịch sử. Mục đích chủ trương mà chúng ta đề ra phải từ thế giới bên ngoài, hay nói cách khác, được ý đề ra thông qua việc phản ánh đúng đắn TGKQ. Chỉ có những mục tiêu chủ trương như vậy mới có khả năng được thực hiện. Ngược lại, nếu chỉ xuất phát từ ý chí, từ nguyện vọng chủ quan của mình, chúng ta sẽ rơi vào chủ nghĩ chủ quan, duy ý chí.
Trước đây trong một thời gian khá dài, chúng ta đã mắc sai lầm của bệnh chủ quan duy ý chí và nó đã gây tác hại nghiêm trọng cho xã hội. Những sai lầm này thể hiện tập trung trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế, khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan.
Chúng ta phải đấu tranh để khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí; đồng thời phải thấy rằng, bản chất tư tưởng tự nó không trực tiếp thay đổi gì trong hiện thực cả. Theo Mac, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất, cho nên muốn thực hiện tư tưởng, phải sử dụng lý luận thực tiễn, phải sử dụng những điều kiện, phương tiện vật chất thích hợp.
Hoàn cảnh vật chất đề ra cho con người những nhiệm vụ chín muồi phải giải quyết; đồng thời nó cũng làm nảy sinh những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó. Cho nên, những biện pháp thực tiễn mà con người dùng để cải tạo TGVC không phải là sự sáng tạo thuần tuý của ý thức, mà là dựa vào những gì đang có trong hiện thực. Quá trình đề ra biện pháp là quá trình tìm tòi, tập hợp, vận dụng những điều kiện, những quan hệ vật chất cụ thể. Ở đây biện pháp không chỉ là sử dụng phương tiện, công cụ vật chất do con người chế tạo từ những vật liệu của tự nhiên, mà còn bao gồm cả cách thức, phương pháp tổ chức trong quá trình sử dụng phương tiện và công cụ vật chất. Ngay những biện pháp, cách thức, tổ chức đó cũng phải được rút ra từ những quan hệ hiện thực, từ "bên ngoài" chứ không phải từ ý thức, ý muốn chủ quan.
Tóm lại TGVC tồn tại khách quan quan không phụ thuộc vào ý thức con người. Con người xuất phát từ thế giới làm căn cứ cho hoạt động có mục đích của mình. Con người càng phản ánh đầy đủ và đúng đắn TGKQ, thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả theo nhu cầu của mình.
Ý thức: Trong định nghĩa vật của mình, Lenin đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo lâp trường duy vậtbằng cách khẳng định vật chất là thực tại khách quan tồn tạỉơ ngoài ý thức và độc lập với ý thức của con người, ý thức chỉ là cái có sau, là cái phản ánh của vật chất.
Định nghĩa 1: Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới quan;
Định nghĩa 2: Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần baogồm những tư tưởng, tình cảm, những tâm trạng của con người, phản ánh các sự vật hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan ở những giai đọan lịch sử cụ thể.
Ý thức có nguồn gốc tự nhiên và xã hội. Bảnchất của ý thức chính là sự phản ánh các sự vật hiện tượng vào óc người một cách tích cực, nămg động và sáng tạo.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
-Vật chất là cái có trước, quyết định ý thức: vật chất là cái có trước, cái sinh ra ý thức, còn ý thức là cái có sau, do vật chất quy định. Ý thức bắt nguồn từ vật chất, là một thuộc tính của vật chất, là sự phản ánh của vật chất. Điều này được thể hiện từ nguồn gốc, bản chất của ý thức. thế giới vật chất tồn tại như thế nào thì ý thức của con người phản ánh như thế đó; thế giới vật chất luôn vận động biến đổi không ngừng dẫn đến ý thức con người cũng vận động phát triển theo.
- Ý thức có tính độc lập tương đối tác động trở lại thế giới vật chất. Sự tác động đó thể hiện 02 khuynh hướng:
1/ Ý thức tích cực, tiến bộ sẽ định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người, tác động vào hiện thực làm hiện thực phát triển;
2/ ý thức tiêu cực, lạc hậu, phản khoa học cũng định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người tác động vào hiện thực làm hiện thực vận động theo khuynh hướng đi xuống, tụt hậu.
Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, CNDVBC đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất. Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song ý thức có sự tác động trở lại vô cùng to lớn đối với vật chất. Trong quá trình hoạt động cụ thể của con người, chính trị, tư tưởng được hình thành từ những điều kiện vật chất, điều kiện kinh tế , song chính trị, tư tưởng cũng có tác dụng và và ảnh hưởng trở lại đối với sự phát triển của bản thân những điều kiện vật chất, điều kiện kinh tế ấy. Ý thức, tư tưởng có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm trên một mức độ nhất địnhsự biến đổi của những điều kiện vật chất. Điều đó được thể hiện ở chỗ: Để những khả năng khách quan, quy luật khách quanđược thực hiện và tác động phù hợp với lợi ích của xã hội, con người phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó và phải có ý chí đầy đủ để tổ chức hành động. Cho nên, ý thức, tư tưởng trở thành nhân tố quan trọng, có tác dụng quyết định làm cho con người hành động đúng hay sai, thành công hay thất bại khi thực hiện những khả năng khách quan nào đó.
Sự lạc hậu của ý thức, tư tưởng, của tư duy là một trong những nguyên nhân làm hạn chế đáng kể thành quả xây dựng CNXH ở nước ta. Do vậy, để thực hiện thắng lợi những mục tiêu do đại hội lần thứ VI vạch ra, chúng ta phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy.
Nói đến vai trò của ý thức về thực chất là nói tới vai trò của con người, bởi ý thức không thể tự nó thay đổi hiện thực. ý thức chỉ có tác dụng đối với hiện tại khi nó được thực hiện trong thực tiễn, nghĩa là trở thành ý thức " trong hành động", trở thành mặt chủ quan của chính hoạt động thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn của con người là hoạt động có ý thức.
Trên cơ sở những tri thức cần thiết về đối tượng, về hệ thống các quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu, phương hướng hoạt động, xác định các khả năng thực tế và chọn lựa phương pháp thực hiện mục tiêu có hiệu quả nhất. như vậy, tác dụng của ý thức là ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động của con người và qua đó, tác động trở lại thực tại khách quan.
Trong nhận thức và hành động, con người phải dựa vào điều kiện khách quan, lấy khách quan làm cơ sở, làm phương tiện cho hoạt động có mục đích của mình và phải biết nhận thức và vận dụng quy luật khách quan một cách chủ động sáng tạo, với ý chí không ngừng tấn công cải tạo hiện thực theo yêu cầu tiến bộ xã hội. Tinh thần cách mạng và khoa học trong việc vận dụng mối quan hệ vật chất và ý thức đòi hỏi chúng ta phải chống lại thái độ tiêu cực, thụ động, vin vào điều kiện khách quan và ngồi chờ, không dám hành động; đồng thời phải chống lại chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí mà biểu hiện là hành động bất chấp quy luật, điều kiện cụ thể. Trong hoạt động của con người, nhân tố vật chất và nhân tố tinh thần có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại thành một thể thống nhất chặt chẽ. Sức mạnh ý chí của con người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất, thoát ly hiện thực khách quan mà biết dựa vào điều kiện vật chất đã có, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan. Xuất phát từ ý nghĩa đó, Đảng ta luôn xác định: Một trong những điều kiện cơ bản để đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của mình là phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Tóm lại: Nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức giúp chúng ta trong nhận thức cũng như trong chỉ đạo thực tiễn, việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách cần phải xuất phát từ thực tế, cần phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; đồng thời phải nâng cao tính năng động chủ quan.
Xuất phát từ thực tế: Điều kiện, hoàn cảnh, khả năng cụ thể.
Nâng cao tính năng động chủ quan là phải nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị và có lòng nhiệt tình cách mạng. Đó chính là Đức - Tài, Hồng - Chuyên./.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com