BREATH AGAIN
────────────────────────────────────────────────────────
"Ân điển Thần ban
Biến thành nguyền rủa"
────────────────────────────────────────────────────────
Lục địa Caratland, năm xxx
Thần thánh ban chúc phúc xuống nhân gian, đổi lại, con người thờ phụng Thần. Trong số những nghi thức thờ phụng, những điệu múa dâng Thần là hình thức tinh túy, thánh khiết nhất. Chính vì điều ấy mà những vũ sư được lựa chọn thực hiện những điệu múa dâng Thần dần được xem trọng và có địa vị cao hơn người thường. Địa vị càng cao, điệu múa dâng Thần càng thanh thoát, diệu kỳ; chúc phúc của Thần giáng xuống nhân gian càng màu nhiệm, vượt xa hiểu biết của phàm nhân.
Wonwoo cũng là một trong số các Thần được thờ phụng - dưới cương vị Thần Thời gian và Ký ức. Tuy nhiên, Ngài giữ địa vị cao hơn rất nhiều, hay chính xác mà nói là tất thảy các Thần. Thân là một thực thể nguyên thủy đại diện cho sự vĩnh hằng, Wonwoo được phàm nhân tôn sùng là vị thần khởi nguyên của vạn vật.
Mỗi một vị thần được thờ phụng đều có thần chức của riêng mình. Là Thần Thời gian và Ký ức, Wonwoo đi khắp lục địa thu thập và ghi lại từng khoảnh khắc vàng son huy hoàng, từng sự thật vĩnh cửu chẳng hề phai mờ bất kể thời gian. Cốt yếu là để lưu giữ những thời khắc luôn có thể trượt qua kẽ tay chỉ trong tích tắc, từ đó tập hợp và hình thành nên thư viện ký ức của riêng Ngài.
Cũng vì thần chức ấy mà trong một lần du ngoạn, Wonwoo vô tình gặp được Soonyoung. Mà thực ra, lần gặp gỡ đầu tiên này nhận thức chỉ từ một phía Wonwoo mà thôi. Lúc ấy, Soonyoung chẳng thể nào biết được có một vị Thần đang quan sát mình. Người thường cũng có thể cảm nhận sự hiện diện của thần thánh, nhưng số lượng người có khả năng này thật sự quá thưa thớt. Cũng có một số vũ sư theo trường phái Hóa thân có thể kết nối với Thần trong lúc thực hiện điệu nhảy dâng Thần, nhưng số lượng vũ sư có thể làm vậy cũng cực kỳ thưa thớt.
Để tiện cho việc quan sát và ghi lại những khoảnh khắc dễ dàng trôi đi theo thời gian, Ngài luôn trong trạng thái Thần thể của mình - một giọt sương sớm có thể vương lại ở bất cứ nơi đâu. Một khi trong quá trình ghi lại mọi thứ, Ngài tuyệt nhiên sẽ không thay đổi Thần thể.
Vào lúc đó, thú nhân Hổ Soonyoung - một thiếu niên tộc Hổ trắng, chân trần giẫm lên thảm cỏ xanh mướt của khu rừng nằm trong địa phận Hổ tộc, đang đứng trong tư thế chuẩn bị cho điệu múa đầu tiên. Từ tư thế chuẩn bị, Wonwoo đoán thiếu niên này đang tập dượt cho một điệu múa dâng Thần, và khả năng cực kỳ cao đây là điệu múa dâng Thần đầu tiên của thiếu niên.
Những điệu múa dâng Thần, Ngài đã nhìn, đã trải qua nhiều, quá nhiều; đến mức chẳng thể nào đếm nổi số lần trong hàng chục ngàn năm Ngài tồn tại. Từ những điệu múa dâng lên cho chính Ngài, hoặc cho những vị Thần được thờ phụng khác. Trong suốt dòng chảy thời gian, những điệu múa dâng Thần vẫn luôn là biểu trưng cho sự mềm mại, tinh tế như dòng nước chảy, như dải lụa trôi, như làn gió lướt khẽ. Nhưng đối với Ngài, khi đã xem quá nhiều, điệu múa dâng Thần dẫu có đa dạng phong cách đi chăng nữa cũng đều như nhau cả thôi. Đều đầy luật lệ cứng nhắc.
Những vũ sư đã và đang thực hiện những điệu nhảy dâng Thần kia, trong mắt Ngài, họ chỉ là những bản sao hoàn hảo của những bức tượng thạch cao được dựng trong điện thờ của Ngài. Họ cứng nhắc, vô hồn, trống rỗng và không có chút sinh khí nào. Trong mắt Ngài, những bản sao ấy trông thật xám xịt và chịu tàn phá nặng nề - mục ruỗng và vụn vỡ từ bên trong; đối ngược với những bức tượng thật luôn giữ được màu trắng sạch sẽ của thạch cao và chẳng hề bị ảnh hưởng hay tác động bởi thời gian. Sự khác biệt duy nhất giữa họ và những vật vô tri ấy là thân nhiệt ấm áp và dòng máu tươi chảy dưới lớp da thịt. Hơn nữa, chỉ cần một vật sắc nhọn lướt nhẹ qua thôi, làn da họ sẽ vỡ tan, và sự sống của họ sẽ tuôn trào, rồi biến mất. Đơn giản và nhẹ nhàng như vậy đấy.
máu. Máu. MÁU. Dòng sinh mệnh ấm áp, đỏ tươi rực rỡ, và ngập tràn sức sống. Tưởng tượng kéo Ngài về lại quá khứ hàng chục ngàn năm trước, khi các sinh loài tiến hóa bắt đầu có cho loài của mình nhưng nghi lễ tế Thần đầu tiên. Ngài dường như về lại dưới Thần điện cổ xưa nay chỉ còn là một phế tích đã bị hủy diệt cùng với chủ nhân của nó - vị Thần Khát máu. Khor'gath - tên vị Thần khát máu đó - đã từng là vị thần mà tộc Orc Huyết Nguyện thờ phụng. Trong thời kỳ nguyên thủy ấy, Khor'gath được thờ phụng bởi bản chất của sự "khát máu" không chỉ đơn thuần là sự cuồng bạo. Mà đó còn là một tín ngưỡng sâu sắc của những sinh vật sống và tồn tại bằng cách chiến đấu. Tại thời điểm đó, kẻ mạnh là kẻ sống sót. Mà muốn sống thì phải chiến đấu, có vậy thôi. Nếu không những khoảnh khắc trong thời đại này mà Wonwoo thu thập được đã không chỉ về những cuộc chiến.
Đối với tộc Orc Huyết Nguyện, sự sống là một vòng tuần hoàn của bạo lực và tái sinh, và nó được nuôi dưỡng bởi nguồn sinh lực mạnh mẽ nhất: máu. Chúng xem máu kẻ thù là một lễ vật dâng lên Thần, một cách để thu thập sức mạnh. Tuy nhiên, với Huyết Nguyện Tộc mà nói, sự tôn kính cao nhất lại chính là việc trả lại dòng máu mạnh mẽ và quý giá nhất - máu của chính mình - về cho vòng tuần hoàn đó. Đối với một chiến binh Huyết Nguyện, cái chết trên chiến trường không phải là thất bại, mà là việc hoàn thành một sứ mệnh vinh quang.
Và tế đàn mà ký ức kéo Wonwoo trở về cũng chính là chiến trường của những Orc Huyết Nguyện cuối cùng. Tộc Huyết Nguyện không có quan tế lễ, chỉ có những kẻ sùng đạo nhất. Và những chiến binh sùng đạo nhất của Huyết Nguyện Tộc không phải là những kẻ sống sót lâu nhất, mà là những kẻ thực hiện được nghi thức cuối cùng. Nghi lễ dâng hiến tối cao của chúng được gọi là Lễ Tế Cuối Cùng - cũng chính là tên tế đàn của Khor'gath - vị Thần Khát máu mà chúng thờ phụng. Sau một trận chiến vĩ đại, những chiến binh được kính trọng nhất sẽ tiến lên, không phải với sự sợ hãi mà với sự phấn khích tột độ. Chúng sẽ thực hiện một điệu nhảy cuồng loạn, bao quanh bởi máu kẻ thù, rồi dùng chính vũ khí của mình để thực hiện nghi thức dâng hiến cuối cùng. Chúng không xem đây là cái chết, mà là một sự trở về vinh quang với cội nguồn sức mạnh, đảm bảo cho sự cai trị của Thần và sức mạnh của bộ tộc cho nhiều thế hệ sau. Chỉ tiếc là, giờ dây đã không còn Orc của tộc Huyết Nguyện để tiếp nối nghi thức nữa.
Theo nghi lễ diễn ra, trên người kẻ hiến tế, những dấu vết ấy dần thành hình, trở thành những vết nứt vỡ tươi đẹp. Giống như một bức tượng đá, trên thân hình kẻ hiến tế sẽ dần trải dài những vết "rạn nứt" như tơ nhện, sâu có cạn có. Và rồi sinh mệnh cùng linh hồn của kẻ hiến tế sẽ trôi ra theo từng vết nứt vỡ sống động. Đến điểm cuối, lúc mà ký ức của kẻ hiến tế hoàn toàn quy thuận về dưới tay Ngài, hơi ấm sẽ như làn khói dần rời khỏi thân thể phàm trần, thay thế vào đó là cái lạnh lẽo như đá cẩm thạch. Sắc đỏ tươi rực rỡ cũng sẽ tàn phai, chỉ còn lại những vết nứt hoen ố xỉn màu trên thân hình kẻ hiến tế. Mỗi một kẻ bị hiến tế sẽ từ một thể xác tràn đầy sinh lực, tràn ngập sinh cơ dần trở thành những bức tượng đá xám xịt, ảm đạm, bởi vì họ đã dâng hiến chính bản thể của mình cho việc tồn tại vĩnh hằng dưới sự cai quản của Thần. Máu và thân xác quay lại vòng tuần hoàn của vị Thần Khát máu chúng thờ phụng, linh hồn chúng đi theo Thần Chết và ký ức thì quy thuận về với Ngài.
Nhưng đó đã là chuyện của một thời đại đã cũ. Là chuyện của rất, rất lâu về trước rồi. Cùng với sự hủy diệt của thần Khát máu, sự tồn tại của tộc Orc Huyết Nguyện cũng dần biến mất khỏi thế gian, chỉ trừ lại những ghi chép về chúng của Ngài.
Khi ký ức rời đi, Ngài lại trở về với thực tại - nơi những vũ sư đang biểu diễn những điệu múa dâng Thần cứng nhắc như rối gỗ, tựa như có ai đó đang giật dây điều khiển họ nhảy múa. Dù phong cách có thay đổi đến đâu đi nữa, những điệu múa dâng Thần đều rất hoàn hảo, thậm chí quá hoàn hảo, đến mức Thần không hề thấy được sức sống, sinh cơ toát ra từ những điệu múa đó. Tất cả chỉ là những chuyển động lặp đi lặp lại, vô hồn như những bản sao được phục dựng lại của một bức tranh - chỉ có hai màu trắng đen xen lẫn với nhau rồi lại tách ra khỏi nhau - từ một cuốn sách cũ. Ngài thậm chí còn nghe được cả tiếng cót két của những khớp nối gỗ và tiếng sột soạt của thạch cao mỗi khi một tư thế thay đổi, những âm thanh của cái chết. Những vũ điệu dâng Thần đó, với Ngài, chỉ là một thước phim đã quá cũ.
Lại là một điệu nhảy dâng Thần sao...
Hiện giờ đang trong dáng hình một giọt sương vương trên phiến lá gần đó, nên dù không muốn, Ngài vẫn giữ nguyên Thần thể hiện tại của mình, để tránh xao động hoặc tệ hơn, phá hủy bất cứ điều gì chuẩn bị xảy ra. Nếu không như thường lệ trước những điệu múa dâng Thần, Ngài đã chẳng buồn nâng mắt nhìn. Thêm nữa, sau đó là chỉ cần một cái phẩy tay từ Thần, mọi thứ sẽ được xử lý. Tiếng đàn nhạc, tiếng hò reo - nói chung là mọi thứ âm thanh mà Thần có thể đoán được - phai dần thành những lời thì thầm thoảng qua tai Ngài.
Giọt sương vương trên phiến lá khẽ lay động theo làn gió, ấy là cái thở dài khe khẽ của Thần. Thôi vậy, Ngài quyết định. Lại xem một lần điệu múa dâng Thần cũng chẳng có hại gì, dù sao thì Ngài đã xem qua quá nhiều lần, và Ngài vẫn có thể biến điệu nhảy dâng Thần bản luyện tập này thành âm thanh nền cho những suy nghĩ của Ngài, như bao lần trước.
Quyết định của Ngài chẳng làm xao động không - thời gian. Dòng chảy sự sống vẫn trải rộng trước mắt Ngày, mỗi sợi chỉ màu sắc là một sinh mệnh, mỗi nút thắt là một ký ức. Ngài nhìn thấy sự tàn lụi của một ngôi sao ở tận cùng của chốn hư không; cùng lúc lúc đó, Ngài cảm nhận được rung động nho nhỏ từ cái đập cánh đầu tiên của một con bướm vừa phá kén. Sự hoàn hảo đầy kỷ luật, đậm chất nghi thức của các vũ công đến từ vô vàn đền thờ hiện ra trước mắt Ngài, những chuyển động duyên dáng của họ là một họa tiết lặp đi lặp lại trên tấm vải thời gian, một khung cảnh vĩnh hằng mà Ngài đã chứng kiến hàng trăm hàng ngàn lần.
Tất cả đều hoàn hảo. Nhưng càng như vậy, tất cả càng trống rỗng.
Ngay sau lúc Ngài quyết định, thiếu niên kia cuối cùng cũng có cử động. Đúng như Ngài đoán, đây quả thật là điệu múa dâng Thần đầu tiên của thiếu niên.
Nhìn mà xem. ngay từ dáng đứng chuẩn bị đã khác rồi.
Quá dễ dàng nhìn ra những điểm khác biệt. Những vũ công đã trải qua mài giũa của cơ man điệu múa dâng Thần thường đứng với cột sống thẳng tuyệt đối, gần như cứng đờ. Họ giữ vai thẳng và cằm hơi nâng lên, một cử chỉ tinh tế nhưng đầy tôn kính đối với vị Thần mà họ thờ phụng. Tư thế này là cách họ mở rộng cơ thể như một vật chứa trong sạch, một bộ khung trống rỗng, sẵn sàng tiếp nhận và dẫn truyền thần lực. Mọi cử động đều tuân theo sự kiểm soát cao độ: Không một ngón tay nào run rẩy; đôi chân đặt vững chãi, ổn định, mọi chuyển động luôn đầy chủ đích và không một sải chân nào là thừa thãi. Ánh mắt họ thường cúi xuống hoặc hướng về một điểm xa xăm vô định, biểu cảm trên gương mặt hoàn toàn tách rời khỏi cảm xúc cá nhân. Những vũ công đã có nhiều kinh nghiệm, họ không biểu diễn cho bản thân - mà cho một mục đích cao hơn, thiêng liêng hơn - nghi thức dâng Thần.
Trên thực tế, thiếu niên Hổ tộc đang cảm nhận bài nhạc được sử dụng cho điệu múa dâng Thần mà em sẽ biểu diễn. Bài nhạc nói về nỗi sợ, nhưng với thiếu niên tộc Hổ ấy, thứ cảm xúc em hiện đang cảm nhận không thể nào gộp chung trong từ "sợ hãi" đơn giản. Và càng không đơn giản để thể hiện qua các chuyển động của điệu múa dâng Thần - thứ ngôn ngữ mà em chưa từng tiếp xúc.
Nỗi sợ hãi thiếu niên đang cảm nhận còn phức tạp hơn cả thế. Tộc Hổ của thiếu niên không có nhiều vũ sư có thể kết nối với Thần linh, lại thêm cả tộc cũng luôn chú trọng việc tế lễ Thần, nên với thiếu niên, Thần thánh luôn là một tồn tại huyền bí và xa xăm. Hơn thế nữa, em sợ hãi chính thứ cảm xúc lạ lẫm mình đang cảm nhận. Nó cuồn cuộn và áp đảo đến mức thân thể thiếu niên không thể không trở thành thứ ngôn ngữ để truyền tải thông điệp đến với Thần linh. Cảm xúc trong em bây giờ rất khó miêu tả, như nỗi lo lắng, nỗi sợ hãi trộn lẫn với choáng ngợp, làm em khó thở.
Thứ cảm xúc chưa từng được biết tới, được cảm nhận thể hiện quá rõ ràng qua hình thể thiếu niên. Từng thớ cơ trên cơ thể thiếu niên đều đang gồng mình trong một cuộc tranh đấu đầy rẫy khó khăn, hóc búa trong thầm lặng, âm thầm đến mức tuyệt vọng trong việc chống lại chính sự thiếu kinh nghiệm của bản thân. Đôi chân thiếu niên cũng dường như chỉ vừa đủ để chống đỡ cơ thể; chúng gồng lên căng cứng, các thớ cơ ở đùi và bắp chân siết chặt lại như thể đang chống chọi với một cơn sóng vô hình. Một cơn chấn động nhỏ, nhỏ đến mức khó mà nhận ra bằng mắt thường, chạy dọc cơ thể thiếu niên. Cơn chấn động ấy chính là dòng năng lượng thô sơ, chưa được dẫn lối, đang sục sôi, cuộn trào bên trong cơ thể thiếu niên - như một con thú hoang chưa được thuần hóa đang gào thét, chực chờ xé toạc cơ thể phàm trần của em để thoát ra ngoài. Nó bây giờ hoàn toàn là thứ mà lúc này em hoàn toàn không biết cách điều khiển, chỉ có thể bị nó dẫn dắt.
Vùng cơ trung tâm của thiếu niên tộc Hổ cũng không thể giữ em đứng thẳng một cách dễ dàng. Nó như đang trong một cơn co thắt dữ dội - một biểu hiện vô thức của cơ thể khi lo lắng và sợ hãi, khiến cho cơ bụng và cơ lưng của thiếu niên phải gồng lên để duy trì một tư thế mà chúng chưa bao giờ được học để thực hiện trong một khoảng thời gian kéo dài. Đó là thứ sức mạnh bản năng và thô ráp của em, đang cố gắng bắt chước thứ kỷ luật và kỹ thuật được những vũ sư khác tôi luyện qua năm tháng, mà cũng có lẽ là qua cả đời. Đôi vai thiếu niên là điều đáng chú ý nhất; không hề thả lỏng, cơ vai siết chặt và đơ cứng, hơi rụt lại gần như theo bản năng. Những đường gân ở cổ nổi lên, không phải từ một cử động mạnh mẽ; mà từ một nỗ lực thầm lặng, gần như đau đớn để giữ cho cơ thể bất động. Cánh tay và bàn tay của thiếu niên, đáng lẽ phải bày ra được vẻ mềm mại và uyển chuyển thì lại cứng đờ, gân xanh nổi đầy trên cổ tay. Cứ vài giây một, bàn tay em lại giật nhẹ, các ngón tay siết chặt thành nửa nắm đấm trước khi buộc phải thả lỏng.
Chính vì vậy mà đoạn ngắn giai điệu mà thiếu niên đang tập luyện trông cụt ngủn và không có trật tự - nó thậm chí còn không thể coi là một chuỗi động tác nữa là một điệu múa dâng Thần.
Thật may mắn, hay Thật đáng buồn, Wonwoo cũng không biết diễn tả sao, khi những động tác vụng về chẳng chút trật tự ấy của thiếu niên kia lại thu hút sự chú ý của Thần.
Ngay lúc này, Ngài nhận ra thiếu niên tộc Hổ này không chỉ đơn thuần là cảm nhận âm nhạc; em cảm nhận nó như một lực hút vật lý. Tiếng bass sâu, dồn dập như tiếng trống đi săn như thể đặt một thứ áp lực vô hình, một nỗi lo lắng âm ỉ lên lồng ngực thiếu niên, khiến tim em đập loạn nhịp. Ngoài ra, những âm sắc bén nhọn như kim loại truyền thứ cảm giác hoảng loạn chạy dọc các mạch máu em, như những tia chớp vô thanh vô tức làm tứ chi thiếu niên co giật một cách không bình thường.
Thiếu niên không hề di chuyển theo nhịp điệu; em co mình lại theo nhịp kinh hoàng đang dâng lên trong lòng. Âm nhạc không chỉ là thứ âm thanh rộn rã bên ngoài; nó là bản nhạc nội tâm đầy hỗn loạn của chính linh hồn em. Có thể nhìn ra được qua những động tác lộn xộn của thiếu niên, em không nhớ bất kỳ bước nhảy nào. Các động tác không phải là một chuỗi hành động đáng lẽ ra đã được ghi nhớ đến mức thuộc lòng, mà là một loạt phản ứng tuyệt vọng khi bị cuốn vào, bị kéo theo thứ âm nhạc đang được cảm nhận và biểu diễn. Khi bài hát yêu cầu một chuyển động sắc bén, dứt khoát, thiếu niên trông không giống đang cắt không khí bằng tay; em trông giống đang cố sức xé tung bức tường vô hình được dựng nên bởi nỗi sợ hãi với những ngón tay run rẩy hơn. Khi nhạc dừng lại trong một khoảng lặng nặng nề, cơ thể thiếu niên không thể giữ một tư thế duyên dáng như những vũ sư dày dặn kinh nghiệm khác; thiếu niên chỉ đơn giản là ngã khuỵu xuống dưới sức nặng của cảm xúc, các cơ bắp run lên vì nỗ lực truyền đạt qua thân thể của bản thân.
Thiếu niên dường như đang trong cơn tranh giành quyền kiểm soát thân thể mình với âm nhạc. Và nó đang diễn ra căng thẳng hết mức. Âm nhạc và cảm xúc đang kéo cơ thể em như một con rối, buộc nó phải thú nhận một sự thật mà em không bao giờ có thể nói ra. Nhưng đổi ngược lại, thiếu niên cũng dùng chúng để chủ động bày tỏ thứ cảm xúc xa lạ, bức bối đang chất đầy trong lòng mà không thể nói ra bằng lời.
Có thể thiếu niên không biết, nhưng Wonwoo, Ngài biết rõ chứ. Thiếu niên không chọn điệu nhạc này để nhảy điệu múa dâng Thần, mà chính bản nhạc này mới là lực lượng đã lựa chọn thiếu niên. Là một vũ công chưa qua đào tạo - thiếu niên không chỉ đang thể hiện âm nhạc và điệu múa dâng Thần một cách đơn thuần - em đang trở thành một hiện thân sống động của nó, và điệu nhảy trở thành một lời thú tội.
Tựa như viên ngọc quý chưa qua mài giũa nhưng có sức thu hút riêng biệt, những động tác ngây ngô của thiếu niên lại chính là thứ tách biệt em khỏi những vũ sư dày dặn kinh nghiệm khác. Trong khi vũ công chuyên nghiệp kiểm soát sự căng thẳng của mình, cơ thể em lại là một bức vải trắng chờ đợi vẽ lên chính cảm giác căng thẳng đó. Tư thế của những vũ sư chuyên nghiệp có thể hoàn hảo, nhưng chúng cũng là một chiếc mặt nạ, che giấu đi những thứ đáng lẽ nên được dâng lên Thần với sự thành kính thánh khiết. Tư thế của thiếu niên Hổ tộc thì ngược lại: chúng không hoàn hảo, nhưng nó hoàn toàn chân thật, không chút giấu diếm. Các chuyển động của em có thể vụng về và thô ráp, nhưng chúng là sự phản chiếu trực tiếp trạng thái nội tâm của em, của những gì em cảm nhận.
Chẳng có gì tồn tại, chỉ có sự thật trần trụi là còn lại. Sự thuần khiết của linh hồn em đang tỏa sáng. Và tinh túy của viên ngọc quý chưa được mài giũa cũng nằm ở đó, ở những xúc cảm nguyên sơ ấy. Nó khiến điệu múa của em tràn trề sức sống, nhưng hơn nữa, chúng làm Thần sống cùng điệu múa, trực tiếp thưởng thức sự sống từ nó chứ không chỉ ngồi xem thông thường. Đại dương nhận thức trải rộng bỗng chốc thu hẹp lại tại một điểm duy nhất. Những mảnh khoảnh khắc khác đang diễn ra, vốn từng rất rõ ràng, trở thành một tiếng ngân nga xa xăm, mờ nhạt còn chẳng thể chạm đến tai Ngài. Sự tĩnh lặng vĩnh hằng của Ngài bị phá vỡ bởi một sự chú ý khẩn thiết mà Ngài đã không cảm thấy trong hàng ngàn thiên niên kỷ. Ý thức của Ngài, đã từng một vùng cảnh quan rộng lớn và tĩnh lặng, ngay trong lúc này bỗng chốc ngập tràn năng lượng thô ráp của một phàm nhân. Giữa những dòng năng lượng hỗn loạn ấy, Ngài có thể thấy được cơ man những dải năng lượng xanh lục căng tràn nhựa sống đan xen với ánh vàng kim tỏa ra từ linh hồn em.
Vẫn giữ nguyên Thần thể là giọt sương, Ngài nhìn thiếu niên ngã sụp xuống sau khi kết thúc tập luyện. Tiếp nhận quá nhiều loại cảm xúc mạnh mẽ, dồn dập cùng một lúc khiến thiếu niên không chịu nổi mà nôn ra, khuôn mặt cũng trắng bợt đi trông thấy. Tuy vậy, đôi mắt thiếu niên thế mà lại trở nên lấp lánh, và nụ cười trên đôi môi lại sáng bừng. Như thể những vì sao sáng nhất trên bầu trời kia tình nguyện sa vào đôi mắt em, và Mặt trời cũng vì lưu luyến mà để lại nụ hôn của vệt nắng vàng trên bờ môi nhợt nhạt. Ngài cứ vậy, nhìn em dần lấy lại sức lực, tập tễnh trở về.
Chỉ có một khác biệt, sự khác biệt duy nhất một mình Ngài nhận thức được. Ngài không muốn thời khắc vừa rồi trôi đi, mặc cho hậu quả là Ngài có thể bỏ qua rất nhiều khoảnh khắc khác, mới mẻ hơn sắp xuất hiện. Ngài nhận thức được chứ, sự ích kỷ của bản thân. Sự xuất hiện của một siêu tân tinh giữa vũ trụ vô tận, sự sụp đổ của một đế chế hay là những khoảnh khắc khác đều bị Ngài bỏ qua.
Siêu tân tinh bùng nổ là một trong những khoảnh khắc tráng lệ nhất của vũ trụ. Ở một vùng không gian xa xôi giữa vũ trụ, có lẽ một ngôi sao khổng lồ đã và đang dần đi đến cuối đời. Nó bắt đầu nén bản thân lại thành một người sao lùn trắng, rồi bùng nổ với một sức mạnh phi thường, xé toạc màn đêm và nhuộm đỏ cả một dải thiên hà. Sóng xung kích của vụ nổ lan truyền qua khoảng không, nuốt chửng ánh sáng và bụi vũ trụ. Trong vô vàn thiên niên kỷ, đây là một trong những cảnh tượng ngoạn mục nhất mà Ngài từng thấy, một cái chết đầy huy hoàng. Với một phàm nhân, ánh sáng của nó là đủ để khiến họ quỳ gối trước sự vĩ đại của vũ trụ. Nhưng trong tâm trí Ngài, vụ nổ ánh sáng đó chỉ là một ký ức quen thuộc. Nó chỉ là một tiếng gầm vang dội từ nơi xa xăm, một vụ nổ ánh sáng đã lặp lại hàng tỷ lần. Vẻ đẹp của nó là sự hoàn hảo đã được đoán trước, và vì thế, nó rồi sẽ dần trở nên vô vị qua thời gian.
Hay như sự sụp đổ của một đế chế. Tại một nơi nào đó, một đế chế hùng mạnh đang sụp đổ. Những bức tường thành kiên cố bị phá vỡ, và tiếng gầm rú của chiến tranh xé nát không khí. Ngài cảm nhận được vị máu mặn chát của hàng triệu sinh linh, tiếng kèn đồng vang lên trong thất bại, và tiếng kêu tuyệt vọng của kẻ cầm quyền cuối cùng. Đó là một bản giao hưởng của sự hủy diệt, một sự kiện mà lẽ ra Ngài sẽ lưu giữ trong tâm trí mãi mãi. Thế nhưng, trong nhận thức của Ngài, sự hỗn loạn ấy chỉ là một ký ức đã quá cũ. Nó giống như một bài ca lặp đi lặp lại của lịch sử, một sự kiện đã được chứng kiến hàng ngàn lần ở các nền văn minh của các giống loài khác.
Ngài bỏ qua tất cả những khoảnh khắc đó, vì chúng chỉ là những dấu vết đã quá quen thuộc trong dòng chảy vô tận của thời gian. Ký ức về một người duy nhất phá bỏ tất cả sự tĩnh lặng của Ngài thế mà lại trở nên quý giá hơn mọi ký ức về sự hoàn hảo nào khác. Đó là sự ích kỷ tiềm tàng của cá nhân mà Ngài đã chọn để thỏa mãn.
Ngài quay ngược ký ức, tập trung nhìn ngắm, xem xét kỹ càng từng động tác của thiếu niên qua từng giây phút được Ngài làm chậm lại. Bằng cách này, sự chú ý của Ngài chỉ tập trung vào những ngón tay run rẩy của thiếu niên - hành động biểu thị của sự choáng váng, mất phương hướng và cảm giác tuyệt vọng ư ám, nặng nề. Đây là hành động xuất phát từ bản năng - tự nhiên và thuần túy - hơn hết là gần như không có khả năng "diễn" lại cảm giác đó. Trong khoảnh khắc bị Ngài giữ lại, bản năng và ý chí của thiếu niên cùng làm chủ cơ thể, khiến sự run rẩy đó trở nên chân thật đến không thể chối cãi. Hai bàn tay khum lại, tạo thành một chiếc cốc trống rỗng. Thiếu niên đưa nó lên môi, nhưng không có giọt chất lỏng nào rơi xuống. Đó là một nghi thức đầy ám ảnh và có chủ đích: cúi đầu để đầu hàng, nhưng ngả đầu ra sau để chấp nhận. Dù chiếc cốc chỉ là ảo ảnh, nhưng những cảm xúc em "uống" lại vô cùng chân thật. Nét mặt em thoáng qua một cơn đau đớn, rồi được thay thế bằng sự giải thoát, và cuối cùng là sự chấp nhận tuyệt đối. Động tác đó là một lời thú tội không lời, một sự thừa nhận rằng nỗi sợ hãi và những sự hoài nghi đang giày vò em, rằng em đang phải nuốt chửng chúng để chúng không thể nuốt chửng em.
Ngài nếm được cảm giác đó - thứ độc dược ẩn dụ được thiếu niên "uống". Nó không phải là vị tanh nồng của máu, cũng chẳng phải vị ngọt của chiến thắng. Đó là... vị đắng chát của nỗi sợ hãi, thứ đã ngấm sâu vào từng thớ cơ và đốt cháy cổ họng thiếu niên. Ngài nếm được vị chua loét của sự nghi ngờ và vị mằn mặn của sự tuyệt vọng. Một thứ độc dược không thể miêu tả thành lời, một thứ mà Ngài chưa từng nếm trải, nó hoàn toàn xa lạ với sự trống rỗng và vô vị trong nhận thức vĩnh hằng của Ngài. Tuy nhiên, cái vị đó không chỉ tồn tại trong khoảnh khắc vừa. Nó dường như vẫn còn bám lấy Ngài, len lỏi vào mọi ngóc ngách tâm thức và để lại một dư vị ghê rợn, một lời nhắc nhở rằng nỗi sợ hãi và những nghi ngờ không thể bị xóa bỏ hoàn toàn.
Quả là một dư vị ma mị, không phải sao?
Khác biệt tạo ra sự hiếu kỳ. Với lại, chỉ qua một buổi tập luyện đứt quãng, thiếu niên đã mang đến cho Ngài một thứ cảm giác tuyệt diệu như vậy. Điều này làm Ngài muốn biết thêm nhiều hơn về thiếu niên, dẫu có phải bỏ qua thông tin của một ai đó. Đâu có mất gì, dẫu sao những vũ công khác, với sự hoàn hảo quen thuộc, giờ đây chỉ gợi lên một cảm giác chán nản ngày càng lớn. Họ không còn là nguồn cảm hứng, mà chỉ là những tiếng vọng nhàm chán của một thứ mà Ngài từng trân trọng. Mọi âm thanh của thế giới đã trở nên mờ nhạt, và trong sự tĩnh lặng đó, chỉ có một ký ức sống động không ngừng lặp lại.
Cũng chính tại lúc đó mà Ngài, sau vô số lần tua lại điệu nhảy độc nhất đó, nhận ra rằng khoảnh khắc ấy, mặc cho sống động và chân thật đến thế nào, cũng chỉ là một khoảnh khắc thoáng qua của phàm nhân và quá dễ dàng bị chôn vùi trong dòng chảy lịch sử. Ngài đã không còn là một người quan sát thụ động của lịch sử nữa; Ngài là một nhân chứng cho sự mất mát sắp xảy đến. Vẻ đẹp và sự thật trần trụi trong màn trình diễn của em là thứ chỉ tồn tại trong chốc lát, định mệnh sẽ bị cuốn trôi bởi dòng chảy của thời gian.
Đối với Ngài, thời gian trước giờ là một dòng sông vĩnh hằng chảy trôi chẳng có điểm cuối, một tấm thảm rộng lớn của những khoảnh khắc mà Ngài chỉ đơn thuần là người quan sát. Nhưng giờ đây, quyền năng lớn nhất của Ngài lại được dùng cho một mục đích duy nhất, và nó thì đầy ích kỷ. Ngài không còn đi theo dòng chảy vô tận của con sông; thay vào đó, Ngài quay ngược, làm chậm điệu nhảy của thiếu niên, kéo giãn nó ra thành năm tháng để tỉ mỉ phân tích từng ngón tay run rẩy, từng tiếng thở dốc tuyệt vọng. Không chỉ thế, Ngài còn quan sát những khoảnh khắc nhỏ bé mà trước đây Ngài cho là vô nghĩa. Ngài dõi theo từng bước chân của thiếu niên, không phải với dáng vẻ hoàn hảo của một vũ công được mài giũa tỉ mỉ, mà với bước đi có phần khập khiễng của một sinh linh trở về nhà sau buổi tập dài. Ngài chú ý đến cách đôi bàn tay em vung vẩy trong không khí khi cười, đường cong của cánh tay khi với lấy một chiếc cốc, và cái cách đôi vai em buông thõng thoải mái với một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Mọi cảm xúc thoáng qua, từng bị nhấn chìm trong biển âm thanh của hàng triệu cảm xúc phàm tục khác, giờ đây trở thành một thứ tín hiệu. Ngài thấy một nụ cười chợt lóe của thiếu niên khi hướng về phía một người bạn, một cái bĩu môi rất nhỏ khi em đang chìm vào suy nghĩ, hoặc cái cách cả người em thả lỏng và vùi mình vào tấm chăn mềm mại khi chỉ có một mình. Ngài từng nắm bắt rõ tương lai với sự chắc chắn, giờ đây nó lướt qua như một dấu vết mờ ảo, một cơn lũ sự kiện mà Ngài không còn bận tâm theo dõi.
Bởi vì giờ đây, trong tâm trí Ngài chỉ có duy nhất hình bóng em. Ngài khao khát được biết nhiều hơn về em. Trong những năm thiếu niên, ừm... vẫn còn là thiếu niên, Ngài đâu chỉ đơn thuần là quan sát cuộc sống và thói quen của em, mà hơn thế nữa, nó là một sự nghiên cứu không ngừng được phát triển từ sự tò mò của Ngài. Vốn đã quen với sự tĩnh lặng muôn đời, Ngài thấy sự thay đổi đầy hỗn loạn của thiếu niên thật kỳ lạ và hấp dẫn. Ngài không chỉ nhìn thấy em tập từng điệu múa dâng Thần, mà còn thấy cách đôi chân em dài ra, cách các bó cơ hình thành thành những đường cong đẹp đẽ theo năm tháng; cách em vỡ giọng từ thanh âm thiếu niên ngô nghê sang âm thanh sáng bừng trong trẻo của tuổi thanh niên, và Ngài thấy cả cái cách đôi vai em trở rộng hơn sau mỗi lần thức dậy. Ngài chứng kiến những cái sải chân chạy vội như cuốn gió mang theo khi em gặp mặt bạn bè, những chia sẻ về cuộc sống thường ngày đầy rộn rã, và những đêm em nằm thao thức ngắm mưa. Ngài quan sát sự hỗn loạn đầy sống động của tuổi trẻ - của em. Trong đôi mắt của Ngài, đang dần thắp lên sự nhận thức về bản thiết kế của một kiệt tác đang dần thành hình.
Trong suốt vĩnh hằng, Ngài chỉ đơn thuần tồn tại, luôn trong một trạng thái vô ưu và tách xa khỏi phàm trần. Nhưng giờ đây, lần đầu tiên, Ngài cảm nhận được gánh nặng của sự tồn tại. Một cảm giác vừa xa lạ lại vừa nặng nề. Khi Ngài quan sát những khoảnh khắc đáng lý nên là hoàn hảo khác trên thế giới, chúng không còn mang lại sự thỏa mãn nữa. Sự hoàn hảo có thể đoán trước của chúng giờ đây giống như một sự xúc phạm cá nhân hơn, một tượng thần rỗng tuếch đang chế giễu điều chân thật, sống động duy nhất mà Ngài vừa mới tìm thấy. Sự tồn tại của Ngài, từng thanh tịnh và vô ưu, giờ đây bị thúc đẩy bởi một mục tiêu duy nhất, đầy tuyệt vọng, một gánh nặng mà Ngài sẵn lòng gánh vác nếu điều đó có nghĩa là được sở hữu sự thật duy nhất mà Ngài thực sự khao khát. Nơi có lẽ là trái tim trên người Ngài có cảm giác gì đó rất kỳ lạ. Một sự xâm nhập. Đó là cảm giác đầu tiên của Ngài. Tại nơi mà Ngài đã từng nghĩ chỉ có sự trống rỗng, bỗng xuất hiện một thứ cảm giác hoàn toàn xa lạ. Đó như là một cơn chấn động, một sự đảo lộn không thể lý giải, khiến sự tĩnh lặng vĩnh hằng của Ngài bị lay động. Nó không mang lại cảm giác dễ chịu, nhưng cũng không hẳn là nỗi đau. Nó chỉ đơn giản là... có mặt ở đó, một cảm xúc không nên tồn tại trong một vị Thần như Ngài. Đó là mục tiêu duy nhất, một gánh nặng mà Ngài sẵn lòng gánh vác nếu điều đó có nghĩa là được sở hữu sinh linh duy nhất mà Ngài thực sự khao khát.
⌞ Ngài là Thần. Là tồn tại cổ xưa có cả sức mạnh và quyền lực. Để thay đổi kết cục đó⌝
Một lời thì thầm. Một tiếng gọi lạ lùng.
Đi hết cõi vĩnh hằng chỉ để tồn tại,
Giờ đây Ngài có khao khát.
Ngài bắt đầu có ham muốn.
⌜ Thần linh đã động phàm tâm⌟
Suy nghĩ của Ngài đã thay đổi. Nó không còn là tầm nhìn của một học giả, mà tiếp cận hơn với loại ánh mắt của một kẻ sưu tầm. Tiếng ngân nga mờ nhạt của những ký ức khác, thứ mà Ngài đã từng bỏ qua, giờ đây hoàn toàn biến mất. Ngài thấy mình không thể cảm nhận bất cứ điều gì khác; phần còn lại của sự tồn tại giống như một phông nền xám xịt. Tâm trí Ngài giờ đây là một khoảng không vô định, và em là sinh linh duy nhất chiếm trọn và khiến nó gợn sóng. Ngài ngừng việc chỉ quan sát thiếu niên mà bắt đầu phân loại từng hành động, từng phản ứng của thiếu niên mà giờ đã lớn và trở thành một thanh niên trẻ. Ngài biết những thói quen nhỏ nhất, từ bước đi của em đến sự tập trung đến mức tạo những nếp nhăn thoáng qua trên khuôn mặt khi làm một công việc bất kỳ đến, và những điều mà không ai khác từng nhận ra. Mọi hành động, dù nhỏ dù lớn, đều trở thành một lời thú tội đầy riêng tư dành cho Ngài. Từng chi tiết ấy đều được Ngài sắp xếp và lưu trữ lại. Tất nhiên không phải như một loại ký ức để nhớ, mà là một loại dữ liệu để sở hữu. Trong mắt Ngài, thanh niên không chỉ còn là một sinh linh. Em là một bản thiết kế cần được bảo tồn, một hình mẫu hoàn hảo để được nghiên cứu và biến thành ký ức bất hoại mà Ngài sẽ tạo ra chỉ cho riêng em.
Thần không nghĩ suông. Ngài có kế hoạch sẵn sàng rồi. Chỉ còn một thứ duy nhất phải chờ đợi - một thời cơ tuyệt diệu. Ngài kiên nhẫn chờ đợi, và cuối cùng thời khắc đó cũng tới. Hôm nay là một thời cơ tuyệt hảo- lục địa đang trải qua một khoảnh khắc cân bằng hoàn hảo - ngày và đêm, ánh sáng và bóng tối, hai thứ vốn đối ngược nhau nay lại đứng trong sự cân bằng hoàn hảo. Mặt trời và Mặt trăng cùng xuất hiện, hơi ấm của nó và ánh sáng lạnh lẽo của mặt trăng chia bầu trời thành hai nửa bằng nhau, không lay chuyển. Đối với phàm nhân, đó là một ngày của nghi thức và sự tĩnh lặng, nhưng đối với Ngài, đó là một tín hiệu đến từ vũ trụ. Một khoảnh khắc tĩnh lặng tuyệt đối trên tấm thảm vĩnh cửu, một hơi thở cuối cùng của sự cân bằng trước khi cán cân bị nghiêng đi một cách không thể cứu vãn. Mặt trăng trong ngày này cũng có điểm đặc biệt - nó là trăng Vụ, tròn trĩnh, to lớn và sáng một cách phi thường. Ánh sáng của nó không phải là màu bạc nhợt nhạt thường thấy, mà là một màu mật ong đậm đà, tạo ra những cái bóng dài, ấm áp. Tuy nhiên, ánh sáng vàng này dường như chỉ chiếu rọi duy nhất một trong số hàng triệu sinh linh, bao bọc sinh linh đó trong một vầng hào quang vừa đẹp đẽ vừa đầy chiếm hữu. Vị thần xem đây là một dấu hiệu, một lời mời gọi bằng vàng để lấy đi thứ Ngài khao khát nhất - em.
Bộ trang phục của em hôm nay không chỉ là một món đồ được mặc lên người để biểu diễn, nó giống như một sự biểu hiện hữu hình cho khao khát của Ngài hơn. Lớp vải gần như xuyên thấu là một lời thú tội đẹp đẽ nhưng mong manh, không che giấu bất cứ điều gì. Qua lớp vải tinh tế ấy, Ngài có thể nhìn thấy vẻ đẹp thuần khiết, chân thật của sinh linh mà Ngài khao khát, một vẻ đẹp sẽ không bao giờ bị giả tạo che mờ. Những hạt kim sa màu bạc được đính trên bộ trang phục của em giống như hàng ngàn ánh sao rơi xuống. Chúng càng lấp lánh hơn dưới ánh trăng - mỗi hạt là một đốm sáng nhỏ bé, lấp lánh và đông cứng trong thời gian. Chúng là sự đại diện hoàn hảo cho mục tiêu của Ngài - biến một khoảnh khắc thoáng qua thành một khoảnh khắc vĩnh cửu. Lớp trang điểm của em lại kể một câu chuyện khác. Nó là sự nghiên cứu về nghịch lý, phản chiếu sự hỗn loạn trong tâm hồn của thiếu niên. Lớp trang điểm có trầm, một bức tranh của những mảng tối, gợi lên nỗi đau âm thầm và nỗi sợ hãi mà Soonyoung đang cố gắng che giấu. Nhưng bên cạnh lớp màu trầm tối ấy là chất nhũ sáng như thể một ngọn lửa đang cháy âm ỉ, ẩn sâu bên dưới bề mặt màu tối, một ngọn lửa ngấm ngầm bắt lấy ánh sáng và thiêu đốt với sự trái ngược to lớn - mãnh liệt nhưng quá đỗi lặng lẽ.
Nghịch lý mỹ lệ. Đây chính là sự thật mà Ngài đã tìm kiếm.
Khi bàn tay của thiếu niên nâng lên đến một độ cao nhất định, với tay về phía trước như thể đang tìm cách thoát khỏi thứ chất độc ẩn dụ mà em cảm nhận qua điệu nhạc, Ngài cuối cùng cũng ra tay thực hiện ý đồ của mình. Ngài đâu chỉ chạm vào em - hơn thế nữa kìa, Ngài ban cho em một ân điển mà chỉ em mới có đặc quyền - bằng cái ôm của Thần, bằng chính bản thể của mình. Ngài bọc lấy em trong một lớp ánh sáng vừa lạnh lẽo vừa ấm áp. Thời gian đột ngột ngừng lại. Đôi mắt em vẫn còn vương chút bàng hoàng, vẻ mặt còn đang chìm trong sự hoảng loạn của điệu múa. Tất cả đều bị giữ lại. Từ bờ vai run rẩy, cho đến cái siết tay đầy tuyệt vọng, từng nếp gấp trên áo, tất cả đều bị đóng băng.
Vẻ ấm nóng của sự sống bắt đầu rời đi, được thay thế bằng một thứ chất liệu lạnh lẽo hơn, có thể tồn tại vĩnh hằng. Làn da mềm mại của em từ từ trở nên cứng cáp, chuyển sang màu trắng ngà của đá cẩm thạch. Từng đường gân, từng thớ cơ, đều được định hình một cách hoàn hảo, và phải tập trung nhìn kỹ mới thấy được những mạt vàng li ti điểm trang cho màu nền trắng của bức tượng. Đôi mắt em hóa thành hai viên đá mắt hổ màu vàng hơi ngả nâu đò, chứa đựng một sự hỗn loạn đã bị hóa đá. Mái tóc mềm mại cứng lại, rũ xuống như những sợi bạch kim mảnh. Chẳng mấy chốc, trước mắt Ngài là một bức tượng hoàn hảo đến mức đáng sợ. Ngài có thể thấy tất cả: nỗi sợ hãi, vẻ đẹp, sự sống động của điệu nhảy. Tất cả đều bị đóng băng trong hình dạng của một tác phẩm nghệ thuật bất hoại. Ngài đã chiến thắng. Ngài đã sở hữu được khoảnh khắc và người này.
Ngài cũng nhận ra rằng bức tượng trước mắt sẽ không bao giờ run rẩy nữa, không bao giờ thở dốc, và sẽ không bao giờ nhìn thấy bất cứ ai ngoài Ngài. Không ai ngoài Ngài. Nhận thức được điều đó khiến cho Ngài cảm thấy ấm áp, sự hài lòng tràn ra từ bản thể của Ngài. Em được Ngài đưa về Thần điện của mình - một thư viện nơi mà mọi ký ức, khoảnh khắc được Ngài lưu lại. Ngài ngước nhìn lên em trên bệ đá, thưởng thức thành quả cuối cùng mình cũng đạt được.
Nhưng theo dòng thời gian dài dòng chảy trôi, Ngài đã không thể nhìn ngắm lâu vào em nữa, nhất là đôi mắt của em. Lần này, cũng như mọi lần khác, Ngài ngước nhìn lên tác phẩm của mình - một kiệt tác tuyệt vời, hoàn hảo trong từng chi tiết. Nhưng rồi ánh mắt Ngài va phải đôi mắt của bức tượng, thứ đã từng là nơi Ngài thấy được sự sống. Hai con ngươi bằng đá mắt hổ giờ đây lại chứa đựng sự sợ hãi hỗn loạn đã bị hóa đá. Ngài có thể nhìn thấy trọn vẹn sự bàng hoàng, sự hoảng loạn của khoảnh khắc mà em bị đóng băng. Đôi mắt đâu phải vật vô tri, nếu không thì đôi mắt đã chẳng được các sinh linh phàm trần ví như cửa sổ tâm hồn. Giờ đây với Ngài, chúng là một lời nguyền câm lặng, một thứ trần trụi và đau đớn bị giữ lại mãi mãi. Chúng như một tấm gương, phản chiếu lại sự ích kỷ, tội lỗi của Ngài, ám ảnh Ngài đến mức Ngài không thể chịu đựng được nữa. Với một tiếng thở dài, Ngài vươn tay, nhẹ vuốt khuôn mặt em một lần cuối trước khi che đi đôi mắt của chính tác phẩm của mình bằng một mảnh vải đen, không còn dám nhìn thẳng vào khoảnh khắc bất hoại mà Ngài đã tạo ra.
Em à, ta đã giữ lại được khoảnh khắc đã định là sẽ biến mất qua thời gian.
Nhưng sao đôi mắt em lại sợ hãi như vậy? Lại hoảng loạn như vậy? Lại... đau đớn như vậy?
Tại sao linh hồn em lại than khóc? Tại vì sao linh hồn em lại đau khổ?
Khi ta đã thành công làm em và điệu múa của em tồn tại mãi mãi với thời gian?
⌜ Soonyoung, em nói xem? Ta phải làm gì bây giờ?⌟
Sau một thời gian chỉ ngắm nhìn bức tượng đã từng là em và suy nghĩ, Ngài quyết định. Ngài sẽ giải phóng em. Nhưng trước đó, Ngài phải hiểu được cảm xúc của mình. Thần linh không hiểu đạo đức và luân lý của sinh linh, nên Ngài mới làm việc mà Ngài cho là đúng. Nhưng có vẻ nó có tác dụng ngược rồi, vì dù cho em đã biến thành tượng, đôi mắt em vẫn chỉ nói lên sự sợ hãi hướng về Ngài.
Sự chuộc lỗi của Ngài không bắt đầu bằng một sự lựa chọn, mà bằng sự lột bỏ. Việc mất đi thần cách, với một vị thần, là một sự kiện mang ý nghĩa hủy diệt nghiêm trọng - hơn là việc chỉ đơn thuần mất đi quyền năng. Đối với những vị thần nhỏ thường gắn với những khái niệm hoặc thực thể hữu hạn, việc mất đi thần cách - kể cả có tự nguyện từ bỏ hay bị cưỡng chế lột bỏ - đều đồng nghĩa với việc mất đi bản thể, mục đích tồn tại và cuối cùng là biến mất. Nhưng với Wonwoo thì khác. Là Thần Thời gian và Ký ức, và là tồn tại từ thời nguyên thủy, trút bỏ Thần cách là một trong những cách mà Ngài "trải nghiệm" thế gian. Ngài chưa từng lột bỏ hoàn toàn Thần cách của mình trong những lần lang thang nhân gian, nhưng vì em, vì để hiểu hoạt động cảm xúc phức tạp của em đối với Ngài, Ngài luôn có thể thử.
Với cái nhìn cuối cùng, đau khổ về bức tượng lạnh lẽo do chính mình tạo ra, Ngài bắt đầu trút bỏ Thần cách của bản thân. Việc lột bỏ Thần cách không thể nói là không đau đớn chút nào khi quá trình tự từ bỏ Thần cách kéo rất dài. Tiếng ngân vang vĩnh hằng của sự tồn tại, bản giao hưởng của tất cả ký ức và thời gian, mờ dần thành một sự im lặng giống như cảm giác mất đi một người điều hành. Dòng sông kiến thức vũ trụ tĩnh lặng, từng là một phần của bản thể Ngài, rút khỏi cơ thể Ngài và biến thành một cuốn sách ghi chép, để lại Ngài mắc kẹt trên chính Thần điện của Ngài. Lần đầu tiên, Ngài thấy mình bị giam hãm trong một hiện tại duy nhất, đầy hỗn loạn.
Thay vào những giác quan vô hạn của Ngài, những giác quan mới, nhỏ bé và sắc nét, bắt đầu bén rễ. Lần đầu tiên, một cơn gió lạnh không còn là một khái niệm, mà chính là một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng Ngài. Một ngọn đuốc lập lòe không chỉ là một nguồn sáng, mà còn là cảm giác ấm áp trên mặt Ngài. Ngài cảm nhận được kết cấu lạnh lẽo, xa lạ của Thần điện dưới chân. Ngài nghe thấy sự hỗn loạn chói tai của một thành phố duy nhất, mỗi âm thanh riêng lẻ đang vang lên khắp nơi trong thành phố đó - tiếng chuông vọng lại, tiếng cười của những sinh linh, và đủ thể loại âm thanh khác - đều va đập vào Ngài với sức mạnh có thể so sánh với một vụ va chạm vũ trụ.
Sau khi trút bỏ Thần cách, Ngài chỉ là một sinh linh phàm tục. Nên trước khi Thần cách hoàn toàn rời bỏ, Ngài đã nghĩ đến việc sự tồn tại của Ngài cần một danh tính và đã chọn sẵn cho mình. Cho dù là một lục địa với nhiều chủng loại sinh vật cùng chung sống, vẫn sẽ gây quá nhiều nghi ngờ nếu không có một danh tính xác thực. Tộc Nhân thú tộc Mèo đen vẫn cho Ngài cảm giác thoải mái, cho dù thời gian Ngài trở thành Nhân thú tộc Mèo đen cũng phải rất lâu về trước rồi. Sau khi Thần cách rời bỏ Ngài, Ngài sẽ chỉ còn là một Nhân thú tộc Mèo đen tên là Wonwoo.
────────────────────────────────────────────────────────
Lục địa Caratland nhiều thế kỷ sau, năm xxxx
Với công nghệ phát triển của tộc Người lùn và Pháp sư, lục địa dần bước vào một kỷ nguyên mới, phát triển và hiện đại. Wonwoo - Nhân thú tộc Mèo đen sống một cuộc đời thường thường. Anh hiện tại đang là một nhà sử học về nghệ thuật và đồng thời là một nhà phục chế cổ vật trầm lặng, kín đáo, không hề có chút ký ức về kiếp sống thần thánh của mình. Anh bị thu hút bởi những thứ cũ kỹ, bị lãng quên - tiếng vọng vô thức từ Thần cách đã bị từ bỏ. Anh làm việc tại một bảo tàng danh tiếng, nơi vừa tiếp nhận thông tin về một bức tượng cổ xưa, đầy bí ẩn được phát hiện từ một Thần điện bị lãng quên nhờ công nghệ Mắt quan sát phát triển bởi những pháp sư. Bức tượng là một kiệt tác - một vũ công đang ở giữa một động tác múa, đẹp đẽ và tràn đầy sức sống đến mức dường như không thể nào tin được nó lại được làm từ đá.
Wonwoo được giao nhiệm vụ phục hồi bức tượng, một công việc mà không ai khác có thể hoàn thành. Phần nhiều là do bức tượng không thể di dời ra khỏi Thần điện cũ kỹ đó - nó quá hoàn hảo, đến mức dường như việc di dời nó cũng sẽ khiến bức tượng mất đi sự hoàn mỹ. Thêm nữa thì bệ đá nơi bức tượng được đặt lên cũng là một thử thách lớn đối với việc di dời. Ngoài những thứ đó ra thì có một việc hết sức kỳ lạ: cho dù có địa điểm chính xác của Thần điện bị bỏ quên đó thì những người được cử đi phục hồi bức tượng trước Wonwoo dường như đều bị lạc và không thể nào đến được Thần điện chứ đừng nói là thấy được bức tượng để phục hồi nó. Wonwoo là người duy nhất thành công tiến vào Thần điện - tương đương với Thần tích - vị giám đốc bảo tàng nơi anh làm việc đã cảm khái như vậy
Khi bắt tay vào công việc phục hồi bức tượng dù không có gì nhiều phải làm - đúng vậy, đáng ngạc nhiên sao khi cho dù bị quên lãng lâu như vậy, bức tượng dường như không hư hại gì trừ việc dính quá nhiều bùn đất và bụi bặm tích lũy - anh cảm thấy một mối liên kết sâu sắc, không thể giải thích được với tác phẩm này. Tuy rằng chưa từng được chứng kiến bức tượng này cho đến bây giờ, anh vẫn biết một vài truyền thuyết về nó. Nổi tiếng nhất có vẻ là bản nói về một vị Thần đã hóa một thanh niên thành bức tượng này, vì mục đích gì thì không thể biết được. Thời gian qua quá lâu, vả lại, chẳng một sinh linh phàm tục nào có thể đoán được suy nghĩ của Thần linh khi làm một việc nào đó. Và còn một truyền thuyết nối theo truyền thuyết được kể trên - rằng nếu là đúng người, thì khi tay chạm tay với bức tượng, người đó sẽ giải thoát cho thanh niên trong bức tượng. Dẫu mang tính truyền thuyết cao và có vẻ chẳng mấy chân thật, đây cũng là nguồn thông tin duy nhất có thể là về nguồn gốc của bức tượng. Ngoài ra thì chẳng có nguồn thông tin nào khác, như thể bức tượng này đột ngột xuất hiện trên đời này vậy.
Dù nghi ngờ truyền thuyết cổ xưa và gần như bị lãng quên này, Wonwoo khi tẩy rửa bức tượng - trong một khoảnh khắc của bản năng tò mò thuần túy, đã lồng bàn tay của mình với bàn tay đang vươn ra của bức tượng. Cái chạm đó chính xác là thứ "hóa giải lời nguyền" trong truyền thuyết. Bức tượng vỡ tan, và từ lớp bụi trắng xám xen lẫn màu vàng cùng với những mảnh đá cẩm thạch,là một Soonyoung bằng xương bằng thịt, một lần nữa tìm được hơi thở, xuất hiện không hề thay đổi một chút nào về ngoại hình kể từ ngày em bị hóa đá.
Soonyoung đã tự do, nhưng đôi mắt em không hề mang theo ánh sáng của một sinh linh được giải thoát nên có. Chúng bùng cháy với một ngọn lửa dữ dội của sự phẫn nộ và nỗi đau tan vỡ. Em không nhìn thấy một nhà phục chế tử tế - người đã giải thoát cho em - tức là Nhân thú Mèo đen đang đứng trước mặt em. Ngược lại, em ngay lập tức cảm nhận được khí tức vị thần đã phản bội sự tôn sùng của em, mặc dù Thần tức trên người vị Nhân thú Mèo đen trước mặt em rất nhạt và gần như cực khó để nhận ra, nhưng em biết, đây là kẻ đã cầm tù em trong nhà ngục tĩnh lặng vĩnh hằng. Đôi tay em run rẩy - không phải vì sợ hãi, mà vì khao khát được chạm vào Wonwoo, một cái chạm đủ để cho vị Thần mà em đã dâng sự tôn sùng của mình lên nếm cái cảm giác đau đớn mà em đã phải chịu đựng. Em vươn tay, không phải để bày tỏ sự cảm ơn, mà để nắm lấy áo Wonwoo, khiến chúng từ phẳng phiu trở nên nhàu nhĩ. Đôi môi em nhợt nhạt, nứt nẻ nhưng chẳng thể thốt ra một tiếng động nào kể cả lời thì thầm. thì thầm. Bị giam giữ quá lâu khiến dây thanh quản của em khô khốc và yếu ớt. Wonwoo chỉ có thể nhìn cách môi em chuyển động để xem em đang nói gì.
"Ngài...". Em gọi Wonwoo là "Ngài". Quá trang trọng. Nhưng cũng vừa đủ sự thân thuộc từ cái cách em nhìn Wonwoo, dù cho sự thân thuộc nhỏ bé đó nhanh chóng bị nỗi đau và sự căm hận vùi lấp. Cảm xúc trong đôi mắt đó khiến Wonwoo vô thức lùi lại một bước, trái tim anh đập dữ dội trong lồng ngực. Mọi thứ diễn ra không giống như trong tưởng tượng của anh.
Anh đã mong đợi một sự ngỡ ngàng, thậm chí là một chút hàm ơn, nhưng tất cả những gì anh nhận được là một ánh mắt chất chứa đầy hận thù, một cái chạm đầy căm hận của người lạ mặt đang đứng đối diện anh. Cơ thể anh bỗng chốc trở nên căng thẳng, một cảm giác tội lỗi vô hình dâng lên, như một tiếng vọng mơ hồ đến từ một cơn ác mộng chưa dứt. Anh nhìn vào đôi mắt của người con trai trước mặt và tự hỏi: Tại sao lại là anh? Tại sao người này lại nhìn anh với nỗi đau đớn như vậy, như thể anh là người đã cầm tù linh hồn người này suốt ngần ấy thời gian? Anh hoàn toàn không hiểu, và sự bối rối đó còn đáng sợ hơn bất cứ lời buộc tội nào.
Sau khi Soonyoung được "giải thoát", Wonwoo đã báo lại với giám đốc bảo tàng nơi anh đang làm việc. Anh không ngờ việc xin cho Soonyoung ở chung với mình lại thuận lợi đến thế, đổi lại việc anh nhắc tới những truyền thuyết kia và gửi lại những gì còn lại của bức tượng. Cũng may là với sự phát triển công nghệ, những ảnh chụp của bức tượng đã nhốt Soonyoung bên trong đã được chụp từ trước. Nên cho dù bức tượng đã không còn, những gì còn lại của bức tượng và những truyền thuyết được kể lại cũng đủ cho bảo tàng rồi.
Với Soonyoung, sau khi được "giải thoát" khỏi bức tượng, em cảm thấy mình như người của quá khứ du hành đến tương lai. Lục địa này vẫn như những gì trong trí nhớ của em, nhưng cũng... khang khác, như thế nào nhỉ? À phải rồi, là hiện đại. Và xa lạ. Em thả tay ra khỏi áo Wonwoo, bước lùi lại vài bước, đôi mắt mở to đầy mờ mịt trước hàng loạt âm thanh và màu sắc đang xảy ra xung quanh: Những cỗ máy bằng kim loại và hơi nước của tộc Người lùn gầm rú lao qua bầu trời phía bên trên Thần điện; trên những ngọn núi bay trôi nổi không xa, những tấm bảng khắc chữ rune ma thuật của các Pháp sư nhấp nháy một cách vô nghĩa, và những con người cùng các sinh vật kỳ lạ hối hả lướt qua trong quả cầu thủy tinh mà Wonwoo đặt trên mặt bàn đằng sau anh. Nỗi đau thể xác của việc một lần nữa được hít thở không là gì so với nỗi đau tinh thần của sự mất mát. Em cố sức tìm kiếm một gương mặt quen thuộc, một kiến trúc cổ xưa, một dấu hiệu nhỏ nhất của thế giới mà em bị buộc rời đi. Nhưng tất cả đều đã biến mất. Nơi từng là một con phố yên bình giờ là một con đường cao tốc ma thuật. Nơi từng là ngôi nhà của em, giờ chỉ là một cái chòi đá cũ kỹ và xa lạ. Em không chỉ mất đi thời gian; em mất đi tất cả những gì thân thuộc nhất với em.
Mà giờ đây em xuất hiện ở chốn này, lạc lõng, xa cách khỏi lục địa đã chẳng còn vẹn nguyên như trong trí nhớ. Như một lữ khách lưu lạc chẳng có chốn về, em phải học cách làm quen và hòa hợp với nơi đây.
Sau khi được giải thoát khỏi bức tượng đá, Soonyoung sống giữa một thế giới mà em không thể hoàn toàn nắm bắt: những cỗ máy bằng kim loại của tộc Người lùn gầm rú đe dọa, những ánh sáng rune ma thuật của các Pháp sư nhấp nháy liên tục, đến cả quần áo cũng được tộc Tiên dệt từ sợi cây biến đổi ma thuật, có khả năng tự phục hồi, điều chỉnh nhiệt độ và thậm chí thay đổi màu sắc - tất cả tạo ra một cơn ác mộng về việc quá tải giác quan với em. Đôi chân em, từng uyển chuyển và hoàn hảo trong điệu múa, giờ đây trở nên lúng túng và do dự trước tốc độ điên cuồng của mọi sinh vật. Em bám víu vào những ký ức rời rạc về lục địa thuở xưa cũ trong trí nhớ của mình - về sự tĩnh lặng, về vẻ đẹp giản dị - để so sánh, đối trọng với những tiến bộ công nghệ xung quanh. Sự sống động của thế giới hiện đại không phải là niềm vui; nó như thể nhạo báng sự cô đơn của em.
Còn nữa, nỗi căm hận dành cho vị Thần đã cầm tù em là thứ neo duy nhất giữ Soonyoung không bị cuốn trôi khỏi sự không hòa hợp với thực tại. Nó là lý do để em thức dậy mỗi sáng, là lý do để biện minh cho sự tồn tại mang đau khổ của em. Tuy nhiên, sự tồn tại của Wonwoo, vừa người đã cứu em, vừa là vị Thần đã giam cầm em trong ngục tù câm lặng kia lại là một sự tra tấn lên nội tâm em. Soonyoung phải dựa vào sự tử tế dịu dàng của Wonwoo để tồn tại ở thời đại này - để có thức ăn, quần áo, và một nơi trú ẩn an toàn. Em nhìn Wonwoo sửa chữa một chiếc ghế bị gãy hay kiên nhẫn giải thích về một thiết bị ma thuật, và mỗi hành động tử tế đó lại là một nhát dao cùn cứa vào lòng em, nhức nhối. Em đã cố tìm kiếm vết nứt trên khuôn mặt của người này, khao khát nhìn thấy một ánh nhìn lạnh lùng, một cử chỉ ích kỷ nào đó để chứng minh rằng nỗi căm hận của em là chính đáng, và rằng người đàn ông này thực chất vẫn là vị thần bội bạc đã giam cầm em. Nhưng cho dù có cố thế nào, em vẫn không thể tìm thấy nó.
Với Wonwoo, việc vô tình giải thoát Soonyoung theo lời truyền thuyết như mở khóa một phần của thứ thắc mắc quấn lấy anh bấy lâu nay. Trước đó, trước cả khi anh nhận công việc tu chỉnh bức tượng - là Soonyoung thì Wonwoo đã gặp vấn đề với giấc ngủ của mình được một khoảng thời gian khá dài rồi. Mỗi khi đêm xuống, giấc ngủ của Wonwoo không còn là sự tĩnh lặng thường thấy. Sự yên bình bị xé nát bởi những giấc mơ không mở đầu, và cũng không có kết thúc: một bầu trời với sự im lặng vĩnh hằng dần bị vỡ nứt bởi các loại âm thanh hỗn tạp, cảm giác lạnh lẽo của đá cẩm thạch và sự ấm áp của lớp máu thịt bên dưới lớp cẩm thạch trên đầu ngón tay, và một tiếng thét còn không thể thốt thành lời. Wonwoo không hiểu những hình ảnh đó, nhưng chúng lại dệt nên một sợi dây vô hình kết nối anh với phía những thứ vốn bị lãng quên bởi thời gian. Khi chạm vào những cổ vật cũ kỹ tại bảo tàng, anh cảm thấy một cảm giác thân thuộc đến rợn người, như thể những đồ vật đó có thể thì thầm những bí mật mà chúng mang theo cho anh. Anh vẫn đang sống đấy thôi, nhưng cảm giác một phần hồn anh vẫn bị mắc kẹt ở một nơi hoang hoải nào đó, trong một dòng thời gian mà anh không thể nhớ tới. Gặp và giải phóng Soonyoung một phần nào giải thích những hình ảnh trong những cơn ác mộng của anh, nhưng nó để lại càng nhiều khoảng trống vô định, khiến Wonwoo như đi vào vùng sương mù dày đặc, ngày càng lạc càng sâu vào trong mê cung của sự thật.
Mỗi khoảnh khắc ở bên Soonyoung, sự bối rối của Wonwoo lại càng trở nên sâu hơn. Anh cảm thấy việc bảo vệ Soonyoung là cần thiết; từ sự khát khao chuộc lỗi không lời mà chính anh cũng chẳng thể hiểu được. Mỗi khi Soonyoung cau mày với sự bối rối của thế giới hiện đại, cơn đau nhói không thể gọi tên lại dâng lên trong ngực Wonwoo. Anh không biết lý do, nhưng anh cảm thấy có một khoản nợ kếch xù cần thiết phải trả lại Soonyoung. Anh nhận ra mình đang xem Soonyoung không phải như một người lạ được anh cứu thoát, mà như một phần máu thịt của chính mình bị xé xuống khỏi cơ thể, như thẻ một phần hồn phách bị tách rời khỏi chính mình.
.Wonwoo quay cuồng giữa việc giúp Soonyoung hòa nhập vào thế giới hiện đại và những mảnh ký ức mơ hồ không thuộc về bản thân trong những cơn ác mộng. Càng tiếp xúc lâu với Soonyoung, những cơn ác mộng càng trở nên tồi tệ hơn, không hề u ám nhưng càng lúc càng rợn người. Qua mỗi đêm như vậy, Wonwoo lại nghĩ chẳng có gì tồi tệ đến thế.
Nhưng anh đã nhầm, nhầm to là khác. Đêm nay, trước khi chìm vào giấc ngủ, Wonwoo đã có ý thức mịt mờ rằng đêm nay sẽ là đêm mà ác mộng kết thúc, khi Wonwoo cuối cùng cũng sẽ biết được mọi thứ, về sự thật. Nhưng sự thật không đến nhẹ nhàng như anh tưởng tượng, mà là một cú va chạm kinh hoàng giữa hai bản thể. Một lời buộc tội sắc lạnh từ Soonyoung trong giấc mơ, mọi mảnh ký ức trong giấc mơ bỗng khớp với một đường vân trên bức tượng đá, và rồi, toàn bộ quá khứ đổ ập xuống Wonwoo như một trận lở đất kinh hoang. Cái tên mà Soonyoung thì thầm - cái tên của Thần Ký Ức - kích hoạt và mở ra ký ức đã ngủ quên.
Một cuốn sách ghi chép cũ kỹ mở ra trước mặt Wonwoo, dòng sông kiến thức vũ trụ tĩnh lặng, từng là một phần của bản thể Ngài và đã bị phong ấn, nay một lần nữa mở ra và trả lại Thần cách cho Wonwoo. Sự tĩnh lặng của Thần quay trở lại, nhưng giờ đây nó bị nhuốm màu bởi sự tàn nhẫn của hành động mà Ngài đã gây ra. Ngài bị đè bẹp bởi gánh nặng của thời gian và tội lỗi. Ánh mắt của người phục chế hiền lành đã biến mất, thay vào đó là sự tĩnh lặng vô tận, chất chứa sự hối hận và ghê tởm bản thân của một vị thần. Lắc mình, Ngài xuất hiện bên trong phòng ngủ của Soonyoung mà Ngài đã sắp xếp. Trong thời khắc thay đổi giữa đêm tối và ánh sáng ban mai, Ngài nhìn ngắm Soonyoung, người đã bị Ngài cầm tù vì cái gọi là "tình yêu" của mình.
Hiện thực còn tồi tệ hơn cả ác mộng.
Giờ đây, việc chính xác nhất Wonwoo có thể làm là thú nhận với Sooyoung. Ngài không chắc Soonyoung có chịu nghe lời thú nhận muộn màng của Ngài hay không, nhưng Ngài vẫn sẽ làm vậy.
Vì Soonyoung xứng đáng.
Khẽ cầm lấy ngón tay của Soonyoung, Ngài bắt đầu thú nhận lỗi lầm của mình với Soonyoung. Giọng Ngài trầm và nặng, kể lại sự kiêu ngạo của Ngài, của vũ trụ khi khao khát chiếm hữu một khoảnh khắc thoáng qua, biến một sinh linh đang sống thành một lăng mộ bằng đá lạnh chỉ vì sự ích kỷ muốn chiếm lấy khoảnh khắc đó của bản thân. Ngài chấp nhận hoàn toàn trách nhiệm và quyết định của Soonyoung, tuyệt nhiên không tìm kiếm sự bào chữa nào ngoài sự tự trách vô tận từ chính bản thân.
Ngón tay em lạnh buốt, ẩm ướt. Rõ ràng là em đã tỉnh từ lúc Ngài xuất hiện trong phòng của em. Hoặc cũng có thể là em chưa từng nhắm mắt ngủ, chờ đợi khoảnh khắc cuối cùng cũng xảy ra này. Soonyoung nằm trên đệm giường mềm mại ấm áp, lắng nghe trong sự yên lặng ngạt thở, một sự tương phản đáng sợ với sự hỗn loạn của thế giới hiện đại bên ngoài cửa sổ. Lời thú tội đến từ Thần linh không giải tỏa cơn thịnh nộ đã nuôi dưỡng em suốt bấy lâu; mà ngược lại, nó hợp pháp hóa nỗi căm hận của em. Mỗi lời nói của Wonwoo là một nhát dao xác nhận lại khoảng thời gian em bị giam cầm trong im lặng. Em nhìn người đàn ông trước mặt - Nhân thú Mèo đen đã cứu cậu, đã cho cậu quần áo và thức ăn - và thấy hai bản thể không thể dung hợp, không thể nào có thể coi là cùng một người: vị thần tàn nhẫn và sinh linh phàm tục đầy hối lỗi. Sự phẫn nộ vẫn bùng cháy trong em, nhưng nó bị kìm lại bởi một cảm giác trống rỗng. Chân lý cuối cùng cũng đã được phơi bày, nhưng nó không mang lại sự bình yên, mà chỉ là một tuyệt vọng trần trụi.
Môi Soonyoung run rẩy khi em cất lời, nhưng không phải là lời tha thứ. Tha thứ là điều không thể. Không thể nào. Sự im lặng đó quá dài, nỗi đau quá lớn, để có thể bị xóa bỏ bằng một lời thú tội. Nhưng khi cậu nhìn vào Wonwoo, người đang gánh chịu sức nặng của vũ trụ và của hành động của mình, em nhận ra một sự thật bi kịch hơn: Thần Ký Ức giờ đây là sợi dây sống duy nhất kết nối em với quá khứ em đã đánh mất. Nếu em rời đi, nếu em xé bỏ sợi dây ràng buộc này, em sẽ không chỉ mất đi Wonwoo; em sẽ mất đi nguồn gốc, ký ức và thế giới của chính mình vĩnh viễn.
Soonyoung không chọn tình yêu, cũng không chọn tha thứ. Em chọn phụ thuộc, cho dù nó có thể đau đớn; nhưng nó cũng cần thiết. Em từ từ ngồi dậy, chuyển ánh nhìn vốn tập trung xuống mặt sàn lên để nhìn thẳng vào đôi mắt đang hối lỗi của Wonwoo, và lặng lẽ gật đầu.
"Tôi sẽ không rời đi," em khẽ nói, giọng nói nặng trĩu hơn cả thứ cẩm thạch đã từng vây khốn em. "Không phải vì anh, mà vì chính tôi."
Phòng của Soonyoung được Wonwoo sắp xếp ở hướng Đông Nam, có thể đón trọn vẹn ánh sáng mặt trời lên vào buổi sáng, đồng thời vẫn giữ được sự ấm áp vừa phải và yên tĩnh. Soonyoung đã chuyển chỗ, ngồi trên ghế cửa sổ ngắm cảnh Mặt trời lên, một tay chạm nhẹ vào lớp kính lạnh của ô cửa sổ được lắp đặt công nghệ tự làm sạch của Tộc Pháp Sư. Em vẫn còn mang theo gánh nặng của hàng thế kỷ im lặng qua sự căng thẳng ở bờ vai. Làn da em không còn lấp lánh như lúc còn là tượng, nhưng vẫn mang vẻ mong manh đến nhói lòng. Em nhìn ra ngoài, không phải với sự kinh hoàng của những ngày đầu, mà là với sự chấp nhận miễn cưỡng. Sự phẫn nộ của em vẫn còn đó, không hề bị tha thứ, mà chỉ được xếp gọn sang một bên. Em đã chọn ở lại, và mỗi giây phút sống trong hiện tại là một sự thỏa hiệp đau đớn với nỗi đau của quá khứ. Nhưng em tin, rồi mình sẽ vượt qua được thôi.
Wonwoo đứng đằng sau, anh không còn cố gắng nói về quá khứ hay tìm kiếm một lời xin lỗi. Anh đã từ bỏ sự vĩ đại và sức mạnh vô tận của Thần Ký Ức, giờ nó đã được một lần nữa phong ấn vào cuốn sổ ghi chép cũ. Anh không tìm kiếm Thần cách đã mất; sự tập trung duy nhất của anh là vào sự hiện diện của Soonyoung. Wonwoo quan sát cách Soonyoung nắm chặt chiếc cốc, cách em hít thở đều đặn - những chi tiết nhỏ bé, trần trụi của sự sống mà vị thần đã từng hủy hoại. Anh hiểu rằng sự chuộc lỗi không phải là một phép màu, mà là những hành động được thực hiện từng ngày. Anh chỉ đơn thuần chờ đợi, sự kiên nhẫn của anh vừa là sự rèn luyện vô tận của một vị thần, vừa là sự kiên trì đầy tội lỗi của một người phàm đang tìm kiếm sự cứu rỗi.
Họ ở bên nhau trong sự im lặng, nhưng sự im lặng này khác với sự tĩnh lặng u tối của tượng đá. Nó là một sự im lặng được chia sẻ. Soonyoung quay đầu lại, đôi mắt nhìn thẳng vào Wonwoo, ánh nhìn của em không có tình yêu, nhưng cũng không còn sự hận thù tuyệt đối. Em đã đặt ra một giới hạn, và Wonwoo đã chấp nhận nó.
Đây không phải là một lời hứa về một tương lai hạnh phúc, không có lời thề về một tình yêu vĩnh cửu. Đó là một cam kết với khoảnh khắc hiện tại. Em đã chọn sống, và Wonwoo đã chọn làm một con người để đồng hành cùng em.
"Hôm nay," Soonyoung nói khẽ, giọng em vẫn còn hơi khàn sau khoảng thời gian không cất lời, "em muốn ăn sáng."
Wonwoo gật đầu. Đó chẳng phải là điều to lớn gì, cũng không phải là một chiến thắng mang tầm vũ trụ. Đó chỉ là một ngày trôi qua không có sự hủy hoại, và đối với họ, đó là điều đủ để tiếp tục cuộc sống.
"Anh sẽ đi mua đồ." Wonwoo gật đầu đồng ý. "Em cần thêm gì không?" Anh hỏi thêm.
"... Gấu bông hổ." Sau một lúc ngần ngừ, Soonyoung cũng trả lời.
Thế là sáng đó, trên bàn ăn, ngoài đồ ăn sáng dành cho hai người, là một con gấu bông hổ mới nguyên.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com