ghi chép về vùng Kỳ Tịch
Vùng Kỳ Tịch nằm sâu giữa những dãy núi chập chùng, nơi mây sớm chưa tan đã bị trăng muộn giữ lại. Ở đó, ngày chỉ là khoảng nghỉ giữa hai đêm trăng và toàn cõi đều sống theo nhịp hô hấp của vầng nguyệt.
Nguyệt thần ôm trọn mặt đất, tràn vào từng khe lá, phủ lên từng nếp mái nhà. Mọi sinh linh trong vùng đều ngẩng đầu nhìn cùng một vầng sáng ấy. Họ sống, thở và thay đổi theo nhịp điệu của trăng.
Với những ai sinh ra ở đó, ánh trăng là máu thịt, là luật, là niềm tin, là sợi chỉ bạc ràng buộc tất cả, là thứ giữ cả thế giới này khỏi tan rã. Người ta nhìn trăng để biết lòng thần đang nghiêng về phía ai.
Đứng đầu vùng đất ấy là Lang tộc, loài sói mang xương cứng, răng sắc và sức mạnh bạo liệt. Họ cai quản Kỳ Tịch bằng cơ bắp và lời thề nguyệt huyết, họ dựng nên những tòa thành bằng đá đen và treo đầu thú quanh cổng như chiến tích. Mỗi mùa trăng, họ tụ tập dưới đỉnh núi, tru dài đón ánh bạc, nhận phước lành của nguyệt thần.
Dưới người Lang là Hạc tộc, những sinh vật thanh khiết, cao quý nhưng chẳng có thực quyền. Lang đưa Hạc lên làm trọng tài giữa các tộc, chỉ để giữ cái danh "công bằng" cho vừa mắt thiên hạ. Ai ai cũng biết rằng, đôi cánh trắng của Hạc, dẫu bay cao, cũng không thoát khỏi sợi dây của Lang.
Mộc Linh của rừng Mộng Kỳ sống hiền hòa nhất. Họ mọc lên từ cỏ cây, làn da ngả màu lục và mái tóc thơm hương đất. Mộc Linh yếu ớt, chẳng biết đánh nhau. Họ sống nhờ vào các tộc khác, dâng trái chín, dâng gỗ tốt, trả ơn bằng chính xác thịt mình cho một năm yên bình.
Huyền thú dưới chân núi U Trì lại là một kiểu hiền hoà khác. Họ không quan tâm đến chiến tranh hay quyền lực, họ chỉ tập trung vào đúng việc làm rèn của mình. Tiếng búa của Huyền thú vang lên suốt bốn mùa, từ lò lửa đến mỏ quặng. Họ rèn kim loại cho Lang tộc, vũ khí cho Hạc tộc và cả lưỡi liềm hái linh hồn cho những kẻ săn đêm.
Quý giá nhất, Lân Nhẫn, sinh vật được sinh ra từ ánh trăng rơi trên vảy cá bạc, là thợ giáp của Kỳ Tịch. Họ kiêu hãnh mà dịu dàng, giáp của họ nhẹ như sương nhưng bền như nguyệt thạch. Lân Nhẫn sống bình yên tạm bợ ở vùng biển nông, trầm mặc trong hang đá lạnh để tránh đi những ánh mắt thèm thuồng từ đám thợ săn ngoại đạo.
Tất cả cúi đầu trước Lang tộc.
Tất cả, trừ Hồ nhân.
Họ là những sinh linh mang đôi mắt trong suốt như nước và nụ cười khiến người ta vừa say vừa sợ. Người đời bảo hồ ly biết mê hoặc, biết nói dối, biết khiến trái tim kẻ mạnh nhất phải run rẩy vì chẳng biết đâu là thật, đâu là mộng.
Các tộc khác cô lập Hồ bởi họ vừa tò mò mà cũng vừa sợ hãi, sợ ngày phải cúi rạp trước sự khôn ngoan của đám cáo chín đuôi.
Hồ nhân không được tham gia buôn bán trao đổi vì kẻ khác sợ bị họ lừa, hồ nhân không được làm việc trí tuệ vì kẻ khác sợ bị họ bỏ bùa mê, lợi dụng hoặc sai khiến.
Lang nhân gọi họ là loài bị nguyền rủa, vì trăng không soi họ rõ ràng như soi các tộc khác.
Hồ nhân sống ẩn mình nơi khe núi sương phủ, nơi ánh trăng không chạm tới.
Người xưa còn nói, thuở hồng hoang, khi trời đất còn chưa phân sáng tối, tồn tại một tộc lớn hơn tất cả, Long tộc, sinh vật mang sinh khí của trời đất. Long tộc từng bay quanh Kỳ Tịch mỗi khi trăng tròn để ban lời chúc phúc cho muôn loài. Nhưng rồi một đêm, Long tộc biến mất.
Có người tin họ đã xuống đáy đại dương, ngủ yên trong giấc mộng ngàn năm. Cũng có người nói, họ đã chán nhìn lòng người đổi thay theo pha trăng, nên tự xoá mình khỏi thế gian.
Từ khi Long tộc rời đi, trăng vẫn soi, nhưng phúc lành không còn trọn vẹn. Người Kỳ Tịch bắt đầu kể chuyện để lấp vào khoảng trống ấy, những câu chuyện về tình yêu, về máu và về lời nguyền.
Bởi truyền miệng ở Kỳ Tịch chưa bao giờ say mê quyền lực bằng say mê những mối tình.
Giữa rất nhiều những đồn đoán nhỏ to được bàn tán quanh quẩn khắp các phiên chợ chiều, có hai truyền thuyết được ưa thích nhất, được kể đi kể lại qua hàng ngàn đêm trăng, mà người người, nhà nhà đều thuộc.
Truyền thuyết thứ nhất nói về Lang nhân mang nguyệt ấn, tức là người sói đã thực hiện duyên huyết nguyệt, khế ước máu của Lang tộc.
Người Kỳ Tịch kể rằng, mỗi Lang nhân khi sinh ra đều mang trong máu một mảnh ánh trăng, thứ ánh sáng vừa là phúc lành, vừa là lời ràng buộc. Mỗi kỳ trăng tròn, ánh trăng rót xuống như rượu độc khiến máu trong họ sôi lên, lý trí dần tàn lụi. Thần Mặt Trăng thương xót, ban cho họ nghi thức duyên huyết nguyệt. Đó là lễ khắc nguyệt ấn, để họ chọn một linh hồn neo giữ mình lại.
Một Lang nhân quyết định khắc ấn tức là đã tự nguyện đặt sinh mệnh mình vào tay người khác. Họ tự nguyện cắt máu nơi cổ tay, để ánh trăng rọi xuống hòa cùng huyết đỏ, rồi đặt bàn tay của người kia vào vết thương đang rỉ. Máu và trăng quyện vào nhau tạo nên vệt cháy sáng hình lưỡi liềm khắc nơi da thịt, gọi là nguyệt ấn.
Lang nhân mang nguyệt ấn sẽ không bao giờ hóa sói nữa, bản năng trong họ được xoa dịu bởi tình yêu và sự gắn kết linh hồn. Một nửa linh hồn họ đã thuộc về một người duy nhất, mãi mãi.
Người đời khâm phục nói, Lang nhân mang nguyệt ấn tự nguyện kết duyên bằng máu, từng yêu đến độ dám giao cả sinh mệnh mình dưới trăng. Nguyệt ấn ấy không thể phai và không được khắc lại lần thứ hai. Họ sẽ luôn nghe tiếng gọi của nhau mỗi khi trăng tròn, đau đớn mà thấu hiểu, gần gũi mà không thể rời.
Và nếu... nếu người kia chết trước, Lang nhân sẽ dần mất đi nhân tính, sẽ dần bị ánh trăng hút cạn linh hồn, sẽ hóa thú, hóa điên, hoặc tan thành bụi.
Lang nhân mang nguyệt ấn không bao giờ có thể quay lưng lại với người họ đã chọn. Dù người kia hóa tro, dù thần linh gọi tên, dù cả thế gian quên mất, họ vẫn sẽ lần theo hơi thở ấy, tìm đến tận cùng của tuyết, của đêm, của trăng.
Bởi khắc ấn không chỉ là kết duyên bằng máu, mà là lời thề của linh hồn, "ta thuộc về người".
Kẻ mang nguyệt ấn là kẻ mạnh mẽ dám thề sống chết cùng ai đó rằng "ta sẽ đi theo người, đến khi ánh trăng cuối cùng tắt đi".
Truyền thuyết thứ hai kể về Hồ nhân mất đi linh vĩ, tức là hồ ly vì yêu mà hiến đuôi linh hồn và sẽ mất đi một phần bản thể.
Hồ tộc được sinh ra cùng sương và mộng, thân thể nhẹ như khói, tiếng cười thoảng như gió. Mỗi hồ nhân đều mang chín chiếc linh vĩ tựa cội rễ linh hồn, nơi chảy trôi ký ức và nơi che giấu cảm xúc thầm kín nhất.
Khi thực lòng yêu, họ sẽ lặng lẽ trao đi một phần bản thể, một chiếc linh vĩ, cho người họ tin. Hồ nhân cúi đầu, rút ra chiếc đuôi đang sáng, rồi đặt lên tim kẻ kia. Linh vĩ ấy hóa thành sương bạc, ngấm vào lồng ngực, khiến trái tim người đó đập cùng nhịp với hồ nhân.
Người nhận linh vĩ được che chở khỏi tà khí, khỏi rét lạnh, khỏi lạc lối trong mộng giới bởi trong họ giờ đây đã có ánh sương soi đường của hồ.
Nhưng Linh vĩ không phải thứ có thể được cho đi tùy tiện. Mỗi chiếc là một phần linh lực, một mảnh linh hồn thật sự. Khi hiến một chiếc, hồ nhân sẽ quên đi một phần ký ức, có người quên mùi hương mùa đầu tiên, có người quên cả tên người mình yêu.
Hồ nhân hiểu, nhưng một khi đã quyết định trao đuôi, họ không oán hận, cũng không hối tiếc. Với họ, mất một phần linh hồn để người kia còn sống, còn bình an, là điều tự nhiên như trăng lên và sương rơi.
Hai truyền thuyết vốn chẳng liên quan, nhưng người đời đôi khi không kìm được mà lén kể thêm chuyện bi lụy, thế là họ lại thì thầm tiếp rằng:
"Nếu một Lang nhân mang nguyệt ấn gặp một Hồ nhân mất linh vĩ,
trăng sẽ rỉ máu, tuyết sẽ hóa sương,
và cả hai sẽ phải chọn, hoặc cùng sống trong tội, hoặc cùng chết trong tuyết."
./.
Ngày 9 tháng 11 năm 2025
- Mình viết "bảy đêm trăng." với nhân vật chính là hai em bíe Keonho và Seonghyeon của nhóm Cortis. Trong "bảy đêm trăng." của mình, tên hai nhỏ là An Kiến Hạo và Nghiêm Thành Huyền.
- Mình không sở hữu gì ngoài cốt truyện.
- Từ ngữ có thể bị pha trộn hơi lung tung giữa từ thuần Việt và từ Hán Việt, đôi khi do mình viết một lèo không đọc lại. Lỗi mình huhu, mong mọi người hoan hỉ bỏ qua mình vứiiiiiii...
- Mọi tên riêng hoặc kiến thức được đề cập đều hoàn toàn hư cấu, không phản ánh thực tế. Nếu có trùng tên người, tên địa điểm với bộ phim nào đó thì chỉ là do trí nhớ lộn xộn của mình lỡ cào bới từ kinh nghiệm 20+ năm xem phim mà ra...
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com