Nam quốc sơn hà
Bốn nghìn năm văn hiến, dân tộc ta đã không ít lần phải đối đầu với quân xâm lược bạo ngược hung tàn, nhưng chưa một lần nào dân ta khuất phục trước kẻ thù. Truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc đã khắc sâu trong tiềm thức, đồng bào nước Việt sẽ vẫn mãi đứng lên đấu tranh, can trường bất khuất mỗi khi có giặc xâm lăng. Niềm kiêu hãnh đó đã được khẳng định một cách vô cùng rõ ràng trong những áng văn, áng thơ bất hủ có giá trị muôn đời, được viết nên từ máu tim của con dân Đại Việt. Mà tiêu biểu trong đó là thi phẩm "Nam Quốc Sơn Hà" tương truyền của Lý Thường Kiệt, đây cũng được coi là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của nước ta, còn được gọi là "Bài thơ Thần". Bài thơ đã để lại cho em niềm tự hào vô hạn về đất nước có độc lập chủ quyền và càng quyết tâm bảo vệ non sông, đất nước hơn nữa.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ có sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ)
"Nam quốc sơn hà" khác với những bài thơ khác, tác phẩm thơ ca này được xem là bài thơ thần. Tới tận ngày nay, bài thơ vẫn chưa được xác định rõ tác giả là ai, chỉ biết là tương truyền của Lý Thường Kiệt - một danh tướng vĩ đại nhà Lý và thi phẩm này cũng gắn liền với một sự kiện lịch sử vô cùng thiêng liêng. Năm 1077 quân Tống do tướng Quách Quỳ chỉ huy sang xâm lược nước ta. Vua Lý Nhân Tông đã cử Lý Thường Kiệt đem quân chặn ở tuyến sông Như Nguyệt, chặn đánh trước để giành thế chủ động trong trận chiến. Vào một đêm nọ, tiếng thơ văng vẳng từ đền thờ của hai vị thần Trường Hồng và Trương Hát. Bài thơ đã truyền cho quân ta một sức mạnh vô song để đánh đuổi kẻ thù xâm lăng. "Nam quốc sơn hà" không chỉ là một bài thơ thần, mà còn là niềm tự hào, là lòng yêu nước, ý chí quyết tâm đánh đuổi kẻ thù-một vũ khí bất bại chống lại giặc ngoại xâm. Chỉ là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt giản đơn, thế nhưng khi nghe thấy, tinh thần của quân giặc sẽ bị hồn bay phách lạc, chưa đánh đã chạy. Như một lời khẳng định chắc chắn chiến thắng sẽ luôn thuộc về dân tộc ta, chẳng thứ gì có thể đổi thay.
Mở đầu là hai câu thơ với khí thế hào hùng, rắn chắc, trang trọng, và cũng có thể nhận thấy lòng tự hào, tin tưởng lạ kỳ từ tác giả:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở)
Câu thơ đầu tiên, ta có thể nhận thấy sự so sách rất rõ ràng rằng "Nam đế" với "Bắc đế". Cả hai nước "Nam và "Bắc" là bình đẳng, ngang hàng, chứ chẳng như suy nghĩ của Hoa quốc nghĩ rằng dân tộc ta chỉ là một dân tộc nhỏ bé, chỉ là nước nhỏ, chư hầu, phải phụ thuộc vào vương triều đất Bắc. Lũ giặc phương Bắc quen thói hống hách, trịch thượng, luôn nuôi tham vọng cướp nước nên chúng khăng khăng không chấp nhận.
Phong kiến phương Bắc tự cho rằng bản thân là "thiên tử" là con trời, rồi coi khinh các nước xung quanh, cho rằng những nước đó chỉ là quận, huyện nhỏ của Trung Quốc. Nếu xưng "vương"-tức là người cai quản nước nhỏ thì phải qua Trung Quốc xin phép được phong "vương"-tức người cai quản một vùng chịu sự phụ thuộc vào vương triều đất Bắc. Có thể nó từ "đế" đã gợi lên trong lòng ta một niềm tự hạo vô hạn về một đất nước có chủ quyền, lãnh thổ và độc lập, đồng thời cũng khiến ta vô cùng khâm phục bản lĩnh của cha ông ta.
Ngay câu thứ hai, tác giả liền đưa ra dẫn chứng để khẳng định nước Nam là của Nam đế. Dùng từ "tiệt nhiên" có ý rằng đây là thứ vô cùng tự nhiên, mà điều tự nhiên ở đây chính là thứ được nói trong câu thơ trên, lãnh thổ nước Nam đã được vạch sẵn bằng "Thiên thư" hay còn có nghĩa là "sách trời'. Ta hiểu được ranh giới lãnh thổ của ta đã được sách trời định sẵn, đã bao đời nay rồi, non sông nước Nam phải là của Nam đế, người dân đất Nam. Không có bất cứ kẻ nào được quyền xâm lăng, định đoạt ngoại trừ Nam đế. Khẳng định nước Nam là một nước có độc lập, có chủ quyền, có lãnh thổ riêng. Đó là một sự thật hiển nhiên, không thể thay đổi. Hai câu thơ đầu thể hiện ý thức độc lập chủ quyền của một dân tộc và khẳng định nước ta độc lập, tự cường, bình đẳng, ngang hàng với các hoàng đế Trung Hoa. Khẳng định nước Nam là một nước có độc lập, có chủ quyền, có lãnh thổ riêng.
Và hai câu thơ cuối như thể cảnh báo cho quân địch - những kẻ cả gan làm trái ý trời:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
(Giặc dữ có sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ)
Sự phân định rõ ràng ở "thiên thư" là sách trời, xâm lược một đất nước có lãnh thổ riêng được sách trời công nhận là trái ý trời, và sẽ chịu thất bại thảm hại. Dùng "nghịch lỗ" – lũ giặc xấu xa dám làm điều trái với đạo lý của trời, của người, thể hiện thái độ khinh bỉ tới tột cùng của ta với kẻ thù xâm lược vô pháp vô thiên. Lũ giặc man rợ độc ác đi tới đâu là gieo đau thương, khốn khó đến đó. Câu thơ cũng đồng thời là câu hỏi, được dùng để luận tội, lên án kẻ thù. Dương như câu thơ thứ ba này, tác giả ngầm thể hiện sự đau đớn, xót xa, thương cảm, những cũng là lời lên án mạnh mẽ, hào hùng của cha ông ta trước tội lỗi của kẻ thù xâm lăng. Trái ý trời là phi nghĩa, mà phi nghĩa thì chỉ có thất bại và diệt vong.
Ở câu thơ cuối cùng, thái độ của cha ông ta được thể hiện rõ hơn nữa. Nếu lũ giặc kia dám mang quân sang xâm lược nước ta, chúng sẽ nhận lấy thất bại thảm hại. "Chúng mày nhất định sẽ tan vỡ". Từ "nhất định" như thể khẳng định rằng lũ giặc chắn chắn sẽ thất bại, còn chúng ta chắc chắn sẽ chiến thắng, chẳng có gì có thể thay đổi được điều đó.
Đọc xong bài thơ này, lòng em dân lên niềm tự hào chẳng nói thành lời. Tự hào vì đất nước ta là một đất nước có chủ quyền đọc lập, và tự hào vì sự kiên cường bất khuất của tổ tiên. Những chiến công hiển hách, thiêng liêng, vĩ đại của cha ông ta sẽ được trường tồn mãi về sau. Truyền thống yêu nước, giữ nước sẽ mãi được kế thừa, cho dù có qua bao thế hệ đi nữa, như thể đã ăn sâu vào trong máu của từng người con dân đất Việt.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com