QUANG CẢNH TỪ TRÊN BỨC TƯỜNG
Khi theo dõi quá trình tìm hiểu lịch sử và lập luận của Tom, chúng ta đã đi quá chuỗi sự kiện trong khu vườn – theo như Tom nhận thấy – một chút. Nhà cây nơi Tom và Hatty xích mích chưa được xây ngay sau phần đàn ngỗng lạc vào bãi cỏ và phần cô bé mặc đồ tang. Thực sự, sau những sự việc đó, có lúc Tom tưởng đã mất Hatty mãi mãi. Khu vườn trở nên vô cùng hoang vắng.
Cậu gọi và tìm khắp những chỗ hai đứa thường trốn. Cậu chạy quanh cây linh sam, cứ như nghe thấy tiếng chân cô bé đi nhè nhẹ trên lớp đất khô phía bên kia, và luôn lẩn trốn cậu. Nhưng nếu Hatty trốn thật thì cô bé đã trốn kỹ hơn bao giờ hết và khiến khu vườn dường như chỉ còn một màu xanh trống vắng.
Cậu thấy trên bờ tường phía Nam có một làn khói bay lên hòa vào bầu không khí mùa hè êm dịu, rồi cậu chợt nhận ra có lẽ Abel đang đốt rác. Cậu khựng lại ngay cạnh cánh cửa ra vườn quả và băn khoăn không biết có nên đẩy mình xuyên qua đó một lần nữa không. Nếu Abel ở bên đó, có thể anh sẽ có đầu mối cho cậu biết chỗ Hatty.
Đột nhiên cánh cửa mở ra và Hatty bước qua. Ngay tức khắc, sự lo lắng của Tom chuyển thành khó chịu, nhất là khi Hatty chẳng có chút gì áy náy – còn có phần khoái chí; thậm chí là vui sướng. Mặt cô bé ửng hồng và có vết nhọ ở một bên má; cô bé giữ gì đó trong túi tạp dề.
"Sao cậu không trả lời tớ?" Tom vặn hỏi. "Cậu không nghe thấy tớ à?" Tớ đã gọi, gọi mãi."
"Tớ mải giúp anh Abel đốt lửa."
"Cậu chỉ cần ra mở cửa và để tớ vào. Tớ cũng thích đốt lửa."
"Cậu không thích ngọn lửa này đâu – cậu sẽ không thích thứ bọn tớ đốt." Cô bé nhìn cậu bướn bỉnh.
"Vậy cậu và anh ấy đã đốt gì thế?"
Lúc này, cô bé đã mất đi vẻ hồ hởi và phải đưa mắt nhìn xuống; nhưng rồi cũng cất tiếng nói: "Cung và tên. Ôi, Tom, đấy là tại anh Abel muốn đốt."
Tom im lặng, cố đoán xem tại sao Abel lại làm thế: anh vẫn nói cung tên có thể gây rắc rối cho Hatty, và quả thực là vậy.
Hatty nói tiếp: "Không chỉ thế, anh ấy còn bắt tớ hứa không được mượn dao trong nhà bếp nữa, vì dao rất sắc và có thể làm tớ bị đứt tay. Nếu tớ hứa để anh ấy đốt cung và tên, nếu tớ hứa không nghịch dao làm bếp nữa, anh ấy nói sẽ cho tớ một con dao nhỏ."
"Dao gì?"
Cô bé cho tay ra khỏi túi tạp dề và mở bàn tay ra: trong lòng bàn tay cô bé là một con dao nhíp lòe loẹt rẻ tiền, được trang trí với những hình nút thắt trái tim màu xanh. "Anh ấy mua ở hội chợ để tặng chị Susan nhưng chị ấy không lấy, vì giữ dao của người yêu xui xẻo lắm. Vì thế anh ấy cho tớ. Một con dao nhỏ xinh xắn." Cô bé âu yếm lật mặt kia của con dao lên.
"Mở ra đi," Tom yêu cầu. Hatty làm theo, và chìa nó về phía Tom để cậu có thể nhìn thấy lưỡi dao – chỉ có duy nhất một lưỡi.
"Đúng thật!" Tom thoáng bật cười. "Chắc chắn con dao này chẳng thể làm cậu đứt tay được! Chắc chỉ cắt được bơ. Chỉ thế thôi!"
Hatty vẫn thích thú ngắm nhìn những họa tiết trang trí sặc sỡ trên cán dao; rồi cô bé nói: "Tớ đã dùng nó, không chỉ để cắt bơ đâu. Lại đây, tớ sẽ chỉ cho cậu xem."
Có một cảm giác huyền bí và tự hào khi cô bé đưa cậu tới chỗ một cây thủy tùng – cây này được đặt tên là Đỉnh Cỏ - và chỉ cho cậu chỗ thân cây đã bị khắc lên – hay đúng hơn là nửa cứa, nữa ấn – những chữ cái đầu: "H.M."
Tom đang thắc mắc không biết họ gì có chữ cái đầu là M nhưng không muốn hỏi, thì Hatty nói: "Thế có nghĩa là 'Hatty Melbourne đã trèo lên cây này'. Tớ đã dùng con dao này khắc chữ cái đầu của tên tớ lên tất cả những cây thủy tùng – tất nhiên là trừ Láu Cá."
"Khắc chữ lên cây là sai đấy," Tom nói, chợt nhớ ra mình phải tỏ ra thật gay gắt. "Việc đó chẳng khác gì vứt rác bừa bãi."
Hatty mở to mắt, như thể cô bé chưa nghe đến rác bao giờ; và qua biểu lộ trên khuôn mặt, Tom có thể thấy cô bé không nghĩ khắc chữ lên cây là sai, cây của cô bé cơ mà, và dù sao đi nữa, cô bé vẫn định làm tiếp nếu thấy thích mà không cần nói cho cậu biết.
"Còn nữa," Tom cảnh báo, "cậu chỉ khiến mình gặp rắc rối thôi nếu có ai nhìn thấy những thân cây kia. Họ sẽ nhìn thấy 'H.M.', và họ sẽ biết đó là tên cậu, họ sẽ biết chính cậu là người khắc. Nếu tớ có muốn khắc lên cây – tất nhiên là tớ chẳng bao giờ muốn – nhưng nếu có muốn thì hình con mèo đực thân dài, tượng trưng cho cái tên Tom Long.
Hatty ghen tị. "Melbourne đúng là cái họ ngu ngốc."
"Còn chữ Hatty," Tom nói. "Cậu có thể vẽ cái mũ." Mắt Hatty sáng long lanh. "Nhưng tát nhiên, cậu đừng làm thế - tớ đã nói lý do rồi đấy. Còn bây giờ," cậu nói, bỗng dưng thấy mệt vì phải nói, "chúng ta làm gì đó đi."
"Ừ, đi," Hatty đồng ý. Rồi, ngay lập tức, hai đứa lại bắt đầu chơi trong vườn, như thể khu vườn và những trò chơi của chúng chẳng bao giờ chấm dứt.
Hai đứa lại trèo cây – đây là niềm đam mê của chúng. Vì Hatty từng nói mình không trèo được cây Láu Cá nên Tom đã dạy cô bé cách trèo. Cô bé học một cách khó khăn – chủ yếu vì sợ làm bẩn quần áo rồi bác cô bé sẽ để ý thấy và bắt phạt; nhưng một lát sau, Hatty đã biết cách bấu chân và tay vào thân cây, và bò lên trên. Cuối cùng cô bé đã trèo lên được Láu Cá: cô bé hân hoan.
Hai đứa chuyển sang trò chơi mới. Hatty tìm thấy những khoảng đất có cây lúa mạch dại mọc hoang và ngắt chúng. Cô bé chỉ cho Tom cách ngắt phần đầu ngọn cây ra rồi ghép nó lại; và rồi, một tay cầm ngọn cỏ, tay kia quất vào nó bằng một ngọn cỏ khác, miệng lặp đi lặp lại: "Bà nội – bà nội – nhảy khỏi giường tôi." Ở từ "nhảy", cô bé sẽ quất thật mạnh và phần ngọn sẽ bật ra khỏi phần thân xanh bay vào không trung. Hatty phá lên cười và Tom cũng vậy.
Hai đứa cùng nhau bắt lũ ếch non dưới những vạt lá dâu tây ("Abel nói chúng hút nước trong quả dâu tây") và thả cho chúng nhảy ra chỗ khác; có lần chúng đã tìm thấy một con cóc trong khe nứt dưới bậu cửa đá của nhà kính – trông nó chẳng khác gì hòn đá nâu vô tri vô giác, chẳng hề nhúc nhích ngoại trừ hơi thở phập phồng hai bên sườn.
Hai đứa chọc ghẹo lũ chim trong khu vườn. Tom đặc biệt giỏi khoản làm chúng bất ngờ, và lừa con chim giẻ cùi vốn rất cảnh giác; nhưng hai đứa cũng bảo vệ lũ chim khỏi những người khác. Hatty gỡ những con chim khỏi hàng rào lý gai và bên dưới những tấm lưới phủ dâu tây; và – khi biết chắc Abel không ở gần – cô bé sẽ mở chốt cửa bẫy chim sẻ của anh. Khi có người anh họ nào đem súng vào vườn, Tom sẽ chạy lên trước, vẫy tay và hét lớn để cảnh báo lũ chim. Lũ bồ câu rừng nặng nhọc bay vào nơi trú ẩn an toàn trong rừng. Chưa con nào bị bắn trúng – nếu không tính chính Tom, người từng ăn một loạt mảnh đạn văng vào giữa người. Hatty tái mét; còn Tom thì phá lên cười – chúng làm cậu nhột.
Một hôm, khi Tom và Hatty đang chăm chú nhìn chiếc đồng hồ mặt trời trên bức tường phía Nam, cố hiểu xem nó báo giờ thế nào, thì hai đứa thấy một con chim hồng tước đang đậu trên một trong những tia nắng mặt trời bằng đá phía trên kia đồng hồ - những tia nắng hơi chìa ra khỏi tường – và rồi, nó biến mất.
"Cậu nghĩ ở bên đó có tổ chim hồng tước không?" Hatty thì thầm; Tom nghĩ có thể có, nhưng tất nhiên nhìn từ dưới thì không thể nói chắc được.
"Có lần anh James đã đi trên bờ tường này đấy," Hatty nói.
"Tớ không trèo lên đâu," Tom đáp. "Như thế thật ngu ngốc, chứ chẳng phải dũng cảm. Tường quá cao, mép tường rất hẹp: quá nguy hiểm."
"Ôi Tom, tớ có bảo cậu trèo lên đâu!" Hatty nói, giọng sợ sệt. "Anh James làm thế là vì bị thách thôi. Anh Edgar thách và anh James đã trèo lên. Anh ấy đi hết cả bức tường, trèo xuống, đánh nhau với anh Edgar, và cuối cùng bị nôn. Sau đó, anh Hubert biết chuyện và rất bực mình vì anh James có thể đã bị ngã gãy cổ."
Tom im lặng, suy nghĩ về những gì Hatty vừa nói. Cậu bắt đầu đổi ý về việc trèo tường vì cậu thấy mình chẳng thể gặp nguy hiểm như James. Có thể cậu sẽ bị ngã, nhưng dù có ngã ở độ cao đó cậu cũng chẳng thâm tím hay xây xước gì.
Cậu nói với Hatty: "Tớ sẽ xem có thật sau đồng hồ mặt trời có tổ chim không; tớ sẽ đi trên bức tường đó."
"Ôi, Tom!"
Cách Hatty thối lên câu "Ôi, Tom!" khiến cậu cảm thấy ấm áp và dễ chịu. Cậu vỗ nhẹ vào tay cô bé. "Đừng lo. Tớ không sao đâu."
Cậu trèo lên bờ tường bằng cách bám vào cành của một cây lê mọc bám trên giàn đứng. Mặc kệ những điều đã tự nhủ, cậu cảm thấy sợ khi đứng thẳng người trên tường. Mặt tường rất hẹp – chỉ hơn hai mươi phân, có chỗ còn hẹp hơn do gạch bị vỡ; cây mọc khá rậm rạp dọc theo bờ tường khiến cậu phải bước lên chúng; và hai bên của con đường hẹp và nguy hiểm đó là mặt tường dốc và cao; một bên là vườn cây, còn bên kia là khu vườn, Hatty đứng đó, khuôn mặt tái mét của cô bé ngước lên nhìn cậu. Nhưng Tom biết cậu không được nhìn xuống nếu còn muốn an toàn bước đi trên bờ tường. Cậu ngước mắt lên và bước từng bước chắc chắn về phía trước.
Cậu nhanh chóng đi qua cổng vòm vào trong vườn quả, rồi qua giàn nho leo trên tường, rồi qua chiếc đồng hồ mặt trời. Cậu có thể thấy những chiếc lá khô và những đám bụi rác trôi vào khoảng rỗng giữa bức tường và những tia nắng bằng đá. Có một chỗ lá dày hơn chỗ khác: Tom bò trên mặt tường, nhòm thật gần, và thấy đây đúng là tổ chim hồng tước, với những đám rêu còn xanh nâu vẫn được con chim đem về rải ổ. Cậu có thể thấy một cái lỗ nhỏ dẫn vào trong tổ.
"Có tổ chim hồng tước thật," cậu khẽ kêu lên với Hatty. "Nhưng tớ không dám động vào – ý tớ là, tớ không muốn làm hại nó."
"Quay lại và trèo xuống đi Tom!"
Cậu lại đứng thẳng lên để quay lại như lời Hatty; nhưng giờ đây, đứng đó và thoải mái nhìn quanh, một niềm vui sướng chợt đến với cậu. Cậu bắt đầu bước đi như một nhà vua. Ở phía dưới, Hatty cũng bước theo cậu và thầm thì với cậu; nhưng cậu không để ý, cậu đang đứng cao hơn cô bé và cả khu vườn rất nhiều. Cậu đã tưởng mình ở cao lắm khi trèo lên ngọn cây thủy tùng, nhưng bây giờ cậu còn ở chỗ cao hơn. Chỉ cần đưa mắt là cậu có thể thấy toàn bộ khu vườn, cả những bức tường và hàng giậu bao quanh. Cậu có thể thấy ngôi nhà: bên một ô cửa sổ trên tầng, Susan đang nhoài người để gửi nụ hôn gió tới ai đó ngoài khu vườn – Tom đoán là Abel. Cậu có thể nhìn thấy cả sân trong của ngôi nhà – cậu không hề biết đến sự tồn tại của nó: ở đó cậu thấy Edgar, đang mải mê tắm cho Pincher trong chiếc bồn tắm bằng thiếc đầy xà phòng. Pincher trông sạch sẽ và khổ sở với cái cổ nghển ra phía trước, hai tai nằm rạp về phía sau và đuôi cụp xuống. Tom hồ hởi gọi nó: "Vui lên đi chứ, Pincher!" Pincher nghe thấy cậu, hoặc đã nhìn thấy cậu, hoặc thậm chí đã đánh hơi thấy cậu – thật khó biết: thậm chí dưới lớp bọt xà phòng, lông cổ nó dựng lên, và đột nhiên nó lao ra khỏi bồn tắm; Edgar phải đuổi khắp sân để bắt nó, cậu ta khó chịu ra mặt còn người thì ướt và dính đầy bọt xà phòng.
Tom nhìn qua phía bên kia ngôi nhà và khu vườn, mắt dừng lại ở con đường nhỏ nơi ngựa và xe đang nặng nề chuyển động. Cạnh con đường nhỏ là cánh đồng cỏ, rồi đến một đường ngoằn ngoèo mà cậu biết chắc là con sông. Con sông chảy qua đồng cỏ, tới làng, và chảy qua dó. Rồi nó chảy đến một cây cầu có lan can màu trắng, trôi lững lờ dưới chân cầu; nó hướng về phía hồ nước, cối xay, cửa đập, bến phà nào đó mà cả Tom và Hatty đều không biết. Dòng sông cứ chảy mãi theo hướng Castleford, Ely và King's Lynn, rồi hòa vào đại dương bao la.
"Cậu nhìn thấy gì phía bên kia khu vườn thế Tom?" Hatty khẽ hỏi, trí tò mò của cô bé đã lấn át nỗi sợ hãi.
"Giá mà cậu lên được trên này để xem..." Tom trả lời và những lời nói của cậu trôi lơ lửng khắp khu vườn.
Cậu không thể nói cho cô bé biết – không hy vọng truyền đạt được nếu như cô bé không nhìn thấy những thứ ở phía xa. Ở vùng nông thôn nơi mặt đất bằng phẳng – như ở đây – chỉ cần đứng trên một mô đất thấp cũng có thể trông ra rất xa như đang đứng trên đỉnh núi. Trước đây Tom mới chỉ biết đến khu vườn, và vài thứ ở gần đó; bây giờ, đứng trên bờ tường, cậu như nhìn thấy cả thế giới.
"Nói cho tớ biết cậu nhìn thấy gì đi," Hatty năn nỉ.
"Ừ, đứng ở trên này, cậu có thể nhìn thấy dòng sông," Tom bắt đầu nói, "và nếu cậu nhìn theo dòng sông chảy..."
"Thì sao? Thì sao?" Hatty thầm thì.
Tom không nói hết câu, vì lúc đó Abel đã đến gần góc vườn có mấy cái cây. Anh đang chạy; anh lao thẳng đến chỗ Hatty, đặt tay lên vai cô bé và ấn xuống, Tom có thể thấy cô bé đột ngột quỳ sụp xuống. Rồi anh ấn một vật vào tay Hatty, đứng trên cô bé và bắt đầu thì thầm rất nhanh điều gì đó. Tom nghe thấy tiếng Hatty đáp lại: cô bé có vẻ sợ hãi. Cậu không biết cả hai đang nói gì.
Tom vội vã quay trở lại và trèo xuống khu vườn. Lúc này, Hatty đang đứng một mình.
"Có chuyện gì thế?" Tom hỏi.
"Anh Abel tưởng tớ định trèo lên bờ tường giống anh James," Hatty nói. "Anh ấy muốn ngăn tớ lại vì sợ nguy hiểm."
"Tớ tưởng anh ấy định đánh cậu."
"Anh ấy bắt tớ quỳ xuống và thề với cuốn Kinh Thánh của anh ấy – thề không bao giờ trèo lên bờ tường và đi trên đó."
"Anh ấy nổi giận à?" Tom hỏi.
Hatty nói từ tốn: "Không. Tớ đoán... có khi... anh ấy sợ."
"Sợ ư?" Tom cau mày. "Ý cậu là cậu sợ; còn anh ấy nổi giận."
"Không. Tớ sợ một tí thôi, chỉ vì anh ấy nhanh và khỏe quá; nhưng tớ biết chắc anh ấy cũng sợ nữa, và còn sợ nhiều hơn tớ. Khi anh ấy bắt tớ cầm cuốn Kinh Thánh, tay anh ấy toát mồ hôi lạnh và run lên."
"Sao tự nhiên anh ấy lại nghĩ cậu định trèo tường nhỉ?" Tom hỏi.
"Vì anh ấy thấy tớ cứ ngước nhìn về hướng ấy, tớ nghĩ vậy."
"Không, đó không thể là lý do được," Tom nói. "Anh ấy đang chạy khi rẽ ở góc vườn có mấy cái cây; chắc chắn anh ấy đã cầm cuốn Kinh Thánh ở tay trước khi nhìn thấy cậu."
"Chắc là anh ấy nghe thấy tớ nói chuyện với cậu."
"Không: cậu chỉ nói thầm thì thôi; và anh ấy cũng không thể nghe thấy tớ được. "Tom không có ý nói là cậu đã nói rất nhỏ, vì cậu không hề nói nhỏ; ý cậu là dù cậu có hét to hết cỡ, thì Abel cũng chẳng thể nào nghe thấy giọng cậu.
"Vậy thì," Hatty nói, "có thể chị Susan đã nhìn thấy tớ từ cửa sổ phòng ngủ, và đi xuống bảo anh ấy."
Vào khoảng thời gian này, Hatty và Tom đã bắt đầu dựng nhà trên cây, và hai đứa mau chóng quên đi hành vi kỳ lạ của Abel vì mải mê với công việc.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com