laid our names to rest
viết bởi linh (hoặc liliane/rei/young/gọi là gì cũng được)
title: lie from the front lines
fandom: ensemble stars!!
characters: oukawa kohaku, shinkai kanata, hakaze kaoru, mentioned-mikejima madara
kohaku-centric
pairing: mikejima madara x shinkai kanata, implied-hakaze kaoru x shinkai kanata
categories: hanoi!AU, (post) Vietnam war!AU, OOC, angst
length: 3595 từ
"welp, in our case it's gonna be hell fer sure. 'cause we hurt other people, make 'em suffer, and snatch away what's precious to 'em. nah, it's 'cause we already dirtied not just our hands but our very souls with the wrongdoings we committed a long time ago." – oukawa kohaku
viết tặng Amelie,
chăm ghi bài và đừng ngủ trong giờ nữa em nhé.
tâm sự ngoài lề:
– đây là request của Amelie trong chuyên mục chữ mình hứa viết tặng bạn bè trong lúc rảnh rỗi, nội dung chi tiết ở trong ảnh ở dưới
– đáng ra tất cả fic thuộc "chuyên mục chữ mình hứa viết tặng bạn bè trong lúc rảnh rỗi" sẽ đều nằm chung trong một book nhưng thích cái này quá nên xin phép tách ra thành book riêng...
– mình học dốt sử lắm nên xin đừng đánh giá tính thực tiễn của các tình tiết...
– đừng thắc mắc về sự xuất hiện của yếu tố trường Buoi trong fic nhé mình đang tận dụng tối đa những năm tháng còn lại để viết về trường Buoi dưới tư cách một học sinh trường mà không phải viết bài bóc phốt =))))))
– fic được lấy cảm hứng từ tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh (nhưng không nhiều lắm vì hồi viết cái này mình mới đọc xong có khoảng mấy chục trang đầu...)
– tên fic được lấy từ bài hát mars - sleeping at last (mình có để video trên banner)
***
Kohaku một lần nữa nhìn vào mảnh giấy trong lòng bàn tay phải, rồi ngước lên tấm biển thiếc in số ba trăm linh sáu treo bên trên cánh cửa gỗ. Hít sâu một hơi, cậu vừa lấy hết can đảm nhấn nút trên cái chuông bằng nhựa bên cạnh cửa, vừa chuẩn bị trong đầu những lời cần nói khi cánh cửa mở ra. Đã vào đầu giờ chiều, tháng Tám trời vẫn chưa hết oi bức. Đưa tay lau mồ hôi trên trán, Kohaku nơm nớp lo lắng chủ nhà sẽ không mở cửa cho cậu vì đang bận nghỉ trưa.
May mắn thay, chỉ tầm nửa phút sau đó đã có tiếng lạch cạch mở chốt phát lên từ phía bên kia cánh cửa. Xuất hiện trước mặt Kohaku là một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi, phần tóc sau gáy hơi dài, mặc áo sơ mi cộc tay với những họa tiết in chìm loáng thoáng nổi vân lên dưới ánh sáng, dáng dấp kiểu văn nghệ sĩ. Trước ánh nhìn dò hỏi của anh ta, Kohaku ngập ngừng một lúc rồi cất tiếng:
– Anh... có phải là anh Shinkai Kanata không?
Nghe cái tên, anh ta lắc đầu, song mỉm cười bảo Kohaku cứ vào nhà ngồi đợi, "để tôi gọi cậu ấy cho cậu".
Căn nhà tập thể nhỏ bé chỉ khoảng trăm mét vuông, song được sắp xếp gọn gàng đơn giản: sau cái sảnh để giày dép rất ngắn là một gian phòng khách với một bộ bàn ghế uống nước bằng gỗ thấp kê sát tường, để thừa phía bên phải một lối đi rộng rãi; góc tường bên trái dẫn sang nhà bếp; chính giữa vách tường bên phải là cánh cửa bằng thiếc của một phòng riêng có ban công nhỏ trồng cây cảnh; thẳng phía bên trong phòng khách có một phòng riêng nữa, bức tường bên ngoài phòng vừa vặn ghép một giá để đồ.
Kohaku chọn một ghế con bên bàn uống nước, ngó nghiêng xung quanh trong lúc chờ người đàn ông lúc nãy gọi người cậu cần tìm. Ở sau cánh cửa gỗ đang khép hờ của gian phòng riêng phía trong anh ta đi vào có mấy tiếng lịch kịch khe khẽ. Lát sau, anh ta cùng một người đàn ông khác đi ra: người đàn ông mới có mái tóc căt ngắn gọn gàng, gương mặt hiền hoà dễ chịu, bằng cách nào đó mang đến cho người nhìn một cảm giác đặc sệt "Hà thành". Chỉ vừa nhìn thoáng qua, Kohaku đã biết chắc đây chính là Shinkai Kanata.
Kanata nhìn Kohaku, song quay sang trao đổi vài câu thầm thì với người đàn ông lúc nãy. Anh ta gật đầu rồi lui vào căn phòng chỗ vách tường bên trái, cánh cửa thiếc mở ra đóng vào gây nên những âm thanh rồn rột inh tai. Ngồi vào chiếc trường kỷ bên trái Kohaku trải dọc theo chiều dài bàn, Shinkai Kanata mở lời:
– Chào cậu, tôi là Shinkai Kanata.
Kohaku cũng lên tiếng chào lại:
– Tôi là Oukawa Kohaku. Tôi... hoạt động cùng đơn vị với anh Madara.
Cái tên mới được nhắc đến này khiến Kanata giật mình. Mắt anh trợn to, bàn tay đặt trên ghế nắm chặt lại. Miệng anh hơi hé ra, run rẩy, song dường như không thể cất lên nổi một âm thành nào.
– Anh ấy hi sinh năm bảy mươi tư trong một trận công phá Sài Gòn, chắc giấy báo tử gửi về cho gia đình anh ấy ở quê nên anh vẫn chưa hay tin. Xác cháy rụi nên chúng tôi không mai táng được. Song những đồ đạc gì còn giữ lại được của anh ấy tôi đã cầm theo hết cả.
Kohaku biết, ấy chẳng phải tin tốt lành gì cho cam. Tuy nhiên, có lẽ vào lúc này, Kanata chỉ cần hai câu thông báo gọn lỏn ấy để bình tĩnh lại. Thì cũng đã gần mười năm kể từ ngày Madara cất lời từ biệt Kanata, rời Hà Nội và đi vào giữa núi rừng, đi vào giữa những mưa bom lửa đạn, giữa những mùa mưa mùa khô và rồi giờ đây hóa thân thành cơn ác mộng đeo đuổi những người còn đau đáu nhớ về mình. Sau gần mười năm ấy, cái tin "Anh ấy hi sinh" là lời trấn an đủ đề làm yên lòng người ta. Kanata lấy lên mấy cái chèn từ dưới gầm bàn, bảo Kohaku đợi rồi vào bếp pha trà. Anh quay lại trong giây lát với ấm trà xanh trên tay. Vừa rót trà ra chén cho cả hai, Kanata vừa bảo:
– Nếu cậu không vội thì mình cứ thong thả nói chuyện. Tôi muốn biết rất nhiều về những năm tháng trong ấy của Madara.
Kohaku không phản đối. Sau khi đón lấy chén trà, cậu mở chiếc túi đeo theo bên mình và rút ra một xấp giấy gập đôi dày đến ba bốn phân, đã ố vàng, có những viền giấy còn bám đầy đất cát.
– Hy vọng là chữ còn đọc được. Anh ấy viết chúng suốt trong sáu năm quân ngũ, trước cả khi tôi gặp anh ấy, cho đến tận đêm trước khi mất. Tôi đếm ra tròn một trăm bức cả thảy. Tiếc là chiếc bút máy anh ấy dùng để viết thì tôi tìm mãi không thấy đâu nữa.
Kanata kéo sấp thư sang phía mình. Anh thử mở một lá ra và vội kìm nước mắt khi thấy cái tên mình đề trên đầu những dòng chữ đậm mùi chiến tranh. Lá thư này được viết từ những ngày Madara mới nhập ngũ, từ năm Mậu Thân sáu mươi tám. Đợi anh gấp lá thư lại và lấy lại bình tĩnh, Kohaku bắt đầu kể:
"Tôi đi lính từ năm bảy mươi, được thêm vào đoàn trinh sát, chung tiểu đội với anh Madara cùng mấy cậu lính mới nữa. Vì tính tình mọi người đều dễ gần và tốt bụng nên chúng tôi dễ làm thân. Nhưng chiến đấu cùng nhau hơn một năm tôi mới biết chuyện anh ấy với anh. Mà tôi cũng là người duy nhất được biết.
Tôi nhận ra một tối tiểu đội tụ tập đánh bạc, cược ảnh gái. Anh Madara khăng khăng xin được thay sang thuốc lá vì anh ấy không có ảnh, dù là gái quen hay lạ. Cả đám xúm xít vào hỏi thì anh ấy cũng khẳng định không có bạn gái chờ ở hậu phương. Thì cũng chẳng phải chuyện bất hợp lý, kể cả có thuộc tốp lớn tuổi trong đoàn thì cũng đâu có nghĩa là anh ấy buộc phải có người yêu. Nhưng tôi thì biết anh ấy nói dối. Tôi đã để ý nhiều đêm anh ấy thức trắng biên thư, nhưng với nét cười tủm tỉm trên mặt thì chắc chắn không phải thư nhà. Thế nên tôi mới thấy lạ, người như anh Madara thì việc gì lại phải giấu chuyện ấy với anh em trong tiểu đội."
"Cũng đúng đêm ấy anh Madara ra ngoài hút thuốc giữa khuya. Lúc ấy hẳn cả tiểu đội đều đã ngủ. Thế là tôi đánh liều theo anh ấy ra ngoài, thử hỏi "không phải bạn gái thì chắc là bạn trai hả anh". Thế mà đúng thật. Anh ấy giật mình thảng thốt lắm, nhưng khi thấy ngoài tôi ra thì chẳng ai khác biết nữa thì cũng yên tâm hơn. Từ hôm khi anh ấy vẫn thỉnh thoảng kể tôi nghe chuyện về anh mỗi lần có dịp. Dịp không còn ai khác nghe được ấy.
Nói chung cũng chẳng có gì nhiều, chuyện của các anh, anh cũng tự biết mà. Những chuyện như anh ấy gặp anh trong cái nắng chói chang chiếu qua khung cửa sổ gỗ trường Bưởi, như cuối tuần nào các anh cũng cùng bạn bè đạp xe hóng gió quanh Hồ Tây và chẳng bao giờ chán nói về bầu trời Hà Nội trong vắt trên đầu không cầu biết bao nhiêu lần nhìn lên; rồi thì chuyện về anh: rằng anh ở lại Hà Nội để học sư phạm và sẽ dễ dàng có được suất dạy chính ở một trường cấp hai nhờ chức cán bộ của bố anh. Những câu chuyện cụt lủn và chắp ghép. Nhưng anh biết không, chính những đoạn tủn mủn tự sự ấy đã gợi lên trong tôi một mục đích. Nhìn cách anh ấy vừa cười vừa nhớ và kể lại những điều ấy, tôi lại tự nhủ sau này chắc chắn phải ra Hà Nội, phải biết cho tận mắt những trường Bưởi, hồ Tây, và phải nhìn cho rõ mặt mũi của cái màu xanh của bầu trời ở đây. Và gặp cả cái người tên Shinkai Kanata tôi chỉ biết đến qua lời kể của anh Madara nữa. Tất nhiên là nếu trở về được từ chiến tranh."
Sau cái từ "chiến tranh" ấy, Kohaku ngừng lại một lúc. Quãng nghỉ rõ ràng đến mức Kanata cũng dễ dàng nhận ra được, nhưng anh cũng chẳng giục giã. Mất đến vài phút để Kohaku tiếp tục:
– Xin lỗi vì đã để anh chờ lâu đến thế cho cuộc gặp gỡ này, đáng ra tôi nên đến gặp anh để báo tin anh Madara ngay từ khi mới độc lập. Hẳn anh đã lo lắng rất nhiều trong suốt hơn một năm qua. Nhưng tôi mong anh hiểu cho, tôi cũng đã mất hơn một năm ấy để tự bình tâm lại, để làm quen với cuộc sống mới, để đối diện được với những cơn ác mộng sinh ra từ ký ức của cái thời ấy."
Kanata gật đầu, rồi nở một nụ cười, nhẹ nhàng đáp:
– Cậu không cần xin lỗi tôi. Tôi nên cảm ơn trước mới đúng, bởi cậu đâu có nghĩa vụ phải đến báo tin với tôi. Hẳn cậu đã trải qua rất nhiều khó khăn trong khoảng thời gian ở trong ấy, những thứ mà người chưa từng trải qua như tôi không thể hiểu được. Thế nên cậu cứ từ từ kể, đừng cố quá.
Lời trấn an ấy thành công giúp Kohaku lấy lại được khả năng để nói tiếp:
"Thật khó để nói cho anh hiểu, mà tôi cũng chẳng mong anh hình dung ra tình cảnh đáng sợ ấy. Ở đó, những thứ chúng tôi phải đối mặt không chỉ có quân địch, mà còn những vấn đề nội bộ trong đơn vị, những dịch bệnh, rồi những ma quỷ. Chúng khiến người ta khó mà tỉnh táo nổi. Đã rất nhiều khi tôi chẳng hiểu mình ở đây để làm gì, và đang chiến đấu vì cái gì.
Biết bao nhiêu người đã chết dưới nòng súng của tôi rồi? Liệu có thật tất cả bọn họ đều là những tay đế quốc ngang tàn trơ trẽn tìm đến xứ này để bóc lột và đàn áp chúng ta, hay tất cả chiến sĩ chúng tôi đều là những sinh linh cao đẹp cầm súng chiến đấu vì tổ quốc mà quên đi chính mình như sách vở vẫn ngợi ca không? Tôi không dám chắc có bao nhiêu người trong số chúng tôi thực sự chiến đấu vì tương lai đất nước, nhưng ít nhất thì tôi quen chẳng ít người đã thú thật rằng khi nổ súng, tất thảy những gì họ muốn bảo vệ chỉ là tính mạng của mình. Còn tôi, thời ấy tôi nã đạn như bản năng mà chẳng may mảy một ý nghĩ, một mục tiêu nào trong đầu. Cứ thấy ai ở chiến tuyến bên kia là bắn, chỉ có vậy thôi. Thế rồi đến khi nhìn lại, biết bao nhiêu thân xác đã lìa đời dưới tay tôi. Trong số ấy có những kẻ thực sự nhăm nhe đất nước ta, song cũng chẳng thiếu những lính đánh thuê ở các nước thuộc địa, những người chẳng có lấy một chút ý thức về mục đích của cuộc chiến. Chúng tôi đã lấy đi của họ một cuộc đời, và lấy đi của những thân nhân chờ đợi họ nơi quê nhà một người con, một người yêu, một người cha, một người chồng. Dẫu là bất đắc dĩ, nhưng chúng tôi đã làm tổn thương biết bao nhiêu người vô tội, đã cướp đi của họ biết bao nhiêu điều quý giá. Chúng tôi chưa biết những năm tháng cuộc đời mình đã bỏ ra rồi sẽ giúp ích được bao nhiêu cho đất nước, song tay đã nhuốm quá nhiều máu của những người xa lạ. Mà có khi không chỉ đôi bàn tay, mà đến cả tâm hồn chúng tôi cũng chẳng hề cao quý đẹp đẽ, khi đã nặng trịu những buồn đau, những tuyệt vọng và sợ hãi nơi chiến trường."
"Có những giai đoạn tôi thậm chí còn chẳng sợ cái chết. Tôi cảm thấy như cái thứ ấy đã len lỏi vào trong doanh trại và chực chờ nuốt trọn lấy mình, chỉ cần tôi gật đầu đồng ý là đủ. Làng tôi ở một tỉnh giáp Hà Nội đã cháy trong trận ném bom miền Bắc năm bảy mươi hai, chẳng một tin tức nào về chuyện sống chết của người thân, và bây giờ thì nơi ấy chỉ còn một mảnh đất bỏ hoang. Cái chốn đã hình thành nên cuộc đời tôi đã chẳng còn nữa, thế thì tôi đang bảo vệ điều gì? Và không chỉ người thân, những người bạn, những người anh em của tôi nơi quân ngũ cũng từng người một bỏ đi, rồi hoá thành những cơn ác mộng ám ảnh người ở lại. Chẳng thiếu những lần tôi nghĩ thà cứ bỏ mạng lại chỗ này cho đỡ nặng đầu.
Nếu có điều gì giữ cho tôi sống, thì chắc ấy là cái giấc mộng được chiêm ngưỡng Hà Nội mà tôi đã nhen nhóm được từ những lời kể của anh Madara. Và cả hy vọng mà anh ấy vẫn mang theo suốt những năm tháng đau khổ này.
Đến tận bây giờ tôi vẫn ngưỡng mộ anh Madara vì điều ấy. Vì đến tận cái đêm trước ngày hi sinh, anh ấy vẫn thức đến tận khuya viết cho anh mấy dòng thư, mặt mũi vẫn rạng rỡ cái nụ cười chứa đầy tình yêu ấy. Ở cái chốn mà đạn bom rội ào ào như mưa tuôn, máu người dâng đến mắt cá chân như nước lụt, sống chết chỉ là điều cỏn con chẳng ai quan tâm. Có người đồng đội phút trước vừa cùng mình chia nồi cơm, tranh nhau miếng thịt phút sau đã biến thành một cái xác be bét máu thịt cùng bùn đất. Ở cái chốn ấy, những điều lớn lao và đáng sợ trở nên tầm thường. Chính về thế mà cái tình yêu vẫn ấm nóng trong lòng anh Madara đến tận những giây phút cuối cùng của cuộc đời ấy, trông giản đơn nhưng lại là thứ vĩ đại nhất tôi từng thấy. Tình yêu ấy giữ anh ấy bình tĩnh suốt ngần ấy năm chiến đấu, ngần ấy năm nhè thân nhau mà nã đạn, ngần ấy năm chứng kiến những máu me rợn người."
"Khi biết chuyện anh Madara hy sinh, tôi nghĩ điều khiến anh ấy trăn trở nhất là phải đối diện thế nào với anh. Đối diện thế nào với cái buổi chiều anh ấy đạp xe sang tìm anh để thông báo quyết định nhập ngũ, với cái lời hứa chắc chắn sẽ quay về. Anh ấy hẳn đã dằn vặt lắm trên chiến trường khi nghĩ rằng đã bắt anh chờ đợi một hồn ma sẽ không bao giờ gặp lại. Có khi hồn ma ấy còn cũng dám quay lại Hà Nội để tìm anh nữa. Nhưng chắc anh ấy có thể yên tâm rồi, khi nhìn thấy anh thế này." Kohaku vừa nói vừa đưa mắt nhìn về phía căn phòng phía sau cánh cửa thiếc, nơi mà người đàn ông đã mở cửa đón cậu hẳn nhiên vẫn còn ngồi chờ trong đó. Kanata cũng hướng mắt ra phía ấy, bật cười khẽ rồi giải thích:
"Mong là anh ấy sẽ thấy thế. Nói thật thì nếu cậu nói với tôi thế này vào khoảng một năm trước, tôi sẽ vội vàng đính chính ngay, rằng mối quan hệ giữa chúng tôi không phải như thế: Kaoru là bạn của tôi với Madara cũng từ thời học trường Bưởi, nói thế thì chắc cậu cũng hiểu chúng tôi thân thiết đến thế nào. Ban đầu chúng tôi chỉ sống chung dưới tư cách bạn bè. Tôi cũng ít nhiều nhận ra tình cảm của Kaoru, song cậu ấy lại là người biết rõ hơn ai hết về mối quan hệ của tôi với Madara. Thế mới khó xử", Kanata cúi đầu. "Nhưng cậu ấy vẫn luôn ở đấy mà chẳng thổ lộ điều gì suốt những năm tháng Madara không ở cạnh chúng tôi. Cậu ấy luôn là người ủng hộ nhiệt tình nhất của tôi trong mọi tình huống, kể cả trong việc chờ đợi Madara. Thế rồi mùa xuân năm ngoái, có một đêm tôi gặp ác mộng. Tôi thấy Madara đứng trước mặt tôi, nhưng là Madara mười bảy tuổi mặc đồng phục trường Bưởi. Anh ấy chỉ đứng đó mà chẳng nói gì, trong khi tôi thì ra sức hỏi cậu đang ở đâu, cậu thế nào rồi. Thế rồi trong lúc tôi vẫn đang không ngừng thắc mắc, anh ấy cười rồi quay người đi mất. Tôi đã sợ hãi đến phát khóc và người ngợm đầy mồ hôi. Nhưng chính Kaoru là người đã đánh thức tôi khi ấy. Cậu ấy hớt hải chạy sang từ phòng mình và kéo tôi dậy, rồi ngồi bên cạnh nghe tôi khóc cho đến sáng. Đến lúc ấy tôi mới nhận ra cậu ấy đã ở bên mình lâu đến thế nào, suốt từ cái hồi chúng tôi còn là mấy thằng nhóc mười lăm mười sáu cho đến tận bây giờ. Một tháng sau khi nghe tin độc lập mà vẫn chẳng thấy tin tức gì của Madara, tôi mới nghĩ đến cái giấc mơ ấy và dẫu chẳng muốn tôi vẫn buộc phải tin rằng Madara đã không còn ở đây. Thế nên tôi quyết định rằng nếu đã không đợi được Madara thì cũng chẳng nên để Kaoru chờ thêm nữa."
Kohaku cũng mỉm cười và bảo vậy thì kể cả nếu Madara còn ở đó thì anh ấy cũng chắc chắn đã có thể thở phào nhẹ nhõm.
Nếu Madara vẫn còn ở đây, Kanata nghĩ, với cái xuất thân nam sinh trường Bưởi và vốn tiếng Pháp lẫn tiếng Nga ổn định, anh ấy hẳn dễ dàng có một công việc ở Bộ Ngoại Giao. Hẳn cuối mỗi ngày Madara vẫn gọi điện cho Kanata và kể anh nghe những câu chuyện hài hước thường nhật, và cuối tuần hẳn họ vẫn có những buổi hẹn đạp xe Hồ Tây, khi Kanata đã trống lịch dạy học. Và cả Kaoru nữa... Dẫu hơi tàn nhẫn với Kaoru, song Kanata nhớ cái thời mà ba người họ còn vô tư cười đùa dưới bầu trời xanh ngắt ở trường Bưởi, và nhớ những buổi tụ tập đủ cả ba. Nhưng giờ đây tất cả những khung cảnh ấy, nếu không phải đã vĩnh viễn lui vào quá khứ thì cũng chỉ là những giả lập mãi chẳng bao giờ diễn ra.
Chiến tranh đã biến Madara thành một đám tro cháy rụi nơi chiến trường, và thậm chí cái bút máy mà anh từng vinh dự nhận được từ một người giáo viên yêu quý ở trường Bưởi giờ đây cũng chỉ còn là một miếng kim loại gỉ sét lẫn lộn đâu đó chẳng thể tìm ra trong đất.
Cuộc trò chuyện đi vào hồi kết vào hơn bốn giờ chiều, Kohaku gửi lời chào Kanata rồi đứng lên ra về. Kanata bắt tay cậu và dặn nếu bao giờ có dịp cứ tới chơi trò chuyện nếu không ngại. Kohaku lịch sự gật đầu. Rời khỏi căn hộ của Kanata, cậu lấy chiếc xe đạp mình đã dựng trong sân tập thể để về nhà. Nắng buổi chiều tháng Tám chiếu ngập cái sân gạch, hun yên xe nóng rực. Kohaku vừa ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, vừa đưa bàn tay lên trên mắt che bớt ánh nắng chói chang. Bầu trời Hà Nội cao và xanh ngắt. Mà có khi bầu trời Hà Nội lúc nào cũng xanh, song qua đôi mắt treo một tấm màng lọc mù mịt những mưa bom lửa đạn của Kohaku, bầu trời Hà Nội cũng xám xịt. Màu xám ấy được pha ra khi sắc xanh kia trộn với những đen kịt đất cát, khói bụi, và với những dòng máu đỏ thẫm đã hoá nâu mà biết bao nhiêu con người đã đổ đầy chiến trận. Những con người như Madara, hay những con người mà chính tay Kohaku từng tước đi mạng sống.
Những con người mà,
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên. (*)
Chú thích:
(*) Phần in nghiêng trích trong bài thơ Đất nước của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.
Hà Nội,
bảy giờ hai mươi tám phút sáng, ngày sáu tháng mười hai năm hai nghìn hai mươi mốt.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com