Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Làng-Lenghiabk05

CHUYỆN DANH TIẾNG

Ở làng Hóp, có chuyện thằng Rợi rất lạ . Lạ đến nỗi , nhiều người có danh có tiếng hàng huyện ,hàng tỉnh về làng hỏi có khi còn có nhiều người chưa biết. Nhưng thằng Rợi thì từ già đến trẻ trong làng ,nếu hỏi ai ai cũng biết . Có lẽ những người có danh tiếng ấy mải làm ăn công tác ,hàng năm mới được về quê vài lần .Trong khi ấy những người quen thân cứ lần lượt qua đời mà họ cũng không tới hỏi thăm chia buồn được . Hay những lần về quê ấy họ phải đi bằng ô tô xe máy cho nhanh nên nó chỉ loáng qua thôi?. Còn thằng Rợi thì suốt đời ở quê . Mọi đám ma

,đám cưới nào ở làng nó cũng tới thăm hỏi , tiễn đưa . Hơn nữa nó lại mắc chứng bênh ngớ ngẩn.!

Thằng Rời năm nay bao nhiêu tuổi cũng khó ai đoán được.Có khi nó phải tới 30 tuổi rồi cũng nên . Vậy mà nhiều năm nay nó vẫn mang khuôn mặt ấy , không thấy nó già đi . Cái tên đệm (thằng) có lẽ chỉ để phân biệt nam hay nữ thôi . Chắc không có ý xấc xược gì?

Thằng Rợi ngớ ngẩn nên nó không biết gia trị danh tiếng là gì!Nó để mặc cho trẻ con trêu trọc. Nó không hám danh ,mà hám sống là cái chắc . Chả thế mà gặp cái gì nó cũng ăn.Từ quả đa rụng ,hay quả sung thối ,hoặc quả bàng rơi...vv Ai cho gì nó cúng ăn. Nó đói!

Thằng Rợi Không có bố mẹ, có nghĩa là nó mồ côi. Những thầy giáo trong làng thì bảo:"Cái tri thức nhân bản luôn có sẵn trong mọi con người "Thảo nào,đám ma nào nó cũng đến.!

Thực ra thằng Rợi cũng có nhà . Nó ở với một bà cô họ đã già lại nghèo túng.Bà cô nó sống nhờ vào sự trợ giúp của hợp tác xã nên cũng không giúp được gì cho nó . Nó thường đi lang thang trong làng, ngủ vạ ngủ vật . Lúc ở hè nhà văn hóa ,khi ở cửa đình làng Thậm trí có hôm nó ngủ cả ở nghĩa địa

vì uống quá nhiều rượu người ta cúng ma để lại cho nó. Có điều lạ:Nó không mấy khi ra xã ngoài . Có thể nó sợ bị bắt nạt?Nhiều hôm xã bên cạnh có đám nó đứng nhìn,chứ không

sang.Có người hỏi nó:"Rợi không đi à?"Nó lắc đầu.Mấy người tếu táo trêu nó ,bảo nó:"Ừ,Rợi không đi là phải . Quê hương là chùm khế ngọt ,mà đẹp khoe ra ,xấu xa đạy

lại chứ ."Nó chẳng hiểu gì nhưng cũng nhăn răng ra cười,đầu gật gật nghe vể đắc ý

.Cứ như hiểu biết lắm.Thằng Rợi mắc bênh ngớ ngẩn chắc do bẩm sinh nên khuôn mặt nó

cũng gống như bao khuôn mặt ngớ ngẩn khác.Khuôn mặt hình quả trám, da trắng, nhưng xanh.

Trán phẳng như căng trống. Mắt to,đuôi mắt dài . Hai cánh mũi tẹt nên lúc nào nó cũng như thở gấp . Thằng Rợi sống được ngoài sự bố thí của bà con làng xóm . Nhưng đôi khi nó còn tự kiếm sống được.Có khi chưa hẳn là nó đã ngớ ngẩn hoàn toàn.Bởi nó cũng làm. Có ai đó

mang cho nó đôi quang sảo ,bảo nó đi nhặt phân trâu ,phân chó để bán cho những

người trồng rau màu và nuôi cá.Người ta trả cho nó năm trăm tiền một gánh. Có người thương nó trả hơn,nó khống lấy.Nó bảo:"Có giá của nó"Không biết có ai xui nó không?Hay nó sợ bị mất việc! Khi trong làng ít co giỗ chạp ma chay ,nó thường chịu khó đi nhặt phân

Có ngày nó nhặt tới năm, sáu gánh.Nó bảo "Nhặt phân trâu nhanh hơn, phân chó lâu hơn.

Nhưng phân chó thì sẵn .Ở đâu cũng có.

Thằng Rợi ngớ ngẩn lại tự nhiên có danh có tiếng trong làng .Lúc đầu ,người ta còn tỏ ra rất bực,khó chịu . Khi đám ma ,đám cưới có bao nhiêu quan chức sang trọng lại cứ có một kẻ ngớ ngẩn ngồi ngay cổng. Tóc nó cắt theo kiểu hình non.Có ai đó thấy nó không đội mũ nên cắt thế trông đỡ nắng. Nó thì thích lắm. Nó bảo:"Tớ chẳng cần ô dù gì cả"Chắc câu ấy cũng của ai xui hay trêu gì nó

Từ sự bực bội ấy ,người ta tìm cách xua đuổi nó . Nói mãi không được ,đành phải cho nó ăn.Ở trong làng,hình như nó chỉ sợ mỗi ông Trưởng xóm.Cái lần nó mon men ra chỗ liên hoan tổng kết

gì ở Ủy Ban xã . Ông xóm trưởng sợ nó làm xấu cái nét văn hóa của làng đã đuổi nó và lỡ vụt nó mất mấy roi.Cũng từ hôm ấy ,hễ trông thấy ông là nó sợ . Có mấy người biết chuyện này,trêu nó,bảo nó.:"Tao mày không sợ,Cán bộ Tỉnh ,Huyện mày không sợ

Lại đi sợ cái thằng xóm trưởng"Nó cười nói đúng giọng lưỡi của ai đó xui"Đầu gà hơn đuôi voi mà"

Những ngày đầu người ta cho thức ăn vào cái bát tô ,lẫn cả cơm canh , khuấy đều lên ,mang cho nó . Nhưng cứ thấy nó ngồi ăn ở

cổng thì cũng chối . Nhiều khi khách khứa đến đúng lúc nó đang ăn thì ngượng quá. Thế là người ta đành phải đưa nó vào chỗ khuất.

dần dà thành quen lệ nên không có đám ma đám cưới nào trong làng mà thằng Rợi không lần tới. Thạm trí nó còn biết cả số

người ốm nặng trong làng sắp mất.Có lẽ nó thấy người ta hay đến hỏi thăm chăng?

Một lần trong làng có người cô đơn qua đời ,không có con cháu khóc .Người ta mượn đâu được cái băng cát xét khóc mướn về

Thằng Rợi thấy lạ cứ ngồi xán vào nghe.Bống nó buột mồm nói:"

Khóc giả,không thật"Thế rồi nó òa lên khóc thảm thiết rất thật

Cũng từ hôm ấy thằng Rợi có thêm một cái nghề mới.Nghề khóc mướn . Người ta cứ cho nó ăn ngon,ăn no và bảo :"ăn nó rồi chốc khóc to vào nhé."Những nhà lắm tiền có quay camêra ,thu băng

thì cho nó thêm tiền để thu tiếng khóc cho rõ . Bởi nó ăn khỏe ,khóc to . Trong khi con cháu mải lo lắng tiếp khách ,mệt mỏi khóc không ra tiếng...

Thời gian êm ả trôi,Thằng Rợi bắt đầu được người ta cho ngồi ăn có mâm có bát.Nhiều lần nó còn được lấy phần mang về. Nó mang cho một người ở xóm bên . Người đó là Vụ Trọc. Vụ l;à con gái nhà lành , cũng trạc tuổi nó . Vụ sống với bố mẹ .Nhưng vì vừa câm vừa điếc nên bố mẹ Vụ cắt tóc trọc cho đỡ phải gội đầu

Vì thế mà gọi luôn là Vụ Trọc.Vụ Trọc có khuôn mặt tròn đầy như trái bòng chín , nom rất xinh . Có điều da đen vì hay ở trần.

Được cái đen mịn. Thằng Rợi rất thương Vụ Trọc. Nhiều lần Vụ Trọc bị lũ trẻ con ném đá đau khóc rên ư ử.!Thằng Rợi thấy vậy dỗ dành :"thôi , nín đi ...chốc đây cho xôi,đểu ,người đểu ...đừng chơi người đểu...chốc đây cho xôi...."Không biết thế nào Vụ Trọc cũng nín . Có lẽ những người cùng cảnh ngộ thường yêu thương quý mến nhau .Đã nhiều lần đi ăn cỗ về Thằng Rợi dúi cho Vụ Trọc năm xôi to tướng. Hai đứa rất hay ngồi với nhau.Chẳng biết chúng nói chuyện gì ,nhưng Vụ Trọc khoái được nhổ lông nách.Đã có lần nó kéo tay thằng Rợi ra hiệu rựt rựt .Chắc Vụ trọc ngứa.Một hôm người ta nhìn thấy Vụ Trọc vừa đi vừa nhặt những hát xôi dính ở hai núm vú cho vào mồm.Không biết có phải tay thằng Rợi dính xôi sờ vào đấy không? Nhưng hai núm vú chum chủm không phát triển vốn đen nhẻm vì phơi nắng nhiều. Đứa em trai khôn ngoan của Vụ Trọc đã biết được điều gì về xui bố mẹ nhốt Vụ trọc lại . Từ đó thằng Rợi ít được gặp Vụ Trọc.

Thằng Rời hình như cũng có chút mưu mô hay người ta xui nó?Ai cho bộ quần áo lành nó mặc đi đám ma , còn quần áo rách nó mặc đi đám cưới.Được cái nó biết lo lắng cho bữa mai,lại tận tình chu đáo . Đám ma nào nó cũng đưa ra tận mộ ,đợi cho mọi người về hết ,hương cháy hết . Nó vào xin các cụ bát cơm quả trứng ở trên mộ

để dành cho ngày mai phòng không có đám giỗ nào.Cũng có mấy người biết ,mắng nó .

Nó bảo:"Chuột tối nó ăn"Người ta thấy cũng đúng nên cứ lờ đi. Vào những ngày thanh minh hay rằm tháng bẩy.Thằng Rợi thường lang thang ở nơi nghĩa địa.Nó xem người ta cúng tê ,khân khứa .Mong kiếm được cái lộc bỏ.Đôi lúc nó cũng được việc .Có nhiều người đi giầy về nhận mộ ,ngại lội . Nhờ nó cắm họ mấy nén nhang ra chỗ mộ bên cạnh còn ngập nước . Rồi người ta cho nó tiền , nó cười khì . Mồm lẩm bẩm:"có giá ,có giá".."Hình như nó đã quen nói thế.

THằng Rợi bắt đầu để râu dài cho ra dáng người trông coi nghĩa địa.Dần dà nó thuộc cả tên chủ nhân nhưng ngôi mộ to đẹp mới xây khi người ta hỏi tới . Có người cho tiền, có người khen. :"Rợi nắm chắc nhỉ"Nó cười méo cả mồm để lộ bộ răng nhờn nhờn nói:"Để tiện chỉ trỏ"Lâu ngày Thằng Rợi đã sành trong việc khóc lóc.Đáng ông nó hờ ông,đáng bà nó hờ bà . Nó khóc rất bài bản.Có thể nó nhìn ảnh chân dung người chất mà đoán ra chăng?Cũng có người trêu nó hay tị với nó ,nói:"Rợi được chụp nhiều ảnh nhất đấy.Nó cười ,đói lại nghe rất khôn:"Thì vưỡn,đã có tiếng rồi"

Người đời khôn ngoan bao nhiêu cứ dạy dần dần cho nó.Nó cũng vỡ ra được tý chút . Bở nó hám sống. Người ta bắt đầu quan tâm đến nó . Dùng nó để dè bỉu nói xấu nhau . Nhà này trách nhà kia không cho nó ăn ngon,ăn no. Còn thằng Rợi thì bắt đầu mon men tới các bàn trà thuốc . Mồm phì phèo thuốc lá. Uống trà mồm cũng "chép chép" có vẻ ngon lắm.Sự có mặt của nó bình thường hơn.Đám nào cần thì nó mới khóc . Khóc to khóc nhỏ chẳng ai xui được nữa.Người ta hỏi nó:"Rợi ăn cơm chưa? ăn ngon không?Người ta nói với nó"Rợi chịu khó đi đưa ,nao rợi chết cả làng đi đưa Rợi . Nó cười , nói lại câu người ta thường nói:'

"Nghĩa tử là nghĩa tận mà"Thế rồi nó chợt nhớ ra điều gì,cười to:"hô hô chết ,chết hô hô chết hử ,chết nhá. Cỗ to hô hô , cỗ to.Chấp hết ,đây chấp hết ...cỗ to hô hô chết.."

Chẳng biết có phải nó nói gở không ?Nhưng cái gì đến ắt sẽ đến. Không cần loa đài của xã thông báo ,cả làng đều biết tin thằng Rợi chết đêm qua ở cửa đình . Tay chân co rúm cả lại . mắt vẫn mở nhìn mái đình.Người ta xúm lại đoán non đoán già.Người này bảo:"nó ăn nhầm bả chuột ." Người khác nói"Nó bị bênh não nên tay chân mới co quắp. Thật chẳng biết ai nói đúng . Nhưng cả làng đều nói "Khổ thân cho nó.Thôi thì phật đón nó đi cho nó chuyển kiếp"Mãi rồi người ta cũng biết nó chết do bắt con rắn có mào ở đình để cứu lũ trẻ đi xem về đêm qua.Những người già tay để trước ngực ,miệng niệm nam mô cầu cho linh hồn nó được siêu thoát . Người ta cũng không mấy ai đi đưa nó , như đã nói với nó

Những nhà có người mất trước nó đã tới thăm không biết có đi trả nghĩa không? Đám tang của nó được bà con trong xóm lo liệu. Cũng có cái quan tài, vuông ,dài.nhưng không vẽ con rồng . Ở đầu áo quan cũng có chữ thọ . Người ta không đọc tiểu sử ,vì nó chẳng có gì để đọc . Tiểu sử của nó cả làng đã biết rồi không cần phải đọc.

Nhưng lẽ đời ,sinh tử đều có nghĩa nên ông xóm trưởng cũng đọc một bài tiễn đưa . Không biết có phải mọi ngày ông hay mắng mỏ nó không mà hôm nay ông đọc bài tiễn đưa lời lẽ đến xúc động ,nghe thật thống thiết.

"Kính thưa bà con cô bác trong xóm trong làng.Ông Vũ văn Rợi sinh ra và lớn lên ở làng ta. Sống trong xã hội chúng ta . Ông là người không may mắn vì mắc phải căn bênh mà y học hiện đại không có cách chữa . Loài người phải bó tay đầu hàng trước số phận của ông. Quãng thời gian ông sống với chúng ta

được bà con cô bác trong xóm làng yêu thương đùm bọc ,bảo ban dạy dỗ . Ông là người biết nghe lời lại tử tế chu đáo . Vì thế mà ông không biết làm hại ai bao giờ Trước giờ phút tiễn đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng thoát chốn phàm trần bể khổ vì bệnh tật . Tôi xin bà con cô bác có mặt ở đây để một phút mặc niệm ông.

Ông trưởng xóm dừng lời cúi xuống. Cũng có nhiều cái đầu cúi theo.Phải gần hai phút ông xóm trưởng mới ngẩng đầu lên . Tay ông run run đưa tờ giấy vừa đọc vào ngọn nến. Tờ giấy bắt lửa,ông thả đốm lửa rơi xuống đất . Ông thăm thêm một tuần hương nữa và cúi đầu trước vong linh thằng Rợi lần cuối . Cái tàn giấy bay quẩn vào chân ông khi ông lui xuống

Có mấy người đàn bà dòng dòng lấy khăn chấm vội nhưng giọt nước mắt vội vã lăn ra từ khoe mắt họ . Có vài tiếng xì xèo khen chê nghi ngờ lời tiễn đưa của ông xóm trưởng

Tiếng trống và tiếng thanh la vang lên thay cho lời đáp từ.

Chiếc xe tang đen bóng do làng mới sơn lại lắc lư trườn điPhía đầu xe cũng có một vòng hoa trắng toát . Cái quan tài sơn đỏ cũng lắc lư bỗng sẫm lại dưới mưa chiều . Người làng dồn vón lại trên đường ra nghĩa địa.Nhứng hàng lúa uốn câu như đứng mặc niệm bên đường...

Vào cái đêm hôm sau Thằng Rợi chết .Người làng Hóp bỗng nghe tiếng khóc hờ rất thảm thiết từ nghĩa địa vọng về:"Rợi ơi ,mày sống mày khóc cho bao nhiêu người mà giờ mày chết chẳng ai khóc mày cả,Rợi ơi là Rợi ơi...khổ thân cho mày quá Rợi ơi....Người ta lại đồn ầm lên là hồn thằng Rợi hiện về nó khóc cho chính nó

Những nhà có người mất mà thằng Rợi tới khóc được người ta kể lại đã phải thắp hương cầu khẩn để mong nó lượng thứ.Những ngày sau đó người ta lại thấy mộ thằng Rợi chất đầy các vòng hoa mà những ngôi mộ quanh đó chẳng còn vòng hoa nào..Mãi mấy ngày

có người kể lại rằng:"hình như nhìn thấy một bóng người là vụ Trọc gần tối còn lảng vảng ở nghĩa địa.

Nhưng Vụ Trọc thì câm, làm sao mà hờ được . Có thể ai đó lại dịch cái ngôn ngữ ư ử của Vụ Trọc ra thôi...

Thằng Rợi qua đời đã lâu mà hễ có đám cưới ,đám ma trong làng là người ta lại nhắc đến nó . Cứ như thể nó là người có công với làng . Mùa thanh minh trên khu nghĩa địa của lành

tro than vàng mã bay tứ tung . Đứng trên đường nhìn ra ,cỏ xanh đẫm mắt . Không mấy ai còn nhận ra đâu là mộ thằng Rợi nữa.Tất cả đều vuông dài như nhau . Không biết hôm nay hồn nó về đâu?Ở thế giới bên kia nó đã khỏi bệnh chưa?

Nắng gió thanh minh đã xua sương mù về phía cuối trời . Chắc kiếp sau nó sẽ khác đi thôi.!

Vết Cộm

Tôi sinh ra và lớn lên ở một vùng quê nghèo xa thành phố.Có lẽ vì thế mà tôi đã nghèo tiền của,lại nghèo thêm cả chữ nghĩa. Nhưng tôi vẫn cứ ao ước, khao khát một cái gì đó không sao với được . Đấy là văn chương .Tôi biết văn chương của tôi lại chỉ như thúng tro bếp .Nó có thể bốc đầy cho có ngọn,nhưng nêu đem tung lên lại chẳng còn gì .Bụi ,chỉ còn bụi. Vậy mà câu chuyện của tôi kể dưới đây nếu không nhờ cái bụi của thúng tro bếp thì không sao kết thúc được.

Chuyện thế này: Chả là mấy năm sống trong quân đội ,tôi cóp nhặt được chút ít vốn liếng văn chương vương vãi lận đận ôm mộng thi cử không thành vì quá tuổi, đành trở về làng nghèo. Vì thế ở làng tôi cũng được mệnh danh là "thi sĩ xóm " Không biết trời xui đất khiến thế nào ,ú ớ tôi giật được cái giải nhất về "Chuyện kể về gia đình tôi" do báo kiến thức gia đình tổ chức. Thế là tôi thành nổi danh trong làng .

Tin ấy lan ra tới tận mấy xã .Bạn bè tới chúc mừng đông lắm . Họ hàng nhà tôi thì phấn khởi ra mặt .Thôi thì trong họ có người làm nhà văn cũng oai. Dân trí thức mà. Ông chú tôi hào hứng ra chỉ thị : "Phải nắm chắc các cuộc thi để gửi bài" Khách khứa cứ gọi là đông ,người ra kẻ vào . Mấy đồng tiền nhuận bút theo hương trà khói thuốc không được ba ngày. Chú em tôi làm bên giao thông cũng phóng xe máy về chúc mừng và cho biết một tin quan trọng. "Ngành giao thông vận tải tổ chức thi về đề tài giao thông." Thật không may cho tôi.

Khi chú em tôi thông báo về tin này ,lại có rất đông người . Thế là tin ấy lại lan ra như vết dầu loang. !

Người ta kháo nhau:"ông Hiền viết truyện dự thi về đề tài "Tai nạn" giao thông" Thật là khổ cho cái thân tôi. Ai đó đã thêm hai chữ "tai nạn" vào. Và cứ thế người ta lại kéo đến ,nghe ngóng hỏi han và cung cấp tin tức về các vụ tai nạn trong làng, trong xã. Có nhiều người còn đến kể lể hay thăm dò cái vụ tai nạn của mình xem có bị đưa vào truyện không ? Họ cứ làm như tôi đã giật được giải rồi.Vợ con tôi chẳng mấy khi ngó ngàng đến chuyện văn chương của tôi nhưng lần này cũng phấn khởi, tích cực đun nước . Chè thuốc cứ ra quán mua chịu . Chủ quan cũng vui vẻ bảo

: "Thiếu gì cứ ra lấy, nao có tiền nhuận bút trả cũng được . "Người khách đầu tiên trong cái đề tài thi "tai nạn" giao thông đến viếng thăm tôi là người ở mãi thôn trên .Anh ta vác nguyên cái tay còn bó bột trắng xóa như được quét vôi. Qua mấy câu chúc mừng xã giao xong anh ta nói: "Cái vụ tai nạn của mình đúng ra xóm chùa phải bồi thường cho mình mới phải." Tôi hỏi :

"sao lại xóm Chùa?" Anh ta kể "Hôm đó mình đi làm về ,phóng qua chỗ thằng bạn đưa hộ nó cái thư .Đứa con nhà nó tí táy gạt cái công tắc xin đường của mình sang trái .Đèn đã hỏng còi nên mình không để ý cứ thế phóng xe đi. Đến cái lối rẽ vào xóm Chùa .Xóm ấy mới làm đường bê tông ,chôn dựng hai cái trục đá để cấm ô tô ,công nông .Mình đang phóng nhanh gặp một tay đi ngược chiều . Hắn tưởng mình bật đèn xin đường rẽ vào .Thế là hắn vòng sang phần đường của mình để nhường đường . Bắt buộc mình phải quanh vào,húc luôn vào cái trục đá . Thế có ức không? Anh ta hua cái tay bó bột lên bảo tôi :"Liệu ông có kiến nghị hộ tôi không? Thực tình tôi cũng chỉ vâng dạ chứ chẳng biết nói sao. Mãi khi ông khách về rồi thằng con tôi đang xem ti vi chiếu bộ phim Bao Công quay nói khích tôi.:"Nhân chứng vật chứng đủ cả mà bố lại chịu à" Tôi lừ mắt nó vội quay đi.

Người khách thứ hai đến nhà tôi lại là người ở thôn dưới .Người này thì tôi biết ,Anh ta cùng học với tôi một lớp hồi phổ thông tên là Tằng. Bọn tôi vẫn gọi là "Tằng râu" vì anh ta có bộ râu quai nón nom rất dữ . Đôi mắt thì ơm ớm nấp dưới bộ lông mi dày nằm trơ trẽn trên cái trán bóng . "Tằng râu vốn là một lái xe xin của một công ty chuyên sản xuất đồ sành. Nghe đâu vì gây tai nạn nên công ty cho nghỉ việc. "Tằng râu" về làng mua công nông chạy chở hàng thuê cũng đã được mấy năm."Tằng râu đến thăm tôi dĩ nhiên không phải người bị tai nạn mà là người gây tai nạn. cái vụ tai nạn của Tằng râu đã ầm lên một thời trong làng ai cũng biết nhưng cụ thể thế nào thì không ai được rõ. Tằng râu "vừa vào đến sân đã cất giọng khàn khàn :

"Đến thăm ông bạn nhà văn có rượu không đây? Nghe đâu được giải văn học mà không khao đồng môn tí nào " Lúc ấy ,thằng con út nhà tôi đang lôi cái xe đạp ra ,bảo tôi sửa cho nó cái phanh. Nghe "Tằng râu" nói vậy nó lẳng lặng ra quán xách ngay chai rượu về.Chả là mấy lần nó được Tằng râu cho ngồi công nông."Tằng râu "vỗ tay đôm đốp khen thằng con tôi ngoan ,nao lại cho ngồi công nông"

Có rượu vào Tằng râu như người thật thà kể lể về cuộc đời năm chìm bẩy nổi của anh ta. Nào là từ khi học xong phổ thông ,mỗi thằng mỗi ngả. Ông vào bộ đội tôi đi học lái xe,rồi công ty cho nghỉ việc .Về nhà ,may nhờ ông anh làm trong ban quản lý hợp tác xã mua đấu thầu được cái công nông rẻ. Rồi đến cái vụ kẹp chết người trong làng. Tưởng đời

ra tóp ..."Tằng râu "tợp một hớp rồi chép miệng kể tiếp .:"Trước cái hôn kẹp chết ông hàng xóm ,đêm nằm không ngủ được đã nghe chim lợn kêu ghê lắm. Sáng đã định không chạy nhưng tiếc mấy chục ngàn nên lại đi. Đến quãng đường ấy ,tự nhiên mắt mũi mình tối xầm .Hôm ấy cũng như mọi bận ,mình uống có mỗi hai cốc hoa hồng .Không biết có phải rượu rắn ngâm lâu ngày nó nặng lên không? cái hũ rượu ngũ xà mình đã ngâm ba năm nay rót ra xanh lét. "Tằng râu" dừng lời ,mồm "chép chép" như vừa uống xong cốc rượu rắn ấy.Tôi liếc nhìn chai rượu trên bàn chỉ còn dưới lưng. Tôi bảo anh ta " uống được ông cứ uống .Nhà tôi không ai uống rượu .

"Tằng râu "lại rót một cốc đầy ,đưa lên miệng,ực một hớp ,cạn gần đáy cốc .Hứng chí kể tiếp "Ông biết không ?Tuy mắt mũi tối xầm nhưng đầu óc mình rất tỉnh táo .Tay lái hoa tròn điệu nghệ

Cái lão hàng xóm có chút họ xa với nhà mình đã tránh vào mé đường .Nhưng cái số ông ấy chết hay tại cái dớp xe công nông của mình không biết?ông ấy hoảng hốt điều gì hay tại mình phóng nhanh quá mà lúng túng vướng vào gốc dứa dại ven đường rồi ngã nhào vào bánh xe sau của mình. Mình thành ra luống cuống đến nỗi để xe chạy gần 20 mét mới dừng lại được

Hoảng quá chạy lại chỗ ông ấy thì đầu ông ấy đã méo xẹo.

Nước mắt mình tự nhiên trào ra . ,mình khóc òa lên . Đến khi họ hàng nhà ông ấy kéo đến mình càng khóc to ,rất thảm:"ở bác ơi !...thế này thì cháu cũng chết theo bác thôi bác ơi ..."Vợ con mình cũng nhanh trí kéo đến . Chúng cứ lăn vào khóc ..."Ở ông ơi ..thế này thì bố cháu không có tội lại thành có tội rồi...ông ơi .Cả nhà cháu rồi cũng chết theo ông thôi... Ông ơi . "Tằng râu giả như người đang khóc thật ! Anh ta bỗng dừng lại với tay lấy cốc rượu trên bàn dốc nốt vào mồm rồi khà lên một tiếng .,kể tiếp."Cái phi vụ ấy của mình tưởng đời đi tong ! Nào ngờ những giọt nước mắt của vợ chồng con cái mình có công hiệu" Tăng râu "ý tứ để tay lên bàn thay cho cái vỗ đùi đắc ý .Rồi anh ta nhoài người sang sát bên tôi giọng lào thào" Giải quyết nội bộ. ,không truy cứu nữa. Cũng may ,xe của mình không có phanh .Nếu mà mang về đồn công an thì rầy rà to ."Tôi chợt hỏi: Thế không phải mai táng gì à" Dĩ nhiên là không rồi . Tất cả là số phận . ,mà ông ấy ngã vào bánh xe của tớ chứ ! Nhưng từ bốn chí đến cúng bách nhật tớ cũng mang đường sữa đến thắp hương .Từ khi sang cát xong coi như xong. Giọng nói của Tằng râu lem lém như dao lam ,làm tôi thấy rờn rợn . Anh ta còn huyên thuyên một lúc lâu cho kỳ hết rai rượu trên bàn rồi mới xin phép ra về . Thấy anh ta bước lảo đảo xuống hè tôi vội bảo :"Ông cẩn thận không ngã" Tằng râu " quay lại cười lãng đãng ,rồi nói to :Người anh em cứ yên tâm "Tằng râu "này không say được. Say nhưng mà vẫn tỉnh" . Tằng râu vừa nói xong ,anh ta bước xuống sân giẫm đúng vào con gà con nhà tôi mới xuống ổ được mấy hôm ,chết tươi. Tôi thoáng rùng mình còn Tằng râu vẫn lảo đảo đi ra ngõ mà không biết rằng mình đã giẫm chết con gà. Tôi quay vào trong nhà nghĩ về câu chuyện của Tằng Râu thấy trong lòng cồm cộm ghê ghê quên bẵng cả việc sửa lại cái phanh xe đạp cho con.

Cho đến một hôm ,tôi cùng mấy bạn hàng xóm đang ngồi nói chuyện vè các vụ tai nạn đường sắt,vợ tôi thì đang dọn tro bếp,vì nó được đun nhiều quá. Qua cửa sổ tôi thấy cô chủ quán đi vào nhà tôi . Tôi nghe rõ cô nói với vợ tôi ;"

-Em không có vốn ,cho em xin..mà cuối năm rồi.

Vợ tôi hỏi lại:

-Bao nhiêu

- Tám trăm hai mươi nghìn ạ

Vợ tôi kêu lên

-Nhiều thế rồi cơ à..thôi cho chị khất ,mai chị bán thóc chị trả.

Khi vợ tôi vừa nói xong thì có ai đó gọi giật lên phía ngoài đường :

-Ông Hiền bà Nở đâu ra mà cõng con này. Xe không có phanh mà dám thả từ trên dốc đê xuống .Đường thì nhẵn ,xe lại bon. may mà không sao ,chỉ rét thôi.

Vợ tôi đang bưng thúng tro bếp đến giữa sân nghe thế tuột tay rơi thúng tro làm bụi bay mù vào trong nhà ,rồi cô ấy hốt hoảng kêu lên:

-Trời ơi..Thôi thôi tôi xin các anh đừng nói chuyện tai nạn nữa.Sợ lắm rồi.*

Dụ Mèo(Tang thiếu niên)

Chiều nào Lanh với lũ bạn cùng xóm cũng mang cơm thịt ra dụ con mèo nhà cụ Ghình phía cuối làng.

Con Mèo Tam Thể đẹp như tranh vẽ không có chủ nhân cứ đứng từ xa nhìn lại .Đôi mắt nó đượm buồn, lơ đãng nhìn về phía đám người lố nhố bát sành bát sứ đầy những thức ăn ngon. Cái đuôi màu hạt thị ,dài mượt mềm mại quấn gọn bốn chân màu trắng quý phái.. Có lẽ trông thấy chú mèo Tam Thể này cũng nghĩ nó được nuôi dưỡng trong nhưng nhà giầu sang phú quý lắm.Nhưng nó lại có một gia cảnh thật đáng thương tâm

Nhìn bộ áo Tam thể ai cũng phải ngưỡng mộ. Những đốm lông trên lưng như những bông cúc đại đóa vàng rực rỡ. Phía ngực là một vệt sẫm như chiếc cà vạt màu mận chín, sang trọng.Trông thật ra dáng một quý tộc Mèo.

Đứng trên tường nhà cũ, Tam Thể vểnh đôi tai lên vẻ phớt đời . Nhưng thực ra lúc này Tam Thể đang chú ý đến lũ chó con đi theo bọn người kia đang nhìn gườm gườm giọng ách ách như nói với lên "Thằng Tam Thể kia ,đừng có mà xuống đây.Cơm thịt cá này là của chúng tao đấy . Dường như hiểu được lũ chó con nói gì . Tam thể đưa tay lên vuốt ria kiểu con nhà võ,đôi mắt tròn sáng quắc, nhìn xuống bầy chó ít học . Tam Thể liên cất giọng meo meo trả lời :"Đây chả thiết. Chủ nhân chúng mày mời gẫy đũa gẫy bát mấy tháng nay tao còn chẳng để ý nữa là. Bọn chuột đục khoét ở cái làng này bao năm béo mưỡm ta còn ăn chưa hết . Đừng tưởng mang của ngon vật lạ ra dụ tao là tao theo ngay. Miếng ăn là miếng nhục đấy các con ạ. Chưa làm được gì giúp cho người ta mà đã ăn là không ngon đâu. Mới gâu gâu được mấy tiếng đã to mồm" Nói rồi Tam Thể vút cái thoắt lên cành cao . để lại chủ tớ nhà chó nhìn theo chưng hửng.

Cụ Ghình là người sống cô đơn của làng. Căn nhà của cụ do ban thương binh xã với bà con làng xóm góp vào dựng lên cho cụ .Chưa được 10 năm thì cụ mất . Nhà xa làng ,không có người ở nên căn nhà nhanh chóng trờ thành hoang phế. Lũ chuột trước kia nhiều là thế mà nay đã tản đi hết . Vẫn biết ,chuột thì chẳng cần ai mời . Đâu có chén là chúng tới . Không cần giầu nghèo,không cần nhân ái . Có cơ hội gặm nhấm dù là đắng cay cũng bất chấp.

Thời gian trôi đi ,dường như mèo Tam Thể ta cũng biết được điều này.

Khi Cụ Ghình ốm nặng ,lũ chuột đã kháo nhau :"Cụ hết lộc rồi ,mau mà đi chỗ khác không thì làm mồi cho bọn mèo.

Lũ Chuột bỏ đi sớm nên Tam Thể cũng gầy đi trông thấy.

Nó đi lang thang trong đêm .Tiêng kêu khảm vào đêm đen vọng đi vọng lại nghe rùng rợn ..

. Mùa đông đã theo gió heo may về lách cái lạnh vào chân lông mượt mà của nó.

Lũ chuột đục khoét ngày càng tinh vì hơn .Chúng chui rúc vào những ngôi nhà nhà cao tầng của các quan to lắm màu đầy sơn hào hải vị nên không mấy khi lò mặt ra ngoài đường. Cuộc sống mưu sinh thật khó khắn ,gian nan. Nỗi lo hóa cáo dầy vò ám ảnh Tam Thể .Nó cần một gia đình , một gia đình biết yêu thương chân thành .Dẫu cuộc sống nghèo khó ...

Chiều nay trở lại căn nhà cũ khi những người dụ dỗ nó đã bỏ đi từ lâu . Tam Thể meo lên một tiếng vẻ thất vọng . Nó lao vào trong bếp cũ hoang tàn . Lạ thay vẫn còn một đống tro mới .Bản năng kéo gọi Tam thể ngả mình vào đống tro ,mắt lim dim tận hưởng giấc ngủ thanh bình sau bao ngày gian nan mưu sinh...Tam Thể thiếp đi,

Khi nó ti hí mắt nhìn ra thì mặt trời đã lặn xuống chân ngày. Nó duỗi thằng mình dậy,liếm chân ,lau mặt . Như không tin vào mắt mình ,Tam Thể ta rửa mắt đến mấy lần. Trước mặt nó là đĩa rau muống và mấy con các sọi sặt nướng thơm nức.

Ôi ..thức ăn của sự đồng cảm và hiểu lòng nhau đây rồi

Tam Thể meo lên một tiếng dài , âu yếm dụi đầu vào cô bé mang thức ăn cho nó.

Lanh mừng đến rơi nước mắt.Lanh đưa tay vuốt nhẹ lên lưng mèo Tam Thể , nó cuộn vào lòng bàn tay Lanh

Lanh chợt hiểu được lời ông dặn

"Dụ Mèo như cầu hiền tài không phải mâm cao cỗ đầy đâu cháu ạ"

LÃO BẠ (truyện ngắn)

Cái xe đạp cà tàng của tớ vứt chỗ nào cũng được,chẳng ai thèm lấy" Lão Bạ vẫn thường nói như vậy với mấy người bạn nhậu . thế mà hôm nay Lão Bạ bị mất cái xe cà tàng ấy. Lão vừa đi vừa càu nhàu: "Thằng nào chơi xỏ lão lấy của Lão cái mớ sắt vụn ấy làm gì?" Xe đã chẳng ra xe Không phanh ,không gác đờ bu. Đến cả gác ba gai cũng không nốt.

Lão Bạ vẫn thường tự hào bảo thế.. Tên Lão chính ra là Hạ nhưng người ta cứ gọi chệch đi là Bạ. Cũng bởi cái tính bạ đâu vứt đấy,bạ đâu ngồi đấy. Chân dung của lão cũng đúng như câu phương ngôn" Của làm sao chiêm bao làm vậy"

Những người ngang tuổi lão thì gọi lão là Bạ say . Lão uống rượu suốt ngày,nhưng mỗi bữa chỉ hai ba ngàn bạc

.Lão thường nói: "tớ say nhưng không ba gai" Cái xe không gác ba ga là biểu tượng của tớ. Xe ấy chỉ để đi uống rượu và thăm đồng. " Lão Bạ tự kiểm lại cái đầu lúc tỉnh lúc mê của mình xem đã để cái xe ấy ở đâu. Đúng là lão có đị ,vẫn đi. 3 giờ chiều lão còn lượn ra ruộng cà chua .4 giờ phun thuốc sâu ruộng hào. Lão còn nhớ rất rõ . Phun thuốc sâu xong Lão còn ném cái vỏ lọ thuốc sâu xuống đầu bờ, đúng hòn đá làm cái vỏ lọ vỡ tan. Lão chép miệng nhưng cũng chẳng nhặt những mảnh vỡ ấy. Thế mà bây giờ Lão phải đi bộ từ quán rượu về. Lão làu bàu một mình. Bỗng Lão vấp phải hòn đá. Lão giơ chân đá hòn đá.Lão co chân kêu trời.Hòn đá rắn hơn chân Lão. Lão say ,không . Lão không say. Nếu say sao Lão còn biết đường về nhà . Đoạn đường còn đá lổng chổng là đoạn về cổng nhà Lão. Vì Lão chưa đóng góp nốt tiền xây dựng đường nên xóm còn để lại, chưa làm nốt. Lão lại làu bàu chửi vu vơ kẻ bỏ đường chưa làm . Lão Bạ bỗng dừng lại,lấy tay che mặt.. Đằng trước có cái xe máy đi

ngược chiều, chiếu đền pha sáng quắc làm Lão chẳng nhìn rõ ai. Chiếc xe dừng lại trước mặt lão, đèn vẫn sáng . Người ngồi trên xe quát to:

-Lão Hạ đi đâu mà ra đây? Người ngồi trên xe không dám gọi lệch tên Lão. Lão Bạ giật mình nghĩ thầm" thôi chết... chỗ này là chỗ nào, đúng là gần trạm bơm ngoài đồng.

Dường như đã tỉnh , Lão chợt nói cứng:

Ờ... Chủ Nhiệm , mày có lấy cái xe của tao không?

Lão Bạ đúng là rất tỉnh . Cái anh chủ nhiệm này là cháu gọi lão bằng cậu ,nên lão không sợ. "Chúng nó là bậc con cháu.." Với lại việc nó làm chủ nhiệm cũng nhờ họ hàng là chính . Cả làng này có dễ đến bây mươi phần trăm là họ của chủ nhiệm hết . Không bầu cho họ nhà mình còn bầu cho ai ?. Giọt máu đào hơn ao nước lã là thế . Lão bạ cũng vẫn biết đứa cháu vốn không giỏi giang gì lắm so với cánh họ nguyễn . Nhưng hôm bỏ phiếu người ta cứ đọc oang oang " Sáng suốt lựa chọn những người có đức có tài..." thì Lão Bạ cũng giả say bảo mấy đứa gạch hộ chỗ này ,chỗ này..." Nhưng thôi. chuyện đó chẳng nói làm gì. Miễn là khi vay tiền nhân hàng nó cứ ký cho lão một chữ là được.

Anh chủ nhiệm chợt quát to:

-Ai thèm lấy xe của ông . Ông say rồi , lên xe tôi đưa về.

Lão bạ liền cự lai:

- Say là say thế nào...chẳng cần . Tao còn ra ruộng cà chua xem hoa cà chua nở ban đêm . Trồng màu nó phải thế. Nói rồi Lão Bạ bước đi cùn cụt trong đêm . Anh chủ nhiệm nhìn theo lắc đầu , thầm nghĩ: "Đúng là lão Bạ say" rồi Anh phóng xe đi.

Lão bạ vừa đi vừa nói thầm: "Thằng cháu chủ nhiệm của mình quả là kém cỏi. "Mình bảo mình đi xem cà chua nở ban đêm mà nó cũng tin . Mình là mình xem có đứa nào mò ra lấy trộm cà chua của mình không? Lứa quả đầu to thế, lại đang đắt. Mình là mình phê cái an ninh của chúng nó kém . Thế mà nó chẳng hiểu gì? Lão bạ bỗng phọt cười nhăng nhít...

"Trời tối quá" lão Bạ lẩm bẩm ,chân bước thấp bước cao..." ờ... ruộng cà chua đây rồi. ..Bỗng Lão Bạ lại thốt lên" Cái gì kia ...hay là...đúng rồi cái xe ...đạp của mình . Sao lại ở đây? ...Đứa nào lại mang ra đây nhỉ? Lão bạ lại giật mình nghĩ tới nạn ăn cắp sắt vụn...ừ ,nhưng thôi, may quá ,vẫn còn cái ghi đông trăng trắng để nhận ra . Lão Bạ xoa tay lên cái yên đã ướt đẫm sương đêm . Bỗng Lão lại kêu :" ối" rồi Lão ngồi thụp xuống. Gan bàn chân lão lành lạnh . Lão quên đi dép. Lão sờ tay vào chân . Nước ,ôi nước ,nước gì thế này ,sao lại dinh dính. ..Mảnh chai .." lão Bạ lẩm bẩm . Lão chợt nhớ ra lọ thuốc sâu lão ném ban chiều. Lão rên hừ hừ .." Chưa thấy đau nhưng Lão cứ rên to. Lão nghĩ: " Rên trước đi là vừa . Lỡ chốc đau quá không rên được . Đây là bài học của Lão . Lão bảo: Phải kêu trước . chứ chết rồi thì kêu làm sao được.

Lại có ánh đèn pha xe máy từ trên đường chiếu ra phía Lão.

Lão càng rên to: " ỐI Ối ..hừ hừ " Lại là tiếng anh chủ nhiệm ban nãy.:

- Lão Hạ , sao thế? say ngã rồi phải không? Đã bảo mà ...thế giờ có định về không?

Lão Bạ càng rên to:

-Máu, ôi Máu ...hừ hừ ôi ôi đau...chỉ tại chúng chúng ôi mày làm tao chảy máu...

Anh chủ nhiệm đỡ Lão Bạ lên xe rồi quát to:

-Thôi,ông im đi...đã say xỉn lai còn đổ linh tinh

Lão Bạ cự lại:

-Say là say thế nào tại chúng mày không xây cái hố ở giữa đồng lại đi xây ở rìa làng thì làm sao mà tiện cho được.

Chiếc xe trằn lên hòn đá ,đổ nghiêng . Hất lão Bạ bay xuống vệ đường . Máu túa ra nhoe nhoét . Lão Bạ không nói gì nghĩ tới số tiền chưa đóng góp xây dựng đường . Anh Chủ Nhiệm rồ ga thử lại rồi đỡ lão bạ lên xe và phóng xe đi. Bụng thầm nghĩ " Chắc bây giờ Lão mới tỉnh ,có thể lão đau. Mình phải đưa Lão đi bệnh viện. Dù sao lão cũng là Cậu mình ." Chiếc xe máy ngoặt ra đường quốc lộ , hướng bệnh viện . Ánh đèn pha rọi sáng trắng mặt đường.

LÃO KỆ(truyện ngắn)

Cái tin Lão Kệ tự nhiên giầu có nhất làng nhanh chóng lan ra như vết dầu loang. Nhưng lần hội họp đông là người ta lại bàn tán ,thêu dệt thêm như những chuyện lạ. Người này thì bảo: lão đào được con ba ba bằng vàng ở sông Chói khi đi bắt cà ra. Người khác lại nói:,lão đóng gạch bắt được một hũ vàng.?!Tin nào cũng sốt dẻo cứ như thật.Lão Kệ năm nay hơn năm mươi tuổi, nhưng nhìn bề ngoài dễ đoán nhầm lão tới sáu bẩy mươi. Nhà lão chỉ có hai bố con, lão không có vợ, chẳng ai biết lão về đây từ bao giờ. Mấy người có tuổi trong làng thì bảo: "Lão về đây từ ngày mới giải phóng, nhưng cũng chỉ thấy hai bó con chư không thấy có vợ."

Lão Kệ sống bằng mọi thứ nghề . từ bổ củi đơm đón hay làm thuê bất cứ việc gì. Thực ra tên lão là gì cũng không mấy người biết. Được cái lão rất hiền lành ,chẳng cãi nhau với ai bao giờ.Nhiều khi trẻ con trêu chọc lão ,gọi lão bằng "anh" lão cứ phất lờ,coi như không nghe thấy. Có lẽ vì thế mà người ta gán cho lão cái tên Kệ chăng? Một người ở gần nhà lão kể rằng:"Hôm con gái lão đi lấy chồng cũng có một người đàn bà là lạ ,cỡ suýt soát tuổi lão đứng nói chuyện với con gái lão thân mật lắm."Chẳng biết có phải vợ lão không?Nhưng xong việc cho con gái lão người đàn bà ấy lại đi và không thấy trở lại nữa. Có vài người biết chuyện này,cứ suy đoán lung tung. Họ bảo:"đấy là vợ lão ,bị lão đuổi. Hay người đàn bà ấy chán sống với lão ,vì lão đầy độn.mắt lại cứ nhìn gườm gườm...Thật chẳng biết thế nào là đúng,mà chuyện đã lâu rồi người ta cũng không muốn nhắc lại nữa. Lão Kệ giầu nhất làng ,vàng đóng bằng ống bơ thì thật khó tin.Nhưng Lão Kệ không có vợ mà có con thì cả làng đều biết. Gần đây Lão Kệ xây một ngôi nhà ba tầng cao ngất ngưởng đứng từ xa đã nhìn thấy.Từ ngày ấy lão đi đứng oai vệ, đầu chải bóng lọng,quần áo com le thắt ca-la-vat trông rất oách. Nhưng có điều lạ ,trước kia lão ăn nói dè chừng ,nhiều khi gặp cán bộ thì khúm núm, như người đần độn . Vậy mà bây giờ cán bộ lão cũng không sợ ,ai nói gì là lão chặn ngay. Nói năng thì giảo hoạt ,khiến nhiều người phải thầm phục. Có người bảo "Lão lắm tiền nên nó khôn ra".

Nhớ lại thời bao cấp ,nhà lão bao giờ cũng được ưu tiên,có khi còn hơn cả suất thương binh liệt sỹ. Cả làng ai cũng chép miệng "Thoi nhường cho lão,cảnh gà trống nuôi con...tính hiền lành , thật thà lại vụng về..."Thế là từ xép việc làm ,rồi trợ cấp cứu đói đến phân phối hàng Tết...

vân vân thậm trí cả chia thóc lão cũng được lấy trước. Anh kiểm soát cái thời còn chia bằng giành ,cũng nới tay cho hơn người khác.Cứ thế ,mãi đến khi xóa bỏ bao cấp ,khoán sản đến người lao động,bộ mặt nông thôn ngày một đổi mới.Các trục đường làng xã được nắn lại,nhà lão tự nhiên nằm sát mặt đường.Đường sá rải nhựa,hàng quán mọc lên như nấm.Nhà lão cũng mở quán .Quán nhà lão lúc nào cũng đông .Khách đủ hạng kéo đến.

Thời gian gần đây người làng thường thấy lão cỡi xe may đi đâu vài ba ngày...

Đùng một cái ,tin Lão Kệ bị bắt ở xã bên cạnh đưa về làng.Cả xã lại xôn xao .Nhiều người lắc đầu :"Lão Kệ thế mà khiếp thật !cứ bảo lão khù khờ ,chứ bán cái khù khờ của lão đi cũng ối tiền..."Và rồi những tin khá chính xác về Lão Kệ cũng được đưa về ,khi người ta tìm trong tìm trong danh sách những người có tiền án tiền sự từ những ngày trước giải phóng có tên lão đã cải họ đổi tên...

Xã bên cạnh ,có một số người ,ầm ầm kéo nhau lên huyện kiện tụng cán bộ xã.Nghe đâu có mấy anh cán bộ xấu thoái hóa biến chất,tham ô ,lợi dụng chức quyền ,lấy tiền công quỹ mua xe ô tô và xây nhà mua đất riêng. Cũng là :"con sâu bỏ rầu nồi canh" đáng lí chỉ sử lý nội bộ bắt bồi thường ."Nhưng không biết thế nào từ khi Lão Kệ sang bày mưu vạch kế làm sao mà họ đùng đùng kéo lên huyện kiện tụng tứ tung .Lại còn đập phá cả tài sản nhà riêng của các cán bộ nọ.

Bẵng đi mấy tháng trời ,Lão Kệ cũng được tha về .Người ta thấy khác hẳn mấy tháng trước Lão lại khúm núm lão ngờ nghệch như ngày xưa .Đi đường Lão lại cúi mặt xuống....

Hình như dân làng đã bắt đầu nhận ra chân tướng của lão.

Vừa rồi nhà lão bị cháy ,do lão đấu điện để đánh chuột

bị chập . Khi bà con làng xóm kéo đến lôi được lão ra ,thì tài sản cũng không còn gì.Bao nhiều giường tủ chan màn ,quần áo thóc lúa cháy thành than hết.Ngôi nhà ba tầng rông không xám xịt thơm mùi thuốc phiện cháy.

Có mấy người cố ý nhìn xem có con ba ba bằng vàng không,nhưng chẳng ai nhìn thấy đâu.

Thật đúng là:

"Cháy nhà mới ra mặt chuột "

NGÔI MỘ NƯỚC (TRUYỆN NGẮN)

Ra khỏi cổng trường là tôi sung sướng hét lên:"Thế là mình đã đỗ đại học rồi..."Tôi phải về nhanh để báo tin vui này cho bố tôi biết.Với một điểm của bố đã quyết định con đường đi vào đời của tôi.Không nghĩ ngợi gì thêm tôi cắm đầu chạy.."Cổng làng kia rồi," tôi thầm reo lên.Với tôi cổng làng hôm nay đẹp hơn,rộng hơn.Vừa nhô đầu vào đến cổng làng,tôi giật bắn mình vì tiếng quát của ông Toàn:"Mày đi đâu mà giờ mới về,bố mày suýt chết đấy, không có thằng Rợi thì nghẻo rồi.Mau mà về Phúng viếng nó.."

Ông Toàn người làng tôi,làm nghề cắt tóc ở đây,chặn ngay mọi thông tin ra vào làng.Chẳng có việc gì trong làng dấu được ông ta.Tôi cũng không biết ông là người xấu hay ngươi tốt nữa.Giá như mọi bận tôi cũng khoe tôi đỗ đai học để ông loa cho sướng tai.Nhưng tôi chẳng còn lòng dạ nào,tai như ù đi.Tôi lại cắm đầu chạy,bố tôi thế nào rồi?,còn thằng Rợi nữa ,nó chết rồi ư?nó cứu bố tôi ư?...Thằng Rợi..trời ơi cái thằng mắc bệnh ngớ ngẩn mà cả làng tôi ai chả biết.Cái thằng chuyên đi khóc mướn ở các đám ma.Trong làng tôi cứ có người ốm sắp mất là nó đã tới "thăm hỏi rồi".Không có đám ma nào trong làng mà nó không có mặt của nó.Nó khóc rất bài bản,đáng ông nó hờ ông.Đáng bà nó hờ bà.,hay cô dì chú bác nó đều khóc nhập vai rất đạt và nghe rất thảm

.Nó đi đưa đám thường đến nơi đến chốn,chẳng bao giờ nó bỏ về giữa chừng như những người khác...Nghĩ cho cùng thì nó không phải đi khóc mướn,bởi có ai trả tiền cho nó đâu?Nó chỉ cần có bữa ăn ,mà ăn thì làm người ai chẳng phải ăn.?Nhưng người ta cho nó ăn cũng thật tội nghiệp.Tất cả cơm canh nháo nhào đổ lẫn vào cái bát tô.Cũng bởi lúc đầu nó cứ ngồi ăn ở cổng,nơi có nhiều quan khách ra vào nên nom cũng chối

Bố tôi bảo:"Ngày mới nó còn chưa biết khóc,mà chỉ đến xin ăn.Nó là đứa trẻ mồ côi.Mẹ nó là cô gái lỡ thì đi xin đứa con về nuôi,không may xin phải một người nhiễm chất độc da cam.Khi sinh con ra thấy con dị dạng sợ quá ốm rồi mất.Còn người cho con cũng có mấy đứa con dị dạng lại tưởng tại vợ mình,nên đi kiếm chỗ khác.Nhưng khí biết tại mình thì không dám về nhận nữa.Thằng Rợi sống được là nhờ bà con làng xóm và bà bá già nghèo.Hôm bà bá già mất ,không có người khóc,người ta mượn đâu được cái băng cát sét khóc mướn về

.Thằng Rợi thấy lạ cứ ngồi sán vào nghe.Bỗng nó buột mồm nói:"Khóc giả,không thật"..thế rồi nó òa lên khóc thảm thiết và rất thật.Và cũng từ hôm đấy cứ đến đam ma là nó khóc.Thực ra bọn tôi vẫn biết gọi nó bằng thăng là không đúng.Bởi nó đã ngoài 40 tuổi rồi.Bố tôi và những người lớn vẫn gọi là "Chú Rợi"Nhưng nó ngớ ngẩn thế,lại ăn uống bẩn thỉu.Gặp cái gì nó cũng ăn.Từ quả đa rụng , quả sung thối hay quả bàng rơi nó cũng ăn.nhiều lần đi đưa đám ma xong nó đợi cho bát hương cháy hết,rồi vào xin các cụ bát cơm quả trứng ở trên mộ về để dành mai ăn.Có người biết mắng nó, nó bảo:"Chuột tối nó ăn"

Người ta thấy cũng đúng lên cứ lờ đi.Chẳng biết có phải ông Toàn dạy nó nói thế không? Đã nhiều lần tôi thấy nó ngồi chỗ ông Toàn nghe ông nói chuyện gì cả ngày...

Tôi chạy tắt qua cánh đồng làng,vừa chạy vừa lo cho bố tôi lại vừa thương cho thằng Rợi.Khuôn mặt nó vể thân thuộc vẻ sờ sợ cứ chập chờn hiện ra trước mắt tôi.Có lẽ sự thân thuộc ấy bắt nguồn từ những tấm hình hay băng hình camêra mà nó được chụp và quay nhiều nhất.bởi khi đưa đám ,người ta cho nó ăn rất no và bảo:"ăn no rồi chốc khóc to vào

nhé..."Vì thế nó ăn khỏe nên khóc to,lại vật vã hơn cả con cháu.Có lẽ con cháu mải tiếp khách nên không khóc được mấy. Hình ảnh nổi trội vẻ tang thương được camêra chú ý quay nhiều hơn...Đã có lần bọn trẻ chúng tôi nói như tị với nó:"Rợi được chụp nhiều ảnh nhất đấy."Nó đối lại nghe rất khôn:"Thì vưỡn ..đã có tiếng rồi..".Đúng là nó có tiếng thật.Đám ma nào người ta cũng hỏi nó:"Rợi ăn cơm chưa?ăn ngon không?..Thế rồi đám ma nhà này chê trách đám ma nhà kia không cho nó ăn ngon ăn no.

..Tôi chợt nghĩ:Hay là nó không ngớ ngẩn ?Cái khuôn mặt hình quả trám ,da trắng nhưng xanh.Trán phẳng như căng trống. Mũi tẹt đến nỗi nó rất hay thở gấp.Ở làng tôi cũng có mấy đứa mắc căn bệnh này mà thằng Rợi rất thương.Có lần một đứa bị lũ tinh khôn bắt nạt ,ném đá đau khóc rên ư ử.Chẳng biết có phải những người cùng cảnh ngộ thì thương nhau không mà thằng Rợi thì phùng má trợn mắt dọa lại lũ trẻ kia rồi nó quay dỗ dành:"Thôi nín, nín đi...đểu người đểu ...đừng chơi với người đểu.."

Vào những ngày trong làng không có giỗ chạp ma chay thằng Rợi thường đi nhặt phân trâu ,phân chó để bán cho những người trồng rau màu và người nuôi cá .Người ta trả cho nó 500 tiền một gánh .Có người trả hơn ,nó không lấy ,nó bảo:"Có giá rồi" Tôi biết ông Toàn dạy nó nói thế.Vì chúng tôi cắt tóc ,ông thường lấy 5000. Có đứa trả 3000 ông không nghe. ông nói:"Người lớn mười nghìn trẻ con năm nghìn,có giá rồi."Thằng Rợi trả lời ai cũng chỉ vài ba bốn chữ .Có lẽ ông Toàn dạy ngắn thế thì nó mới thuộc được chăng? Chẳng như bọn tôi ,học cái gì cũng quá dài...

Tôi về đến cửa đình, người đông nghịt vòng trong vòng ngoài.

Tiếng những người vòng ngoài hỏi nhau.

-Làm sao nó chết

-Nó cứu ông Tư,rắn cắn nó.

-Ông Tư nào?

-Ông Tư thương binh hỏng cả hai mắt ấy

-Ông Tư mù đi đâu mà ra đây?

-sang nhà ông An nghe nhờ điện thoại,cầm cái gậy hua hua dò đường đi,không ngờ con rắn hổ mang phải gần hai cân đang nằm phơi nắng ,thấy động,vươn cổ lên định bổ ông Tư.Thật may,lúc đó thằng Rợi đang nằm ở cửa đình lao ra chặn con rắn lại. Chắc nó phải quần nhau với côn rắn khá lâu. Con rắn bổ vào cánh tay nó mấy nhát mà nó vẫn bóp chết con rắn...khiếp thật!

-Nó dũng cảm đấy-Một người nhận xét

-Nó biết đếch gì- tiếng một người khác

-Nó biết thì nó mới làm thế chứ

Tôi len vào tận cửa đình ,đứng sát vào bố tôi.Thằng Rợi nằm co quắp.Ông xóm trưởng đang gỡ tay nó ra khỏi con rắn. Đôi mắt nó vẫn mở to nhìn mái đình, nơi mà lâu nay nó thường hay lui tới.Tôi nhìn sang bố tôi,sau cặp kính đen là những giọt nước mắt,ứa ra chảy xuống lặng lẽ..

Đám tang của thằng Rợi được bà con trong xóm lo liệu .Bố tôi xin với làng được sắm một cỗ áo quan cho nó.Chiếc quan tài có con rồng bằng nhựa quét nhũ vàng ,có chữ thọ ở đằng trước.

Ông Toàn cẩn thận mang vào một cái băng cát sét. Khi người ta bật băng thì tiếng khóc cất lên...

Thật không ngờ đó lại là tiếng khóc của thằng Rợi:"Trời ơi..

nó khóc cho chính nó" Biết bao người đã thốt lên như vậy.Và không một ai có mặt ở đó còn giữ được nước mắt không rơi.

Những người già ,tay để trước ngực cầu cho linh hồn nó được siêu thoát.Ông xóm trưởng thay mặt bà con đọc một lời tiễn đưa. Lời lẽ thật xúc động.

"Kính thưa bà con cô bác trong làng .Ông Vũ Văn Rợi sinh ra và lớn lên ở làng ta.Sống trong xã hội chúng ta.Ông là người không may mắn vì đã mắc phải căn bệnh mà y học hiện đại ngày nay vẫn chưa có cách chữa .Loài người phải bó tay đầu hàng trước số phận của ông. Quãng thời gian ông sống với chúng ta đã được bà con trong xóm làng yêu thương đùm bọc bảo ban dạy dỗ.Vì thế mà ông không làm hại ai bao giờ .Trước giờ phút tiễn đưa ông về nơi an nghỉ cuôí cùng. Thoát chốn phàm trần bể khổ vì bệnh tật. Tôi xin bà con cô bác để một phút mặc niệm ông."

Ông xóm trưởng dừng lời cúi xuống.Phải tới gần hai phút ông mới ngẩng đầu lên. Tay ông run run đưa tờ giấy vừa đọc vào ngọn nến .Tờ giấy bắt lửa ,ông thả đốm lửa rơi xuống đát ,nó cháy bùng lên rồi tát hẳn. Ông thắp thêm một tuần hương nữa và cúi đầu trước vong linh thằng Rợi lần cuối.Cái tàngiấy bay quẩn vào chân ông khi ông lui xuống.Tiếng trống và tiếng thanh la vang lên thay cho lời đáp từ

Tôi lặng lẽ đi bên chiếc xe tang đen bóng do làng mới sơn lại. Phia đầu xe là một vòng hoa trắng toát.Chiếc xe tang lắc lư trườn đi..cái quan tài sơn đỏ cũng lắc lư ,bỗng sẫm lại trước mưa chiều...

Trước ngày nhập trường tôi không liên hoan cho tôi như bố tôi đã hứa nữa.Tôi lang thang ra khu nghĩa địa của làng Ngôi mộ thằng Rợi cỏ đã lấm tấm lên xanh. Tôi thắp một nắm hương to .Khói hương lặng lờ phủ lên ngôi mộ.Phải chăng đây là ngôi mộ nước?

CHUYỆN HAI NHÀ(câu chuyện văn nghệ)

Chuyện chỉ có thế mà hai nhà sát bên nhau vốn thân thiết nay bỗng nhiên thành hằn thù.

Ông Thông lôi cả họ ông Gia ra chửi.Ông gia cũng chẳng thua kéo cả họ ông Thông nhập cuộc. Thế rồi, rặng biên giới bằng râm bụt với lối đi đã nhẵn lì dấu chân của hai nhà mà khi trước lúc ấm trà điếu thuốc ,đôi lúc cả bát canh cũng được biếu nhau qua lối ấy ,được thay bằng bức tường gạch xây cao gần hai mét,cắm đầy mảnh trai sắc nhọn .Vẫn biết rằng "Yêu nhau rào dậu cho kín "nhưng xem ra họ rào chặt cả tình yêu lứa đôi ấy!

Họ giận nhau ra mặt.Đi đường gặp nhau không ai chào ai,cả hai đều cúi mặt xuống hoặc quay đi.Tình cảm tốt đẹp đằm thắm khi xưa không còn nữa . Cát xét,ti vi của hai nhà thi nhau mở to hơn vào những ngày nhàn rỗi mưa phùn buồn tẻ. Nhưng có một điều các ông bố bà mẹ cả hai bên đều chưa biết?Đó là tình cảm hai nhà đang được gắn chặt hơn thông qua một vết nứt ở bức tường xây vội khi nóng giận.Vết nứt đó là nơi giao lưu tình cảm của hai đứa con họ.Lúc quyển chuyện khi lá thư hẹn hò hay một chút vật chất nho nhỏ được trao tay....

Thực ra ,Thơm ,con gái ông Thông và An con trai ông Gia đã yêu nhau lâu rồi,từ trước khi hai nhà còn chưa cãi nhau

.Nguyên cớ họ cãi nhau cũng chỉ vì cái chuyện cỏn con. Buồng chuối nhà ông Thông đổ xuống mái chuồng lợn nhà ông Gia làm vỡ mấy viên ngói .Thật không may lại đúng hôm mưa ,đàn lợn con mới đẻ ốm chết mất mấy con.Bực mình ,ông Gia băm nát buồng chuối rồi chửi toáng lên Thế là lời qua tiếng lại hai bên thành cãi nhau to...!Phận làm con nên Thơm và An chỉ biết im lặng ngậm ngùi

Tình yêu của đôi trẻ cứ lặng lẽ trôi đi cùng bức tường ngày một vỡ rộng ra...!Cho đến một ngày kia,dưới ánh trăng mờ mờ

Hương hoa bưởi hai khu vườn hoà quyện cùng hương sắc mùa xuân.Cũng bên bức tường nứt An và Thơm tâm sự.Tiéng Thơm nghẹn ngào ngắt quẵng

-Anh ơi...biết làm sao bây giờ, em đã...

Nước mắt Thơm rơi ướt đầy vai áo An

-Bao lâu rồi

-Ba Tháng..Thơm nấc lên

-Mai anh sang thưa chuyện với bố em nhé

-Ấy không được đâu! bữa cơm nào mà bố em chẳng thề thốt"Tao thì từ...thế càng dễ sống.."

Thơm thở dài thườn thượt. Một ngọn gió bấc trái mùa ào đến làm nhưng tàu lá chuối rung lên phần phật ,hai người ôm chặt lấy nhau...

...Đúng lúc ấy ,cách chỗ Thơm và An không xa ,ông Thông do không ngủ được đã lang thang ra vườn tới chỗ vết nứt của bức tường nay đã bị vỡ thấp xuống.Ông dừng chân lắng nghe,và ông đã nghe được sự thật

Hôm sau nhà ông Thông không thấy mở ti vi to nữa.

Một cuộc họp bất thường được triệu tập.Bà cô tính nóng nảy nói như quát

-Cứ kiện nó lên uỷ ban

Ông chú vội gạt phắt đi

-Không được.."dâm có tang ,đạo có tích"nó cãi bà bảo sao?

Cứ thế người ý nọ kẻ ý kia ,chẳng ai chịu ai.Chỉ có thơm nằm trong buồng là khóc hết nước mắt

Phía bên nhà ông Gia do con trai về thưa chuyện cùng với nguồn tin bên ngoài cũng bắt đầu nhóm họp.Thành phần ban bệ cũng đủ cả .Nhưng trong long các vị trong ban bệ ấy vẫn còn văng vẳng tiếng chửi cả cái họ vũ của ông Thông.Bà thím ,tính cố chấp ,mồm nhai trầu bỏm bẻm,bước ra hè nhổ toẹt cái bã trầu về hướng nhà ông Thông ,quay vào bà nói với An?

-Liệu có phải con của mày không?bà hỏi mà không có ý nghe trả lời,rồi nói tiếp

-Khéo không lại là kẻ ăn ốc người đổ vỏ" đấy cháu ơi?

Ông bác là người cẩn thận chắc chắn xen vào:

-Cứ để nó đẻ xem giống ai đã!

Ông chủ đệm theo ra vẻ hiểu biết,giọng đầy quan trọng

-Cần thiết thì thử máu cho rõ.

Hai nhà vẫn họp liên miên mà vẫn chưa có lối thoát nào?

Cả hai ông Thông và Gia luôn thở dài buồn bã .Thơm bụng ngày một to,mặt mày ủ rũ xa xanh xao.An thuyết phục họ hàng không được chán nả bỏ đi làm ăn xa.Bức tường vỡ to hơn chẳng ai thèm để ý.Câu chuyện tưởng chừng bế tắc...

Nào ngờ..vào một đêm cuối tháng.Sự gian díu của hai mùa xuân hạ làm đất trời thêm tối hơn.Ông Gia buồn bã ngồi hút thuốc lào vặt mãi quá nửa đêm mới ngủ quên cả đóng cửa. Đang mơ màng bỗng giật mình nghe tiếng vợ ông giọng líu lại

- nó ...nó trộm...

Ông vùng dậy,lần sờ bật được điện lên

,thì ôi thôi cánh tủ mở toang, cái hộp bằng gỗ mít đựng 5 cây vàng đã không cánh mà bay..Ông lao ra ngoài đuổi theo tên trộm. nó đang loay hoay trèo cổng ,thấy ông, nó lao ngược lại đẩy ông ngã rồi chạy về phía bức tường vỡ,sang phía nhà ông Thông toan tẩu thoát.

Lúc này ông Thông do lo lắng cho con gái, ông tắt điện đi ngủ sớm. Nhưng không ngủ được,khi nghe tiếng nhà bên kêu trộm, ông rón rén đi về phía bức tường. Vì đã quen với bóng tối được ít phút nên ông Thông nhìn rất rõ tên trộm chạy sang .Không nghĩ ngợi gì ông lao đến ôm chặt tên trộm,nó vứt cái hộp xuống ,rút dao đâm vào cánh tay ông Thông...!

Điện sân hai nhà bật sáng.Ông Gia đến nơi trợ chiến, cùng làng xóm kéo đến .Tên trộm bị bắt!

Nhìn máu chảy ở cánh tay ông Thông,ông Gia băng bó và dìu ông Thông vào nhà. Bốn mắt nhìn nhau lặng lẽ,không ai nói được gì. Mãi khi Thơm mang nước ra mời ,ông Gia mới nói với thơm được mấy tiếng:

-Mai..bố điện thằng An về cưới cho hai con.

Bàn tay ôngb Thông nắm chặt bàn tay ông Gia khi ông Gia kéo chăn đắp lên người ông. Ông nói với ông Gia giọng nghẹn ngào xúc động:

-Mai chúng ta cùng sửa chỗ vỡ ấy thành lối đi chung cho tiện nhé. Ông Gia gật gật đầu ,nắm bàn tay bạn chặt hơn.Cả hai ông đều giân giấn nước mắt

Thơm đứng lặng đi vì vui sướng.

MỤN VÁ (truyện ngắn)

Thơm đưa cả hai chiếc áo lên ngắm nhìn,đắn đo xem xé cái nào làm mụn vá cho cái nào.

Cái màu tím ,cái màu xanh đã rách như nhau ,làm Thơm cứ băn khoăn mãi.

Có lẽ hôm nay Thơm cũng không thể nào quyết định được cái điều viễn thực ấy .Bởi từ sáng đến giờ Thơm đang phải lo lắng về con lợn. Gần năm tháng nay chắt chiu dành dụm từ buồng chuối cây rau bán đi đong cám ,mong muốn nuôi được con lợn vồng vộng thì mới có chút tiền kha khá để chữa bệnh cho con và mua sắm quần áo . Vậy mà hôm nay nó lại nằm nó lại bỏ ăn nằm sốt li bì. Càng nghĩ Thơm càng sốt ruột. nghe anh thu y bảo :"Nó mắc bệnh khó chữa ,nên bán đi. Thế là cả buổi sáng tong tả ở phố huyện tìm người mua mà Thơm vẫn không tìm được ai. Mấy người vẫn mua lợn thịt trả lời:"Mai rằm chỉ bắt lợn tạ không bắt lợn nhỏ.

Thơm buồn bã nhìn bóng nắng loang lổ nơi cái sân đã rộp lên từng mảng .Chị như đoán được thời gian từ cái vệt nắng lấm láp ấy. Rồi như chợt nhớ ra điều gì ,chị cất vội hai chiếc áo vào hòm ,tất tả đạp xe xuống phố huyện. Nắng xiên khoai vẫn oi nồng bởi có tin bão xa .Bóng dáng Thơm đong đưa nơi mặt đê .Chiếc xe không bàn đạp nghiến vào gan bàn chân Thơm đau nhói .Thơm chợt nhận ra mình không đi dép khi xuống phố.

Phố huyện nằm lọt thỏm vào giữa khu dân cư của cả huyện ,nên nghề mổ lợn ở đây được coi như nghề phát triển. Chợ sáng chợ chiều với gần 20 phản thịt mà bán vẫn hết

.Dường như trời đất còn phù hộ cho mẹ con Thơm .Vừa đến đầu phố Thơm đã gặp ngay Bình Béo ,người cùng làng ,bạn học với Thơm thời phổ thông. Thực ra chồng Bình mới là dòng dõi gia truyền ..Nhưng vì nghiện hút mà vỡ nợ ,bởi vậy Bình mới phải nhảy vào cuộc. Mới có mấy năm làm nghề này mà những đường cong mền mại của cô gái nông thôn vốn gầy gò đã bắt đầu khép kín. Có lẽ vì thế mà người ta gọi Bình là "Bình Béo" Bình Béo ít vốn nên nên cũng ít người gọi bán lợn cho Bình. Thường thì Bình bắt lợn xong vài ba ngày mới trả tiền.

Nhưng với lúc này Binh Béo như một vị cứu tinh không những với thơm mà còn cả với những nhà không có khả năng nuôi lợn to. Bình Béo mua lợn, mổ giao móc hàm cho những người bán lẻ ở chợ ,còn Bình thì bán tiết canh cháo lòng .Cái quán chạy nghị định 36CP của Bình là đôi quang gánh và cái bàn gấp. Cứ đặt quang gánh xuống ,ngả bàn ra là chỗ nào cũng thành quán . Bình Béo có tài bắt lợn .Người ta nói về tài bắt lợn hay đánh tiết canh chỉ trong nháy mắt đã đông xoắn của Bình Béo như một câu chuyện huyền thoại. Ví như khi đi bắt lợn :Bình chỉ cười hì hì ,đôi mắt ti hí nhưng nhìn rất rõ 4 chân con lợn. Đến khi tiếng cười thắt ngẫng cũng là lúc điếu thuốc trên tay bình đỏ rực tưởng như bốc lửa,mọi tia khói nhỏ nhoi không lọt qua được kẽ mép chặt chẽ ấy. Quẳng mẩu thuốc xuống đất ,rút dây thừng đã buộc sẵn ngang lưng, tròng vào chân trước con lợn ,xua nhẹ một cái ,kéo chéo qua kẽ chân ,đưa bàn chân son đạp kiểu cách vào mông lợn. Thế là dù nó có nặng hàng tạ cũng đổ chổng bốn vó lên trời. Cái thời bảo vệ và công an còn đi bắt thuế sát sinh .Bình Béo đi mua lợn thường mang theo cái rọ mõm bằng cao su để chụp vào mõm lợn. Bình bảo : Nghe nó kêu thương lắm. Bình Béo nghiện thuốc lá nặng. Kẽ tay Bình ám khói thuốc vàng khè. Bình bảo " Suốt ngày mày mò thịt rồi máu lợn nên phải hút cho đỡ ngấy.

Thơm vừa trông thấy Bình béo "Vị cứu tinh" mừng cuống lên:

- Bình ..trời ơi ..tìm suốt từ sáng đến giờ...xuống bắt hộ tứ con lợn

Bình Béo rít một hơi thuốc rồi quẳng mẩu thuốc xuống đất ,lấy chân di di như giết một con vật gì dưới đó đoạn cất giọng ôm ồm hỏi lại:

-Mấy chục cân ?

-Gần 80 cân. Thơm nói quá lên chứ thực ra chỉ khoảng 60 cân ,lại bỏ ăn cả ngày nay chắc gì còn được 60 cân?

-Chiều bắt . Bình béo nói gọn lỏn .

-Mấy giờ ? Thơm hỏi lại

-Muộn đấy...7 giờ ..mà đừng cho ăn tớ không mua no.

Thơm không hỏi gì thêm ,chỉ hẹn lại: Đúng 7 giờ nhé ,rồi vội vàng chào Bình trở về.

Từ khi ở phố huyện gặp và hẹn bình Béo về ,Thơm lúc nào cũng đứng diệt ở cửa chuồng lợn .Thơm sợ như mình không ở đấy thì nó chết mất. Thời gian từ 5 giờ đến 7 giờ mà như dài bằng cả ngày .Chốc chốc ,hễ có tiếng xe máy (kiểu xe trở lợn) là Thơm lại chạy ra cổng xem có phải Bình béo đến không? Thế rồi cái điểm thời gian may rủi với mẹ con Thơm cũng tới. 7 giờ hơn Bình đến. Trời đã nhá nhem. cuộc mua bán diễn ra nhanh chóng. Chỗ bạn bè không mặc cả ,cò kè giá cả .Con lợn được bắt ra cân lên ,Bình béo tay cầm cân ,kéo xoạt quả cân ra tận đầu rồi nhích mãi vào trong ...cuối cùng thì quả cân cũng dừng lại được khi cái cần cân chưa kịp ngẩng lên. Bình Béo tốp lại rồi sướng to:

-54 cân tính tiền ,18000đ một cân. Không ăn không phải trừ nhé.

Thơm thấy trong lòng nhè nhẹ bởi con lợn khi bắt ra hãy còn kêu to được một tiếng như chào Thơm. Bình Béo buộc chặt con lợn vào ra xe rồi bất chợt quay hỏi Thơm:

-Lợn có ốm không đấy?

Thơm giật mình trả lời nhỏ hẳn:

-Không... không sao. Bình béo lại nói tiếp

-Đếch mang tiền, vài hôm nữa xuống mà lấy.

Tiếng xe máy chở lợn đi xa hẳn Thơm mới dám thở mạnh.Rồi như tự chấn an mình :"Thôi thế cũng là may"

Đêm ấy hai mẹ con thơm ngủ ngon như thoát được cuộc rượt đuổi. Có lẽ cuộc rượt đuổi kinh tế tâm lý.

Trăng mười bốn thật thà nấp vào những tảng mây xám xịt bởi tin bão gần. mới hơn bốn giờ sang Thơm đã phải bật dậy vì tiếng đập cửa và Bình Béo oang oang:

-Lợn ốm mà mày không bảo tao ,9 giờ đêm qua nó chết .Nay rằm tháng 7 tao không bán thịt lợn chết .Phải tội. Với lại vệ xinh thực phẩm nó bắt. Tao mang giả mày, mày liệu mà mà bán. Lợn đã cạo lông rồi. Lòng sỏ tao đổ đi...

Có lẽ bình béo cũng muốn giành lại chút ít tiền công cho cái mớ lòng xỏ ấy ,nhưng thấy Thơm không nói gì Bình béo vứt con lợn xuống hè ,nói tiếp giọng nhẹ nhàng hơn:

-Khổ quá ...tao cũng thương mày nhưng có ai thương tao đâu ,với lại tao còn phải nuôi con tao...Thôi mày thông cảm tao về kẻo nhỡ chợ. Nói rồi Bình Béo cun cút dắt xe ra cổng.

Thơm đứng lặng đi nhìn con lợn trắng nhờ nhờ ,đang rịn ra cái thứ nước hồng hông từ cái bụng trống hoác ,giơ xương sườn. Trên gường ,đứa con trai tội nghiệp của Thơm đã dậy, nó nhướng đôi mắt lờ đục về phía cửa như nhìn rõ mẹ nó và con lợn.

Trời đã sáng ,mây đen vần vũ . Phía chân trời đang ủ những luồng gió lớn. Tin bão khẩn cấp đang được đọc từ cái loa truyền thanh của xã treo gần trước cổng nhà Thơm..."Cơm bão khẩn cấp...cơn bão số 5 ...sẽ đi vào ...đề phòng gió giật cấp 12 .Tiếng loa khi rõ khi tắt bởi gió đã bắt đầu mạnh lên. Mưa ràn rạt xé toạc những tàu lá chuối như bị ai tước nhỏ ra. Thơm không còn tâm trí nghĩ đến việc chống bão

Cơn bão quái đản ,gầm rít gần một ngày trời. Nhà thơm cái nóc vẫn còn lợp bằng rạ gió lật trống trơn. Hơn 10 buồng chuối mới vỗ mà Thơm đã vun xới ,toan tính gẫy gục hết lượt như bị người chặt ngang thân.

Gần cả tuần sau hôm bão Thơm như không ngủ .Nghĩ đến cuộc sống kinh tế ...đến người ấy .Người mà cho Thơm đứa con tội nghiệp . Thơm tự trách mình đã không làm gì được cho con, chưa dám hy sinh cho con. Mấy hôm nay nó kêu nống trong người, đòi tắm .Người đã mọc mụn ,đôi mắt đục lờ đến ruồi bâu cũng không biết đuổi.

Thơm ôm con vào lòng ,ghì chặt nỗi đau ,ghì chặt niềm hy vọng lớn nhất đời Thơm. Đôi mắt thâm quầng vì mất ngủ bỗng lóe lên khác lạ. Một ý nghĩ mụ mị chợt đến trong Thơm.

Hơn 8 giờ sáng ủy ban xã mới làm việc. Thơm lại tất tưởi đạp xe lên ủy ban, gương mặt chị lạ hẳn .Dường như chị vừa có một quyết định gì quá với bản tính của mình . Thơm tìm gặp người Trưởng bạn thương binh xã,nói với người trưởng ban . Giọng nói gấp gáp như không nhanh thì không thể nào nói ra được.

-Em đến để đề nghị các anh giải quyết chế độ chính sách cho con em. Người phụ trách mở to cặp mắt nhìn Thơm như nhìn một người lạ ngoài trái đất.

-Chị nói gì tôi không hiểu?

-Dạ..con tôi chính là con anh Tự ở Xóm 4 . Anh Tự là người nhiễm chất độc da cam .Em nghe nhà nước đã giải quyết chế

trợ cấp cho anh ấy và các con anh ấy ?

Người Phụ trách thương binh đã hiểu ra ,anh như động lòng trắc ẩn . Anh nói:

-Chị phải bảo anh ấy nhận là con anh ấy thì chúng tôi mới giải quyết được.

Thơm nấc lên, nước mắt ứa ra từ hai tròng mắt thâm quầng vì mất ngủ.

-Nhưng anh ấy đã biến chứng còn biết gì nữa mà nhận.

Người trưởng ban thương binh nói như bày cách cho Thơm:

-Chị thử nói với vợ anh ấy xem có thông cảm được không?

Thơm giẫy nẩy: Chết ..bà ấy ghen lắm ...biết thì bà ấy không xé xác tôi ra...?

Vậy thì chị phải từ từ để chúng tôi lựa vào chế độ 202 được không?

Thơm đã nhận ra bế tắc của sự việc . Chị tự trách mình vội vàng nói ra điều bí mật ấy . Ba đứa con của anh đều tật nguyền. Thương anh ...Thơm đã sinh cho anh một đứa con ,hi vọng ...nhưng..

Thơm bước ra khỏi ủy ban.

Bước ra khỏi ủy ban ,nỗi lòng Thơm tan nát .Mưa đền cây sau bão như xối nước. Mặt đường đầy bong bóng nối đuôi chạy dài dài theo dòng chảy ....

****

Như để lấp đi nỗi buồn ,Thơm lại tự mang hai chiếc áo cũ ra . Chị xé chiếc áo tím lấy một mảnh vá cho chiếc áo xanh như để chắp màu hy vọng tình người*

Tản mạn : Câu cá thát lát

Bài : Chautuanvu

Sáng nay mình vào Facebook, gặp một người bạn hỏi cách câu cá thát lát, bỗng nhiên lại nhớ đến thằng cu Anh.

Thằng cu Anh là bạn học với mình từ thời mẫu giáo, học với nhau mãi cho đến hết phổ thông. Sau này ra trường, mỗi đứa đi làm mỗi phương nhưng vẫn chơi thân với nhau. Mỗi lần về nhà là hắn lại lên hẹn mình đi câu cá.

Thằng cu Anh rất mê câu cá. Cá chi hắn cũng câu được, thậm chí câu rất nghề. Vốn là dân kỹ thuật cầu đường nên hắn đi làm công trình khắp nơi. Khi rảnh rỗi, ai gái gú cờ bạc rượu chè chi chi cũng mặc, hắn chỉ thích xách cần ngao du sơn thủy đó đây.

Nhớ cái đận cuối năm 2001, cả hai thằng cùng làm cái đê quai ở đập thủy lợi Vực Tròn. Hồi nớ mình chưa biết câu kéo là cái giống chi. Một buổi trưa nọ, thấy hắn không ngủ, cứ lục cà lục cục đâm đâm giã giã nơi góc bếp, mình hỏi mi đang làm chi đó thì mới biết hắn đang rang cám trộn cơm để làm mồi câu cá trong đập Vực Tròn.

Vực Tròn là đập thủy lợi lớn ở phía bắc Quảng Bình, nằm sát dưới chân dãy Hoành Sơn, là nơi có địa danh Đèo Ngang và câu sấm "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" nổi tiếng của Trạng Trình. Lúc mới ra đây, cứ chiều đến, cả bọn thường vào trạm thủy nông đóng ngay dưới chân đập uống rượu với mấy bác cán bộ ở lại trực ca. Trong cuộc rượu thường được nghe mấy bác kể về những cái vực sâu không đáy và chuyện những con cá thành tinh trong lòng đập. Nghe kể rằng cá ở đây có rất nhiều loại, nào cá mát, cá bọp, cá trắm, cá chình, cá lăng... Cá ở đây vừa nhiều vừa to. Ở cái vực sâu không đáy dưới tràn xả lũ, nhiều người đã từng thấy những con chình to và dài như cây chuối lên khoanh tròn sưởi nắng trên bờ đá. Những đêm sáng trăng, nhiều người thấy những bầy cá gáy (chép) lên quẫy đì đùng trong lòng hồ như bầy trâu mộng. Rất nhiều lần, cán bộ trong trạm mổ gà mổ vịt xong xuống chân đập rửa ráy, bị cá táp mất bộ lòng mề ngay trên tay là chuyện thường. Rứa mà có cái lạ là khi giăng câu hoặc thả lưới thì chưa khi mô bắt được chúng. Chính vì vậy nhiều người trong vùng đồn rằng ở đây có nhiều con cá đã thành tinh.

Thằng cu Anh có cái tật khi uống rượu chỉ ngồi lừ đừ, ít khi nói qua nói lại. Tuy nhiên hắn đã ghi lòng tạc dạ chuyện này. Hắn rắp tâm sẽ bắt cho bằng được vài con cá đã thành tinh đó.

Nghĩ là làm, hắn liền về Ba Đồn chặt mấy cây hóp (trúc) đá dài 3, 4 mét làm cần, chuẩn bị dây dợ lưỡi liếc làm mấy bộ cần câu rồi cất sẵn trong lán, chờ thời cơ đến để hành sự.

Cái bữa mình thấy hắn đâm đâm giã giã chính là lúc hắn bắt đầu ra tay.

Nói qua một tý về chuyện đắp cái đê quai nhưng lại liên quan đến chuyện thằng cu Anh câu cá. Vốn đất đắp đê được máy đào múc từ các quả đồi xung quanh lòng hồ, cho lên xe ben chở ra đổ lấn dần từ trong ra ngoài thành cái đê quai bắc qua lòng hồ. Cứ mỗi lần xe đất đổ xuống nước, đàn đàn lũ lũ các loại cá lại tranh nhau lao đến đớp mồi giun dế làm mặt nước rộ lên như cơm sôi. Thằng cu Anh thấy hết. Rồi cứ đến buổi trưa, chờ mọi người về hết, công trường vắng lặng là hắn bắt đầu vác cần ra bờ đê quai câu cá. Trước tiên, hắn trộn cám rang mỡ lợn còn nóng hôi hổi với bùn rồi ném xuống nước. Xong xuôi, hắn thắp điếu thuốc ngồi đợi. Khi thấy tăm cá nổi, hắn bắt đầu buông câu. Như đã nói ở trên, mồi câu được hắn làm từ cám rang mỡ lợn thơm phức nhồi với cơm thật nhuyễn. Hắn bọc tròn mồi câu như viên bi quanh lưỡi. Hắn câu một lúc 4, 5 cần. Thả câu xong hắn cắm cần vào bờ đê ngồi đợi. Cần mô phao nhún thì hắn chạy lại giật. Cứ rứa, trong vòng giấc nghỉ trưa, ngày mô hắn cũng câu được vài cân cá, chủ yếu là cá bọp, cá gáy bằng bắp tay, còn cá thành tinh thì không thấy tăm hơi mô hết. Có một lần, do bị tào tháo rượt thì phải, hắn vừa vào ngồi trong bụi chưa kịp gửi tình yêu vào đất thì nhìn ra thấy một cây cần câu bị cá nhổ phăng khỏi bờ đê, lôi chạy vun vút trên mặt hồ như tàu cao tốc. Hắn vội kéo quần lên đuổi theo nhưng không kịp, miệng chửi nghe thấu đến ba làng. Mấy ngày sau cái cần đó được sóng đánh giạt vào bờ, lấy lên xem thấy lưỡi đã bị đứt. Hắn bần thần mãi, miệng cứ lẩm bẩm cá thành tinh, cá thành tinh... Trở lại chuyện câu cá thát lát. Vốn nhà thằng cu Anh ở trong nha khí tượng Quảng Trạch, sát bên đồng "nẫy" (đầm lầy) Chính Trực và kênh Bánh Tét chảy từ trên động cát Quảng Long về. Nói về cánh đồng "nẫy" Chính Trực thì những ai là dân sống quanh vùng Phan Long thôn từ thế hệ 197x trở lên đều biết về cánh đồng kỳ lạ này. Đất ở trên cánh đồng này có màu đen như than, dẻo quẹo như bùn (nên còn gọi là than bùn). Khi ta đi trên nó, mặt đất rùng rùng đưa qua đưa về như bài ca cánh võng. Đôi đoạn đi vào sẽ bị thụt xuống gọi là thụt "nẫy". Thụt nẫy rất nguy hiểm, nhiều người đi bắt cá bị thụt sâu đến tận cổ, phải nằm yên không cựa quậy (bởi vì càng quậy mạnh thì càng bị thụt nhanh) hai tay giang ra vuông góc với thân rồi mới kêu người đến cứu. Nếu đến chậm, người đó sẽ từ từ tụt sâu vào lòng đất và cầm chắn sẽ bị ngủm củ tỏi. Cứu người bị tụt "nẫy" cũng phải biết cách, đó là phải hết sức bình tỉnh, đứng trên bờ đất cứng rồi dùng khúc cây hoặc đoạn dây ném ra cho người bị nạn cầm thật chắc rồi dùng hết sức để kéo vào. Nếu hấp tấp chạy ra cứu thì cả hai đều bị thụt "nẫy" như nhau. Dân vùng này có kinh nghiệm khi ra "nẫy" thường thủ theo cành cây vài mét, lỡ bị tụt "nẫy" cứ bình tỉnh gác ngang cành cây trên mặt nẫy để chống lún rồi mới từ từ tìm cách bò vào.

Hồi đó, ở trên ruộng nẫy và kênh Bánh Tét có rất nhiều đầm bèo. Dưới đó cơ man nào là cá như cá tràu, cá chạch, cá diếc, cá gáy, cá rô... Nhưng nhiều nhất vẫn là cá thát lát.

Cá thát lát ở đây rất to. Nhiều con 4 đến 5 lạng. Thường cá thác lát ở các nơi khác toàn thân có màu trắng, nhưng cá thát lát ở đây lại điệp màu xám đen. Có lẽ do ở dưới đầm lầy nhiều bèo thiếu sáng nên màu của chúng mới trở nên như vậy.

Mình nhớ thằng cu Anh câu cá thát lát siêu sao lắm. Chưa có khi mô mình thấy hắn xách cần đi mà phải trở về tay không cả. Có lần mình hỏi tại răng mi câu siêu rứa? Hắn cười nói siêu siếc cái chi, chỉ cần siêng siêng một tý là được.

Câu cá thát lát nên câu bằng cần tay dài cỡ 3 mét trở lên để dễ vươn ra các lỗ câu ngoài mặt đầm nhiều bèo. Cước câu thát lát nên dùng cước mảnh cỡ 2 ly đổ lại, lưỡi câu loại nhỏ, phao nhỏ. Mồi câu thát lát thường là trùn đất, tép ruộng, kể cả mồi tôm bóc vỏ đều câu được. Nhưng mồi câu nhạy nhất vẫn là con ăn mày. Không biết tại răng người ta lại gọi cái con nhộng nước đó là con ăn mày, thực ra nó là con ấu trùng của con chuồn chuồn nước, ở quê mình còn gọi là chuồn bầu. Chuồn chuồn bầu là loại chuồn chuồn to, có lẽ to nhất trong các loại chuồn chuồn mình đã thấy. Ở quê hồi nhỏ bọn bạn cùng trang lứa mình thường chơi trò "hường" (bắt) chuồn bầu. Đó là cách dùng con chuồn bầu cái buộc bằng đoạn chỉ dài cỡ 7 tấc vào cái que cỡ 1 mét, đầu vót mảnh vừa quay vừa đọc câu "hường bầu hường ai thương thì đậu ai ghét thì thôi" để dụ con chuồn bầu đực đến "lẹo" (yêu) để bắt. Cái cách "lẹo" nhau của loài chuồn chuồn này rất hay và máu me lắm. Trên mặt hồ rộng mênh mông, nhác thấy có con chuồn bầu đực đang bay vòng vòng, chỉ cần tung con chuồn bầu cái ra quay vài vòng thế nào con chuồn bầu đực cũng bay đến "lẹo"cứng ngắc bằng cái đuôi của nó vào sau gáy con chuồn bầu cái. Khi đó chỉ việc thò tay ra bắt nó dễ còn hơn nhặt con ốc bươu vàng. Cách phân biệt con chuồn bầu là đực hay cái cũng rất dễ. Đó là con đực thường chỉ bay, không đậu. Còn con cái vừa bay, lâu lâu lại sà xuống bụi năn, bụi cỏ ven hồ rồi dùng cái đuôi châm xuống nước để đẻ trứng. Một cách phân biệt nữa là con đực thường thẩm màu hơn, có bộ phận sinh dục nằm ở phía dưới đuôi nhô ra ngoài, còn con cái có màu dịu hơn, cơ thể có đường cong mượt mà hơn con đực. Con ăn mày thường sống ở dưới đáy ao hồ, đặc biệt có nhiều trong rễ cây bèo. Con ăn mày thường lớn cỡ đầu ngón tay út. Ngoài việc làm mồi câu cá rô hoặc cá thát lát, món ăn mày rang mỡ cũng là một món nhậu khoái khẩu của các bậc lão nông. Bắt con ăn mày có nhiều cách, nhưng năng suất nhất vẫn là dùng nhủi nhủi sát đáy ao hồ, hoặc có thể vơ bèo lên rồi dùng tay bắt nó ở trong đám rễ bèo cũng được. Nói thì dễ vậy nhưng không phải ai cũng siêng năng để làm được chuyện đó. Với lại hồi trước ao hồ đầm phá còn nhiều nên đi bắt ăn mày còn dễ, chứ bây giờ ao hồ đầm phá ngày càng bị thu hẹp dần, có muốn làm siêng đi bắt cũng không còn chỗ để bắt.

Không biết tại răng con cá thát lát lại rất khoái con ăn mày. Có lẽ do thịt con ăn mày thơm (bằng chứng là người cũng thích), hoặc có thể do con ăn mày sống cùng môi trường sống với thát lát (thường dưới ao bèo) nên việc thát lát thích ăn mày, khe khe, thì cũng là điều đương nhiên thôi.

Con cá thát lát có cách ăn mồi rất hay. Nó không nhấn nhá hay đớp nhả vài lần rồi mới ăn như phần lớn các loại cá khác. Khi ăn, nó nhao từ dưới lên táp mồi rồi lôi tụt xuống nuốt ngay. Rất mạnh mẽ. Chính vì thế nên câu thát lát rất sướng tay. Tuy nhiên loài cá này lại ăn mồi có giấc (theo giờ trong ngày). Có nơi chỉ ăn vào buổi sáng sớm tinh mơ, có nơi chỉ ăn vào buổi chiều chập choạng. Có khi cả đàn nhao lên móng (thở) làm mặt nước rộ lên như cơm sôi, nhưng câu mãi vẫn không thấy ăn. Có khi không thấy móng miếc chi hết mà thả phát mô nó ngoằm phát nấy. Vì mình thát lát dẹp, cá lại khỏe nên khi dính câu nó lạng rất mạnh. Chính vì vậy cần câu cá thát lát nên cưng cứng một tý, chứ dẻo quá nó chui vào bèo thì dễ bị sẫy lắm.

Trên mặt ao hồ đầm phá, giữa các đám bèo cứ chỗ mô trống có cá nhao lên móng phát một rồi tụt xuống liền, liên tục liên tục như rứa thì đích thị ở đó có bầy thát lát. Cứ mấy điểm đó mà câu, kiểu chi rồi nó cũng phải đớp mồi của mình. Cá thát lát đem làm chả thì phải nói là số một. Vốn cá thát lát xương rất cứng, da dày, mình lép, thế nên nếu đem kho, hấp, nướng ... đều không hợp mấy. Tuy nhiên thịt thát lát lại vô cùng dẻo và ngọt, chính vì vậy đem làm chả thì không có loài cá nào có thể sánh được với nó. Nhớ hồi đó mình và thằng cu Anh câu cả mớ thát lát về, đem nạo thịt làm chả, nạo mãi không ra hết, thịt cứ dính từa lưa với xương. Sau có người bày mới biết cách, đó là trước khi nạo nên bỏ vào ngăn đá tủ lạnh một thời gian, sau đó lấy ra thì sẽ nạo phần nào ra phần nấy.

Thịt cá thát lát sau khi nạo ra đem bằm (hoặc xay) thật nhuyễn, cho chút đường, muối, tiêu, ớt bột vào trộn đều rồi đem viên thành viên thì làm món chi cũng đều tuyệt vời hết. Mà ngon nhất có lẽ là món chả cá thát lát nấu canh chua?!

Nhớ năm tê mình ghé Huế thăm thằng cu Anh (thời điểm đó hắn đang làm việc ở Huế). Nhắc lại chuyện câu cá thát lát, hắn mới dắt mình đến quán chi đó quên mất tên ở đường Nguyễn Huệ ăn cơm. Hai thằng gọi mỗi tô cơm với một bát canh chua chả cá thát lát thôi mà đến giờ mình vẫn còn cảm giác ngọt đến xuất hạn (toát mồ hôi hột) cả người. Từ bữa đó trở đi, lần mô ghé Huế mình cũng đến quán đó kêu cho bằng được một tô canh chua chả cá thát lát. Riết rồi thành quen, lần mô thấy mặt mình bà chủ quán cũng không thèm hỏi nữa, cứ canh chua thát lát mà mần.

Bữa vô Huế mới đây, công việc xong mình lại ghé, ai ngờ không thấy quán đó mô nữa. Hỏi mới biết bà chủ đã nghỉ bán, đã chuyển đi từ hồi nào.

Câu cá ở nhà giàn .

________________________________________

Tiền Phong - Sống ở nhà giàn DK1 giữa biển, buông câu bắt cá đại dương là một nét sinh hoạt thường ngày khoáng đạt, thơ mộng của chiến sỹ Hải quân.

Tối 31-12-2011, các chiến sỹ nhà giàn DK1/21 ở cụm Ba Kè trên thềm lục địa phía Nam chộn rộn đón tàu HQ 608 của đoàn công tác Vùng 2 Hải quân đến chúc Tết.

Trung úy Phạm Văn Đồng và đồng đội Ngô Đức Hạ quyết tâm câu cá to đãi khách và nhắm những con cá nhồng tinh khôn, khó câu, gần đây hay xuất hiện quanh nhà giàn.

Mồi câu là cả con cá kìm dài độ nửa mét, nặng mấy trăm gram, được tung ra cách nhà giàn khoảng trăm mét. Ống cước câu néo vào lan can nhà giàn cùng một ống sắt gắn phía trên làm hiệu.

Sau khoảng 30 phút, ống sắt rơi xuống, trung úy Đồng và Hạ lao ra giật cá và dìu vào. "Đúng ngay con cá nhồng. Nó vật dữ quá", trung úy Đồng vừa giữ dây cước vừa nói. Chú cá giật hùng hục nên anh Đồng phải thả cước dài ra.

Đợi nó mệt lử, anh Đồng dìu vào bờ. Đồng đội chạy ra dùng chiếc khấu (móc sắt) bén ngọt móc vào kéo lên. Chú cá nhồng cân được 14 kg, thuôn dài giống cá trắm nước ngọt, nhưng thịt chắc hơn. Nhà giàn DK1/21 liên hoan rôm rả với món cá nhồng chiên đãi khách.

Những lát cá lớn thớ dày vàng rộm, thịt vừa ngọt vừa béo. Trung úy Phạm Văn Đồng cho biết, ở nhà giàn DK1/21, ngoài cá nhồng, các anh thường câu được cá hồng, cá mú, nhiều loại cá thu trong đó cá thu bè có con nặng 50-70 kg. Trung úy Trương Công Định ở nhà giàn DK1/10 cho biết, câu cá ở nhà giàn có hai loại: câu nổi và câu đáy. Câu nổi là thả mồi từ độ sâu 7-10 mét trở lên mặt nước, còn câu đáy là dùng những chì gắn sát lưỡi câu để đưa mồi xuống sát đáy biển mấy chục mét.

Câu nổi có thể dùng mồi giả với những sợi kim tuyến lóng lánh hoặc túi bóng kéo rê trên mặt nước, khiến cá tưởng con mồi bơi theo đớp. Cá ăn nổi thường là cá thu, ngừ đại dương. Còn cá ăn đáy gồm nhiều loại: cá sọ dừa, cá mú, chép biển...

Cả hai loại câu này đều không dùng cần, chỉ có lưỡi câu và một cuộn cước dài khoảng 200 mét. Một cuộn cước có thể gắn nhiều lưỡi, cách nhau khoảng 20 cm. Lưỡi câu có nhiều loại, trong đó lưỡi to nhất là thép inox lớn bằng chiếc đũa.

Nhìn sợi cước câu căng như dây đàn dưới những ngọn sóng, tôi thắc mắc: "Làm sao biết cá cắn câu?". Trung úy Trương Công Định giải thích: "Người câu cảm nhận ở ngón tay điều chỉnh sợi cước. Không khó lắm, nhưng muốn câu giỏi cũng cần kinh nghiệm". Cá cắn câu rồi, muốn bắt được cũng dễ.

Theo các tay "sát cá" ở DK1, khó nhất là dìu cá vào sát nhà giàn. Sợi cước câu phải được buông vừa phải, dài quá cá lớn sẽ quẫy lên giật đứt còn nếu giữ căng quá, cước cắt đứt tay người câu.

"Hiện, cụm nhà giàn Tư Chính là nơi nhiều cá nhất. Tiếp đó là khu vực nhà giàn Phúc Nguyên. Hồi trước, có khi chỉ trong 3 giờ đồng hồ, tôi câu được 40 con cá thu bè" - Đại úy Phạm Khắc Sinh

Anh Định xòe bàn tay còn in nhiều vết sẹo dài khi câu cá. Anh kể có lần câu được cá thu bè khoảng 40 kg, anh và đồng đội mất gần một giờ mệt lử mới dìu được nó vào gần nhà giàn để bắt.

Khi những loại cá lớn cỡ chục ký thì các tay câu phải kéo rất nhanh, bởi chỉ một chút chần chừ, mấy con cá nhồng tinh quái, có con nặng cả trăm ký có thể nhảy lên đớp mất.

Trung úy Định kể, có lần câu dính được con cá thu nặng khoảng 3 ký, anh vừa kéo lên khỏi mặt nước, một con cá nhồng lao tới nhe bộ răng sắc nhọn, lởm chởm như lưỡi cưa đớp mất thân con cá thu, mắc vào lưỡi câu chỉ còn trơ cái đầu xương lủng lẳng.

Nhẹ nhàng hơn là câu mực. Ở khu vực nhà giàn DK1/10 (bãi cạn Cà Mau), rọi đèn xuống biển là mực kéo đến. Các chiến sĩ dùng một con tôm giả cùng một chùm lưỡi câu không có ngạnh thả xuống, mực lao vào và dính.

Trên thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc có 15 nhà giàn, chỗ nào cũng câu được nhiều cá. Từ trên nhà giàn DK1/21 nhìn xuống vùng nước biển trong xanh xung quanh, tôi tưởng tượng đó là bể cá lớn với hàng trăm loại bơi lượn trên mặt nước.

Đại úy Phạm Khắc Sinh, từng hàng chục năm gắn bó với nhà giàn, hiện công tác trên tàu HQ 608 tiết lộ: "Hiện nay, cụm nhà giàn Tư Chính là nơi nhiều cá nhất.

Tiếp đó là khu vực nhà giàn Phúc Nguyên. Trước đây, có khi chỉ trong 3 giờ đồng hồ, tôi câu được 40 con cá thu bè". Hai cụm nhà giàn này ở khu vực biển sâu, là nơi trú ngụ, kiếm mồi của nhiều loại cá như: thu bè, chép biển, cá mú, cá kìm...

Sau Tết Nguyên đán, khi biển lặng sóng, cá kéo đến nhung nhúc, nhất là cá kìm. "Lúc này không cần câu nữa mà chuyển sang giật cá. Có khi giật cá sái cả tay", đại úy Sinh cười nói.

Các chiến sỹ thường dùng hai lưỡi câu gắn quay lưng vào nhau ném ra xa rồi giật vào giữa bầy cá. Có khi hai người giật một ngày được cả tạ. Cá kìm bán ở thành phố Vũng Tàu từ 30-40 ngàn đồng/kg.

Cá cho ngư dân, cá cho tương lai

Cá là nguồn thực phẩm tươi quan trọng với chiến sỹ nhà giàn nên nhà giàn nào cũng thủ sẵn hàng chục cuộn cước câu. Ngoài giờ làm việc, các chiến sỹ hào hứng buông câu.

"Mùa nào cũng vậy, nếu chịu khó một chút, các nhà giàn có cá dùng thoải mái", đại úy Phạm Khắc Sinh cho biết. Có khi chiến sỹ nhà giàn câu cá với nồi nước sôi sùng sục xung quanh.

Câu được cá, họ sơ chế rồi luộc ngay, cùng ăn tại chỗ, chuyện trò rôm rả. Các chiến sĩ còn dùng cá làm nước mắm, phơi khô, làm ruốc bông, phần để tích trữ, phần dành làm quà cho người thân ở đất liền.

Chiến sỹ nhà giàn rất mê câu cá. Trung úy Phạm Văn Đồng kể, chỉ một tiếng hô cá to cắn câu cất lên là anh em ở nhà giàn ùa tới kéo cá, niềm vui sướng không thể tả. Theo trung úy Đồng, cá biển khỏe gấp nhiều lần cá sông nên bắt được cá biển lớn đồng nghĩa với cuộc chinh phục đầy hào hứng.

"Những lúc sóng lớn, chúng tôi đứng trên nhà giàn câu cá lại thương ngư dân mình. Ước gì họ được trang bị những chiếc tàu lớn, đầy đủ phương tiện để ra khơi đánh bắt dài ngày", giọng trung tá Chu Trọng Hiển, Chính trị viên nhà giàn DK1/21 đang vui bỗng chùng xuống khi chỉ tay về phía những chiếc thuyền cá như chiếc lá bập bềnh trên sóng xa xa.

Tàu thuyền đánh cá từ Cà Mau, Bạc Liêu...mất vài ngày đêm mới ra đến vùng bãi cạn Cà Mau, nhưng chỉ đánh bắt khoảng chục ngày là phải trở về bởi thiếu nước ngọt, dầu, khó khăn bảo quản cá. Vì thế khu vực Ba Kè cá nhiều, nhưng ít thuyền ngư dân đến đánh bắt.

Từ nỗi thấu hiểu đó, trung tá Hiển kể dù nước ngọt, rau xanh quý như vàng nhưng mỗi lần bà con ngư dân đến, các chiến sỹ nhà giàn sẵn lòng sẻ chia.

Cách đây vài tháng, một ngư dân Bạc Liêu bị lưỡi câu móc vào lòng bàn tay nhiễm trùng rất nặng, đã được quân y nhà giàn DK1/21 phẫu thuật, giúp thuốc men cứu chữa.

Đại úy Phạm Khắc Sinh trầm ngâm: "Ở khu vực nhà giàn, cá vẫn nhiều, nhưng so với trước đây đã giảm đáng kể. Mong sao Nhà nước có chính sách tốt, giúp việc đánh bắt hiệu quả lại giữ được nguồn lợi hải sản dành cho những thế hệ tương lai".

Câu cá tại Bảo Lộc-Lâm Đồng.

________________________________________

Tôi sinh ra ở miền bắc, lớn lên ở miền nam và giờ lại ra lập nghiệp ở miền trung. Từ nhỏ tôi đã rất là mê câu cá, mê quên ăn, mê quên ngủ, và còn cả quên đi chơi với bạn gái nữa... Mà đúng thật như vậy. Nơi tôi lớn lên là Bảo Lộc - cái địa danh nghe xa lạ với rất nhiều người. Thường thì người ta biết tới Đà Lạt nhiều hơn.

Bảo Lộc dù là một thành phố nằm trên khu vực Tây Nguyên nhưng lại có một con sông chạy dọc dưới chân những dãy núi và có khá nhiều hồ có cá lớn. Ngày tôi mới đi câu đã từng được thấy những cần thủ tiền bối cho lên bờ những cá chép, cá trắm hàng chục kí lô. Cá to thế giờ vẫn còn nhưng đã ít hơn và khó câu hơn. Nhiều kỹ thuật câu đã bị mai một và không thấy ai sử dụng nữa. Có lẽ mỗi thời mỗi khác, như có người nói, con cá bây giờ cũng khôn ngoan hơn, kén ăn hơn. Cần câu thì khoảng bảy năm trở lại đây người ta mới sử dụng cần câu cacbon và cần phíp. Các cao thủ thì chỉ sử dụng chủ yếu là cần câu làm từ cây trúc Đà Lạt. Cây trúc sau khi được tỉa cành và dùng dũa làm đẹp thì đem phơi khô một hai ngày. Khi cần đã khô tương đối người ta dùng bếp than hồng để uốn tạo hình. Công đoạn uốn khá tỷ mỷ. Có người còn sử dụng dầu ăn bôi lên thân cần trước khi uốn. Nhờ vậy cần uốn được đúng ý và sau khi uốn dùng khăn ướt lau qua sẽ không còn vết đen trên cần mà lại nhẵn bóng nhìn rất đẹp. Có người thì chọn những cây trúc đẹp nhất rồi lại chọn những đoạn đẹp nhất để ghép thành một cây cần hoàn chỉnh, nhìn đầy nét nghệ thuật. Tôi thì cũng có thời tìm tòi học cách làm cần trúc nhưng trình độ cũng chẳng đến đâu. Gần hai chục năm từ ngày vác cần đi câu tài sản đến giờ cũng chỉ có một chiếc cần phíp, một máy Daiwa gs9 và một máy Daiwa procaster ex-9000s. Chúng nó có lẽ còn nhiều tuổi hơn cả tôi.

Nói về cá ở đây thì rất nhiều chủng loại. Nếu bạn muốn câu theo kiểu nho nhã thì có thể câu cá diếc, cá mè, cá rô ...với cần tay. Mà có nơi như trong khu Lòng Hồ cá rô phi lên tới 4kg một con, phải nói là tuyệt. Nếu bạn muộn câu cá lớn thì có cá chép và cá trắm, chủ yếu là cá trắm cỏ, có nơi cá lớn hai ba chục cân, mười cân đổ lại là chuyện bình thường. Tất nhiên câu cá lớn phải dùng cần máy, tuy vậy vẫn có cần thủ sử dụng cần tay, thế mới nể. Người ta dùng cây trúc Đà Lạt loại lớn dài trên 5 m. Cước câu thường dài gấp đôi cần, đoạn giữa được cố định bằng ống cao su vào đọt cần, một đoạn để buộc lưỡi còn đoạn kia thì quấn kéo xuống đuôi cần. Ở đây người ta không thấy sử dụng dây cao su để buộc phía đuôi cần như anh em trên Sài Gòn thường dùng . Các anh em thích câu cá lóc thì cũng có chỗ câu, nhưng phải đi xa. Cá lóc ở đây không nhiều và không to như ở miền tây sông nước nhưng lại rất khỏe và cách ăn mồi rất hung tợn. Ở đây cũng không sẵn nhái để câu nên anh em thường dùng con thạch sùng hoặc bắt con kỳ nhông lột da mà câu.

Nói về mồi câu thì có nhiều cần thủ nơi khác đến cứ phải nhăn mặt. Con cá mỗi nơi mỗi tính mà. Tại mỗi hồ cá hay mỗi nhánh sông cá cũng thế. Dân câu ở đây sử dụng tôm sống, trùn hổ thậm chí là trùn đất tùy nơi câu. Mồi khoai thì có thể câu được rất nhiều loại cá, chủ yếu cá diếc,chép và cả trắm cỏ. Người ta giã nhuyễn một củ khoai lang nghệ luộc, đem ủ một hai ngày cho chua. Sau đó giã nhuyễn khoai nghệ luộc rồi trộn với khoai chua tỷ lệ tùy loại cá. Có người trộn thêm bánh đậu xanh Hải Dương, mè rang giã nhuyễn, trứng kiến... Có nơi như Lòng Hồ, hồ Đài Loan thi chỉ có dùng trùn hổ thì mới câu được cá lớn. Lòng Hồ là khu vực thuộc đập thủy điện Đa Nhim-Hàm Thuận-Đa Mi, là nơi hồ sâu nước cả,bốn bề rộng lớn. Cá trong hồ có trọng lượng hàng chục kg. Bạn đã từng câu bốn con rô phi mà đựng đầy giỏ câu lớn chưa. Riêng rô phi nếu là cá dưới 1,5kg thì nên thả xuống, cho chúng nó lớn. Hồ Đài Loan thì gồm hai hồ không lớn lắm nằm khu Đambri của Bảo Lộc. Đây là hai hồ người ta đào để lấy nước tưới cho những đồi trè oolong bạt ngàn. Do mấy ông Đài Loan đầu tư từ hai chục năm nay nên cá rất to, chu yếu chép, trắm cỏ, rô phi,cá trê. Hồ chỉ cho câu chứ không cho kéo lưới. Ngoài ra một địa điểm mà anh em nên câu là hồ không đáy. Hồ này thì chỉ dân câu hàng khủng mới câu thôi. Nghe qua đã ớn vì nơi đây sâu hút, cá thì toàn họ nhà khủng long. Nhiều anh bập bẹ mới học câu xách cần đến để rồi cúng cần cho hà bá. Cá hồ này như thành tinh nên cách ăn của chúng nhanh và bất ngờ thoắt ẩn thoắt hiện. Nhớ có lần đang ngồi câu mãi chẳng thấy gì. Tôi vừa liếc sang anh bạn thì vụt một cái đầu cần câu máy chúc xuống nước,chộp nhanh cần nâng lên nhưng chỉ nâng được ngang cần thì không nâng nổi nữa. Cước câu chạy rin rít rồi tách một tiếng. Thế là xong, mọi chuyện nhanh đến mức mình không kịp cảm nhận, tỉnh ra thì đã mất bộ dây câu rồi. Nhiều người không may mắn như tôi, bi lôi cả bộ cần máy xuống nước, cứ đứng ngây người cả ra. Một lần khác đang câu thì nghe người bạn câu la oai oái. Tôi chạy lại thì không tin vào mắt mình nữa. Hai cái khoen lớn nhất trên cần bị gập về phía sau. Thì ra anh chàng đi dây câu loại lớn. Khi cá cắn kéo mạnh quá cây cần lao về trước trượt va đập trên cây gác cần làm khoen cần gập về sau. May mà anh chàng kịp ôm cần câu và cắt dây cước chứ không chắc cũng mất cần mà không biết mặt mùi cái đứa lôi cần mình.

Giờ ra công tác tại miền trung không còn được câu ở đây nữa tôi thấy buồn thật buồn. Nghe nói nơi tôi đến cũng gần sông gần biển, đó cũng là niềm an ủi. Anh em bạn câu cả nước nếu ai có dịp lên Bảo Lộc - Lâm Đồng hãy bỏ chút thời gian tìm tới những địa điểm trên, để được trải nghiệm những giây phút tuyệt vời của đời cần thủ. Các hồ này câu hoàn toàn free nên cứ thoải mái. Mà trà oolong trên đây là số một đấy. Cứ nghĩ cái thú cầm cần trúc ngồi câu bên ấm trà nóng trong những ngày mưa rả rích mà sướng hết cả người

Giăng câu ở đảo Song Tử Tây

________________________________________

Bỏ thuyền, bỏ lái, bỏ Hồng Vân.

Cụ Năm "Máy Hỏng" ra đảo Song...

Dạo này lên hồ Hồng vân chả thấy mẹt cụ chủ hồ Năm Sài goòng. Vắng mẹt cụ nên việc câu của anh em ở đó dẫu có lên cá đều thì cũng mất đi chút thú vị , cuộc đối đầu sinh tử giữa anh em câu cá và chủ hồ đang hồi gay cấn bỗng dưng mất đi đối thủ, chán! Lão chủ hồ này sợ anh em mình rồi chăng?

Hóa ra là không phải vậy các cụ ạ, hôm nay lò dò vào đọc báo văn hóa nhà em vô tình mò ra được tung tích lão. Chả là tên đầy đủ, cúng cơm của cụ chủ hồ kiêm nhà báo này là Lê Ngọc Năm, nick:mayhong mừ. Hóa ra lão chủ hồ "nửa mùa" này nhớ nghề câu, trốn đi câu biển các bác ạ. Dấu vết của lão đây, mời các cụ xem:

VH- Đêm Trường Sa, trăng thượng tuần mảnh như liềm cắt lúa, ánh sáng yếu ớt tựa như lớp cườm mỏng tãi trên biển. Thuyền trưởng, lái chính tàu HQ 996, đại úy Võ Cát Khánh, vốn là một cần thủ khét tiếng về câu biển đưa ra nhận xét "xanh rờn": Trăng sáng, cá ăn nổi; trăng tà, cá tìm chỗ sâu trú ngụ. Biển như này là lý tưởng nhất cho việc săn ngừ và thu... Khua một vòng tay điệu nghệ như đang bẻ lái, nhấn nhá cái chất giọng chắc nịch nguyên gốc miền Trung rồi nói vui: "Phi cần thủ,...bất thành lính đảo": Buông neo!

Hơn 50 giờ lênh đênh trên biển, ai nấy trong đoàn công tác cũng mong ngóng và vô cùng hồi hộp chờ giây phút đầu tiên " tiếp" đảo. Mãi gần phút chót, loa truyền thanh trên tàu mới phát ra một thông tin sốt dẻo: "Đêm nay, tàu sẽ buông neo, tất cả sẽ cùng các thủy thủ đoàn trổ tài câu cá và thưởng thức tài nghệ của tổ bếp bằng chính sản phẩm của mình". Đại tá Hoàng Ngọc Dương, Trưởng phòng Dân vận (Cục Chính trị, Quân chủng Hải quân) giải thích thêm: Mỗi chuyến thăm và làm việc của các đoàn công tác ở quần đảo Trường Sa, tổ chức câu cá đêm chính là món quà thủy thủ đoàn dành tặng mọi người, giúp cho đoàn công tác và các thủy thủ vơi đi những mệt nhọc, những ngày cùng đánh vật với sóng biển.

Không xa với đảo Song Tử Tây, tàu thả neo cho một đêm giăng câu với nhiều hứa hẹn. Lúc đó là 18 giờ, các "cần thủ" cũng được giới thiệu thêm vị trí này khá đắc địa cho cái sự câu, lại được phủ sóng di động ổn định, là điểm nối giữa đảo Song Tử Tây và phía Nam là đảo Đ á N a m , Việt Nam. Như được lập trình sẵn, trận địa giăng câu được các thủy thủ và tổ bếp trên tàu triển khai nhanh đến không ngờ. Từ mạn tàu, một cụm đèn công suất khá lớn được chiếu thẳng xuống biển. Một nhóm khác hì hục check đồ tại gian chính của câu lạc bộ sĩ quan. Tổ máy hằng ngày vẫn lặng lẽ dưới khoang tầng trệt thì bây giờ cũng bừng bừng khí thế, anh tay vợt, anh xiên móc sắt lăm lăm sẵn sàng... và... những bộ lưỡi câu, dây câu, máy và bát câu to tổ chảng ngoài sức tưởng tượng của cả hơn trăm người có mặt.

Lạ lẫm, hấp dẫn, không kìm được sự hân hoan, những tiếng hò reo cứ rộ dần mỗi lần các cần thủ chao, vợt cá. Chả là, ngay khi đèn bật sáng đàn cá chuồn như thiêu thân lao vào mạn tàu "bắt sáng". (Loại cá này tuy không to, chỉ từ 3 đến 5 lạng một con nhưng ban ngày rất nhanh và biến ảo). Chúng thường đi ăn theo bầy đàn và cặp vây trước tựa cánh chim, thấy động hoặc gặp chướng ngại vật chúng có thể bay và lướt trên sóng biển từ 5 đến vài chục mét. Giờ "ham" đèn, chúng như những con thiêu thân để rồi các chiến sĩ chỉ việc giương vợt ra hớt. Chẳng mấy chốc đã được vài chậu cá chuồn tươi rói.

Sau chuồn là những chú mực lớn và nhiều, rất nhiều những chú cá màu sắc rực rỡ cũng thi nhau "bắt sáng". Cá nhiều màu, rực rỡ thường rất độc, còn cá mực thì vì nhiều lý do mà anh em thủy thủ không bắt.

Bữa thứ 5 trong ngày của toàn bộ khách và các thủy thủ là món cá chuồn được sao tẩm rồi nướng trên bếp than hoa. Cá này thịt dai và thơm ngon đến khó tả. Trên boong, dưới sàn tàu và các ca bin chuyện rôm rả như cảnh làng vào hội. Dấu hiệu mệt mỏi của những ngày đêm vượt sóng biển đại dương như đã tan biến. Nhà sư, thượng tọa Danh Lung (dân tộc Khmer) và các đại đức trong đoàn cũng vui không kém. Những vạt áo cà sa và nâu sồng đêm nay cũng được thay bằng những chiếc áo phông khá gọn gàng, nhà sư cũng đang muốn cùng trổ tài chinh phục và tìm hiểu những đàn cá nơi đây với những người lính. Đơn giản thôi, đã từ lâu rồi trong cương vị và điều kiện của mình, nhà sư rất muốn đóng góp một phần để đầu tư tàu cho một số hộ ngư dân nghèo có điều kiện ra khơi trên chính vùng biển này để đánh bắt cá. Nhà sư Lung cùng các thành viên cho biết như vậy. Cũng trong đêm, khi nhiều người chìm vào giấc ngủ thì 2 tốp câu đã giăng mồi, bủa câu suốt 2 bên mạn tàu. Cánh phải là tổ sĩ quan được trợ giúp của những bạn trẻ đoàn Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài. Nhóm này câu theo phương thức rê mồi, lửng, lưỡi đơn (hai tay phải nhịp nhàng cuốn dây), mồi là cá chuồn sống và rê ở độ sâu chừng 60 mét.

Cánh trái là tổ máy, bếp và chúng tôi, mồi chính là các xúc tu của bạch tuộc, câu mồi ngâm sát đáy biển, ở độ sâu khoảng 150 mét. Không ngờ, mùi tanh và nhớt của bạch tuộc lại có sức quyến rũ các loại cá quý có giá trị kinh tế cao đến vậy. Ngay trong tiếng đầu tiên, Trần Ngọc Phi, máy trưởng trên tàu đã câu được 3 cá mú hoa đều trên 5 ký, Trần Ngọc Bình (tổ bếp) dân gốc biển Nghĩa Hưng - Nam Định "vập" một chú cá ngừ dài 1,55 mét, sau thời gian khoảng 20 phút giằng co cuối cùng phải dùng xuyến sắt bổ vào đầu mới kéo được cá lên mạn tàu. Cá đi ăn, không còn kịp cân đo đong đếm, câu và câu, những tiếng máy câu chạy re re, người vợt, người trợ giúp bổ cá lên xuống như thoi đưa, rền vang mạn tàu những cái tên "dính" cá được nhà sư Lung xướng lên trang trọng.

Phía trái mạn tàu, nhóm câu lửng còn ầm ĩ, xôm tụ hơn mặc dù cá không to nhưng nhiều vô kể. Cá ngừ non khoảng 5-7 ký, thích đuổi cá chuồn nên thi nhau sập bẫy. Cá chim, thu, nụ có cả, con bé chừng 2 ký, còn sàn sàn cũng phải 5 ký/ con. Khách thưởng ngoạn và nhất là mấy em nữ trẻ của đoàn Nghệ thuật Đam San cứ gọi là rát tay, khản giọng.

Được nhiều cá, chúng tôi rất vui nhưng anh em thủy đoàn thì vẫn tiếc. Anh Phi bảo: mong sao có nhiều tàu thuyền của ngư dân về đây đánh cá. Những đêm như thế này mà gặp các thợ câu chuyên nghiệp, họ giăng cả giàn dây câu với hàng trăm lưỡi, một đêm được cả tấn cá ngừ đại dương như chơi. Ngặt một điều, phần thì xa, phần nữa sóng gió và biển vốn không yên bình và quan trọng hơn, rất nhiều ngư dân cũng chưa biết quần đảo Trường Sa nay đã có những âu tàu sức chứa cả trăm thuyền cho ngư dân tránh bão. Trường Sa nay đã có những trạm chuyển tiếp xăng dầu cho họ chỉ với giá như trong đất liền. Các đảo chìm và đảo nổi... giờ đều đã có những bác sĩ chữa bệnh khi ngư dân gặp nạn hay ốm yếu. Còn gì bằng!

Chuyện hôm nay đoàn công tác chung vui câu cá cũng là một thông điệp gửi tới với đông đảo ngư dân, khu Vũng Tàu, Nha Trang, Quảng Ngãi... rằng biển đảo thân thương máu thịt của chúng ta vẫn đang vẫy gọi chờ đón họ. Rằng quần đảo Trường Sa và các nhà giàn mãi mãi là chỗ dựa tin cậy của tất cả những người con đất Việt.

Đi kéo Ruốc biển

________________________________________

Cơn bão số 7 tràn qua dải đất Miền Trung này đã hơn một tuần rồi nhưng hậu quả để lại của nó thì vẫn còn hiện hữu. Rừng phi lao chắn cát vẫn xác xơ, tuy những cành cây gãy đổ đã được dọn sạch nhưng cành lá vẫn còn vương vãi. Trên bãi biển sáng hôm nay, những đống xác sò, điệp khổng lồ bị bão đánh vào đã được dọn sạch sẽ hơn nhờ những ngọn sóng của đợt triều cường những ngày qua.

Sáng hôm nay, như thường lệ anh em chúng tôi vẫn dậy sớm kéo nhau đi tắm biển. Biển sáng nay đang hồi con nước lớn và trong vắt. Những cơn sóng đã dịu dàng hơn so với những ngày qua đang mơn man vỗ nhẹ lên bờ cát mịn màng. Làn nước trong xanh này thật thích hợp cho những bể nuôi cá cảnh nước mặn. Sau khi khởi động xong và chạy cùng anh em một vòng hơn cây số. Mặc cho anh em lao xuống làn nước biển ấm áp người thì vùng vẫy bơi lội, người thì nằm thiền nổi trên mặt nước lững lờ, tôi bám vào cái can nhựa bơi ra cách bờ phải hơn 200 mét để lấy nước cho bể cá.

Vừa xách xong cái can nhựa 20 lít nặng trĩu lên tới bờ cát. Tôi bỗng nghe tiếng một người bạn hét lên phía đằng xa. Vừa hét, anh ta vừa nhảy loi choi trên mặt nước như đang bị con gì cắn. Anh em đang bơi ở xung quanh xúm lại xem thì phát hiện ra một quầng Ruốc biển rất lớn đang di chuyển. Chúng bắn tanh tách trên mặt nước, trông qua thấy rào rào như cơm sôi. Khi ta lội vào giữa bầy Ruốc, khắp da thịt bị chúng cắn nheo nhéo nghe rất ngứa. Chúng luồn vào khắp người, chúng bò khắp nơi tạo nên cảm giác nhồn nhột rất hay. Dưới chân, phía trên lớp cát biển là một lớp Ruốc biển rất dày trơn nhẫy. Khi ta đạp chân vào có cảm giác như hàng triệu triệu mũi kim chích nhè nhẹ lên bàn chân và bắp chân rất thú vị.

Chúng tôi không ai bảo ai cùng lặn xuống dung tay không bắt Ruốc. Chỉ một lát cả mấy anh em đã bắt được một bịch nylon Ruốc tương đối nhiều.

Một người chạy lên dãy quán bán đồ biển của dân địa phương ở trên bờ báo tin. Chỉ trong chốc lát hàng chục ngư dân ở trong làng biển Thọ Đơn - Quảng Thọ - Quảng Bình đã lũ lượt kéo nhau ra, trên tay của họ là những tay lưới dày được thiết kế để kéo Ruốc. Mỗi tay lưới kéo Ruốc dài hơn 20 mét, hai bên được cặp vào hai thanh tre dài để chống cho lưới căng, phía dưới là những cục chì lớn để ép lưới xuống sát đáy biển, sau cùng là một cái đụt rất dài là nơi Ruốc kéo được sẽ đọng lại ở đó. Nghe một lão ngư nói, thời điểm bây giờ đã là cuối vụ Ruốc năm nay nên cả làng đều bất ngờ khi thấy Ruốc áp bờ nhiều như vậy. Ruốc vào bờ sẽ kéo theo rất nhiều Cá (cá Nục, cá Trích, cá Cơm . . .) và đặc biệt là Ghẹ vì chúng chính là nguồn thức ăn ưa thích của các loại này. Lão ngư dự đoán trong những ngày tới có thể ngư dân quanh vùng này sẽ lại trúng mùa các loại cá trên và có thể được cả mùa Ghẹ nữa

Nghe lão ngư nói ở vùng biển Quảng Bình, mùa Ruốc kéo dài từ tháng Tư đến tháng Tám Âm lịch hàng năm. Nhưng Ruốc đánh bắt được vào tháng Sáu lại là Ruốc ngon nhất. Ở Quảng Bình có câu ngạn ngữ rằng : "Ruốc tháng sáu là máu rồng". Có nghĩa là Ruốc tháng sáu vừa có màu đỏ au như huyết (nghĩa đen) vừa chứa đầy đủ dưỡng chất nhất của loài Ruốc biển nên con Ruốc bắt được vào lúc nầy là ngon nhất, bổ nhất (nghĩa bóng).

Tùy theo luồng Ruốc đi trên biển, người ngư dân sử dụng loại lưới nào để đánh bắt mà gọi tên loại đó. Ví dụ: Ruốc bắt từ mành dã ở nước 5 - 7 sải, gọi là Ruốc dã (hay giạ), Ruốc đánh được từ việc kéo lưới bằng đi bộ ven bờ gọi là Ruốc kéo, từ việc lặn xuống đáy biển dùng lưới nhỏ mà vớt gọi là Ruốc lặn, từ loại vó ở ngoài khơi gọi là Ruốc ''te'' v.v... và v.v...

Một số món ăn chế biến từ Ruốc biển :

1. Món Ruốc khô bóp khế chua : Ruốc khô cho vào chảo đảo cho chín đều. Khế chua cắt lắt vắt bớt nước. Trộn chúng với nhau, nêm nếm chút bột ngọt, đường, muối, cho gia vị các loại vào như tỏi, ớt, tiêu . . . Món này ăn nóng với cơm hoặc làm mồi nhậu đều tốt.

2. Món Ruốc khô trộn Bưởi : Ruốc khô cho vào chảo đảo cho chín đều. Bưởi tách tép nhỏ. Trộn chúng với nhau, nêm nếm chút bột ngọt, đường, muối, cho gia vị các loại vào như tỏi, ớt, tiêu . . . Món này ăn nóng với cơm hoặc làm mồi nhậu đều rất tốn rượu.

3. Canh Ruốc khô nấu Khế :

4. Ruốc xào hành :

5 Món gỏi Ruốc : Món này đã được thực hiện sáng nay ngay trên bờ biển Quảng Thọ - Quảng Trạch - Quảng Bình sau khi Ruốc vừa được kéo lên :

Ruốc tươi vừa bắt từ biển lên còn nhảy tanh tách, đỏ au au. Rửa sạch bằng nước biển rồi vắt ráo nước. Vắt chanh vào ướp cho Ruốc chín. Nêm chút đường, muối và cho thêm các loại gia giảm như ớt xanh cắt mỏng, rau thơm, chút gừng thái chỉ, chút ớt bội, chút tiêu vào . . . Sau đó bẻ bánh tráng (bánh đa) và làm thìa xúc ăn. Nhớ dung kèm chút rượu cho đỡ lạnh bụng vì món này rất nhiều đạm và quá ngọt.

Và các món ăn khác chế biến từ Ruốc biển Sưu tầm trên Internet :

1. Mắm Ruốc (Ruốc quết): Chế biến từ Ruốc tươi ra thành phẩm Ruốc ăn (tương tự Mắm tôm ngoài Bắc) gọi là Ruốc quết, thường qua mấy công đoạn đơn giản như sau:

- Muối Ruốc vào vại, chum. Muốn để lâu, khỏi sợ hư hỏng thì phải muối mặn, ví như một bát muối thì 5 hay 3 hay 6, 7 bát Ruốc, tùy người muối. Muối ăn vội, cho Ruốc ngon ngọt thì muối lạt, ví như một bát muối phải 10 bát Ruốc, thậm chí gặp nắng tốt, có khi 12, 15 bát Ruốc. Càng lạt, Ruốc càng ngon, nhưng càng dễ thối.

- Muối xong để một đêm, hoặc một buổi, đem vắt kiệt con Ruốc. Lúc này xác Ruốc bấn thành bột như bã bột sắn. Vắt (càng kiệt càng tốt) thành nắm tròn.

- Xác Ruốc vắt được xát nhỏ bằng đôi bàn tay ra nong, ra nia rồi phơi thật khô, đồng thời cũng phơi cả nước Ruốc vắt được. Phải hết sức chú ý làm sao cho thật sạch cát. Đó là một khâu vô cùng quan trọng. Do vậy nên trước khi vắt Ruốc muối thành nắm để phơi, người ta phải chao cho thật sạch cát đã mới vắt, và khi nước Ruốc đã gạn, lọc kỹ hết cát rồi, phải vừa phơi vừa giữ cho khỏi cát và bụi bặm. Hồi xưa khâu ấy là rất khó, còn bây giờ, người ta phơi nước Ruốc rất văn minh, nghĩa là người ta dùng kính đậy, vừa sạch vừa tăng độ nhiệt.

- Ruốc phơi khô rồi, đem đâm mịn, càng mịn càng tốt. Đâm xong, bỏ bột Ruốc vào những vại nước Ruốc, quấy đều rồi phơi nắng. Hàng ngày, sáng sớm, đảo một lần, khi nào nghe Ruốc bốc mùi thơm, nước mắm ngập lên mặt, ấy là đã ăn được.

Những loại Ruốc lạt, thường được dùng như thức ăn hoàn chỉnh không qua khâu nấu nướng gì nữa. Những thứ Ruốc mặn để lại hàng năm, thứ này thường để thay bột ngọt trong việc nấu nướng.

Trong bữa cơm của người lao động Quảng Bình khi nào cũng có món Ruốc lạt, ăn với khế rành, loại khế vừa ngọt vừa chua. Đó là một món ăn rẻ tiền nhưng lại có sức quyến rủ rất kỳ lạ. Ruốc ăn không với cơm! Hoặc Cà với Ruốc, hoặc thịt lợn luộc chấm Ruốc, ăn với bún, với bánh đúc, đều là những món ăn tuyệt trần của Ruốc đối với người Quảng Bình.

2. Nước mắm Ruốc : Cho lớp Ruốc - lớp muối vào vại và phơi ủ giống muối cá nhưng với bí quyết riêng. Muốn lấy nước mắm Ruốc thì khoét một lỗ bằng cái bát (hoặc nhận cái bát vào) giữa bề mặt vại chỉ vài giờ sau sẽ có một nửa bát nước mắm. Nước mắm Ruốc tuy không ngon thơm như nước mắm cá, song ngọt và đậm đà hơn nước mắm cá, và nó cũng là món ''đặc sản'' trong khoa ẩm thực của những người sành ăn ở Quảng Bình.

3. Món cháo Ruốc :

- Dùng ruốc biển đã phơi khô đem ngâm nước và rửa sạch cát, bụi bám trong thân con ruốc, rồi để cho thật ráo nước

- Cho dầu ăn phi với hành củ sau khi thái lát mỏng cho thật chín vàng, dòn và tỏa hương thơm; đổ ruốc vào chảo dầu đảo nhanh và để ra ngoài, tra bột ngọt, mắm (vừa ăn), sau đó múc để riêng ra tô cho nguội.

-Cho gạo cho vào nồi, vo sạch, đổ nước vào và bắc nồi lên bếp. Khi kiểm tra thấy cháo đã chín nhuyễn thì bắc nồi cháo ra ngoài, nêm bột ngọt và muối hầm. Nên nhớ, cháo ruốc là phải hơi đặc, không được lỏng như cháo vịt hoặc cháo gà, nhưng cũng không đặc quá giống như là cơm nhão và ngoài hai loại gia vị bột ngọt và muối hầm, không cần phải nêm thêm vào cháo một loại gia vị nào khác.

-Bạn có muốn ăn thêm loại gia vị nào đó như rau thơm, húng, quế... thì tùy bạn, nhưng phải để riêng ra ngoài và thỉnh thoảng ăn kèm vào để tạo thêm mùi vị mà bạn ưa thích.

Nói cách khác, cháo ruốc phải là nồi cháo trắng và ăn cháo ruốc, phải ăn đúng kiểu bạn mới cảm nhận được vị ngon của nó. Tức là cháo nóng vừa phải và ruốc phải nguội và dòn. Khi ăn, bạn dùng thìa, hoặc đũa gắp một đũa ruốc bỏ vào miệng và húp một thìa cháo, hoặc húp một thìa cháo, sau đó kèm theo một đũa ruốc. Cứ thế và... cứ thế! Thỉnh thoảng, bạn ăn kèm một tí ớt xanh, hoặc 1/2 hạt tiêu hoặc một lát sả thái mỏng hay vài loại rau mùi; nên nhớ là ăn ít gia vị thôi.

Đặc biệt, không được ăn nhiều ớt và tiêu, bởi cái vị cay nồng của hai loại gia vị này sẽ làm cơ quan vị giác (lưỡi) của bạn mất tác dụng. Cháo ruốc, ăn đúng kiểu bạn sẽ cảm nhận được vị ngon của nó. Đó là vị ngòn ngọt, mềm mềm, âm ấm của cháo; vị mặn đậm đà, dòn tan, thoáng một chút vị béo của ruốc và hành; hòa quyện với mùi hương thơm thoang thoảng của các loại gia vị như hành, sả, tiêu...

Cũng có người khi ăn, đem ruốc trộn chung vào cháo cùng một lúc; ăn như vậy ruốc không còn dòn, mà sẽ chuyển sang dai dai, mềm mềm như thịt xé, cũng được, cũng ngon đấy! Nhưng thực ra, vẫn không ngon bằng cách để cháo-ruốc riêng ra. Lúc ấy, chắc chắn bạn sẽ nhận ra rằng: Món cháo ruốc-món ăn dân dã này, ngon không thể chê vào đâu được và cũng không thua kém bất kỳ món điểm tâm nào hiện có trong các nhà hàng, quán ăn, cho đến các chị quang gánh bán rong ngoài đường.

Con cá dưới bụi tre ngâm

________________________________________

Phần 1

Ông cậu tôi hồi đó dạy ở một trường tiểu học trong làng. Ngoài công việc đến lớp hàng ngày - ông thường đi bộ, giầy xu-li-ê vàng sẫm, áo quần thẳng nếp, che ô trong cả lúc trời đã về chiều - thì ở nhà, ông thích chơi đàn nguyệt, đánh bản nam bình sướng hơn nam ai. Một thú chơi khác coi bộ lấn lướt cả cả đán địch đó là đi câu. Bà con hàng xóm thường tôn ông là ông thầy có tay sát ngư, nghĩa là có tay nghề cao trong môn câu cá.

Cứ trông qua chiếc cần câu của ông thì rõ, cần là một loại "tre hóp" thẳng băng, thẳng từ gốc lên ngọn. Ông cho tôi biết cần quan trọng nhất là ngọn, ngọn phải vút và nếu có một tí tì ti vẹt ổ kiến là vứt. Chọn cần đừng chọn loại hóp có thân dích dắc chứ chi vừa xấu vừa không nhậy bén khi giật cá. Đốn được cây hóp thích hợp đưa về rồi quạt sẵn bếp lửa than để đó, lấy ít dầu phụng( dầu lạc ) bôi quanh mấy nơi cong vênh của cần rồi hơ lửa nắn thớn khúc lệch. Xong phần uốn nắn thì chuyển sang khâu ép nó vào một thân cau lão, bắc thang lên mà buộc từng nút dây từ gốc lên đến ngọn cần câu. Khoảng sau một tháng qua mùa nắng hè thì tháo nó ra, vót lau các đốt mắt cẩn thận, vót lau các đốt mắt cẩn thận... là có được chiếc cần câu như ý.

Một sáng mùa hè, tôi được về chơi ở nhà cậu chừng một tháng. Nhà ông ở cách thị xã độ trên năm cây số, vậy mà tưởng như xa cách từ tỉnh nọ sang tỉnh kia. Ngày nào tôi với thằng an thua tôi một tuổi cũng tắm sông, câu cá rô, câu tôm, bắn chim bằng ná giàn thun, chấm bắt ve ssaauf với nhựa mủ mít đã hơ lửa cho nhựa dễ dính trít cánh.

Một bữa có ông khách ban đàn của cậu tôi đến chơi vào khoảng mười giờ sáng. Mợ tôi cầm rổ đi chợ mua thêm chút cá chút thịt gì nữa nhưng thấy cậu tôi đi tới nói khẽ gì đó thế là bà lại ngoan ngoãn trở vào nhà.

Ông khách vừa đến đã xá lại nơi mấy chiếc đàn giống như nhiều lần trước đây. Vừa xem tỉ mỉ từng chiếc: nguyệt, nhị, tranh, bầu... đối với cây nguyệt, ông hết búng chơi dây để nó kêu "tọong đèn tọong đèn" lại cầm đàn trên tay thoáng cười trên mắt như muốn nói: tuyệt, tuyệt !!! Cậu tôi pha trà mời khách xong bảo:

- Chừ anh ngồi chơi uống nước, tôi xin đi đây một tý là về ngay thôi...

Ông khách cười khà khà:

Biết rồi, anh đi câu kiếm chút chớ gì ? Tốt lắm, bữa nay anh tính cho tôi xực món gì đó ? Canh tràu, trê nướng hay rô kho tiêu ?

Cậu tôi lắc lắc cái đầu:

- trật lất, trật lất... ăn bát canh thác lác nấu với thơm rệu chợ Tuần pha trút ngò tàu xong rồi ta đụng một bản nam bình cho khoái cái bao tử. anh đừng dại mà đi ngủ nhé, thôi tôi đi tí xíu xiu là tôi về ngay.

Rồi cậu tôi đi, thằng An rụt rè bước theo lối xuống bên sông:

- Cho con đi với...

Cậu tôi khẽ cau mày rồi nói nhỏ nhẹ:

- Con nhường anh Định, cho ảnh hiểu biết chút nghệ thuật câu cá nghe. Con lên phụ giúp má vài việc vặt đi.

Hình như ông vừa chuẩn bị gọi "Định ơi" thì tôi đang từ trên bước xuống bến

- Con có thích coi câu cá thác lác không ?

Tôi đỏ mặt vì quá bất ngờ, quá thích bảo ngay;

- Dạ thích, cậu cho con đi với mà xa hay gần cậu ?

- Dưới bến cây Sung chuồi ra đó, bên bụi tre ngâm đó. Bước vô, bước vô từ từ, không sao cả xuồng êm mà. Vây..vậy... cứ ngồi yên...

Vừa quậy mái chèo một tay, cậu tôi vừa cho biết:

- Con thác thác thường nó chỉ thích có một hai loại mồi: một là con nhộng ong khi đã thành hình con tràng, hai là con bạc mày.

Ông nói thêm:

- Bạc mày là thứ hắn ta thèm đệ nhất, con bạc mày đây nè...

Nói rồi ông rút một cái hộp sắt( trước kia là hộp cá trích ) cất từ dưới đáy sạp của xuồng. Ông giở một túm bèo Nhật bán lên ở dưới đáy hộp có có mấy con mồi trông giống như con nhện nhưng thấp chân.

- Bạc mày đây... Hôm nay còn lại bốn tên, cứ mỗi tên cậu đoán chắc giật được một thằng thác lác. Mỗi bạc mày ăn một thác lác, còn lại chỉ chờ may rủi thôi. Khi mồi xuống xuống đáy sông, cả bọn thác lác sẽ xông tới mà con nào cũng muốn cướp giật lấy miếng mồi ngon. từng cái miêng háu ăn đó đều muốn bặp vào miếng mồi ngay, hên ra thì mình gặp được con bự đớp trước còn xui xẻo thì gặp phải con choai choai đến nuốt ta đánh phải chịu vớ lấy con không ra gì. Con đã rõ chưa ? bác mày thường ở dưới rễ bèo, cứ nhổ mà hớt lên thôi.

Chiếc xuồng thật gọn nhẹ, hơn nữa người chèo vạt nước bằng hai cái chèo ngắn nên lướt đi băng băng. Xuồng cứ lướt đi dưới tàn cây bổ nhoài ra mặt sông, phần nhiều là cây sung lão trái treo thành trùm đỏ hỏn từ gốc lên đến ngọn. Rồi xuồng từ từ đi chậm lại, trước mặt sát bờ sông là một khóm tre đứng tách ra có những ngọn ngã nhoài. Một số thân cây ngọn đã chấm nước, một số khác ngọn vẫn còn lên thẳng... Với cái điệu kìm cặp cho xuồng chuẩn bị dừng lại thế này, tôi đoán đây sẽ là nơi cậu tôi cắm xuồng. Và "Bụi tre ngâm" chắc là khóm tre bị dòng nước tống ra khỏi bờ để sống riêng biệt từ một mùa lũ trôi nhà, trôi trâu năm nào đó...

Tôi hỏi cậu với giọng bình thường nhưng bị mặt nước i lặng dội to ra:

- Dưới này có nhiều cá phải không cậu ?

Ông nói khẽ:

- Ừ... con nói nhỏ thôi !

Và ông buộc xuồng vào chiếc cọc tre khô. Mặt nước ở đây xanh rờn, nhìn xuống mà thấy rợn cả người như vậy là đoạn sông này quá sâu. Cậu tôi lấ cây cần câu ra, đúng là nó rất đẹp: dài, thẳng, suôn tắp, được chuốt vóttinh vi từng khâu mắt của cây hóp trúc. Cái phao hơi dài, trắng được làm bằng thứ lông đại của đuôi công. Móc mồi tỉ mỉ vào lưỡi câu xong, cậu tôi chầm chậm kéo dứ sợi chỉ câu một cái rồi buông xuống mặt nước. Mẩu chỉ nhận chìm con bạc mày xuống nhanh theo và chiếc phao được đẩy lên gần phía ngọn cần. cậu tôi cho biết thác lác quen sống gần dưới đáy sông... Rất thú vị khi chiếc phao chưa kịp buông xuống dưới mặt nước thì sợi chỉ câu đã bị kéo phăng xuống dưới nước. Thế nghĩa là cá đã đớp mồi khi khi sợi chỉ câu chưa nhúng hết đoạn cuối. Rồi phao mim mím, bỗng bị lôi tụt, thả nổi, lôi tụt rồi nháy đuôi phao và phao bị kéo mất dạng. Giật xéo cái thật bất ngờ nhưng làm sao cốt để cho lưỡi câu mốc ngoặc vào mép miệng cá... tay cậu tôi không còn giật nữa mà chỉ kéo thớn nhùng nhằng con cá. Hai bên tranh chấp nhau một thế quyết liệt, một bên không chịu đẻ mình bị bứt lên khỏi mặt nước, một bên không chịu để bên kia thoát thân.

__________________

Ruộng sâu trâu nái, không bằng........hai gái đầu lòng

Con thác lác đã nằm trong một bàn tay cậu tôi, nó bự đến nỗi làm tôi tái cả mặt. Cá to quá! Cậu tôi miệng hơi cười:matcuoi ^: chắc đang nghĩ đến ông bạn cùng chơi cây đàn nguyệt. Cũng chẳng hiểu con bạc mày bị con thác lác ngậm sau một lúc giành giất đôi co nay đã biến đâu mất tiêu rồi ?

Ông cậu tôi lại mắc một con mồi vào lưỡi câu và thả mồi xuống sông. Mẩu chì, mồi và lưỡi câu tạo một sức nặng vừa phái và đã chìm ngay xuống. Cái phao dựng thẳng đứng và cũng chưa thấy động tĩnh gì, cậu tôi nhớm sợi chỉ câu lên một tý như cách mới mọc cá thiết tha: thì cứ thử ngửi qua món bạc mày này chút coi, đang tươi mà, thích thì ăn, không thì thôi có gì mà ngại ? Phao đang đứng thẳng thì thụt lên thụt xuống chút ít, rồi bỗng... trồi lên nằm ngang, lại động đậy, rồi bỗng chúm chím lún sâu. Cậu tôi giật ngược, con cá trì lại làm cho sợi chỉ câu vẽ quanh một vòng thật rộng thật hồi hộp. Con cá đã bật ra khỏi mặt nước mà không thôi vùng vẫy... rồi bỗng nhiên cá tách ra khỏi lưỡi câu, phóng xuống nước và lặn mất tăm... Tôi vẫn còn nguyên sự hồi hộp nhưng mà tiếc quá còn cậu tôi chỉ khẽ nói một tiếng: "A !" và hơi cười trên khóe miệng cách như bảo: " ồ, xổng thì thôi ". Rồi lại nhặt chú bạc mày thứ ba móc mồi vào lưỡi câu. Cũng vẫn cái dáng trịnh trọng, tinh vi ngay trong việc móc mồi câu. Ông vạt nước để cho mũi xuồng quay sang trái, đuôi xuồng vẫn nằm phía dây buộc cũ. Vậy là chỗ câu đã được chuyển sang một địa điểm khác. Sợi chỉ câu chưa chìm tới đọa có chiếc phao thì cá đã giật mạnh và kéo phăng đi phao chẳng còn thấy đâu và ngọn cần bị vít vồng xuống... Và cậu tôi giật, hình như con cá quá to nên sợi chỉ câu vẽ một đường nước rẽ trắng ngoàn ngoèo. Cậu tôi chỉ giữ cho cá không thể lẩn tránh nhưng vẫn giữ riệt cá để nhớm bổng nó lên. Cuối cúng con cá đành chịu lép tuân theo bàn tay điều khiển của người câu cá. Nhưng nó không là thác lác mà là một loại cá gì khá bự, đôi vi dưới bụng đỏ hoe hoe như một kiểu thời trang.

- Con có biết cá gì đây không ? Nó là cá Giếc, loại này còn có tên là "giếc ngự" nghĩa là thữ giếc này trước đây thường để cho các vua chúa dùng. Tất nhiên thịt của nó rất thơm, béo nhất là phần dưới bụng. Đặc biệt con nào con nấy có mấy cái vi nằm dưới bụng cá đỏ như son nhìn thiệt đẹp ! "Đỏ thì đỏ như son, mực thì đen..." câu thơ của Trạng trình đó.

Cậu tôi lại móc mồi, tôi nhớ đây là con bạc mày thứ tư và cũng là con cuối cùng rồi. Lạy trời với con này cũng sẽ ăn được một thác lác nhỏ cũng được mà to thì càng hay. Ông cậu đã mồi xuống nước, phao đã dựng đứng có một con rô nhóc đến đớp phao. Chắc thấy chẳng mùi mẽ gì nên hắn ngoắc đuôi biến mất. Thỉnh thoảng cậu tôi lại nhớm chỉ cho cái mồi dưới kia nhúc nhích để khêu gợi cá. Lại nhớm... ấy, ấy chiếc phao đã nháy nhẹ, thụt xuông, trồi lên, rồi lại thụt xuống và biến mất dạng và cậu tôi giật. Có chút kéo co cả đôi bên rồi con cá cũng đã lên nằm trong xuồng và quẫy đành đạch lật bên này qua bên kia. Con thác lác này theo mắt tôi đong đếm thì nó cũng cũng sàn sàn lá trầu lá tiêu so với co đầu tiên.

Cậu tôi ngoặc cái lưỡi ra khỏi mép con cá vẫn còn lại hai phần ba thân con con bạc mày. Ông chưa vội ra về, có lẽ ông bạn chơi đàn nguyệt đang ngồi nhắm trà có ướp thêm hai bông hoa sói cũng chẳng sốt ruột chờ bạn lắm đâu. Cậu tôi lại dùng cả chút phế phẩm là mẩu bạc mày còn lại để móc vào lưỡi câu rồi bỏ xuống nước. Chiếc phao không thấy chìm thẳng đứng một nửa mà lại nằm ngang. Vậy là đã có cá đớp mồi rồi: con cá đang ăn từ tầng nước trên.

Lại thêm một thác lác nữa cũng em em so với hai con vừa rồi... Kết quả cảu buổi câu cá: ba thác lác, một giếc chắc ông khách sẽ quá bất ngờ đây. Cậu tôi lái xuồng trở về bến cũ, càng về trưa mà bọn chim chào mào, sáo đen, cưởng chợ, vành khuyên còn đến ăn sung chín ở những cây sung lão mọc ven sông. Tiếc rằng tôi không mang ná giàn thun theo không thì cũng đã có thể hạ ngay ít ra một vài tên vành khuyên và sẽ cộng thêm vào thành tích sánh nay.

Xuồng vào cập bến, tôi chưa kịp kêu thì thằng An đã đang trên đường xuống bến. Thấy cái cười vui vui của cậu tôi cộng thêm sự xoắn xít quá thái của tôi thì thằng An hiểu ngay ra kết quả chắc là tuyệt cú mèo. Cậu tôi cho xuồng lên trên bến, thằng an lấy vợt ra bắt cá đủ cả bốn tên còn đang vùng vẫy. An vội chạy lên chỗ ông khách đang nằm coi sách, ông khách ngồi dậy kêu lên:

- Ôi ôi trời ơi là trời ! cá mô mà lắm lắm vậy ? Lại thêm anh giếc ngự đỏ vi nữa, đúng là thầy giáo có tay sát ngư...

Câu tôm

________________________________________

Khi màn đêm buông xuống, cũng là lúc họ bắt đầu khởi hành. Lặng lẽ trong đêm, mỗi người một ghe, họ săn tìm loại đặc sản của vùng nước ngọt: tôm càng xanh.

Cái thú nghề câu

Trời sụp tối, chiếc ghe nhỏ của anh Dương Văn Út cũng vừa neo lại bến câu sau hơn 4 km rong ruổi. Đó là một vàm sông nhỏ, thuộc phường Hưng Thạnh, quận Cái Răng. Bên kia sông là quận Ninh Kiều lác đác những ngọn đèn xanh, đỏ. Còn bên này sông, màn đêm đã tĩnh lặng, chỉ thấp thoáng vài ánh đèn nhỏ từ những căn nhà rải rác ven sông.

Đâu phải đơn giản có thể ghé bất cứ bến sông nào của con sông Cần Thơ này. "Kinh nghiệm của dân câu tôm là phải chọn những vịnh sông (đoạn sông cong vào), bến sâu, nhiều chà... mới thả câu" - anh Út khẳng định.

Trang bị cho nghề hạ bạc này khá đơn giản. Một cần câu nhỏ với sợi nhợ dài chừng 10 mét quấn cuộn, một chiếc phao nhỏ luồn theo cước để biết hướng vớt tôm, một vợt lưới nối với đoạn tre dài chừng 3 mét và một hũ sành nhỏ đựng mồi. Tất nhiên, không thể thiếu chiếc ghe nhỏ mà chúng tôi ngồi gần 2 giờ đồng hồ để đến đây.

Thời trước, dân câu tôm dùng mồi trùn - loại trùn sống đầy rẫy ở đất vườn vùng này. Dần dà, ai đó khám phá và rỉ tai nhau, dân câu tôm chuyển sang sử dụng mồi trùn lá, loại trùn chỉ sống trong các bẹ dừa nước ở vùng nước mặn. Hôm trước, anh Út lặn lội xuống tận Sóc Trăng tìm mua, với giá 60.000 đồng/kg. "Còn tại Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, giá được kê lên tới 90.000 đồng/kg" - anh Út nói. Thứ mồi đặc biệt này bán rất chạy cho dân câu tôm ở Cần Thơ, Tiền Giang, Vĩnh Long...

Lưỡi câu là một vòng sắt nhỏ, quấn sẵn một mớ ốc. Nối thêm vào đoạn trùn lá, anh Út thong dong thả câu, chờ "hàng"... Chưa đầy mười phút sau, anh Út đã ra dấu có tôm cắn câu. Nhóng thử cần câu, anh lắc đầu: "Con này nhỏ".

Chiếc cần câu được anh nhấc lên từ từ, cùng lúc là chiếc vợt nhẹ nhàng đưa xuống, vớt từ dưới lên. Khi vợt cách mặt sông chừng 1 mét, anh hớt mạnh. Một chú tôm trứng nhỏ đã nằm co ro trong vợt.

"Con này nhỏ, bị đánh rớt xuống tôm "nhì", giá hiện giờ khoảng 110.000 đồng/kg. Còn tôm "nhất" - từ 100 gam trở lên - hổm rày bán được 150.000 đồng/kg". Anh Út kể, đợt câu trước, chỉ trong vòng 10 ngày anh thu được trên 1 triệu đồng tiền bán tôm. Tuy nhiên, theo con nước, mỗi tháng chỉ câu trúng được chừng 10 ngày.

Cái xóm nhỏ mà anh Út đang sinh sống, thuộc khu vực Bình Phó B, phường Long Tuyền, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ, vài chục năm trước có trên 60 tay câu, có nhiều tay câu "sừng sỏ" như Ba Tây, Sáu Long... Lúc còn nhỏ, anh Út theo ghe câu tôm ít chuyến rồi đâm mê luôn từ đó. Ngay lúc ông Ba Tây ở gần nhà chê cái vợt vớt không vừa tay, anh Út dạm mua ngay. Tiếp đó anh sắm nhợ, cần và mua chiếc ghe nhỏ lênh đênh những đêm trắng trên sông nước.

Anh Út lại ra dấu. Con này chừng 100 gam - tôm "nhất" đây"- anh Út thì thào. Nhưng cần vừa nhóng nhẹ, con tôm đã buông mồi... Đến lần cắn câu thứ ba, con tôm mới chịu theo mồi lên mặt nước. Loáng cái, chú tôm đã nằm gọn trong vợt, hai càng xanh dài, chắc lẳn. Cầm thử, đúng là khoảng 100 gam.

Hai chục năm theo nghề câu, anh Út chỉ cần nhóng nhẹ chiếc cần đã biết con tôm đang ăn nặng khoảng bao nhiêu. Tép ăn cũng biết. Còn cá, anh có thể khẳng định con cá đang phá mồi bên dưới là cá bống hay cá chim trắng, chạch lấu... Tay nghề dân câu hơn nhau là chọn bến câu và điều khiển chiếc vợt bằng tay trái, canh khoảng cách với con tôm. Bởi cứ lóng ngóng, cục mồi vớt còn không trúng, nói chi tôm.

Đêm lạnh, nhưng mỗi khi vớt được một chú tôm, ném nhảy xoi xói trên khoang ghe thì cái nặng trĩu của cặp mắt, cái buồn của bến sông đêm dường như tan biến. Thú nhất là khoảng tháng 11 âm lịch, tôm càng lửa đổ về nhiều. Con nào con nấy to tướng, thịt chắc lẳn. Ba năm trước, anh Út câu được con tôm nặng "kỷ lục": 400 gam. Mà tôm câu trên sông thì khỏi chê. Thịt chắc, ngọt đậm hơn nhiều so với tôm nuôi.

Đối với dân câu tôm, sự cô độc suốt đêm không làm họ ngại. Cứ ngồi thong dong, ngắm sông đêm, sóng vỗ mạn ghe rì rầm, hứng gió mát lộng. Mỏi thì nằm, ngửa mặt nhìn sao đêm lấp lánh, tha hồ ngẫm sự đời.

Sát bên là mặt sông lạnh, bên kia là những ánh đèn ấm cúng của những căn nhà đầy tiếng trẻ bi bô, đôi khi cũng khiến họ chạnh lòng, nhớ chăn êm, nệm ấm, nhất là những đêm mưa nằm trùm ni lông co ro dưới khoang ghe. Nhưng theo nghề riết rồi con tôm khiến họ mê hơn - tất nhiên, chỉ khi lên ghe đi câu...

Dân câu tôm chỉ xem đấy là nghề phụ. Như anh Út, công việc chính của anh là chở bàn, tủ ghế gỗ từ Cần Thơ xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu bán lại. Thời này, tôm cá khan hiếm, chỉ độc nghề câu thì khó đủ sống. Ở Vĩnh Long, trước đây có xóm câu tôm vài trăm người, nhưng giờ bỏ nghề dần. Còn tại xóm anh Út, giờ cũng chỉ còn lèo tèo vài người, cứ đêm xuống là dong ghe ra sông. Trước đây có ông Hai Bổn ở Hưng Phú câu tôm không cần vợt. Lưỡi câu của ông uốn đạt độ chuẩn rất cao, tôm nào ăn thì khó sổng. Dân câu ai nghe đến tên ông cũng phải thán phục. Nhưng giờ ông cũng bỏ nghề...

Nhấc hẳn cần câu lên, châm điếu thuốc, anh Út giải thích: "Hết nước tôm ăn rồi. Nghỉ tay chút". Theo anh, tôm ăn có thời điểm, có thể là lúc nước ròng hoặc nước lớn, khó có thể đoán trước. Nhưng khi nào rờ tay chạm mặt sông, thấy âm ấm, đó là lúc tôm ăn. Còn rờ thấy nước sông lạnh toát, ngồi đến cả giờ đồng hồ cũng hoài công.

Đang nằm lim dim, bỗng nghe tiếng mấy chú tôm bắt được búng lách tách trong giỏ máng cặp ghe, anh Út bật dậy: "Tới nước tôm ăn nữa rồi".

Quả thực. Chưa đầy năm phút sau, anh Út đã nhấc nhẹ cái vợt. "Tôm càng xanh" - anh hí hởn. Nhưng khi chiếc vợt sắp sửa được nhấc mạnh, một nhánh cây nhỏ dưới sông đã cản đường.Vợt mắc kẹt, tôm búng tách chuồn mất.

Gần nửa giờ sau, anh Út vẫn còn chặc lưỡi tiếc con tôm bị sổng. "Trên mười lăm ngàn chứ ít sao!" . Nói vậy, chứ tôi biết cái anh tiếc hơn là mất cảm giác hả hê khi nhìn chú tôm nằm gọn trong vợt. Cái thú nghề câu mà.

Muôn sự nghề câu

"Nhiều tay đi câu chớ mê tín lắm" - anh Út kể. Như anh Tân ở gần nhà, đợt đó câu gần 10 ngày không dính một con. Tôm ăn thì vớt sổng... Cay cú, anh này kéo ghe lên bờ, kiếm "bùa" đốt phong long. Ai quá giang ghe anh cũng không cho.

Còn ông Năm T., mỗi lần thấy người khác câu trúng là cũng tay câu, tay vợt đi theo. Chỉ có điều, cũng đi cả đêm nhưng ông ngủ nhiều hơn câu. Có lần, mới khởi hành, dân câu đã thấy ông gác cần nằm ngủ co ro bên bến sông. Đến lúc xong chuyến câu, quay về vẫn thấy ông còn nằm ngáy.

Buồn nhất đối với dân câu là chuyện cập ghe câu bị dân trên bờ xua đuổi. Thực ra, do dân trộm hoành hành quá nhiều, nên dân câu cũng dính oan.

Quá nửa đêm. Mồi câu bị cá rỉa cạn sạch. Anh Út quay ghe trở về. "Đêm nay thất". Chiếc giỏ cột bên ghe chỉ có đúng 6 con tôm, tổng cộng khoảng nửa kg. Từ 6 năm trở lại đây, tình trạng thuốc tôm hoành hành khắp nơi. Chỉ cần chai thuốc chừng hai chục ngàn, người ta lén bỏ xuống một đoạn sông nào đó, chưa đầy nửa giờ sau, tôm tép lớn nhỏ trồi đầu chết sạch. "Cách bắt tôm tận diệt này dân câu rất ghét"- anh Út nói với vẻ bực dọc.

Màn đêm vắng lặng. Anh Út lặng lẽ tay chèo. Đoạn đường về vàm sông Cái Răng - Cái Sơn cách nơi câu chỉ chừng 3 km nhưng ghe chèo mất gần một giờ.

Đảo Dáu mùa tráp về

________________________________________

Mỗi khi cái lạnh thấu xương bị những cơn gió nồm nam xua đi, đất trời vạn vật trên đảo được bao bọc trong lớp mây mù sũng nước , quần áo như dính chặt vào người nhớp nháp khó chịu. Nhưng nó lại là khoảng thời gian tráp đen kéo đàn từ khơi xa trở về kiếm ăn xung quanh đảo....Thời tiết khó chịu, trong người nhộn nhạo ,những giấc mơ chập chờn toàn cá tráp ...sáng đi sớm nhưng đến đảo cũng gần trưa .Công việc đầu tiên là vào đền "Lễ cô" cầu một năm mưa thuận gió hòa ,kéo cá mệt nghỉ . Về thay đồ và chuẩn bị đi... vụt , lắp cần, gá máy ,set dây xong xuôi đâu đấy sờ đến mồi thì hỡi ôi đủ hết nhưng quên mấy hộp mồi ở nhà cả mồi giả lẫn flies. Còn sót đúng một con Bream Killer Caddis trong hộp phụ kiện . Nam Sơ sinh sáng ra sớm ra miếu cô lure được một tráp vằn thế là chiều hắn chốt chết chỗ đó không di chuyển.Long Tenryu , Hạnh sang 8 gian .Cả buổi chiều 2 thằng lure lẫn fly ném sái tay không có con gì , phía bờ tây 16h00 nước nhói lên thì cả lure lẫn Iso cá kéo liên tục, lên cá nhiều nhất và to nhất vẫn là câu lure.

Chiều đến Nam sơ sinh tổng kết : Cứ ném 2 ,3 đường là lại kéo, dính nhiều quá cầm dây thẻo nhấc lên cho nó nhanh , cứ được 1 con thì mất một làm cho cả đám dân câu nhìn lồi cả mắt....

Tối đến mượn lure thì cá lại không cắn, câu Iso thì phao cứ dừng bất thường nhấc là dính cá, Cá hình như mới vượt trùng khơi chưa lại sức nên toàn ngậm mồi rồi đứng yên. Mượn cần Thanh móm nhấc lấy 1 con tráp đen giải cái đen đủi.Cá to mà kéo nhẹ hều không cảm giác. Chán! trùm chăn nằm luôn ngoài bãi đá ngủ dưới mưa phùn nặng hạt.

Chiều chủ nhật nước nhói Long Tenryu lại làm một dây liền tù tì 7 chú tráp đen.Check thêm thông tin "ở nguồn tin đáng tin cậy" thì được biết : Chiều chủ nhật cá vào dày đặc hơn thứ bảy và cắn rộ toàn đảo .Máy ảnh chỉ đủ pin chụp được 2 chiếc là hết pin. Nhưng thế thôi chụp kết quả của nhóm câu Iso nữa thì lại thêm 1 đêm ngủ không tròn giấc. Những món ăn nghịch ngợm thời thơ ấu

Hồi còn nhỏ, khu nhà tôi ở rất gần sông Hồng và rất nhiều ao hồ xung quanh. Những hồ này được hình thành do ngày xưa lấy đất đắp đê. Lũ trẻ chúng tôi hàng ngày lặn hụp mò cua, bắt ốc, câu trộm cá... trong những cái hồ ấy. Khu nhà chúng tôi ở là nơi duy nhất có vài bóng điện cao áp, mà hồi đó bóng điện cao áp rất hiếm, kể cả trong nội thành HN. Cây cầu Long Biên chỉ có một dãy bóng điện sợi đốt đỏ quạch, đường phố trong nội thành cũng thế. Hình như chỉ khu lăng Bác là có điện cao áp và là nơi sáng sủa nhất thành phố.

Vào những đêm hè, những đêm "trở trời", cà cuống, niềng niễng bay thành từng đám. Lớp cánh mỏng ánh xanh nhạt bay lượn vù vù xung quanh mấy cái bóng cao áp, đến khi "chóng mặt" đâm đánh cốp vào bóng đèn rồi rơi xòe xuống đất. Lũ chúng tôi chỉ đợi có thế là lao ra vồ, bất chấp những cái vòi đang dựng lên, bất chấp những cái càng sắc lẻm đang giương lên. Ối, ái, nó đốt tao rồi... là những từ luôn vang lên mỗi khi có một đám xúm xít vồ cà cuống. Cà cuống đốt không đau lắm, không buốt và sưng như ong. Nó chỉ đau "chịu được" và sưng cũng ít, chỉ có điều cách sưng của nó hơi đặc biệt, không sưng to nhưng chỗ sưng rất cứng, các ngón tay cứ cứng lên, ngay đơ trông rất buồn cười.

Những chú cà cuống bắt được chúng tôi đem nướng trên bếp điện đỏ rực làm bằng dây mayso trần của Liên Xô được uốn ngoằn ngèo trong khuôn một cái bếp bằng đất nung. Những con cà cuống cái có cái bụng đầy trứng, to lớn được ưu tiên "lên thiên đàng" đầu tiên. Mùi thơm ngào ngạt và hơi khét tỏa ra. Xé bỏ lớp cánh và chân cẳng cháy đen đi, bóc nhẹ lớp vỏ bụng dai dai đi, một tảng trứng xanh lục nhạt lộ ra. Cho tất vào mồm nhai, mùi tinh dầu cà cuống thơm nhẹ, trứng bùi, béo, hơi dẻo và sần sật... Thật đặc biệt, khó có trứng của con gì ngon hơn thế.

Cà cuống đực nhỏ con hơn, hung hăng hơn. Nướng chín lên rồi xé ra, mùi thơm ngào ngạt khắp nhà. Phần ngực cà cuống đực có nhiều thịt, rất ngọt và hơi béo pha chút đăng đắng của vỏ nướng bị cháy, mùi tinh dầu cay xộc lên mũi, đến tận hôm sau vẫn còn phảng phất. Một số con đực được để dành dầm nước mắm chấm rau muống luộc vào bữa ăn hôm sau. Có bố mẹ một số đứa thành thạo chế biến thì băm nhỏ cà cuống đực cho vào chai nước mắm để dành. Hồi ấy, thời bao cấp nên chẳng có gì ăn với nước mắm cà cuống, chỉ chấm rau muống luộc, ấy thế mà rất ngon. Nhà nào sang hơn thì mang kí gạo ra chợ đổi bánh cuốn mộc về cải thiện một bữa. Những dịp cải thiện như thế này không nhiều trong một năm nên chúng tôi rất nhớ, nhớ rất dai và vẫn thường khoe "nhà tao ăn bánh cuốn..."

Ong thì khỏi nói, chúng nó có làm tổ trên cây nhãn, dưới mái nhà... dù kín đến đâu cũng không thoát khỏi mắt chúng tôi. Những tổ ong muỗi mỏng manh dài thượt, lả lướt trong đám lá, những tổ ong vàng như cái lọng, những tổ ong bò vẽ vằn vện có những lỗ đen ngòm như những đôi mắt trên mặt nạ ma quỷ nhe răng dọa nạt... đều rất hấp dẫn chúng tôi. Ong bò vẽ thì chỉ có các anh, cá chú lớn dám đốt, nhưng lũ chúng tôi là phụ tá rất đắc lực và liều lĩnh. Các chú ấy thường đốt thẳng vào các lỗ trên tổ ong hoặc đến tối lấy giẻ nút các lỗ ấy lại rồi đốt. Ong muỗi thì chỉ cần một cành cây dâu có cái móc ở đầu, móc vào giật một phát là rụng xuống đất. Cầm cái mũ xua lũ ong đang bay đi rồi lao vào lấy là xong. Lỡ bị đốt thì cũng chẳng sao, đau, ngứa tí là hết. Ong vàng thì khó hơn, chỉ ngoèo được khi chúng còn nhỏ bằng bàn tay của chúng tôi. Những tổ lớn như cái mũ cối, nhiều tầng lớp thì phải đốt bằng giẻ tẩm dầu hoặc bùi nhùi rơm có nhiều khói được buộc vào cái sào tre dài. Cứ thế đem gí vào tổ, ong lớn bay tán loạn, một lúc sau, một thằng nhiều kinh nghiệm nhất, liều nhất sẽ trèo lên dùng cái móc giật cho tổ ong rơi xuống. Chỉ một lát sau, trong cái rá vo gạo đầy những ong non, có vài thằng thích ăn sống nhộng ong. Những con nhộng trắng tinh, béo múp, những con ong non trắng ngà có đầy đủ chân, râu... nhưng chưa có cánh, những con ong non sắp ra ràng bò lổm ngổm được cho tất vào một cái chảo mỡ. Xèo xèo, thơm ngậy. Cuộc liên hoan chí chóe diễn ra ngay sau đó chen chúc những cái đầu, những cái vai lấm chấm vôi trắng, dấu vết oanh kích của những chú ong vàng. Sau đó ai về nhà nấy, lát sau có những tiếng khóc ré lên của những thằng bị ăn đòn, tôi cũng thế.

Sáng hôm sau, vài thằng gầy nhẳng tự nhiên lại mang một bộ mặt cười tròn vành vạnh, béo múp. Lại đi chọc ong, lại bị đốt, lại ăn đòn... cứ thế.

Quanh khu tập thể chúng tôi có rất nhiều những cây nhãn cổ thụ. Những cây nhãn mà chúng tôi biết rất rõ cây nào sẽ chín trước, cành nào sẽ chín trước, cây nhãn nước hay cây nhãn cùi... không năm nào trượt. Ăn từ khi cắn quả nhãn ra trong hạt còn có nước, rồi đến cùi nhãn chỉ là một cái màng mỏng dính rồi hạt nhãn trắng tinh có một chấm đen, đến vệt đen. Cái vệt đen trên hạt nhãn cứ lớn dần cho đến khi đen hết hạt là nhãn chín.

Tất nhiên, chúng tôi hái trộm nhãn đấy.

Bọ xít nhãn to khỏe, cứng cáp và vàng sẫm và rất nhiều mỗi khi đến mùa nhãn. Trẻ con ngày xưa không có nhiều đồ chơi nên hầu hết là tự làm lấy, tự sáng tạo ra để có cái chơi trong dịp nghỉ hè. Đua xe bọ xít, một trò chơi thường niên rất hấp dẫn. Bọ xít nhãn "đái" rất khỏe và nhiều, nó mà đái vào mắt thì phải rửa ngay chứ không thì sưng húp cả mắt. Xe được làm bằng vỏ ống kem đánh răng bằng thiếc chứ không bằng nhựa như bây giờ. Hình như là kem đánh răng "Ngọc lan" của Nhà máy xà phòng Hà Nội. Cắt miếng săm xe đạp hoặc miếng nhựa mỏng thành miếng tròn nhỏ xíu bằng cái cúc áo làm bánh xe. Trục xe làm bằng tre vót rồi đánh bóng. Cắt ống kem đánh răng làm thân xe, hai đầu được cuốn tròn lại rồi đút trục xe vào, 4 bánh xe gắn vào trục. Ở giữa khoảng thân xe gắn cục nhựa đường làm ghế cho "tài xế bọ xít". Đấy là model xe đơn giản nhất, các thế hệ cải tiến tiếp theo của nó còn được gắn súng ống, gươm đao, sơn phết vằn vện "khủng" lắm.

Bắt một chú bọ xít to khỏe, vặt hết chân tay rồi gắn vào ghế lái, huơ huơ mấy vòng cho nó vỗ cánh rồi đặt xuống đường đua. Vút, các chú xe bọ xít chạy rất đẹp mắt trong tiếng hò hét của lũ chúng tôi. Cũng có những cú cua gấp, xe lộn tùng phèo mấy vòng, cũng có những cú đâm nhau y như trên đường đua F1. Có thằng ham làm xe nhẹ bằng phim để chạy cho nhanh, ai dè xe chạy một đoạn rồi từ từ cất cánh bay vút lên giời trong tiếng "khóc" ré lên của khổ chủ xen lẫn trong tiếng cười phá lên của những thằng khác.

Những thằng thua, những thằng xe đâm nhau, những thằng xe bị bay mất... ngồi xếp một hàng dài cho ba thằng về nhất, nhì, ba lần lượt nhảy qua đầu. Cay cú, lại thay "tài xế", sửa sang lại xe rồi đua tiếp, thế nào cũng được nhảy qua đầu chúng nó với vẻ mặt đắc thắng. Chơi chán rồi đem giỏ "tài xế" ra nướng chén. Bọ xít hôi là thế nhưng khi ném vào lửa nó sẽ xịt hết tinh dầu ra là không còn mùi nữa. Nướng chín vàng sẫm, bóc cánh và phủi mấy khúc chân cháy dở đi rồi tọt vào mồm, bọ xít giòn sụm, thơm phức, béo ngậy còn hơn cả cào cào châu chấu nướng.

Chiều về, tay chân vàng khè vì bị bọ xít đái, quần áo cũng thế, hôi rình. Rón rén vào nhà. Thế nào cũng có thằng bị ăn đòn.

Ơ mà con bọ xít nướng béo thật nhưng không bằng con sâu sắn dây, nó là ấu trùng của con cánh cam. Vào cuối hè, tìm những dây sắn dây bị phình ra thành cái bọc to tướng, lấy dao rạch nhẹ rồi banh ra, trong ấy có những con sâu to bằng ngón tay cái, trắng nõn, con sâu này rán lên, mỡ nó tự chảy ra béo ngậy. Nhà thằng nào có cơm nguội thì mang sang, ăn sâu xong rồi lấy cục cơm nguội quẹt mỡ tươm ra ngon phải biết. Sau đó lại hì hà hì hục với những trò nghịch ngợm mới.

Sâu dâu ăn cũng ngon nhưng không hấp dẫn lắm vì bắt nó rất khó. Sâu dâu là ấu trùng của con xén tóc, là con có hai cái răng nghiến vào nhau kèn kẹt, cho tóc vào là nó xén như ông thợ cắt tóc vậy. Sâu dâu phải bắt vào đêm. Ban ngày nó ngủ trong lỗ đục của nó dưới gốc cây, ban đêm mới lên khoét cành phía trên. Sau khi đánh dấu những cây có sâu, tối đến ra nghe thấy kèn kẹt trong cành thì chặt luôn cành ấy. Mang về chẻ ra, một chú sâu bằng ngón tay, người cứng đơ ngọ nguậy. Món này rán ăn cũng ngon nhưng chủ yếu là chúng tôi bắt cho người lớn làm thuốc chữa bệnh.

Chấu chấu, những con màu xanh và có đầu vuông vuông rang ăn cũng rất ngon. Món này chúng tôi thường bắt ngoài đồng rồi mang về rang ăn với cơm ở nhà nên không hấp dẫn chúng tôi mấy. Thỉnh thoảng vớ được chú muồm muỗm béo múp, rồi bắt cả niềng niễng và con ăn mày ở dưới nước... một mớ linh tinh đem về cấu đầu rút ruột rồi rang lên làm thức ăn cho gia đình để tỏ vẻ ngoan ngoãn để mai lại nghịch tiếp. Châu chấu được gọi là tôm bay, rang với mỡ, cho tí nước muối cà vào thì châu chấu trở nên rất giòn và ngon. Con ăn mày bùi bùi, con niềng niễng khai khai...

Vẫn còn nguyên những hình ảnh, những khuôn mặt của những thằng bạn, còn nguyên những hồ ao, cây nhãn thuở ấy, còn nguyên những cánh đồng mặc dù giờ đây không còn nữa. Và còn nhiều lắm những món ăn nghịch ngợm thời thơ ấu, những món ăn đặc biệt và ngon nhất trong đời. Mùi vị của nó vẫn còn đọng lại, thỉnh thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn thường mơ về.

Nhà em cũng ven đê sông Hồng, lại đúng khu vực nhiều ao chuôm, đồng ruộng, bãi bờ nên các trò nghịch và các món ăn thời tuổi thơ cũng tương tự như của bác.

Khu nhà em ít cà cuống, chỉ thỉnh thoảng lội bờ ao, bờ lạch bắt được vài con chơi chơi chứ không có nhiều để nướng ăn như anh. Em chưa biết vị cà cuống nướng thế nào, nghe bác tả thấy hấp dẫn quá!

Có một món nữa là món nhộng ong. Trước mấy anh em nhà em cũng tìm tổ ong, thường là ong vàng, ong mặt quỷ, chọc xuống, moi lấy những con nhộng béo vàng, vẫn còn ngọ ngoạy nhé, cứ thế cho vào nuốt sống. Giờ gọi hoa mỹ là Gỏi nhộng (giờ nghĩ lại thấy hơi rùng mình:matcuoi !)

Cào cào châu chấu bọn em chỉ bắt chơi chơi, đứa nào gian ác thì nướng trên bóng đèn dầu cho thơm thơm. Vào mùa ra ruộng lúa vợt được nhiều, rang với hành mỡ thơm lừng, ăn với cháy cơm thì tuyệt vời, chẹp!

Chỗ em nhiều hồ ao, nên cái món cua ốc rất nhiều. Xóm em ở trước có nick name là xóm cua ốc Cứ men ra bờ ao, nhất là ao rau muống thể nào cũng vớ được những chú ốc nhồi to, vỏ xanh đen, có con già cả còn mọc cả rêu. Cứ thế vùi vào bếp tro, hoặc nướng cạnh bếp. Mùi ốc thơm lừng, ăn ngọt lịm, ngon!

Ah, còn món nữa khoái khẩu là món chim chích, chim sẻ, chim khuyên nướng nữa. Mấy ông anh nhà em với khẩu súng cao su tự trang bị bắn được chú nào là vặt lông, nhét lá chanh và nướng. Mùi thịt chim thơm lừng, quyện với mùi thơm lá chanh, cộng với một lũ trẻ háu đói tranh nhau ăn, em nghĩ không có món cao lương mỹ vị nào ngon hơn!

Ngoài những món mặn trên, bọn em còn có mấy món chay khác như món búp lá khúc tần, hoa dâm bụt, quả duối chín, đòng đòng lúa non và một số sản vật khác bọn em đi ăn trộm được:matcuoi ^

Giờ nhớ lại những kỷ niệm tuổi thơ, thấy mình thật giàu có!

Đi nhà giàn nghe kể chuyện câu cá

BT- Giữa biển khơi mênh mông, khi xung quanh chỉ toàn sóng nước với trời mây, câu cá cũng vừa là thú vui không thể thiếu của người lính nhà giàn khi rảnh rỗi, vừa cải thiện những bữa ăn. Trong một chuyến đi chúc tết bộ đội Trường Sa, chúng tôi được nghe kể khá nhiều chuyện về thú vui ấy.

Từ chuyện đặt tên cho cá

Cứ mỗi lần tàu Hải quân HQ 608, chở đoàn cán bộ chiến sỹ Vùng 2 hải quân đi thăm, chúc tết các nhà giàn DKI thả neo, từ thủy thủ tàu cho tới cánh phóng viên chúng tôi lại có dịp đua nhau trổ tài câu cá. Lẽ dĩ nhiên, "sát" cá hơn bao giờ cũng thuộc về những người chuyên nghiệp, các chiến sỹ thủy thủ của tàu. Họ luôn biết cách câu được cá, những con cá sọ dừa, cá hồng, cá mú hay cá thu to vài kg trước sự thán phục của chúng tôi. Trong số cá câu được có nhiều loại mà lần đầu tiên chúng tôi mới nhìn thấy và nghe tên. Đôi khi có những cái tên tạo cho chúng tôi sự tò mò đặc biệt, bởi nghe rất lạ như cá hải quân... Đại úy Lê Văn Khải - Chính trị viên Vùng 2 Hải quân (trước đây đã từng công tác tại nhà giàn) cho biết, những cái tên ấy đa số các chiến sĩ tự đặt, do có nhiều loại anh em không biết tên, nên gọi theo đặc điểm của cá. Ví dụ như cá có 2 sọc xanh ở lưng, giống với đường kẻ của áo hải quân, nên gọi là cá hải quân. Có loại màu hồng nên gọi là cá hồng, hoặc có loại chuyên ăn cơm dưới chân nhà giàn nên gọi là cá cơm. Nhưng ngộ nhất là việc đặt tên cá theo tên của một nữ ca sĩ, vì nó có chiếc mồm rộng giống với miệng của nữ ca sĩ này...

Đến ly kỳ chuyện câu cá lớn

Một lần, đoàn chúng tôi được dự bữa cơm thân mật với chiến sỹ nhà giàn DKI/21. Đặc sản hôm đó chính là những lát cá nhồng khá to, được chiên vàng thơm phức, thịt rất ngọt do cá còn tươi. Con cá nhồng này các anh mới câu từ hôm trước, nó nặng đến 14kg, dài hơn 1m. Thấy chúng tôi ngạc nhiên, một chiến sĩ cười, câu được cá lớn như thế là chuyện bình thường. Cá nhỏ cỡ 1kg trở xuống có khi tụi em chỉ để làm mồi câu. Do dưới chân nhà giàn thường là các rạn san hô, đồng thời râm mát và nhiều thức ăn, đây là nơi lý tưởng để cá "tụ hội" với đủ các loại, kích cỡ khác nhau như: cá mú, cá hồng, cá bò, cá sọ dừa, cá kìm, cá thu bè... cho tới những con cá nhồng hay cá mập to lớn. Nhiều là vậy, nhưng để câu được cá ở đây cũng không phải dễ, đòi hỏi phải có kinh nghiệm, từ việc chọn lưỡi câu, dây câu, kỹ năng mắc mồi, cho tới việc nhử cá ăn mồi. Chẳng hạn như câu cá kìm, do thịt mềm nên chỉ cần thả dây câu có nhiều lưỡi xuống, không cần mồi, sau đó người câu khi thấy cá đi qua thì giật thật nhanh, mạnh lưỡi câu sẽ mắc vào thịt cá thế là xong. Nhưng để câu được những loại cá lớn thì khác. Như câu cá mập, cá nhồng to thì phải sử dụng lưỡi câu và cước câu to cỡ ngón tay buộc vào cục chì to gần bằng cổ tay. Mồi câu có khi là cả một con cá bằng bàn tay. Để câu được loại cá này phải kiên trì và có kinh nghiệm. Kể cả khi cá đã cắn câu nhưng đưa được lên cũng khá gian nan, nếu cá to quá phải dùng tời mới có thể kéo được. Chúng tôi được nghe kể một câu chuyện khá thú vị trong chiến tích bắt cá lớn của lính nhà giàn: Lần đó anh em chiến sĩ ngồi câu, cá cắn mồi nhiều lắm, nhưng khi chuẩn bị kéo chiến lợi phẩm lên thì lại bị một con cá nhồng rất to lao đến đớp mất, lúc kéo được cá lên thì chỉ còn cái đầu. Bực mình vì bị hớt tay trên, các anh quyết tâm bắt bằng được "kẻ cướp". Nhưng phải mất đến 6 tháng trời ròng rã, cuối cùng nó cũng cắn câu. Nhưng vì cá quá lớn và khỏe nên không thể kéo ngay lên được. Anh em phải thay phiên nhau dẫn cá (vừa kéo, vừa thả sao cho dây không bị căng quá gây đứt, cũng không được chùn quá cá sẽ thoát). Gần một buổi đánh vật với cá, đến khi nó không còn đủ sức để vùng vẫy nữa, khi ấy một chiếc khấu (chiếc móc sắc nhọn, bằng sắt có cán dài) được thả xuống móc lại, sau đó anh em mới dùng tời kéo chiến lợi phẩm nặng hơn 80kg lên được. Cũng có lần chiến sĩ câu được con cá mập lớn, nhưng cuối cùng đành phải cắt dây câu thả ra để đảm bảo an toàn vì cá quá khỏe... Câu cá là thú vui không thể thiếu và tạo nên những hương vị riêng trong cuộc sống của lính nhà giàn, nó phần nào làm vơi đi sự thiếu thốn về tình cảm và nỗi gian khổ của những người lính.

Câu cá bằng cần cẩu tàu

Tìm thấy trên net bài này. Post lên cho mọi người đọc để hiểu biết thêm về nghề thủy thủ tàu viễn dương nhé. Các nhân vật trong câu chuyện đều có thật và tôi đều biết họ, vì cùng làm một công ty và tôi cũng đã có vài chuyến đi dài như vậy. Tuy rằng câu nhiều nhưng chưa lần nào câu được cá to cả.

Chúng tôi là những thủy thủ lấy tàu làm nhà, biển là quê hương, cuộc sống lênh đênh theo những chuyến hàng đến khắp các đại dương xa xôi, từ Nhật bản, Hàn quốc, Nga, Trung quốc, xuôi xuống phía Nam là Malaysia, Philippines, Indonesia, Singapore, Papua Newguine, sang cả các vùng biển Ả rập, Lục địa Đen Châu Phi, Cuba, Châu Âu già nua, các nước thuộc Đông Âu cũ......., mỗi nơi chúng tôi đi qua là những kỉ niệm không bao giờ quên, vui có, buồn có, sợ có. Sợ nhất là những cơn bão biển, những con lốc bất ngờ đem theo dưới lòng đại dương bao la biết bao bạn bè của chúng tôi. Nhưng biển cũng là mẹ hiền mỗi khi trời yên biển lặng để chúng tôi tha hồ đắm chìm suy tư về nỗi nhớ nhà, nhớ cha mẹ, vợ con, bạn bè. Và chả biết làm gì để cho vui, chúng tôi câu cá .

Chuyện thứ nhất - Cẩu cá bằng cần cẩu tàu

Lần đó ( bây giờ chả nhớ là năm nào, hình như là 1991), tàu đang neo ở Cảng Aden - nước Yemen, chờ trả hàng, bọn tôi bắt đầu giết thời gian bằng cách đùa với bọn cá biển. Chúng tôi lấy lõi của que hàn, uốn cong, mài nhọn đầu- tất nhiên, cột vào cuộn dây nilon và đầu kia cuộn với một ống tròn, mồi là 1 miếng thịt heo to tướng ( dĩ nhiên là tau đang neo ngoài khơi, chứ mà đậu trong cảng mấy chú Ả rập nhìn thấy thịt heo là ngã lăn ra xỉu mất) và vô tư mà thả xuống. Chả cần phải "Ông mê" lâu, lão Hợp xoăn la làng :" chúng mày ơi, cá nó đớp kìa", chụp lấy cái ống, giữ chăt và xông dây ra, chả biết con quái gì mà nó chạy gớm thế, thôi cứ từ từ dìu em đã, trời lúc đó sao mà nó nắng thế - 2 giờ chiều mà, nhìn xuống biển thấy một cái gì xám xám, to đùng, lạ chửa, mình thu dây bắt đầu hơi căng một tí để định ngắm dung nhan nàng, thi nàng xấu hổ lại lôi chạy mất.

Cứ khoảng nửa tiếng nàng lại để bọn tôi dìu, nhưng mà có phải là một chỗ đâu, cô nàng đỏng đảnh lôi chạy tứ tung, bọn tôi hãi hùng nhất là cái đoạn "em" lôi dây chui xuống lườn tàu, mà con tàu của chúng tôi đâu có nhỏ bé cho cam, dài cỡ 150m rộng 21m sức chở 15.000DWT mà cứ thế này thì làm sao đây, thôi thế này, cứ mỗi 10m phân công một thằng tiếp sức với nhau mà chạy quanh tàu đua với "em", và.... cứ thế đến....... 6giờ chiều thì "em" chịu cho chúng tôi xem ....bụng. Ôi trời ơi, một em cá đuối bành ky nái, bọn chúng tôi thằng này nhìn thằng kia và hỏi : mang nó lên bằng cách nào? chiến lợi phẩm vật vã với nó đúng 4 tiếng đồng hồ chẳng lẽ cắt dây bỏ lại trả về cho Hải Vương? Và sáng kiến nhảy ra, quay ngang cần cẩu tàu ở hầm số 5 ra, thả một lưới (võng) cẩu hàng, một thằng theo võng xuống, dìu "em" vào lưới, khi ngón cái của nó trỏ trỏ lên, bọn tôi kéo nó lên cùng chiến lợi phẩm khủng khiếp.

Nó nằm đó, một con đuối ước chừng 300kg, và khiếp quá, cái mùi của của đến tận bây giờ còn "vương vấn mùi hương", nó khai và nó hôi. Tiến hành thôi, dao nào thớt nào để làm thịt nó đây, thôi thì cứ khứa, cứ chặt và làm gì ?,..... tất cả là phơi khô. Thật là đích đáng cho mấy thằng ham câu. Bơm nước biển lên rửa tàu gần chết, thuyền trưởng chửi ầm ĩ.

Chuyện thứ hai - Làm nước mắm

Tàu vẫn chưa vào cầu trả hàng được, lại câu. Lần này là một "em cá thu cam", nó giống cá thu bình thường ở màu xanh trên lưng, còn hai bên lườn là màu cam rất đẹp, lần này thì chỉ mất chừng 2 tiếng đồng hồ là bọn tôi dìu được em lên boong, cả tàu 25 con người nhai "em cá thu cam" tuần lễ mới gọi là hết. Mà đã hết đâu, mấy thằng chọi con lại ngứa tay, hết ca trực rồi mà đi bờ chơi lại không được ( tàu neo ngoài biển, làm sao đi), lại câu.

Trời ạ, cái xứ này sao mà lắm cá thế không biết, trời cho của mà không biết hưởng, lười đâu có thứ lười thế, cứ ỷ vào mấy cái thùng dầu và vênh râu chờ thời, thế mới thấy thương cho ông cha mình quá, cả đời lặn lội thân cò, mấy khi được miếng ngon mà hưởng, rồi thiên tai, giặc giã liên miên. Nghĩ mà tức phải trả thù dân tộc thôi, thằng em rủ :" tao với mày hai đứa hai dây, câu". Nhìn hai cái dây của nó mà hết hồn, mỗi cái 10 lưỡi, nhỏ thôi, Ừ thì câu. Mồi là mấy miếng cá cắt nhỏ thả xuống là giật lên, cá nục và cá bạc má mỗi dây cỡ chừng 8 con, gỡ lâu quá lại réo mấy thằng em: " ra đây mà xem, con gì nó ở dưới kia, nó đưa cái lưng lên trời, ấy là đàn cá", bọn chúng bèn xúm lại, loay hoay với lưỡi và dây và kéo. bọn còn lại thì chuẩn bị nồi và gia vị, những "em" đầu tiên còn đem đi rửa cẩn thận rồi mới vào nồi, những "em" sau thì cứ ở dưới biển lên và một chục con "a lê hấp" ào vào nồi giãy cùng với dây, vả lại cái trò xì xụp mãi thì rồi cũng ngấy đến tận óc o, làm sao mà hết được, hai ngày trời câu, nhìn đống cá mà hết hồn hết vía, làm gi với cái của nợ này bây giờ.

Đúng là trong cái khó mới ló ra cái khôn, lênh đênh từ Việt nam sang đến Hồng Hải mất gần hai tháng rời, rồi còn phải chờ cầu vào trả hàng, ăn nước muối chấm rau hơn mười ngày nay rồi, nhớ nước mắm muốn chết, mà cái thứ "fish sause" cổ truyền ấy người Việt Nam mình làm sao mà quên được. Bọn kia nó nghe mùi là nó nhắm mắt, bịt mũi chạy chứ lúc này mà chúng mình được hít cái mùi " Phan Thiết" "Phú Quốc" một tí, nhỉ? À đúng rồi, lảm nước mắm đi, cá đây, muối đây, thiếu muối thì Order muối, gì chứ muối thì không thiếu. Và điều gì đến là ắt sẽ đến, vài ngày sau, cả tàu đầu tiên là ngửi thấy mùi thoang thoảng, rồi nằng nặng...... rồi mùi nặng hơn, rồi thối hoăng, thuyền trưởng sai mấy thằng đi tìm xem nó là cái gì, được báo cáo :" Nó là mùi nước mắm đang dậy" thì cha chửi ầm lên ( lại chửi), nhưng chợt giật thột, đúng rồi, ăn mãi nước muối làm sao được. Và cho đến khi được nếm thành quả của anh em, lão gật gù: " Ừ, được đấy, có còn hơn không". Đúng là.... Sau cái đận ấy, đám cá nục và cá bạc má nhảy vào FIGO của tàu mà nằm và cả tàu ăn đến sáu tháng sau mới hết. Bây giờ nhìn thấy mấy cái con quái đó vẫn kinh.

Chuyện thứ ba - Cá mập tấn công

Tàu đang lừ lừ chạy trong vùng biển Ả rập, ông Cung già - Máy trưởng buồn tình - lại buồn, bảo : " câu, chúng mày ơi". Nói là làm, ông lôi đồ nghề ra, cha mẹ trời đất quỉ thần thiên địa ông bành tổ ơi..ơi...một cái gì với ba cái móc nhọn hoắt, ôi trời ơi, đúng rồi, cái thứ này đúng là cái móc thịt heo mấy bà ngoài chợ xài hoài đây mà. " Chứ chú câu giống gì đây?" " "Hè hè hè, mi không biết a, ta sẽ cho chú mày biết, đừng có hỏi nhiều". Một đoạn thẻo hơn một thưóc là một cuộn cáp nhỏ,được gia cố thêm ở phía ngoài là những dây thép cuốn tròn xung quanh, khoảng 200m dây nilon bằng cổ tay bọn tôi gắn với đoạn thẻo ấy.

Hãi quá,: " chú định câu Hải Vương à, hay là mời Tiên cá lên tàu cho anh em thỏa sức ngắm nhìn?". Ông lặng lẽ móc một cục thịt heo 1 kg vào ba cái móc rồi ra sau lái cột vào tời neo ...và thả xuống đoạn dài khoảng hơn 100m và ....đi vào buồng uống rượu. Tàu cứ xình xình chạy, biển êm, tới ca ai ngưới đó đi, đi xong vào nghỉ và ra thăm chừng. Chẳng có con mẹ gì. Một tuẩn lễ.... Một thằng em buồn (lại buồn ) lần này là muốn làm thơ ngoài biển chứ không muốn làm thơ trong Toa lét tàu, nó ra sau lái trút nỗi buồn xuống bọn cá (thằng này sáng tác ra thêm một cái khoái nữa ngoài tứ khoái mà ta đã biết) và chợt thấy xa xa có cái gì nhấp nhô cùng với sợi dây. Nó nhìn mãi, nhìn mãi... chả hiểu là cái giống gì và chợt nó rú lên hãi hùng nhưng đầy phấn khích :" Cá mập", ( Chả biết lúc nhìn ra đựoc là cá mập nó có kịp gài cúc quần không nữa) lập tức cả tàu nhốn nháo, gã phó hai lệnh giảm tốc độ tàu. Giời ạ, chạy chừng 9 knots chứ mấy mà giảm với tăng. Bọn tôi lao tới, bác Cung cũng lao tới, bọn không đi ca cũng lao tới và mở mắt thật to.....mắt chữ O mồm chữ Ô, mặt mũi xanh như đít nhái, và ....cùng trố mắt cả loạt với nhau, hệt như chúng ta xem đánh Tennis, cả vạn cái đầu cùng tới lui với trái banh nỉ, quái vật của biển sâu à?. Hai thằng xúm lại quay tời neo, đếch được, nặng quá không thể nào quay được chúng mày ạ. Chợt bác Cung la : " bảo bọn máy cấp điện cho tời neo". Rầm... rầm....o...o...o.... tời neo bắt đầu quay, khoảng cách thu ngắn lại chừng nào thì hình dạng con thú rõ chừng đó.

Đúng là nó rồi chúng mày ơi, con thú bắt đầu chống trả với máy móc của con người, nó lao qua bên này rồi lao qua bên kia với tốc độ khủng khiếp, quyết liệt vô cùng, không lẽ lại thua cái lũ hai chân sao? Và cuối cùng sức máy đã thắng sức thú, nó đã được kéo sát vào đuôi tàu, nhưng bọn tôi cố gắng tránh cho nó va vào chân vịt tàu, khéo lại nát bét ra thì hỏng to. Làm thế nào đưa nó lên đây, cái lỗ để xông dây neo quá nhỏ so với hình dạng của con cá, và.... cẩu của hầm 5 lại được đưa ngang ra, một đoạn dây nối với cáp cẩu được đưa xuống, loay hoay một lúc lũ chúng tôi cũng cột được con quái vật vào cẩu tàu, thận trọng dìu "Em" lên mặt boong, nhẹ nhàng để em xuống, tất cả các " em Hai chân" đều dạt ra xa, chờ đến khi "Em" này ngáp cái cuối cùng mới dám "Hò dô ta" xông vào.

Đến lúc này thì máu, nhớt của con cá mới là khủng khiếp. Nó tanh, thối cả tàu. Con quái vật nằm một đống, uớc chừng dài 13m, khoảng 900kg, cái miệng lởm chởm răng trắng hếu, nhọn hoắt, cả bọn nhìn nó mà sởn da gà, nó mà dậy được nhỉ, một cái đợp của nó thôi ...thì... Bác Cung lạch bạch đi tới : " Mẹ nó, con này thì ăn uống làm sao được, của tao thì để tao". Lập tức con dao trong tay Cụ xén một phát đi cái vây lưng, phát thứ hai vây bên và phát nữa, phát nữa...... con cá đã trụi thui lủi không giống hình dạng là nó từ khi mẹ nó đẻ nó ra nữa thì Cụ ngừng tay. " Chúng mày xẻ nó ra, vứt xuống biển đi, mấy thằng bạn nó đang chờ nó đó". Cụ thu chiến lợi phẩm và đủng đỉnh đi vào buồng, Cụ lại đủng đỉnh leo lên boong cao nhất và ....phơi chiến lợi phẩm. Quan có khác, miệng quan có gang có thép, bọn lính lại phải bơm nước biển lên, rửa tàu gãy lưng mà vẫn còn mùi khai thối. Chả bõ cho "Bọ" cẩu mày lên , giờ phải rửa tàu vì cái mùi của mày, biết vậy "Bọ" câu mấy thằng Nhám như bữa trước cho đã, "Bọ" câu lên rồi thả xuống mà lại hay đấy, nhỉ.

Ôi trời ơi, chuyện câu kéo còn dài lắm mà mình nghĩ thế cũng đủ hầu chuyện được một vài trống canh cho các bạn coi chơi, chuyện câu kéo của dân thủy thủ ấy mà, đâu phải dân chuyên nghiệp nên có gì không phải xin các bác đánh hai chữ Đại xá cho cũng đủ cho đệ đây vui lắm rồi.

1. CÂU CÁ

LỜI GIỚI THIỆU:

Trong quyển "Ngư Ông và Biển Cả" của văn hào Ernest Hemingway, người đọc thấy được sự kiên trì nhẫn nại và quyết tâm cao của nhân vật chính, nhưng vì không lượng sức mình, Ngư Oâng chỉ mang về một bộ xương của một con cá thật to.

Mệ của chúng ta đã mang lại cho ta những bài học quí giá về kiên nhẫn, về quyết tâm cao, nhưng đây là một nhà võ, có tính toán trước sau, trước mọi tình huống đều chọn giải pháp tối thuận và luôn luôn đạt kết quả vượt trội mọi người. Ngoài ra, ít có gia đình, vợ chồng con cái cháu chắc, cùng vui trong một sở thích, cho thấy sự gắn bó đầy hạnh phúc khó mà so sánh được.

Bài này rất daiø và gồm các phần chính sau đây:

1. Câu Ngoài Khơi

2. Câu Trong Bờ

3. Câu Hồ

4. Câu Lội

5. Ân Oán Với Cá.

Chắc trong chúng ta ai cũng biết câu cá, nhưng có thích câu cá hay không lại là một chuyện khác vì yếu tố nhẫn nại. Trẻ con năng động, thích chạy nhảy phá phách, như chơi trốn tìm, hay đá bóng, chứ không mấy đứa thích câu cá vì ngồi một chỗ bất động, có khi hằng giờ chưa thấy phao hay cần câu nhúc nhích.

Thế nhưng hồi nhỏ tôi đã thích đi câu, hay nói một cách chính xác hơn là làm thế nào để bắt được cá. Tôi ở vùng quê, hồi nhỏ đi học phải băng qua cánh đồng ruộng lúa. Về mùa mưa, bắt đầu từ tháng Bảy Ta, đợi khi có trận lụt đầu mùa, tôi thường theo mấy anh tôi mang chơm (nơm) ra đồng ruộng bắt cá, nhiều nhứt là loại cá gáy (chép), đi từng bầy dọc theo dòng nước chảy từ trên thượng nguồn về tới đồng bằng vì nước chảy mạnh. Nhưng khi tới các đồng ruộng, dòng nước bị phân tán và chảy chậm lại vì có đê đập để phân chia các lô ruộng và dẫn nước. Chúng tôi chỉ cần đợi ở một mô đất cao, chẳng hạn như một bơ đê vừa bị nước tràn lấp xấp;nước đến đó chảy chậm lại, bên nay bờ cũng như bên kia bờ, đàn cá cũng bắt buộc ngưng lại, có nhiều loại cá tìm cách lội ngược dòng nước, trong số này có cá gáy, tìm cách cằn hoặc lấy thế nhảy qua bờ, đó là nơi và lúc dễ bắt cá nhứt.. Khi bờ đê bị nước tràn ngập quá rồi, chúng tôi lại tìm chỗ khác.

Đến mùa nắng, nước rút đi hết, nhưng còn một vài vũng nước đọng. Khi đi học về, học trò chúng tôi tụ tập tát nước để bắt cá, phần nhiều là cá rô, cá trê hay cá nhét. Các loại cá này mới có thể sống ở những vũng nước nhỏ này, rất nóng., bằng cách chui dưới bùn suốt mùa khô.

Đám học trò chúng tôi nhiều đứa rất thích câu cá, nhưng hầu hết không đứa nào có khả năng mua sắm những dụng cụ, như chỉ cước và lưỡi câu, nên chúng tôi dùng chỉ gai xe nhỏ và dùng thép đồng (thép màu vàng và mềm) cắt uốn thành lưỡi câu. Còn cần câu thì kiếm đâu cũng dễ, vì nhà nào cũng có những bụi hóp(tre nhỏ) mọc quanh nhà. Chỉ cần lựa những cây thẳng thớm, đem phơi khô, rồi trau chuốt các mắt tre cho nhẳn nhụi, cần nhất là giữ mủi tre cho thon nhọn. Mồi câu cũng dễ kiếm, như tép thì dùng vợt hay rổ rá xúc dọc bờ sông hay hói (nhánh sông nhỏ, hay một sông đào), nếu xúc gặp tôm thì quí lắm, dùng để nấu ăn, it khi dùng để câu cá. Các loại mồi khác như trùn, đào đâu cũng có,cào cào thì bắt ở ruộng. Ngoài ra, còn có những mồi đặc biệt như bạc mày dùng để câu cá phát lát, giáng, để câu cá bông lau, nhái để câu cá tràu (cá quả hay cá lóc), hoặc cơm đâm nhuyển để câu những loại cá nhỏ như cá cấn, cá sơn,....

Với những dụng cụ câu thô sơ như vậy chúng tôi thường rủ nhau đi câu vào dịp nghỉ hè hằng năm, phần nhiều chúng tôi thích đi câu ngoài đồng ruộng, dọc theo những lạch nước đào của nông dân, dùng để dẫn nước vào ruộng, vì khi nào cũng được nhiều cá, nhứt là loại cá rô, và hơn nữa, đây là dịp đi bách bộ thoải mái, không phải ngồi một chỗ như câu ở sông ngòi.

Đến khi lớn lên vào khoảng 14, 15 tuổi, nhằm lúc Đệ II Thế Chiến, Nhật chiếm Đông Dương, các trường học ở Huế đóng cửa, các học sinh bắt buộc phải nghỉ học, là dịp rất tốt để tôi thực hiện sở thích đi câu của tôi. Ở Huế không ai lạ gì về thuyền nan bằng tre, nhọn hai đầu, chỉ bơi bởi một người bằng hai cái chằm nhỏ, dài bằng hai bàn tay. Nếu không phải là người sống ở đò thuyền, lần đầu đi bước lên thuyền con này, thế nào cũng bị bật chìm, nếu bơi thì thuyền sẽ quay vòng tròn. Nhưng tôi đã dùng thuyền này để đi câu một mình, sau một thời gian khổ nhọc tập bơi thuyền.

Hôm nào đi câu, tôi phải dậy sớm từ 5 giờ sáng, mặc dầu đã chuẩn bị từ đêm trước vì còn ăn uống chút đỉnh mới có đủ sức để vác thuyền câu từ nhà ra bến, thời gian cũng mất gần một tiếng đồng hồ; thuyện nặng cở 50kg. Bơi thuyền từ nhà đến cửa Thuận An mất ba giờ rưỡi đồng hồ. Ngồi câu cho tới ba giờ chiều thì bắt đầu trở về, vì đường xa, về tới nhà vừa nhá nhem tối. Ngồi câu có nghĩa là một tay cầm cần câu, tay kia cầm chằm(vợt chèo) di động thế nào để cho thuyền đứng một chỗ và đúng hướng. Hành động này rất khó, phải thực tập lâu mới thuần thục.

Cửa Thuận An là nơi nguồn nước ngọt của sông Hương đổ ra biển. Nơi đây đã xây lên một cái đập bằng đá để ngăn nước mặn khỏi tràn vào sông Hương , chỉ chừa một khoảng ở giũa cho thuyền bè qua lại. Bởi vầy có những mùa nắng hạn hán, nước mặn xâm chiếm nước ngọt sông Hương lên thượng nguồn, tận Bảng Lảng, Hòn Chén, tức là cách cửa Thượng An gần 20 km. Bình thường, đây là nơi giao lưu hai nguồn nước mặn ngọt, có nhiều loại cá sinh sống, nên câu bửa nào cũng có cá. Tuy nhiên, lúc khởi sự ra đi và ngay cả thời gian câu đều phải lưu tâm tới thời tiết vì có khi thời tiết thay đỗi bất thường. Sợ nhất không phải là mưa mà là gió mạnh gây sống lớn, có thể làm đấm thuyền và gió ngược làm cản trở thuyền đi tới. Có những lần tôi trở về nhà muộn vì trở ngại này làm cho cả nhà lo âu.

Khi vào Quân Đội, vì công vụ và trách nhiệm nên tôi không còn rảnh tâm trí và thì giờ để hưởng thú nhàn hạ làm ông Lã Vọng ngồi câu cá, lại thêm có thú vui săn bắn và đam mê mạt chược nên sự ưa thích câu cá cũng giảm bớt đi. Nhưng chuyện bắt cá thỉ có nhiều, như tôi đã dùng lưụ đạn nổ và đạn súng cối 81 ly, loại cở lớn "double capacité"ù để bắn cá ở nguồn suối hay ở sông ngòi. Hoặc tôi đã dùng roi tre để bắt cá tại một con suối tại Cam Ranh. Cá từ trong suối nước ngọt bơi ra, gặp một vũng lớn nước mặn nên ngất ngư, bơi chầm chậm trên mặt nước, chỉ cần dùng cây roi tre đập nhẹ vào đầu cá là có thể bắt được một cách dễ dàng. Những chuyện này tôi đã từng kể rải rác ở các bài viết trước kia của tôi.

Mấy năm đầu đến tị nạn ở Hoa Kỳ này phải vật lộn với chén cơm manh áo, còn đâu nghỉ tới vui thú năm xưa khi còn ở quê nhà. Gia đình chúng tôi lại định cư tại một vùng đồi núi ở tận miền quê của tiểu bang New York. Một hôm , nhằm ngày nghỉ việc của tôi và ngày nghỉ học của các con, chúng tôi lang thang vào rừng kiếm củi để đem về đốt lò sưởi, bổng nhiên bắt gặp một lạch suối rất nhỏ, cha con reo mừng khi nhìn thấy bầy cá trout bông lớn bằng cổ tay đang tung tăng lội dưới dòng suối nước trong vắt. Bấy giờ, tôi mới nhớ lại những chuyện câu cá năm xưa khi còn ở quê nhà. , muốn bắt ít cá về nấu ăn nhưng khốn nỗi không có dụng cụ câu cá.. Ngay chỗ tôi cư trú cũng không có chỗ nào bán dụng cu câu dù lúc đó chúng tôi quá nghèùo, nhưng nếu có, tôi nghĩ rằng tôi xoay sở để mua cho được. Đêm ngủ không yên, tôi liền nghĩ tới système D, bằng cách kiếm khúc thép nhỏ., mài nhọn, rồi lấy con dao thật sắc chắn cái ngạnh; dùng chỉ may áo quần làm dây câu, chặt cành cây nhỏ trong rừng làm cần và miếng nhôm hợp làm chì. Đào trùn làm mồi, lấy miếng vải thưa làm vợt.

Giờ đây, cha con chúng tôi lại kéo nhau xuống suối để câu, chắc mẳm rằng thế nào cũng được một mẽ lớn. Nhưng lạ thay, thấy bầy cá đó, chúng tôi liệng mồi ngay trước mặt, nhưng chẳng con cá nào chịu cắn câu. Cuối cùng đành phải dùng vợt rượt bắt được 5 con. Hôm đó cả nhà, sau mấy năm mới được ăn một bửa cơm với canh chua ngon lành, cá trout chấm miền suối nấu với me đất hái sau vườn. Và chỉ độc nhất chỉ có bửa canh đặc biệt đó thôi. Sau này, muốn có cũng không được., vì đàn cá đã di chuyển đi nơi khác. Chúng tôi tìm kiếm dọc bờ suối cả dậm cũng không thấy, lại thêm bờ suối hẩm khó đi, nên bỏ cuộc từ đó, tiếc thay!

Một hôm, có gia đình người bạn thân từ tiểu bang kế cận Pennsylvania, lái xe cả 8 tiếng đồng hồ đến thăm chúng tôi tại vùng đèo heo hút gió này, tình nghĩa này đã quí, lại còn biếu món quà đặc biệt là hai con cá chép cở lớn bằng bàn tay. Chúng tôi không biết phải cám ơn như thế nào mới phải. Hôm đó, cả nhà được ăn một bửa cá no nê, cá chép hấp măng, thơm(khớm) và bún tàu, lại còn có món cá chép kho nước theo kiểu Huế. Điều làm tôi thèm muốn không phải hai món ăn kia mà là câu chuyện câu cá do người bạn tôi kể lại. Tôi nghĩ, giá tôi được bảo trợ ở một nơi gần biển, sông hồ hay suối lớn để tôi có thể đi câu cá thì sướng biết mấy.

Bốn năm đầu ở miền rừng núi lại được ăn hai bữa cá tươi, kể cũng rất đặc biệt. Tháng 8 năm 1979, gia đình chúng tôi rời bỏ chốn củ vì quá lạnh, về ở Houston, vùng Đông Nam, chỉ cách biển Galveston đúng 30 dậm. Vừa mới chân ướt chân ráo tới nơi, đang lo dọn dẹp và bày biện bàn ghế, giường nệm cho chỗ ở mới trong một chung cư, liền được một người bạn trẻ lại thăm và tặng cho hai con cá rô biển (sheephead) thật là quí hóa.. Hôm đó, cả nhà được ăn món cá nướng với nước mấm pha, vì chưa biết chỗ bán thực phẩm Á Đông để mua mấm nêm ăn với cá nướng mới hợp khẩu.

Khi về Houston, mấy tháng đầu tôi hết sức nôn nóng muốn đi câu cá ở bờ biển Galveston ngay, nhưng tiếc thay tôi đang thất nghiệp, nên tạm thời gác lại, vì phải lo công ăn việc làm trước đã, rồi mới nghĩ tới giải trí sau. Khi xin được công việc, tôi phải làm theo 'ca', bắt đầu 'ca'chiều tư 3 giờ đến 11 giờ đêm, 'ca'ngày từ 7 giờ sáng đến 3 giờ chiều, và 'ca' đêm từ 11 giờ đêm đến 7 giờ sáng. Giờ giấc làm việc khác thường như vậy, không có ngày nghỉ cuối tuần, làm đão lộn cả giờ giấc ăn uống và ngủ nghê. Ban đầu, tôi chưa quen với thời khóa biểu làm việc này, nên chỉ chờ sau ba ca làm việc giáp vòng, có được một lần nghỉ dài hạn là bốn ngày rưỡi, tôi mới đi câu. Đêm đó, sau bảy ngày làm việc thức đêm ai cũng mõi mệt, mong về nhà nghỉ ngơi cho khỏe; riêng tôi lại khác, sáng đó ra về, tôi rất tỉnh táo.

Vừa về đến nhà, tắm rửa xong, chưa kịp ăn sáng, tôi đã vội vã lái xe đi câu ngay vì dụng cụ đi câu tôi đã chuẩn bị từ trước. Đến khi sức khoẻ tôi đã quen với giờ giấc làm việc, tôi thường đi câu vào ca làm việc buổi chiều, vì đêm về nhà lúc 11 giờ, ăn uống tấm rữa xong, lên giường ngủ cũng sau quá nửa đêm. Sáng thức dậy khoảng 7 giờ, sửa soạn và đến địa điểm câu vừa đúng 9 giờ sáng. Tôi câu trong vòng 4 giờ đồng hồ., tức là đến 1 giờ chiều, tôi bắt buộc phải rời chỗ câu, lái xe về đến nhà khoảng 2 giờ chiều, đủ thời gian để đến sở làm ca chiều lúc 3 giờ. Suốt thời gian làm việc ở sở, tôi thường hay đi câu trong thời gian làm việc ca chiều, lo lắng nhứt là khi xe bị hư dọc đường, hay bị trở ngại lưu thông, nhưng may thay, tôi chưa khi nào đến sở trễ. Những hôm không đi câu, tôi thường hay xem những chương trình câu cá chiếu trên TV để quảng cáo dụng cụ câu;thích nhứt là những chương trình câu cá bass ở các hồ lớn, hoặc câu thi ở Vịnh Mễ Tây Cơ. Khi nghe hồi chuông báo hiệu, mọi tàu câu cùng tuôn ra một lượt, hướng về đại dương, như đang tranh dành địa điểm mà họ nghĩ rằng đã ù có cá chờ họ sẵn. Nhưng thật ra, câu được nhiều hay ít, cá lớn hay nhỏ, đều là do may mắn cả. Khoái mắt và hồi hợp nhất là khi thấy họ đang kéo và vật lộn (fight) với những con cá cờ (sailfish) lớn trên hai ba trăm cân. Đây là lối câu của những tay câu chuyên nghiệp hay là thú tiêu khiển của nhà giàu dư tiền thừa bạc. Riêng những chuyện câu tôi sấp kể ra đây là chuyện bình dân, ai đã từng đi câu đều trải qua.

1. Nói theo người bản xứ, theo nghiĩa trắng là đi câu ở biển sâu (deep sea fishing), tức là đi câu xa, ra khơi, cách bờ đến 50 hay 60 dậm. Trong số bạn bè đi câu với tôi cũng có người có tàu loại nhỏ thông thường,15 hay 17 feet dài, chỉ có thể đi câu cách bờ trong vòng dưới 8 dậm thôi. Nếu muốn đi xa bờ hơn, tàu phải dài ít nhất 21 feet. Bởi vậy, chúng tôi rủ nhau đi câu chung với khoảng trên 100 người trên một chiếc tàu lớn do một công ty câu cá tổ chức. Đây là lần đi câu xa đầu tiên của chúng tôi. Giờ rời bến ấn định là 6 giờ sáng, chúng tôi có mặt ở bến tàu lúc 5 giờ, tưởng rằng đang còn sớm nên tà tà uống tách cà phê cho ấm bụng, rồi mới mua vé, vì họ cấm mang thức ăn uống cho khách đi câu. Vừa bước lên tàu, thấy đông nghẹt người, tôi không biết họ đến từ lúc nào. Chúng tôi tìm chỗ đứng câu như có ghi số ở vé, toàn là những chỗ hai bên boong tàu.

Sau khi nhổ neo, tàu khởi hành độ mươi mười lăm phút, mọi người cùng tìm chỗ nghỉ ngơi, hoặc nằm trong boong tàu, hay lên ngồi hóng mát trên boong tàu, vì còn xa mới tới địa điểm câu. Tàu chạy sau 4 giờ đồng hồ đúng, giờ đây Trưởng Tàu mới báo cho mọi người biết đã đến điểm câu, những người đang nghỉ ngơi hay thiu thỉu ngủ bổng chổi dậy, nhưng cũng có kẻ dậy không nỗi vì say sống nên nằm lì một chỗ. Khi mọi người đang chuẩn bị đồ câu cũng là lúc tàu xoay trở cho thuận với dòng nước để neo tàu dừng lại. Đồ câu và mồi do tàu cung cấp, cũng như các công việc khác, như thay cần, thay mồi hay vớt cá do những nhân viên phục dịch dưới tàu đảm trách.

Mọi người bắt đầu câu chừng 10 phút, bổng nghe tiếng cười reo quanh tàu vì đa số đều câu được cá. Tiếng cười to nhất đa số là của quý bà quý cô khi cần có người giúp để mang cá lên tàu. Những người phục dịch trên tàu chạy lạng xăng giúp người này đến người nọ, trông thật vui nhộn. Câu chừng khỏanh khắc, thì được thông báo hãy kéo cần lên, để tàu di chuyển đến địa điểm câu khác. Tàu đỗi chỗ bốn lần như vậy, tính ra tổng cộng có hai giờ câu, mỗi nơi chỉ câu có nửa giờ mà thôi, nghĩa là chỉ đủ thì giờ móc mồi thả xuống và kéo lên ba lần, vì nước quá sâu gần 200 feet giây mới đụng đáy biển là nơi tập trung của loại cá hồng (red snapper) hay cá Mú (grouper). Cần câu loại đầu to(heavy action), dây câu 60 hay 70 lbs, dùng cá mực làm mồi, là loại dai, và dùng cục chì nặng trên 16 ounces để mang mồi xuống tận đáy cho thật nhanh, tính ra thời gian thả mồi từ mặt nước đến đáy chỉ có mấy chục giây, nhưng phần nhiều mồi bị cá' nhỏ chận ăn trước khi chìm tới đáy.

Dây câu cứng, chì nặng, nước sâu, dẫu kéo nỗi một cục chì không cũng mỏi tay rồi, huống hồ là có thêm cá. Bởi vậy, những người thiếu kinh nghiệm đôi khi câu chẳng được con cá nào, hoặc khi câu được, không biết cách kéo cá vào mạn tàu, làm vướng dây câu của những người khác., nhứt là những người đứng cầu hai bên hông tàu, vì dây câu của họ dài ngắn, chì nặng nhẹ khác nhau, nhưng lại nghiêng về một phía do dòng nước tạo nên. Giờ đây, tôi mới hiểu tại sao những khách câu đi sớm là muốn giữ chỗ câu tốt, đó là những chỗ ở đuôi tàu.Vì khi neo tàu đứng tại chỗ, bao giờ mũi tàu cũng ngược với dòng nước. , nghĩa là nước chảy từ mũi ra đuôi tàu;đứng câu ở đây sẽ không bị mắc vướng với những dây câu của người khác.

Chúng tôi đi câu bằng tàu lớn này chỉ ba lần mà thôi, vì những trở ngại như vừa kể ở trên.. Đi câu rồng rả suốt ngày từ sáng đến chiều mà thời gian câu chỉ khoảng 2 giờ đồng hồ, đi về mất 8 giờ và 2 giờ di chuyển và xoay trở tàu ở 4 điểm câu. Bởi vậy kết quả rất ít ỏi. Lần nào may mắn cũng chỉ được chưa đầy mươi con cá Hồng hay cá Mú, mỗi con nặng khoảng từ 3 đến 5 lbs.

Sau đó, chúng tôi đi câu bằng tàu nhỏ hơn, chỉ chở tối đa là 5 người. Tàu có một người lái và một người phục dịch, dỉ nhiên là phí tổn phải trả gấp đôi. Loại tàu này không đi xa, chỉ cách bờ trên 10 dậm, rất tiện lợi cho việc câu cá Thu (Kingfish) vào mùa hè tháng 7 và tháng 8 hằng năm. Những ai đi câu bằng tàu nhỏ này đều rất thích, nhưng tiếc thay chủ những tàu nhỏ này bị hảng tàu câu lớn kiện nên bắt buộc phải ngưng hoạt động.

Giờ đây, chúng tôi xoay sở bằng cách khác. Sáu người chúng tôi tự mướn tàu và lái lấy. Rủi thay, hôm đó gió lớn, sống cao tới 9 feet, theo như tiên đoán thời tiết lẽ ra không nên ra khơi, nhưng vì đã đóng tiền trước rồi nên đành chấp nhận mạo hiễm. Sau mấy giờ đồng hồ vật lộn với sống dữ dằn, chúng tôi mới tới được địa điểm câu. Bỏ neo xuống, nhưng tàu vẫn trôi dạt, chúng tôi phụ nhau vất vả lắm mới neo tàu đứng lại theo như ý muốn. Ai nấy cũng mừng, định sữa soạn đồ câu, nhưng vì tàu tròng trành quá mạnh làm mọi người không ai đứng vững, bổng nghe một tiếng rắc khô khan. Chúng tôi ai nấy đều nhìn về phía đầu tàu, mới hay tàu bị đứt giây neo và đang xoay vòng quanh, vì máy chạy chậm.

Thế là hết một buổi đi câu ngoài khơi chúng tôi đành lái tàu trở về trả lại cho hãng tàu câu cá, ai nấy mệt đừ người, riêng tôi và hai người nữa ói mữa ra mật xanh mật vàng. Và cũng kể từ đó nhóm đi câu chúng tôi 6 người ít khi đi câu chung với nhau một lượt đầy đủ, vì nay dùng thuyền câu nhỏ, chở tối đa 4 người, chỉ đi câu cách bờ chừng 8 dậm trở lại mà thôi, nhưng kết quả lại khả quan hơn, nhứt là câu cá Thu, bửa nào cũng đạt được giới hạn (possession limits) do chính quyền địa phương ấn định hằng năm. Luật lể câu cá rõ ràng lắm và thay đỗi hằng năm, tùy theo số lượng sinh sản của các loại cá. Ai đã từng đi câu đều rõ, khỏi phải nêu ra đây rất dài dòng.

Một hôm, hai cha con chúng tôi cùng với hai người bạn định thuể một chiếc tàu nhỏ đi câu ngoài khơi, có người lái và kẻ phục dịch. Rủi thay, loại tàu nhỏ này bị hãng tàu lớn câu cá kiện, nên ngưng hoạt động bất thần. Chúng tôi đành trở về, lúc đó đã gần trưa, về nhà cũng lỡ dỡ nên chúng tôi dùng thuyền nhỏ của một người bạn để đi câu gỡ. Vì thời tiết hôm đó rất tốt, gió nhẹ, sóng êm. Khi thuyền ra khỏi bờ chừng vài dậm, chưa đến chỗ dự định câu, nhưng thấy một đàn cá nhỏ nhảy lên mặt nước là triệu chứng có cá lớn đang rượt bắt mồi. Chúng tôi cho tàu dừng lại, có người đang neo tàu và cũng có người bắt đầu câu vì sợ đàn cá lớn chạy mất. Tàu chưa đứng ở vị trí mong muốn thì đã bị giật mạnh, nghiêng hẵn về một bên, cần câu của tôi cấm ở mạn thuyền cong vòng vì tôi đang bận neo tàu. Tôi tức tốc chạy lại nắm cần, nhưng nấc không lên khỏi óng cấm cần vì nặng quá, tôi loay hoay mãi. Qua cơn xúc động, tôi chợt nhớ phải làm gì, tôi vội vàng nới khoá máy câu, bổng nghe tiếng kêu rè rè đều đặn, chỉ câu nới ra từ từ. Ai đã từng đi câu khi nghe tiếng kêu này chẳng khác gì như một bài nhạc, đều cảm thấy khoái chí. Giờ đây cần câu trở lại vị trí đứng nghiêng, lấy ra rất dễ. Trong lúc tôi đang thông thả cuốn giây lại thì ba người trên tàu cũng đang trì kéo với cá mắc câu.

Chưa bao giờ tôi gặp cảnh câu cá may mắn như vậy, cá cắn câu 4 người một lúc. Mặt mày ai nấy hớn hở, vừa kéo vừa cười một cách thích thú. Chưa thấy mặt cá nên người nào cũng cho mình đoán đúng là cá gì và cá của mình sẽ lớn hơn cả. Hai người bạn kia thiện nghệ hơn nên kkéo cá vào gần mạn thuyền trước. Đây là cá Mập(shark) mình dài, không có vợt nào vớt ù cá mang lên tàu được. Những người câu cá lớn thường dùng móc sắt hình chữ U để móc cá. Bởi vậy, chúng tôi phải giúp nhau nhưng ai nấy đều bận cầm cần câu của mình đang có cá mắc câu, không ai rảnh tay cả. Tôi bảo con tôi đưa cần câu của nó cho tôi cầm và giúp người đầu tiên đem cá lên. Người kia kéo cá vào gần, cho nằm sát và song song với mạn thuyền, vẫn giữ giây câu, trong lúc con tôi tìm cách nắm chặt đuôi cá. Khi đã sẵn sàng hai người cùng nhấc lên một lượt, phải vất vả và gồng người mới có thể mang được con cá đầu tiên vào trong thuyền. Hai con cá kế tiếp đem lên thuyền cũng không mấy khó khăn vì đã biết cách và có nhiều người rãnh tay giúp nhau. Nhưng đến phiên con cá mắc giây câu của tôi thì lại khó nhọc hơn, vì cá lớn vùng vẫy mạnh, sợ đứt giây câu, nên chỉ có thê mang lên tàu bằng cách nắm đuôi nhấc lên, phải hai người mới làm nỗi.

Bốn con cá đã đem được lên tàu, tưởng đã yên, nhưng không. Chúng nó vùng vẫy rất dữ dội, không những đập thân, vẫy đuôi vào lòng tàu phành phạch, mà còn cắn phá nhũng vật rơi trong tàu và đứt cả giây điện hai bên hong tàu. Nhưng chúng tôi ai nấy vẫn mặc kệ, tiếp tục câu, vì kinh nghiệm cho biết cá chỉ ăn câu trong khoảng thời gian ngắn chừng non một giờ đồng hồ trở lại. Chúng tôi câu thêm bốn con nữa thì đầy tàu, cở cá sàng sàng dài bằng nhau, mỗi con dài trên 5 feet, chỉ riêng con cá của tôi trọng hơn, trên 6 feet. Tám con cá nằm ngổn ngang, vùng vẫy làm cản trở cả lối đi; nếu ai vô ý có thể bị thương vì cá cắn. Chúng tôi đề nghị trở về nhưng anh bạn chủ tàu muốn câu thêm một con nữa.

Trong lúc chờ đợi, tôi mới có dịp quan sát cảnh vật chung quanh, có trên 10 chiếc tàu vây quanh chỗ chúng tôi câu, đàng xa còn có mấy chiếc tàu đang chạy tới nữa. Người nào trên tàu cũng đang vất vả vật lộn với cá đang mắc câu như trường hợp chúng tôi vừa rồi, họ la hét inh ỏi, thỉnh thoảng chen lẫn tiếng reo hò vui mừng của những kẻ bắt được cá, hay những câu chưởi thề của những người bị đứt giây câu hay sẫy cá. Chưa bao giờ tôi chứng kiến một cảnh câu cá vui nhộn như vậy.

Sau đó tôi theo bạn bè câu tàu nhiều lần nữa, được nhiều loại cá khác nhau, nhưng tôi cảm thấy có phần bất tiện vì thiếu tự chủ. Có khi muốn đi sớm hay về muộn cũng không được vì tôi không phải là chủ tàu. Bởi vậy tôi tự động rút lui bằng cách từ chối khéo đôi ba lần mỗi lúc được mời gọi, tự khắc người ta hiểu

Bấy lâu tôi theo bạn bè đi câu bằng tàu, thỉnh thoảng tôi cũng có đi câu trong bờ, nhưng chỉ đi gần, quanh quẩn ở bãi biển Galveston. Nay tôi đi xa hơn, lấy Galveston làm trung tâm, đi dọc theo bờ biển về phía Đông 30 dặm, tới High Island, và đi về phía Tây 40 dặm, tới Freeport, tôi mới khám phá nhiều địa điểm câu rất tốt, một là có cá, hai là có chỗ đậu xe gần, ba là có quán xá bán thức ăn nước uống. Quan trọng nhất là những chỗ có cá, chẳng hạn như Roll Over Pass, hay là San Louis Pass, là những địa điểm có dòng nước giao lưu giữa biển và hồ lớn trong đất liền.

Hằng ngày, những lúc thủy triều lên xuống, cá thường di động qua những chỗ này. Đi câu, ai cũng xem tin tức thời tiết trước, đặc biệt chú ý đến phần thủy triều. Kế đến là các đập đá, như Đập Đá Bắc &Nam(North & South Jetties) ở Boliviar và Đập Đá Bắc & Nam ở Freeport, đây là những đập đá dài ngắn tùy theo cửa biển được xây lên để ngăn sóng, hầu giúp tàu bè dễ dàng cập bến. Nếu là đập dài 5 dặm như Đập Bắc (North Jetty) thì ở khoảng giữa có một đoạn cắt (boat cut) để cho các tàu nhỏ qua lại, khỏi đi vòng.. Đây là nơi sinh sôi nẫy nở của loài hào hến và các loại cá nhỏ, nên các cá lớn thường đến đây tìm mồi.

Ở hai nơi Roll Over Pass và San Louis Pass về mùa hè, thiên hạ cấm lều câu tại chỗ rất đông, có hôm tôi tới đó, phải đậu xe từ đàng xa. Ban đầu, tôi và nhà tôi thường đi câu ở Đập Đá Bắc (North Jetty) vùng Boliviar. Muốn câu cá lớn thì phải đi xa. Từ chỗ đậu xe, còn phải di bộ hai dặm nữa mới tới đoạn cắt (boat cut), nơi có nhiều cá qua lại. Mặt đường lởm chởm rất khó đi, vì đập được đấp(chứ không phải tráng ximăng) bởi những tảng đá lớn hình khối vuông hay chữ nhật, mỗi bề mặt ít nhứt 4 hay 5 feet trở lên, không đồng đều, chồng lên nhau. Khi đi đã khó, khi về lại càng khó hơn nếu câu được nhiều cá, mang nặng. Có hôm chúng tôi câu được trên ba chục con cá, vừa rô biển vừa drum, mỗi con trung bình từ 3 tới 4 lbs, không làm sao mang nỗi, đành phải vất bớt.

Tuy trở ngại như vây, nhưng có nhiều hôm tôi mang một mình theo đèn và bao ngủ ra tới đoạn cắt, ở lại câu qua đêm. Có hôm tôi bị vấp ngã, tay chân bị trầy trụa và vỡ cả cây đèn gió. Nhưng nguy hiễm nhất là hôm bị trận mưa to gió lớn bất thần, sóng rất mạnh, đánh tạt nước qua bờ đê, tôi bị ướt như chuột lột.. Lạnh thấu xương nhưng phải gồng mình chịu trận không cách gì đi vào bờ được vì gió mạnh và mặt đường quá trơn. May thay, tôi không bị bỏ xác cho cá ăn.

Sau đó, chúng tôi câu ở San Louis Pass, cách Galveston đúng 20 dặm về phía Tây, lái xe đậu ngay bãi cát sát bờ biển. Còn gì thích thú cho bằng, liệng mồi ra xa, rồi cấm cần ở nơi các óng nước bằng nhựa bắt nơi đòn cản trước mũi xe. Xong vào ngồi trong xe, vừa đọc báo, vừa nhâm nhi cà phê và vừa liiếc mắt trông chừng mấy cần câu. Đây là chỗ tôi câu được nhiều cá lớn nhất.

Nhiều loại cá hiếm được bảo vệ bằng những luật lệ địa phương hết sức rắc rối qui định về cở to lớn và số lượng nhiều ít. Luật lệ thay đỗi hằng năm tùy theo sự sinh sản của từng loại cá. Cá Red Drum hay là Red Fish, đặc biệt có chấm đen ở đuôi, nên người mình gọi là cá chấm đuôi, là loại cá quí nhứt của tiểu bang Texas, mỗi người mỗi lần chỉ được câu một con, và mỗi ngày tối đa 2 con thôi. Ví dụ như câu được 2 con, xách về cùng một lượt, tự cho rằng ngày này mình không câu nữa, đủ số lượng rồi, nếu gặp cảnh sát hay nhân viên tuần câu mình cũng bị phạt, vi phạm luật. Nếu một ngày muốn được 2 con thì khi câu được con thứ nhứt phải mang vào cất đã, rôi mới câu tiếp con thứ hai mang về sau. Cở cá được phép mang về là từ 18 đến 28 inches; dưới 18" hay trên 28" phải bỏ trở lại xuống biển, để cá tăng trưởng hay sinh nở. Còn rất nhiều luật lệ khác lạ nữa, rắc rối là vậy đó. (Nhiều lắm, xin khỏi kể ra đây) . Bởi vậy, khi đi câu, rất nhiều người mang máy ảnh theo, phòng khi câu được cá lớn quá cỡ(oversize, người đi câu ở đây gọi là "bull", có ý nói to lớn như bò mộng)tự mình ôm cá, nhờ ngưới khác chụp hình, rồi bỏ cá trở lại xuống biển Chính tôi nhiều lần câu được loại cá quí này, lớn dài tới 42", cũng làm như họ, tiếc ơi là tiếc, nhưng không thể làm khác hơn được. Vì khi câu có nhiều người, nếu ai có ý vi phạm, lén lút mang cá về nhà không đúng cở, sẽ bị cảnh sát chận bắt ngay dọc đường vì có người tố cáo, nhứt là lúc này có nhiều điện thoại cầm tay.

Có hôm tôi đi câu với một người bạn, tôi câu được 5 con cá Cam (Amberjack), mỗi con trung bình 40lbs. Cũng có nhiều người khác câu được nhiều cá hơn tôi, sở dĩ bạn tôi cũng như nhiều người khác không câu được vì dụng cụ của họ không thích hợp, cần ngắn dưới 10 feet, liệng không tới nơi, không đúng chỗ, chỉ câu nhỏ dưới 17lbs, bị đứt. Cần của chúng tôi từ 12 tới 15 feet, chỉ câu trên 30lbs. Trong lúc chúng tôi hớn hở kéo cá vào bờ lia lịa thì những người không câu được, bất động đứng nhìn với vẻ mặt đáng tiếc. Vì cá lớn, những thùng đựng thông thường không thể chứa hết, nên tôi đã nhờ bạn tôi cùng phụ một tay, xách từng con một bỏ vào sau thùng xe.

Một lần khác, tôi và nhà tôi cùng câu tại nơi đây được 16 con cá mập (shark) trong vòng một giờ đồng hồ vào buổi chiều, trong lúc nhiều người khác chỉ câu được cá đuối (Ray) vì cùng trở ngại như bạn tôi lần trước, cần nhỏ, chỉ yếu. Có khi cá lớn mắc câu hai cần một lượt, nhà tôi kéo không nỗi, chỉ ôm cần chịu trận vì tôi bận kéo cần của tôi. May thay, đứng ở bờ vững vàng, cần tốt, chỉ mạnh, nên tôi mới có thể lôi cá vào bờ nhanh. Tôi lôi thẳng cá lên bờ, không cần phải dùng vợt hay móc sắt gì hết. Để tại chỗ, không kịp tháo lưỡi câu vì tôi còn phải kéo cá đang mắc câu ở cần nhà tôi đang cầm. Nếu chậm sẽ vướng dây câu của người khác.

Hết giờ cá cắn câu, tôi và nhà tôi gom cá lại để một đống, con nào con nấy to bằng nhau, 5 feet dài. Tôi nhìn sửng đống cá, cười thỏa mản vì tôi chưa khi nào câu được mớ cá lớn như hôm nay, trong lúc đó có nhiều người lại xem và bàn tán. Trong số này có một ông Mỹ đề nghị với nhà tôi để ông làm cá (clean) và chia phần cho ông một ít và nhứt là cho ông một con shark nguyên vẹn để ông đem về nhà, vì ông không câu được con shark nào trong ba ngày qua ông cấm trại tại đây. Oâng ở tận Midland cách 500 dặm đường xa. Khi nghe nhà tôi nói lại, tôi hết sức mừng, vì chính tôi cũng đang phân vân không biết phải giải quyết làm sao với 15 con cá này. Ngay ngày hôm trước tôi đã câu được 5 con như thế này. Khi mang về nhà, tôi phải vất vả đem đi cho. Có người không nhận, cho rằng thịt cá mập tanh, hoặc giả cá mập ăn thịt người, ghê tởm. Vì họ không biết cách nấu. Người sành, ăn cả da, cả gan, bằng cách hấp rau răm. Người thường bỏ da, bỏ gan, nấu canh chua ăn rất ngon.

Ngoài cá mập ra, trong tủ đá của tôi còn nhiều loại cá khác, nay mang thêm về, quá thừa, lại còn tốn công đi cho, nên chúng tôi đồng ý cho ông Mỹ kia tất cả số cá. Oâng ta tròn xoe cặp mắt và cứ lập đi lập lại "really!really" với vẻ ngạc nhiên. Chúng tôi thì "Yes!Yes!" với điệu bộ tự hào. Oâng Mỹ này cũng lịch sự, giúp chúng tôi dọn dẹp đồ đạc khi ra về. Trên đường về, vợ chồng chúng tôi rất hân hoan vì nghĩ tới chuyện vừa qua, không ngững là một hành động đẹp mà còn trút được gánh nặng. Khi về tới nhà có thể tấm rửa ngay, khỏi vất vả làm cá dơ dái như mọi khi.

Câu cá Đối không dùng lưỡi

Mỗi khi nói đến câu cá Đối, các bạn câu đều nghĩ ngay đến một cần thủ lớn tuổi, nhiều kinh nghiệm câu kéo, có dư thời giờ rảnh rổi chịu ngồi rình cả ngày để bắt cho được mấy con cá Đối Rằng, cá Đối Cồi bằng cần Trúc thật dịu, dây câu thật mảnh, mồi là khoai Lang nướng nhồi với ruột bánh mì vo vào lưỡi câu đơn. Khi giật được cá mấy cần thủ già lấy cá một cách điệu nghệ, dìu cá chạy, uốn qua éo lại, rồi lạng lách, còn hơn mấy cậu Quý tử đua xe ! Mấy người qua đường đứng lại xem cũng thấy phê ! Trước đây câu cá Đối không phải là dễ, nên người câu đếm trên đầu ngón tay..! Không phổ biến, đại trà như câu chuyện tôi kể cho các bạn nghe dưới đây !

Lẽ ra, được Sư phụ truyền bí kíp, phải theo Sư phụ tập câu vài lần, đằng nầy tôi chỉ được học lý thuyết.! Sư phụ tôi công tác ở xa nên tôi không có cơ hội câu chung, để được Sư phụ hứơng dẫn nơi "Câu trường"..!

Một buổi sáng giao mùa, tôi vác cần đi thực tập câu cá Đối không dùng lưỡi. Môn nầy mới quá, chưa biết câu kéo ra làm sao Kết quả thế nào ? nên đi một mình không dám rủ ai ! Địa điểm chọn câu, dưới chân một cây cầu nhỏ, nối liền hai Thôn Phước Trạch và Phước Hải, nằm ven Cửa Đại. Nơi đây còn là bến ghe, những lúc báo bão hoặc biển động ghe tàu vào đậu kín bến sông.

Tôi khoá xe cẩn thận, nhìn đồng hồ 10giờ 30. Nước dưới sông đang bắt đầu chảy cạn, vài chiếc lá khô trôi lờ đờ. Mấy em Học sinh đi học về tò mò đứng lại xem, hai anh ngư dân thấy đám đông cũng tới tham gia, dưới cái nắng chói chang, đầu anh ta không đội nón, thân hình cao to, da đen thui như cột nhà cháy bướt tới gần, đôi mắt chằm chằm nhìn những động tác của tôi như dò xét...! Một anh hỏi :

- Câu thứ chi mà lạ rứa ?

- Dạ câu cá Đối .

Trước những con mắt như soi mói, tay tôi thao tác hơi lóng cóng, vả lại lần đầu chưa được quen tay cho lắm.Tôi múc bột đỗ vô bình khuấy đều rồi buông câu. Tay cầm cần tì vào đầu gối, căng cước đợi chờ..Gió phía biển thổi vào nhè nhẹ, mấy con cá Kìm rượt đuổi nhau trên mặt nước, làm xao động cả một vùng... Đã 3 phút trôi qua, chưa thấy động tỉnh gì ? Tôi kéo bình lên để thay bột mới, không quên lời dặn của Sư phụ, bụm miệng bình rung rung mớ bột củ, tạc xuống sông..! Một anh ngư dân đứng gần bên tôi cười diễu cợt rồi cường điệu :

- Chú câu được một con cá Đối thì để trên lưng tôi mà nướng !

Thú thật, lúc đó tôi không mấy tự tin nên không trả lời, định bụng:

- Câu một vài bình nữa không được, phải biến khỏi chổ nầy.!

Đầu óc đang mông lung, bổng đầu cần rung rung, tôi mạnh tay kéo cần lên. Một em cá Đối đầu tiên, ló khúc đuôi màu bạc ra khỏi miệng bình, ve vẩy dưới ánh nắng ban trưa rực rở..! Tôi mừng qúa gần như mất bình tỉnh, tay khuấy bột thấy run run..! Vừa thả câu chỉ 30 giây sau đầu cần lại rung lên, lần nầy không phải 1 mà 2 con...Mấy cháu Học sinh đứng sau lưng tôi ồ lên một tiếng..! Tôi hiểu ra rồi lời Sư phụ, bây giờ đàn cá đánh hơi mùi bột mì đang bu tới.

Tôi lại buông câu, trong lòng phơi phới quên đi cái nắng còn oi bức cuối Hè, thầm cám ơn Sư phụ và quên khuấy lời cường điệu của anh ngư dân kia....10 con rồi 11 lúc nầy cá ăn dày hơn, tôi thấy tự tin. Động tác mỗi lúc một nhanh, khuấy khuấy, thả thả, kéo kéo, nhịp nhàng như một vũ công. Cứ mỗi lần kéo cá lên mấy cháu Học sinh lại ồ..! Làm tăng thêm tính hiêú kỳ của những người qua đường. Đám đông vây quanh phía sau lưng tôi, mỗi lúc một đông.. Tiếng còi xe xin đường vang lên inh ỏi. Tôi thấy tôi như một người "Hùng"....!!

Đúng 12 giờ, bột mì trong bao còn vài muỗng, sắp phải chia tay với cuộc chơi, đi lần đầu nên tôi không chuẩn bị chu đáo, nhưng dẫu sao một sự khởi đầu tốt đẹp. Tôi đứng lên loay hoay với bịch cá trên dưới 40 con

nặng trịch,con lớn nhất bằng tay cầm xe máy. Đám đông giờ nầy đã vãng, chỉ còn dăm ba người đứng đó bàn tán xì xào. Tôi nổ máy xe, quay lại nhìn chổ câu nuối tiếc và thầm nhủ "Hãy đợi đấy"..!

Trên đường về nhà lòng vui như mở hội, một sự may mắn đến bất ngờ, không nghỉ mình câu giỏi, tôi như đứa trẻ được quà, rú ga chạy nhanh, kịp về khoe với vợ.... May qúa vợ tôi đang ở nhà, tôi hí hửng cầm bịch cá chạy vào, xem xong vợ tôi cười và thản nhiên hỏi :

- Anh mua chừng đó cá Đối bao nhiêu tiền ?

Quả như tôi dự đoán ! Con đường câu kéo của tôi sao nhiều trắc trở ! Tôi xịu xuống trả lời :

- Anh câu hồi 10 giờ tới chừ..!

Vợ tôi vui tính :

- Anh nói đùa hay anh nói chơi đó.! Sống với nhau mấy mươi năm rồi, em có thấy anh câu cá Đối khi nào đâu ?

Chưa kịp trả lời, vợ tôi bồi thêm !

- Câu sao nhiều dữ rứa ?

Đúng ! Mấy mươi năm nay, may mắn lắm tôi mới câu được vài con cá Đối ăn mồi tôm lột, dạng ăn theo, lúc tôi câu cá Dìa ở cảng Chân Mây.! Tôi nghĩ mấy con cá Đối đó mắt bị mù, nếu không thì trên trán có khắc hai chử "Chán sống"...! Phải nói chưa lần nào tôi câu được nhiều cá Đối như vậy.!

Tôi ra xe lấy mớ đồ câu lỉnh kỉnh của tôi vào, nào bình, nào bột , thanh minh thanh nga vợ tôi mới chịu tin..! Hai hôm sau tôi trở lại cầu Phước Hải, quá bất ngờ với quang cảnh hiện ra trước mắt tôi.! Hai bên cầu khoãng mười cây cần lớn nhỏ của mấy Nhóc (tôi nghĩ mấy Nhóc nầy từng chứng kiến tôi câu hôm ấy)cũng bột cũng bình, dưới sông mấy ông ngư dân neo ghe, câu theo kiểu "2 không" Không cần, không lưỡi. Cầm dây câu trực tiếp trên tay, cá vào phăng nhanh !!

Nhìn vào Rộng cá, tôi thấy Nhóc nào cũng được vài ba con,tôi hỏi:

- Cá ăn sây không mấy cháu ?

Một Nhóc nhanh nhẩu trả lời :

- Hôm qua ăn nhiều hơn cháu được 15 con, rồi nói như kể lể :

- Trưa hôm đó thấy Chú câu, chiều đi học về cháu làm đồ nghề tới tối, ức như cá ức nước nên không chờ tới sáng được, cháu ra ngồi câu dưới bóng đèn đường rọi xuống sông, cá cũng ăn.! Sao Chú không câu đêm..?!

- À.! Thì ra bầy trẻ đang dạy ngược lại tôi bài câu đêm..! "Con cháu chúng ta giỏi thật !"

- Đứng nhìn bọn nhỏ câu một lác, tôi lắc đầu bỏ đi ! Pótay.com.!

Đi được một quãng tôi nghe có tiếng nói với theo :

- Lại đây câu cho vui Chú ơi !

- Câu cho vui... ! Gần đúng với tiêu chí "Câu cho vui đời" của bọn Chú, mà vui đời sao được khi phải chen lấn với mấy cháu!

Tiếng cười nói xa dần, tôi đi về hướng Cửa Đại, tìm địa chỉ mới..!

Cá Đối có nhiều loại, to nhỏ đều có tên gọi khác nhau, nhỏ nhất gọi cá Đối Kến, riêng cá Đối tôi muốn nói đến đây, ngư dân gọi cá Đối đất. Sinh sống ở những vùng nước lợ, xà hai. Đi ăn từng đàn, sát đáy sông, thường tập trung ở các bến ghe, hai bên bờ sông, trước và sau cống xã nước đê ngăn mặn. Cá Đối đất lớn nhất cở 200gram trở lại, nếu lớn hơn có tên gọi khác... Cá Đối Rằng, lớn hơn nữa cá Đối Cồi..! Cá Đối ăn nhiều loại mồi khác nhau. Khoai lang luộc trộn với bột mì hoặc ruột bánh mì, theo tỷ lệ 5/5. Vo vào lưỡi đơn, cần dịu, cước mảnh, câu ban ngày. Thịt Cua rẽ, tôm lột...Theo tôi nghỉ chủ lực là Meo. Có cùng họ với Rong, màu xanh, dài tối đa khoãng 2cm. Mọc trên các bờ đá, cây mục nằm lâu ngày dưới nước. Lúc nước sông trong tôi đã từng mục kích cá Đối ăn Meo sát đáy sông. Ngoài những loại mồi trên cá Đối còn ăn bột mì sống với cách câu không dùng lưỡi câu..!

Cho đến bây giờ tôi cũng không biết kiểu câu cá Đối nầy phát xuất từ đâu. Ai đó nói từ Trung Quốc, có bạn nói từ Đài Loan, tôi chưa hiểu thật hư ra sao ? Tôi học cách câu nầy từ môt người bạn lớn tuổi hơn tôi, khi bạn tôi truyền xong bí kíp, tôi phong làm Sư phụ..! Cần câu cá Đối dài cở 4m đến 4m5, cần to như cần câu cá Dìa, ngọn cần khoẻ, chịu lực, đủ để kéo lên một bình nước, một hoặc hai con cá Đối, cọng với lực cản của nước. Gặp lúc cá ăn dày, tranh ăn, rúc vào bình 2 hoặc 3 con, khi kéo lên khỏi mặt nước, thường thì con nằm ngoài nhảy ra.

Độ dài dây câu ngắn hơn cần câu 20cm, cột từ ngọn cần đến miệng bình bằng cước 0,5 mm. Bình là một loại vỏ chai bằng thuỷ tinh hoặc bằng nhựa, đường kính bình 0,3 đến 0,4cm dùng cho cá nhỏ, 0,5 đến 0,6 cm dùng cho cá lớn. Chiều dài bình từ12cm đến 20cm .

Múc vào bình ½ lượng nước nơi câu, dùng muỗng cà phê có cán dài đỗ vào đó 1 muỗng bột mì (loại bột làm bánh mì) khuấy đều. Bạn có thể bắt đầu câu cá Đối không cần lưỡi câu..!

Câu cá Đối luôn ở tư thế ngồi, tay cầm cần tì lên đầu gối ( cần câu cá Đối hơi bị nặng nên ở thế khác câu không được lâu) tạo thế cho cước căng, để khi cá rúc vào bình, đầu cần rung lên, nhận đươc cảm giác đó bạn dở cá. Nếu cần rung , bạn dở nhiều lần không được cá .! Bạn nên thay bình lớn vào để câu cá lớn, thường cá lớn vào bình nhỏ không được, ủi bình , tạo cảm giác như cá rúc vào..! Ngoài bình chế ra các bạn câu còn dùng bình tương ớt, cắt bỏ sát đáy, dùng que sắt nóng chích một lổ để cột đây câu, loại bình nầy chỉ dùng để câu cá nhỏ.

Tỷ trọng của nhựa nhẹ hơn nước, bạn phải kẹp vào bình một miếng chì lá khoảng 50gr. Cách kẹp tuỳ theo ý thích của mỗi bạn, miễn sao đủ nặng để bình chìm nhanh, khi chìm xuống đáy sông bình nằm ngang, không ảnh hưởng đến năng xuất.!

Khi cách câu cá Đối nầy phổ biến rộng khắp, những bạn câu có nhiều sáng kiến, rồi câu theo cách riêng của mình. Có bạn câu theo kiểu "2không" kiểu nầy phải dùng ghe hoặc thuê ghe. Mấy bạn ngồi trên bờ dùng phao như câu cá chép và giá đở cần,chống mỏi tay, có bạn rang một ít bột mì cho thơm, trộn chung với bột sống,hay gia cố thêm bột Vani loại bột thơm dùng làm bánh. Nhìn chung tất cả những cách trên đều có hiệu quả ngang nhau..! Theo tôi nghĩ cá Đối ghiền mùi bột Mì là chính. Tôi đã từng làm Trọng tài cho một cặp thi đấu..! Kết quả bạn xài bột "Rin" thắng..!

Hết đầm, ta lại ra ao

Sau chuyến đi đầm với kết quả cầu thủ Lure toả sáng, tường thuật trận đấu chi tiết như các bạn đã biết. Về tới nhà, tôi thư giãn nghỉ ngơi. Đang uống trà đá có bọt, anh bạn câu gần nhà gọi điện hỏi thăm. Qua lại vài câu, "Thôi, anh chạy qua nhà em nói dóc chơi". Vài phút sau anh bạn đã có mặt, tán dóc hỏi han, bàn chuyện câu kéo. "Àh, nói nè, có ao gần chỗ mình, dạo này cũng ít người câu, anh mới đi tuần trước lượm được hai con lóc cũng khá khá tới 7-8 lạng", bạn câu nói. Tôi hí hửng, "Rồi, kết hàng rồi nha, món "dê" em ít xài nhưng cũng mê và khoái nó lắm. Cũng có hội "dê" hay tổ chức ăn chơi nhưng mỗi tội hay đi xa quá, em lười. Em ưu tiên đầm hơn!". Tôi rủ liền "Mai đi coi thử sao nha". "Ô văn kê luôn", bạn câu đáp.

Chiều ngày hôm sau, ghé vài chỗ kiếm chục nhái mà đi đâu cũng hết. Hơi buồn, thôi cứ chạy thẳng ra ao hẳn tính, trên đường vẫn còn một tiệm đồ câu. Chỗ có nhái, hy vọng cuối cùng, may quá, vẫn còn, lượm đúng 1 chục hai anh em xài mệt rồi. Chủ yếu là ra coi cái mặt mũi ao gần nhà mình xem sao thôi mà.

Tới nơi rồi! "Chỗ này lúc trước mấy tay nhà điện hoạt động dữ lắm nhưng giờ hết rồi! Với lại nước đã lên nhiều, hoạt động cũng khó", bạn câu nói. Với địa hình và địa thế như dzầy, nhũng tay rê không bị quyến rũ, mê hoặc mới lạ. Địa điểm quá tuyệt cho những đường rê, vấn đề có cá mà câu không thôi!

Hai anh em tranh thủ ra cần, móc nhái, tìm chỗ, bắt đầu rê. Đã hơn hai tiếng đồng hồ trôi qua, tôi cứ quăng ra, kéo chậm, kéo nhanh, nhóng cần, nhái đi đẹp như đang tung tăng trên bám bèo, vuợt qua đám rau muống, đủ các đường rê, mỏi tay rồi mà hổng thấy được cú táp nào. Bên góc xa kia, bạn câu đã có tín hiệu vui, nhái đã bị bắt cóc tới hai lần nhưng cả hai lần đều bong cả hai. Ô hô, tiếc quá, thằng câu dở nên cá không thèm chơi đã đành, thằng được cá chơi lại không đem về làm bạn được, có nghĩ là còn dở hơn nữa, phải không nhỉ?

Trời cũng đã nhá nhem sập tối, làm them vài chục đường nữa mà cũng chẳng có kết quả gì. Đi về thôi, điểm đẹp với đường nước ngon như dzầy, chắn chắn phải ghé lại thôi. Chỗ này coi như là ao nhà mà!

Hai tuần đã trôi qua, tuần này tôi mắc việc không nhảy đầm được vả lại nước kém nên không hào hứng lắm. Nhưng nghỉ ở nhà thì tay chân nó cứ sao sao ấy, sáng sớm mình làm khoảng 2 tiếng rồi về cũng ổn mừh, tôi thầm nghĩ. Trong tuần, gọi anh bạn câu rủ rê luôn. Như đã hẹn, sáng nay Thứ Bảy, 9/7/2011, năm giờ rưỡi, hai tay mê câu lên đường ra ao nhà.

6h đã tới nơi, trời đã sáng hẳn, lẽ ra nên sớm hơn xíu nữa có lẽ ngon hơn, tôi tự tưởng tượng. Lại ra cần, móc nhái, quăng đủ kiểu, đủ đường câu, gần 1 tiếng đồng hồ trôi qua, chẳng thấy tăm hơi bọn lóc đâu. Nghỉ tay, hút điếu thuốc cho thơm râu đã.

Chuyện ngày xưa .

Hồi đó , sức dài vai rộng nên lúc nào cũng thấy đói .

Đói kinh niên .

Về nhà tranh thủ thì thôi rồi ... như năm 1945 . Gắp, và cơm, chan canh, húp xoàn xoạt ...

Ăn cả cháy và " cào " nồi cơm với những âm thanh rất " nhiệt tình " .

Ăn xong , vẫn đói ... tiện tay làm cái bánh mỳ với nước chấm và canh . Tạm no ...

Cầm cái tăm xỉa lia lịa .

Mãn nguyện trước sự ngạc nhiên của cả nhà .

Bà già chu đáo đi pha thêm cốc sữa .

Nghĩ lại thấy mình lúc đó thèm ăn cực .

***

Bây giờ " dừ " rồi . Ăn được hai chén cơm với chút rau và thịt cá ... thấy óc ách trong bụng .

Ăn ít thôi . Ăn lắm mả cũng không to hơn được .

***

Nhớ lại , hồi ở trường VHQĐ Lạng Sơn bọn mình chuyên đi câu cá trộm . Sau lưng nhà là ao . Đủ lớn và cũng đủ cá cho lũ câu trộm bọn mình .

Ban ngày không ốm thì đi học . Nhưng đêm đến là tiếng cá quẫy . Nó quẫy như mời mọc những cái bụng rỗng .

Bọn vệ binh đi lại suốt đêm để canh gác trường học .

Thằng em K9 kể : Ngồi trong màn còn giương cái cần câu vào ao cá . Câu được con nào lấy cái đũa xiên từ miệng tới đuôi và lấy sách vở của bạn ra nướng . Quá tươi . Bóc cá ăn luôn trong màn rồi lại câu tiếp . No thì ngủ .

Như thời nguyên thủy nhỉ .

Mà cái bọn cá nó cũng đói . Thả câu , mồi gì nó cũng chén . Cắm một cái cần câu với mồi ất ơ . Sáng ra thấy chú trê vàng óng . Như vậy cầm lòng sao được .

Không như bây giờ , thả thính và mồi rồi ngồi đến ngủ gật cũng chỉ có bọn đòng đong cân cấn đến phá mồi . Cả ngày , sát cá lắm cũng chỉ câu được mấy con bằng ngón tay .

Cá bây giờ hình như không thèm ăn (?) .

***

Câu mãi rồi cũng chán .

Rồi Lâm già ( bạn trong nhóm ) chuyển sang đánh ba tiêu . Ra hẳn chợ Kỳ Lừa mua dụng cụ .

Hôm đó cả trường đi xem phim . Bọn mình thấy giải quyết cái dạ dày hơn xem phim nên ngồi xem một lúc là bỏ về . Lâm già đánh ba tiêu rất hay . Mấy phút đã dính một con mà Lâm già phải dòng dòng mất 30 phút . Khi kéo vào bờ mình cũng phát hoảng vì con cá mè to quá . Cũng phải 4 kgs . Mình nhảy xuống phụ với Lâm già hất nó lên bờ .

Hôm sau , phân công một chú em K9 ra chợ mua thìa là , cà chua , hành , khế ... về nấu canh đầu cá . Một chú em K9 khác xuống bếp nịnh chị nuôi xin bát mỡ . Nấu nướng ở đằng sau bếp cời than .

Thế mà thành một bữa quá thịnh soạn . Anh em ăn , chan , húp ... hết lúc nào không hay .

***

Có những hôm không ngủ . Dưới ánh đèn điện bọn mình lấy giấy bạc trong bao thuốc lá bọc lên cái phao . Cá cắn nhiều phết.

Hôm sau lại đi chợ mua gia vị và nịnh xin mỡ của chị nuôi ...

***

Những ngày xưa thân ái đâu rồi .

Ngôi trường đó đã bị chia năm xẻ bảy để làm nhà cho những sỹ quan của tỉnh đội và công an biên phòng .

Nếu bạn đến thăm , tất cả đã khác xưa .

Trường VHQĐ LS chỉ còn lại một dãy tường thành ở cửa Nam với một khẩu súng thần công lẻ loi . Cái ao đã bị vùi lấp và cũng vùi lấp tất cả những kỷ niệm của chúng mình .

Bây giờ , mỗi khi nhớ đến ngôi trường ấy . Nó chỉ còn là một phế tích đơn côi .

Cơm lính Đại học kỹ thuật quân sự .

Tiếng kẻng báo hết tiết học cuối cùng buổi sáng vang lên như loạt pháo bắn mừng đại lễ .

Tất cả các học viên cùng đứng lên chào thầy theo câu lệnh của lớp trưởng và thứ tự rời lớp ra sân ngay ngắn xếp hàng đi về nhà .

- Giải tán ! Lớp trưởng hô .

Câu lệnh vừa vang lên thì mình thấy tái hiện lại cái cảnh " chợ vỡ " . Tiếng gọi nhau í ới nhờ mang hộ sách vở hay bát đũa , thức ăn thêm ... của hàng trăm con người cùng một lúc . Một số tên còn tranh thủ mang cầu ra đá để " giết " thời gian trong khoảng 15 phút .

Sau tiếng còi vang lên là câu lệnh :

- Tập hợp !

Tất cả mọi người nhanh chóng chạy tới đội ngũ của lớp mình . Vài tên lấy đũa gõ vào bát liên hồi như thúc giục mấy kẻ chậm chân .

Chúng chạy như ma đuổi trong ánh mắt sốt ruột của những cái bụng rỗng .

Cuối cùng ( nghĩa là rất nhanh ) hàng ngũ đã chỉnh tề đợi lệnh .

- Bước đều ... bước ! Lớp trưởng hô .

Tất cả cùng đều bước tiến về phía nhà ăn và đồng thanh hát một bài hát quy định ( mình không nhớ tên nhưng bài hát đó có nhịp 2/4 ) . Khi tới nơi mà hát chưa xong thì ... cố gắng mà hát cho hết bài và chân vẫn phải dậm tại chỗ nhé . He he .

Theo quy định thì mỗi mâm cơm là 6 người không phân biệt cao thấp , lớn nhỏ hay yếu mạnh ...

Cứ đủ một hàng 6 tên thì vào mà ăn thôi . Đại khái thế .

Tuy nhiên , có nhập cuộc thì mới thấy . Lắm kẻ ăn rất " hỗn " - theo cách gọi của các cụ . Tiêu chuẩn mỗi mâm có lưng 1 nồi cơm ( có thể nát , khê , sống hay chín ... Sau này còn có độn ngô , khoai , sắn , bo bo ... ) . Nếu đong ra cũng được khoảng mười mấy bát B52 (*) , cái đĩa đựng thức ăn là cái vung nồi cơm có 4 ngăn . 2 ngăn đựng rau , 1 ngăn có 6 miếng đậu hoặc cá , ngăn còn lại đựng nước chấm . Hôm nào sang thì có thịt thay cho đậu , cá ... nhưng đã được thái mỏng tang .

Nói thêm chút : Mà kỳ lạ là bọn " nghệ nhân " này nó thái miếng nào cũng y như miếng nào , hay là bọn nó xếp 1 mâm 6 miếng giống hệt nhau ? Tài !

Anh em lạ nước lạ cái nên ăn uống rất e dè . Gắp rau , nhai cơm nhẹ nhàng và thỉnh thoảng ngắm nhìn miếng thịt xinh xinh của mình . Rồi tưởng tượng ...

Nhưng cái thằng " hỗn hào " thì không như vậy . Ngay từ đầu nó đã " tả " ngay miếng thịt xinh xinh của nó . Anh em nhìn nhau thấy lạ . Người ta nói : Hết nạc vạc đến xương . Thế mà ...

Chưa hết ngơ ngác , chỉ trong nháy mắt 2 miếng thịt xinh xinh của anh em cũng " dính " theo đôi đũa của nó . Ái chà ! Nghiêm trọng rồi đây . 10 con mắt nhìn hắn mang hình 10 " viên gạch " nhưng hắn đâu có quan tâm gì . Bởi vì vừa ăn hắn vẫn còn vừa nhìn 3 miếng thịt xinh xinh kia mà .

Tất nhiên , không có chuyện " bất công " lại xảy ra lâu như thế . 5 tên còn lại chèn hắn ra và tự chia đều cho nhau 3 miếng thịt đó .

Không ổn một tý nào . Đúng thế thật . Không ổn một tý nào . Hắn lại quay sang cơm và rau với tốc độ kinh hoàng . Nhìn hắn ăn thì ... thôi rồi !

Hắn bỏ đi sau khi mâm cơm đã không còn gì để " khai thác " , nhưng cái mặt hắn thì 5 cái óc sẽ nhớ mãi .

***

Thế nhưng ở đời đâu phải cái gì cũng tồn tại mãi mãi . Nhất là trong quân đội thì cái tâm lý " mưa đến đâu , mát mặt đến đó " nó đã ngấm sâu vào máu những tên lính già . Bọn lính trẻ cũng nhìn gương và làm theo .

Đến bữa chiều thì 6 tên ăn buổi trưa đã không cùng một mâm nữa . Sự cùng mâm chỉ là ngẫu nhiên và xác suất gặp lại không mấy cao .

Tuy nhiên bọn mình luôn tìm cách tránh thằng " hỗn hào " đó và theo dõi hắn chặt chẽ .

Không lâu sau . Bọn mình phát hiện ra là cứ mâm nào có mặt hắn là mâm đó ăn , gắp nhiệt tình hẳn lên .

Bắt đầu có chiến thuật : Đầy - Vơi - Đầy . Nghĩa là bát đầu xới đầy , chan nước rau rồi gắp và ăn thật nhanh . Bát thứ hai xới vơi vơi . Bạn sẽ hỏi : Chan nước rau rồi gắp và ăn thật nhanh chứ ?

-Tất nhiên rồi ! Lúc này đang rảnh thì tôi có thể trả lời bạn thế chứ lúc đó thì ... làm gì có thời gian .Và bát thứ ba thì cầm chắc cái muôi và múc cơm và nhấn thật mạnh ( đoạn này làm khéo nhé . Nếu không cũng dễ mất cảm tình lắm đấy . ) . Sau đó gắp số thức ăn lên trên và từ từ , và chậm rãi ... cho đến hết . ( Quay phim , chụp ảnh đoạn này để cổ động là chuẩn nhất ) .

***

Lạ thật ! Học hành vất vả , rèn luyện gian khổ ... nhưng không thể căng thẳng như khi ở bên mâm cơm .

Mọi người có thể cười và cho là mình nói xạo . Vậy thì mình cũng sẽ kể cho các bạn một câu chuyện :

Ở một nhà nọ , có trẻ rất lười ăn . Mỗi bữa nó chỉ ăn có một bát nhỏ . Dỗ thế nào nó cũng không chịu ăn thêm . Đã thế nó còn hay nghịch . Cả nhà ra " nghị quyết " là nếu vi phạm thì nó sẽ phải ăn thêm một bát nữa . Ngoan được mấy hôm thì nó lại mắc lỗi . Nó ăn hai bát nho nhỏ mà vừa ăn vừa khóc .

Một hôm cả nhà bận việc để mặc nó xem truyền hình một mình .

Bỗng nó òa khóc làm cả nhà hốt hoảng , vội chạy lại dỗ dành và hỏi sao nó khóc .

Nó chỉ lên màn hình mà nước mắt vẫn tuôn ra : Con thương chú bộ đội quá . Chú bộ đội bị phạt phải ăn đến bốn bát cơm ...

Ừ nhỉ . Cái gì quá cũng khổ .

Quay lại câu chuyện .

Thấy tên " hỗn hào " hoành hành trong đại đội mình lúc thì như Triệu tử Long vùng vẫy trong mâm , có lúc như Trương Phi trên cầu Tràng Bản và nhiều lúc như Quan Công dùng thế đà đao ( giả vờ quay đi nhưng tay vòng lại gắp thêm một phát ) ...

Bữa đó , do đã bàn với nhau từ trước . Bọn mình quyết ra tay cho hắn một " bài học " .

Trái với mọi lần , khi xếp hàng không một tên nào dám xếp hàng cùng với hắn . Đến nỗi hắn phải chờ đến hàng cuối cùng mới được vào . Vì hàng nào tiến lên cũng đủ số người rồi . Lần này thì không . Hắn có 5 tên ngay từ " lượt gửi xe " với dáng vẻ thư sinh . Sau khi được chỉ huy cho phép vào , chúng tôi chiếm lĩnh ngay " trận địa " . Vòng 1 : Đầu tiên là cái muôi . Tên số 1 xới đầy thật nhanh rồi gạt tay hắn ra đưa cho tên số 2 . Tên số 2 cũng làm động tác đó nhưng chậm hơn một chút . Tên số 3 , 4 ,5 hoàn thành nhiệm vụ . Hắn cầm trên tay cái muôi thì trên đĩa chỉ còn lại chút rau . Vòng 2 : như vòng 1 . Vòng 3 thì hắn cầm cái muôi vét nốt nửa bát cơm còn lại với một chút nước chấm ...

***

Cũng như vạn vật . Sau những biến động lớn rồi mọi trật tự cũng sẽ được sắp xếp lại . Chúng tôi ( những kẻ ăn chậm ) đã tìm được nhau . Bây giờ chúng tôi ăn , gắp thoái mái ... thậm chí còn gắp cho nhau ăn . Có hôm nào , một tên đi về muộn nhưng cả bọn vẫn cố gắng chờ .

Các thành viên trong mâm 6 đó bây giờ đã mỗi người mỗi phương . Khi gặp lại nhau ( chưa bao giờ đủ cả 6 người ) vẫn khề khà như những ngày xưa .

Thôi ! Mai nói với trực lớp bị đau răng là có cháo ngay .

Mình đưa ý kiến thế , vì vừa xét thấy hoàn cảnh của một tên cũng y chang tụi mình . Thằng này ăn chậm như trâu nhai lại cỏ . Cho nên dùng chiến thuật kiểu gì thì nó cũng bị đói .

- Nhưng lỡ có nhiều thằng ăn cháo thì sao ? Hắn rụt dè hỏi .

- Ui giời ! Thì cứ có cháo đã . Sau đó mình mang suất của mình đi đâu mà chẳng được . Thế nhé .

Định bước đi thì nó lại hỏi :

- Thế ăn cháo mãi à ? Nghe như vậy sao tiện .

- Ơ hay !... Xoay vòng , phải xoay vòng hiểu không ? Vừa nói ngón tay mình vừa vẽ 5 cái vòng tròn .

Hắn gục gặc cái đầu ra vẻ hiểu .

Bữa trưa hôm sau , khi cả mâm đã yên vị thì hắn mang 1/3 nồi cháo thịt đến .

Chu cha ! Cả bọn sửng sốt . Vừa nhiều lại vừa ngon . Thoáng nghĩ trong đầu : Có khi tất cả báo cháo hết .

Đem ý nghĩ ấy thổ lộ với thằng bên cạnh . Ai dè nó lắc đầu quầy quậy . Nó nói :

- Ăn cháo chỉ no lúc đó thôi . Buổi chiều là thấy hoa cà hoa cải ngay . Nhưng ăn kiểu này thì tất cả cùng no .

Công nhận lính già kinh nghiệm phết .

Mọi việc cứ êm đềm trôi đi tuy thỉnh thoảng cũng bị cấp trên thắc mắc . Nào là : Ăn cháo lâu thế , chưa khỏi à . Hay là cạnh khóe : Hôm qua còn khỏe mà hôm nay đã báo cháo ...

- Chuyện ! Ốm đau thì ở đâu mà không có . Con người chứ có phải gỗ đá đâu .

Nhưng cuối cùng mình cũng thấy lương tâm cắn rứt vì cứ phải nói dối mãi . Phải có cái gì thay đổi nó đi chứ . Khó phết !

Chính lúc đó " sao quả tạ " đã rơi trúng vào cái mâm này .

Số là , cái lũ " trâu chậm " này toàn ra về cuối cùng . Lúc này chị em mới ra dọn dẹp xoong nồi và lau chùi bàn ăn . Mấy thằng vừa ăn vừa ra giúp đỡ tý ti và nhân thể tán chuyện . Mồm mép thì tán con kiến còn chạy đi nhưng thái độ thì cực chân thành nên chị em cũng thấy vui vui .

Một bữa , nhân lúc mọi người về hết . Mình chạy vào nói :

- Đồng chí ơi ! Cho tôi xin ít nước chấm để ăn hết số cơm . Thức ăn hết cả .

Chị nuôi nhìn theo ngón tay mình chỉ thì thấy 6 " con trâu " đang nhai . Thương tình cô ấy múc cho một muôi to . Mình mang ra cho anh em . Lát sau vẫn thấy cô ấy lúi húi ở chỗ phát cơm , mình lại chạy đến .

- Khổ quá ! Đồng chí cho nhiều nước chấm quá nên anh em ăn hết cơm mà vẫn còn nước chấm . Xin đồng chí ít cơm để ăn hết chỗ nước chấm .

Khuôn mặt cô ấy ửng đỏ lên , không nói gì và quay vào mang cho mình nửa nồi cơm . Đặt nồi cơm trước mặt mình , cô ấy vội quay đi với một nụ cười .

Mình mang chiến lợi phẩm về trong sự vui mừng của cả bọn .

Ăn xong , cả bọn còn cẩn thận mang tất cả xoong nồi vào bếp và được rửa bát đũa ngay trong chảo nước nóng .

Trên đường về , một thằng vừa đi vừa xoa bụng :

- No quá !... Hình như cũng gần đến giờ tự tu rồi . Tự nhiên thấy buồn ngủ quá .

Tất nhiên . Căng cơ bụng thì chùng cơ mắt . Nhưng mà đói thì cũng có ngủ được đâu .

Sau vài lần hết xin cơm lại đến nước chấm , hết nước chấm lại xin cơm . Rồi xin cả nước rau luộc ... nên quen .Tuổi trẻ đúng là rất dễ quen , mà đã quen là mến . Bọn mình xưng hô bắt đầu đã khác . Ai ngang tuổi hay già hơn thì xưng chị - em , ai ít tuổi hơn thì xưng tôi - đồng chí . Thỉnh thoảng lại hỏi thăm quê . Rồi đồng hương đồng khói , nói chuyện có vẻ thân thân hơn .

Một hôm trước khi ra về , bọn mình nhìn thấy gần chục mâm cơm trên cái giá . Một thằng bỗng " ngứa " miệng hỏi :

- Đồng chí ơi ! Hôm nay chắc có lớp nào đi thực tập chưa về hay sao mà còn nhiều mâm thế ?

- Không phải đâu . Chỗ cơm đó là để xét nghiệm đấy .

Xét nghiệm ... xét nghiệm ... mình lẩm bẩm một lúc nhưng không hiểu gì hết .

- Tại sao lại phải xét nghiệm hả đồng chí ? Mình hỏi .

Chị nuôi mới giảng giải :

- Trong trường hợp mà các đồng chí ăn xong lỡ có đồng chí nào hay đơn vị nào bị ngộ độc , hay tiêu chảy ... thì sẽ mang chỗ này đi xét nghiệm .

- Thế nếu không ai bị sao thì các mâm kia ... bỏ đi hả đồng chí ?

- Đúng đấy , đồng chí ạ .

- Chết ! Anh em đang đói thế này mà mang đổ đi thì phải tội đấy . Hay là thế này : Đồng chí cứ cho anh em chúng tôi " xét nghiệm " một mâm nhé . Lính chiến trường uống nước trâu đầm , đào được cái gì ăn được chỉ phủi phủi đít quần là ăn mà chẳng làm sao cả . Khoản này đồng chí cứ yên tâm ...

Người ta đã nói là tán hay như tán ăn mà .

Chẳng mấy chốc bọn tôi đã ngồi bên một mâm mới toanh . Chuyện trò rôm rả phết . 7 thằng bên một mâm 6 suất mà chẳng ai thắc mắc gì .

Những lần sau , các đồng chí chị nuôi còn cố ý để cho bọn mình mỗi ngày một mâm vào ca làm của họ .

***

Bây giờ không biết các chị ở đâu , làm gì , sướng khổ ra sao ... Nhưng trong thâm tâm chúng tôi vẫn nhắc về những ngày ấy với một sự biết ơn . Cầu mong các chị luôn bình an .

Ở nước Nga nhớ rau muống luộc quê nhà

nhưng giá cao đến 7 USD, bằng cả 60 bó rau quê nhà.

Vậy là, cứ mỗi lúc nhớ quê như vậy, mình đành "bấm bụng" tự an ủi: Rau muống trồng ở xứ lạnh không đậm vị như rau muống chính hiệu quê nhà, nó cũng không được xanh mướt, mà quắt queo, cằn cỗi, cọng dài, ít lá, lại dai nữa... Chưa kể, mua được rồi, về nhà luộc không cẩn thận lại ăn phải rau "nồng" thì chán thật là chán... Thôi để dành khi về quê hương ăn cho thỏa thích vậy!

Nhắc tới rau "nồng", mình chợt nhớ thuở lên 8, được mẹ giao việc nấu cơm và luộc rau. Khi ấy, mình hăng hái lắm, cứ nghĩ luộc rau là việc làm dễ nhất bởi chỉ phải cho rau vào nồi nước sôi sùng sục, nấu đến chín là hoàn thành nhiệm vụ "cao cả" phục vụ bữa cơm ngon cho gia đình. Nhưng nào ngờ... mình đã không vớt rau ra đĩa, vẫn để nguyên trong nồi nước luộc đậy kín vung... Và rồi khi mẹ về, mình dọn mâm cơm... Ôi! Sao không có cái màu xanh mướt của đĩa rau muống luộc, mà thay vào đó là những cuống rau ngả màu nâu nâu, thâm thâm...

Mà cũng lạ thật, dường như trên đời không có thứ nước luộc rau nào ngon bằng nước rau muống luộc. Cũng không có thứ nước rau nào có thể vừa dùng chanh để vắt, hay quả me, lá me, quả sấu, quả dọc, quả tai chua ... nấu cùng. Và càng không có thứ nước nào uống từng ngụm nhỏ và cảm nhận cái vị mằn mặn, chua chua, thanh khiết đến tột cùng. Càng nghĩ càng "thèm"! Giá như lúc này có một bát nước rau muống để "giải khát" giữa tiết trời nóng nực của mùa hè Moskva thì tốt biết mấy! Chỉ cần bát nước rau muống luộc dầm sấu, một đĩa rau vừa chín tới và vài quả cà thôi là quá đủ để có một bữa cơm quê hương ấm lòng người con xa xứ như mình...

Hôm nay, chắc vẫn không có rau muống, mình sẽ cùng các bạn hái rau "dại", nước Nga mùa hè này cũng nhiều lắm. Chúng mọc tràn lan, xen lẫn cỏ và hoa, có dạng lá giống rau "ngải cứu", nhưng khi đem xào với tỏi cũng chẳng khác gì đặc sản "muống xào" quê hương. Nhưng tiếc là không thể có thứ nước luộc dân dã thân quen...

RA ĐI ANH NHỚ QUÊ NHÀ

Từ xa xưa, câu ca dao: "anh đi anh nhớ quê nhà. Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương" đã nói lên tình yêu làng xóm quê hương gắn chặt với hươngvị của bữa ăn giản dị là rau muống, quả cà và chén tương của người dânViệt Nam.

Ngọn rau muống và quả cà trong bữa ăn thanh đạm đã gắn bó với bao đời người đân Việt Nam, từ thế hệ này đến thế hệ khác, nó như linh hồn của quê hương và là biểu tượng cho văn hoá ẩm thực quê hương Việt Nam. Thật vậy, đối với mỗi người Việt Nam chôn nhau cắt rốn trên mảnh đất của quê cha đất tổ, nay xa quê hương đất nước bao năm trường thì ngọn rau muống và quả cà trong bữa ăn là không thể nào quên được. Khi đã sống nơi xứ người nhiều năm và đã ăn cơm Tây, người ta trông thấy mớ rau muống không được tươi vì phải vận chuyển xa hàng vạn km đến, người ta biết quả cà không đủ chất dinh dưỡng so với hàng trăm món ăn chế biến từ các loại thịt hay cá bày trong các siêu thị ở châu Âu hay châu Mỹ, nhưng dù đắt bao nhiêu người Việt vẫn tìm mua mớ rau muống và quả cà cho bằng được. Trong bữa ăn nơi xứ người, ngọn rau muống và quả cà muối đã làm cho ta thêm ngon miệng và dấy lên trong ta nơi đầu lưỡi cái hương vị: đây là quê hương. Trong sâu thẳm của lòng ruột chúng ta đã quen với rau muống và quả cà là lòng muốn gợi cho ta nghĩ về một vùng trời đất Việt Nam, và lần nữa lại nhắc lại ta là người Việt Nam. Rau muống, quả cà là quê hương, là Việt Nam vậy.

''Ở đây chỉ có nhà giầu mới ăn được rau muống'', một anh bạn nói vui và cũng là nói thực với tôi như vậy khi bày đĩa rau muống luộc ra bàn ăn trong bữa cơm mời tôi khi đến Los Angeles. Anh cho biết một mớ rau muống giá từ 2 đến 4 đô tuỳ theo mùa vụ, (một lít sữa bò khoảng l đô, giá một kilô đùi gà chưa đến l đô), lại phải đi xa chừng 200km đến tận Little Saigan mới mua được. Mớ rau muống bán ở đây được nhập từ Thái Lan sang, mỗi ngọn đều dài đến 2 gang, được bó lại bởi một dây sắt tây. Người mẹ già nhặt rau tiếc, không nỡ cấu dài cái gốc già vứt đi, nên khi gắp ngọn rau chấm mắm chanh ớt, rồi nhai trong mồm thấy nó sơ dai, nhưng đúng là rau muống rồi. Tôi biết ý nên cũng thỉnh thoảng mới gắp một ngọn rau mà thôi. Ở trong nước, do quá quen nên hàng ngày ta ít để ý đến cái hương vị bình thường của ngọn rau muống luộc cùng bát nước chanh của nó. Nhưng ở nơi xứ người, sau chừng nửa tháng không được ăn rau muống, được ngửi cái mùi của những ngọn rau muống xanh luộc trong đĩa bốc lên cùng bát nước canh rau muống đánh dấm cà chua có vị chua dịu, ta nhận ra cái hương vị thảo vật nhẹ nhàng tươi mát, thân thiết của quê hương. Nó cho ta cảm tưởng như đang ngồi ăn quây quanh cái mâm gỗ cùng cha mẹ anh em trên một chiếc chiếu trải ngoài sân gạch dưới ánh trăng sau một ngày gặt hái của vụ mùa quê hương. Cái giản dị đơn sơ đạm bạc của ngọn rau muống luộc cũng mộc mạc chân thành thân thiết như luỹ tre, làng xóm, cây đa, bến nước của quê hương Việt Nam. Ngọn rau muống gợi trong ta nhớ về một miền quê Việt Nam, nhớ mãi ta là người Việt Nam, ngọn rau muống chính là quê hương Việt Nam đó.

Tôi cũng đã gặp nhiều người Việt ở châu Âu mỗi lần về nước, tuỳ theo mùa vụ, họ thường mang hàng bao tải rau muống, cà, rau thơm hay dọc mùng sang để làm quà cho bạn bè vì không gì quý bằng cho bạn vài mớ rau mang từ trong nước sang. Còn lại bao nhiêu họ cho vào bao ni lông bỏ vào ngăn tủ đá để ăn dần hàng tháng. Trong va li của nhiều người Việt Nam sang châu Âu, đi công tác, du lịch hay thăm thân nhân hiện nay, ngoài bánh gai, bánh cốm, bánh đậu xanh, hầu hết cũng đều chất hàng chục mớ rau muống và dọc mùng. Không phải chỉ có đi Tây, đi Bắc Kinh, Hàn Quốc hay Đài Loan cũng mang theo rau muống và cà muối cả. Tôi cũng lạ, bọn trẻ con sinh ra ở nước ngoài, rất thích ăn Mac Donald hay Pizza, nhưng lại rất thích ăn những quả cà trắng nhỏ dựng trong các lọ thuỷ tinh được xuất sang từ trong nước. Nếu sống ở Pháp, bố mẹ chúng phải đến tận chợ Tang Freres (của người Tàu) ở quận 18 thành phố Paris để mua, hoặc nếu ở Berlin hay Munich phải đến các chợ châu Á (cũng của người Tàu) để mua với giá khoảng 2,5 euro một lọ trong khi một cân táo, cân nho hay cân cam giá cũng chưa đến 2 euro. Mỗi lọ chỉ có khoảng 14 quả cà nhỏ như những quả trứng chim cút, tính ra đến 2 ngàn VND/quả. Bố mẹ chúng đều nói ''Một quả cà, ba tiền thuốc'' và đã hạn chế mỗi bữa cơm chỉ cho chúng ăn 2 quả mà thôi. Chúng vừa ăn vừa uống nước ngọt Coca Cola như người Tây, vừa cắn quả cà dè sẻn từng góc một. Cái vị của quả cà hơi chua chua, mằn mặn, dòn dòn lại dai dai, thơm mùi tỏi và chút riềng, mới hấp dẫn làm sao, chúng đã ''nghiện'' ăn cà! Biết là độc lại đắt tiền mà không mua ăn không được, phải chăng cái vị của những quả cà cũng cần cho đời sống người Việt nơi xứ người như hạt gạo, như tin tức từ quê hương? Cùng với nem Sài Gòn và các thứ rau thơm như húng láng, húng chó, tía tô, rau mùi (đều giá 99 xu một mớ nhỏ có vài ngọn) rau muống luộc và quả cà muối là không thể thiếu được trong các bữa cơm người Việt mời nhau nơi xứ người.

Chỉ khi nào bạn đi công tác hay du lịch châu Âu, châu Mỹ, phải ăn hàng tuần những bữa cơm Tây, Mac Donald, Hamburgur, thấy cồn cào trong ruột, không thể chịu được nữa, thì khi đó bạn mới thấm hiểu ngọn rau muống và quả cà trong bát cơm đã gắn bó mật thiết với đời sống của người Việt Nam như thế nào. Đó chính là bản sắc văn hoá ẩm thực của người Việt và cũng một khía cạnh của bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam vậy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: