Liêu trai chí dị part 1/3
Liêu trai chí dị
Quyển I
001. Thi Thành Hoàng (Khảo Thành Hoàng)
Ông nội người anh rể của ta họ Tống húy Đạo, là Lẫm sinh* trong huyện. Một hôm ông bệnh nằm trong nhà, thấy có viên lại cầm công văn dắt một con ngựa bờm trắng tới nói "Mời ông đi thi". Ông nói "Quan chấm thi chưa tới, làm sao mà thi?". Viên lại không đáp, chỉ giục đi mau. Ông ra sức cưỡi ngựa chạy nhanh theo, đường đi rất lạ, tới một nơi thành quách như kinh đô của bậc vương giả.
*Lẫm sinh: học trò trường phủ học ở Trung Quốc thời Thanh, được hưởng học bổng và miễn một số nghĩa vụ thuế má dao dịch.
Lát sau vào một Công thự, cung thất tráng lệ, ở trên có mười người ngồi, đều không biết là ai, chỉ nhận ra là có Quan Đế*. Dưới thềm bày hai cái bàn hai cái ghế, đã có một vị Tú tài ngồi trước, ông cũng tới ngồi cạnh. Bàn nào cũng có sẵn giấy bút, ngay sau đó đề thi đưa xuống, nhìn vào thấy có tám chữ "Nhất nhân nhị nhân, hữu tâm vô tâm" (Một người với hai người, hữu ý hay vô ý). Hai người làm bài xong trình lên, bài của ông có câu "Hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thưởng, vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt" (Có ý làm điều thiện, dù thiện cũng không thưởng, vô ý làm điều ác, dù ác cũng không phạt).
* Quan Đế. tức Quan Vũ, còn gọi là Quan Công, tự Vân Trường, em kết nghĩa và là tướng của Lưu Bị, Tiên chủ nhà Thục Hán thời Tam quốc, nổi tiếng nghĩa khí, được nhân dân Trung Quốc thờ là thần, thời Tống phong tặng là Quan Thánh Đế quân.
Các thần chuyền tay nhau xem, khen ngợi không thôi, gọi ông lên dụ rằng "ở Hà Nam khuyết một chỗ Thành hoàng, ông xứng đáng giữ chức ấy". Ông mới hiểu ra, lạy phục xuống khóc nói "Được ban mệnh lệnh, đâu dám chối từ! Nhưng còn có mẹ già bảy mươi tuổi không người phụng dưỡng, xin chờ khi đã trọn tuổi trời sẽ vâng mệnh giữ chức". Ở trên có một vị dáng mạo như bậc đế vương lập tức ra lệnh "Tra sổ xem mẹ ông ta thọ được bao nhiêu". Có một viên lại râu dài giở sổ ra xem lại một lượt bẩm rằng "Còn thọ chín năm nữa". Mọi người đang ngần ngừ, Quan Đế nói "Không sao, cứ sai Trương sinh thay, đủ hạn chín năm sẽ giao cho ông ta giữ chức cũng được", rồi nói với ông rằng "Lẽ ra phải đi nhận chức ngay, nhưng nay nghĩ tới lòng hiếu thảo nên cho hoãn chín năm, đến hạn sẽ lại triệu".
Lại khuyến dụ vị Tú tài kia mấy câu, hai người cùng lạy lui ra. Vị Tú tài nắm tay ông đưa ra tới ngoài thành, tự nói là họ Trương ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông), có thơ đưa tiễn nhưng ông quên cả, chỉ nhớ được hai câu "Hữu hoa hữu tửu xuân thường tại, Vô nguyệt vô đăng dạ tự minh" (Có hoa có rượu xuân thường cạnh, Không nến không trăng tối tự soi).
Ông đã lên ngựa, bèn chia tay rồi đi, về tới làng mới giật mình tỉnh dậy. Lúc ấy ông đã chết ba ngày rồi, mẹ ông nghe trong quan tài có tiếng rên rỉ bèn tới đỡ ra, nửa ngày sau mới nói được. Hỏi thăm thì hôm ấy ở Trường Sơn quả có Trương sinh chết.
Chín năm sau quả nhiên mẹ ông mất, ông lo liệu tang ma xong, tắm gội vào phòng nằm rồi tắt hơi. Cha vợ ông ở cửa tây trong thành, chợt thấy ông tới, nghi vệ lộng lẫy, tùy tùng rất đông, vào nhà lên thềm lạy một lạy rồi đi. Người nhà thảy đều ngờ sợ, không biết ông đã làm thần, vội tới làng để hỏi mới hay ông đã chết rồi. Ông có tự viết lại tiểu truyện của mình, tiếc là sau loạn đã mất, trên đây chỉ là tóm tắt lại mà thôi.
002. Người Trong Con Ngươi Trò Chuyện (Đồng Nhân Ngữ)
Người học trò ở Trường An là Phương Đống, cũng có tài danh nhưng tính khinh bạc không giữ lễ nghi, cứ ra đồng gặp con gái đi chơi là lập tức theo tán tỉnh.
Một hôm trước tiết Thanh minh đi chơi ngoài thành thấy một chiếc xe nhỏ mui gấm rèm thêu, có vài người tỳ nữ cưỡi ngựa thong thả theo sau, trong đó có một nàng cưỡi con ngựa tốt, dung mạo rất đẹp. Bèn tới gần nhìn, thấy rèm xe đang vén lên, bên trong có một nữ lang trạc mười sáu tuổi, trang sức lộng lẫy, bình sinh chưa thấy ai đẹp như vậy nên mắt hoa đầu váng cứ đuổi theo nhìn, khi thì chạy lên trước, lúc thì tụt lại sau, theo suốt mấy dặm.
Chợt nữ lang gọi người tỳ nữ tới cạnh xe nói "Buông rèm xuống cho ta! Gã tiểu tử ngông cuồng kia ở đâu dám lại đây nhìn ngó?" Người tỳ nữ buông rèm xe xong ngoái nhìn sinh giận dữ nói "Đây là vợ mới cưới của Thất lang ở thành Phù Dung về nhà thăm cha mẹ, không phải như các cô gái nhà quê, phải dạy cho học trò hỗn láo nhà ngươi mới được". Dứt lời cầm một cục đất dính ở bánh xe ném vào mặt sinh, sinh tối cả mắt lại. Đến khi gỡ được bùn đất ra nhìn thì đoàn xe ngựa đã đi xa, sợ hãi trở về.
Thấy con mắt xốn xang rất khó chịu, nhờ người khác vạch mi mắt ra xem thì trong con ngươi có một cái màng, qua một đêm càng cộm thêm, nước mắt chảy giàn giụa không ngừng. Cái màng ấy ngày càng to, qua vài ngày dày như đồng tiền, mắt trái cũng bị sưng như vậy, thuốc thang gì cũng không khỏi, buồn rầu muốn chết, tự lấy làm hối hận.
Nghe nói kinh Phật có thể giải ách bèn tìm một quyển, nhờ người đọc cho để học thuộc lòng mà tụng. Buổi đầu còn thấy lo lắng phiền não, sau dần thấy tinh thần thư thái, ban tối rảnh rỗi thì ngồi xếp bằng lần tràng hạt mà niệm, được một năm thì thấy hoàn toàn yên ổn.
Chợt nghe trong con mắt bên trái có một giọng nói nhỏ như tiếng nhặng vo ve rằng "Tối tăm như ban đêm thế này, ai mà chịu nổi" Trong con mắt bên phải cũng có một giọng đáp "Hay chúng ta cùng ra ngoài chơi một lúc đi, cho đỡ buồn bực". Kế sinh dần dần thấy trong mũi có cái gì cọ quậy rất ngứa ngáy, như có con vật bò ra, một lúc lâu thì trở lại, lại theo lỗ mũi mà vào. Vào tới trong lại nói "Lâu quá không ra vườn chơi, giò lan Trân châu đã chết khô rồi".
Sinh vốn rất thích lan, trong vườn trồng rất nhiều, hàng ngày vẫn ra tưới bón, nhưng từ khi bị lòa thì lâu không hỏi tới. Lúc bấy giờ chợt nghe thấy thế, bèn căn vặn vợ "Sao lại để lan chết khô như vậy?". Vợ hỏi sao biết, sinh kể lạ nguyên do, vợ ra vườn nhìn xem thì giò lan quả đã khô quắt rất lấy làm lạ lùng. Bèn lặng lẽ núp lại trong phòng, thấy có hai người bé tí nhỏ hơn hạt đậu từ trong lỗ mũi sinh bò ra thoắt cái đã ra khỏi cửa, nhìn theo thì đã mất dạng. Loáng sau lại sóng đôi bay về, đáp xuống mặt sinh, lại như con ong về tổ chui trở vào, cứ như thế suốt hai ba hôm.
Chợt sinh nghe người bên mắt trái nói "Đường hầm quanh co khuất khúc, ra vào qua lại bất tiện quá, chẳng bằng mở lấy một cái cửa". Người bên mắt phải nói "Vách bên ta rất dày, không dễ đâu". Người bên mắt trái nói "Để ta phá thử xem, nếu được sẽ cùng ngươi dùng chung". Kế thấy trong con mắt trái như có cái gì xé toạc ra, giây lát mở mắt ra nhìn, thì lại thấy mọi vật như thường.
Sinh mừng rỡ nói với vợ, vợ tới xem thì thấy cái màng trong mắt trái đã vỡ ra một lỗ, tròng đen di động như hạt tiêu. Qua một đêm thì lớp màng mất sạch, nhìn kỹ vào thì thấy mắt có hai con ngươi nhưng mắt phải vẫn bị sưng phồng lên như cũ, mới biết hai người trong mắt đã sang ở chung một chỗ. Sinh tuy chỉ có một mắt, nhung sáng chẳng kém người còn đủ hai mắt, nhìn gì cũng thấy. Từ đó ngày càng tự kiểm thúc, người làng khen là có nết tốt.
Dị Sử thị nói: Làng ta có người học trò cùng hai người bạn đi trên đường, thấy xa xa có một thiếu phụ bèn thúc lừa chạy vượt lên ngâm đùa rằng "Có người đẹp chừ"* rồi nhìn hai người bạn nói "Đuổi theo mau" định trêu ghẹo đùa bỡn. Giây lát đuổi kịp thì là vợ con trai, mất cả khí thế, ngậm tăm không nói gì. Hai người bạn lại làm ra vẻ không biết, cứ bô bô bình luận này nọ. Người học trò sượng ngắt, ấp a ấp úng nói "Đây là con dâu lớn của ta", họ mới nhịn cười mà thôi đi. Kẻ tính hạnh khinh bạc thành ra tự làm nhục mình, thật đáng cười vậy. Đến như mù mắt hết thấy đường, thì đó là quỷ thần báo oán đấy. Thành chủ thành Phù Dung không rõ là thần nào, hay là Bồ Tát hiện thân chăng? Nhưng lang quân bé tí phá vách mở cửa, thì quỉ thần tuy ghét kẻ xấu nết cũng đâu không cho người ta tự sửa mình.
* "Có người đep chừ": nguyên văn là "Hữu mỹ nhân hề", chữ trong bài phượng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như hát khi khêu gợi Trác Văn Quân "Hữu mỹ nhân hề, kiến chi bất vương (vong), Nhất nhật bất kiến hề, tư chi như cuồng..." (Có người đẹp chừ, gặp rồi không quên, Một ngày không gặp chừ, nhớ như điên cuồng), ở đây người học trò đọc để trêu gái.
003. Bức Tường Vẽ Tranh (Họa Bích)
Mạnh Long Đàm người Giang Tây cùng Hiếu liêm họ Chu lên trọ ở kinh đô, tình cờ tới chơi chùa nọ. Thấy điện Phật, hành lang, thiền phòng đều không có gì to lớn rộng rãi, chỉ có một nhà sư già trú ngụ.
Sư thấy có khách tới, xốc áo ra đón, dẫn đi xem khắp nơi. Trong điện có tượng thần sư Chí Công, hai vách vẽ tranh rất tinh xảo, nhân vật đều như thật, tường bên đông vẽ bức tranh Thiên nữ rắc hoa, trong có một người tóc xõa cầm hoa mỉm cười, môi son như động, sóng mắt như đưa.
Chu chăm chú nhìn một lúc lâu, bất giác thần trí tiêu tan, chợt thấy thân thể phơi phới như đằng vân giá vụ, đã lên tới trên vách. Thấy điện gác chập chồng không phải như ở cõi trần, có một vị sư già đang ngồi trên tòa giảng kinh, những người khoác áo hở vai đứng nghe rất đông,
Chu cũng trà trộn vào đứng trong đó. Giây lát thấy như có người ngầm kéo áo mình, quay nhìn thì thấy thiên nữ xõa tóc cười tủm tỉm quay đi bèn lập tức đi theo qua hành lang quanh co thì tới một gian phòng nhỏ, ngần ngừ không dám bước tới. Cô gái qnay đầu giơ cành hoa trong tay vẫy vẫy ra hiệu gọi, bèn bước theo vào, thấy trong phòng không có một ai. Chu sấn tới ôm, nàng cũng không chống cự gì lắm bèn cùng nhau giao hoan. Xong rồi nàng đóng cửa đi, dặn Chu đừng ho hắng, đến đêm lại trở lạì, như thế hai ngày.
Chị em bạn biết, cùng nhau kéo tới tìm được sinh, đùa nói với cô gái rằng "Tiểu lang trong bụng đã lớn, mà còn để tóc bồng bồng học làm gái chưa chồng à?". Rồi cùng đưa trâm cài tóc và hoa tai bảo búi tóc cao lên, cô gái thẹn thùng không nói năng gì. Một nàng nói "Chị em ơi, đừng ở đây lâu, e người ta không vui", mọi người cười rộ kéo đi.
Sinh thấy cô gái tóc mây búi cao, trâm phụng rủ thấp, so ra còn đẹp hơn nhiều so với lúc còn xõa tóc. Nhìn quanh không có ai bèn cùng nhau lên giường, mùi lan xạ thơm ngát ngây ngất lòng người. Còn đang vui vầy chợt nghe tiếng ủng da cồm cộp, khóa sắt loảng xoảng, lại có tiếng tranh cãi huyên náo.
Cô gái hoảng sợ vùng dậy cùng Chu ra nhìn trộm thì thấy một sứ giả giáp vàng mặt đen như sơn, tay khóa tay chùy, các thiên nữ đứng chung quanh. Sứ giả hỏi "Đã đủ cả chưa?", họ trả lời đã đủ cả. Sứ giả nói "Nếu có giấu diếm người dưới trần thì phải khai ngay ra, đừng để phải chịu tội", mọi người lại đồng thanh nói không có. Sứ giả quay người ngạc nhiên nhìn quanh như tìm kẻ trốn lánh, cô gái cả sợ mặt xám như tro, hớt hải nói với Chu "Trốn xuống gầm giường mau" rồi mở cánh cửa nhỏ bên vách trốn đi.
Chu nằm im không dám thở mạnh, kế nghe tiếng ủng da bước vào trong phòng rồi trở ra, không bao lâu tiếng ồn ào xa dần, trong lòng hơi yên nhưng ngoài cửa vẫn có người qua lại bàn bạc. Chu thấp thỏm hồi lâu, thấy ù tai hoa mắt không sao chịu nổi nữa, chỉ im lặng nghe ngóng chờ cô gái quay lại, cũng không nhớ được rằng mình vốn từ đâu tới đây.
Lúc ấy Mạnh Long Đàm ở trong điện, chớp mắt không thấy Chu đâu, ngờ vực hỏi sư, sư cười nói "Đi nghe giảng kinh rồi". Hỏi ở đâu, sư đáp không xa, kế lấy ngón tay búng lên tường gọi "Chu đàn việt, sao đi chơi lâu không về thế?" liền thấy trong búc tranh trên vách có hình Chu đang nghiêng tai nhón chân như nghe ngóng.
Sư lại gọi nói "Ông bạn đi cùng đợi lâu rồi!", Chu bèn lãng đãng trên vách bước xuống, lòng lạnh người ngây, mắt hoa chân nhũn. Mạnh cả sợ, từ từ hỏi han thì là Chu đang nằm duới gầm giường nghe tiếng gõ cửa như sấm bèn ra khỏi phòng nghe trộm. Cùng nhìn tới cô gái cầm hoa thì thấy tóc đã búi cao chứ không buông xuống như truóc. Chu hốt hoảng vái lạy sư già hỏi duyên cớ, sư cười nói "Ảo giác từ lòng người sinh ra, lão tăng làm sao giải thích được?". Chu lo lắng không nói ra, Mạnh sợ sệt không kìm được, lập tức đứng lên lần theo bậc thềm ra về.
Dị Sử thị nói: Ảo giác từ lòng người sinh ra, lời ấy giống như của kẻ có đạo. Người có lòng dâm tà sẽ sinh ra cảnh bậy bạ, người có lòng bậy bạ sẽ sinh ra cảnh đáng sợ. Bồ Tát điểm hóa kẻ mê muội, làm ra ngàn muôn ảo giác, đều do lòng người động mà nhìn thấy thôi. Sư già thiết tha điểm hóa, tiếc là không thấy hai người kia nghe xong chợt giác ngộ, xõa tóc vào núi vậy.
004. Trồng Lê (Chủng Lê)
Có người nhà quê bán lê ở chợ, ngon ngọt thơm tho, bán giá rất đắt. Có một đạo sĩ khăn rách áo cũ đứng xin trước xe, người nhà quê đuổi không chịu đi, tức giận chửi mắng. Đạo sĩ nói "Một xe lê hàng vài trăm quả, lão nạp chỉ xin một quả, đối với cư sĩ có mất mát bao nhiêu, sao lại tức giận?".
Người chung quanh khuyên nên lựa một quả nhỏ cho để đạo sĩ đi, nhưng người nhà quê nhất quyết không chịu. Có người làm công trong phố thấy cãi vã bực mình bèn trả tiền mua một quả đưa cho đạo sĩ, đạo sĩ cảm tạ rồi nói vớì mọi người rằng "Người tu hành không được keo bẩn, ta có trái lê ngon, xin đưa ra mời khách".
Có người nói "Ông dã có được, sao không ăn?", đạo sĩ đáp "Ta chỉ cần cái hạt làm giống thôi". Rồi bóp vỡ quả lê, lấy hạt ra cầm trong tay, rút cái xẻng nhỏ trên vai đào đất sâu xuống mấy tấc, thả cái hạt lê vào rồi lấp lại, xin người trong chợ cho nước sôi tưới. Có kẻ hiếu sự chạy vào quán cơm cạnh đường xin được nước sôi, đạo sĩ bèn cầm lấy rót lên cái hố. Mọi con mắt đổ dồn vào, đều thấy cái mầm nhú lên, giây lát lớn thành cây lê, cành lá thưa thớt, chợt nảy hoa, chợt thành quả, to lớn thơm tho, kĩu kịt đầy cây.
Đạo sĩ bèn đứng ở trước cây hái chia cho mọi người đứng xem, trong giây lát hết sạch, rồi lấy cái xẻng chặt, cây lê kêu răng rắc hồi lâu đổ xuống, đạo sĩ bèn vác lên lấy cành lá che đầu, ung dung bỏ đi.
Lúc đạo sĩ bắt đầu làm phép, người nhà quê kia cũng đứng lẫn trong đám đông xem, vươn cổ nhướng mắt quên cả xe lê. Khi đạo sĩ bỏ đi mới nhìn lại xe thì lê đã hết sạch, mới biết vừa rồi ông ta phân phát đều là lê của mình. Lại nhìn kỹ thì thấy trong xe mất một cái cuốc, dấu gãy còn mới tinh, trong lòng tức giận. Vội vàng đuổi theo, qua khỏi góc tường thì thấy cái cuốc gãy vứt lại trên mặt đất, mới biết đó là đạo sĩ lấy làm thân cây lê. Đạo sĩ thì chẳng biết ở đâu, cả chợ cứ tủm tỉm cười.
Dị Sử thị nói: Người nhà quê khư khư tiếc của, sự ngây ngốc có thể thấy rõ, đến nỗi bị người trong chợ cười, có lạ gì. Từng thấy trong làng có người vốn nổi tiếng giàu có, mà bạn thân tới xin gạo thì tiếc của, kể lể rằng "Đây là mấy ngày ăn đấy" Có người giúp đỡ được một kẻ hoạn nạn, nuôi được một bữa cơm, thì tức tối kể lể rằng "Ăn bằng năm bằng mười người thường", thậm chí đối với cả cha con anh em cũng so kè từng ly từng tí. Thế mà tới lúc máu đỏ đen nổi lên thì dốc rương cờ bạc không nuối tiếc, kẻ cướp kề dao vào cổ thì vét tiền chuộc mạng không nề hà. Như hạng người ấy mới là nói không hết, chứ người nhà quê ngu ngốc kia đâu đã đủ để lạ lùng?
005. Đạo Sĩ Núi Lao (Lao Sơn Đạo Sĩ)
Huyện ta có Vương sinh, bày hàng thứ bảy, là con nhà thế gia cũ. Lúc trẻ mộ đạo, nghe nói núi Lao (ở huyện Túc Mặc tỉnh Sơn Đông) có nhiều thần tiên, bèn khăn gói tới tìm, lên tới một ngọn núi, thấy có đạo quán rất tịch mịch u nhã. Thấy có một đạo sĩ ngồi trên nệm cỏ tròn, tóc trắng xõa tới vai nhưng dung mạo tráng kiện. Lạy chào bắt chuyện, thấy rất tinh thông đạo lý huyền diệu, xin nhận làm thầy.
Đạo sĩ nói "Sợ sức vóc mảnh dẻ không chịu nổi cực khổ", thưa rằng "Chịu được". Học trò của đạo sĩ rất đông, chiều tối kéo hết về, Vương đều vái chào làm lễ ra mắt rồi ở lại trong đạo quán. Mờ sáng đạo sĩ gọi Vương đi, đưa búa sai theo mọi người đốn củi, Vương kính cẩn nghe theo. Hơn một tháng tay chân nổi chai, không chịu nổi khổ cực ngầm có ý muốn về.
Một chiều hái củi về, thấy hai người đang cùng thầy uống rượu, trời đã tối vẫn không có đèn đuốc gì, thầy bèn cắt giấy thành hình tấm gương dán lên vách, trong chốc lát như vầng trăng sáng vằng vặc trên vách, chiếu rõ từng sợi tóc, đám học trò xúm quanh lui tới hầu hạ. Một người khách nói "Đêm đẹp vui vẻ không nên riêng hưởng", bèn cầm bầu rượu trên bàn chia cho bọn học trò, lại nói cứ uống thật say. Vương tự nhủ "Có bảy tám người, một bầu rượu làm sao mà đủ?".
Ai nấy đều đi tìm tô chén tranh nhau rót trước, chỉ sợ hết rượu nhưng rót đi rót lại mà rượu trong bầu vẫn không vơi, thầm lấy làm lạ. Giây lát một vị khách nói "Đã được ơn ban cho trăng sáng, nhưng vắng vẻ quá, sao không gọi Thường Nga tới?". Đạo sĩ bèn lấy đũa ném vào vầng trăng, thì thấy một mỹ nhân từ trong vầng ánh sáng bước ra, lúc đầu cao chưa đầy một thước, tới đất thì cao bằng người thường, lưng thon cổ đẹp, phấp phới múa khúc Nghê thường, múa xong hát rằng:
Tiên tiên ơi, về đi thôi
Chốn Quảng Hàn đây ta lẻ loi
Âm thanh trong trẻo cao vút sánh với tiếng tiêu. Hát xong lại múa vòng rồi nhảy lên bàn, trong chớp mát lại trở thành chiếc đũa. Ba người cười rộ, lại một vị khách nói "Đêm nay vui quá nhưng tửu lượng có hạn, xin tiễn bọn ta ở cung trăng được không?". Ba người dời bàn rượu dần dần vào vầng trăng, mọi người nhìn thấy ba người ngồi trong vầng trăng uống rượu, râu tóc đều rõ mồn một như nhìn vào trong gương.
Lát sau vần trăng tối dần, học trò đốt đuốc tới thì chỉ có đạo sĩ ngồi một mình ở bàn, mà khách đã đi mất rồi. Thức ăn trên bàn hãy còn mà vầng trăng trên vách chỉ còn là một mảnh giấy tròn như tấm gương mà thôi. Đạo sĩ hỏi mọi người "Đã uống đủ chưa?" thưa "Đã đủ rồi". "Đủ rồi thì đi ngủ cho sớm, đừng để lỡ việc kiếm củi sáng mai", mọi người vâng dạ lui ra. Vương thầm thích thú hâm mộ, không muốn về nữa.
Lại đến một hôm thấy khổ cực không thể chịu nổi mà đạo sĩ vẫn không dạy cho một phép thuật nào, không chờ được nữa bèn cáo từ nói "Đệ tử từ mấy trăm dặm tới học đạo, giả như không được dạy phép trường sinh thì cũng mong được dạy chút thuật nhỏ cho thỏa lòng cầu đạo.
Thế nhưng đã hai ba tháng, chẳng qua chỉ sáng đi hái củi chiều trở về, lúc đệ tử ở nhà chưa quen khổ cục thế này bao giờ". Đạo sĩ cười nói "Ta đã nói rằng ngươi không chịu nổi cực khổ, nay quả đúng thế, sáng mai sẽ đưa ngươi về". Vương nói "Đệ tử làm lụng nhiều ngày, xin thầy dạy qua một thuật nhỏ để không phụ công tới đây". Đạo sĩ hỏi muốn học thuật gì, Vương nói "Thường thấy thầy đi đâu, tường vách đều không ngăn cản được, nếu học được phép ấy cũng là đủ rồi".
Đạo sĩ cười nhận lời rồi truyền cho khẩu quyết, sai tự niệm lấy xong, hô lớn "Vào đi!" Vương thấy vách không dám bước vào, đạo sĩ lại nói "Thử vào xem!". Vương lại thong thả bước vào vách, nhưng gặp tường lại bị ngăn lại. Đạo sĩ nói "Cúi đầu vào mau, đừng chần chừ", Vương lại tránh ra mấy bước rồi chạy mau vào, tới tường thấy trống không như không có gì, quay lại nhìn thì đã ở phía ngoài rồi. Cả mừng trở vào tạ ơn, đạo sĩ nói "Về tới nhà nên giữ mình trong sạch, không thì phép không nghiệm đâu", rồi cấp cho lộ phí về nhà.
Vương về tới nhà khoe là đã học qua phép tiên, tường vách cứng rắn cũng không ngăn cản được. Vợ không tin, Vương bèn làm như trước, đứng cách tường mấy thước rồi lao nhanh vào, đầu va phải tường ngã quay ra. Vợ tới đỡ dậy nhìn, thì trên trán nổi cục u to bằng quả trứng. Vợ cười nhạo, Vương thẹn thùng tức tối, chỉ còn cách chửi đạo sĩ già bất lương mà thôi.
Dị Sử thị nói: Nghe chuyện này không ai không cười lớn, nhưng không biết rằng những kẻ như Vương sinh trên đời lại có rất nhiều. Nay có kẻ ngu xuẩn ưa chất ngọt có độc mà sợ thuốc đắng châm đau, lại có kẻ hút mủ liếm trĩ* dâng cái thuật khoe oai sính bạo để đón ý, khinh suất nói đem thuật này có thể hoành hành không ai cản trở nổi. Buổi đầu làm thử thì chưa từng không có chút ít kết quả, bèn cho rằng thiên hạ to lớn cũng có thể theo đó mà làm, nếu không húc đầu vào tường cứng mà ngã quay ra thì không chịu thôi đâu.
* Hút mủ liếm trĩ: nguyên văn là "thỉ ung tuấn trĩ", chữ trong Nam hoa kinh, Liệt Ngự Khấu, chỉ hành động nịnh hót hèn hạ để tiến thân của kẻ vô sỉ.
006. Nhà Sư ở Trường Thanh (Trường Thanh Tăng)
Có nhà sư ở Trường Thanh (tỉnh Sơn Đông) đạo hạnh cao khiết, tuổi đã hơn tám mươi vẫn còn khỏe mạnh. Một hôm chợt ngã chúi xuống, các sư trong chùa chạy tới đỡ dậy thì đã viên tịch rồi. Nhưng nhà sư không biết mình đã chết, hồn cứ bay đi, tới địa giới tỉnh Hà Nam.
Ở Hà Nam có con nhà thân hào dẫn hơn mười người cưỡi ngựa thả ưng săn thỏ, ngựa lồng lên rơi xuống đất chết, hồn nhà sư vừa tới đó bèn nhập luôn vào, dần dần tỉnh lại. Đám đầy tớ xúm lại hỏi han thì cứ giương mắt nói "Sao ta lại tới đây?". Mọi người bèn đỡ về nhà, vào cửa thì đám thê thiếp môi son má phấn xúm lại thăm hỏi, phát hoảng nói "Ta là sư mà, sao lại tới đây?". Mọi người cho là còn choáng váng, ghé vào tai nhắc cho mà sư cũng chẳng hiểu nổi, bèn nhắm mắt không nói gì nữa. Cơm đưa tới nếu gạo xấu thì ăn, rượu thịt thì chối từ, đêm ngủ một mình, không cho thê thiếp hầu hạ.
Sau vài hôm chợt muốn dạo chơi, mọi người đều mừng rỡ. Ra tới bên ngoài, vừa dừng bước thì đám tôi tớ xúm tới, sổ sách tiền gạo tranh nhau đưa trình, nhao nhao xin lệnh. Công tử lấy cớ có bệnh còn mệt, nhất nhất chối từ, chỉ hỏi "Có biết huyện Trường Thanh tỉnh Sơn Đông ở đâu không?", mọi người cùng thưa có biết. Công tử bèn nói "Ta thấy buồn bực không vui, muốn tới đó chơi, mau sắp sửa hành trang". Mọi người nói vừa khỏi bệnh chưa nên đi xa, công tử không nghe.
Hôm sau lên đường, tới huyện Trường Thanh thấy phong cảnh vẫn như cũ, không phải hỏi đường một ai, đi thẳng tới chùa. Các sư đệ tử thấy khách sang tới, đón tiếp rất cung kính. Công tử hỏi "Sư già ở đâu?", họ đáp "Thầy bọn ta vừa mất". Hỏi mộ ở đâu, các sư bèn đưa tới, thì thấy ba thước mộ lẻ loi, cỏ hoang còn chưa phủ kín, các sư đều không biết khách có ý gì. Đến khi lên ngựa ra về, dặn rằng "Thầy của các ngươi là sư giữ gìn đạo hạnh, những vật còn để lại nên giữ cho kỹ, đừng để hư hỏng chút gì". Các sư vâng dạ, công tử bèn lên đường.
Về tới nhà ngơ ngác thẫn thờ, chẳng nhìn ngó gì tới việc gia đình. Được vài tháng ra cửa trốn đi một mình, về thẳng chùa cũ nói với đệ tử rằng "Ta là thầy các ngươi đây". Mọi người ngờ là nói đùa, nhìn nhau mà cười. Sư bèn kể lại chuyện nhập hồn vào xác lạ, lại nhắc lại việc làm lúc bình sinh, thảy thảy đều đúng, mọi người mới tin bèn đưa vào ở chỗ cũ, hầu hạ như ngày trước.
Sau gia đình công tử mấy lần đem xe kiệu tới năn nỉ xin trở về nhưng sư không ngó ngàng gì tới. Hơn một năm sau phu nhân sai đầy tớ tới thăm, đem rất nhiều quà cáp nhưng sư trả lại hết vàng lụa, chỉ nhận một chiếc áo vải mà thôi. Bạn ta có người tới đó kính cẩn xin gặp, thấy sư im lặng dốc lòng tu hành, tuổi chỉ trạc ba mươi mà học đạo hơn tám mươi năm rồi.
Dị Sử thị nói: Người chết thì hồn tan, mà hồn sư đi ngàn dặm chưa tan, là nhờ tính đã định vậy. Ta không lạ về việc sư sống lại mà lạ về chỗ bước vào nơi hương thơm sắc đẹp lại có thể dứt lòng trốn đi. Chứ nếu ánh mắt một phen lay động mà trong lòng sinh hương sắc thì có kẻ muốn chết còn không được kia, huống hồ là sư ư?
007. Hồ Gả Con Gái (Hồ Giá Nữ)
Thượng thư bộ Lại họ Ân* người Lịch Thành (tỉnh Sơn Đông) lúc trẻ nhà nghèo, có can đảm. Trong làng có phủ đệ của nhà thế gia cũ, rộng vài mươi mẫu, lầu gác san sát nhưng thường thấy sự quái dị, vì vậy bỏ trống không ai ở. Lâu ngày cỏ hoa mọc đầy, ban ngày cũng không người nào dám vào. Có lần ông cùng các bạn bè học trò uống rưọu, có người nói đùa "Có ai dám vào đó ngủ lại một đêm, thì cả bọn góp tiền đãi một bữa rượu". Ông nhảy phắt dậy nói "Chuyện đó có khó gì?", bèn ôm một cái chiếu đi, mọi người đưa tới tận cổng, đùa nói "Bọn ta chờ ở đây, nếu thấy có gì lạ, cứ kêu to lên". Ông cười nói "Nếu có ma quỷ hồ tinh, sẽ bắt về làm chứng".
*Thượng thư bộ Lại họ Ân: bản Hương Cảng chú nhân vật này tên Sĩ Chiêm, tự Đường Xuyên, đỗ Cử nhân năm Canh tý (1540), đỗ Tiến sĩ năm Đinh mùi (1547) niên hiệu Gia Tĩnh thời Minh, làm quan tới chức Thượng thư bộ Lại.
Bèn bước vào trong, thấy gai góc khuất lối, cỏ dại um tùm. Lúc ấy là đầu tháng, trăng non mờ mờ có thể nhìn thấy cổng nẻo, bèn lần theo vách đi một lúc mới tới lầu phía sau, lên hiên ngắm trăng thấy quang quẻ sạch sẽ đáng yêu liền dừng lại, trông về vầng trăng phía tây chỉ thấy như núi ngậm một sợi dây sáng mà thôi. Ngồi một lúc lâu chẳng thấy gì lạ, cười thầm lời đồn đãi hão huyền rồi trải chiếu xuống đất, gối đầu lên hòn đá nằm ngắm sao Ngưu lang Chúc nữ, một lúc thì thiu thiu ngủ.
Chợt duới lầu có tiếng giày lẹp kẹp đi lên, ông bèn giả ngủ hé mắt nhìn, thấy là một tỳ nữ cầm chiếc đèn lồng hình hoa sen, chợt trông thấy ông giật mình lui lại nói với người đi sau "Có người lạ ở đây". Người đi sau hỏi "Ai vậy?", trả lời "Không biết nữa". Giây lát có một ông già lên tới, tới sát ghé mắt nhìn ông rồi nói "Đây là quan Thượng thư họ Ân, nhưng đã ngủ say, cứ làm việc của ta đi, tướng công là ngươi không câu nệ, chắc không lấy làm lạ mà quát nạt đâu".
Bèn kéo nhau lên cả trên lầu, mở hết cửa nẻo ra. Một lúc sau người qua lại càng đông, trên lầu đèn đuốc sáng như ban ngày, ông bèn khe khẽ trở mình, cất tiếng ho hắng. Ông già thấy ông tỉnh dậy bèn bước ra quỳ gối xuống nói "Tiểu nhân có đứa con gái gả chồng đem nay làm lễ rước dâu, không ngờ làm kinh động quý nhân mong ông bỏ qua". Ông đứng dậy đỡ ông già lên nói "Không biết đêm nay gia đình có việc vui mừng, thật thẹn không có lễ vật để tặng". Ông già nói "Được quý nhân quang lâm, trấn áp sự hung hiểm là may lắm rồi. Xin ông cảm phiền ngồi chơi thì càng quý hóa lắm". Ông vui vẻ nhận lời, bước vào trong lầu nhìn, thấy bày biện đẹp đẽ, lại có người đàn bà tới vái lạy, tuổi khoảng hơn bốn mươi, ông già nói "Đây là vợ quê của ta", ông bèn đáp lễ.
Chợt nghe tiếng đàn sáo inh tai, có người chạy mau từ dưới lên nói "Tới rồi". Ông già vội ra đón, ông cũng đứng chờ. Phút chốc có ngửơi cầm chiếc đèn lồng bằng sa đưa chàng rể vào, thấy tuổi khoảng mười bảy mười tám, dáng vẻ tuấn tú, ông già bảo làm lễ chào khách quý trước. Thiếu niên nhìn ông, ông như người giữ việc tiếp khách, bèn nhận nửa lễ chủ nhân, kế cha vợ chàng rể làm lễ với nhau, rồi ngồi vào bàn. Giây lát đám phụ nữ kéo lên đông đúc, rượu thịt bày ra la liệt, chén ngọc bình vàng sáng rực bàn ghế. Rượu được vài tuần, ông già gọi tỳ nữ mời tiểu thư ra, hồi lâu không thấy tới. Ông già đứng dậy vén màn hối thúc, giây lát một đám bà vú tỳ nữ đưa cô dâu ra, tiếng vòng ngọc lanh canh, mùi lan xạ thơm phức. Ông già bảo lạy người trên, nàng lạy xong đứng dậy tới ngồi cạnh mẹ, ông liếc nhìn thấy trâm phuợng dát ngọc biếc, vòng tai khảm minh châu, dung mạo đẹp tuyệt trần. Kế đó rót rượu vào chén vàng lớn chứa được vài đấu, ông nghĩ vật này có thể lấy để làm chứng với bạn bè bèn lén bỏ vào tay áo rồi giả say nằm phục lên bàn ngủ vùi. Mọi người đều nói "Tướng Công say rồi".
Không bao lâu nghe chàng rể xin rước dâu về, tiếng đàn sáo lại trỗi vang, nhộn nhịp xuống lầu ra đi. Kế chủ nhân dọn dẹp mâm chén thấy thiếu một cái chén uống rượu, tìm mãi không được, có người nói trộm là ông khách đang ngủ lấy, ông già vội bảo im, sợ ông nghe được. Lát sau trong ngoài yên ắng, ông mới trở dậy, thấy tối om không có đèn đuốc gì, chỉ còn mùi hương hơi rượu vẫn sực nức cả bốn bên.
Nhìn ra phía đông thấy trời đã rạng bèn thong thả bước ra, mò trong tay áo thì cái chén vàng vẫn còn, ra tới cổng thì các bạn bè học trò đã chờ sẵn, ngờ là ông đang đêm trở ra rồi gần sáng mới vào. Ông bèn đưa cái chén ra cho họ xem, mọi người kinh ngạc hỏi thăm, ông bèn kể lại mọi việc. Bạn bè đều nghĩ rằng học trò nghèo không thể có được vật này mới tin lời.
Về sau ông đỗ Tiến sĩ, làm quan ở huyện Phì Khâu (tỉnh Sơn Đông). Có nhà thế gia họ Chu mời ông ăn tiệc, sai lấy chén lớn uống rượu, lâu không thấy đem ra. Có đứa hầu nhỏ nói thầm với chủ nhân, chủ nhân có dáng tức giận. Giây lát mang chén vàng ra rót rượu mời khách uống, ông nhìn thì kiểu chén nét chạm giống hệt với cái thén của hồ, lấy làm ngờ vục bèn hỏi ở đâu chế tạo, chủ nhân đáp "Bộ chén này có cả thảy tám cái, đời cha ta làm quan khanh trong kinh tìm thợ giỏi chế ra, là vật gia bảo truyền đời, cất kỹ đã lâu. Nay được phủ quân hạ cố mới cho lấy trong hòm ra, thì chỉ còn có bảy cái. Ngờ là người nhà ăn trộm, nhưng dấu niêm phong mười năm vẫn còn nguyên, thật là không sao hiểu nổi". Ông cười nói "Chén vàng mọc cánh bay rồi, nhưng vật báu truyền đời không nên để mất, ta có một cái cũng hơi giống, xin đưa lại tặng".
Xong tiệc về dinh, lấy cái chén ruợn sai người đưa tới, chủ nhân xem kỹ rất hoảng sợ, đích thân qua cám ơn ông, hỏi từ đâu mà có. Ông bèn kể rõ đầu đuôi, mới biết vật trong vòng ngàn dặm thì hồ vẫn có thể lấy được, chỉ không dám giữ luôn mà thôi.
008. Kiều Na (Kiều Na)
Khổng sinh Tuyết Lạp là dòng dõi Khổng phu tử, học vấn uẩn súc, giỏi làm thơ. Có người bạn học cũ làm Huyện lệnh Thiên Thai (tỉnh Chiết Giang) gủi thư mời, sinh tới thì người bạn vừa qua đời, bơ vơ không có tiền về, phải ngụ ở chùa Bồ Đà, chép thuê cho sư trong chùa.
Cách chùa hơn trăm bước về phía tây có tòa nhà của Đơn tiên sinh, vốn là con quan, vì chuyện kiện tụng nên sa sút, gia đình lại ít người bèn dời vào ở trong làng, tòa nhà thành ra bỏ hoang.
Một hôm tuyết lớn, trên đường vắng tanh, sinh ngẫu nhiên đi ngang, có một thiếu niên từ trong đi ra, phong tư anh tuấn, thấy sinh thì rảo bước tới chào hỏi rất lễ phép, mời vào nhà chơi. Sinh vui vẻ theo vào, thấy phòng ốc không rộng rãi lắm nhung chỗ nào cũng buông màn gấm, trên tường treo đầy thư họa của cổ nhân, trước bàn có một quyển sách, ngoài bìa đề Loan hoàn tỏa ký, sinh mở xem một lượt, đều là những chuyện mình chưa bao giờ nghe thấy. Sinh cho rằng thỉếu niên ở tòa nhà của họ Đơn thì ắt là chủ nhà, nên không hỏi thăm gia thế. Thiếu niên gạn hỏi tình cảnh của sinh, tỏ ý thương xót, khuyên sinh mở trường dạy học. Sinh than rằng "Ở nơi đất khách quê người, có ai chịu dương danh mách mối?". Thiếu niên nói "Nếu không chê, thì chính ta xin thụ giáo đây!". Sinh mừng rỡ nhưng không dám nhận là thầy, chỉ xin làm bạn, nhân hỏi "Tại sao lâu nay nhà này đóng kín cửa thế?" Đáp "Đây là Đơn phủ, vì công tử vào ở trong làng, nên nơi này bỏ hoang đã lâu. Ta họ Hoàng Phủ, quê quán vốn ở đất Thiểm (tỉnh Thiểm Tây), vì nhà cửa bị hỏa hoạn nên tạm ở nhờ", sinh mới rõ thiếu niên không phải là Đơn.
Đêm ấy hai người chuyện trò rất vui vẻ, ngủ chung một giường. Tảng sáng có đứa tiểu đồng vào đốt lò, thiếu niên dậy trước vào nhà trong. Sinh vẫn còn khoác chăn ngồi trên giường thì tiểu đồng vào nói "Thái Công tới". Sinh ngạc nhiên vội đứng dậy, thấy một ông già bước vào, râu tóc bạc phơ, cảm tạ nói "Tiên sinh không bỏ thằng con khờ dại của lão mới chịu dạy bảo cho nó, nhưng nó mới tập viết tập đọc, xin đừng lấy cớ là bạn mà coi nó ngang hàng". Kế sai mang ra biếu một bộ áo gấm và mũ lông điêu cùng giày tất mỗi thứ một món, chờ sinh rửa mặt chải đầu xong thì gọi dọn rượu. Các thứ vật dùng trong nhà không biết tên gì, chỉ thấy sáng ngời lóa mắt. Uống vài chén, ông già đứng lên từ tạ, chống gậy đi vào. Cơm xong, thiếu niên đem văn bài ra trình, mấy bài toàn là lối cổ văn, không hề giống lối khoa cử. Sinh hỏi, thiếu niên cười đáp "Ta không cần làm quan".
Tối đến lại bày tiệc rượu, nói "Đêm nay uống thật say rồi thôi, từ ngày mai trở đi không được uống nữa". Rồi gọi tiểu đồng nói "Ngươi xem Thái Công đã đi nằm chưa, nếu rồi thì lén gọi Hương Nô ra đây". Tiểu đồng vào, lát sau ôm cái túi thêu đựng cây đàn tỳ bà ra trước, kế có một tỳ nữ mặc áo đỏ bước vào, dung mạo xinh đẹp. Thiếu niên sai gảy khúc Tương phi, nàng cầm phím ngà gảy đàn, trầm bổng bi ai, tíét tấu khác hẳn nhạc thường. Lại sai mang chén lớn ra uống rượu, đến canh ba mới thôi. Hôm sau cũng dậy sớm đọc sách, thiếu niên rất thông minh, đọc qua là nhớ, sau hai ba tháng đã làm văn rất hay, bèn hẹn với sinh cứ năm ngày cùng nhau uống rượu một lần, lần nào cũng gọi Hương Nô tới góp vui.
Một đêm sinh say rượu nóng mặt cứ nhìn Hương Nô chằm chằm, thiếu niên hiểu ý nói "Đứa tỳ nữ này là gia phụ nuôi dạy từ lâu, ông trơ trọi không có gia đình, ta đã sớm hôm nghĩ tới lâu rồi, đang tính cho ông một mối rất xứng đáng". Sinh nói "Nếu có lòng tốt, phải tìm cho ta một người như Hương Nô mới được". Thiếu niên cười đáp "Ông thật là người thấy ít nên lạ nhiểu, như nó mà anh cho là đẹp thì sở nguyện của anh cũng dễ thỏa mãn thôi".
Được nửa năm sinh muốn ra ngoài dạo chơi, nhưng tới cổng thì hai cánh khóa chặt, hỏi thì thiếu niên đáp "Gia phụ sợ giao du làm rộn tâm trí nên đóng cửa tạ khách thôi!", sinh từ đó cũng ở yên.
Gặp hôm nóng bức dời ra học ngoài vườn, bụng sinh chợt nổi lên cái ung như trái đào, qua đêm lớn bằng cái chén, đau đớn rên rỉ, thiếu niên sớm tối săn sóc bỏ cả ăn ngủ. Vài hôm sau đau hơn, càng không ăn uống gì được, Thái Công cũng tới thăm, đứng nhìn thở dài. Thiếu niên nói "Đêm trước con nghĩ chứng bệnh của tiên sinh chắc em Kiều Na chữa được, đã cho người đến nhà bà ngoại gọi về, sao lâu quá chưa thấy tới". Bỗng tiểu đồng vào thưa "Cô Na đã tới, cả dì với Cô Tùng cũng cùng tới" , hai cha con vội ra đón. Lát sau thiếu niên đưa em gái lại, khoảng mười ba mười bốn tuổi, dung mạo xinh đẹp, dáng vẻ yểu điệu, sinh vừa nhìn thấy chợt quên cả đau đớn, tinh thần khỏe khoắn hẳn lên. Công tử nói "Đây là bạn thân của ta, tình như ruột thịt, nhờ em chữa bệnh giùm".
Cô gái bèn giấu vẻ thẹn thùng, vén tay áo dài tới trước giường thăm bệnh, trong lúc cầm tay bắt mạch, sinh ngửi thấy mùi hương thơm ngát. Cô gái cười nói "Tâm mạch động thì phải có bệnh này, nhưng tuy là chứng nguy hiểm vẫn có thể chữa được. Có điều cái ung đã lớn, phải rạch da khoét thịt mới xong".
Rồi tháo chiếc xuyến vàng trên cánh tay đặt lên chỗ đau từ từ ấn xuống, cái ung chợt nổi cao lên khoảng một tấc so với da thịt bên ngoài nhưng toàn bộ vùng bầm tím bên dưới đều gom cả vào bên trong chiếc xuyến chứ không loang rộng bằng cái chén như trước. Kế vén áo lấy ra một thanh bội đao mỏng như tờ giấy, đè xuyến cầm đao nhè nhẹ cắt chung quanh, máu bầm phun ra ướt đẫm giường chiếu.
Sinh thích vì được kề cận ngươi đẹp nên chẳng những không thấy đau đớn mà còn sợ việc mổ xẻ mau xong, không được ở cạnh nàng lâu. Phút chốc nàng đã cắt hết thịt thối, lục cục lòn hòn như những u bướu trên thân cây, lại gọi đem nước để rửa chỗ mới cắt, kế nhả ra một hoàn thuốc màu đỏ to bằng viên đạn lớn đạt lên thoa khắp xung quanh. Mới một vòng đầu chàng thấy nóng rần, vòng thứ hai thì thấy xót ngứa, vòng thú ba thì khắp thân thể mát mẻ. Cô gái thu viên hồng hoàn lại ngậm vào miệng, nói "Khỏi rồi đấy!", rồi rảo bước đi ra. Sinh nhảy phắt dậy, chạy theo cảm tạ.
Bệnh tật lâu ngày dường như hết sạch, nhưng từ đó trở đi cứ mơ tưởng dáng vẻ của nàng không khuây, bỏ bê sách vở, chỉ ngồi ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Công tử thấy thế nói "Đệ đã tìm chọn được một mối tốt đẹp cho huynh rồi!". Sinh hỏi là ai, Công tử đáp "Cũng là họ hàng với đệ". Sinh nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói "Thôỉ đừng!", rồi quay vào tường ngâm hai câu thơ cổ "Đã qua bể thẳm khôn còn nước, Ngoài chốn non Vu chẳng có mây*" Công tử hiểu ý, nói "Cha ta vẫn mến tài ông, thường muốn kết hôn nhân, nhưng ta chỉ có một đứa em gái còn quá nhỏ. Có con gái dì ta tên A Tùng, đã mười bảy tuổi không đến nỗi xấu xí. Nếu không tin, thì hàng ngày Cô Tùng vẫn dạo chơi ngoài vườn, ông núp trong hiên nhìn xem.
* Đã qua... có mây: nguyên văn là "Tằng kinh thương hải nan vi thủy, Trừ khước Vu Sơn bất thị vân", câu trong năm bài Khiển bi hoài của Nguyên Chẩn thời Đường khóc vợ chết.
Sinh theo lời, quả thấy Kiều Na dắt một mỹ nhân ra vườn, mày vẽ cong vút, chân mang giày phượng, xinh đẹp tương tự Kiều Na. Sinh cả mừng nhờ Công tử làm mối giùm.
Hôm sau công tử ở nhà trong đi ra, chúc mừng rằng "Việc xong rồi". Rồi dọn một chỗ ở riêng cho sinh làm đám cưới. Đêm ấy nhạc trỗi vang nhà, sinh như thấy người tiên trong trăng, đến khi cùng chăn gối lại ngờ cung điện Quảng Hàn chưa chắc đã ở trên trời cao. Sau khi thành vợ chồng, đôi bên rất tâm đầu ý hiệp.
Một đêm công tử nói với sinh "Cái ơn dạy bảo không lúc nào quên, nhưng gần đây Đơn tiên sinh kiện cáo đã xong, đòi nhà rất gấp nên định bỏ nơi này về Thiểm Tây, khó lại hội họp cùng nhau, trong lòng lấy làm vương vấn". Sinh xin đi cùng nhưng công tử khuyên nên về quê Sinh lấy làm khó khăn, công tử nói "Đừng lo, ta có thể tiễn ông về ngay lập tức". Không bao lâu ông già dẫn Tùng nương tới, lấy một trăm lượng vàng tặng sinh, công tử nắm tay hai vợ chồng, dặn nhắm mát đừng nhìn, rồi lướt đi trên không, chỉ nghe gió vi vút bên tai, hồi lâu công tử nói "Tới rồi!". Sinh mở mắt quả thấy quê mình, mới rõ công tử không phải là người. Mừng rỡ về gõ cửa, mẹ không ngờ con về, lại thấy con có vợ đẹp vui vẻ chuyện trò, đến khi nhìn lại thì công tử đă biến mất.
Tùng nương thờ phụng mẹ chồng rất hiếu thảo, đức hiền sắc đẹp đồn dậy xa gần. Sau sinh thi đỗ Tiến sĩ, được bổ chức Tư lý coi việc hình ở Diên An, đem cả nhà đi phó nhiệm, duy mẹ ngại đường xa không đi. Tùng nương sinh một con trai, đặt tên là Tiểu Hoạn. Sinh vì trái ý quan trên nên bị bãi chức, nhưng vì còn có việc trở ngại nên chưa về quê đuợc.
Một hôm ngẫu nhiên đi săn ngoài đồng, gặp một thiếu niên đẹp trai cưỡi ngựa thanh câu cứ ngoảnh nhìn mình, nhìn kỹ thì là Hoàng Phủ Công tử. Hai người cùng dừng ngựa buông cương, mừng mừng tủi tủi. Công tử mời sinh đi tới một thôn cây cối um tùm không thấy ánh mặt trời, vào nhà thì son son thếp vàng rực rỡ, rõ ràng là nhà thế tộc. Hỏi thăm cô em thì đã lấy chồng, bà nhạc đã mất vô cùng đau xót. Sinh nghỉ qua đêm rồi từ biệt ra về, dắt vợ cùng tới. Kiều Na cũng tới, bế con sinh đùa giỡn, nói "Bà chị làm rối loạn dòng giống nhà ta rồi". Sinh tạ ơn cứu mạng ngày trước nàng cười nói "Nay anh rể quý hiển, vết thương đã liền miệng, còn chưa quên nỗi đau à?" Chồng nàng là Ngô lang cũng tới chào sinh, ở qua đêm rồi đi.
Một hôm Công tử có vẻ lo lắng nói với sinh "Trời giáng tai họa, có cứu nhau được không?" sinh không biết chuyện gì nhưng cũng hăng hái nhận lời. Công tử bèn rảo bước ra gọi cả gia đình vào sảnh đường xếp hàng quỳ lạy. Sinh cả sợ vội hỏi, Công tử nói "Ta không phải là người mà là hồ. Hôm nay có tai nạn bị sét đánh, nếu ông chịu lấy thân ra cứu nạn thì cả nhà có thể được toàn sinh, nếu không thì xin ông bế con đi ngay cho khỏi bị vạ lây?". Sinh thề cùng sống chết, Công tử bèn bảo sinh cầm gươm đứng trấn ngoài cửa, dặn "Sấm sét đánh ầm ầm cũng đừng động đậy".
Sinh theo lời, quả thấy mây mù kéo tới che khuất ánh ngày, trời đất tối đen, ngoảnh nhìn chỗ ở cũ không thấy phòng ốc nhà cửa gì cả, chỉ thấy gò cao chót vót, hang sâu thăm thẳm. Đang lúc kinh ngạc thì một tiếng sét nổ ầm ầm chấn động núi non, mưa to gió lớn bật gốc cả những cây lâu năm, sinh hoa mắt choáng tai nhưng vẫn đứng sừng sững không hề nhúc nhích. Bỗng trong đám gió âm mây tối có một con quỷ mỏ sắc móng dài quắp một người trong hang ra bay thẳng lên mây, sinh thoáng thấy áo giày giống hệt Kiều Na vội nhảy lên vung kỉếm chém theo, người kia theo tay rơi xuống. Chợt núi lở sét ran, sinh ngã xuống bất tỉnh.
Lát sau trời tạnh, Kiều Na tỉnh dậy thấy sinh chết bên cạnh, oà khóc nói "Khổng lang vì ta mà chết, ta làm sao sống được?". Tùng nương cũng vừa bước ra, cùng nhau vực sinh vào nhà. Kiều Na bảo Tùng nương ôm đầu sinh, bảo anh lấy trâm cạy răng rồi vạch miệng ra, dùng lưởi đẩy viên hồng hoàn vào, lại kề môi mà phà hơi vào. Viên hồng hoàn theo hơì vào cổ kêu ùng ục, lát sau sinh tỉnh dậy, thấy người nhà xúm cả chung quanh, giật mình thấy như vừa tỉnh mộng. Rồi đó cả nhà sum họp, qua cơn lo sợ lại càng vui vẻ.
Sinh nghĩ nơi mồ mả âm u không thể ở lâu, bàn cùng về quê mình. Mọi người đều tán thành, chỉ có Kiều Na không vui. Sinh muốn nàng và Ngô lang cùng về nhưng nàng lo cha mẹ chồng không chịu xa con trai nhỏ nên bàn bạc cả ngày chưa quyết. Chợt một đưa tớ nhỏ nhà họ Ngô mồ hôi ròng ròng, hơi thở hơn hển chạy tới, mọi người hoảng sợ hỏi han thì ra cũng ngày hôm ấy cả nhà Ngô lang bị tai nạn sét đánh chết hết. Kiều Na giẫm chân đau xót khóc lóc, mọi người cùng nhau khuyên giải, việc cùng về quê sinh mới quyết.
Sinh vào thành sắp xếp vài hôm rồi gấp rút sửa soạn hành lý lên đường. Về tới nhà cắt khu vườn trống cho công tử ở, nhà thường khóa trái, sinh hay Tùng nương tới mới mở. Sinh cùng anh em công tử chén rượu cuộc cờ, chuyện trò thân mật như người một nhà. Tiểu Hoạn lớn lên diện mạo xinh xắn, hơi có vẻ hồ, ra phố chơi người ta đều biết là con của hồ.
Dị Sử thị nói: Ta không khen Khổng sinh về việc được vợ đẹp mà khen ở việc được bạn hiền thôi. Nhìn mặt có thể quên đói, nghe giọng có thể mỉm cười, được người bạn tốt như thế thì một lần trò chuyện yến ẩm có thể trao cả hồn phách cho, còn hơn cả điên đảo áo xiêm vậy.
009. Yêu Thuật (Yêu Thuật)
Ông Vu lúc trẻ hào hiệp, thích quyền thuật, sức có thể cầm hai thùng nước giơ cao lên múa may như gió lốc. Trong niên hiệu Sùng Trinh thời Minh (1628-1643) lên thi điện ở kinh đô, ngươi đầy tớ mắc bệnh không dậy nổi, Vu lo lắm.
Gặp lúc ở chợ có người thầy bói giỏi, có thể biết chuyện sống chết của người ta, Vu bèn tới xem cho người đầy tớ. Vừa tới nơi chưa kịp nói gì thì người thầy bói nói ngay "Ông định hỏi về bệnh của người đầy tớ phải không?", ông hoảng sợ vâng dạ. Người thầy bói nói "Người bệnh thì không sao chứ ông thì nguy đấy".
Ông bèn xem cho mình, người thầy bói gieo quẻ xong, ngạc nhiên nói "Sau ba ngày nữa ông sẽ chết". Ông kinh ngạc hồi lâu, người thầy bói ung dung nói "Bỉ nhân có thuật mọn, nếu ông đưa ta mười lượng vàng, ta sẽ khẩn cầu giúp cho". Ông nghĩ thầm sống chết có số, phép thuật nào cứu được nên không đáp, đứng dậy định về. Ngườì thầy bói nói "Tiếc chút ít tiền như vậy thì đừng hối hận, đừng hối hận". Những người yêu mến ông đều lo lắng thay, khuyên cứ dốc túi cầu xin nhưng ông không nghe.
Thấm thoát đến ngày thứ ba, ông ngồi ở nhà trọ im lặng chờ xem nhưng cả ngày không có gì lạ. Đêm đến đóng cửa khêu đèn, chống kiếm ngồi thẳng, hết canh một vẫn không thấy có gì làm mình chết đuợc đã toan đi ngủ. Chợt nghe chỗ song cửa sổ có tiếng loạt soạt, vội nhìn ra thấy một người nhỏ bé vác giáo chui qua kẽ hở mà vào, rơi xuống đất thì cao vọt lên như người thật. Ông nắm kiếm bặt dậy xông vào chém, người ấy theo gió dạt ra chưa trúng kiếm nhưng chợt nhỏ lại như cũ, lui lại chỗ kẽ hở cửa sổ định chạy. Ông chém vội nhát nữa, ngườỉ ấy theo kiếm ngã lăn ra, cầm đèn tới xem thì ra là một hình nhân bằng giấy bị chém đứt ngang lưng.
Ông không dám đi nằm, lại ngồi xuống chờ. Lát sau lại có một vật chui qua song cửa sổ vào, mặt mũi hung ác như quỷ. Ông chờ nó vừa rơi tới đất là xông vào chém ngay, nó bị đứt làm hai đoạn mà vẫn còn động đậy. Ông sợ nó lại vùng dậy bèn chém liên tiếp, nhát nào cũng trúng nghe bồm bộp, nhìn kỹ lại thì là một pho tuợng bằng đất, nát vụn cả ra.
Rồi đó ông kéo ghế tới ngồi trước cửa sổ chăm chú nhìn vào khe hở, hồi lâu nghe bên ngoài có tiếng thở mạnh như bò rồi có một vật lay mạnh song cửa, vách phòng rung lên muốn đổ xuống. Ông sợ bị tường sập đè lên, nghĩ chẳng bằng cứ ra đánh nhau, bèn đạp cửa sấn ra. Thấy một con quỷ to lớn cao ngang mái nhà, trong ánh trăng mờ mờ thấy mặt đen như than, mắt sáng rực lóe ánh vàng, trên người không áo, duới chân không giày, tay cầm cung lưng đeo tên. Còn đang hoảng sợ thì quỷ đã phát tên, ông vung kiếm gạt mũi tên rơi xuống đất, định sấn vào chém thì nó bắn tiếp phát nữa, ông vội nhảy qua tránh, mũi tên găm vào vách tường nghe phằm phặp, quỷ tức quá rút đao vung múa như gió chém mạnh tới. Ông sấn mau vào, thanh đao chém trúng tảng đá trong sân, tảng đá đứt đôi. Ông từ dưới khuỷu tay nó phóng kiếm đâm trúng ngực nghe leng keng, quỷ càng tức giận gào thét như sấm, xoay người chém nhát nữa. Ông lại cúi xuống lòn vào, thanh đao chém xuống đứt ống quần ông. Ông đã vào sát dưới ngực nó, hết sức chém mạnh, cũng nghe keng một tiếng, quỷ lăn ra nằm cứng đờ. Ông chém túi bụi vào nó, nghe tiếng vang như mõ, cầm đèn ra xem thì là một pho tượng gỗ to lớn như người thật, cung tên còn buộc ở lưng, mặt mũi chạm khắc rất hung dữ, những chỗ trúng kiếm đều có vết máu.
Ông bèn đốt đuốc chờ đến sáng, mới sực nghĩ ra rằng đám quỷ này đều do người thầy bói sai tới giết người để chứng tỏ thuật bói toán của y thần kỳ. Hôm sau ông kể cho tất cả bạn thân nghe rồi cùng nhau kéo tới chỗ người thầy bói. Người thầy bói thấy ông từ xa liền biến mất không thấy đâu nữa. Có người nói "Đó là thuật tàng hình, máu chó có thể phá được". Ông theo lời về chuẩn bị đầy đủ rồi tới. Người thầy bói lại biến mất như lần trước, ông vội lấy máu chó hất vào chỗ y đứng, thì thấy y đầu tóc mắt mũi dính máu chó bê bết, hai mắt rừng rực đứng như con quỷ, bèn bắt trói giải lên quan giết đi.
Dị Sử thị nói: Thường nói xem bói vì có điều nghi ngờ, song những kẻ hiểu đạo ấy mà không lầm về sự sống chết lại không có mấy người, nên xem bói mà lầm không bằng không xem bói. Vả lại cho dù nói rõ được ngày chết của ta thì có làm được gì? Huống hồ lại có kẻ mượn mạng sống của người để chứng tỏ thuật bói toán của mình là thần kỳ, thật chẳng rất đáng sợ sao?
010. Diệp Sinh (Diệp Sinh)
Diệp sinh người huyện Hoài Dương (tỉnh Hà Nam) không rõ tên tự, văn chương tư phú đứng đầu một thời nhưng không thành đạt, lận đận mãi nơi trường ốc. Gặp lúc ông Đinh Thừa Hạc người Đông Quan tới làm Tri huyện ở đó, xem văn chương của sinh lấy làm lạ bèn mời tới nói chuyện, rất vừa ý liền sai ở lại trong dinh, giúp cho ăn học, thỉnh thoảng lại cho tiền thóc để giúp đỡ gia đình.
Đến kỳ khảo khóa, ông khen ngợi văn tài của sinh với quan Học sứ, kế sinh đỗ đầu, ông rất mong mỏỉ vào sinh, thi hương xong đòi văn bài của sinh để đọc, gỏ bàn đánh nhịp ngợi khen không ngớt. Không ngờ thời vận cản người, văn chương ghen mệnh, khi ra bảng thì sinh rớt, trở về ngơ ngác thẫn thờ, thẹn đã phụ lòng tri kỷ, thân gầy rộc như bộ xương, người ngây ra như tượng gỗ.
Ông nghe tin mời tới an ủi, sinh rơi lụy không thôi. Ông thương xót, hẹn lúc nào hết hạn về kinh sẽ đưa sinh cùng đi. Sinh rất cảm kích cáo từ ra về, đóng cửa không đi đâu nữa. Không bao lâu sinh lâm bệnh, ông thăm hỏi biếu tặng không ngớt nhưng sinh uống bao nhiêu thuốc vẫn không khỏi. Gặp lúc ông xúc phạm quan trên bị cách chức, lúc sắp về quê bèn viết thư cho sinh, đại lược rằng "Ta nay mai sẽ về Đông nhưng sở dĩ còn chần chừ là vì muốn chờ túc hạ đó thôi. Túc hạ tới buổi sáng thì buổi chiều ta khởi hành".
Thư đưa tới cạnh giường, sinh cầm thư xem khóc rồi nhắn người đưa thư về nói bệnh nặng khó khỏi ngay, xin ông cứ đi trước. Người ấy về thưa lại, ông không nỡ đi, nán lại để chờ. Qua mấy hôm chợt người canh cổng vào báo Diệp sinh tới, ông mừng rỡ ra đón hỏi han. Sinh nói "Vì cái bệnh của kẻ hèn để đại nhân phải chờ lâu, lòng rất áy náy, nay may đã có thể theo hầu".
Ông bèn gói ghém hành trang đi sớm, về tới làng sai con thờ sinh làm thầy, sớm tối bên nhau. Công tử tên Tái Xương, năm ấy mười sáu tuổi, chưa biết làm văn nhưng rất thông minh, sách vở thơ phú đọc qua hai ba lần là nhớ không sót một chữ. Được một năm thì công tử hạ bút thành văn, thêm có ông lo toan nên được vào học trường huyện. Sinh chép lại tất cả văn chương cử nghiệp của mình đã làm cho công tử học, đến khi vào trường thi, bảy đầu đề không sai đề nào, công tử liền đỗ á khôi.
Một hôm ông nói với sinh "Ông bỏ ra một mối tơ thừa mà giúp thằng nhỏ thành danh, nhung quả chuông vàng bị vứt bỏ mãi thì làm sao?". Sinh nói "Điều đó là có số mẹnh. Ta mượn phúc trạch của đại nhân mà hà hơi cho văn chương để người đời biết rằng nửa đời lận đận không phải vì kém tài, thế là thỏa nguyện rồi. Vả lại kẻ sĩ được một người biết đã đủ không ân hận, cần gì phải đỗ đạt mới đắc chí?".
Ông thấy sinh xa nhà đã lâu, sợ lỡ kỳ sát hạch hàng năm, khuyên nên về thăm. Sinh rầu rĩ không vui, ông không nỡ ép bèn dặn công tử khi đến kinh thì nộp tiền mua chức cho sỉnh. Công tử lại đỗ kỳ thi hội, được bổ chức Chủ chính trong bộ, đưa sinh vào Giám, sớm tối có nhau.
Qua năm sau sinh thi hương ở kinh đỗ Cử nhân, gặp lúc công tử được bổ chức Điển vụ ở Hà Nam, nhân nói với sinh "Chuyến này đi không xa quý hương, nay tiên sinh đắc chí mây xanh, áo gấm về làng cũng hay". Sinh cũng mừng liền chọn ngày tốt lên đường, tới địa giới Hoài Dương thì công tử sai người ngựa đưa sinh về.
Tới nhà thấy cổng ngõ tiêu điều, sinh bùi ngùi lững thững đi vào sân. Vợ cầm cái nia đi ra, thấy sinh thì vứt xuống hoảng sợ bỏ chạy. Sinh buồn rầu nói "Ta nay đã nên danh phận, mới ba bốn năm không gặp, sao lại như không quen nhau thế?". Vợ đứng xa nói "Chàng chết đã lâu, sao còn nói là nên danh phận? Sở dĩ còn quàn linh cữu trong nhà là vì nhà nghèo con nhỏ mà thôi. Nay con cũng đã khôn lớn, đang tìm đất chôn cất, chàng đừng hiện hồn để dọa người còn sống". Sinh nghe nói ngậm ngùi, lững thững đi vào trong phòng, nhìn thấy linh cữu mình liền ngã xuống đất biến mất. Vợ kinh hãi nhìn lại chỉ thấy áo mũ không như cái xác ve lột, vô cùng thương xót ôm lấy khóc lóc.
Con trai sinh đi học về, thấy ngựa xe trước cổng bèn hỏi han rồi hoảng sợ chạy vào báo cho mẹ, mẹ gạt nước mắt kể lại, lại hỏi kỹ những người theo hầu mới biết rõ đầu đuôi. Người theo hầu về báo, công tử nghe tin nước mắt ròng ròng, lập tức sai thắng xe ngựa tới nhà sinh khóc lóc rồi bỏ tiền ra làm ma chay, chôn cất sinh theo lễ Hiếu liêm. Lại tặng tiền bạc cho con sinh rất hậu, đón thầy về dạy cho và nói với quan Học sứ, qua năm sau con sinh được vào học trường huyện.
Dị Sử thị nói: Hồn theo tri kỷ nên quên cái chết ư? Người khác nghe thì ngờ chứ ta thì tin lắm. Thiến Nương cùng lòng, hồn từng lìa khỏi gối 1, bạn bè ngàn dặm, dường còn nhận trong mơ 2, huống hồ tơ tằm vết nhặng, văn nhân quen bày tỏ tâm can 3, nước chảy non cao 4, học giả vẫn coi như tính mạng sao! Than ôi, gặp gỡ khó hẹn ngày, tao phùng không xứng ý nên hành tung trôi nổi để trước bóng ôm sầu, ngạo khí lăng tằng mà gãi đầu xót phận, than mặt mày tê gió bụi, bị ma quỷ tới cợt đùa 5. Ngoài bảng Tôn Sơn 6, thơ phú theo Công danh lạt lẽo, trong phường thi rớt, tóc râu cùng năm tháng phôi pha. Khóc ròng suốt trong kim cổ, chỉ có Biện Hòa 7, ngựa hay không được đoái hoài, nào ai Bá Nhạc 8. Ôm danh thiếp ba năm nhạt chữ 9, nhìn thân mình bốn bể không nhà. Người sống trên đời chỉ nên nhắm mắt đưa chân, mặc cho con tạo xoay vần mà thôi. Chứ trên đời những người tài giỏi mà lận đận như Diệp sinh chắc cũng không ít, mà lại muốn có Lệnh Uy trở lại 10 để họ theo mà sống chết chăng? Ôi!
1. Thiến Nương... khỏi gối: Ly hồn ký chép Trương Dật có con gái tên Thiến Nương rất xinh đẹp, đã hứa gả cho cháu là Vương Trụ, sau có người khác tới hỏi cưới, Dật ưng thuận. Cô gái nghe tin rất uất ức, Trụ cũng căm hờn bỏ đi, nửa đêm thấy một người lên thuyền theo, nhìn ra thì là cô gái, bèn đưa nhau trốn đi. Năm năm sau sinh được hai con trai, cô gái nhớ cha muốn về thăm, Trụ về trước xin lỗi Dật thì Thiến Nương đã bệnh nằm liệt giường năm năm rồi. Đến khi cô gái vào nhà thì cô gái trong phòng mừng rỡ chạy ra, hai người liền nhập vào làm một.
2. Bạn bè... trong mơ. Hàn phi tử chép thời Chiến quốc Trương Mẫn và Cao Huệ chơi thân với nhau, Mẫn nhớ Huệ nhưng đường xa không đi thăm được bèn tìm tới Huệ trong giấc mộng nhưng nửa đường lạc lối phải quay về, như thế ba lần.
3. Tơ tằm: tơ tằm lấy từ câu trong Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp "Chương cú tại thiên như kiển chi trừu tự" (Câu chữ trong bài như rút tơ tằm trong kén), chỉ việc dụng công làm văn. Vết nhặng nguyên văn là "nhăng tích", chưa rõ điển tích song có lẽ cũng chỉ việc làm văn nói chung. Văn nhân... tâm can lấy tích Lý Hạ thời Đường ra khỏi nhà thì dắt đứn tiểu đồng mang cái túi gấm cũ theo, nghĩ được câu thơ nào hay là viết bỏ vào túi, chiều tối trở về ngồi nghĩ cho thành bài, bà mẹ nói "Con thì phải tỏ bày cho hết gan ruột mới chịu thôi".
4. Nước chảy non cao: nguyên văn là "lưu thủy cao sơn". Lữ thị Xuân thu chép Bá Nha đánh đàn, Chung Tử Kỳ ngồi nghe, lúc Bá Nha nghĩ tới núi cao, Tử Kỳ nói "Hay làm sao, vòi vọi như núi Thái", lúc Bá Nha nghĩ tới nước trôi, Tử Kỳ nói "Hay làm sao, cuồn cuộn như nước chảy". Sau người ta dùng tích này chỉ kẻ tri âm tri kỷ.
5. Ma quỷ tới cợt đùa: Thế thuyết chép La Hữu thời Tấn nhà nghèo theo Hoàn Ôn, Ôn chu cấp cho nhưng không dùng. Sau trong phủ Hoàn Ôn có người được cử làm Quận thú, Ôn mở tiệc đưa tiễn, Hữu tới sau cùng. Ôn hỏi sao tới chậm, Hữu đáp "Được lệnh ông gọi đã ra đi từ sáng sớm, nhưng dọc đường gặp một con quỷ chế nhạo, nói Ta chỉ thấy ngươi tiễn người khác đi làm quan chứ chẳng thấy người khác tiễn ngươi đi làm quan, vì vậy nên tới muộn". Đây chỉ việc trắc trở công danh.
6. Ngoài bảng Tôn Sơn: Thi thoại chép Tôn Sơn thời Đường đi thi đỗ cuối bảng, có người cùng dự thi vờ tới hỏi thăm, Sơn đáp "Cuối bảng là Tôn Sơn, Người khác thì ngoài bảng". Đây chỉ việc thi rớt.
7. Khóc ròng... Biện Hòa: Hàn Phi tử chép Biện Hòa người nước Sở dâng viên ngọc chưa đẽo gọt cho Hoài vương, Hoài vương cho là viên đá bèn chặt chân trái của Hòa. Hoài vương chết, Hòa lại dâng cho Bình vương, Bình vương cũng cho là khi quân, sai chặt chân phải của Hòa. Bình vương chết, Kinh vương lên ngôi, Hòa ôm viên ngọc khóc dưới núi. Kinh vương biết chuyện sai thợ khéo gọt giũa, phá lớp đá ngoài thì được một viên ngọc rất đẹp, bèn phong Hòa làm Lăng Dương hầu. Cả câu ý nói có tài mà không được ai biết tới.
8. Ngựa hay... Bá Nhạc: Chiến quốc sách chép Bá Nhạc giỏi xem tướng ngựa, một hôm vào chợ bán ngựa chơi, có người bán ngựa hay tới nói "Ta đứng bán ở đây đã ba ngày mà không ai hỏi tới. Nhờ ông đi một vòng rồi tới nhìn ngựa của ta, nhìn xong quay đi nhưng lại ngoái đầu nhìn lại, ta xin dâng số tiền lời của một ngày". Nhạc theo lời, chỉ trong một buổi sáng người ấy đã bán đuợc giá gấp mười. Đây ý nói có tài mà không được ai giúp đỡ tiến cử.
9. Ôm danh thiếp... nhạt chữ: Hậu Hán thư, Trương Hành truyện chép Trương Hành tới đất Lạc chơi, mang theo một tấm danh thiếp nhưng không có ai để yết kiến mà đưa nên lâu ngày chữ trên tấm danh thiếp phai hết.
10. Lệnh Uy trỡ lại: Hậu Sưu thần ký chép Đinh Lệnh Uy là ngừời Liêu Đông vào núi Linh Hư học đạo, sau hóa thành con chim hạc bay về quê đậu trên cây hoa biểu nói "Hữu điểu hữu điểu Đinh Lệnh Uy, Khứ gia thiên niên kim thủy quy. Thành quách như cố nhân dân phi, Hà bất học tiên gia luy luy" (Có chim có chim Đinh Lệnh Uy, Học đạo ngàn năm nay mới về, Thành quách như xưa người đã khác, Sao chẳng theo tiên hóa hạc đi) .
011. Vị Tiên Họ Thành (Thành Tiên)
Chu sinh người huyện Văn Đăng (tỉnh Sơn Đông) cùng Thành sinh học chung từ nhỏ nên kết thành bạn thân. Thành nhà nghèo, quanh năm phải nhờ vả Chu, so về tuổi thì Chu lớn hơn nên Thành gọi vợ Chu là chị dâu, giỗ tết qua lại như một nhà.
Vợ Chu sinh được một trai thì bị bạo bệnh chết, Chu cưới vợ kế họ Vương, Thành vì nàng nhỏ tuổi nên chưa từng xin gặp mặt. Một hôm em trai Vương thị tới thăm chị, Chu bày tiệc mời ở nhà trong. Gặp lúc Thành tới chơi, người nhà vào báo, Chu sai mời vào. Thành không vào mà từ tạ ra về, Chu bèn dời tiệc ra nhà ngoài rồi đuổi theo gọi Thành quay lại. Vừa ngồi vào bàn thì có người vào báo tin đầy tớ giữ trại cho nhà Chu bị quan huyện phạt đánh rất đau.
Nguyên là đầy tớ chăn trâu nhà quan Lại bộ họ Hoàng để trâu xéo lên ruộng của Chu nên đôi bên cãi nhau, tên chăn trâu chạy về báo với chủ bắt đầy tớ của Chu giải lên quan phạt đánh thật nặng. Chu hỏi rõ đầu đuôi rồi nổi giận nói "Thằng đầy tớ chăn lợn họ Hoàng kia sao dám làm thế. Cha nó còn phải hầu hạ ông nội ta, vừa đắc chí đã không coi ai ra gì à?". Rồi giận sôi lên đứng phắt dậy định qua tìm Hoàng, Thành ấn ngồi xuống nói "Thời buổi ngang ngược này vốn không phân đen trắng, huống chi quan lại ngày nay quá nửa là lũ cướp, chỉ là không cầm giáo đeo cung thôi".
Chu không nghe, Thành năn nỉ mấy lần rơi cả nước mắt mới chịu thôi nhưng vẫn không nguôi giận. Trằn trọc suốt đêm, sáng ra nói với gia nhân "Họ Hoàng khinh ta thì ta tức, nhưng cứ để đó. Còn quan huyện là quan của tnều đình chứ không phải là quan của bọn quyền thế, nếu có chuyện tranh chấp thì cũng phải hỏi cả đôi bên chứ sao lại như con chó suỵt đâu chạy đó được? Ta cũng kiện đầy tớ nhà kia xem y phân xử thế nào".
Đám gia nhân đều vun vào, Chu bèn quyết ý cầm đơn kiện tới gặp quan huyện. Quan huyện xé đơn ném xuống đất, Chu tức giận chửi mắng, quan vừa thẹn vừa tức bèn bắt giam Chu. Gần trưa Thành qua thăm mới biết Chu đã lên huyện thưa kiện, vội đuổi theo cản lại thì Chu đã bị giam vào ngục, giẫm chân không biết làm sao.
Lúc bấy giờ vừa bắt được ba tên giặc biển, quan huyện và Hoàng đút tiền dặn chúng khai Chu là đồng đảng rồi vịn vào đó mà lột mũ áo nhà nho, tra tấn tàn nhẫn. Thành vào ngục thăm nhìn nhau cay đắng, bàn việc lên kinh kêu oan. Chu nói "Nay vướng vào trọng án như chim trong lồng, tuy có chú em yếu ớt cũng chỉ làm được việc đưa cơm tù mà thôi".
Thành sốt sắng nhận đi, nói "Đây là phận sự của ta, lúc có nạn không giúp nhau thì còn bạn bè làm gì". Rồi lập tức lên đường, em Chu định đưa tiền lộ phí thì đã đi lâu rồi. Thành tới kinh đô, chưa biết tới cửa nào kêu thì nghe đồn vua sắp đi săn bèn tính toán núp trong khu chợ gỗ, kế xa giá đi qua liền ra sụp lạy kêu khóc. Sớ được chuẩn xét giao cho dịch trạm chuyển về bộ viện thẩm tra tâu lại.
Lúc ấy vụ án đã qua hơn mười tháng, Chu đã bị khép bừa vào tội hình. Hình viện nhận được ngự phê hoảng sợ, cho thẩm xét lại bản cung khai và lời nghị án. Hoàng cũng sợ, mưu giết Chu bèn hối lộ cho người coi ngục để tuyệt đường cơm nước. Em Chu mang thức ăn vào thăm cũng bị cấm ngặt, Thành lại tới Hình viện tố cáo sự khuất khúc, Chu được gia ơn đem ra hỏi cung thì đã đói lả không dậy nổi. Quan Hình viện tức giận cho đánh chết người coi ngục, Hoàng khiếp đảm phải bỏ ra mấy ngàn lượng vàng chạy chọt nên được mập mờ xóa tội, quan huyện thì vì làm trái pháp luật bị đi đày. Chu được thả về, càng phục Thành là can đảm.
Thành sau vụ kiện tụng thì tình đời nguội lạnh bèn rủ Chu cùng đi ở ẩn, nhưng Chu còn đắm đuối vợ trẻ nên nghe nói thì cười là viễn vông, Thành tuy không đáp song đã quyết ý. Sau khi chia tay, mấy ngày không thấy tới, Chu sai qua nhà thăm dò thì người nhà nghĩ rằng đang ở nhà Chu, cả hai nơi đều không thấy mới nghi ngờ. Chu biết là có chuyện lạ, sai người đi dò hỏi khắp các chùa quán hang động, thỉnh thoảng lại đem vàng lụa chu cấp cho con Thành.
Tám chín năm sau Thành chợt tìm về, đội khăn vàng mặc áo lông, rõ ràng là đạo sĩ. Chu cả mừng nắm tay hỏi "Anh đi đâu làm ta tìm khắp nơi?", Thành cười đáp "Mây ngàn hạc nội không ở nơi nào nhất định, nhưng sau khi chia tay may vẫn mạnh khỏe".
Chu sai bày tiệc, nói qua nỗi niềm xa cách, muốn Thành hoàn tục nhưng Thành chỉ cười không nói. Chu bảo "Ngu thay! Sao có thể bỏ vợ con như đôi giày rách được?". Thành cười nói "Không phải thế, người định bỏ ta chứ ta đâu bỏ được ai?". Hỏi nơi ở, Thành đáp là trên cung Thuợng Thanh núi Lao Sơn. Kế nằm gác chân ngủ, Chu mơ thấy Thành trần truồng đè lên người mình nặng muốn tức thở, kinh ngạc hỏi làm gì nhưng Thành không đáp.
Giật mình tỉnh dậy gọi không thấy Thành lên tiếng, nhỏm dậy mò thì đã đi đâu mất. Lát sau định thần mới biết đang trên giường của Thành, hoảng sợ nói "Tối qua không say mà sao lẫn lộn đến thế này?". Bèn gọi người nhà, người nhà thắp đèn lên thì thấy rõ ràng là Thành. Chu vốn nhiều râu bèn lấy tay sờ thì thấy cằm lơ thơ chỉ có vài sợi, liền cầm gương soi rồi ngạc nhiên nói "Thành sinh ở đây thì ta đi đâu?". Kế sực hiểu ra, biết Thành dùng ảo thuật gọi mình đi ở ẩn, muốn vào phòng vợ nhưng em trai thấy mặt mũi khác hẳn nên ngăn lại không cho. Chu cũng không có cách nào làm rõ liền sai sắp ngựa và đầy tớ đi tìm Thành.
Mấy ngày thì tới núi Lao, ngựa chạy nhanh nên đầy tớ theo không kịp, Chu dừng lại dưới gốc cây chờ. Thấy khách mặc áo lông qua lại rất đông, trong có một đạo nhân đưa mắt nhìn, Chu nhân hỏi Thành thì đạo sĩ cười đáp "Cũng có nghe tên, hình như ở cung Thuợng Thanh", nói xong bỏ đi. Chu nhìn theo thấy ông ta đi xa khoảng hơn một tầm tên lại dừng lại chuyện trò với một người, cũng chỉ vài câu rồi đi. Người kia dần dần tới gần thì ra là một người bạn học, thấy Chu kinh ngạc hỏi "Bao nhiêu năm không gặp, nghe người ta nói ông lên non học đạo mà nay còn dạo chơi ở nhân gian sao?". Chu kể lại chuyện lạ, người kia giật mình nói "Thế thì ta vừa gặp Thành sinh mà tưởng là ông. Mới đi chưa bao lâu, chắc cũng không xa đâu".
Chu rất lạ lùng, nói "Quái thật, sao mặt mũi của mình mà nhìn thấy lại không nhận ra được thế?". Người đầy tớ cũng vừa tới, vội đuổi theo nhưng không thấy bóng dáng Thành đâu, nhìn lên chỉ thấy mịt mù xa tắp, không biết nên đi hay về. Kế tự nghĩ không biết về đâu bèn quyết ý đuổi theo tới cùng, nhưng đường cheo leo hiểm trở không đi ngựa được bèn đưa ngựa cho đầy tớ dắt về, lần mò đi tiếp. Thấy xa xa có đứa tiểu đồng ngồi một mình vội rảo bước tới gần hỏi đường, nói rõ duyên cớ. Tiểu đồng tự xưng là đệ tử của Thành rổi mang giúp khăn gói dẫn Chu cùng đi, dãi gió dầm sương lặn lội rất xa, ba ngày mới tới lại không phải nơi thế gian vẫn gọi là cung Thượng Thanh.
Bấy giờ là giữa tháng mười mà hoa rừng nở đầy lối đi, không giống như đầu mùa đông. Tiểu đồng vào báo tin khách tới, Thành lập tức ra đón, Chu mới nhận ra hình dáng của mình. Thành cầm tay dắt vào bày tiệc trò chuyện, Chu thấy có nhiều chim chóc màu sắc lạ lùng dạn dĩ, tiếng như đàn sáo cứ tới đậu ngay chỗ ngồi mà hót, rất lấy làm lạ nhưng lòng trần còn tha thiết không có ý ở lại. Dưới đất trải hai tấm bồ đoàn, Thành kéo cùng ngồi, đến quá canh hai thì muôn mối lo nghĩ đều lặng xuống, chợt như chớp mắt bỗng thấy mình và Thành lại đổi thân hình cho nhau, ngờ vực đưa tay sờ cằm thì thấy rậm râu như cũ.
Sáng ra Chu muốn về ngay, Thành cố giữ lại, qua ba ngày thì nói "Xin cứ nghỉ một lúc, sáng sớm sẽ đưa ông về". Vừa thiu thiu thì nghe Thành gọi "Hành trang đã sẵn rồi?", bèn trở dậy theo đi, thấy đường khác hẳn lối cũ.
Không bao lâu thì thấy làng quê hiện ra trước mắt, Thành ngồi đợi bên đường bảo cứ tự về. Chu lôi kéo không được đành lủi thủi đi, về tới cổng nhà gõ không thấy thưa, đang định trèo tường vào thì cảm thấy thân nhẹ như chiếc lá, nhảy một cái đã qua khỏi, vượt mấy lớp tường thấp thì tới phòng ngủ. Thấy bên trong đèn đuốc sáng trưng, vợ còn chưa ngủ mà đang rì rầm trò chuyện với người khác. Chu nhấm nước bọt chọc thủng giấy dán cửa sổ nhìn vào thì ra vợ đang uống rượu với một tên đầy tớ, bộ dạng rất lả lơi. Chu giận sôi lên toan xông vào bắt nhưng sợ có một mình không thắng nổi bèn lặng lẽ lui lại mở cửa chạy ra nói với Thành nhờ giúp sức. Thành hăng hái đi theo thẳng tới phòng ngủ, Chu vác đá đập cửa, bên trong hoảng sợ nháo nhác. Chu càng đập gấp nhưng cửa đóng rất chặt, Thành rút gươm đưa một nhát, cánh cửa toác ra. Chu sấn vào, tên đầy tớ lao ra cửa chạy, bị Thành đứng ngoài vung gươm chém đứt cánh tay tới tận vai. Chu bắt vợ tra vấn mới biết lúc mình bị giam thì nàng đã tư thông với tên đầy tớ, bèn mượn gươm chặt đầu vợ, khoét ruột treo lên cành cây trước sân rồi theo Thành trở ra.
Đang tìm đường về núi chợt giật mình tỉnh dậy thì thấy vẫn còn nằm trên giường, hoang sợ nói "Mộng mị bậy bạ làm rợn cả người". Thành cười nói "Mơ thì ông cho là thật, thật thì lại cho là mơ". Chu ngạc nhiên hỏi, Thành đưa gươm ra cho xem thì vết máu vẫn còn, Chu sợ phát khiếp nhưng thầm ngờ là Thành dùng ảo thuật lừa dối. Thành biết ý bèn sắp sửa hành trang đưa Chu về. Phút chốc tới đầu làng, Thành nói "Đêm ấy chảng phải là ta chống kiếm đợi ở đây sao! Ta đã chán cuộc đời nhơ đục, xin lại đợi ông ở đây. Nếu quá trưa mà ông không ra, ta sẽ đi".
Chu tới nhà thấy cổng ngõ tiêu điểu như không có người ở, bèn vòng qua nhà em. Em Chu thấy anh thì sa nước mắt kể "Sau khi anh đi, đang đêm cướp vào giết chị rồi khoét ruột bỏ đi, vô cùng thê thảm, đến nay quan lùng bắt chưa được". Chu như chợt tỉnh mộng bèn kể lại tình thật, dặn đừng truy cứu nữa, em Chu sững sờ hồi lâu. Chu hỏi thăm con trai mình, em gọi bà vú bế tới, Chu nói "Đứa nhỏ còn bọc tã lót này quan hệ tới việc nối dõi tông đường, em nên cố chăm sóc chứ anh nay muốn từ giã cõi trần rồi".
Rồi đứng lên đi ra, em trai nước mắt giàn giụa đuổi theo giữ lại, Chu chỉ cười đi thẳng không ngoái lại. Ra tới ngoài làng gặp Thành liền cùng đi, đi xa mới quay lại dặn "Ở đời thì việc nhẫn nhục là vui nhất". Em còn muốn nói thì Thành khoát tay một cái, lập tức không thấy đâu nữa, bèn ngẩn ra hồi lâu rồi khóc lóc trở về.
Em Chu là người chất phác vụng về, không biết coi sóc người nhà làm ăn nên qua vài năm nhà càng nghèo, con Chu dần lớn lên không thể đón thầy nên phải tự mình dạy cháu học.
Một hôm sáng sớm tới phòng sách, thấy trên bàn có một phong thư dán kín, ngoài đề gởi em trai. Cầm xem thì đúng là nét chữ của anh, mở ra thì trong không chẳng có gì, chỉ thấy một cái móng tay dài khoảng hai đốt tay, lấy làm kỳ quái. Bèn đặt cái móng lên nghiên mục rồi bước ra hỏi người nhà thư từ đâu tới nhưng không ai biết, quay vào nhìn thì cái nghiên đá đã biến thành vàng lóng lánh, vô cùng ngạc nhiên, đem thử lên đồng sắt đều như thế.
Từ đó giàu to, đem ngàn vàng cho con Thành, vì thế người ta đồn rằng hai nhà này có thuật điểm kim.
012. Vương Thành (Vương Thành)
Vương Thành là con nhà thế tộc cũ ở Bình Nguyên (phủ thành Tế Nam tỉnh Sơn Đông), tính rất lười biếng nên sinh sống ngày càng chật vật, chỉ còn mấy gian nhà nát, vợ chồng ngủ trong ổ xơ gai, oán trách nhau thậm tệ.
Gặp lúc giữa mùa hè nóng nực, trong làng có cái vườn của họ Chu, tường vách đổ nát chỉ còn một ngôi đình, người làng nhiều kẻ tới ngủ nhờ, Vương cũng trong số đó. Sáng ra mọi người đã đi cả, mặt trời lên cao ba con sào Vương mới dậy, dùng dằng định về thì nhặt được chiếc thoa vàng trong đám cỏ, trên có khắc hàng chữ nhỏ "Phủ Nghi tân chế tạo".
Ông nội Vương là Nghi tân Hành phủ*, vật cũ trong nhà phần nhiều đều có dấu hiệu ấy, vì vậy Vương cầm chiếc thoa ngần ngừ. Chợt có một bà già tới tìm chiếc thoa, Vương tuy rất nghèo nhung không tham vặt bèn đưa ra trả lại.
* Nghi tân Hành phủ: Hành phủ tức Hành Cung vương Chu Hựu Huy, con thứ sáu vua Hiến tông nhà Minh, được phong tước vương năm Thành Hóa thứ 13 (1477), đến năm Hoằng Trị thứ 13 (1500) đời vua Hiếu tông được ra làm phiên vương ở Thanh Châu. Nghi tân là từ gọi chung con rể, cháu rể các thân vương thời Minh.
Bà già mừng rỡ cảm tạ, nói "Chiếc thoa không đáng bao nhiêu nhưng đây là kỷ vật của ông nhà ta để lại", Vương hỏi "Cụ nhà là ai?", bà già đáp là Nghi tân Vương Giản Chi trước kia. Vương giật mình nói "Đó là ông nội ta, sao bà gặp gỡ được?". Bà già cũng giật mình nói "Ngươi là cháu nội Vương Giản Chi sao? Ta là hồ tiên, một trăm năm trước có gần gũi với ông nội ngươi, sau khi ông mất thì lão thân ở ẩn, qua ngang đây đánh rơi chiếc thoa lại vào tay ngươi, không phải là số trời sao?".
Vương cũng từng nghe nói ông nội có vợ hồ nên tin lời, nhân mời tới nhà chơi, bà già bèn đi theo. Vương gọi vợ ra chào, bà già thấy áo rách đầu bù, mặt mày xanh xao hốc hác bèn than rằng "Ôi, con cháu Vương Giản Chi lại nghèo khổ đến thế này ư!". Lại nhìn gian bếp hư nát không nổi lửa mà nói "Gia cảnh thế này lấy gì để sống?". Vợ Vương bèn kể hết nỗi khổ, nghẹn ngào rơi lệ, bà già đưa chiếc thoa cho nàng bảo đem cầm lấy tiền đong gạo, ba ngày nữa sẽ tới thăm. Vương cố giữ lại, bà nói "Ngươi chỉ có một vợ mà nuôi không nổi, ta ở lại đây thì chỉ ngồi ngắm xà nhà chứ có ích gì?" rồi đi thẳng.
Vương kể lại đầu đuôi, vợ sợ lắm nhưng Vương ca tụng ơn nghĩa của bà già, dặn phải thờ bà như mẹ, vợ vâng dạ. Ba ngày sau quả nhiên bà già tới, đưa mấy đồng vàng bảo đong gạo và bột mì mỗi thứ một thạch, tối đến cùng vợ Vương nằm chung trên một cái giường nhỏ. Vợ Vương lúc đầu sợ sệt nhưng xét tình ý thấy bà rất trìu mến nên cũng không ngờ vực gì nữa. Hôm sau bà nói với Vương "Cháu đừng lười, nên tìm một nghề mọn mà làm chứ ngồi ăn không làm sao lâu dài được?". Vương thưa là không có vốn, bà nói "Lúc ông nội ngươi còn sống thì vàng lụa cứ mặc ý mà lấy, nhưng vì ta không phải là người trần, không cần tới các thứ ấy nên không lấy nhiều, chỉ để dành bốn mươi lượng vàng làm tiền phấn sáp. Đến nay vẫn còn, cất lâu cũng chẳng làm gì, ngươi cứ đem đi mua hết vải cát rồi mang gấp vào kinh, có thể lãi chút ít".
Vương vâng lời, mua hơn năm mươi tấm mang về, bà già bảo thu xếp hành trang, tính độ đường khoảng sáu bảy ngày là tới Yên Kinh, dặn rằng "Phải siêng đừng lười, phải gấp đừng hoãn, chậm mất một ngày, ăn năn đã muộn". Vương kính cẩn vâng dạ, xếp hàng vào bọc lên đường.
Dọc đường gặp mưa, áo giày ướt sũng, Vương bình sinh chưa trải sương gió nên mệt quá bèn nghỉ tạm lại quán trọ, không ngờ mưa cứ tầm tã đến tối, nước trên máng xối rót xuống như dây thừng. Qua đêm đường càng lầy lội, thấy người đi đường bùn ngập lút cổ chân, trong lòng rất nản. Chờ đến trưa đường mới hơi mới hơi khô ráo, nhưng mây đen lại kéo tới, lại đổ mưa lớn, phải ngủ qua đêm nữa mới đi được.
Gần tới kinh nghe đồn vải cát đang có giá, trong lòng mừng thầm nhưng vào tới kinh thành ghé lại quán trọ thì chủ trọ rất tiếc vì Vương tới chậm. Trước đó đường giao thông với phía Nam mới mở, vải cát tới rất ít, các nhà giàu sang trong kinh lại thường mua nhiều nên giá đắt gấp ba, nhưng trước đó một ngày thì những người buôn vải cát đổ tới đông nghẹt nên giá sụt hẳn, những người tới sau đều thất vọng.
Chủ trọ nói rõ cho Vương biết, Vương ưu uất không vui. Qua một ngày vải cát tới càng nhiều, giá càng sụt, Vương thấy không có lãi nên không chịu bán. Nấn ná hơn mười ngày, tiền ăn ở tính ra đã tốn khá nhiều, càng thêm lo buồn. Chủ trọ khuyên nên bán rẻ để tính cách khác, Vương nghe theo bán tháo hết, lỗ vơn mười lượng. Sáng dậy sớm định ra về, mở túi ra xem thì tiền đã mất sạch, phát hoảng nói với chủ trọ, chủ trọ cũng không biết làm sao.
Có người khuyên lên kêu với quan bắt chủ trọ bồi thường, Vương than "Đó là số phận của ta chứ chủ trọ có lỗi gì?". Chủ trọ nghe thế rất cám ơn Vương, tặng năm lượng vàng rồi an ủi khuyên về. Vương nghĩ không còn mặt mũi nào gặp lại bà nội, loanh quanh ra vào không biết tính sao.
Chợt thấy có bọn chọi chim thuần, mỗi lần chọi đặt cuộc tới mấy ngàn, mua một con chim thuần có khi hơn trăm quan tiền. Vương chợt động tâm, tính lại tiền túi thì chỉ đủ buôn chim thuần, bèn bàn với chủ trọ. Chủ trọ hết súc vun vào, lại hứa cho ăn ở không phải trả tiền. Vương mừng bèn đi, mua một gánh chim thuần trở lại kinh thành, chủ trọ cũng mừng, chúc cho bán đắt hàng.
Đến đêm mưa to đến sáng sớm, khi trời sáng nước trên đường chảy như sông mà mưa vẫn chưa ngớt, Vương ngồi chờ tạnh mà mưa liên tiếp mấy ngày không ngớt. Dậy nhìn thì thấy chim thuần trong lồng chết dần. Vương sợ lắm mà không biết làm sao. Đến hôm sau thuần chết càng nhiều, chỉ còn vài con bèn dồn chung vào một lồng, qua đêm lại ra xem thì chỉ còn một con sống. Bèn vào nói với chủ trọ, bất giác sa lệ, chủ trọ cũng ái ngại. Vương tự liệu hết tiền không về được chỉ muốn tìm đường chết, chủ trọ khuyên giải an ủi, kế cùng ra xem con thuần, ngắm kỹ rồi nói "Hình như là một con chim hay, những con kia biết đâu không phải do bị nó chọi chết? ông đang rảnh rỗi cứ tập luyện cho nó, nếu quả là chim hay thì mang đi đánh cuộc cũng mưu sinh được", Vương theo lời.
Khi con chim đã thuần, chủ trọ bảo đem ra phố đánh cuộc lấy rượu thịt. Con thuần rất khỏe, chọi lần nào cũng thắng, chủ trọ mừng rỡ đưa tiền cho Vương bảo đánh cuộc với đám con em nhà giàu, ba lần chọi ba lần thắng. Khoảng nửa năm thì tích cóp được hai mươi lượng vàng, trong lòng cũng được an ủi, coi con thuần như tính mạng của mình.
Trước đó có thân vương nọ thích chọi chim thuần, hàng năm cứ đến tiết Thuợng nguyên lại cho những người chơi chim thuần trong dân gian đem tới vương phủ để chọi. Chủ trọ nói với Vương "Nay thì có thể trở thành đại phú ngay, có điều không biết vận số của ông ra sao". Bèn nói rõ sự tình rồi dắt Vương đi, dặn "Nếu thua thì đành im lặng đi ra thôi, còn vạn nhất con thuần này thắng ắt vương sẽ hỏi mua, ông đừng nhận lời, nếu vương ép thì cứ nhìn vào ta, lúc nào ta gật đầu hãy bán", Vương vâng dạ.
Tới vương phủ thì những người chọi chim đã chen vai dưới thềm, giây lát vương ngự ra điện, tả hữu truyền ai có chim thuần muốn chọi thì lên. Lập tức có một người xách lồng lên điện, vương sai thả thuần ra, khách cũng thả. Mớỉ bay nhảy mổ đá qua loa, thuần của khách đã thua chạy, vương cả cười, trong giây lát đã có mấy người thua. Chủ trọ nói "Đến lúc rồi!", rồi cùng nhau lên điện. Vương nhìn con thuần của Thành, nói "Tròng mắt có vằn máu giận dữ, con thuần này khỏe lắm, không thể coi thường", rồi sai đem con Thiết chủy ra chọi. Mới bay nhảy đấu đá vài hiệp thì lông con thuần của vương đã rụng tơi tả, vương sai chọn con hay hơn đem ra, hai lần thay đều thua. Vương vội sai lấy con Ngọc thuần trong cung, giây lát đem ra, thấy lông trắng như cò, thần thái mạnh mẽ khác thường, Vương Thành nao núng quỳ xuống xin thôi, nói "Thuần của đại vương là chim thần, sợ giết mất chim ta thì ta mất nghiệp!".
Vương cười nói "Cứ cho chọi đi, nếu chết ta sẽ đền bù thật hậu!". Thành bèn thả thuần ra, con Ngọc thuần xông thẳng vào. Lúc con Ngọc thuần đang sấn vào thì con thuần của Thành nằm phục xuống như con gà dữ để đợi, con Ngọc thuần mổ mạnh một cái thì nó vùng bay lên như con hạc đánh lại, tiến lui lên xuống cầm cự một lúc thì con Ngọc thuần đuối dần mà con thuần của Vương càng hăng máu đánh ráo riết, không bao lâu bộ lông tuyết của Ngọc thuần rụng tơi tả, cụp cánh chạy trốn.
Cả ngàn người đúng xem ai cũng khen ngợi. Vương bảo bắt con thuần của Thành, đích thân xem xét từ đầu mỏ đến móng chân một lượt rồi hỏi "Con thuần này ngươi có bán không?". Thành đáp "Tỉểu nhân không có tài sản gì, phải nhờ vào nó mà sống nên không dám bán". Vương nói "Ta sẽ trả giá cao cho ngươi có một gia tư bậc trung, có bằng lòng không?" Thành cúi đầu suy nghĩ hồi lâu rồi nói "Thật vốn không muốn bán, nhưng đại vương đã thích, vả lại nếu cho tiểu nhân được có ăn có mặc thì còn muốn gì hơn".
Vương hỏi giá, Thành xin ngàn lượng vàng, vương cười nói "Gã ngốc này, nó có phải châu ngọc gì mà giá ngàn vàng". Thành nói "Đại vương không cho nó là quý báu nhưng đối với thần thì ngọc bích liên thành cũng không hơn được", Vương hỏi vì sao, Thành đáp "Tiểu nhân đem nó ra chợ, mỗi ngày được vài đồng đổi lấy đấu gạo, một nhà mười miệng ăn không phải lo đói rét, còn của báu nào bằng". Vương nói "Ta không để ngươi thiệt, thôi trả ngươi hai trăm" Thành lắc đầu. Vương lại trả thêm một trăm, Thành nhìn chủ trọ không thấy tỏ vẻ gì bèn nói "Thừa mệnh đại vương, xin bớt một trăm. Vương nói "Thế thì thôi vậy, ai mà đem chín trăm luợng vàng mua một con chim thuần?".
Thành cho thuần vào lồng định đi thì vương gọi "Anh chọi chim lại đây, anh chọi chim lại đây" Ta trả sáu trăm, chịu thì bán, không chịu thì thôi vậy". Thành lại nhìn chủ trọ nhưng chủ trọ vẫn điềm nhiên. Thành trong bụng đã thỏa mãn, chỉ sợ bỏ qua cơ hội bèn nói "Với cái giá ấy thì thật không được vừa ý, nhung đã bàn việc mua bán mà không thành e lại mắc tội lớn, bất đắc dĩ xin vâng lệnh đại vương. Vương mừng rỡ sai cân vàng đưa ngay. Thành nhận vàng, lạy tạ đi ra. Chủ trọ bực tức nói "Ta dặn thế nào mà ông hấp tấp như thế? Nếu kèo nài thêm một chút thì có tám trăm rồi!".
Thành về nhà trọ đặt vàng lên bàn mời chủ trọ tự lấy. Chủ trọ không chịu, Thành ép mãi mới đem bàn tính ra tính toán nhận tiền ăn ở. Thành sắp xếp hành lý trở về, tới nhà kể lại những việc đã qua, lấy vàng ra chúc mừng nhau. Bà già bảo mua ba trăm mẫu ruộng tốt, xây nhà cửa sắm đồ đạc, nghiễm nhiên là nhà thế gia.
Bà già dậy sớm đôn đốc Thành coi việc cày bừa, vợ coi việc canh cửi, hơi lơ là thì quát mắng nhưng vợ chồng vẫn lễ phép không dám tỏ lời hờn oán. Qua ba năm nhà càng giàu lên, bà già từ biệt định đi, vợ chồng cùng cố giữ, chảy cả nước mắt bà mới ở lại. Sáng ngày vào hầu thì đã biến mất.
Dị Sử thị nói: Người ta giàu có đều nhờ chăm chỉ, đây lại riêng nhờ lười biếng, cũng là việc rất chướng tai. Nhưng không biết rằng kẻ kia nghèo thấu xương mà lòng chí thành không thay đổi nên trời ban đầu thì bỏ mà về sau lại thương đấy, chứ trong bọn lười biếng há có được kẻ giàu sang sao!
013. Thanh Phượng (Thanh Phượng)
Họ Cảnh ở Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây) là nhà đại gia cũ, nhà cửa rộng rãi. Về sau sa sút, lầu viện san sát bỏ hoang đến quá nửa, vì vậy sinh ra nhiều điều quái dị. Cửa vào sảnh đường cứ tự mở tự đóng, người nhà lắm khi nửa đêm lại hoảng sợ kêu la. Cảnh lo lắng dời qua ở nơi khác, chỉ để lại một người đầy tớ già coi giữ, vì thế nhà cửa càng thêm hoang tàn, có người còn nghe thấy cả tiếng nói cười đàn hát ở trong.
Cảnh có người cháu ruột tên Khứ Bệnh, tính ngông nghênh không chịu bị câu thúc, dặn người đầy tớ già hễ nghe thấy chuyện gì thì báo cho mình biết ngay. Một đêm ông ta thấy trên lầu có ánh đèn lúc sáng lúc tắt vội tới báo, sinh nghe thế muốn vào xem chuyện lạ, ai cản cũng không được.
Sinh vốn biết rõ cửa ngõ trong nhà bèn rẽ cỏ lần đường, vòng vèo đi vào. Lên tới trên lầu vẫn chẳng thấy gì lạ, băng qua lầu đi vào tiếp thì nghe có tiếng nói xì xào nói chuyện. Lén nhìn vào thấy hai ngọn đuốc lớn thắp song song sáng trưng như ban ngày, có một ông già mặc áo nhà nho ngồi trên ghế chủ nhân, một bà già ngồi đối diện, đều khoảng hơn bốn mươi tuổi. Ghế dưới là một thiếu niên khoảng hai mươi tuổi, bên phải là một cô gái tuổi mới cập kê, trên bàn đầy rượu thịt, đang vui vẻ chuyện trò.
Sinh đột ngột bước vào, cười kêu lên rằng "Có một người khách không mời mà tới này!". Cả bọn hoảng hốt chạy trốn, riêng ông già bước ra quát hỏi là ai mà dám xông vào khuê phòng nhà người ta?. Sinh đáp "Đây là khuê phòng nhà ta, ông đã chiếm cứ còn đem rượu ngon uống riêng với nhau, không mời qua chủ nhà một câu thì cũng quá keo kiệt đấy".
Ông già ngắm kỹ sinh một lượt rồi nói "Không phải chủ nhân mà". Sinh nói "Ta là học trò ngông tên Cảnh Khứ Bệnh, cháu ruột chủ nhân đây". Ông già vội kính cẩn đáp "Lâu nay vẫn nguỡng mộ danh tiếng Thái Sơn Bắc đẩu!". Bèn chắp tay mời sinh vào, gọi người nhà bày mâm mới, sinh ngản lại, ông già bèn rót rưựu mời khách. Sinh nói "Chúng ta là người quen, đâu cần tránh mặt khách, xin mời cả nhà ra cùng uống với nhau".
Ông già gọi "Hiếu Nhi", giây lát thiếu niên bước vào, ông già nói "Đây là thằng con ta", thiếu niên vái chào rồi ngồi xuống. Hỏi thăm về gia thế, ông già tự xưng họ Hồ tên Nghĩa Quân. Sinh vốn tính hào phóng, chuyện trò rất say sưa, Hiếu Nhi cũng là người không câu nệ, nói chuyện một hồi đã thấy ưa thích nhau. Sinh hai mươi mốt tuổi, hơn Hiếu Nhi hai tuổi, nên gọi y là em.
Ông già nói "Nghe nói ông tổ ông ngày xưa có soạn Ngoại truyện về họ Đồ Sơn, ông có biết không?". Đáp "Có biết". Ông già nói "Bọn ta là dòng dõi họ Đồ Sơn đây. Từ đời Đường trở về sau, gia phả còn nhớ được, nhưng từ đời Ngũ đại về trước thì không được truyền lại. Xin Công tử chỉ giáo cho". Sinh kể qua công trạng của cô gái họ Đồ Sơn giúp vua Vũ thuở xưa, thêm thắt nhiều lời, tường thuật trôi chảy.
Ông già cả mừng nói với con trai "Hôm nay may mắn được nghe nhũng điều chưa từng nghe bao giờ. Công tử đây cũng chẳng phải người lạ, con vào mời mẹ và Thanh Phượng ra cùng nghe, cũng là để biết công đức tổ tiên". Hiếu Nhi vào trong một lúc thì bà già và cô gái bước ra. Sinh nhìn kỹ thấy cô gái vóc dáng mảnh mai yêu kiều, đôi mắt sóng thu lóng lánh, trên đời không ai đẹp bằng. Ông già chỉ bà già nói "Đây là vợ ta", lại chỉ cô gái nói "Đây là Thanh Phượng, cháu gọi ta bằng chú, cũng hơi sáng dạ, nghe qua chuyện gì đều nhớ không quên, nên gọi ra cho nghe cùng".
Sinh nói chuyện xong bèn uống ruợu, nhìn cô gái đăm đăm không rời mắt. Cô gái biết ý cúi đầu, Sinh ngầm đạp lên giày nàng, nàng vội rút chân về nhưng không hề có nét giận dữ. Bấy giờ sinh thần hồn bay bổng, không tự chủ được nữa, vỗ bàn nói "Được người vợ thế này, có đổi cho làm vua cũng không thèm!". Bà già thấy sinh đã hơi say lại thêm ngông, bèn cùng cô gái đứng dậy bước vào trong. Sinh mất hứng bèn chào ông già ra về, nhung vẫn vấn vương không sao quên được Thanh Phượng, đến đêm lại tới thì còn ngửi thấy mùi hương thơm phức mà đợi suốt đêm vẫn yên ắng.
Về bàn với vợ dời nhà qua ở đó, mong có ngày gặp lại nhưng vợ không nghe. Sinh bèn dọn qua một mình, ở dưới lầu đọc sách. Đêm đang ngồi ở bàn thì một con ma xỏa tóc bước vào, mặt đen như sơn trợn mắt nhìn, sinh cười nhúng ngón tay vào nghiên mực tự bôi lên mặt trố mắt nhìn lại, con ma xấu hổ bỏ đi.
Đêm hôm sau, lúc khuya vừa tắt đèn định đi nằm thì nghe sau lầu có tiếng mở then rồi có tiếng kẹt cửa, sinh vội trở dậy xem thì thấy cánh cửa hé mở. Lát sau nghe có tiếng giày bước khe khẽ, có ánh đèn trong phòng chiếu ra, nhìn qua thì là Thanh Phượng. Bất chợt thấy sinh, nàng hoảng hốt quay vào đóng ngay cửa sổ lại. Sinh quỳ mọp xuống năn nỉ "Tiểu sinh không nề nguy hiểm thật chỉ vì nàng. May gặp lúc không có ai, xin được cầm tay cười một tiếng thì có chết cũng không hối hận". Cô gái từ trong nói ra "Thâm tình khăng khít sao thiếp không biết, nhung chú giáo huấn rất nghiêm nên không dám vâng mệnh". Sinh cố van nài, nói "Cũng chẳng dám mong được thân cận, chỉ xin cho thấy nhan sắc một lần cũng đủ". Cô gái như xiêu lòng bèn mở cửa bước ra nắm cánh tay sinh kéo dậy. Sinh mừng quýnh, đưa nhau xuống dưới lầu, ôm ghì lấy đỡ ngồi lên gối. Nàng nói "Cũng may có chút túc duyên nhưng qua đêm nay thì dù có nhớ nhau cũng vô ích".
Sinh hỏi vì sao, nàng đáp "Chú thiếp sợ chàng ngông nên giả làm quỷ dữ để dọa mà chàng không sợ, hôm nay tính dọn đi nơi khác. Cả nhà đã mang đồ dùng tới nơi ở mới, chỉ còn thiếp ở lại coi giữ, sáng mai sẽ đi", dứt lời muốn đi, nói sợ chú về. Sinh cố giữ lại, muốn cùng giao hoan. Đang níu kéo nài nỉ thì ông già sấn vào, Cô gái vừa thẹn vừa sợ không biết làm sao, chỉ cúi đầu đứng tựa thành giường mân mê dải áo không nói gì.
Ông già giận dữ nói "Con tiện tỳ làm nhơ nhuốc danh giá nhà ta! Không đi ngay thì roi quất vào lưng bây giờ!". Cô gái cúi đầu bước mau đi, ông già cũng bỏ ra. Sinh theo sau nghe tiếng chửi mắng không ngớt rồi có tiếng Thanh Phượng khóc rưng rức, lòng đau như cắt liền nói lớn "Tội lỗi là do tiểu sinh, chứ Thanh Phượng dính líu gì vào đó? Cứ tha cho Phượng, bao nhiêu gươm đao rìu búa tiểu sinh xin chịu cả". Một lúc lâu thấy yên ắng, sinh bèn đi ngủ.
Từ đó trong nhà không còn nghe thấy tăm hơi gì nữa. Chú sinh được tin lấy làm lạ, vui lòng bán rẻ khu nhà cho, sinh mừng rỡ đem cả gia quyến dọn sang, rất vừa ý nhà mới nhưng vẫn chưa lúc nào quên được Thanh Phuợng. Gặp tiết Thanh minh sinh đi tảo mộ trở về, thấy hai con chồn con bị chó đuổi riết, một con nhảy vào bụi rậm trốn mất còn một con thì cuống quýt trên đường, nhìn thấy sinh thì sán lại kêu thương, cụp tai cúi đầu như cầu cứu. Sinh thương xót mở vạt áo ra bọc vào đem về, tới nhà đóng cửa đặt lên giường thì ra là Thanh Phượng.
Sinh mừng rỡ thăm hỏi, nàng đáp "Vừa rồi đang cùng đứa tỳ nữ đùa giỡn thì gặp phải nạn lớn, nếu không có chàng chắc đã chôn thây trong bụng chó rồi. Mong chàng không vì khác loài mà ghét bỏ". Sinh nói "Ngày đêm tưởng nhớ canh cánh bên lòng, gặp được nàng như được của báu, sao lại nói là ghét bỏ". Cô gái nói "Đây cũng là số trời. Nếu không gặp chuyện nguy nan thì làm sao được theo nhau? Nhưng cũng may là đứa tỳ nữ ắt cho là thiếp đã chết, có thể cùng kết nghĩa lâu dài được".
Sinh mừng, dọn một phòng riêng cho nàng ở. Được hơn hai năm, một đêm sinh đang đọc sách chợt Hiếu Nhi bước vào Sinh ngừng đọc ngạc nhiên hỏi từ đâu tới. Hiếu Nhi quỳ rạp xuống đất buồn thảm nói "Cha ta gặp nạn bất ngờ, ngoài ông không ai cứu nổi, định tự tới cầu khẩn nhưng sợ ông không chịu nên cho ta đi thay". Sinh hỏi là việc gì, Hiếu Nhi đáp "Công tử có quen Tam lang họ Mạc không?". Sinh nói "Đó là bạn đồng niên với ta". Hiếu Nhi nói "Ngày mai y sẽ đi qua đây, nếu có mang một con chồn săn được thì mong ông giữ lại cho". Sinh đáp "Chuyện nhục nhã dưới lầu trước đây vẫn canh cánh không quên, việc khác thật không dám nghe tới. Nếu muốn ta đem sức hèn ra giúp thì phi Thanh Phượng tới không xong". Hiếu Nhi rơi lệ nói "Em Phượng* chết ngoài đồng ba năm nay rồi". Sinh rũ áo nói "Nếu thế càng hận sâu hơn thôi", rồi cầm sách cao giọng ngâm nga, không nhìn tới nữa.
* Em Phượng: cả hai bản Hương Cảng và Đài Bắc đều khàc là "Phượng muội", tục lệ Trung Hoa, anh em cô cậu, chú bác ai sanh trước làm anh chị.
Hiếu Nhi đứng dậy khóc lạc cả giọng, ôm mặt đi mất. Sinh tới chỗ Thanh Phượng ở kể cho nàng nghe, nàng thất sắc hỏi "Thế có cứu không?", sinh đáp "Cứu thì cứu rồi, nhưng vừa rồi không nhận lời là để trả đũa chuyện ngang nguợc ngày trước đã". Cô gái mới mừng nói "Thiếp mồ côi từ nhỏ, nhờ chú nuôi nấng mới trưởng thành. Ngày ấy tuy ông đắc tội với chàng nhưng cũng là phép nhà phải thế". Sinh nói "Phải rồi, nhưng cũng làm người ta không khỏi ấm úc, nếu nàng chết thật thì nhất định không cứu đâu". Nàng cười nói đáp "Nhẫn tâm thật".
Hôm sau quả nhiên Tam lang họ Mạc tới, yên ngựa khảm vàng, túi cung da cọp, tôi tớ theo hầu rất oai vệ. Sinh ra cửa đón thấy săn được rất nhiều cầm thú, trong có một con chồn đen, máu ướt đẫm cả lông. Sờ xem thấy da thịt còn ấm bèn nói thác là áo cừu bị rách, hỏi xin để vá. Mạc khẳng khái cởi dây tặng cho, sinh lập tức trao cho Thanh Phượng rồi ra uống rượu với khách.
Khách về rồi cô gái ôm con chồn vào lòng, ba ngày thì sống lại, xoay trở rồi biến thành ông già. Ngước mắt nhìn thấy Phượng, ngỡ không còn ở giữa cõi trần, Cô gái kể lại mọi chuyện, ông bèn sụp lạy sinh, thẹn thùng tạ lỗi trước rồi vui vẻ nhìn cô gái nói "Ta vẫn nói là ngươi không chết, nay quả thế thật". Cô gái nói với sinh "Chàng như có lòng nghĩ tới thiếp, thì xinh cho mượn chỗ ngôi lầu để thiếp được báo đáp chút riêng về ơn nuôi nấng". Sinh ưng thuận, ông già bẽn lẽn từ biệt ra đi, đến tối quả đưa cả nhà lại. Từ đó như cha con một nhà, không còn nghi ngờ oán ghét nhau nữa. Sinh ở chỗ phòng sách, Hiếu Nhi thỉnh thoảng tới chuyện trò. Con trai mà vợ lớn của sinh sinh ra dần lớn lên bèn nhờ Hiếu Nhi dạy dỗ, vì ôn tồn khéo dạy học, có phong độ người thầy.
014. Bộ Da Vẽ (Họa Bì)
Vương sinh nguời Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây) sáng sớm ra đường gặp một nữ lang ôm bọc quần áo đi mau một mình, có vẻ rất mệt nhọc, vội vượt lên nhìn thì thấy tuổi khoảng đôi tám, dung mạo tuyệt đẹp. Trong lòng ưa thích bèn hỏi "Sao còn sớm mà đã đi lẻ loi một mình thế?", nàng đáp "Khách qua đường hiểu sao được nỗi lo buổn của kẻ khác, hỏi làm gì cho mệt?". Sinh hỏi "Nàng có điều gì lo buồn vậy? Nếu giúp được thì ta không từ chối mà". Cô gái buồn bã đáp "Cha mẹ tham tiền bán thiếp cho nhà quan, vợ lớn cả ghen sớm hôm đánh đập chửi mắng làm nhục, không chịu nổi nên phải trốn đi". Sinh hỏi định đi đâu, nàng đáp "Người đi trốn thì làm sao có nơi mà định trước được?". Sinh nói "Tệ xá không xa, mời nàng ghé qua", cô gái mừng rỡ đi theo.
Sinh mang hộ bọc quần áo, đưa nàng cùng về. Cô gái thấy nhà không có ai bèn hỏi sao không có người nhà, sinh đáp đây chỉ là phòng sách thôi, nàng nói "Nơi này tốt lắm. Chàng như thương xót mà cứu giúp thiếp thì xin giữ kín đừng nói với ai". Sinh ưng thuận, kế cùng nàng chung chạ, giấu diếm trong phòng kín qua mấy ngày cũng không ai hay. Sinh nói hé với vợ là Trần thị, vợ ngờ là nàng hầu vợ lẽ của nhà đại gia, khuyên để cô ta đi nhưng sinh không nghe. Ngẫu nhiên đi ngang chợ, gặp một đạo sĩ nhìn sinh kinh ngạc hỏi gặp gì lạ rồi, sinh đáp không có gì cả. Đạo sĩ nói "Người ông đầy tà khí, sao lại nói là không?", sinh lại cố chối. Đạo sĩ bèn bỏ đi, nói "Mê muội thay, trên đời vẫn có kẻ sắp chết đến nơi mà chưa tỉnh ngộ!".
Sinh thấy lời nói lạ lùng cũng hơi ngờ cô gái, nhưng lại nghĩ rõ ràng là một mỹ nữ sao đến nỗi là yêu quái được nên cho rằng đạo sĩ mượn tiếng trừ tà để kiếm ăn. Lát sau về tới nhà học, thấy bên trong đóng chặt không vào được lấy làm ngờ vực, bèn trèo qua chỗ tường lở vào thì cửa phòng cũng đóng. Sinh rón rén tới trước cửa sổ nhìn vào, thấy một con quỷ hung ác mặt xanh lè, răng chơm chởm như lưỡi cưa đang trải một tấm da nguời ra giường, lấy bút màu tô lên. Tô xong ném bút nhấc tấm da như tấm áo khoác lên người, liền biến thành cô gái. Sinh thấy thế cả sợ, bò xuống lẻn ra, vội vàng đi tìm đạo sĩ thì không biết đã đi đâu, tìm kiếm khắp nơi mới gặp ngoài đồng, quỳ xuống xin cứu mạng.
Đạo sĩ nói "Xin sẽ đuổi đi giúp ông. Con quỷ ấy cũng khốn khổ mới tìm được người thay, ta cũng không nỡ hại mạng nó". Liền lấy chiếc phất trần đưa sinh, dặn treo ở cửa phòng ngủ rồi từ biệt, hẹn gặp lại ở miếu Thanh Đế. Sinh về không dám tới nhà học bèn vào phòng vợ ngủ, treo phất trần lên cửa. Khoảng canh một nghe ngoài cửa có tiếng lạch cạch, không dám nhìn bèn bảo vợ ra nhìn xem. Chỉ thấy cô gái tới, thấy chiếc phất trần thì không dám bước tới nữa, đúng nghiến răng hồi lâu rồi bỏ đi. Giây lát lại quay lại mắng "Đạo sĩ chỉ dọa ta! Chẳng lẽ miếng ăn đã đến miệng lại nhả ra à?" Rồi chụp chiếc phất trần bẻ nát, phá cửa sấn vào, lên thẳng giường sinh nằm xé bụng móc lấy quả tim bỏ đi.
Vợ sinh la lên, tỳ nữ vào soi đèn thì sinh đã chết, khoang bụng máu me bê bết, Trần thị sợ khóc không thành tiếng. Hôm sau sai em chồng là Nhị Lang chạy tới kể với đạo sĩ, đạo sĩ tức giận nói "Ta đã thương tình mà con quỷ này lại dám làm thế". Lập tức theo em sinh tới thì cô gái đã biến mất, bèn ngẩng đầu nhìn quanh rồi nói "May là nó trốn chưa xa". Lại hỏi dãy nhà phía nam là nhà ai, Nhị Lang đáp "Đó là nhà tiểu sinh". Đạo sĩ nói "Nó đang ở nhà ông", Nhị Lang ngạc nhiên nói là chưa hề có. Đạo sĩ hỏi "Vậy có ai không quen tới chưa?". Nhị Lang đáp "Ta tới miếu Thanh Đế nên không biết, để về hỏi lại".
Rồi đi một lúc thì quay lại nói "Quả là có. Sáng nay có một bà già tới xin làm thuê, vợ ta giữ lại, hiện còn ở đó". Đạo sĩ nói "Chính nó đấy", liền cùng đi qua, cầm kiếm gỗ đứng giữa sân gọi "Yêu nghiệt ra đền phất trần cho ta!". Bà già trong nhà hốt hoảng tái mặt, ra cửa toan chạy. Đạo sĩ đuổi theo chém ngã lăn ra, tấm da người tuột xuống, bà ta hóa thành con quỷ nằm kêu rống như heo. Đạo sĩ lấy kiếm gỗ chặt đầu, thân nó biến thành đám khói dày xoáy tròn trên mặt đất. Đạo sĩ lấy ra một cái hồ lô mở nút đặt vào giữa đám khói, nghe kêu vu vu như huýt sáo, trong chớp mắt đám khói mất hết, đạo sĩ nút hồ lô lại bỏ vào túi. Cùng nhìn lại tấm da người thấy đủ cả mày mắt tay chân, đạo sĩ cuốn lại, tiếng kêu như cuốn trục tranh, cũng bỏ vào túi rồi từ biệt toan đi.
Trần thị đón lại lạy lục trước cổng, khóc lóc xin cứu chồng sống lại, đạo sĩ từ tạ là không làm được. Trần thị càng đau xót, quỳ rạp không đứng dậy, đạo sĩ ngẫm nghĩ rồi nói "Phép thuật của ta kém cỏi, thật không làm người chết sống lại được. Ta chỉ cho một người may ra có thể làm được, tới cầu chắc có kết quả". Hỏi là ai, đạo sĩ đáp "Trong chợ có một người điên hay nằm trên đống phân, thử tới khẩn cầu xem. Nếu y buông tuồng làm nhục phu nhân, xin phu nhân cũng đừng tức giận".
Nhị Lang cũng biết người ấy bèn từ biệt đạo sĩ, cùng chị dâu đi tìm. Thấy người ăn mày đang ngu ngơ ca hát trên đường, nước mũi lòng thòng, vô cùng bẩn thỉu. Trần thị lê gối tới trước mặt, y cười nói "Người đẹp yêu ta à?", Trần thị kể mọi chuyện xong y lại cười lớn nói "Ai cũng là chồng được mà, cứu sống lại làm gì?". Trần thị cố kêu van, y nói "Lạ thật, ai đâu chết mà nhờ ta cứu sống, ta là Diêm Vương à?", rồi tức giận lấy gậy đánh Trần thị.
Trần thị cắn răng chịu đau, người trong chợ dần xúm lại xem đông nghẹt. Người ăn mày khạc một vốc đờm vào tay rồi dí vào miệng Trần thị nói "Ăn đi!". Trần thị đỏ bừng mặt tỏ vẻ ngần ngại, nhưng nhớ lại lời đạo sĩ dặn bèn nhắm mắt nuốt vào, tới cổ họng thấy vướng như nắm bông, nghèn nghẹn trôi xuống rồi dùng lại ở ức. Người ăn mày cười lớn nói "Người đẹp yêu ta thật!" rồi đứng lên đi thẳng không ngoái lại. Trần thị theo sau thấy y vào trong miếu, bước mau theo để khẩn cầu thì không biết đã đi đâu mất, tìm khắp trước sau không thấy tăm hơi đành vừa thẹn vừa giận trở về.
Đã xót chồng không may chết thảm, lại hối mình chịu nhục nuốt đờm, ôm mặt kêu khóc chỉ muốn chết ngay. Kế chùi máu liệm xác chồng, người nhà cứ đứng xa nhìn không ai dám tới gần, Trần thị ôm thây nhặt ruột, vừa xếp vừa khóc. Khóc đến lúc thất thanh chợt cái vật vướng trong ức trào ra, chưa kịp quay đi nó đã rơi vào trong khoang bụng xác chết. Hoảng sợ nhìn lại thì là một quả tim người đang đập thon thót, hơi nóng bốc nghi ngút như khói, lấy làm lạ vội lấy hai tay khép bụng chồng lại, cố sức giữ chặt, hơi nới tay thì hơi nóng từ khe hở bốc ra, bèn xé lụa buộc mau lại. Sờ vào xác chồng thấy dần dần ấm lại bèn lấy chăn đắp lên, nửa đêm mở ra xem thì thấy mũi có hơi thở.
Đến sáng thì sinh sống lại, nói vừa giật mình như nằm mơ tỉnh dậy, chỉ thấy bụng nhoi nhói đau. Nhìn lại chỗ bị xé rách thấy đóng vẩy to như đồng tiền, sau dần lành lại.
Dị Sử thị nói: Người đời ngu thay! Rõ ràng là yêu quái mà cho là người đẹp. Người ngu mê muội thay! Rõ ràng là lời ngay mà cho là nói bậy. Nhưng mê đắm sắc đẹp mà muốn chiếm lấy, thì vợ cũng phải chịu cái nhục nuốt đờm của người khác. Đạo trời tuần hoàn, nhưng người ngu vẫn mê muội không tỉnh ngộ, đáng thương lắm thay.
015. Đứa Con Người lái Buôn (Cổ Nhi)
Ông Mỗ người đất Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc) đi buôn xa nhà, vợ ở nhà một mình, đêm mơ thấy ngủ với người lạ, tỉnh dậy sờ thì là một người đàn ông bé nhỏ. Thấy cung cách khác người thường biết là hồ, lát sau y xuống giường đi ra, cửa chưa mở đã biến mất. Đến tối phải bảo bà già nấu bếp vào ngủ chung, có đứa con trai mười tuổi vẫn ngủ riêng cũng gọi vào. Đến khuya bà già và đứa nhỏ đã ngủ thì hồ lại tới, người đàn bà ú ớ như nói mê, bú già hay được la lên, hồ mới đi. Từ đó người đàn bà cứ ngẩn ngơ, đến tối không dám tắt đèn, dặn con đừng ngủ say.
Đến khuya, đứa nhỏ và bà già dựa vào tường ngủ gật một lúc, tỉnh dậy thì người đàn bà biến mất, ngỡ là đi tiểu nhưng chờ lâu không thấy vào mới sinh nghi. Bà già sợ không dám đi tìm, đứa nhỏ cầm đèn đi soi khắp nơi, tới phòng khác thì thấy mẹ trần truồng nằm trong, tới gần đỡ lên cũng không biết xấu hổ.
Từ đó người đàn bà hóa điên, ban ngày ca khóc chửi mắng đủ kiểu, đêm đến không muốn ở chung với ai mà ngủ riêng một phòng, bảo đứa nhỏ và bà già qua ngủ chỗ khác. Đứa nhỏ mỗi khi nghe thấy tiếng mẹ cười nói thì dậy châm lửa soi, mẹ tức giận mắng cũng mặc kệ, mọi người đều khen là gan dạ. Nhưng nó lại nghịch ngợm quá quắt, hàng ngày cứ bắt chước thợ nề lấy gạch đá xếp lên cửa sổ, cản lại thì nó không nghe, vứt gạch đá đi thì nó lăn ra đất kêu khóc nên không ai dám chọc ghẹo.
Qua mấy hôm, hai cửa sổ đều bị lấp kín không còn chút ánh sáng nào lọt vào được, kế nó lại lấy bùn trét kín khe vách bị hở, suốt ngày quần quật không biết mệt. Trét xong lại vớ dao làm bếp mài xoèn xoẹt, ai cũng ghét là buớng bỉnh, không buồn đếm xỉa. Đến nửa đêm đứa nhỏ giấu dao vào bụng, chụp vỏ quả bầu lên ngọn đèn, đợi mẹ nói mê liền vùng dậy mở ra, đứng chặn ngoài cửa phòng kêu ầm lên. Chờ hồi lâu không thấy gì lạ, nó bèn bước ra xa cửa phòng giả nói to là mót tiểu. Chợt có con vật như con mèo từ khe cửa vọt ra, nó chém vội chỉ đứt được khúc đuôi dài khoảng hai tấc, máu chảy ròng ròng. Lúc nó vừa dậy khêu đèn thì mẹ đã mắng chửi, đứa nhỏ cũng làm như không nghe, chém không trúng hồ bực bội đi ngủ lại, tự nghĩ tuy không chém chết được nhưng may ra thì hồ không tới nữa.
Đến sáng ra nhìn thấy vết máu qua tường mà đi, lần theo thấy vào vườn nhà họ Hà, đến đêm quả không thấy gì nữa. Đứa nhỏ mừng thầm nhưng mẹ lại ngủ mê mệt như chết. Không bao lâu người lái buôn về, tới cạnh giường thăm hỏi nhưng vợ chửi mắng coi như kẻ thù. Đứa nhỏ kể chuyện lại, người cha sợ hãi mời thầy cắt thuốc chữa, vợ hắt thuốc chửi rủa, phải ngầm đổ thuốc vào cháo cho uống, mấy ngày mới hơi đỡ, cha con đều mừng.
Một đêm tỉnh giấc thấy người đàn bà đã biến mất, hai cha con qua phòng khác tìm thì bắt gặp. Từ đó lại điên không muốn ngủ cùng phòng vói chồng, cứ gần tối lại chạy qua phòng khác, kéo lại thì càng chửi mắng thậm tệ. Chồng không còn cách nào phải đóng chặt cửa tất cả các phòng khác, nhưug người đàn bà tới thì cửa cứ tự mở. Chồng lo lắng, cầu cúng đủ cách vẫn không hiệu nghiệm. Đứa nhỏ chiều tới lén tới núp trong bụi cỏ rậm ở vườn nhà họ Hà để dò xét chỗ hồ ở.
Trăng vừa lên chợt nghe tiếng người nói, lén vạch cỏ nhìn ra thấy hai người uống rượu, có một người đầy tớ râu dài bưng bầu rượu, mặc áo màu xanh sẫm, tiếng nói rất nhỏ, không nghe được gì. Lát sau nghe một người nói "Ngày mai cứ đem một vò rượu trắng tới đây", giây lát cùng ra đi, chỉ còn người râu dài ở lại, cởi áo nằm trên tảng đá trong đình, nhìn kỹ thấy tay chân đều như người, chỉ có cái đuôi thò ra phía sau. Đứa nhỏ muốn về nhưng sợ hồ biết bèn núp suốt đêm, trời chưa sáng lại nghe thấy hai người lục tục trở lại, thì thào đi vào bụi tre rậm.
Đứa nhỏ trở về, cha hỏi đi đâu nó đáp là ngủ ở nhà bác. Gặp hôm theo cha vào chợ, thấy hàng mũ có treo cái đuôi chồn liền xin cha mua. Cha không nghe, nó cứ kéo áo vòi vĩnh, cha không nỡ phật ý bèn mua cho. Cha buôn bán trong cửa hàng, đứa con nô đùa bên cạnh, nhân lúc cha quay đi bèn lấy cắp tiền đi mua rượu trắng, gửi lại ở quán. Có người cậu ở trong thành vốn làm nghề săn bắn, đứa nhỏ chạy tới nhà cậu thì cậu đi vắng, mợ hỏi thăm mẹ, nó đáp "Mấy hôm nay khỏe hơn, nhưng vì chuột cắn phá quần áo làm mẹ giận kêu khóc không thôi nên sai cháu xin ít thuốc chuột". Mợ mở hòm lấy ra khoảng một đồng cân gói lại đưa cho, đứa nhỏ cho là ít. Mợ ra nấu mì cho cháu ăn, nó nhân lúc trong phòng không có ai liền mở gói thuốc trộm lấy một vốc giấu vào bọc, kế ra nói với mợ đừng nhóm bếp nữa vì cha đang chờ ở chợ, nó không kịp ăn, rồi đi luôn. Nó lén bỏ thuốc độc vào rượu rồi chơi rong trong chợ, gần tối mới về. Cha hỏi đi đâu, nó nói thác là ở nhà cậu, từ đó hàng ngày đứa nhỏ cứ đi chơi trong chợ.
Một hôm thấy người râu dài cũng chen trong đám đông, đúa nhỏ nhìn kỹ liền theo sát bên, lân la bắt chuyện hỏi thăm quê quán, y đáp ở thôn Bắc rồì cũng hỏi lại, đứa nhỏ bịa đặt đáp là trong hang núi. Người râu dài tỏ vẻ lạ lùng, nó cười nói "Nhà ta đời đời ở hang núi, ông thì không sao?". Người kia càng kinh ngạc hỏi tên họ, đứa nhỏ đáp "Ta là con họ Hồ, hình như đã gặp ông ở đâu rồi, thấy ông đi theo hai chàng trẻ tuổi, ông quên rồi à?"
Người kia nhìn kỹ nó nửa tin nửa ngờ, nó bèn khẽ vạch quần, hơi thò cái đuôi giả ra, nói "Bọn ta trà trộn giữa loài người, chỉ cái này là vẫn còn, thật đáng bực". Người kia hỏi ra chợ làm gì, nó đáp "Cha ta sai đi mua rượu", y cũng nói là đi mua rượu. Đứa nhỏ hỏi mua chưa, y đáp "Bọn ta phần lớn đều nghèo nên hay đánh cắp hơn". Đứa nhỏ nói "Việc ấy cũng khổ, luôn luôn phải lo sợ", người kia nói "Chủ nhân ra lệnh, không thể không làm". Đứa nhỏ hỏi chủ là ai, y đáp "Là hai anh em mà hôm trước ngươi gặp đấy. Một người dan díu với vợ họ Vương ngoài cửa Bắc, một người ngủ ở nhà ông Mỗ ở thôn Đông, gặp thằng con ông ta dữ quá nên bị chém đứt đuôi mười ngày mới lành, nay lại tới đó rồi".
Nói xong định từ biệt, nói "Đừng làm hỏng việc của ta". Đứa nhỏ nói "Đánh cắp khó hơn mua nhiều, ta đã mua trước còn gởi trong quán, xin tặng cho ông. Trong túi ta còn tiền, không lo gì cả". Người kia thẹn vì không có gì báo đáp, đứa nhỏ nói "Chúng ta vốn cùng loài, tiếc gì bấy nhiêu đó, lúc nào rảnh con phải uống với ông một bữa thật say kia". Liền cùng tới quán lấy rượu đưa cho y rồi về.
Đến đêm thấy mẹ quả ngủ yên không chạy đi nữa, nó biết có chuyện lạ bèn nói với cha cùng tới xem thì thấy có hai con chồn chết trong đình, một con chết trong đám cỏ, máu còn ròng ròng trên miệng, bình rượu cũng có đó, cầm lên lắc thử vẫn chưa hết. Cha kinh ngạc hỏi sao không nói trước, nó đáp "Giống này rất khôn lanh, hơi lộ ra là nó biết ngay". Cha mừng nói "Con ta quả là Trần Bình đánh hồ* đấy". Hai cha con bèn mang xác chồn về, thấy một con bị cụt đuôi, vết dao còn rõ. Từ đó mới yên nhưng người đàn bà ngày càng gầy rạc, tỉnh táo dần nhưng ho càng nặng, cứ khạc ra hàng đấu đờm, kế chết. Vợ họ Vương ngoài cửa Bắc trước vẫn bị hồ ám, lúc ấy tới hỏi thì hồ đã dứt mà bệnh cũng khỏi. Cha vì vậy cho rằng đứa nhỏ là đứa trẻ lạ liền cho học cưỡi ngựa bắn cung, sau làm quan tới chức Tổng nhung.
*Trần Bình đánh hồ: Trần Bình là người thời Hán Sở tranh hùng, theo giúp Hán Cao tổ Lưu Bang đánh dẹp, từng sáu lần bày kế lạ giúp Lưu Bang, sau làm tới chức Tả Thừa tướng, được phong là Khúc Nghịch hầu. Đây người cha có ý khen con mưu trí như Trần Bình.
016. Đổng Sinh (Đổng Sinh)
Đổng sinh tự Hà Tư người phía tây phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông), chiều tối ngày mùa đông trải chăn đốt lò sưởi xong, định che đèn đọc sách thì có người mời đi uống rượu. Bèn đóng cửa đi tới chỗ bạn thấy trong tiệc có một thầy lang giỏi xem mạch Thái tố, bắt mạch cho tất cả khách khứa, cuối cùng nhìn Vương sinh Cửu Tư và Đổng nói "Ta đã xem cho nhiều người mà không thấy ai có mạch lạ như hai ông. Mạch sang mà có điềm hèn, mạch thọ mà có điềm yểu, thật không phải là điều ta biết được, mà riêng ông Đổng lại càng lạ lắm". Mọi người cùng ngạc nhiên hỏi, ông ta đáp "Thuật của ta chỉ tới đây là hết rồi, không dám đoán mò. Chỉ xin hai ông cẩn thận mà thôi".
Hai người vừa nghe thì sợ lắm, kế lại cho là lời nói mơ hồ nên cũng không để ý nữa. Nửa đêm Đổng về, thấy cửa phòng sách khép hờ rất ngờ vực, nhưng đang lúc say lại nghĩ chắc là lúc đi vội vàng nên quên khóa cửa. Vào phòng chưa thắp đèn, thò tay vào trong chăn sờ trước xem ấm không. Vừa thò tay vào thì thấy mềm mềm như có ai nằm, giật mình rút tay lại rồi vội thắp đèn lên, thì ra là một cô gái tuyệt đẹp, mặt tươi răng trắng không khác thần tiên. Mừng quýnh lấy tay đùa mò xuống phần dưới thì vớ phải một nắm lông đuôi, hoảng sợ toan thạy. Cô gái tỉnh giấc, vươn tay níu cánh tay sinh hỏi "Chàng đi đâu?". Đổng càng khiếp sợ run lẩy bẩy, xin người tiên thương mà tha cho. Cô gái cười nói "Thấy cái gì mà cho ta là tiên?". Đổng đáp "Ta chẳng sợ phần đầu mà sợ phần đuôi". Cô gái lại cười nói "Đuôi ở đâu ra, chàng lầm rồi". Rồi cầm tay Đổng kéo vào cho sờ lại, thấy da đùi mềm mại như mỡ, xương cụt nhẵn thín. Cô gái cười nói "Thế nào? Rượu say mê mẩn, không rờ thấy cái gì ở đâu mà lại vu cho người ta như thế". Đổng vốn thích nàng đẹp, đến lúc ấy lại càng mê mẩn, lại tự trách mình lầm. Nhưng vẫn nghi ngờ không rõ vì sao nàng tới đây, cô gái nói "Chàng không nhớ cô nhỏ tóc vàng nhà hàng xóm phía đông sao? Co ngón tay tính lại thì từ lúc nhà đi đến nay đã mười năm rồi, lúc ấy thiếp chưa cài trâm mà chàng cũng còn để tóc trái đào kia". Đổng sực nhớ ra, hỏi "Nàng là A Tỏa nhà họ Chu phải không?" nàng đáp phải. Đổng nói "Nàng nói ra ta mới mường tượng nhớ lại, mười năm không gặp đã thành người xinh đẹp thế này rồi. Nhưng sao lại tới ngay đây được thế?" Cô gái đáp "Thiếp lấy phải thằng chồng ngu, được bốn năm năm cha mẹ chồng theo nhau qua đời, lại chẳng may chồng cũng mới mất, chỉ còn một mình không nơi nương tựa. Nhớ lại người quen biết thuở nhỏ chỉ có chàng nên cố tìm tới. Vào tới cổng thì trời tối, gặp lúc có người mời chàng đi uống rượu nên núp đợi chàng về. Đợi lâu lạnh cóng nên muợn cái chăn đắp cho ấm lên thôi, xin đừng ngờ vực".
Đổng mừng rỡ cởi áo lên giường cùng ngủ, lấy làm đắc ý lắm, được hơn tháng dần gầy rộc đi, người nhà lấy làm lạ hỏi thì cứ nói là không biết. Lâu sau mặt mũi càng hốc hác, mới sợ hãi tìm tới thầy lang chẩn mạch giỏi trước đây nhờ bắt mạch. Thầy lang nói "Đây là yêu mạch, cái điềm chết yểu ngày trước nay đã nghiệm rồi, không sao chữa được đâu". Đổng òa khóc không chịu về, thầy lang bất đắc dĩ phải châm cho ở tay, đốt ngải cứu cho ở rốn rồi đưa thuốc cho, dặn "Nếu có gặp ai thì phải cố gắng dứt đi". Đổng cũng tự biết đã nguy, khi về tới nhà cô gái lại cười cợt đòi làm chuyện nọ kia, bèn xẵng giọng nói "Đừng lằng nhằng nữa, ta mà làm việc thì chết luôn đấy", rồi bỏ đi không ngoái lại. Cô gái cả thẹn cũng tức tối nói "Ngươi còn muốn sống à?".
Đêm đến Đổng uống thuốc rồi ngủ riêng, vừa chợp mắt đã mơ thấy cùng nàng ân ái, tỉnh dậy thì đã di tinh rồi. Càng thêm sợ sệt bèn dời vào ngủ nhà trong, bảo vợ con thắp đèn canh gác, nhưng vẫn mơ thấy như cũ, lén nhìn tới cô gái thì đã đi đâu mất. Được vài hôm, Đổng thổ ra hơn một đấu huyết mà chết.
Vương Cửu Tư đang trong phòng sách thì thấy một cô gái tới, thích vì nàng đẹp nên ăn nằm với nhau. Hỏi từ đâu tới, nàng đáp "Thiếp là láng giềng của Hà Tư, trước đây ông ta với thiếp rất thân mật, không ngờ bị hồ mê hoặc mà chết rồi. Yêu khí của bọn ấy rất đáng sợ, những người đọc sách nên cẩn thận đề phòng". Vương càng mến phục, bèn ăn ở với nhau rất vui vẻ.
Được vài hôm thì mắc bệnh hôn mê, chợt nằm mơ thấy Đổng về nói "Kẻ đang ăn ở với ông là hồ đấy, đã giết ta rồi lại còn muốn giết hại cả bạn ta nữa. Ta đã kiện nó ở dưới âm ty để rửa hận, trong bảy đêm tới ông nhớ thắp hương ngoài cửa phòng, đừng có quên". Vương tỉnh dậy lấy làm lạ, nói với cô gái "Ta bệnh nặng quá, sợ sắp chết rồi, có người khuyên nên kiêng chuyện trong phòng". Cô gái nói "Số được thọ thì gần vợ cũng sống, số không thọ thì không gần vợ cũng chết", rồi xán vào cười cợt khêu gợi, Vương không kìm được lại cùng nàng giao hoan, kế lại hối hận nhưng không sao dứt tình được. Đến tối thấp hương cắm trên cửa phòng, cô gái tới nhổ ra vứt đi, đêm Vương lại nằm mơ thấy Đổng về trách sao không nghe lời dặn.
Đêm sau Vương lén dặn người nhà chờ lúc nàng ngủ rồi hãy lén thắp hương, cô gái đang trên giường chợt hoảng sợ nói "Lại thắp hương à? " Vương nói không biết, nàng vội trở dậy rút hương bẻ rồi dụi đi, kế trở vào hỏi "Ai bảo chàng làm như thế?" Vương đáp "Có khi là vợ ta thấy ta đau ốm nên nghe lời thầy bói làm thế để trừ tà thôi", cô gái thẫn thờ không vui. Người nhà lén nhìn thấy hương tắt lại thắp nén khác, cô gái chợt than "Phúc trạch của ông dày thật. Ta đã lỡ hại Hà Tư rồi tới tư thông với ông, thật là có lỗi. Ta sắp phải cùng ông ta đối chất dưới âm ty, nếu không quên tình ân ái xin đừng làm hỏng cái xác của ta". Nói xong thong thả bước xuống giường, ngã lăn ra đất mà chết, thắp đèn soi thì là một con chồn. Vương còn sợ nó sống lại liền gọi người nhà lột da treo lên.
Vương bệnh nặng thêm, thấy hồ tớí nói "Ta đã tới kiện ở pháp tòa, pháp tòa cho rằng ông Đổng thấy sắc động tâm thì chết là đáng tội, nhưng buộc tội ta mê hoặc người nên thu mất viên kim đan rồi cho sống lại, vậy xác của ta đâu?". Vương đáp "Người nhà không biết đã đem lột da mất rồi". Hồ ảm đạm nói "Ta giết người nhiều rồi, nay chết cũng đã muộn, nhưng sao chàng lại nhẫn tâm thế", rồi căm hờn bỏ đi. Vương ốm tưởng nguy, nửa năm mới khỏi.
017. Phán Quan Họ Lục (Lục Phán)
Chu Nhĩ Đán người Lăng Dương (tỉnh An Huy) tự Tiểu Minh, tính hào phóng nhưng tối dạ nên tuy chăm học vẫn không thành danh. Một hôm văn xã hội họp uống rượu, có người đùa nói "Ông có tiếng là hào, nếu đang đêm dám tới đền Diêm Vuơng cõng vị Phán quan ở hành lang bên trái về đây thì mọi người xin mời một bữa rượu".
Nguyên ở Lăng Dương có đền thờ Diêm Vương, tượng thần đều chạm bằng gỗ, phục sức như sống, hành lang phía đông có tượng Phán quan đứng, mặt xanh râu đỏ trông rất dữ tợn. Có khi đang đêm nghe hai bên hành lang có tiếng tra khảo, ai vào cũng rợn tóc gáy nên mọi người lấy đó thách Chu. Chu cười đứng dậy đi thẳng, không bao lâu ngoài cửa có tiếng gọi lớn "Ta mời tôn sư rậm râu tới đây rồi!".
Mọi người đứng cả dậy thì thấy Chu cõng tượng Phán quan vào đặt lên bàn, bưng chén mời rượu ba lần. Mọi người nhìn thấy co rúm cả lại trên ghế, lại xin cõng đi. Chu lại rót rượu xuống đất khấn "Đệ tử ngông cuồng thô suất, xin đại tôn sư bỏ qua đừng trách. Nhà tranh không xa đây mấy, lúc nào gặp hứng xin cứ tới lấy rượu uống, mong đừng khách sáo", rồi cõng pho tượng đi. Hôm sau, mọi người quả mời Chu uống rượu, đến tối Chu ngà ngà về nhà chưa hết hứng lại khêu đèn uống một mình.
Chợt có người vén rèm bước vào, nhìn ra thì là Phán quan. Chu đứng dậy nói "Ôi, chắc ta sắp chết rồi, tối hôm qua ta trót xúc phạm nên hôm nay tới để trừng trị phải không?". Phán quan vuốt chòm râu rậm cười khẽ, nói "Không phải thế, hôm qua đội ơn ông hẹn mời, đêm nay may được thong thả xin theo lời hẹn của bậc đạt giả". Chu mừng rỡ kéo áo mời ngồi, tự đi rửa chén khơi lò Phán quan nói "Trời ấm uống rượu lạnh cũng được", Chu theo lời đem vò rượu đặt lên bàn rồi chạy xuống sai người nhà sửa soạn thức ăn. Vợ nghe thế cả sợ bảo đừng ra, Chu không nghe, đứng đợi thức ăn làm xong rồi bưng ra, nâng chén mời xong mới hỏi tên họ.
Phán quan nói "Ta họ Lục, không có tên tự gì cả", bàn tới chuyện văn chuơng điển tích thấy ứng đáp trôi chảy. Chu hỏi có biết văn chương kinh nghĩa không, ông ta đáp "Cũng có thể phân biệt được hay dở. Việc học hành ở âm ty đại khái cũng giống trên trần thế". Lục uống rất hào, mỗi lần nâng chén là uống liên tiếp hàng chục chén, Chu vì đã uống suốt ngày nên bất giác gục xuống bàn ngủ khò, lúc tỉnh dậy thì ngọn đèn còn leo lét mà ông khách ma đã đi.
Từ đó cứ hai ba hôm Lục lại tới chơi, ngày càng thân thiết, có khi nằm gác chân lên nhau mà ngủ. Chu đem văn bài cho Lục xem, Lục lấy son sổ hết, chê là không hay. Một đêm Chu say đi ngủ trước, Lục còn ngồi uống một mình, Chu đang ngủ say chợt thấy tạng phủ hơi đau, mở mắt nhìn thì thấy Lục ngồi trước giường mổ bụng mình lôi ruột gan lên sắp lại, ngạc nhiên hỏi "Vốn không có thù oán, sao lại giết nhau?" Lục cười đáp "Đừng sợ, ta thay cho ông quả tim thông tuệ mà thôi", rồi ung dung nhét ruột Chu vào khoang bụng, kéo hai mép lại, sau cùng lấy vải bó chân buộc ngang lưng Chu, xong rồi Chu nhìn tới giường không thấy dây vết máu nào, chỉ hơi ngứa ở bụng. Thấy có một khối thịt trên bàn, hỏi thì Lục đáp "Đó là quả tim của ông. Xem văn ông thấy không được hay, biết rằng tim ông có một khiếu không thông, vừa rồi ta chọn được một quả tim tốt trong ngàn muôn quả dưới âm ty để thay cho ông, còn quả này để bù vào đó", rồi đứng dậy khép cửa đi.
Trời sáng Chu cởi áo xem thì vết rạch đã liền da, chỉ còn như vết chỉ đỏ, từ đó học hành tấn tới, sách vở đọc qua là nhớ không quên. Vài hôm sau đưa văn cho Lục xem, Lục nói "Được rồi, nhưng ông phúc mỏng không hiển đạt lớn được, chỉ đỗ thi hương thôi". Chu hỏi bao giờ đỗ, Lục đáp "Năm nay ắt đỗ đầu" Không bao lâu Chu thi khảo khóa đứng đầu, kế thi huơng cũng lại đỗ đầu. Các bạn học vốn coi thường Chu, đến lúc đọc bài thi của Chu đều nhìn nhau kinh ngạc, hỏi kỹ mới rõ chuyện lạ, bèn nhờ Chu nói trước để xin làm quen với Lục.
Lục nhận lời, mọi người chuẩn bị tiệc rượu thịnh soạn để đợi, hết canh một thì Lục tới, hàm râu đỏ lay động, mắt sáng quắc như chớp. Mọi người khiếp đảm, răng đánh vào nhau lập cập, dần dần rút lui hết. Chu bèn dẫn Lục về nhà cùng uống rượu, khi đã ngà ngà say Chu nói "Được nhờ ơn lớn rửa ruột thay tim, nay lại có việc muốn làm phiền, không biết được không". Lục xin cho biết, Chu nói "Đổi được tim ruột thì trộm nghĩ mặt mũi cũng thay được. Vợ ta thì phần thân thể không đến nỗi xấu, duy mặt mũi thì không được đẹp lắm, nếu muốn phiền đến lưỡi dao của ông thì thế nào?". Lục cười đáp "Được thôi, nhưng để ta tính".
Qua mấy hôm, nửa đêm Lục tới gọi cửa, Chu vội trở dậy mời vào, thắp đèn lên thấy có bọc một vật trong vạt áo. Hỏi thì Lục đáp "Hôm trước ông dặn kể cũng khó tìm, nhưng vừa may được cái đầu mỹ nhân, xin đem tới để phụng mệnh". Chu mở ra xem, thấy máu trên cổ còn ướt. Lục giục vào ngay đừng để gà chó kinh động. Chu lo ban đêm vợ đóng cửa phòng nhưng Lục vào đẩy một cái thì cánh cửa mở ra ngay. Chu dẫn vào giường, thấy vợ đang nằm nghiêng mà ngủ, Lục đưa cái đầu cho Chu cầm rồi rút trong giày ra một lưỡi dao sáng loáng như thanh chủy thủ đặt lên cổ vợ Chu dùng sức ấn xuống như bổ dưa, cái đầu theo luỡi dao rơi xuống cạnh gối. Lục vội đỡ cái bọc từ tay Chu, lấy cái đầu mỹ nhân ra gắn lên cổ, ướm cho thật ngay rồi xoa miết cho liền vết, kế đặt gối đỡ vào dưới vai vợ Chu, bảo Chu đem đầu vợ chôn ở nơi sạch sẽ rồi đi. Vợ Chu tỉnh dậy thấy cổ hơi ngứa, sờ thấy vết máu khô sợ quá sai đứa tỳ nữ múc nước rửa mặt, đứa tỳ nữ thấy mặt vợ Chu máu me bê bết cũng phát hoảng, rửa xong nước trong chậu đỏ lòm, ngẩng đầu lên thấy mặt mày khác hẳn lại càng khiếp sợ. Vợ Chu soi gương cũng ngơ ngác không hiểu vì sao, Chu vào kể lại mọi chuyện, nhân nhìn kỹ thì thấy lông mày dài tới gần chân tóc, nụ cười tươi tắn như người trong tranh. Nhìn tới cổ thấy còn một ngấn đỏ vòng quanh, hai phần trên dưới màu da khác hẳn nhau.
Nguyên là quan Thị ngự họ Ngô có người con gái rất xinh đẹp, có hai người hỏi xong chưa kịp cưới đều chết nên mười chín tuổi vẫn chưa có chồng. Nhân tiết Thuợng nguyên nàng đi chơi điện Thập Vương, người đi chơi chen chúc, trong có một tên vô lại thấy nàng xinh đẹp bèn ngầm hỏi nhà cửa. Kế nhân đêm tối bắc thang leo vào, đào ngạch vào phòng ngủ, giết một tỳ nữ nằm dưới giường rồi ép cô gái giao hoan. Cô gái cố sức chống cụ la lớn, y tức giận giết luôn. Ngô phu nhân thoáng nghe tiếng, bảo tỳ nữ tới xem, thấy xác chết sợ mất vía. Cả nhà đều trở dậy, đem xác nàng đặt trên sảnh, để cái đầu bên cạnh khóc lóc ầm ĩ suốt đêm. Đến sáng mở chăn ra thì thân vẫn còn mà đầu thì biến mất, bọn tỳ nử bị đánh đòn suốt lượt vì tội canh giữ bất cẩn để chó ăn mất cái đầu.
Thị ngự trình lên quận, quan ra nghiêm hạn tìm bắt hung thủ, qua ba tháng vẫn không tìm ra được. Dần dần có người đem việc đổi đầu kỳ lạ ở nhà họ Chu kể cho ông Ngô nghe, Ngô ngờ vực sai người vú già tới thăm dò, bà ta vào nhà Chu nhìn thấy phu nhân hoảng sợ chạy về báo với. Ông Ngô thấy xác con gái vẫn còn, kinh nghi không hiểu vì sao, nghĩ là Chu dùng tà thuật giết chết con gái bèn tới cật vấn. Chu nói "Vợ ta nằm mơ thấy đổi đầu, thật cũng không hiểu vì sao, nếu nói là ta giết tiểu thư thì oan lắm". Ngô không tin bèn kiện lên quan, quan bắt người nhà Chu tra vấn thì họ đều khai như lời Chu nói, quận thú không sao xét xử được.
Chu trở về hỏi kế Lục, Lục nói "Không khó gì, để bảo con gái y tự nói ra". Ban đêm Ngô mơ thấy con gái về nói "Con bị tên Dương Đại Niên ở Tô Khê giết chứ không can gì tới Hiếu liêm họ Chu, vì ông ta thấy vợ không đẹp nên Phán quan họ Lục lấy đầu con thay vào, thế thì tuy thân con chết mà đầu vẫn sống, xin đừng thù oán họ". Ngô tỉnh dậy kể cho phu nhân, phu nhân cũng mơ thấy như thế bèn lên thưa với quan. Hỏi ra quả có tên Dương Đại Niên bèn bắt lên tra khảo, y liền nhận tội. Ngô bèn tới nhà Chu xin gặp phu nhân, từ đó coi Chu như con rể rồi đem đầu vợ Chu về chôn với xác con gái.
Chu ba lần vào kinh thi hội nhưng đều phạm trường quy bị đánh rớt, từ đó công danh nguội lạnh, suốt ba mươi năm. Một đêm Lục nói "Ông không còn thọ lâu nữa đâu", Chu hỏi đến lúc nào, Lục đáp trong năm ngày nữa. Chu hỏi có thể cứu nhau được không, Lục đáp "Đó là mệnh trời, ai mà thiên vị riêng tư được. Vả lại lấy con mắt đạt nhân mà xem thì sống chết cũng như nhau, cần gì phải sống thì vui mà chết thì buồn".
Chu cho là đúng, liền cho chuẩn bị quần áo quan quách rồi ăn mặc chỉnh tề mà chết. Hôm sau phu nhân đang khóc ở bên quan tài bỗng Chu từ ngoài đi nhanh vào, phu nhân hoảng sợ, Chu nói "Ta đúng là ma nhưng cũng không khác gì lúc sống, nghĩ tới nàng mẹ góa con côi nên quyến luyến thôi". Phu nhân đau lòng chảy nước mắt ròng ròng, Chu cố gắng an ủi. Phu nhân nói "Xưa có việc hoàn hồn sống lại, chàng đã linh thiêng sao không làm thế". Chu nói "Số trời không thể trái được". Phu nhân lại hỏi làm việc gì dưới âm ty, Chu đáp "Phán quan họ Lục tiến cử ta giữ chức đôn đốc việc án, được trao quan tước cũng chẳng có gì khổ". Phu nhân còn muốn hỏi chuyện thì Chu nói "Ông Lục cùng về với ta, nàng dọn cho mâm rượu", rồi rảo bước đi ra. Phu nhân theo lời dọn rượu, chỉ nghe nhà ngoài có tiếng cười nói uống rượu, ăn to nói lớn hệt như lúc sống, nửa đêm ra nhìn thì đã đi mất.
Từ đó cứ vài ba ngày Chu lại về một lần, có khi ở lại gần gũi với vợ, chỉ vẽ cho các việc trong nhà. Con trai là Vĩ lúc ấy mới năm tuổi, Chu về là bế ẵm, năm bảy tám tuổi đêm đêm vẫn được cha dạy học cho. Đứa con cũng thông minh, chín tuổi đã biết làm văn, mười lăm tuổi được vào học trường huyện nhưng vẫn không biết mình mồ côi cha. Nhưng từ đó Chu về cũng thưa dần, có khi cả tháng mới về. Một đêm về nói với phu nhân "Từ nay thì cùng nàng vĩnh biệt". Phu nhân hỏi đi đâu, Chu đáp "Ta được Thuợng đế cho làm Thái Hoa khanh, sắp phải đi xa, việc bận đường xa nên không thể về được nữa". Hai mẹ con ôm Chu khóc lóc, Chu nói "Đừng thế! Con trai đã khôn lớn, gia sản cũng đủ sống, mà có ai sau trăm tuổi không phải loan phượng chia lìa", kế nhìn con nói "Con sống đừng làm hư sự nghiệp của cha, mười năm nữa sẽ có lần gặp nhau", rồi ra cửa đi thẳng, từ đó không về nữa.
Về sau Vĩ hai mươi lăm tuổi thi đỗ Tiến sĩ, làm quan tới chức Hành nhân, phụng mệnh ra tế Tây Nhạc, đường đi ngang qua Hoa âm bỗng có toán xe kiệu cờ lọng rong ruổi xông vào giữa đoàn nghi trượng. Kinh ngạc nhìn kỹ thì người trong xe là cha, bèn xuống ngựa khóc lạy bên đường. Cha dừng xe nói "Con làm quan có tiếng tốt, ta nhắm mắt được rồi!". Vĩ quỳ rạp không đứng lên, Chu giục xe đi như bay không ngoảnh lại, được mấy bước quay nhìn rồi cởi thanh bội đao sai người cầm lại cho con, từ xa nói "Đeo vào thì sẽ được quý hiển". Vĩ muốn chạy theo thì thấy xe kiệu người ngựa lướt đi như gió, trong chớp mắt đã mất hút, đau xót hồi lâu. Rút thanh đao ra xem thấy chế tác rất tinh xảo, khắc một hàng chữ "Hành sự cần quả quyết, suy xét cần thận trọng, kiến thức cần đầy đủ, đức hạnh cần trọn vẹn*".
* Hành sự... tron vẹn: nguyên văn là "Đảm dục đại nhi tâm dục tiểu, trí dục phương nhi hạnh dục viên", vốn là lời của Tôn Tư Mạo thời Đường nói với Lư Chiếu Lân.
Vĩ sau làm quan tới chức Tư mã, sinh năm con trai là Trầm, Tiềm, Vẫn, Hồn, Thâm. Một đêm mơ thấy cha về nói "Thanh bội đao nên cho thằng Hồn". Vĩ theo lời. Hồn sau làm quan tới chức Tổng đốc, có tiếng về chính tích tốt.
Dị Sử thị nói: Cắt ngắn cổ hạc, nối dài chân le là lời gian dối, nhưng Dời đổi hoa lá, nối thêm gốc rễ thì thật kỳ lạ, huống hồ là việc đem rìu búa mổ gan ruột, lấy dao cưa cắt đầu cổ sao? Như ông Lục có thể nói là người diện mạo xấu xí mà lòng dạ đẹp đẽ vậy Từ cuối thời Minh đến nay năm tháng chưa xa, ông Lục ở Lăng Dương còn không? Không biết có còn linh thiêng không? Ta muốn cầm roi theo hầu, vì rất hâm mộ ông ta.
Quyển II
018. Anh Ninh (Anh Ninh)
Vương Tử Phục người đất La Điếm huyện Lữ (tỉnh Sơn Đông) mồ côi cha sớm, rất thông minh, mười bốn tuổi được vào học trường huyện. Mẹ rất thương yêu, bình thường không cho đi chơi ra ngoài đồng ruộng. Đã dạm hỏi Tiêu thị nhưng chưa cưới thì nàng chết sớm nên chưa thành gia thất. Gặp tiết Thượng nguyên có con trai ông cậu là Ngô sinh tới rủ đi chơi, vừa ra tới đầu làng thì đầy tớ nhà cậu tới gọi Ngô về, sinh thấy con gái đi chơi rất đông cũng cao hứng đi chơi một mình. Có một cô gái dắt tỳ nữ theo, cầm một cành hoa mai, dung mạo tuyệt thế, tươi cười rạng rỡ, sinh nhìn chằm chằm quên cả việc giữ ý. Cô gái đi vượt lên mấy bước, ngoảnh lại nói với tỳ nữ "Anh chàng này mắt nhìn chòng chọc cứ như giặc" rồi vứt cành hoa xuống đất, cười nói đi mất.
Sinh nhặt cành hoa buồn bã, thần hồn ngơ ngẩn thẫn thờ quay về. Tới nhà cất cành hoa dưới gối, gối lên mà ngủ, không nói năng cũng không ăn uống. Mẹ lo lắng khấn vái cầu cúng nhưng bệnh sinh càng nặng, chỉ còn da bọc xương. Thầy thuốc thăm bệnh, cắt cho thang phát tán nhưng sinh cứ thất thần như người mê. Mẹ dỗ dành hỏi vì sao thì lặng im không đáp, gặp lúc Ngô sinh tới bà bèn nhờ kín đáo hỏi giùm. Ngô tới trước giường, sinh nhìn thấy thì rơi nước mắt, Ngô ngồi lên giường an ủi, lân la hỏi han. Sinh bèn kể thật rồi nhờ lo giùm, Ngô cười nói "Ông thật ngây quá, chuyện đó thì có gì là khó toại nguyện chứ, để ta hỏi giúp cho. Đi bộ trên đồng ắt không phải là con nhà thế gia, nếu chưa hứa gả cho ai thì thế nào cũng xong, còn nếu không cứ bỏ nhiều tiền ra thì muốn sao cũng được. Chỉ cốt là ông khỏi bệnh, ta sẽ lo cả cho".
Sinh nghe thế bất giác tươi cười, Ngô ra nói với mẹ sinh tìm hỏi làng xóm của cô gái, nhưng hỏi han khẳp nơi vẫn không thấy tung tích. Mẹ lo lắm không biết tính sao, nhưng sau khi Ngô về thì sinh có vẻ tươi tỉnh, ăn uống khá hơn. Vài hôm sau Ngô lại tới, sinh hỏi đã lo giúp tới đâu, Ngô đáp bừa "Đã tìm ra rồi, tưởng ai hóa ra là con cô ta, tức là hàng em con dì của anh, hiện vẫn còn chờ người mai mối. Tuy là có họ hàng kết thông gia không tiện, nhưng cứ nói thật ra thì thế nào cũng xong". Sinh mừng rỡ tươi rói cả mặt mày, hỏi Ngô nàng ở đâu, Ngô bịa rằng "ở trong núi phía tây nam, cách đây hơn ba mươi dặm". Sinh lại dặn dò năm lần bảy lượt, Ngô sốt sắng nhận lời rồi về.
Sinh từ đó ăn uống nhiều hơn, ngày càng khỏe lại, mò lấy cành hoa dưới gối ra xem thì hoa khô nhưng vẫn chưa rụng, cứ mân mê ngắm nghía như nhìn người đẹp. Lấy làm lạ vì Ngô không tới, viết thư mời thì Ngô tìm cớ lần lữa không qua. Sinh bực dọc không vui, mẹ lo con lại ngã bệnh vội bàn chuyện cưới vợ cho, nhưng cứ nói động tới là sinh lại lắc đầu không chịu, chỉ ngày ngày đợi Ngô. Lâu ngày Ngô vẫn bặt tăm, sinh càng bực tức, chợt nghĩ ba mươi dặm đường không phải là xa, cần gì nhờ vả người khác? Bèn giấu cành mai vào tay áo, giận dữ ra đi, người nhà không ai hay biết. Lủi thủi đi một mình không biết đâu mà hỏi đường, chỉ nhắm hướng núi Nam đi tới.
Khoảng hơn ba mươi dặm thì thấy núi mọc ngổn ngang xanh biếc mát lạnh, vắng vẻ không một bóng người, chỉ có đường núi cheo leo. Nhìn xuống khe núi xa xa, trong chỗ cây hoa um tùm thấp thoáng như có một thôn nhỏ. Xuống núi vào thôn thấy nhà cửa thưa thớt, toàn là nhà tranh nhưng dáng cách rất thanh nhã. Có một gian nhà quay về hướng bắc, trước cổng tơ liễu buông mành, trong tường đào hạnh tươi tốt chen lẫn với tre trúc, chim rừng kêu ríu rít.
Sinh cho là nơi vườn cảnh nên không dám đường đột bước vào, quay nhìn thấy trước cổng có tảng đá lớn trơn bóng sạch sẽ bèn ngồi xuống nghỉ. Giây lát nghe trong tường có tiếng con gái gọi "Tiểu Vinh" thanh âm nhẹ nhàng êm ái, đang lắng nghe thì có một nữ lang từ phía đông đi tới, tay cầm đóa hoa hạnh, cúi đầu cài lên tóc, vừa ngẩng đầu thấy sinh liền không cài nữa, mỉm cười cầm đóa hoa đi vào. Nhìn kỹ lại thì đúng là người đã gặp dọc đường hôm tiết Thượng nguyên, mừng rơn chỉ nghĩ không biết lấy cớ gì bước tới, muốn gọi cô em con dì nhưng trước nay chưa từng qua lại nên sợ lầm.
Trong cửa lại không có ai để hỏi, đành quanh quẩn đứng ngồi đến tận trưa, đăm đăm trông ngóng quên cả đói khát. Lâu lâu lại thấy cô gái hé nửa mặt ra nhìn như lấy làm lạ sao không đi. Bỗng có một bà già chống gậy đi ra nhìn sinh hỏi "Chàng trai ở đâu, nghe như tới từ giờ Thìn đến giờ chưa đi là cần gì vậy, không đói bụng sao?". Sinh vội đứng dậy vái chào, đáp "Định tìm thăm người họ hàng". Bà già nghễnh ngãng nghe không rõ, sinh nói to lần nữa, bà bèn hỏi "Vậy quý thân thích họ gì?", sinh không đáp được. Bà già cười nói "Lạ thật, tên họ cũng không biết thì biết họ hàng nào mà hỏi? Ta thấy chàng cũng chỉ là con mọt sách thôi. Thôi vào trong này ăn ít cơm hẩm, nhà có chiếc giường con cũng ngả lưng đuợc, đợi sáng maì về hỏi lại tên họ rồi trở lại tìm cũng chưa muộn".
Sinh đang lúc bụng đói muốn ăn, lại thấy sẽ được làm quen với người đẹp thì mừng quá bèn theo bà già vào. Thấy trong cổng lối đi lát đá trắng, hai bên lối đi hoa hồng từng cánh từng cánh rụng trên thềm, quanh co đi về phía tây lại mở một cánh cửa nữa, luống đậu giàn hoa đầy trong sân. Bà già kính cẩn dẫn khách vào nhà, tường quét vôi sáng như gương, hoa hải đường ngoài song thò cả vào phòng, đệm chiếu bàn ghế đều bóng loáng sạch sẽ. Vừa ngồi xuống đã thấy ngoài cửa sổ thấp thoáng có người nhìn trộm, bà già gọi "Tiểu Vinh làm cơm mau", bên ngoài có tiếng tỳ nữ dạ lớn.
Ngồi yên xong bèn nói rõ tên họ dòng dõi, bà già hỏi "Ông ngoại chàng họ Ngô phải không?", sinh đáp phải. Bà già ngạc nhiên nói "Thế thì chàng là cháu ta, mẹ chàng là em gái ta. Mấy năm nay ta vì nhà nghèo lại không có con trai nên bỏ bẵng việc thăm hỏi, cháu đã khôn lớn thế này mà vẫn không biết". Sinh đáp "Lần này cháu tới đây là để thăm dì, mà lúc vội vàng quên mất cả họ". Bà già nói "Lão thân người nhà họ Tần, không sinh nở lần nào, chỉ có một con gái cũng là vợ lẽ sinh ra. Mẹ nó đi bước nữa, để nó lại cho ta nuôi nấng, cũng không phải dần độn nhưng ít được dạy dỗ nên cứ cười đùa chẳng biết buồn lo gì, lát nữa sẽ gọi ra chào".
Giây lát tỳ nữ dọn cơm lên, thức ăn đầy đĩa. Bà già ngồi tiếp sinh, ăn xong tỳ nữ lại ra dọn, bà già nói "Gọi cô Ninh ra đây!" Tỳ nữ dạ đi vào hồi lâu nghe ngoài cửa như có tiếng cười, bà già gọi "Anh Ninh, anh con dì ngươi đây này!". Ngoài cửa tiếng cười khúc khích vẫn không ngừng, tỳ nữ đẩy cô gái vào, nàng còn che miệng cười không nín được. Bà già trừng mắt nói "Đang có khách mà cứ khúc kha khúc khích là lối gì thế?", nàng nín cười đứng yên.
Sinh vái chào, bà già nói "Đây là Vương lang con dì của ngươi. Người nhà mà không biết nhau, có buồn cười không". Sinh hỏi "Em đây bao nhiêu tuổi?". Bà già chưa hiểu, sinh bèn nhắc lại cô gái lại rũ ra cười không ngẩng lên được nữa. Bà già nói với sinh "Ta vừa nói nó ít được dạy dỗ, giờ thì thấy rồi đấy. Tuổi đã mười sáu mà cứ ngu dại như trẻ con". Sinh nói "Kém cháu một tuổi". Bà già hỏi "Cháu mười bảy tuổi, là sinh năm Canh ngọ tuổi ngựa à?". Sinh gật đầu, bà lại hỏi vợ là ai, sinh đáp chưa có. Bà già nói "Tài mạo như cháu, sao mười bảy tuổi rồi còn chưa cưới vợ? Anh Ninh cũng chưa thành gia thất, kể sánh với nhau thật xứng đôi, tiếc là có chút họ hàng với nhau".
Sinh không đáp, mắt nhìn dán vào Anh Ninh không chớp, đứa tỳ nữ quay qua cô gái nói nhỏ "Con mắt nhìn chòng chọc như giặc vẫn chưa đổi". Cô gái lại cười lớn, quay qua nói với nó "Ra xem bích đào nở chưa đi!", rồi vụt đứng ngay dậy, lấy tay áo che miệng rón rén bước nhanh ra, khỏi cửa thì cười phá lên. Bà già cũng đứng dậy, gọi tỳ nữ mang chăn đệm xếp đặt chỗ nghỉ cho sinh, nói "Cháu tới đây không phải dễ, cứ ở chơi năm ba hôm, thong thả ta sẽ tiễn về. Nếu thấy vắng vẻ buồn chán thì sau nhà có mảnh vườn con cũng đủ tiêu khiển, cũng có sách để đọc".
Hôm sau sinh ra sau nhà quả có mảnh vườn rộng nửa mẫu, cỏ mịn như trải thảm, hoa dương đầy lối đi, có ba gian nhà tranh cây hoa phủ kín bốn bề. Sinh đang lách trong đám cây hoa chợt nghe trên cây có tiếng khúc khích, ngẩng lên nhìn thì ra Anh Ninh đang ở trên cây, thấy sinh tới cười rộ muốn ngã. Sinh kêu "Đừng thế, ngã đấy", cô gái vừa tụt xuống vừa cười không nhịn được, gần tới đất thì tuột tay ngã xuống mới thôi cười. Sinh đỡ dậy, lén nắm vào cổ tay, nàng lại bật tiếng cười, dựa vào thân cây không bước đi được, hồi lâu mới thôi.
Sinh chờ nàng dứt tiếng cười bèn rút cành hoa trong tay áo ra cho xem. Cô gái cầm lấy nói "Khô rồi còn giữ làm gì?" Sinh nói "Đây là cành hoa em bỏ lại hôm tiết Thuợng nguyên, nên mới giữ," Nàng hỏi giữ làm gì, sinh đáp "Để tỏ rằng yêu nhau không quên được. Kể từ hôm tiết Thuợng nguyên được gặp gỡ, cứ tơ tưởng đến thành bệnh, cứ nghĩ là đã chết rồi, nào ngờ lại còn được thấy mặt, xin hãy rủ lòng thương xót". Cô gái đáp "Việc đó rất nhỏ, chỗ họ hàng thì có tiếc gì. Đợi hôm nào anh đi, các thứ hoa trong vườn sẽ gọi lão bộc bẻ một ôm lớn mang theo tiễn anh". Sinh nói "Em ngây đấy à?", nàng hỏi "Thế nào là ngây?", sinh đáp "Ta chẳng phải yêu hoa mà là yêu người cầm hoa thôi" Nàng nói "Họ hàng thân thiết thì thương yêu nhau cần gì phải nói". Sinh nói "Ta nói yêu chẳng phải là tình họ hàng mà là tình vợ chồng kia!". Cô gái nói "Có gì khác nhau nào?", sinh đáp "Đêm thì cùng chung chăn chung gối". Cô gái cúi đầu nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói "Em không quen ngủ với người lạ".
Đang còn trò chuyện thì đứa tỳ nữ đã khẽ khàng đi tới, sinh hoảng sợ lẩn đi. Lát sau cùng hội họp chỗ bà già, bà hỏi đi đâu, cô gái đáp nói chuyện với nhau trong vườn. Bà già nói "Cơm chín lâu rồi, có chuyện gì hay mà nói lâu thế' ", nàng đáp "Anh muốn ngủ chung với con". Sinh nghe chưa hết câu đã phát hoảng vội trợn mắt nhìn, nàng mỉm cười im bặt, may mà bà già không nghe rõ, còn khẽ khàng hỏi lại thì sinh vội nói lảng qua chuyện khác, nhân đó khẽ trách nàng. Cô gái hỏi "Thế chuyện ấy không nên nói ra à?", sinh đáp "Đó là chuyện phải giấu người khác". Nàng nói "Giấu người khác chứ sao lại giấu mẹ già, vả lại ngủ chung là chuyện thường có gì phải sợ". Sinh bực vì ngu ngơ nhưng không biết làm sao cho nàng hiểu được.
Ăn vừa xong thì người nhà dắt hai con lừa tới tìm sinh. Trước là mẹ sinh đợi lâu không thấy con về sinh nghi, tìm kiếm khắp làng không thấy dấu vết bèn tìm tới Ngô. Ngô nhớ lại lời mình nói trước đây liền bảo tới núi phía tây nam tìm, qua mấy thôn mới tới. Sinh ra cửa thì vừa gặp bèn trở vào nói với bà già, lại xin đưa cô gái cùng về. Bà già mừng rỡ nói "Ta vẫn có ý ấy từ lâu, nhưng vì già yếu không đi xa nổi, được cháu dẫn em nó về nhận dì thì hay lắm". Bèn gọi Anh Ninh, Ninh cười ra gặp, bà già nóỉ "Có gì vui mà cười mãi thế? Nếu không cười thì cũng ra dáng con người rồi đấy", nhân trừng mắt nhìn rồi nói "Anh cả muốn ngươi đi cùng, vào sắp sửa hành trang đi!".
Lại dọn cơm rượu thết đãi người gia nhân rồi đưa ra cổng, nói "Nhà dì có nhiều ruộng vườn, đủ sức nuôi người ăn không, tới đó thì đừng về, học lấy chút lễ nghĩa cho biết cách thờ phụng cha mẹ chồng, rồi sẽ nhờ dì tìm cho một tấm chồng tốt". Hai người bèn lên đường, tới dưới núi quay nhìn còn thấy rõ bóng dáng bà già dựa cửa nhìn theo. Tới nhà, mẹ sinh thấy có cô gái xinh đẹp ngạc nhiên hỏi là ai, sinh đáp là con bà dì. Mẹ nói "Lời Ngô lang nói với con trước đây là dối đấy. Mẹ chưa từng có chị, làm sao có cháu gọi bằng dì được?".
Hỏi cô gái, nàng đáp "Cháu không phải là do mẹ đẻ ra. Cha vốn họ Tần, mất lúc cháu còn trong tã nên cháu không nhớ gì". Mẹ nói "Ta có một người chị lấy chồng họ Tần thật, nhưng mất đã lâu, làm sao còn sống được?". Nhân hỏi kỹ mặt mũi nốt ruồi, nhất nhất đều đúng, lại ngờ vực nói "Đúng rồi, nhưng chị ấy đã chết từ lâu, làm sao còn sống kia chứ?" Đang lúc suy nghĩ ngờ vực thì Ngô sinh tới, cô gái lánh vào nhà trong. Ngô hỏi biết chuyện ngẩn ra hồi lâu rồi chợt hỏi "Cô gái này tên Anh Ninh phải không?" sinh đáp phải. Ngô than thở là chuyện kỳ lạ, hỏi vì sao biết, Ngô đáp "Sau khi cô Tần mất thì dượng ở góa, bị hồ ám mang bệnh mà chết. Hồ sinh một gái tên là Anh Ninh, vẫn quấn tã đặt trên giường, người nhà đều nhìn thấy. Dượng mất rồi, thỉnh thoảng hồ vẫn tới, sau xin bùa của Thiên sư dán trên vách mới ôm con gái bỏ đi có lẽ là đây chăng?".
Người này người nọ bàn tán xôn xao, chỉ nghe trong phòng có tiếng khúc khích, đều là tiếng Anh Ninh cười. Mẹ sinh nói "Con bé này cũng ngớ ngẩn quá". Ngô xin cho gặp mặt, mẹ vào phòng thì nàng còn rũ ra cười không ngoảnh lại, mẹ giục bảo ra nàng mới cố nín cười, lại quay mặt vào vách một lúc mới ra được. Vừa vái chào xong đã xoay mình trở vào rồi cười phá lên, đàn bà con gái trong phòng đều vui thích.
Ngô xin đi dò xét sự lạ, nếu tiện thì làm mối luôn, nhưng tìm tới đó thì không thấy xóm làng nhà cửa gì cả, chỉ có hoa rừng rơi tả tơi mà thôi. Ngô ngờ ngợ nhớ lại nơi chôn bà cô cũng gần đó nhưng mộ cũ đã mất dấu không nhận ra được đành than thở quay về. Mẹ sinh ngờ bà là ma, vào kể lại lời Ngô cho nghe nhưng cô gái không hề tỏ vẻ sợ sệt lại thương cho nàng không có nhà cửa cũng không hề tỏ vẻ đau xót, cứ ngơ ngẩn cười khúc khích mà thôi, mọi người đều không hiểu ý tứ ra sao. Mẹ bảo cùng ngủ với con gái út, sáng sớm nàng đã tới vấn an. Việc nữ công thì nàng vô cùng khéo léo nhưng hay cười, có cấm cũng không nhịn được, có điều cười rất tươi, dù cười như phát điên cũng không mất vẻ xinh đẹp, ai thấy cũng vui thích, đàn bà con gái láng giềng cứ giành nhau mời đón.
Mẹ chọn ngày tốt cho làm lễ hợp cẩn nhưng vẫn sợ là ma, rình lúc nàng đứng dưới bóng mặt trời nhìn thì thấy cũng có bóng không khác gì người thường. Đến ngày cưới bảo nàng trang sức đẹp đẽ làm lễ, nàng cười quá không thể vái lạy đành thôi. Sinh thấy nàng ngu ngơ sợ lại nói lộ chuyện kín trong phòng ra nhưng cô gái hết sức kín đáo, một câu cũng không nói.
Mỗi khi mẹ có điều lo lắng tức giận, nàng tới cười một tiếng là lập tức nguôi hết, tôi tớ có lỗi sợ bị đòn cứ xin nàng tới nói chuyện với mẹ rồi vào ra mắt là được tha. Nhưng nàng có tật mê hoa, tìm kiếm trong khắp thân thích láng giềng, lén bán cả đồ trang sức để mua giống hoa đẹp, vài tháng thì bờ tường bậc thềm chuồng lợn nhà xí chỗ nào cũng đầy những hoa.
Sân sau có một giàn mộc hương sát nhà láng giềng phía tây, cô gái vẫn vin cây trèo lên hái hoa cài đầu, mẹ bắt gặp là mắng nhưng nàng vẫn không chừa. Một hôm con trai nhà ấy trông thấy nàng, say mê nhìn sững. Cô gái không tránh mặt lại cười, y cho rằng nàng đã ưng thuận, lòng càng khao khát. Nàng chỉ vào chân tường cười rồi leo xuống. Y nghĩ rằng nàng chỉ nơi hò hẹn mừng lắm, đến tối mò ra, quả nhiên nàng đã ở đó, liền sấn tới hành dâm thì chỗ kín như bị dùi đâm, đau buốt tận tim gào lớn ngã lăn ra. Nhìn kỹ lại thì không phải cô gái mà là một cây khô nằm dưới tường, chỗ mình chọc vào là một cái hốc cây đọng nước.
Cha y nghe tiếng vội chạy ra hỏi, y thì rên rĩ không nói, khi vợ tới mới thú thật. Đốt đuốc soi vào hốc cây thấy có một con bò cạp to bằng con cua con. Cha y chẻ cây ra bắt con bò cạp giết đi rồi vực con trai về, nửa đêm thì chết. Nhà ấy kiện sinh, tố cáo Anh Ninh là yêu quái. Quan huyện vốn nguỡng mộ tài học của sinh, lại biết sinh là kẻ sĩ đức hạnh nên cho rằng nhà láng giềng kiện bậy toan phạt đánh đòn, sinh xin cho mới được tha về.
Mẹ sinh nói với cô gái "Cứ ngây dại thế mãi, ta lã biết trước là vui quá hóa lo mà. May là quan huyện thần minh nên mới không liên lụy, chứ gặp phải hạng quan hồ đồ ắt đã đòi đàn bà con gái lên công đường đối chất, thì con trai ta còn mặt mũi nào nhìn thấy họ hàng làng xóm nữa?". Cô gái nghiêm trang thề không cười nữa, mẹ nói "Người ta ai mà không cười nhưng phải có lúc", nhưng từ đó nàng quả không cười nữa, dù cố chọc ghẹo cũng không cười, có điều không lúc nào có vẻ mặt nhăn nhó.
Một đêm nàng nhìn sinh ứa nước mắt, sinh lấy làm lạ thì nàng nghẹn ngào nói "Trước đây theo chàng chưa lâu, nói ra e sẽ hoảng sợ. Nay thấy mẹ và chàng đều yêu thương không có ý khác nên xin thưa thật, may ra không sao chăng? thiếp vốn do hồ sinh ra, lúc mẹ thiếp ra đi đem gởi cho bà mẹ ma, nương tựa nhau hơn mười năm mới có ngày nay. Thiếp lại không có anh em, chỉ trông cậy vào chàng. Mẹ già cô quạnh nơi góc núi, không ai thương xót hợp táng cho, dưới chín suối vẫn còn sầu tủi. Nếu chàng không tiếc công tiếc của giúp cho người nằm dưới đất tiêu tan được mối oán hận ấy thì ngõ hầu những kẻ sinh con gái sẽ không nỡ dìm nước vứt bỏ nữa".
Sinh ưng thuận nhưng lo phần mộ bị lẫn trong cỏ rậm, cô gái chỉ nói đừng lo. Bèn định ngày rồi vợ chồng chở quan tài tới, cô gái chỉ mộ phần giữa đám gai góc khói mây, quả đào được thi thể bà già, da thịt vẫn còn. Nàng vỗ về khóc lóc thảm thiết, đưa về tìm mộ ông Tần hợp táng. Đêm ấy sinh mơ thấy bà già về tạ ơn, tỉnh dậy thuật lại. Cô gái nói "Đêm qua thiếp có gặp, nhưng mẹ dặn đừng làm chàng kinh động thôi". Sinh ân hận không giữ bà lại, nàng nói "Bà là ma, nơi đây người sống nhiều, khí dương thịnh, làm sao ở được". Sinh hỏi Tiểu Vinh, nàng đáp "Nó là hồ, rất lanh lợi, mẹ hồ lưu lại để trông nom thiếp, vẫn đút bánh trái cho thiếp ăn nên nhớ ơn nó không lúc nào quên. Đêm qua hỏi mẹ, thì nói đã gả chồng cho nó rồi". Từ đó cứ gặp tiết Hàn thực hàng năm vợ chồng lại đi thăm mộ ông bà Tần, khấn vái quét dọn không hề sơ sót. Được hơn năm cô gái sinh được một trai, lúc còn bế ẵm đã không sợ người lạ, thấy người là cười cũng rất giống phong thái của mẹ.
Dị Sử thị nói: Xem dáng cười ngặt nghẽo giống như vô tâm, nhưng chơi ác dưới tường thì rõ ra là rất biết việc đời vậy. Đến như thuơng xót bà mẹ ma thì không cười mà khóc, nàng Anh Ninh của ta là người tự che giấu bằng tiếng cười đấy. Nghe nói trong núi có một thứ cỏ gọi là cỏ cười, ngửi thì cười không dừng lại được, trong nhà mà trồng thứ cỏ ấy thì các loại cỏ Hợp hoan, Vong ưu đều không ra gì. Còn như hoa biết nói* thì chỉ là có dáng vẻ bề ngoài thôi.
* Hoa biết nói: Thiên Bao thông sự chép hồ Thái Dịch trong cung có hàng ngàn khóm hoa sen trắng nở, Đường Minh hoàng cùng Dương Quý phi ra ngắm, nói với tả hữu rằng "Hoa sen trong hồ như ganh đua với đóa hoa biết nói này". Đây ý nói loại người đẹp như Dương Quý phi chỉ có sắc đẹp chứ không có tâm tình như Anh Ninh.
019. Nhiếp Tiểu Thiến (Nhiếp Tiểu Thiến)
Ninh Thái Thần người đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), tính hào sảng, ngay thẳng tự trọng, thường nói với người ta rằng bình sinh không biết tới người đàn bà thứ hai. Gặp lúc có việc tới huyện Kim Hoa (tỉnh Chiết Giang), tới cổng bắc huyện thành vào nghỉ trong một ngôi chùa. Thấy trong chùa điện tháp nguy nga tráng lệ nhưng cỏ tranh cao lút đầu như không có người qua lại, thiền phòng hai bên đông tây cửa chỉ khép hờ, duy gian nhà nhỏ phía nam thì then khóa như còn mới. Nhìn qua góc đông điện có rặng tre to hàng chét tay, bên dưới có cái ao lớn, sen dại đã nở hoa, có ý thích cảnh u nhã.
Gặp lúc quan Học sứ về khảo khóa, giá thuê nhà trong thành đắt đỏ nên Ninh quyết ở lại, nhân tản bộ đợi sư về. Trời sẩm tối có người sĩ nhân tới mở cửa gian nhà phía nam. Ninh bước tới chào hỏi rồi ngỏ ý. Sĩ nhân nói "Nhà này không có chủ, ta cũng chỉ ở ngụ, nếu không chê là hoang vắng, sớm tối chỉ giáo cho thì may lắm!" Ninh mừng rỡ bèn rải cỏ làm giường, ghép ván làm ghế, tính kế ở lâu. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc, trời trong như nước, hai người nằm gác vế dưới hiên chuyện trò, hỏi han tên họ. Sĩ nhân tự nói họ Yến tên Xích Hà, Ninh tưởng là Chư sinh* chờ khảo khóa nhưng nghe giọng nói không phải là người đất Chiết, hỏi thì đáp là người đất Tần (tỉnh Thiểm Tây), ăn nói rất chất phác thật thà. Kế chuyện vãn đã cạn, hai người chia tay đi nghỉ.
*Chư sinh : sinh viên nhà Thái học.
Ninh lạ nhà nằm mãi không ngủ được, chợt nghe gian phía bắc có tiếng rì rầm như người nói chuyện bèn trở dậy tới núp dưới song cửa sổ bằng đá dưới vách tường phía bắc nhìn qua. Thấy sau tường có một khu nhà nhỏ, có người đàn bà khoảng hơn bốn mươi tuổi và một bà vú già mặc chiếc áo hồng bạc màu, trên tóc cài cái lược to, lưng gù già sọm đang trò chuyện dưới trăng. Người đàn bà nói "Tiểu Thiến sao mãi không tới?", bà vú già nói "Thế nào nó cũng tới mà". Người đàn bà hỏi "Nó có oán thán gì với bà không?", bà vú già đáp "Ta không nghe thấy, nhưng nó có vẻ buồn rầu". Người đàn bà nói "Con nhãi ấy thì không cần phải tử tế đâu". Chưa dứt lời thì một cô gái khoảng mười bảy mười tám tuổi tới, nhìn phảng phất có vẻ xinh đẹp.
Bà vú cười nói "Đừng nói chuyện người vắng mặt, hai người bọn ta chỉ trò chuyện thôi, mà con tiểu yêu lẻn tới không một tiếng động. May là bọn ta không nói gì xấu" Lại nói "Tiểu nương tử thật là xinh đẹp như trong tranh, giả như già này là đàn ông cũng bị bắt mất hồn rồi". Cô gái nói "Bà mà không khen ta thì còn ai khen chứ". Kế không rõ họ nói với nhau những gì, Ninh cho rằng đó là gia đình nhà láng gìềng nên bỏ vào ngủ không buồn nghe nữa, hồi lâu tiếng trò chuyện mới tắt. Ninh vừa thiu thiu sắp ngủ chợt thấy như có người tới chỗ mình nằm, vội trở dậy nhìn thì ra là cô gái bên gian nhà phía bắc. Ninh ngạc nhiên hỏi, cô gái cười đáp "Đêm trăng không ngủ được, xin tới vui vầy" Ninh nghiêm sắc mặt nói "Nàng phải đề phòng điều dị nghị còn ta thì sợ tiếng chê cười, lỡ chân một bước thì hết cả liêm sỉ". Cô gái nói "Đêm hôm đâu có ai bỉết", Ninh xì khinh bỉ nhưng cô gái cứ lần lữa như còn muốn nói gì nữa, Ninh quát "Đi mau đi, nếu không ta kêu to cho người bên kia biết đấy" Cô gái sợ lui ra ngoài cửa nhưng lại trở vào đặt một nén vàng lên nệm, Ninh cầm lấy ném ra thềm nói "Của phi nghĩa chỉ làm bẩn túi ta" Cô gái thẹn thùng quay ra nhặt vàng nói một mình "Người này sắt đá thật".
Sáng hôm sau có người học trò ở huyện Lan Khê dẫn theo một người đầy tớ tới ở trọ chờ khảo khóa, đến đêm đột nhiên chết, lòng bàn chân có một lỗ nhỏ như dùi đâm rỉ máu ra, không ai biết vì sao. Qua đêm sau thì người đầy tớ chết, cũng có dấu vết như vậy.
Chiều tối Yến sinh về, Ninh hỏi về chuyện ấy, Yến cho là yêu tinh nhưng Ninh vốn chính trực cũng không sợ sệt. Nửa đêm cô gái lại tới, nói với Ninh rằng "Thiếp từng gặp qua nhiều người mà chưa thấy ai cứng rắn như chàng. Chàng quả là bậc thánh hiền, thiếp không dám lừa dối. Thiếp họ Nhiếp tên Tiểu Thiến, chết yểu năm mười tám tuổỉ, chôn ở cạnh chùa, bị yêu tinh bắt làm những việc hèn hạ, mặt dày ôi gặp người, thật lòng rất không thích. Nay trong chùa không còn ai có thể giết được, sợ sẽ sai quỷ Dạ Xoa tới hại chàng". Ninh hoảng sợ xin chỉ cách thoát thân, cô gái nói "Chàng cứ ở chung một phòng với Yến sinh thì thoát". Ninh hỏi sao không dụ dỗ Yến sinh, nàng đáp "ông ta là bậc kỳ nhân nên không dám tới gần".
Lại hỏi làm cách nào để dụ dỗ người ta, nàng đáp "Ai ôm ấp ta, ta sẽ lén đâm dùi vào chân cho lập tức mê man rồi hút lấy máu dâng yêu tinh uống. Có khi đưa vàng cho họ, thật ra không phải là vàng mà là xương quỷ La Sát, lưu lại để moi lấy tim gan. Hai cách ấy cùng làm được cả thì tốt nhất". Ninh cảm tạ, hỏi phải phòng bị vào lúc nào, nàng đáp là đêm mai. Khi từ biệt, nàng khóc nói "Thiếp rơi xuống bể khổ, muốn tìm bờ lên mà không được. Chàng nghĩa khí xông mây, ắt có thể cứu thiếp, nếu có thể đem nắm xương tàn của thiếp về chôn cho mồ yên mả đẹp thì còn hơn cả ơn tái tạo". Ninh quả quyết nhận lời, nhân hỏi mộ ở đâu, nàng đáp "Cứ ra chỗ cây bạch dương, trên ngọn có tổ quạ là đúng" dứt lời bước ra cửa biến mất.
Hôm sau Ninh sợ Yến đi vắng, sáng sớm đã mời qua chơi, gần trưa thì sữa soạn cơm rượu mời mọc, để ý quan sát Yến, kế hẹn tối ngủ chung phòng. Yến lấy cớ thích yên tĩnh để từ chối, Ninh không nghe, ép phải mang giường chiếu qua. Yến bất đắc dĩ theo lời, dặn rằng "Ta biết túc hạ là bậc trượng phu nên rất kính mộ phong độ. Nhưng có chút niềm riêng khó thưa ngay được, vậy xin đừng nhìn vào cái tráp của ta, nếu không cả hai chúng ta đều bất lợi". Ninh kính cẩn vâng lời, kế đều đi nghỉ.
Yến để cái tráp trên cửa sổ, vừa ngả lưng một lát đã ngáy vang như sấm, Ninh thì không ngủ được. Khoảng gần hết canh một thì có bóng người thấp thoáng ngoài cửa sổ, giây lát tới gần cửa sổ nhìn vào, mắt sáng rừng rực. Ninh khiếp sợ đang định gọi Yến, chợt có một vật sáng loáng như giải lụa xé cái tráp bắn ra tiện đứt chấn song cửa sổ bằng đá, lóe sáng một cái rồi quay ngay vào tráp như ánh chớp tắt ngấm. Yến biết trở dậy, Ninh giả ngủ nhìn ra thấy Yến bưng cái tráp lấy vật ấy ra vừa săm soi dưới ánh trăng vừa hít ngửi, ánh sáng lóng lánh, dài khoảng hai tấc, mỏng như lá hành, kế bọc lại mấy lớp cho vào cái tráp thủng, lẩm bẩm "Không biết con quỷ già nào mà lớn mật làm hỏng cái tráp của ta" rồi lại đi nằm.
Ninh lấy làm lạ trở dậy hỏi, kể những điều mình thấy. Yến đáp "Đã là bạn tri giao, sao còn dám giấu diếm, ta là kiếm khách đây. Nếu không vướng cái chấn song đá thì yêu tinh phải chết ngay lập tức, nhưng như thế cũng bị thương rồi". Ninh hỏi vật cất đi là cái gì Yến đáp "Đó là thanh kiếm, vừa ngửi thấy có yêu khí". Ninh muốn xem thử, Yến rút ra một thanh đoản kiếm lấp lánh, Ninh vì vậy càng thêm kính phục.
Hôm sau Ninh xem ngoài cửa sổ thấy có vết máu, ra phía bắc chùa thấy một nấm mộ hoang, bên cạnh quả có cây bạch dương trên ngọn có tổ quạ. Khi việc đã xong Ninh thu xếp hành trang trở về, Yến sinh bày tiệc tiễn rất ân cần, tặng Ninh một cái bao da rách, dặn "Đây là cái bao kiếm, giữ kỹ thì lũ yêu tinh phải tránh xa" Ninh muốn theo học đạo, Yến nói "Người tín nghĩa cương trực như ông có thể học được, nhưng ông là người trong trường phú quý chứ không phải là người trong mạch đạo". Ninh nói thác là có em gái chôn ở đó đào mộ cô gái lấy hài cốt gói lại thuê thuyền đem về quê.
Phòng sách của Ninh nhìn ra cánh đồng, nhân chôn cất nàng ngay phía ngoài, cúng tế khấn rằng "Thương nàng hồn ma lẻ loi nên chôn cạnh nhà, khi ca khi khóc đều nghe cho khỏi bị lũ quỷ mạnh làm nhục. Có bát nước mưa mời uống, chưa được ngọt trong cũng mong đừng trách". Khấn xong quay về nghe phía sau có người gọi "Xin đợi cùng về", ngoái nhìn thì là Tiểu Thiến. Nàng vui vẻ cảm tạ, nói "Chàng là bậc tín nghĩa, thiếp có chết mười lần cũng không đủ đền đáp. Xin theo về ra mắt cha mẹ chồng, dù làm đứa ở con đòi cũng cam lòng".
Ninh nhìn kỹ thấy nàng da ửng màu ráng hồng, chân thon như búp măng, nhìn ban ngày càng xinh đẹp bèn dẫn về phòng sách, dặn ngồi đợi rồi vào trước thưa với mẹ. Mẹ ngạc nhiên, lúc ấy vợ Ninh ốm đã lâu bèn bảo đừng nói ra vì sợ nàng kinh hãi. Vừa nói xong thì cô gái nhẹ nhàng bước vào sụp lạy, Ninh nói "Đây là Tiểu Thiến". Bà mẹ hoảng sợ nhìn nàng lo ngại, Tiểu Thiến nói "Con lênh đênh một mình, xa cha mẹ anh em, nay đội ơn công tử che chở tái tạo, nguyện sửa túi nâng khăn để báo cao nghĩa". Bà mẹ thấy nàng xinh xắn đáng yêu mới dám trò chuyện, nói "Nương tử ra ơn chiếu cố cho con ta, già này rất mừng. Nhưng bình sinh chỉ có đứa con trai này để nối dõi tông đường, không dám cho nó lấy vợ ma". Cô gái nói "Con thật không dám hai lòng. Người đã chết không đủ để mẹ tin cậy thì xin thờ chàng làm anh, nương tựa nơi mẹ để sớm hôm hầu hạ có được không?".
Mẹ thương nàng thành tâm bèn bằng lòng, nàng muốn vào lạy chào chị dâu nhung mẹ lấy cớ con dâu đang ốm từ chối. Nàng liền xuống bếp thay mẹ lo cơm nước, lên xuống ra vào như người trong nhà. Tối đến bà mẹ e sợ, từ chối về phòng ngủ, không đặt giường cho nàng. Cô gái biết ý bà liền trở ra, ngang qua phòng sách định vào nhưng cứ ngập ngừng ngoài cửa như có điều sợ sệt. Ninh gọi vào, nàng nói "Trong phòng có kiếm khí ghê người, nãy giờ qua lại không dám vào gặp chàng là vì thế". Ninh biết là vì cái bao da, liền đem qua phòng khác treo, cô gái mới vào, tới ngồi cạnh đèn một lúc không nói gì. Hồi lâu mới hỏi "Tối đến chàng có đọc sách không? Lúc nhỏ thiếp có học kinh Lăng nghiêm, nay đã quên quá nửa. Xin cho mượn một quyển, tối rảnh nhờ chỉ cho", Ninh nhận lời.
Nàng lại ngồi im lặng, gần hết canh hai vẫn không đi, Ninh giục thì buồn rầu nói "Hồn côi ở xứ lạ sợ nấm mồ hoang lắm". Ninh nói "Trong phòng sách không có giường nằm, vả lại anh trai em gái cũng nên tránh hiềm nghi". Cô gái đứng dậy, mặt ủ mày chau như muốn khóc, ngần ngừ bước ra cửa, xuống tới thềm thì biến mất. Ninh thầm thương xót, muốn lưu nàng lại ngủ giường khác nhưng lại sợ mẹ mắng. Từ đó cô gái sớm chiều tới hầu mẹ, bưng chậu múc nước rồi ra làm việc nhà, không việc nào không theo ý mẹ, chập tối cáo lui qua phòng sách thắp đèn tụng kinh, đến khi Ninh sắp đi ngủ mới buồn rầu trở ra.
Trước là vợ Ninh ốm nặng bỏ hết việc nhà, bà mẹ vất vả không sao chịu nổi, từ khi cô gái tới mới được thong thả nên trong lòng biết ơn nàng. Lâu dần thì yêu quý như con ruột, quên luôn việc nàng là ma, chiều tối không nỡ bắt nàng phải ra khỏi nhà nên giữ lại ngủ cùng. Cô gái lúc mới tới không ăn uống gì, nửa năm mới dần dần hớp qua canh cháo, mẹ con Ninh đều rất thương yêu, kiêng nói tới chuyện ma quỷ nên mọi người cũng không ai biết. Không bao lâu vợ Ninh chết, bà mẹ ngầm có ý cưới Tiểu Thiến cho con trai nhưng lại sợ mang hại. Nàng biết ý, nhân lúc rảnh rỗi nói với bà "Con ở đây đã hơn một năm, chắc mẹ đã hiểu lòng con không muốn hại người nên một lòng theo công tử không có ý khác. Chỉ vì thấy công tử quang minh lỗi lạc, trời người đều phục nên thật lòng muốn nương tựa giúp đỡ để vài ba năm nữa nhờ cậy được chút sắc phong cho vẻ vang dưới suối vàng". Bà mẹ cũng biết nàng không độc ác nhưng còn lo không có cháu nối dõi, cô gái nói "Con cái là do trời cho, tên chàng đã được ghi trong sổ phúc, có ba con trai, không vì lấy vợ ma mà bị cắt giảm".
Mẹ tin lời bàn với con trai, Ninh mừng lắm bày tiệc báo cho thân thích bè bạn. Có người xin nhìn mặt cô dâu mới, cô gái thản nhiên trang điểm lộng lẫy bước ra, cả tiệc đều tròn mắt nhìn, không nghĩ là ma mà ngờ là tiên. Vì vậy họ hàng nội ngoại đều mang lễ vật tới đến mừng, tranh nhau làm quen. Cô gái giỏi vẽ hoa lan hoa mai, cứ vẽ ra đưa tặng để đáp lễ, người được tặng đều trân trọng cất kỹ, lấy làm vinh dự.
Một hôm cô gái cúi đầu đứng bên song cửa sổ có vẻ lo lắng buồn bã, kế chợt hỏi cái bao da để đâu Ninh đáp "nàng sợ hãi nên ta gói cất ở chỗ khác". Nàng nói "Thiếp nhận được sinh khí người sống đã lâu nên không còn sợ nữa, chàng nên đem ra treo ở đầu giường". Ninh hỏi làm thế là có ý gì nàng đáp "Ba hôm nay trong lòng thiếp cứ hồi hộp không yên, có lẽ bọn yêu tinh ở Kim Hoa hận thiếp bỏ trốn đi xa, e sớm chiều sẽ tìm tới đây". Ninh đem cái bao da ra, cô gái lật đi lật lại nhìn kỹ rồi nói "Cái này là bậc kiếm tiên dùng để bắt ma quỷ, rách nát đến thế này không biết đã giết bao nhiêu rồi. Hôm nay thiếp nhìn thấy còn rợn cả người", rồi đem treo lên.
Hôm sau nàng lại bảo Ninh đem treo trên cửa, đến tối ra ngồi bên đèn, dặn Ninh đừng ngủ. Chợt có một vật như con chim bay rơi xuống, nàng hoảng sợ nép vào sau tấm rèm, Ninh nhìn ra thấy hình dáng nó như quỷ Dạ Xoa, mắt lóe như chớp, miệng đỏ như máu, tay quờ quạng như sắp chộp bắt ai tiến thẳng tới trước cửa, dừng lại hồi lâu rồi tới gần cái bao da, quờ móng giật lấy như muốn xé rách. Cái bao chợt kêu soạt một tiếng, thấp thoáng như có nửa mình quỷ bên trong nhô ra nắm Dạ Xoa kéo vào, tiếng động tắt ngay mà cái bao cũng co lại như cũ. Ninh hoảng sợ, cô gái cũng bước ra mừng rỡ nói "Hết lo rồi!". Cùng nhìn vào bao, chỉ thấy có vài đấu nước trong mà thôi.
Vài năm sau quả nhiên Ninh thi đỗ Tiến sĩ, sinh được một con trai. Sau khi Ninh lấy vợ lẽ, mỗi vợ lại sinh một trai nữa, ba con sau đều làm quan, rất có danh tiếng.
020. Cỏ Thủy Mãng (Thủy Mãng Thảo)
Thủy mãng là loài cỏ độc, mọc như dây leo, hoa tím như đậu ván, ai lầm ăn vào là chết ngay, hóa thành ma thủy mãng. Tục truyền ma ấy không được luân hồi, phải có người khác trúng độc chết thay vào mới được thác sinh, vì vậy suốt một dải sông Đào Hoa ở đất Sở Trung (vùng Hồ Nam) có rất nhiểu ma ấy.
Người Sở nếu sinh cùng năm thì gọi là đồng niên, đưa thiếp ra mắt gọi nhau là canh huynh canh đệ, hàng con cháu thì gọi bề trên là canh bá, quen lệ thành như thế. Có Chúc sinh đi thăm bạn đồng niên, trên đường khát nước, chợt thấy bên đường có bà già bày quán thí nước liền rảo bước tới. Bà già đón vào rót nước mời mọc ân cần, sinh thấy có mùi lạ không giống mùi trà bèn đặt xuống không uống mà đứng dậy đi ra. Bà già vội giữ khách lại rồi gọi "Tam Nương, pha một chén trà ngon đem ra đây". Giây lát có một thiếu nữ bưng trà từ sau quán bước ra, tuổi khoảng mười bốn mười lăm, nhan sắc tuyệt đẹp, ngón tay đeo nhẫn, cổ tay đeo xuyến sáng loáng. Sinh đỡ lấy chén trà, tâm thần ngây ngất, ngửi thấy thơm phức liền uống cạn, lại xin chén nữa. Thừa lúc bà già đi ra bèn đùa nắm tay cô gái, tháo một chiếc nhẫn. Nàng đỏ mặt mỉm cười, sinh càng mê mệt bèn hỏi qua nhà cửa. Cô gái nói "Tối chàng tới thì thiếp còn ở đây".
Sinh xin một nắm trà, lại cất luôn chiếc nhẫn ra đi. Tới nhà bạn đồng niên thì thấy bụng đau quặn, ngờ là vì nước trà bèn kể cho bạn nghe. Bạn hoảng sợ nói "Chết rồi, đó là ma thủy mãng. Cha ta ngày xưa cũng chết vì nó, không thể cứu được, làm sao bây giờ". Sinh cả sợ dưa gói trà cho bạn xem thì đúng là cỏ thủy mãng. Lại đưa chiếc nhẫn ra, tả lại hình dáng cô gái, người bạn ngẫm nghĩ rồi nói "Đó ắt là Khấu Tam Nương". Sinh thấy đúng tên liền hỏi vì sao biết, bạn đáp "Cô ta là con gái họ Khấu ở thôn Nam, nổi tiếng xinh đẹp, mấy năm trước ăn lầm cỏ thủy mãng mà chết, ắt đã làm ma. Có người nói ai bị ma ấy hại, nếu biết được tên họ mà tới nhà xin được cái quần cũ nó mặc đem về nấu nước uống thì có thể khỏi".
Bạn vội tới nhà họ
Khấu kể rõ tình thật, lạy lục năn nỉ. Khấu nghĩ Chúc sinh chết thì con gái mình sẽ được đầu thai nên không cho, người bạn tức giận về kể lại. Sinh cũng nghiến răng căm hờn nói "Ta chết rồi quyết không cho con gái y đi đầu thai". Người bạn cáng sinh về, gần tới cổng nhà thì chết, mẹ sinh khóc lóc chôn cất con trai. Sinh để lại một con trai vừa đầy năm, vợ không thủ tiết được, nửa năm sau bỏ đi lấy chồng khác. Mẹ sinh giữ cháu nội lại nuôi nấng, vất vả không sao chịu nổi, sớm tối đau xót khóc lóc.
Một hôm bà đang bế cháu khóc lóc trong phòng chợt sinh sừng sững bước vào. Mẹ cả sợ gạt nước mắt hỏi, sinh nói "Con ở dưới đất nghe mẹ khóc rất đau xót nên trở về để sớm hôm hầu hạ mẹ thôi. Con tuy chết nhưng đã lấy vợ, nay cũng về cùng để giúp đỡ mẹ, mẹ đừng buồn nữa". Mẹ hỏi vợ là ai, sinh nói "Họ Khấu để mặc cho con chết, con rất căm hận, sau khi chết muốn tìm Tam Nương nhưng không biết nàng ở đâu. Mới rồi gặp canh bá Mỗ chỉ cho, con tới thì Tam Nương đã đầu thai vào nhà quan Thị lang họ Nhiệm. Con đuổỉ theo bắt nàng trở lại, nay đã làm vợ con, cũng tâm đầu ý hợp không có gì khổ". Giây lát có một cô gái ăn mặc lộng lẫy bước vào quỳ xương lạy mẹ, sinh nói "Đây là Khấu Tam Nương". Tuy hai vợ chồng không phải là người sống nhưng mẹ nhìn thấy cũng được an ủi, sinh bèn sai Tam Nương làm việc nhà. Tam Nương không quen làm lụng nhưng rất ngoan ngoãn với mẹ chồng, từ đó vào ở luôn phòng sinh cũ không đi. Cô gái xin mẹ báo tin cho nhà mình biết, sinh không muốn nhưng mẹ chiều ý con dâu nên báo cho họ Khấu.
Ông bà Khấu nghe tin cả sợ, thắng xe kiệu tới ngay, vào thấy đúng là Tam Nương, nhìn nhau khóc lạc cả giọng, cô gái khuyên mãi mới nín. Bà Khấu thấy nhà sinh nghèo quá có ý thương xót con gái, nàng nói "Con đã là ma thì sợ gì nghèo. Huống hồ mẹ con Chúc lang đối xử với con rất có tình nghĩa, con đã yên phận rồi". Bà Khấu nhân hỏi bà già bán trà là ai, nàng đáp "Bà ta họ Nghê, tự thẹn già nua không dụ dỗ được khách đi đường nên nhờ con giúp cho thôi, nay đã thác sinh vào một nhà bán rượu trong thành". Kế quay lại nhìn sinh nói "Chàng đã làm rể mà không lạy cha mẹ vợ thì thiếp còn lòng dạ nào?", Sinh liền lạy chào. Cô gái bèn vào bếp giúp mẹ chồng nấu cơm đãi thông gia. Họ Khấu thấy thế thương xót, khi trở về liền sai hai tỳ nữ tới hầu hạ, gởi thêm trăm cân vàng, vài mươi tấm lụa, thỉnh thoảng lại tặng biếu rượu thịt, mẹ Chúc sinh trở nên dư dật. Họ Khấu cũng thỉnh thoảng gọi nàng về thăm nhà, nhưng cứ ở vài ngày thì nàng nói "ở nhà không có ai, nên để con về sớm", nếu cố giữ lại thì nàng lãng đãng tự về. Ông Khấu xây cất nhà cửu cho Chúc sinh rất tươm tất, nhưng rốt lại sinh vẫn không hề tới nhà cha mẹ vợ.
Một hôm trong làng có người trúng độc cỏ thủy mãng chết nhưng lại sống lại, người ta đồn là chuyện lạ. Sinh nói "Đó là ta cứu sống đấy, y bị con ma Lý Cửu làm hại, ta đã đuổi nó đi giúp". Mẹ hỏi "Sao con không tìm người khác thay thế cho mình?", sinh đáp "Con rất căm thù bọn ấy đang định diệt trừ cho bằng hết, đâu lại làm như chúng. Vả lại con được thờ mẹ là vui lắm rồi, không muốn đầu thai nữa".
Từ đó về sau, những người trúng độc thường bày cỗ bàn giữa sân khấn vái sinh, đều thấy hiệu nghiệm. Trải hơn mười năm, bà mẹ qua đời, vợ chồng cũng để tang nhưng không ra tiếp khách, chỉ sai con mặc sô chống gậy làm lễ chôn cất mà thôi. Chôn cất mẹ xong, lại ở hơn hai năm rồi cưới vợ cho con, nàng dâu là cháu nội Thị lang họ Nhiệm. Trước là người thiếp của ông Nhiệm sinh được đứa con gái vài tháng thì chết, sau nghe chuyện lạ của vợ Chúc bèn sai thắng kiệu tới nhà nhận sinh làm con rể. Đến lúc ấy lại gả cháu nội cho con sinh, hai nhà qua lại nhau không dứt.
Một hôm sinh nói với con "Thượng đế xét ta có công với người đời nên phong làm Tứ độc Mục Long quân, nay ta đi đây" Giây lát thấy giữa sân có bốn con ngựa tháng xe mui vàng, chân ngựa đều mọc vảy, hai vợ chồng ăn mặc đẹp đẽ bước ra cùng lên xe. Vợ chồng con trai khóc lạy đưa tiễn, trong chớp mắt đều biến mất. Hôm ấy nhà họ Khấu thấy con gái về từ giã cha mẹ, cũng nói như lời sinh. Bà Khấu khóc giữ lại nàng nói "Chúc lang đi trước rồi", rồi bước ra cửa biến mất. Con trai sinh tên Ngạc, tự Ly Trần, tới xin ông Khấu cho lấy hài cốt Tam Nương về hợp táng với sinh.
021. Người Học Trò Phượng Dương (Phượng Dương Sĩ Nhân)
Có một người học trò ở huyện Phượng Dương (tỉnh An Huy) đi du học xa, hẹn vợ nửa năm sẽ về nhưng hơn mười tháng vẫn tuyệt vô âm tín, vợ ở nhà mỏi mòn trông đợi. Một đêm vừa mới đi nằm, thấy bóng trăng lay động trên tấm rèm che cửa sổ, càng thêm nhớ nhung. Còn đang trằn trọc thì có một cô gái đẹp cài trâm ngọc quàng khăn hồng vén rèm bước vào cười hỏi "Bà chị muốn gặp lang quân không?" người vợ vội trở dậy vâng dạ.
Người đẹp rủ cùng đi, nàng ngại đường xa hiểm trở, người đẹp khuyên đừng lo rồi nắm tay đạp lên ánh trăng ra đi. Được khoảng một tầm tên, nàng thấy người đẹp đi rất mau mà mình đi chậm liền gọi bảo đợi một lát để về mang giày. Người đẹp kéo nàng ngồi xuống bên đường, cởi giày của mình đưa cho, nàng mừng rỡ mang vào, may là vừa khít, liền đứng dậy đi theo, thấy bước đi mau như bay. Giây lát thấy người học trò cưỡi ngựa trắng đi tới, nhìn thấy vợ ngạc nhiên vội xuống ngựa hỏi đi đâu, nàng đáp "Định đi thăm chàng". Người học trò quay nhìn người đẹp rồi hỏi là ai, nàng chưa kịp trả lời thì người đẹp che miệng cười nói "Thôi đừng hỏi nữa, nương tử bôn ba tới đây không phải dễ, chàng thì rong ruổi đến nửa đêm, chắc người ngựa cũng đều mệt rồi. Nhà thiếp cách đây không xa, xin mời vào tạm nghỉ ngơi, sáng mai đi cũng không muộn". Hai người nhìn ra thấy gần đó quả có làng xóm bèn cùng đi.
Vào một ngôi nhà, người đẹp gọi tỳ nữ dậy lo cơm nước mời khách, nói "Đêm nay trăng sáng không cần thắp đèn, ngồi lên sập đá trong tiểu đình cũng được". Người học trò buộc ngựa vào cây ngô đồng rồi ngồi xuống, người đẹp nói "Giày to không vừa chân, trên đường chắc chị mệt lắm. Nhưng lúc về đã có con ngựa đỡ chân, cho em xin lại". Người vợ cảm ơn, cởi giày trả lại.
Lát sau, rượu bánh bày ra, người đẹp nâng chén nói "Loan phượng xa nhau lâu ngày, đêm nay được sum họp, có chén rượu đục xin kính mừng!" người học trò cũng nâng chén đáp lễ, chủ khách cười nói vui vẻ, giày dép lẫn lộn dưới sập. Người học trò cứ đăm đăm nhìn người đẹp, mấy lần buông lời đùa cợt, vợ chồng bao ngày mới gặp nhau mà không trò chuyện một lời. Người đẹp cũng liếc mắt đưa tình, thả lời nũng nịu, người vợ cứ ngồi im giả như ngu đần. Hồi lâu rượu càng ngấm, hai người trò chuyện lại càng buông thả. Người đẹp lấy chén lớn mời khách, người học trò từ chối là đã say nhưng nàng cứ ra sức nài ép. Người học trò cười nói "Nàng hát cho nghe một khúc, ta sẽ uống ngay". Người đẹp không từ chối, lấy phím ngà gảy đàn cầm hát rằng:
Hoàng hôn ngả bóng màu son nhạt
Gió lạnh ngoài song buốt thấu rèm
Lắng tiếng mưa rơi trên lá chuối, biết nơi nào run rẩy cùng ai
Đợi chờ mỏi mắt, chẳng thấy người về, nước mắt chảy dài
Nghĩ lại nhớ chàng, nghĩ lại hận chàng
Cầm chiếc giày thêu thử gieo quẻ bói
Hát xong cười nói "Đây là khúc hát ở đầu đường xó chợ, không đáng làm bẩn tai chàng, nhưng vì thiên hạ đang ưa chuộng nên thiếp cũng học đòi bắt chước thôi". Giọng nói uốn éo, bộ dạng lả lơi khiến người học trò điên đảo tâm thần, như không kìm lòng được nữa. Lát sau người đẹp giả về ngủ đi ra, người học trò cũng đứng dậy đi theo, hồi lâu không trở vào, đứa tỳ nữ mỏi mệt nằm gục xuống ngủ ở hành lang. Người vợ ngồi trơ trọi một mình, trong lòng vừa buồn vừa giận không sao chịu nổi, nghĩ muốn bỏ ra về nhưng đêm tối mù mịt, lại không nhớ đường đi, băn khoăn không sao kìm lòng được bèn đứng lên ra xem. Vừa tới cạnh cửa sổ đã nghe loáng thoáng tiếng mây mưa bên trong, lại lắng nghe thì ra những gì chồng vẫn thường làm khi âu yếm với mình trong phòng đều giở ra hết. Người vợ lúc ấy tim đập mạnh, tay run bắn, chết điếng cả người, nghĩ không bằng cứ ra cửa nhảy xuống ngòi rãnh mà chết đi.
Vừa căm hờn đi ra thì thấy em trai là Tam Lang cưỡi ngựa tới, xuống ngựa hỏi han. Nàng kể lại mọi việc, Tam Lang cả giận lập tức cùng chị quay lại, vào thẳng trong nhà thì cửa phòng đã cài then nhưng vẫn nghe thấy tiếng thì thào trên giường. Tam Lang nhấc một hòn đá to bằng cái đấu ném mạnh vào cửa sổ làm gãy luôn mấy cái chấn song, nghe bên trong có tiếng kêu lớn "Lang quân vỡ sọ rồi, làm sao?" Nàng nghe thấy kinh hoàng khóc lớn, nói với em "Ta đâu có bảo ngươi giết y, làm thế nào bây giờ". Tam Lang trợn mắt nói "Chị vừa khóc lóc kéo ta vào, bây giờ hả giận rồi thì lại vì chồng mà oán anh em. Ta không quen chịu sai phái như bọn tôi tớ đâu, rồi quay người bỏ ra. Nàng níu áo nói "Ngươi chẳng đưa ta về lại còn đi đâu?", Tam Lang xô chị ngã lăn xuống đất rồi bỏ đi, nàng giật mình tỉnh dậy mới biết là vừa nằm mơ.
Hôm sau quả nhiên người học trò về, cũng cưỡi con ngựa trắng, vợ kinh ngạc nhưng chưa nói gì. Người học trò kể lại giấc mơ đêm qua, những điều gặp gỡ nhất nhất đều như vợ đã nghe đã thấy, hai người đều lấy làm quái lạ. Kế Tam Lang nghe tin anh rể đi xa về cũng tới thăm hỏi, xong nói với người học trò "Đêm qua nằm mơ thấy anh về, nay quả đúng, thật lạ quá" Người học trò cười nói "May mà ta không bị đá ném chết" Tam Lang ngạc nhiên hỏi sao nói thế, người học trò kể lại giấc mơ, Tam Lang vô cùng kinh ngạc. Thì ra đêm qua Tam Lang cũng nằm mơ thấy gặp chị khóc lóc kể lể nên nổi giận ném đá. Ba giấc mộng khớp nhau, chỉ không biết người đẹp là ai mà thôi.
022. Châu Nhi (Châu Nhi)
Người dân ở Thường Châu (huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô) là Lý Hóa, nhà giàu có, nhiều ruộng đất. Hơn năm mươi tuổi mà không có con trai, chỉ có một con gái tên Tiểu Huệ, mặt mũi xinh đẹp, vợ chồng rất yêu dấu. Năm cô gái mười bốn tuổi thì mắc bạo bệnh chết yểu, nhà cửa vắng vẻ, Lý không còn sinh thú mới cưới tỳ thiếp. Hơn một năm người thiếp sinh được một con trai, Lý yêu quý như châu ngọc, đặt tên là Châu nhi. Đứa nhỏ dần dần lớn lên, khôi ngô khả ái nhưng tính rất ngây ngốc, năm sáu tuổi vẫn chưa phân biệt được ngô với đậu, ăn nói thì ngơ ngẩn, Lý cũng ưa nên không ghét bỏ.
Gặp lúc có nhà sư lòa tới khuyến hóa ở chợ, biết rõ cả việc trong khuê phòng nhà người ta, mọi người đều tôn kính như thần. Sư lại nói có thể cứu sống hại chết, ban phúc giáng họa, muốn vài trăm ngàn đồng tiền cứ tìm tên mà đòi, không ai dám chậm trễ. Tới Lý khuyến hóa xin một trăm quan tiền, Lý lấy làm khó, đưa ra mười quan nhưng sư không nhận. Dần dần đưa lên thêm tới ba mươi quan, sư tức giận nói "phải đủ một trăm quan, thiếu một đồng cũng không được". Lý cũng tức giận, thu tiền lại đuổi ra, sư tức tối đứng lên nói "Đừng có hối hận, đừng có hối hận".
Không bao lâu Châu nhi chợt phát bệnh đau tim, lăn lộn cào cấu trên giường, mặt xám như tro. Lý sợ liền đem tám mươi quan tới chỗ nhà sư xin cứu cho, sư cười nói "Có được bấy nhiêu tiền quả không dễ, nhưng nhà sư trong núi thì làm được gì?". Lý về thì Châu nhi đã chết, vô cùng đau đớn bèn đưa đơn kiện lên huyện. Quan huyện cho bắt nhà sư hỏi cung, sư cũng nói đó là việc ngẫu nhiên để phân trần, quan sai đánh đòn thấy bồm bộp như đánh vào cái túi da, liền sai lục soát trong người sư, tìm được hai hình người bằng gỗ, một chiếc quan tài nhỏ, năm lá phướn con. Quan tức giận, lấy tay làm ra vẻ bắt quyết cho nhìn, sư sợ hãi bèn xin cung khai. Quan không thèm nghe, sai đánh chết luôn, Lý bèn lạy tạ ra về.
Lúc ấy trời đã sập tối,
Lý và vợ đang ngồi trên giường, chợt có đứa nhỏ chập chờn bước vào phòng, nói "Sao cha đi mau thế, con cố đuổi mà không kịp", nhìn tới vóc dáng dung mạo thì khoảng bảy tám tuổi. Lý kinh ngạc đang định gạn hỏi thì thấy nó như ẩn như hiện, chập chờn tựa làn mây mù. Lúc chập chờn nó đã lên tới giường, Lý xô xuống, nó rơi xuống đất không có tiếng động, nói "Sao cha lại làm thế?", trong chớp mắt lại đã lên giường trở lại. Lý hoảng sợ dắt vợ bỏ chạy, đứa nhỏ kêu cha gọi mẹ không ngớt. Lý chạy vào phòng vợ, đóng mau cửa lại, quay lại thì đứa nhỏ đã đứng ngay dưới chân, Lý sợ quá hỏi nó định làm gì, đứa nhỏ đáp "Con là người Tô Châu (tỉnh Giang Tô), họ Thiềm, năm lên sáu tuổi đã mồ côi cha mẹ, anh trai chị dâu không chịu nuôi nấng nên tới ở nhà ngoại. Ngẫu nhiên chơi đùa ngoài cổng bị gã yêu tăng kia dụ dỗ giết chết dưới gốc dâu, sai khiến như ma trành, ngậm oan dưới suối vàng không được chuyển sinh. May nhờ cha trả thù cho, xin theo làm con".
Lý nói "Người với ma khác loài, làm sao nương tựa nhau được?". Đứa nhỏ nói "Chỉ xin xếp cho một gian phòng nhỏ, trong bày giường chiếu cho con nằm, mỗi ngày cho một chén cháo loãng, ngoài ra không cần gì khác". Lý theo lời đứa nhỏ mừng rỡ, từ đó một mình ở trong phòng riêng, ra vào ăn nói không khác gì người sống. Nghe người thiếp của Lý khóc lóc, nó hỏi Châu nhi chết đã mấy ngày rồi, người thiếp đáp bảy ngày. Đứa nhỏ nói "Trời đang rất lạnh, chắc xác chưa rã, xin đào mồ lên xem thử, nếu như vẫn còn nguyên vẹn thì con có thể sống lại".
Lý mừng rỡ dắt nó cùng đi, đào mồ Châu nhi lên xem thấy xác vẫn như cũ, đang còn đau xót, ngoảng lại nhìn thì đứa nhỏ đã biến mất, lấy làm lạ bèn cáng cái xác về. Vừa đặt lên giường thì mí mắt đã động đậy, giây lát đòi uống nước, uống xong ra mồ hôi đầm đìa, kế đứng lên. Mọi người mừng Châu nhi đã sống lại, lại còn thêm khôn ngoan thông minh khác hẳn ngày trước. Đến đêm lại lên giường nằm cứng đờ không có chút hơi thở nào, mọi người cùng vào xoay trở vẫn nhắm mắt nằm yên như chết, mọi người đều cả sợ cho rằng lại chết rồi.
Trời vừa sáng nó mới như tỉnh mộng, mọi người xúm lại hỏi han, đứa nhỏ đáp "Trước đây lúc còn theo gã yêu tăng, còn có hai đứa nhỏ khác, một đứa tên Ca Tử, vừa rồi đuổi theo cha không kịp vì nán lại phía sau chia tay Ca Tử đó thôi. Nay Ca Tử ở dưới âm ty làm con nuôi của Khương Viên ngoại, cũng được thong thả. Đêm qua nó tới chơi đùa với con, kế lấy ngựa đưa con về" Vợ Lý nhân hỏi có thấy Châu nhi dưới âm ty không, đứa nhỏ đáp "Châu nhi đã đi đầu thai rồi, nó với cha không có duyên phận cha con, chẳng qua chỉ là Nghiêm Tử Phương ở Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) tới đòi món nợ mấy trăm ngàn đồng tiền trước đây mà thôi". Trước là Lý buôn bán ở Kim Lăng, còn thiếu tiền hàng của Nghiêm chưa trả, kế Nghiêm chết, chuyện ấy không ai hay biết. Lý nghe thấy cả sợ.
Vợ Lý bèn hỏi đứa nhỏ rằng con gặp chị Huệ không, nó đáp "Không biết, lần sau con xuống đó sẽ hỏi thăm". Ba bốn hôm sau, nó nói với mẹ rằng "Chị Huệ dưới âm ty sung sướng lắm, làm vợ của con trai út Sở Giang vương, vàng ngọc đeo đầy người, ra cửa thì có hàng ngàn người tiền hô hậu ủng". Vợ Lý hỏi "Sao nó không về thăm nhà một chuyến?" đứa nhỏ nói "Kẻ đã chết thì không dính líu gì với người thân nữa, nếu có ai kể rõ chuyện kiếp trước mới nhớ lại thôi. Hôm rồi con theo Khương Viên ngoại nên được gặp chị, chị gọi con lên ngồi trên giường san hô, con nói cha mẹ đều rất nhớ nhung mà chị cứ như đang ngủ mơ. Con nói lúc chị còn sống thích thêu quả cầu kết hoa bằng lụa, lúc cắt vải bị đứt tay làm dính máu vào đó, nay mẹ còn treo ở đầu giường, thương nhớ không nguôi, chị quên rồi sao? Chị mới buồn rầu, nói sẽ thưa với lang quân xin về thăm mẹ. Vợ Lý hỏi lúc nào, nó đáp là không biết.
Một hôm nói với mẹ rằng "Chị sắp về tới, có rất nhiều tùy tùng đi theo, phải chuẩn bị nhiều rượu thịt". Giây lát nó chạy vào phòng mẹ nói "Chị tới rồi!" rồi đẩy ghế ra sảnh đường nói "Chị hãy ngồi xuống nghỉ mệt, đừng khóc lóc", mọi người không ai nhìn thấy gì cả. Đứa nhỏ bảo mọi người ra đốt giấy tiền vàng bạc ngoài cổng rồi trở vào nói "Con đã cho những người tùy tùng tạm lui về rồi. Chị nói rằng trước đây cái chăn gấm xanh chị vẫn đắp bị lửa đèn bắn vào làm thủng một lỗ to bằng hạt đậu, nay có còn không?" mẹ đáp "Vẫn còn". Rồi lập tức mở rương lấy ra, đứa nhỏ nói "Chị bảo con đem trải trong phòng cũ, chị hơi mệt phải nghỉ một lúc, ngày mai sẽ lại nói chuyện với mẹ".
Có cô gái họ Triệu bên láng giềng vốn chơi thân với Huệ, đêm ấy chợt mơ thấy Huệ đội khăn mặc áo màu tía tới thăm, chuyện trò cười nói thân thiết như lúc còn sống, kế nói "Ta nay khác loài, giáp mặt cha mẹ mà chẳng khác nào xa cách nhau muôn núi ngàn sông, định mượn xác muội tử về trò chuyện với người nhà, xin đừng hoảng sợ". Đến sáng nàng đang trò chuyện với mẹ chợt ngã lăn ra đất mê man, lát sau mới tỉnh, nói "Tiểu Huệ xa cách thím mấy năm rồi, không ngờ tóc thím đã bắt đầu bạc". Bà Triệu hoảng sợ nói "Con điên rồi à?", nàng lạy chào rồi đi ra. Bà Triệu biết là có chuyện lạ bèn đi theo, thấy nàng tới thẳng nhà Lý, vào ôm vợ Lý khóc sướt mướt, vợ Lý hoảng sợ không biết chuyện gì. Nàng nói "Hôm qua con về mệt quá chưa nói được câu nào. Con bất hiếu nửa đường chết đi bỏ cha mẹ lại, lại làm cha mẹ phải nhớ nhung, biết lấy gì để chuộc tội?". Mẹ sực hiểu ra bèn khóc hỏi "Nghe nói nay con rất quý hiển, mẹ rất được an ủi, nhưng con gởi thân ở nhà bậc vương hầu, làm sao tới được đây?". Cô gái nói "Chồng con rất thương yêu con, cha mẹ chồng cũng rất thương mến, nên không bị ghét bỏ gì".
Lúc Huệ còn sống hay lấy tay chống cằm, cô gái nói xong cũng làm giống hệt. Giây lát Châu nhi chạy vào nói "Người đón chị tới rồi", cô gái bèn đứng lên khóc lóc từ biệt, nói "Con đi đây". Nói xong ngã lăn ra đất hồi lâu mới tỉnh.
Sau đó vài tháng, Lý mắc bệnh nặng, thuốc men gì cũng vô hiệu. Đứa nhỏ nói "Sợ trong sớm tối sẽ khó cứu, có hai con quỷ ngồi ở đầu giường cha, một đứa cầm gậy, một đứa cầm dây dài bốn năm thước, con đã đêm ngày năn nỉ mà chúng không đi". Mẹ khóc chuẩn bị đồ liệm, đến tối thì đứa nhỏ bước vào nói "Đàn bà con gái tránh ra hết, anh rể tới thăm cha đấy". Giây lát lại vỗ tay cười lớn mẹ hỏi vì sao, nó đáp "Con cười hai con quỷ nghe nói anh rể tới đều rúc vào gầm giường như con rùa rụt đầu". Lát sau lại thấy nó nhìn lên trời nói chuyện, hỏi thăm anh rể khỏe không, kế vỗ tay nói "Hai thằng quỷ kia, ta năn nỉ không chịu đi bây giờ thật hả dạ". Rồi đi ra cổng, kế quay vào nói "Anh rể đi rồi, hai con quỷ bị bắt buộc sau yên ngựa, chắc cha không sao đâu. Anh rể nói trở về sẽ thưa với Đại vương xin cho cha mẹ sống lâu trăm tuổi", cả nhà đều mừng rỡ.
Đến đêm thì Lý đỡ bệnh, qua vài ngày thì khỏi hẳn. Bèn rước thầy về dạy học cho, đứa nhỏ rất thông minh, mười tám tuổi được vào học trường huyện, vẫn thường nói chuyện dưới âm ty. Thấy trong làng có ai bị bệnh thì chỉ rõ nơi ma quỷ trốn núp, lấy lửa thiêu đất, ai cũng khỏi bệnh. Về sau nó bị bệnh nặng, người sưng phù lên, da chỗ xanh chỗ tím, tự nói là quỷ thần phạt ta về tội tiết lộ chuyện âm ty, từ đó trở đi không nói gì nữa.
023. Quan Nhân Nhỏ Bé (Tiểu Quan Nhân)
Có quan Thái sử* Mỗ, ta quên mất tên họ, một hôm nghỉ trưa trong phòng chợt thấy có một đội nghi trượng bé tí trong góc phòng kéo ra, ngựa như con ếch, người như con kiến xếp thành vài mươi đội đưa một viên quan đội mũ sa mặc áo thêu ngồi kiệu, rầm rộ kéo ra ngoài cửa đi mất. Thái sử lấy làm lạ, ngờ là mình ngái ngủ hoa mắt nhìn lầm, chợt có một người tí hon quay vào phòng, vác một cái bao lông chiên to bằng nắm tay đi tới dưới giường, nói rằng chủ nhân có món quà mọn kính biếu Thái sử. Nói xong đứng sững ra đó không đưa quà, lát sau lại cười nói "Vật mọn nhỏ tí, nghĩ chắc Thái sử cũng không dùng được vào việc gì, chẳng bằng ban cho tiểu nhân cho xong". Thái sử gật đầu, y vui vẻ vác cái bao đi, về sau không lần nào thấy như thế nữa. Tiếc là Thái sử trong lòng đang sợ sệt, chưa kịp hỏi người ấy rằng họ từ đâu tới.
* Thái sử: từ gọi chung quan chức trong Hàn lâm viện.
024. Cô Tư Họ Hồ (Hồ Tứ Thư)
Thượng sinh người Thái Sơn (tỉnh Son Đông), ở một mình nơi nhà học. Gặp đêm mùa thu, sông Ngân vằng vặc, trăng sáng giữa trời, sinh bồi hồi dưới bóng hoa, nghĩ ngợi vẩn vơ. Chợt có cô gái trèo tường vào, cười nói "Tú tài nghĩ gì lung thế?". Sinh tới gần nhìn thấy nàng xinh đẹp như tiên, mừng quýnh ôm lấy dìu vào, thả sức ân ái. Nàng tự xưng họ Hồ tên Tam Thư, hỏi nhà ở đâu chỉ cười không nói. Sinh cũng không căn vặn, chỉ hẹn gắn bó với nhau dài lâu mà thôi, từ đó đêm nào nàng cũng tới.
Một đêm nàng cùng sinh ngồi kề gối dưới đèn trước màn, sinh âu yếm nhìn không chớp. Cô gái cười hỏi "Sao cứ nhìn thiếp chằm chằm thế", sinh nói "Nàng như hồng dược bích đào, dù nhìn suốt đêm cũng không chán". Cô gái nói "Thiếp xấu xí mà chàng còn để vào mắt xanh, nếu gặp em Tư nhà thiếp thì không biết chàng điên đảo tới đâu". Sinh càng động lòng, hận là chưa được một lần thấy mặt, bèn quỳ xuống nài nỉ.
Đêm sau quả nhiên nàng dắt Tứ Thư cùng tới, thấy tuổi mới cập kê, như cánh sen đượm sương, đóa hạnh khói tỏa, nụ cười chúm chím vô cùng quyến rũ. Sinh mừng quýnh mời ngồi, khi Tam Thư cùng sinh cười nói chuyện trò thì Tứ Thư chỉ cúi đầu mân mê giải thắt lưng thêu mà thôi. Giây lát Tam Thư đứng lên cáo biệt, cô em định theo về thì sinh kéo lại không chịu buông, nhìn qua Tam Thư nói "Ái khanh, phiền nàng nói giùm một tiếng". Tam Thư cười nói "Chàng cuồng yêu quýnh lên rồi, em hãy ở lại một lúc".
Tứ Thư không nói gì, người chị bèn ra về. Hai người cùng nhau ân ái rất vui sướng, kế gối đầu lên tay nhau kể hết mọi chuyện về mình không hề giấu diếm. Tứ Thư tự nói là hồ nhưng sinh say mê sắc đẹp nên cũng không lấy làm lạ. Tứ Thư nhân nói "Chị thiếp tàn độc, nghiệp căn là phải giết ba người, ai bị thị ấy dụ dỗ đều phải chết. Thiếp may được chàng đoái thương nên không nỡ nhìn chàng bị hại, hãy sớm dứt tình với chị ấy đi" Sinh sợ hãi xin chỉ cách, Tứ Thư nói "Thiếp tuy là hồ nhưng học được chính pháp của tiên, vẽ một lá bùa dán lên cửa phòng thì có thể cự tuyệt chị ấy", rồi vẽ ra luôn. Sáng sớm Tam Thư tới nhìn thấy lá bùa liền lui lại nói "Con nhãi phụ ơn, hết lòng với tân lang mà không nhớ tới bà mối. Hai người các ngươi có duyên phận với nhau, ta cũng không thù oán gì, nhưng cần gì phải làm như thế!", rồi bỏ đi.
Vài hôm sau Tứ Thư có việc, hẹn đi vắng một đêm. Hôm ấy sinh ngẫu nhiên ra ngoài đi dạo, dưới chân núi vốn có đám cây kiều mộc, chợt thấy một thiếu phụ từ trong đám cây xanh tốt bước ra, cũng khá xinh đẹp, tới cạnh sinh nói "Tú tài cần gì phải quyến luyến chị em họ Hồ, họ thì không có một đồng để tặng", rồi lập tức đưa cho sinh một quan, nói "Chàng cứ đem về trước mua rượu ngon, thiếp sẽ đem một ít thức ăn tới cùng chàng vui chơi".
Sinh đem tiền về, làm như lời dặn, giây lát quả nhiên thiếu phụ tới, đặt lên bàn một con gà quay, một vai lợn muối, rút dao thái nhỏ ra rồi cùng ăn uống đùa giỡn rất vui vẻ. Kế tắt đèn lên giường ôm ấp mơn trớn vô cùng buông thả. Sáng ra vừa dậy, đang ngồi ở đầu giường mang giày chợt nghe có tiếng chân, đang còn lắng nghe thì đã vào tới bên màn, té ra là chị em họ Hồ. Thiếu phụ nhìn thấy hai người hoảng sợ chạy trốn, bỏ lại đôi giày cạnh giường. Hai nàng đuổi theo mắng "Con chồn dâm đãng dám ngủ với người ta à?", đuổi theo hồi lâu mới quay lại. Tứ Thư giận sinh, nói "Chàng không khá được! Đã chung chạ với con chồn dâm đãng thì không thể gần gũi nữa!" rồi tức tối bỏ đi. Sinh hoảng sợ xin lỗi, năn nỉ khẩn khoản rất thảm thiết, Tam Thư đứng bên cũng lựa lời khuyên giải Tứ Thư mới nguôi giận, từ đó lại thương yêu nhau như trước.
Một hôm có người ở đất Thiểm (tỉnh Thiểm Tây) cưỡi lừa tới cổng, nói "Ta tìm yêu quái không phải một sớm một chiều, hôm nay mới gặp" Cha sinh thấy lời nói lạ lùng liền hỏi duyên do, người ấy đáp "Tiểu nhân ngày ngày lênh đênh nơi khói sóng, rong chơi khắp bốn phương, một năm hơn mười tháng thì vắng nhà đến tám chín nên em trai bị bọn yêu quái giết hại. Khi trở về rất đau xót căm hờn, đã thề phải tìm diệt chúng bằng hết, nhưng lặn lội mấy ngàn dặm mà chưa thấy dấu vết. Hiện chúng đang ở nhà ông, nếu không diệt đi thì sẽ bị hại như em ta"
Lúc ấy cha mẹ đã hơi biết chuyện sinh lén lút dan díu với cô gái nên nghe khách nói thế rất sợ, bèn mời vào nhà xin làm phép diệt trừ yêu quái. Khách lấy ra hai cái bình đặt xuống đất, niệm chú hồi lâu thì có bốn làn khói đen bay tới chia nhau chui vào bình. Khách mừng nói "Cả nhà nó đều vào đây cả rồi" rồi lấy bong bóng lợn bịt miệng bình, buộc lại thật chặt. Cha sinh cũng mừng, cố mời khách ở lại ăn cơm. Sinh trong lòng thương xót, lại gần bình nghe trộm thì nghe Tứ Thư trong bình nói "Nỡ ngồi nhìn không cứu, sao chàng bạc tình thế". Sinh càng mủi lòng vội mở miệng bình nhưng dây buộc chặt không sao cởi được. Tứ Thư lại nói "Đừng làm thế, chỉ cần hất đổ lá cờ trên đàn cúng, lấy kim châm thủng một lỗ trên lớp bong bóng là thiếp ra được". Sinh làm theo lời, quả nhiên thấy một sợi khói trắng chui qua lỗ kim bay lên trời đi luôn. Khách ra thấy lá cờ đổ xuống đất, cả sợ nói "Nó trốn mất rồi, đây ắt là do công tử làm thôi" Kế lắc bình, ghé tai nghe rồi nói "May là chỉ có một con trốn thoát, con ấy không đáng tội chết, có thể tha được", rồi mang bình đi.
Về sau sinh đang coi gặt lúa ngoài đồng, nhìn ra xa thấy Tứ Thư ngồi dưới gốc cây bèn tới gần cầm tay ân cần thăm hỏi. Nàng đáp "Xa nhau chốc đã mười năm. Nay tu luyện đã thành, chỉ vì chưa quên lòng chàng nên lại tới thăm một lần" Sinh muốn nàng cùng về, nàng nói "Thiếp nay không phải như xưa, không thể vương vào tình ái cõi trần được nữa, sau này sẽ còn gặp nhau" nói xong biến mất.
Lại hơn hai mươi năm, sinh đang ở nhà một mình thì Tứ Thư từ ngoài bước vào, sinh mừng rỡ cùng trò chuyện. Nàng nói "Thiếp nay đã được ghi tên vào sổ tiên, lẽ ra không nên trở lại cõi trần, nhưng cảm lòng chàng nên tới kính báo cho chàng biết thọ kỳ đã hết, hãy sớm thu xếp việc nhà. Cũng đừng lo buồn, thiếp sẽ độ trì cho làm quỷ tiên, cũng không khổ đâu" rồi từ biệt mà đi. Đến ngày, sinh quả nhiên qua đời. Thượng sinh là người thân thích của bạn ta là Lý Văn Ngọc, ta cũng từng gặp.
025. Ông Già Họ Chúc (Chúc Ông)
Thôn Chúc ở huyện Tế Dương (tỉnh Sơn Đông) có ông họ Chúc hơn năm mươi tuổi bệnh chết. Người nhà về phòng lo may tang phục, bỗng nghe tiếng ông kêu rất gấp, vội chạy tới trước linh sàng thì thấy ông đã sống lại. Mọi người mừng rỡ xúm lại hỏi han, ông chỉ nói với vợ "Ta vừa đi, đã định không trở lại, nhưng đi được mấy dặm nghĩ bỏ một mình thân già bà lại cho lũ con, ấm lạnh đều phải cậy vào người khác cũng không còn sinh thú, chẳng bằng cùng đi với ta nên quay lại đưa bà đi".
Có người cho là ông mới sống lại nói mê sảng nên không tin, ông lại nhắc lại. Bà vợ nói "Như thế cũng hay, nhưng đang sống làm sao chết ngay được?". Ông vẫy lại nói "Chuyện đó không khó, bà cứ thu xếp những việc lặt vặt trong nhà mau đi". Bà vợ cười không chịu đi, ông lại giục, bà bèn ra ngoài cửa một lúc rồi quay vào nói "Đã thu xếp xong cả rồi" ông bảo đi thay quần áo tử tế bà không đi, ông càng hối thúc, bà không nỡ trái ý bèn vào thay quần áo trở ra, con gái con dâu đều bịt miệng cười. Ông dời đầu qua một bên gối, vỗ tay lên bảo nằm xuống bên cạnh. Bà vợ nói "Con cái đứng cả đây mà nằm sóng đôi nhau thì ra cái gì!" Ông đập tay xuống giường nói "Vợ chồng cùng chết với nhau thì có gì đáng cười?".
Đám con cái thấy cha nổi giận cũng khuyên mẹ tạm chiều. Bà theo lời, cũng ghé đầu xuống gối nằm cứng đờ, người nhà đều phì cười. Lát sau thấy bà tắt dần nụ cười, hai mắt nhắm lại, hồi lâu im lặng như đã ngủ hẳn, mọi người mới tới gần xem thì da thịt đã lạnh mà tắt hơi rồi, xem tới ông cũng thế. Năm Khang Hy thứ 21 (1683) người em dâu ông họ Chúc tới làm thuê ở nhà quan Thứ sử họ Tất* kể lại rất rõ ràng.
* Thứ sử họ Tất: bản Hương Cảng chú nhân vật này tên Tế Hữu, tự Tải Tích, người Truy Xuyên Sơn Đông, làm quan tới chức Thượng thư bộ Hộ nhà Minh.
Dị Sử thị nói: Ông già này là kẻ có nết lạ chăng? Suối vàng xa xăm mà đi lại đều do mình, lạ thật! Vả lại muốn người vợ già cùng đi thì về gọi, sao mà ung dung thế! Người lúc sắp chết vốn không nỡ chia tay mà ông thì nói thầm với vợ trên giường, nếu nhiều người làm được như vậy thì không phải lo lắng nhiều về hậu sự vậy!
026. Hiệp Nữ (Hiệp Nữ)
Cố sinh người Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), tài giỏi mà nghèo khó, lại có mẹ già nên không nỡ đi xa, ngày ngày viết liễn vẽ tranh nuôi thân, hai mươi lăm tuổi vẫn lẻ loi chưa có vợ. Trước cửa vẫn có một tòa nhà bỏ không, chợt một bà già và một nữ lang tới thuê ở, sinh thấy nhà không có đàn ông nên không hỏi là ai. Một hôm sinh về nhà, thấy cô gái từ phòng mẹ bước ra, khoảng mười tám mười chín tuổi, dáng dấp xinh đẹp, thế gian ít có. Nàng thấy sinh cũng không tránh né gì lắm, nhưng ý tứ có vẻ lạnh lùng. Sinh vào hỏi, mẹ nói "Ấy là cô gái ở trước mặt nhà ta qua mượn kéo và thước may, vừa rồi nói chuyện nhà nàng cũng có một bà mẹ già. Ta xem mẹ con họ không phải hạng nhà nghèo, hỏi sao không lấy chồng thì nàng nói vì còn có mẹ già. Ngày mai ta qua làm quen với mẹ nàng, nhân dò ý thử, nếu họ không đòi hỏi nhiều thì con nuôi giùm mẹ nàng luôn".
Hôm sau bà qua thăm, thì mẹ cô gái là một bà già nghễnh ngãng, nhìn trong nhà thấy không có gạo để qua đêm, hỏi làm nghề gì thì ra chỉ sống nhờ mười ngón tay của con gái. Dần dà đem ý ở chung để hỏi thì bà già có vẻ bằng lòng, nhưng bàn với cô gái thì nàng im lặng như không muốn. Mẹ sinh bèn về kể rõ rồi ngờ vực nói "Hay nàng chê nhà mẹ con ta nghèo chăng? Người đâu không nói cũng không cười, xinh đẹp như đào ly mà lạnh lùng như sương tuyết, thật kỳ lạ". Mẹ con bàn tán than thở với nhau rồi bỏ qua.
Một hôm sinh ngồi trong phòng sách thì có thiếu niên tới nhờ vẽ tranh, dáng mạo rất đẹp trai, ý tứ có vẻ không đúng đắn, sinh hỏi từ đâu tới thì đáp là ở làng bên cạnh. Từ đó cứ hai ba ngày lại tới chơi một lần, dần dần quen thuộc đùa giỡn, sinh ôm ấp mơn trớn cũng không chống cự gì lắm, bèn tư thông với nhau, nhân đó lui tới ngày càng thân mật. Gặp lúc cô gái qua, thiếu niên đưa mắt nhìn theo hỏi là ai, sinh đáp là con gái nhà láng giềng. Thiếu niên nói "Xinh đẹp như thế mà thần thái sao dễ sợ quá". Lát sau sinh vào nhà trong, mẹ nói "Mới rồi nàng qua vay gạo, nói bếp không nổi lửa trọn ngày rồi. Nàng chí hiếu mà nghèo khổ đáng thương, ta nên giúp đỡ chút ít". Sinh vâng lời mang một đấu gạo qua nói rõ ý mẹ, cô gái nhận nhưng cũng không cảm ơn.
Hàng ngày nàng qua nhà sinh, thấy mẹ sinh may áo khâu giày là may vá hộ, ra vào làm giúp việc nhà như là vợ. Sinh càng biết ơn, có thức ăn ngon là chia phần đưa qua biếu mẹ nàng, nàng cũng không hề cảm tạ. Gặp lúc mẹ sinh bị mụn nhọt ở chỗ kín, sớm tối rên la, cô gái cứ tới cạnh giường thăm hỏi, rửa ráy thoa thuốc cho, mỗi ngày ba bốn lần, mẹ sinh áy náy không yên lòng nhưng nàng không nề bẩn thỉu hôi hám. Mẹ sinh nói "Ôi, làm sao ta có được đứa con dâu như cháu để nuôi dưỡng thân già này đến chết", nói xong khóc tấm tức. Cô gái an ủi nói "Lang quân đại hiếu, còn sung sướng hơn cảnh con côi mẹ góa nhà cháu gấp ngàn lần!". Mẹ sinh nói "Những việc lặt vặt bên giường thế này thì có phải đứa con trai hiếu thảo làm nổi đâu. Vả lại ta đã già, sớm tối sương nắng chưa biết thế nào nên rất lo vì chưa có cháu nối dõi". Đang nói thì sinh bước vào, mẹ khóc nói "Mẹ làm phiền nương tử đây nhiều lắm, con đừng quên đền ơn". Sinh vái lạy tạ ơn, cô gái nói "Chàng kính mến mẹ ta mà ta không cảm tạ, sao chàng lại tạ ơn ta?" Từ đó sinh càng kính yêu nhưng thái độ của nàng vẫn cứng cỏi, không có chỗ nào có thể suồng sã được.
Một hôm nàng ra tới cửa, sinh nhìn theo đăm đăm, nàng bỗng quay lại nhìn sinh mỉm cười. Sinh mừng quá lòng mong mỏi, liền đuổi theo vào tới nhà nàng, chọc ghẹo nàng cũng không chống cự, lại vui vẻ cùng sinh giao hoan. Kế dặn sinh rằng "Chuyện này chỉ một lần thôi, không có tới hai đâu". Sinh im lặng ra về, hôm sau lại hẹn hò, cô gái nghiêm sắc mặt không đếm xỉa tới mà bỏ đi thẳng. Hàng ngày nàng qua lại sinh cũng thường gặp, nhưng nàng vẫn giữ vẻ nghiêm nghị từ sắc mặt tới lời nói, hơi tỏ ý đùa cợt thì nàng lập tức trở nên lạnh lùng. Chợt gặp nhau ở chỗ vắng, nàng hỏi thiếu niên thường ngày tới chơi là ai, sinh kể rõ, nàng nói "Y mấy lần tỏ vẻ vô lễ với thiếp rồi, nhưng vì chàng thân mật với y nên thiếp bỏ qua, xin nhắn với y rằng nếu còn như vậy là không muốn sống nữa đấy!".
Thiếu niên tới, sinh kể lại rồi nói "Anh nên cẩn thận, nàng ta thì không thể phạm vào đâu. Thiếu niên nói "Đã không thể phạm thì sao anh lại phạm?". Sinh ra sức biện bạch là không có, thiếu niên nói "Nếu không có thì sao những lời đùa cợt của ta lại tới tai anh được?". Sinh không đáp được thiếu niên nói "Ta cũng phiền anh nhắn với cô ta là đừng làm ra vẻ, nếu không ta sẽ rêu rao khắp nơi đấy". Sinh giận dữ ra mặt, thiếu niên mới đi. Một đêm sinh đang ngồi một mình chợt cô gái tới cười nói "Ta với chàng tình duyên chưa dứt, há không phải số trời sao?". Sinh mừng quýnh ôm lấy nàng, chợt nghe có tiếng giày lẹp kẹp, hai người hoảng sợ vùng dậy thì thiếu niên đã đẩy cửa bước vào. Sinh sửng sốt hỏi "Anh định làm gì?", thiếu niên cười nói "Ta tới xem con người trinh tiết thôi!", rồi quay qua cô gái nói "Hôm nay không mắng người à?" Cô gái đỏ mặt dựng ngược lông mày im lặng không nói gì, chỉ phanh áo ngoài để lộ ra một cái túi da, theo tay tuốt ra thì là một thanh chủy thủ sáng loáng dài ngót một thước. Thiếu niên trông thấy sợ hãi bỏ chạy, đuổi theo ra cửa nhìn quanh thì đã biến mất. Cô gái phóng ngọn chủy thủ lên không nghe vút một tiếng, lóe sáng như chiếc cầu vồng bay đi, chớp mắt có vật rơi huỵch xuống đất, sinh vội cầm đèn ra soi thì là một con chồn trắng, đầu một nơi mình một nẻo. Cô gái nói "Đó là thằng nhãi đẹp trai của chàng đấy. Ta vẫn muốn tha, nhưng tự nó không muốn sống nữa thì làm sao được", rồi thu đao cất lại vào túi. Sinh kéo trở vào, nàng nói "Mới rồi bị con vật này làm mất hứng, xin hẹn đêm mai", rồi ra cửa đi thẳng.
Đêm sau nàng quả tự tới cùng sinh ân ái, hỏi về thuật lạ thì nàng nói "Đó không phải là điều chàng biết được, nên giữ cho kín, tiết lộ ra e không phải là chuyện hay cho chàng đâu. Sinh bàn chuyện cưới hỏi, nàng nói "Đầu gối tay ấp rồi, nấu cơm gánh nước rồi, không phải vợ chồng thì là gì? Đã là vợ chồng mà còn nói chuyện cưới hỏi sao?". Sinh nói "Hay là nàng chê ta nghèo?", nàng đáp "Chàng nghèo thì thiếp giàu sao? Cuộc gặp gỡ đêm nay chính vì thương chàng nghèo đó thôi". Lúc chia tay lại dặn "Việc chung lén này không nên làm mãi. Thấy nên thì thiếp tự tới, không thì đừng ép nhau vô ích". Sau đó gặp nhau sinh cứ lần khân muốn nói chuyện riêng nhưng cô gái đều tránh đi, có điều việc cơm nước vá may nàng đều lo toan như là vợ sinh thật vậy.
Mấy tháng sau mẹ nàng mất, sinh hết sức lo việc mai táng. Cô gái từ đó còn có một mình, sinh nghĩ vắng vẻ có thể gạ gẫm bèn trèo tường vào đứng ngoài cửa sổ gọi mấy lần không thấy đáp, nhìn tới cửa thì nhà vắng người mà then vẫn cài. Sinh ngờ nàng hẹn hò với ai khác nên tối lại tới nhưng nàng cũng đi vắng, bèn tháo miếng bội ngọc đặt ở cửa sổ rồi đi. Qua hôm sau gặp nhau ở phòng mẹ, kế sinh đi ra, nàng theo sau nói "Chàng ngờ thiếp ư? Người ta ai cũng có tâm sự riêng không thể nói ra, nay muốn chàng hết ngờ thì làm sao cho được. Nhưng hiện có chuyện gấp nhờ chàng lo giùm". Sinh hỏi chuyện gì, nàng đáp "Thiếp có thai tám tháng rồi, e sớm tối là sinh nở. Thân phận thiếp chưa rõ ràng nên chỉ có thể sinh con chứ không thể nuôi con cho chàng. Vậy chàng nói kín với mẹ để tìm vú nuôi, cứ nói là con nuôi chứ đừng nói là con của thiếp".
Sinh theo lời kể với mẹ, mẹ cười nói "Lạ thật, cô gái này hỏi cưới thì không chịu mà lại tình nguyện hiến thân cho con ta!", rồi vui mừng sửa soạn để chờ. Lại hơn tháng sau, cô gái mấy hôm lỉền không ra ngoài, mẹ sinh ngờ vực tới nhà dò xét, thấy vắng vẻ yên ắng, gõ cửa hồi lâu mới thấy nàng đầu tóc rối bù mặt mũi lem luốc từ trong đi ra mở cửa cho bà vào rồi đóng lại ngay. Vào trong phòng thì đứa nhỏ mới sinh đã nằm trên giường. Bà giật mình hỏi sinh nở bao lâu rồi, nàng đáp đã ba hôm, mở tã ra xem thì ra là con trai, mặt vuông trán rộng. Bà mừng nói "Con đã sinh cho già cháu nội rồi, nhưng lênh đênh một mình định nương dựa vào đâu". Nàng nói "Nỗi riêng trong lòng không dám tỏ bày với mẹ, hãy đợi đến tối mà bế cháu về". Bà về kể chuyện cho sinh nghe, mẹ con cùng lấy làm lạ, đến đêm qua bế đứa nhỏ về.
Mấy hôm sau, lúc gần nửa đêm, cô gái chợt gõ cửa bước vào, tay xách cái túi da cười nói "Việc lớn xong rồi, từ nay xin vĩnh biệt". Sinh vội hỏi duyên cớ, nàng đáp "Cái ơn chàng nuôi mẹ không lúc nào quên. Trước đây nói một lần chứ không có hai vì nghĩ chuyện báo đền không phải ở chỗ cùng chăn gối. Thấy chàng nghèo không cưới vợ được nên muốn giúp chàng kéo dài dòng dõi, vốn nghĩ chỉ một lần là có kết quả, không ngờ lại thấy tháng nên phải phá giới mà ăn nằm lần thứ hai. Nay ơn chàng đã trả, chí thiếp đã toại, không ân hận gì nữa". Hỏi vật gì trong túi nàng nói "Cái đầu của kẻ thù". Sinh mở xem thấy râu tóc bờm xờm, máu me bê bết sợ quá lại hỏi đầu đuôi, cô gái nói "Trước kia không nói với chàng vì việc lớn mà không kín đáo e bị tiết lộ. Nay việc đã xong, nói ra cũng không sao. Thiếp là người đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), cha làm quan Tư mã bị kẻ thù hãm hại, tịch thu hết sản nghiệp. Thiếp dẫn mẹ già đi trốn, mai danh ẩn tích đã ba năm rồi. Sở dĩ không trả thù ngay chỉ vì mẹ còn sống, khi mẹ qua đời lại vướng hòn máu của chàng trong bụng nên đến nay mới ra tay được. Đêm trước thiếp đi vắng không có chuyện gì khác, chỉ vì đường lối cửa ngõ chưa thuộc nên e bị lầm lẫn" Nói xong đi ra cửa, lại dặn "Nên chăm sóc con cho khéo, chàng phúc mỏng không thọ nhưng đứa nhỏ này có thể làm rạng rỡ cửa nhà. Đêm khuya không thể quấy rầy mẹ, thôi ta đi đây".
Sinh đang buồn rầu định hỏi đi đâu thì cô gái như ánh chớp lướt đi, trong nháy mắt không thấy đâu nữa. Sinh thở than thương tiếc đứng ngẩn ra như mất hồn. Hôm sau kể chuyện cho mẹ nghe, chỉ còn cùng nhau thở than khen lạ mà thôi. Ba năm sau quả nhiên sinh chết, đứa con năm mười tám tuổi thi đỗ Tiến sĩ, phụng dưỡng bà nội đến già.
Dị Sử thị nói: Người ta ắt trong phòng có kẻ nữ hiệp thì về sau mới có thể nuôi được con hay, nếu không thì chỉ là người này thích heo nọc già còn người kia thích heo đực con của người này mà thôi*.
*Người này thích... mà thôi: nguyên văn 1à "Nhĩ ái kỳ ngải gia, bỉ ái nhĩ lũ trư hĩ", ý nói một người muốn có chồng còn một người muốn có con trai nối dõi.
027. Bạn Rượu (Tửu Hữu)
Xa sinh nhà không khá giả mấy nhưng thích uống rượu, đêm đến mà không uống thật say thì không ngủ được, nên vò rượu ở đầu giường ít khi rỗng không. Một đêm chợt tỉnh, trở mình thấy như có người cùng nằm ngủ chung, nghĩ là cái màn rơi xuống. Đưa tay sờ, thấy rõ ràng có con vật giống con mèo mà lớn hơn, thắp đèn nhìn thì là con chồn uống rượu say nằm phục xuống đó, nhìn tới vò rượu thì đã cạn sạch. Sinh cười nói "Đây là bạn rượu của ta, không nỡ làm nó sợ!". Bèn đắp thêm chăn cho nó, lại nằm xuống bên cạnh nhưng vẫn để đèn chờ xem động tĩnh. Đến nửa đêm con chồn duỗi ra như tỉnh dậy, sinh cười nói "Ngủ ngon chứ hả?" Giở chăn ra nhìn, thì một nho sĩ tuấn tú đứng lên vái lạy trước giường, tạ ơn không giết.
Sinh nói "Ta có tật thích rượu, người ta cho là ngu si, ông là người tri kỷ của ta, nếu không ngờ vực hãy làm bạn rượu với nhau. Kế lại lên giường cùng ngủ, sinh nói "Ông cứ tới đây thường, đừng nghi ngại gì", hồ hứa sẽ tới. Khi sinh tỉnh dậy thì hồ đã đi, bèn mua một vò rượu lớn để đợi. Đến tối quả nhiên hồ tới, cùng ngồi xếp bằng uống rượu với nhau rất vui vẻ. Hồ tửu lượng rất cao, lại khéo đùa giỡn, nên hai người đều hận là gặp nhau quá muộn. Hồ nói "Mấy lần uống rượn nhờ, không biết lấy gì báo đáp?". Sinh đáp "Vui vẻ với nhau là chính, một đấu rượu có đáng cái gì". Hồ nói "Nhưng ông là học trò nghèo, kiếm tiền mua rượu rất không dễ, phải tính cách giúp ông mới được"
Đêm hôm sau tới nói "Từ đây đi về phía đông nam bảy dặm, cạnh đường có tiền rơi nên tới sớm mà nhặt". Mờ sáng sinh ra đi, quả nhặt được hai đồng tiền vàng, bèn mua thức ăn ngon thêm vào bữa rượu đêm. Hồ lại nói "Phía sau nhà có tiền thôn nên đào lên". Sinh theo lời, quả đào được hơn trăm quan tiền, mừng nói "Trong túi đã có tiền, không phải buồn nỗi thiếu rượu nữa rồi". Hồ nói "Không phải vậy, nước trong vũng làm sao có thể vốc uống mãi được? Phải cùng nhau tính cách thôi".
Ngày khác, hồ nói với sinh "Hạt hướng dương ngoài chợ rất rẻ, đó là món hàng quý có thể tích trữ". Sinh nghe theo, gom mua tới hơn bốn mươi thạch, ai thấy cũng cười. Nhưng ít lâu sau trời đại hạn, lúa đậu đều khô cháy, chỉ có hướng dương là trồng được, sinh đem bán hướng dương cho người ta làm hạt giống, lãi gấp chục lần vốn mua. Từ đó giàu lên, mua hai trăm mẫu ruộng tốt, chỉ hỏi hồ mà trồng trọt, trồng lúa nếp thì trúng lúa nếp, trồng lúa tẻ thì trúng lúa tẻ, mọi việc gieo cấy sớm hay muộn đều theo lời hồ. Hồ ngày càng thân với sinh, gọi vợ sinh là chị, coi con sinh như con. Sau sinh chết, hồ thôi không tới nữa.
028. Liên Hương (Liên Hương)
Tang sinh tên Hiểu tự Tử Minh là người huyện Nghi Châu (tỉnh Sơn Đông), mồ côi từ nhỏ, dạy học ở phố Hồng Hoa. Sinh là người lặng lẽ yên phận, mỗi ngày hai lần qua nhà láng giềng ăn cơm, ngoài ra chỉ ngồi lì ở nhà mà thôi. Người bạn nhà láng giềng tình cờ ghé chơi, đùa nói "Ông ở một mình mà không sợ hồ quỷ à?". Tang cười đáp "Trượng phu sợ gì hồ quỷ. Con đực tới thì ta có gươm sắc, con cái tới thì sẽ mở cửa mời vào".
Bạn về bàn với người quen, cho một kỹ nữ bắc thang trèo qua tường gõ cửa. Sinh nhìn ra hỏi là ai, người kỹ nữ tự xưng là ma. Sinh sợ quá run cầm cập, người kỹ nữ quanh quẩn một lúc rồi bỏ đi. Sáng sớm người bạn nhà láng giềng tới, sinh kể lại rồi nói muốn về quê, bạn vỗ tay cười hỏi "Sao không mở cửa mời vào?". Sinh sực hiểu là giả nên lại ở yên như cũ.
Được nửa năm có cô gái đang đêm tới gõ cửa, sinh cho là bạn lại trêu ghẹo liền mở cửa mời vào, thì là một mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành, kinh ngạc hỏi từ đâu tới. Cô gái đáp "Thiếp là Liên Hương, kỹ nữ bên xóm tây". Nguyên trên phố vốn có nhiều thanh lâu nên sinh tin là thật, bèn tắt đèn lên giường, yêu đương cực kỳ âu yếm. Từ đó cứ năm ba ngày nàng lại tới một lần.
Một đêm sinh đang ngồi một mình nghĩ ngợi thì có một thiếu nữ lãng đãng bước vào Sinh cho là Liên Hương nên bước ra chào hỏi, nhưng nhìn mặt thì không phải, thấy khoảng mười lăm mười sáu tuổi, tay áo tha thướt, mái tóc buông rủ, dáng vẻ phong nhã xinh đẹp, bước chân nửa như muốn tới nửa như muốn lui, sinh hết sức kinh ngạc, ngờ là hồ. Nàng nói "Thiếp là con nhà lương dân, họ Lý, hâm mộ chàng cao nhã, mong được đoái tuởng". Sinh mừng rỡ cầm tay nàng, thấy lạnh như băng liền hỏi sao lạnh thế, nàng đáp "Tấm thân yếu đuối đơn hàn lại dầm sương đêm làm sao không lạnh". Kế cởi bỏ quần áo thì rõ ràng còn là xử nữ. Nàng nói "Thiếp vì tình duyên mà tấm thân nhỏ nhoi này một sớm không giữ được nữa, nếu chàng không chê là xấu xí hèn hạ thì xin được thường hầu hạ chăn gối. Trong nhà chàng không có ai khác chứ?". Sinh đáp "Không có ai khác, chỉ có một kỹ nữ ở cạnh đây nhưng cũng không tới thường" Cô gái nói "Thế thì phải tránh mặt, thiếp không thể ví như hạng kỹ nữ. Xin chàng giữ kín đừng tiết lộ, cứ cô ta tới thì thiếp đi, cô ta đi thì thiếp tới là được".
Khi gà gáy nàng muốn ra đi, tặng sinh một chiếc giày thêu, nói "Đây là vật thiếp mang dưới chân, mân mê cũng đủ bớt nhớ nhung, nhưng có người khác thì cẩn thận đừng lấy ra". Sinh cầm xem thấy cong cong nhỏ tí, trong lòng rất thích. Qua đêm sau nhân lúc vắng người lấy ra ngắm nghía vuốt ve, chợt cô gái lãng đãng bước vào, lại cùng nhau ân ái. Từ đó cứ lúc nào sinh đem chiếc giày ra là cô gái theo lòng mong mỏi tới lập tức. Sinh lấy làm lạ gạn hỏi thì nàng cười đáp "Ngẫu nhiên đúng lúc thôi".
Một đêm Liên Hương tới, sửng sốt nói "Thần sắc chàng sao tiều tụy thế?", sinh đáp là không biết. Liên Hương bèn từ biệt, hẹn mười ngày nữa sẽ tới. Sau khi Liên đi đêm nào Lý cũng tới, thường hỏi "Tình nương của chàng sao lâu quá không thấy tới?" sinh bèn nói lại lời hẹn. Lý cười hỏi "Chàng thấy thiếp với Liên Hương ai đẹp hơn?". Sinh đáp "Có thể nói cả hai đều rất đẹp, nhưng nàng Liên Hương thì da thịt ấm áp hơn". Lý biến sắc nói "Chàng nói hai người cùng đẹp chỉ là chiều lòng thiếp thôi. Chắc cô ta là người tiên trên Nguyệt điện, thiếp không bằng được". Vì thế không vui, nhân tính lại đã hết kỳ hạn mười ngày bèn dặn sinh giữ kín để nàng nhìn lén xem sao.
Đêm sau quả Liên Hương tới, nói cười rất vui vẻ, đến lúc đi ngủ hoảng sợ nói "Chết rồi, mười ngày không gặp nhau sao chàng thêm suy yếu thế này, có gặp gỡ ai phải không?" Sinh hỏi sao biết, nàng đáp "Thiếp theo thần khí của chàng mà nghiệm thôi. Mạch yếu ớt như tơ rối, đúng là bệnh ma làm". Đêm sau Lý tới, sinh hỏi thấy Liên Hương ra sao, nàng đáp "Đẹp lắm. Thiếp vốn ngờ trên đời không có ai đẹp tới mức ấy, đúng là hồ. Khi cô ta đi ra, thiếp theo sau tới tận hang ở Nam Sơn". Sinh nghi là Lý ghen nên chỉ ậm ừ, cách một đêm nữa đùa nói với Liên Hương "Ta vốn không tin đâu, nhưng có kẻ nói nàng là hồ đấy". Liên Hương hỏi ai nói thế, sinh cười đáp "Ta nói đùa thôi". Liên Hương nói "Hồ thì khác người chỗ nào?" sinh nói "Người mà bị hồ mê hoặc bệnh nặng quá thì chết, nên rất đáng sợ". Liên nói "Không phải thế, như tuổi chàng thì ba ngày sau khi ăn nằm với đàn bà tinh khí sẽ phục hồi, cho dù với hồ cũng có gì hại. Còn nếu đêm nào cũng truy hoan thì người còn hại hơn hồ nhiều. Chẳng lẽ những con ma ho lao, cái xác mòn mỏi trong thiên hạ đều ngu xuẩn chết vì hồ cả à? Tuy nhiên ắt có kẻ bình phẩm về ta rồi đây". Sinh cố phân trần là không có ai cả nhưng Liên càng ra sức gạn hỏi, sinh bất đắc dĩ phải nói thật. Liên nói "Thiếp vẫn lấy làm lạ là sao chàng suy yếu, mà sao lại mau lẹ đến thế? Hay cô ta không phải là người chăng?". Chàng cũng đừng nói gì, tối mai thiếp sẽ làm đúng như cô ta lén nhìn thiếp hôm trước vậy"
Đêm ấy Lý tới, vừa nói vài câu chợt nghe ngoài cửa sổ có tiếng ho hắng, vội vàng bỏ đi. Liên vào nói "Thôi chàng nguy rồi. Cô ta đúng là ma, nếu chàng còn mê sắc đẹp không dứt tình ngay đi thì đường xuống âm ty gần lắm". Sinh nghĩ nàng ghen nên im lặng không đáp. Liên lại nói "Thiếp biết ngay rằng chàng không thể dứt tình, nhưng không nỡ ngồi nhìn chàng chết, ngày mai sẽ đem thuốc tới đây để trừ âm độc cho chàng. Cũng may là gốc bệnh còn cạn, trong mười ngày sẽ khỏi, xin nằm chung giường để săn sóc đến tới khi khỏi hẳn".
Đêm sau quả nàng đem thuốc tới sắc cho sinh uống, phút chốc đi ngoài hai ba lần, thấy ruột gan mát mẻ, tinh thần sảng khoái, trong lòng rất biết ơn nàng nhưng rốt lại vẫn không tin mình bị ma làm. Liên cứ đêm đêm ngủ chung để chăm sóc, sinh muốn giao hoan thì nàng không chịu. Mấy hôm sau sinh khỏe lại rồi, nàng từ giã dặn đi dặn lại là phải dứt tình với Lý, sinh giả vâng dạ. Kế đóng cửa khêu đèn, lại đem chiếc giày ra vuốt ve mơ tưởng. Lý chợt tới, vì xa cách mấy ngày nên có nét hờn giận. Sinh nói "Cô ta suốt mấy đêm liền lo thuốc men cho ta, xin đừng giận dỗi, thương yêu là ở ta thôi", Lý mới hơi nguôi. Khi cùng nằm chung, sinh nói nhỏ "Ta rất yêu nàng, nhưng có kẻ nói nàng là ma đấy". Lý đớ lưỡi hồi lâu rồi mắng "Chắc là con chồn dâm dục nói bậy với chàng rồi. Nếu chàng không dứt tình với nó thì thiếp không tới nữa đâu, rồi khóc hu hu, sinh khuyên giải đủ cách mới nín.
Đêm sau Liên Hương tới, biết Lý lại ghé liền nổi giận nói "Chàng nhất định chết phải không?". Sinh cười đáp "Sao nàng ghen với cô ta quá thế?" Liên càng tức giận, nói "Chàng gieo mầm chết, thiếp đã trừ cho, không ghen mà được à?". Sinh đặt chuyện để đùa, nói "Cô ta nói hôm trước ta bị bệnh là do hồ gây ra đấy". Liên bèn than "Nếu như lời chàng nói thì chàng say đắm không tỉnh, vạn nhất có bề gì thì dẫu thiếp có trăm miệng cũng làm sao phân trần cho được? Vậy xin giã biệt từ đây sau trăm ngày sẽ xem chàng nằm liệt giường". Sinh cố giữ lại không được, nàng phẩy tay đi thẳng.
Từ đó đến đêm là Lý tới khoảng hơn hai tháng thì sinh thấy mỏi mệt quá, lúc đầu còn tự an ủi nhưng ngày càng kiệt sức, chỉ uống được một chén nước cháo. Muốn về quê dưỡng bệnh mà còn bịn rịn với Lý không nỡ đi ngay, cứ thế thêm vài ngày thì bệnh nặng không sao dậy nổi. Người bạn láng giềng thấy sinh yếu quá, ngày ngày sai học trò trong trường lo lắng cơm nước cho. Sinh lúc ấy mới nghi ngờ Lý, nhân nói với Lý rằng "Ta hối hận không nghe lời Liên Hương nên mới tới nông nỗi này". Nói xong thì ngất đi, giây lát mới tỉnh, giương mắt nhìn quanh thì Lý đã bỏ đi rồi, từ đó bặt tăm luôn. Sinh nằm một mình trong căn nhà vắng, mong đợi Liên Hương như nhà nông chờ ngày lúa chín vậy.
Một hôm đang tơ tưởng chợt có người vén rèm bước vào, thì ra là Liên Hương. Nàng tới cạnh giường, nhếch mép cười nói "Anh nhà quê, ta nói có sai đâu?". Sinh nghẹn ngào hồi lâu, tự nói đã biết tội, chỉ xin cứu cho. Liên nói "Bệnh chàng đã vào sâu trong tim phổi, thật không có cách gì cứu được, ta ghé qua để cùng chàng vĩnh biệt cho rõ là không phải ghen tuông thôi". Sinh vô cùng đau xót, nói "Dưới gối có một vật, phiền nàng xé nát giùm". Liên tìm được chiếc giày, đem ra trước đèn xoay trở ngắm nghía. Lý chợt bước vào, vừa thấy Liên Hương vội quay ra định chạy. Liên đứng chặn ngang cửa, Lý cùng đường không biết chạy đâu. Sinh trách mắng kể tội, Lý không sao đáp được. Liên cười nói "Thiếp nay mới được giáp mặt chị để đối chất. Hôm trước chị nói lang quân mắc bệnh chưa chắc không phải là thiếp gây ra, bây giờ thì sao?". Lý cúi đầu tạ tội, Liên nói "Trông xinh đẹp như thế mà đem tình yêu kết oán cừu sao?". Lý nằm phục xuống đất khóc nức nở, xin thương tình cứu giúp.
Liên đỡ dậy hỏi lai lịch, nàng nói "Thiếp là con Lý Thông phán, tuổi nhỏ chết non, chôn ngoài tường này. Tằm xuân đã chết mà mối tơ chưa dứt, gắn bó với chàng là điều thiếp mong mỏi, chứ thật lòng đâu muốn làm cho chàng chết". Liên hỏi "Nghe nói ma hay làm cho người chết để có thể gặp nhau thường phải không?" Lý đáp "Không phải thế. Hai con ma gặp nhau thì không có gì chút sung sướng, nếu sung sướng thì há dưới suối vàng lại thiếu kẻ trai tráng sao!". Liên nói "Ngốc thật, cứ đêm đêm hành dâm thì với người cũng không chịu nổi, huống chi là với ma". Lý hỏi hồ cũng hiếu dâm làm chết người chứ đâu riêng gì ma, Liên đáp "Đó là bọn hút tinh khí tu luyện nhưng thiếp không phải loại ấy. Cho nên ở đời có loại hồ không hại người, nhưng quyết không có loại ma nào không hại người, vì âm khí nặng nề vậy".
Sinh nghe nói chuyện mới biết hai người đúng là hồ và ma, nhưng vì gần gũi đã quen nên cũng không sợ hãi, song nghĩ mình hơi thở chỉ còn như sợi tơ bất giác đau lòng khóc lớn. Liên nhìn lại hỏi định xử sự với lang quân thế nào, Lý ấp úng từ tạ. Liên cười nói "Chỉ e lang quân khỏe rồi nương tử lại ghen với ta?". Lý khép nép nói "Nếu chị có tài thần y giúp thiếp khỏi mang tội với lang quân thì thiếp phải úp mặt xuống đất chứ đâu còn dám nhìn thiên hạ nữa!". Liên mở túi lấy thuốc ra nói "Thiếp đã biết trước là sẽ có hôm nay nên sau khi từ giã liền đi hái thuốc khắp các núi, suốt ba tháng mới đủ dược vị, dù bệnh nặng gần chết uống vào cũng khỏi. Nhưng vì đâu mà mắc bệnh thì phải lấy đó dẫn thuốc, nên không thể không nhờ nàng ra sức".
Lý hỏi cần giúp gì, Liên đáp "Chỉ cần một ít nước bọt từ môi son thôi. Ta sẽ đặt hoàn thuốc lên miệng chàng, phiền nàng kề môi nhổ nước bọt đưa thuốc xuống". Lý đỏ bừng cả mặt, cúi đầu quay qua ngó chiếc giày Liên hỏi "Em chỉ có chiếc giày là đắc ý thôi sao?". Lý càng thẹn, nhìn quanh như không còn mặt mũi nào, Liên nói "Đó là ngón thường ngày đã quen nay sao lại tiếc?", kế lấy thuốc đặt lên môi sinh rồi quay qua giục Lý. Lý bất đắc dĩ phải làm, Liên bảo nhổ thêm lần nữa, Lý lại làm theo, ba bốn lần thì hoàn thuốc trôi xuống cổ họng sinh. Giây lát trong bụng sinh có tiếng ùng ục như sấm, Liên cho uống một hoàn nữa, tự mình kề môi tiếp hơi cho sinh nuốt. Sinh thấy đan điền nóng ran, tinh thần phấn chấn, Liên nói "Khỏi rồi".
Lý nghe gà gáy vội vàng từ giã.
Liên vì sinh vừa khỏi bệnh còn cần chăm sóc, qua láng giềng ăn cơm thì không tiện bèn đóng cổng lại khóa ngoài, giả làm ra vẻ như sinh về quê để tuyệt hết bạn bè, ngày đêm ở cạnh chăm sóc cho sinh. Lý thì đến đêm là tới, lo cơm nước rất ân cần, thờ Liên như chị, Liên cũng rất thương yêu. Được ba tháng thì sinh khỏe mạnh như cũ, Lý bèn vài đêm mới tới. Ngẫu nhiên ghé qua thì chỉ nhìn qua sinh rồi đi ngay, lúc ngồi với nhau cũng thường rầu rầu không vui. Liên thường giữ lại ngủ chung nhưng nhất định không chịu, sinh đuổi theo bế về, thấy thân thể nhẹ bổng như hình nộm. Lý không trốn được bèn để nguyên áo nằm yên, co ro còn không đầy hai thước, Liên càng thêm thương xót, lén bảo sinh ôm ấp vuốt ve nhưng lay gọi mấy cũng không tỉnh. Sinh thiếp đi, khi tỉnh dậy sờ xem thì nàng đã biến mất.
Hơn mười ngày sau Lý không tới nữa, sinh nhớ nhung tha thiết cứ đem chiếc giày ra mân mê. Liên than "Người yểu điệu như thế thiếp nhìn thấy cũng thương, huống gì là đàn ông". Sinh nói "Trước đây cứ mân mê chiếc giày là lập tức nàng tới, ta vẫn ngờ vực nhưng không ngờ nàng là ma. Nay thấy vật nhớ người, thật rất thương xót" rồi sa nước mắt.
Nguyên là nhà giàu họ Chương có con gái tên Yến Nhi, mười lăm tuổi thì bị bệnh tắc mồ hôi chết, qua đêm lại sống lại, trở dậy nhìn ngó rồi định chạy, Chương đóng chặt cửu không cho chạy ra. Cô gái nói "Ta là hồn con gái Lý Thông phán, cảm tình Tang quân thương yêu, giày ta còn để ở nhà chàng. Thật ra ta là ma thôi, ngăn cấm ta làm gì" Chương nghe lời nói có duyên do liền hỏi vì sao tới đây cô gái cúi xuống ngẩng lên cũng mịt mờ không tự hiểu. Có người nói Tang sinh bị ốm đã về quê rồi, nàng cố cãi là bịa đặt, người nhà nghe thế rất nghi ngờ. Người bạn láng giềng của sinh nghe chuyện bèn trèo tường vào nhìn, thấy sinh đang ngồi trò chuyện với một mỹ nhân liền xô cửa xông vào, đang lúc ầm ĩ thì mỹ nhân đã biến mất. Bạn hoảng sợ gạn hỏi, sinh cười nói "Lúc trước ta đã nói với ông rồi, con cái tới thì sẽ mời vào mà".
Bạn kể lại lời Yến Nhi, sinh muốn ra ngoài tới nhà họ Chương dò la nhưng khổ nỗi không có cớ. Bà Chương nghe tin quả sinh chưa về quê càng lấy làm lạ bèn sai mụ ở tới đòi chiếc giày, sinh liền đưa ra. Yến Nhi được giày rất mừng nhưng mang thử thì nhỏ hơn chân một tấc, cả sợ cầm gương soi bỗng sực hiểu ra là mình mượn xác để sống lại, nhân kể rõ lại mọi việc, bà Chương lúc ấy mới tin. Cô gái soi gương khóc lớn, nói "Mặt mũi ngày trước thấy rất tự tin mà mỗi khi gặp chị Liên còn xấu hổ, giờ đây thành ra thế này thì cứ làm ma còn hơn?". Rồi cầm chiếc giày kêu khóc không ai khuyên dỗ được, kế trùm chăn nằm yên, mang cơm tới cũng không ăn, toàn thân sưng phù. Bảy ngày liền không ăn uống mà không chết, dần dần hết phù, thấy đói quá không chịu nổi bèn ăn uống trở lại. Vài hôm sau toàn thân ngứa ngáy, da cũ lột hết, sáng ra mang giày thấy rơi ra mới so lại thì giày lớn quá, lại thử chiếc giày cũ thấy vừa khít. Mừng quá soi gương thì mặt mũi mày mắt giống hệt lúc trước, càng mừng rỡ liền rửa mặt chải đầu tới gặp mẹ, ai thấy cũng ngạc nhiên.
Liên Hương nghe chuyện lạ bèn khuyên sinh nhờ người mai mối dạm hỏi, nhưng sinh vì giàu nghèo xa cách nên chưa dám làm ngay. Vừa gặp dịp sinh nhật bà mẹ Yến Nhi, sinh theo bọn con cháu dâu rể tới chúc thọ. Bà thấy có tên sinh bèn bảo Yến Nhi đứng sau rèm nhận mặt. Sinh vào sau cùng, nàng sấn ra kéo áo đòi theo về nhà, mẹ quát mắng mới xấu hổ trở vào. Sinh nhìn kỹ rõ ràng là Lý, bất giác động lòng rơi lệ lạy phục xuống đất không đứng dậy, bà không cho là khinh mạn, bước ra đỡ lên. Sinh về năn nỉ ông cậu làm mối, bà Chương bàn cho sinh ở rể. Sinh về kể lại cho Liên Hương và bàn chuyện sính lễ. Liên buồn bã hồi lâu rồi từ biệt đi. Sinh hoảng sợ khóc lóc, Liên nói "Chàng làm đám cưới ở nhà người ta, thiếp đi theo thì còn mặt mũi nào nữa?". Sinh bàn trước hết đưa Liên về quê rồi sau sẽ cưới Yến Nhi, Liên nghe theo. Sinh đem tình thật thưa với Chương, Chương nghe nói sinh đã có vợ nổi giận chửi mắng, Yến Nhi hết sức phân trần Chương mới nghe theo.
Đến ngày sinh đi đón dâu, khi đi trong nhà chỉ xếp đặt qua loa nhưng lúc về thì từ cổng tới thềm đều trải nệm, trăm ngàn ngọn đèn lồng sáng rực bày ra như gấm. Liên Hương đỡ cô dâu vào phòng tân hôn, bỏ khăn che mặt ra, hai người thấy nhau vui mừng chuyện trò như ngày trước. Liên Hương mời rượu hợp cẩn rồi gạn hỏi chuyện lạ hoàn hồn. Yến Nhi nói "Hôm ấy uất ức buồn bã, nghĩ mình là ma rất thẹn thùng nên sau khi từ biệt phẫn uất không trở về mồ, theo gió phiêu bạt, thấy người sống nào cũng thèm, ban ngày thì nương tựa cỏ cây, ban đêm thì theo chân vất vưởng. Ngẫu nhiên tới nhà họ Chương, thấy có xác thiếu nữ nằm trên giường liền nhập luôn vào, cũng không biết là được sống lại ngay".
Liên nghe thế im lặng như có điều suy nghĩ. Hai tháng sau Liên sinh một con trai, sinh xong phát bệnh nặng, ngày càng trầm trọng, cầm tay Yến nói "Dám xin lấy đứa nhỏ làm phiền, con ta cũng như con nàng vậy". Yến sa nước mắt ân cần an ủi, bàn rước thầy thuốc nhưng Liên cứ chối từ. Bệnh Liên càng nặng, hơi thở thoi thóp, sinh và Yến Nhi đều khóc. Chợt Liên giương mắt nói "Đừng như thế, chàng vui được sống, riêng thiếp vui được chết, nếu có duyên thì mười năm sau lại gặp thôi", dứt lời thì tắt hơi. Mở chăn ra liệm thấy xác dã biến thành chồn, sinh không nỡ coi là khác loài, chôn cất rất hậu.
Đứa con tên Hồ Nhi, Yến săn sóc như con mình sinh ra, mỗi năm đến tiết Thanh minh đều bế ra mộ Liên khóc lóc. Mấy năm sau sinh đỗ thi hương, nhà cũng dần khá giả, chỉ ngặt nỗi Yến không sinh nở, mà Hồ Nhi thông minh nhưng yếu ớt nhiều bệnh nên Yến thường nghĩ tới việc mua hầu thiếp cho sinh. Một hôm chợt tỳ nữ thưa ngoài cổng có một bà già dắt con gái muốn bán. Yến gọi vào, vừa nhìn đã cả kinh nói "Chị Liên lại ra đời sao?". Sinh nhìn thấy thấy quả rất giống cũng kinh ngạc, hỏi nàng ta bao nhiêu tuổi, bà già đáp là mười bốn. Hỏi muốn bán giá bao nhiêu, bà nói "Già chỉ có mình nó là con, nếu nó được chỗ yên thân, ta cũng có cơm ăn, sau này nắm xương già không bị ném ra ngoài ngòi rạch là đủ". Sinh trả nhiều tiền, giữ bà ở lại. Yến cầm tay cô gái dắt vào phòng kín cười hỏi "Ngươi biết ta không?", nàng đáp không biết. Hỏi tên họ, nàng nói "Thiếp họ Vi, cha làm nghề bán tương ở thành Từ Châu, qua đời đã ba năm". Yến bấm đốt tay nghĩ lại thì Liên đã chết đúng mười bốn năm, lại nhìn kỹ mặt mũi dáng điệu nàng thấy đều giống hệt Liên bèn đập vào trán nàng gọi "Chị Liên, chị Liên, đã hẹn mười năm gặp lại, xin đừng dối ta!".
Cô gái chợt như tỉnh mộng, bật kêu lên "ôi!" rồi nhìn Yến Nhi chằm chằm. Sinh cười nói "Đây cũng giống chim én quen nhà về chốn cũ vậy". Cô gái sa nước mắt nói "Phải rồi. Nghe mẹ nói lại là lúc thiếp vừa sinh ra đã biết nói, nhà cho là điềm bất tường bèn lấy máu chó cho uống nên quên mất tiền duyên, nay thật đúng như vừa tỉnh mộng. Nương tử là dì Lý tủi phận làm ma đó chăng?", rồi cùng nói chuyện tiền sinh, nửa mừng nửa tủi. Một hôm vào ngày Hàn thục, Yến nói "Hàng năm đến hôm nay là ngày thiếp với lang quân khóc chị". Rồi cùng nhau tới mộ Liên, thấy cỏ hoang rậm rạp, cây cối đã vừa ôm, cô gái cũng than thở, nói với sinh rằng "Thiếp cùng chị Liên hai đời tình nghĩa, không nỡ xa nhau, nên chôn chung một huyệt".
Sinh theo lời, bốc mộ Lý lấy cốt đem về hợp táng với di cốt Liên. Bạn bè nghe chuyện lạ mặc quần áo đẹp tới dự lễ hợp táng, không hẹn mà có tới vài trăm người.
Năm Canh tuất ta đi chơi miền nam tới Nghi Châu gặp mưa dầm nghỉ lại nhà trọ, có Lưu Tử Kính là anh em cô cậu đưa cho xem tập Tang sinh truyện do bạn đồng xã là Vương Tử Chương soạn khoảng hơn vạn chữ, ta được đọc hết, đây chỉ tóm tắt ghi lại thôi.
Dị Sử thị nói: Than ôi, người chết thì cầu đưọc sống, kẻ sống lại cầu được chết, cái khó có được trên đời há không phải là thân xác con người sao? Sao có được tấm thân trọn vẹn lại bỏ mặc, đến nỗi thản nhiên mà sống chẳng bằng hồ, lặng lẽ mà chết chẳng bằng ma!
029. A Bảo (A Bảo)
Tôn Tử Sở người Việt Tây là danh sĩ, sinh ra có ngón tay thừa, tính viễn vông thật thà, ai lừa cũng tin là thật, ai mời dự tiệc mà có ca kỹ thì nhìn thấy từ xa đã bỏ chạy. Có người biết thế dụ tới, cho kỹ nữ ôm ấp thì mặt đỏ tới cổ, mồ hôi ròng ròng. Họ vì vậy buồn cười, nhại lại dáng vẻ ngây ngốc của sinh đặt lời chế nhạo, gọi là "Tôn ngây".
Nhà buôn lớn trong huyện là ông Mỗ, giàu ngang bậc vương hầu, thông gia họ hàng đều là nhà quý hiển, có con gái tên A Bảo rất xinh đẹp đến tuổi gả chồng. Các nhà đại gia tranh nhau đưa sính lễ tới dạm hỏi nhưng ông đều không vừa ý. Tôn bấy giờ góa vợ, có người đùa khuyên nên cậy mối đến hỏi. Sinh hoàn toàn không xét mình, quả nhiên theo lời. Ông vốn nghe tiếng sinh nhưng chê nghèo, bà mối ra thì gặp A Bảo hỏi, bà ta kể lại. Cô gái đùa nói "Y chặt bỏ ngón tay thừa đi thì ta sẽ về theo". Bà mối kể lại, sinh nói "Không khó". Bà ta về rồi, sinh lấy búa chặt ngón tay thừa, đau thấu cả ruột, máu chảy lênh láng suýt chết, qua mấy ngày mới dậy được, qua nhà bà mối cho xem. Bà ta hoảng sợ chạy qua nói với cô gái. Nàng cũng lấy làm lạ, nhưng đùa nói ráng xin bỏ cái ngây đi. Sinh nghe thế cãi ầm lên, nói mình không ngây, nhưng không sao làm rõ cho được. Bèn đổi sang nghĩ rằng A Bảo chưa chắc đã đẹp như tiên, sao tự đánh giá mình quá cao như thế, từ đó lòng mong ước cũng nguội lạnh.
Gặp tiết Thanh minh, theo tục lệ thì hôm ấy phụ nữ ra ngoài đi chơi, đám thiếu niên khinh bạc cũng họp bọn đi theo mặc tình bình phẩm. Có đám bạn học lôi kéo sinh đi, có kẻ đùa nói "Lại không muốn xem mặt người mình thích sao?" Sinh cũng biết là nói đùa, nhưng vì đã bị cô gái coi thường nên cũng muốn biết mặt một lần, bèn vui vẻ theo họ đi tìm. Thấy xa xa có một cô gái nghỉ dưới gốc cây, đám trai trẻ suồng sã vây quanh như bức tường, mọi người nói "Đó ắt là A Bảo" Rảo bước tới xem thì quả là Bảo, nhìn kỹ thấy xinh đẹp có một không hai. Một lát người xem càng đông, cô gái đứng dậy vội vàng bỏ đi. Mọi người đều say mê khen tóc khen chân, nhao nhao như điên, chỉ riêng sinh im lặng. Đến lúc cả bọn đã tan đi, ngoái nhìn thấy sinh vẫn đúng ngây ra ở chỗ cũ, gọi thì không đáp. Mọi người kéo đi nói "Hồn theo A Bảo rồi à?", cũng không đáp. Họ biết tính sinh vốn lẩn thẩn nên cũng không lấy làm lạ, người xô kẻ kéo dẫn về.
Đến nhà sinh lên ngay giường nằm, cả ngày không dậy, thiêm thiếp như say rượu, gọi cũng không tỉnh. Người nhà ngờ là hồn đi lạc, ra gọi hồn ngoài đồng trống song vô hiệu, đập mạnh hỏi thì ú ớ nói "Ta ở nhà cô Bảo", hỏi kỹ thì lại im lặng không đáp, người nhà phát hoảng không hiểu thế nào. Vốn khi sinh thấy cô gái bỏ đi thì lòng không nỡ dứt, thấy mình đi theo, dần dần sát tới vạt áo dây lưng cũng không ai la mắng, bèn theo nàng về nhà, ngồi nằm đều dựa kề một bên, đêm về lại ôm ấp vuốt ve, rất lấy làm thích, nhưng thấy trong bụng đói quá, muốn trở về nhà mà quên mất cả đường. Cô gái cứ nằm mơ thấy giao hoan với một người, hỏi tên thì đáp "Ta là Tôn Tử Sở", lấy làm lạ nhưng không thể nói ra với ai. Sinh nằm ba ngày, hơi thở chỉ còn thoi thóp, người nhà hoảng sợ nhờ người tới lấy lời mềm mỏng nói với cha cô gái xin tới nhà để gọi hồn sinh. Ông Mỗ cười nói "Trước nay không từng qua lại, làm sao mất hồn ở nhà ta được?", năn nỉ mãi ông mới chịu.
Thầy đồng cầm áo mặc và chiếu nằm của sinh qua, cô gái gặp hỏi biết chuyện, hoảng sợ không cho đi tìm chỗ khác mà dẫn thẳng vào phòng mình, cho mặc ý kêu gọi rồi ra. Thầy đồng vừa về tới cổng thì ở sinh trên giường đă rên lên. Khi tỉnh dậy thì đồ vật hộp phấn trong phòng cô gái màu gì tên gì đều kể ra vanh vách. Cô gái nghe chuyện lại càng hoảng sợ, thầm cảm thâm tình của sinh. Sinh khi đi lại được rồi thì đứng ngồi đều trầm tư như đãng trí, cứ dò tin tức A Bảo, chỉ mong gặp lại.
Đến ngày Phật đản nghe tin nàng sẽ dâng hương ở chùa Thủy Nguyệt, sinh dậy thật sớm ra đợi bên đường, mỏi mòn trông ngóng, đến giữa trưa cô gái mới tới. Nàng ngồi trong nhìn ra thấy sinh, lấy bàn tay búp măng vén rèm nhìn đăm đăm, sinh càng xao xuyến bèn đi theo. Nàng bỗng sai tỳ nữ tới hỏi tên họ, sinh nói rõ cả, lòng càng say mê. Xe đi rồi mới quay về, tới nhà lại mắc bệnh trở lại, nằm thiêm thiếp không ăn không uống, trong giấc mơ cứ gọi tên A Bảo, thường giận vì hồn mình không thiêng nữa.
Trong nhà vốn có nuôi một con vẹt, bỗng lăn ra chết, đứa nhỏ cầm chơi trên giường. Sinh nghĩ nếu mình được làm con vẹt thì có thể vỗ cánh bay đến phòng cô gái ngay. Lòng đang mơ tưởng thì thấy mình đã là con vẹt, liền bay thẳng tới phòng A Bảo. Cô gái mừng rỡ bắt lấy, buộc cánh lại lấy hạt vừng cho ăn. Vẹt kêu to "Đừng buộc, ta là Tôn Tử Sở đây!". Cô gái kinh hãi, mở dây cũng không bay, bèn khấn "Tình sâu đã khắc trong lòng, nhưng nay người và chim khác loài, làm sao tròn được nhân duyên?" Chim nói "Được gần vóc thơm là đủ mãn nguyện rồi". Người khác cho mồi thì không ăn, cô gái cho mới ăn, nàng ngồi thì đậu trên gối, nàng nằm thì đậu cạnh giường. Như thế ba ngày, cô gái rất thương, lén sai người qua thăm dò thì sinh đã nằm cứng đờ tắt thở đã ba ngày, chỉ trên ngực còn hơi ấm thôi. Nàng lại khấn rằng "Nếu chàng trở lại làm người thì xin theo đến chết". Chim nói "Lừa ta đấy!", cô gái bèn thề thốt, chim nghiêng đầu nhìn như suy nghĩ. Lát sau nàng bó chân, cởi giày để dưới giường. Vẹt sà xuống ngậm giày bay đi, nàng vội gọi lại thì đã bay xa rồi. Nàng sai bà đầy tớ qua thăm dò thì sinh đã tỉnh. Người nhà thấy con vẹt ngậm chiếc giày thêu bay về rơi xuống đất chết, đều đang lạ lùng. Sinh vừa tỉnh là hỏi ngay tới chiếc giày, mọi người đều không biết vì sao. Vừa lúc bà đầy tớ tới, vào thăm sinh, hỏi chiếc giày đâu, sinh nói "Đó là vật làm tin của A Bảo, nhờ về nhắn hộ rằng tiểu sinh không dám quên lời vàng đá".
Bà già về thưa lại, cô gái càng lấy làm lạ bèn bảo tỳ nữ kể lại sự tình cho mẹ. Mẹ hỏi lại thấy đúng bèn nói "Y tài danh cũng không tệ, có điều nghèo quá. Kén chọn mấy năm lại được rể như thế, e các nhà quý hiển cười cho" Cô gái lấy cớ chiếc giày thề không lấy người khác. Ông bà chiều lòng, cho người báo với sinh, sinh mừng khỏi bệnh ngay. Ông bàn cho sinh ở rể, nàng nói "Con rể không thể ở lâu tại nhà cha vợ, huống chàng lại nghèo, càng ở lâu càng bị coi thường. Con đã theo chàng thì ở nhà tranh nhà lá cũng cam lòng, ăn rau lê rau hoắc cũng không oán trách". Sinh bèn làm lễ cưới, vui mừng như qua kiếp khác được gặp lại nhau.
Từ đó nhà sinh nhờ có của hồi môn của nàng cũng hơi dư dật, mua thêm ruộng đất. Nhưng sinh mê sách, không biết sai bảo người nhà làm lụng, được cô gái khéo buôn bán nên cũng không phiền sinh phải lo tới việc nhà. Được ba năm nhà giàu thêm, bỗng sinh mắc bệnh tiêu khát mà chết. Cô gái khóc lóc rất đau thương, bỏ ăn bỏ ngủ, không sao khuyên giải được. Nhân lúc đêm khuya nàng thắt cổ tự tử, đứa tỳ nử biết được vội cứu nên tỉnh lại, nhưng vẫn không chịu ăn uống. Ba hôm sau mời họ hàng tới để liệm sinh, nghe trong quan tài có tiếng rên, mở ra thì sinh đã sống lại. Sinh kể khi ra mắt Diêm Vương, vì bình sinh thành thật chất phác nên được cho làm Bộ tào. Chợt có người bẩm vợ Bộ tào họ Tôn sắp tới, Diêm Vương tra sổ rồi nói người ấy chưa đáng chết, người kia lại bẩm đã bỏ ăn ba ngày rồi, Diêm Vương ngoảnh lại nói cảm vì vợ ngươi tiết nghĩa nên cho sống lại rồi sai lính thắng ngựa đưa về. Từ đó bình phục dần.
Gặp năm có kỳ thi hương, trước khi vào trường bọn thiếu niên đùa cợt, cùng nghĩ ra bảy đề bài hiểm hóc, kéo sinh ra chỗ vắng nói riêng là nhờ quen biết với nhà đại gia nọ, xin đưa kín cho nhau. Sinh tuởng thật, đêm ngày mài miệt làm thành bảy bài, mọi người cười thầm. Năm ấy quan Chủ khảo nghĩ rằng ra đề quen thuộc thì thường có cái tệ sao chép văn cũ, bèn cố sức thay đổi cho khác hẳn. Giấy đầu bài phát ra đều đúng bảy đề nọ, nhờ vậy sinh đỗ Thủ khoa. Năm sau đỗ Tiến sĩ, được bổ chức Hàn lâm. Vua nghe chuyện lạ triệu vào hỏi, sinh khải tấu, vua rất khen ngợi, lập tức triệu A Bảo vào bệ kiến, tặng thưởng rất nhiều.
Dị Sử thị nói: Tính ngây thì chí ngưng, nên kẻ mê sách thì văn ắt hay, kẻ mê nghề thì tài ắt khéo. Những người lận đận không thành công trên đời đều tự cho rằng mình không ngây, nhưng những kẻ ham sắc đẹp mất nghiệp, mê cờ bạc khuynh gia thì là ngây việc người chăng? Từ đó đủ biết kẻ trí tuệ khôn lanh mà phạm lỗi mới đúng là ngây thật, chứ Tôn Tử Sở kia thì có gì ngây đâu!
030. Nhiệm Tú (Nhiệm Tú)
Nhiệm Kiến Chi ngươi đất Ngư Đài (tỉnh Sơn Đông), làm nghề buôn áo lông chiên, mang hết tiền bạc tới Thiểm Tây. Trên đường gặp một người tự xưng là Thân Trúc Đình quê ở Túc Thiên (tỉnh Giang Tô), trò chuyện rất hợp ý bèn kết làm anh em, cùng đi với nhau. Tới đất Thiểm Nhiệm mắc bệnh không dậy nổi, Thân chăm sóc rất chu đáo, nhưng hơn mười hôm thì bệnh càng nặng, bèn nói với Thân "Nhà ta vốn không giàu có, tám miệng ăn đều trông vào một người dãi nắng dầm sương. Nay ta bất hạnh chết ở quê người, chỉ có ông là anh em, chứ ngoài hai ngàn dặm có ai đâu. Trong túi ta còn hơn hai trăm lượng vàng, ông lấy một nửa mua quan tài khâm liệm cho ta và làm tiền đi đường, còn một nửa để lại cho vợ con ta, chở giúp quan tài về quê cho. Nếu nắm xương tàn về được tới quê nhà, thì tất cả nhũng hành lý khác không nói tới nữa". Rồi gượng ngồi dậy viết thư đưa Thân, đến đêm thì chết.
Thân lấy năm sáu lượng bạc mua chiếc quan tài xấu, tẫn liệm xong chủ trọ cứ hối thúc đưa đi. Thân nói thác là để tìm nơi chùa quán xin quàn tạm rồi trốn luôn không quay lại. Hơn năm sau gia đình Nhiệm mới được tin đích xác. Con trai Nhiệm tên Tú, năm ấy mười bảy tuổi, đang còn đi học nhưng vì cha mất phải thôi, muốn đi tìm quan tài cha. Mẹ thương con còn nhỏ, Tú khóc lóc muốn chết đi, mẹ bèn cầm bán đồ dùng lấy tiền, sai lão bộc đi cùng Tú, nửa năm mới về tới. Sau khi chôn cất xong, nhà nghèo không còn chút gì, may là Tú thông minh, hết tang xong được vào học trường huyện Ngư Đài.
Nhưng Tú tính lêu lổng thích cờ bạc, mẹ răn dạy rất nghiêm mà chứng nào tật ấy. Một hôm quan Học sứ về khảo hạch, Tú bị xếp hạng chót, mẹ uất ức khóc lóc bỏ ăn. Tú sợ hãi thẹn thùng, vào thề trước mặt mẹ, từ đó đóng cửa học tập hơn một năm, liền được xếp hạng ưu, cấp cho tiền gạo. Mẹ bảo Tú mở trường dạy học, nhưng rốt lại người ta vẫn dè bỉu vì việc Tú lêu lổng trước kia. Có người chú họ là Trương Mỗ buôn bán ở kinh tới rủ cùng đi, xin đưa Tú theo làm bạn, bao nhiêu phí tổn xin chịu hết, Tú mừng rỡ đi theo.
Tới Lâm Thanh (thuộc tỉnh Sơn Đông) ghé thuyền ngoài cửa quan. Lúc ấy thuyền buôn muối khắp nơi về tụ họp ở đó, cột buồm san sát như rừng. Tú đi nằm mà nghe tiếng nước vỗ, tiếng người nói cứ ì oạp râm ran, không sao ngủ được. Đến khuya chợt nghe thuyền bên cạnh có tiếng gieo xúc xắc rào rào, đâm ra ngứa nghề. Lắng nghe khách khứa trong thuyền đều đã ngủ say, lục túi lấy ra một ngàn đồng tiền định qua thuyền kia chơi một phen. Nhưng rón rén đứng lên mở túi cầm tới tiền rồi lại ngần ngừ, nhớ lời mẹ răn dạy lại thắt túi lại.
Vào giường nằm ngủ mà trong dạ bồn chồn không sao ngủ được, lại ngồi dậy cởi túi ra, cứ thế mấy lần, chợt thấy hăng lên không sao nhịn được nữa bèn cầm tiền qua thẳng thuyền kia. Vào tới khoang thì thấy hai người đang đánh bạc với nhau, tiền bạc đầy cả chiếu, bèn đặt tiền lên ghế ngồi vào cùng chơi. Hai người kia vui mừng, liền cùng gieo xúc xắc. Tú thắng lớn, một người khách hết sạch cả tiền bèn lấy đỉnh vàng lớn cầm cho chủ thuyền lấy hơn mười quan chơi tiếp. Đang lúc say máu sát phạt lại có một người bước vào thuyền, đứng nhìn hồi lâu rồi dốc túi ra trăm lượng vàng cầm cho chủ thuyền lấy tiền, ngồi vào cùng chơi.
Nửa đêm Trương tỉnh dậy, không thấy Tú trên thuyền, nghe tiếng gieo xúc xắc thì biết ngay, bèn qua thuyền bên cạnh, định gây sự để cản cháu. Tới nơi thì thấy dưới chân cháu tiền bạc chất đống như núi bèn không nói gì nữa, chỉ mang vài ngàn đồng quay về, gọi mọi người thức dậy qua vác tiền, chỉ để lại hơn mười ngàn trên chiếu bạc. Không bao lâu cả ba người khách đều thua, tiền bạc trong cả thuyền đều hết sạch. Khách muốn chơi bằng vàng, nhưng Tú thấy đã thắng nhiều rồi, bèn lấy cớ phải chơi bằng tiền để từ chối. Trương đứng bên cạnh lại cứ giục về.
Ba người khách cay cú, chủ thuyền tham món tiền xâu bèn qua thuyền khác vay giùm hơn một trăm ngàn đồng tiền. Khách có tiền đánh càng lớn, không bao lâu lại mất sạch về tay Tú. Trời đã sáng, chèo qua cửa quan rồi bèn cùng nhau vác tiền về thuyền, ba người khách cũng ra đi. Chủ thuyền nhìn lại số vàng hơn hai trăm lượng họ cầm thì đều là tro tàn, cả kinh tìm qua thuyền Tú kể lại, ý muốn Tú bồi thường, đến khi hỏi họ tên quê quán, biết là con trai Nhiệm Kiến Chi thì rụt cổ toát mồ hôi trở về.
Tú hỏi người chung quanh mới biết chủ thuyền chính là Thân Trúc Đình. Lúc Tú tới Thiểm Tây đã biết rõ tên họ y, đến đây vì ma quỷ đã rửa hờn nên cũng không hỏi tới oán cũ nữa. Bèn lấy số tiền ấy chung vốn cùng Trương lên kinh buôn bán, tròn năm thì thu lãi gấp mười. Bèn theo lệ nộp tiền mua chức Giám sinh, lại càng buôn may bán đắt, trong vòng mười năm trở nên giàu có đứng đầu một vùng.
031. Trương Thành (Trương Thành)
Họ Trương ở đất Dự (tỉnh Hà Nam), tổ tiên là người đất Tề (tỉnh Sơn Đông). Lúc quân Tĩnh Nạn* nổi lên, đất Tề đại loạn, vợ bị bắt đi. Trương vì vẫn lui tới đất Dự bèn ở luôn lại đó lấy vợ người đất Dự, sinh con trai là Nột. Không bao lâu vợ chết, lại lấy vợ kế, sinh con trai là Thành. Vợ kế họ Ngưu tính hung dữ, rất ghét Nột, nuôi như đầy tớ, cho ăn toàn rau, bắt đi đốn củi, mỗi ngày đòi phải đủ một gánh, không đủ thì đánh đập mắng nhiếc không sao chịu nổi. Chỉ cất giấu những thức ngon cho Thành ăn, sai tới trường học chữ.
*Quân Tĩnh Nạn: năm Kiến Văn thứ 2 (1400), Minh Huệ đế thấy các phiên vương phạm pháp định diệt trừ, Yên vương Chu Đệ là con thứ tư của Minh Thái tổ nhân đó nổi dậy kéo về vây kinh đô, tự xưng là quân dẹp nạn (Tĩnh Nạn binh), đánh đuổi Huệ đế tự lập làm vua, tức Minh Thành tổ.
Thành dần lớn lên, tính hiếu hữu, không nỡ thấy anh vất vả, lén khuyên can mẹ nhưng mẹ không nghe. Một hôm Nột vào núi đốn củi, chưa xong thì gặp mưa to gió lớn phải núp vào dưới vách núi. Mưa tạnh thì trời đã tối, đói quá bèn gánh củi về. Mẹ xem củi thấy ít, tức giận không cho ăn, bụng đói như thiêu vào phòng nằm vật ra. Thành đi học về thấy anh thẫn thờ hỏi ốm à, Nột đáp "Đói thôi". Thành hỏi nguyên do, Nột nói rõ sự tình. Thành buồn rầu bước ra, lát sau mang bánh vào cho anh. Anh hỏi bánh ở đâu ra, Thành nói "Em lấy trộm bột nhờ chị hàng xóm làm bánh giùm, cứ ăn đi đừng nói gì nữa". Nột ăn xong dặn em rằng "Từ sau đừng làm thế nữa, lộ ra thì liên lụy đến em. Vả lại ngày nhịn ăn một bữa thì có đói cũng không chết mà". Thành nói "Anh vốn yếu sức thì làm sao đốn củi nhiều được?".
Hôm sau ăn xong lén vào núi tới chỗ anh đốn củi. Anh nhìn thấy giật mình hỏi định làm gì, Thành đáp định hái củi giúp anh. Anh hỏi ai bảo làm thế, Thành đáp "Em tự tới thôi". Anh nói "Không kể là em không biết đốn củi, dẫu biết đi nữa thì cũng không nên!", rồi giục về ngay. Thành không nghe, cứ tay bẻ chân đạp hái củi giúp anh, lại nói ngày mai phải đem búa theo. Anh lại gần ngăn cản thì thấy ngón tay bị toạc, giày bị rách, buồn rầu nói "Em không về cho mau thì anh lấy búa tự chặt cổ mà chết đấy". Thành bèn về, anh đưa tới nửa đường mới quay lại đốn củi tiếp. Khi về ghé vào trường dặn thầy học rằng "Em ta còn nhỏ, thầy nên răn cấm chứ cọp beo trong núi dữ lắm". Thầy nói trước giờ Ngọ không biết Thành đi đâu, đã phạt đòn rồi. Nột về nói với Thành "Không nghe lời anh nên bị phạt đòn đấy". Thành cười nói không sao.
Hôm sau lại xách búa vào núi, anh hoảng sợ nói "Anh đã bảo em đừng tới, sao lại còn làm thế". Thành không đáp, cứ hăm hở chặt củi, mồ hôi chảy ròng ròng xuống mặt vẫn không nghỉ, khoảng đủ một ôm thì im lặng ra về. Thầy lại trách phạt, Thành bèn nói thật. Thầy khen là hiền, cũng không ngăn cấm nữa. Anh nhiều lần bảo thôi nhưng rốt lại Thành vẫn không nghe. Một hôm hai anh em cùng vài người đốn củi trong núi thì chợt có con cọp tới, mọỉ người sợ hãi nằm mọp xuống, cọp vồ Thành mang đi. Cọp mang người nên đi chậm, bị Nột đuổi kịp, hết sức chém một búa trúng đùi. Cọp đau quá vùng chạy không đuổi tìm được nữa, Nột đau xót kêu khóc quay về. Mọi người an ủi, Nột càng khóc lóc thảm thiết, nói "Em ta chẳng phải như em người khác, huống chi nó vì ta mà chết, ta làm sao sống được?". Bèn lấy búa tự chặt vào cổ, mọi người vội can thì đã đứt sâu vào thịt một tấc, máu phụt ra lênh láng, hoa mắt ngất đi. Mọi người sợ hãi xé áo buộc vết thương cho rồi xúm lại dìu về. Mẹ khóc chửi "Ngươi giết con ta, lại muốn chặt cổ để thoát tội à?" Nột rên rỉ nói "Xin mẹ đừng lo phiền, em chết thì ta quyết không sống đâu".
Đặt lên giường, vết thương đau đớn không ngủ được, ngày đêm cứ ngồi dựa vào tường mà khóc. Cha sợ Nột cũng chết, lúc lúc tới cạnh giường đút cho ăn uống qua loa, Ngưu thị lại chửi rủa. Nột bèn không chịu ăn nữa, ba ngày thì chết. Trong làng có thầy đồng xuống âm ty về, Nột gặp giữa đường bèn kể lể nỗi khổ trước đây, nhân hỏi chỗ em ở. Thầy đồng nói không biết, rồi quay lại dẫn Nột đi. Tới một nơi đô hội, thấy một người mặc áo đen trong thành ra, thầy đồng giữ lại hỏi thăm giùm, người áo đen xem kỹ lại tập trát trong túi thấy có hơn một trăm đàn ông đàn bà nhưng không có ai họ Trương. Thầy đồng ngờ rằng ở tập trát khác, người áo đen nói "Con đường này thuộc về ta, làm sao có chuyện bắt lầm?" Nột không tin, ép thầy đồng đưa vào thành. Trong thành ma cũ ma mới đi lại đông đúc, cũng có người quen cũ nhưng tới hỏi đều không ai biết.
Chợt mọi người cùng nhao nhao nói Bồ Tát tới, ngẩng nhìn thấy trong mây có một người to lớn, ánh hào quang rực rỡ khắp trên dưới, chợt cảm thấy trời đất quang đãng. Thầy đồng chúc mừng nói "Đại Lang có phúc thật! Bồ Tát mấy ngàn năm mới xuống âm ty một lần để rửa sạch khổ não, đúng hôm nay lại được gặp", rồi kéo Nột quỳ xuống. Bọn quỷ cũng nhao nhao quỳ xuống chắp tay cùng tụng niệm, tiếng "Từ bi cứu khổ" vang rền. Bồ Tát lấy cành dương nhúng nước cam lộ rẩy khắp nơi, li ti như bụi sương. Giây lát hơi mù tan đi, hào quang thu lại thì không thấy Bồ Tát ở đó nữa. Nột thấy trên cổ thấm ướt cam lộ, chỗ búa chặt không còn đau nữa. Thầy đồng lại theo đường cũ đưa Nột về, khi nhìn thấy cổng làng mới từ biệt mà đi.
Nột chết đã hai ngày chợt sống lại, kể lại nhũng việc đã gặp, nói Thành chưa chết, mẹ cho là bịa đặt lại mắng chửi. Nột oan ức không biết làm sao giãi bày, sờ tới vết thương thì đã lành, cố gượng đứng dậy chào cha, nói "Con sẽ băng mây vượt biển tìm em, nếu không thấy thì đừng mong con quay về, xin cha cứ coi như con đã chết". Cha đưa ra chỗ vắng cùng nhau khóc lóc, không dám giữ lại. Nột bèn ra đi, cứ theo đường lớn hỏi thăm tin tức em. Giữa đường tiền ăn hết sạch, phải ăn mày mà đi. Hơn một năm tới Kim Lăng, áo quần rách rưới lần mò trên đường, chợt thấy hơn mười kỵ mã đi qua liền tránh sang vệ đường. Trong bọn có một người như quan lớn, tuổi khoảng bốn mươi, lính mạnh ngựa khỏe xúm xít trước sau. Có một thiếu niên cưỡi con ngựa nhỏ, mấy lần nhìn Nột. Nột thấy là công tử con quan chưa dám ngẩng nhìn, thiếu niên dừng roi ghìm ngựa, chợt xuống ngựa gọi to "Có phải anh ta không?". Nột ngước nhìn kỹ thì ra là Thành, nắm tay đau xót khóc lạc cả tiếng. Thành cũng khóc nói "Sao anh phải lưu lạc đến thế này?". Nột kể sự tình, Thành càng đau xót. Bọn kỵ mã đều xuống hỏi duyên do rồi bẩm lại với quan lớn. Quan sai bớt ra một con ngựa chở Nột, cùng nhau về nhà mới hỏi chuyện tường tận.
Trước là cọp tha Thành đi đặt ở vệ đường lúc nào không biết, nằm giữa đường suốt một đêm. Gặp lúc Trương Thiên hộ từ kinh đô tới đi ngang qua, thấy Thành mặt mày nho nhã, thương xót vực lên vỗ về. Thành dần sống lại, nói nhà cửa quê quán thì đã quá xa, nên chở Thành cùng về bó thuốc cho, vài ngày thì khỏi. Thiên hộ không có con trai nên nhận Thành làm con, đại khái hôm đó là gặp lúc Thành theo ông dạo chơi. Thành kể lại với anh xong thì Thiên hộ vào, Nột lạy tạ không thôi. Thành vào trong lấy áo lụa ra biếu anh rồi bày rượu trò chuyện.
Thiên hộ hỏi quý gia ở đất Dự có đông người không, Nột nói "Không có mấy người. Cha ta lúc nhỏ là người đất Tề, tới ngụ ở đất Dự" Thiên hộ "Ta cũng người Tề, quý quán thuộc hạt nào?". Nột đáp "Từng nghe cha ta nói thuộc huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông)" Thiên hộ giật mình hỏi "Cùng quê với ta rồi, thế tại sao lại tới ở đất Dự?". Nột nói "Mẹ già bị quân bắt đi, cha ta gặp binh lửa mất sạch cả gia sản, vì trước từng buôn bán ở miền Tây, qua lại đã quen nên ở luôn lại đó. Thiên hộ lại giật mình hỏi lệnh tôn tên gì, Nột đáp rõ. Thiên hộ tròn mắt nhìn rồi cúi đầu như ngờ vực, bước mau vào nhà trong.
Không bao lâu Thái phu nhân ra, mọi người lạy chào xong, bà hỏi Nột "Ngươi là cháu nội Trương Bính Chi phải không?". Nột thưa "Phải". Thái phu nhân khóc lớn nói với Thiên hộ "Đây là em ngươi đấy!", anh em Nột không hiểu ra sao. Thái phu nhân nói "Ta lấy cha các ngươi ba năm, lưu lạc sang Bắc, thuộc về quan Chỉ huy Mỗ, được nửa năm sinh anh ngươi. Lại nửa năm thì Chỉ huy chết, anh ngươi nhờ phụ ấm thăng lên chức quan này, nay giải chức rồi vẫn canh cánh nhớ quê hương, đã lấy lại họ cũ, nhiều lần cho người tới đất Tề hỏi thăm mà không có tin tức gì, có biết đâu là cha ngươi đã dời sang miền Tây!". Rồi nói với Thiên hộ "Ngươi nuôi em làm con thì giảm phúc mà chết thôi". Thiên hộ nói "Trước có hỏi Thành, Thành thưa từng nói là người Tề, chắc là còn nhỏ dại nên không biết". Bèn theo tuổi xếp đặt lại, Thiên hộ bốn mươi mốt tuổi làm anh lớn, Thành mười sáu tuổi là út, Nột hai mươi thì là anh lớn mà thành anh hai. Thiên hộ được hai em mừng lắm, ăn ngủ đều có nhau, biết hết nguyên do chia lìa lưu lạc, tính chuyện trở về. Thái phu nhân sợ bà vợ kế không dung, Thiên hộ nói "Dung được thì ở chung, nếu không thì ở riêng, chứ trong thiên hạ có nước nào mà lại không có tình cha con".
Rồi đó bán nhà đất sắm hành lý lập tức lên đường. Tới đầu làng Nột và Thành chạy về trước báo tin cho cha. Cha từ lúc Nột bỏ đi, vợ cũng chết, chỉ còn một ông già góa vợ một mình một bóng. Chợt thấy Nột vào, mừng đến thảng thốt, đang còn giật mình lại nhìn thấy Thành, mừng quá không nói nên lời, nước mắt giàn giụa. Hai người nói mẹ con Thiên hộ tới, ông nín khóc ngạc nhiên không biết là vui hay buồn, đứng ngẩn người ra.
Không bao lâu Thiên hộ vào, lạy chào xong Thái phu nhân nắm lấy tay ông nhìn nhau cùng khóc. Kế thấy tôi tớ trai gái đứng đầy trong ngoài, người ngồi kẻ đứng, không còn biết làm gì nữa. Thành không thấy mẹ liền hỏi mới biết mẹ đã chết, gào khóc muốn đứt hơi, một lúc mới tỉnh lại. Thiên hộ lấy tiền ra xây dựng lầu gác, đón thầy về dạy hai em học, ngựa hí ran trong tàu, người ồn ào trong nhà, nghiễm nhiên là một đại gia.
Dị Sử thị nói: Ta nghe hết chuyện này, mấy lần sa lệ. Thấy đứa trẻ hơn mười tuổi đốn củi giúp anh, cảm khái nói "Lại thấy lại Vương Giám* chăng?", đó là một lần. Tới đoạn cọp tha Thành đi không kìm được bật kêu ầm lên "Đạo trời mịt mờ như thế sao!", đó là một lần. Tới đoạn anh em bất ngờ gặp nhau thì mừng mà cũng sa lệ. Tới đoạn thêm được một người anh, lại thêm một nỗi đau lòng, thì sa lệ vì Thiên hộ. Tới đoạn một nhà sum họp, kinh ngạc bất ngờ, mừng rỡ bất ngờ, bỗng dưng sa lệ vì người cha. Không biết đời sau có ai mau nước mắt như ta hay không!
*Vương Giám: Hậu Hán thư, Vương Tường truyện chép Vương Tường chí hiếu nhưng mẹ kế rất độc ác luôn hành hạ. Em cùng cha khác mẹ của Tường là Giám rất thương anh, lúc nhỏ thấy anh bị đánh đập thì ôm mẹ kêu khóc, khi lớn có lần biết mẹ toan cho anh uống rượu độc thì giành lấy chén rượu toan uống. Mẹ mấy lần toan đầu độc Tường, Giám biết cứ ăn uống chung với anh, mẹ sợ con chết đành thôi.
032. Xảo Nương (Xảo Nương)
Quảng Đông có nhà thế gia họ Phó hơn sáu mươi tuổi sinh được một trai tên Liêm, rất thông minh nhưng bị trời hoạn, mười bảy tuổi mà dương vật chỉ mới bằng con tằm. Xa gần biết chuyện, không nhà nào chịu gả con gái cho, tự nghĩ dòng dõi đã tuyệt, ngày đêm lo lắng nhưng không biết làm sao. Liêm theo thầy đọc sách, thầy ngẫu nhiên đi vắng, gặp lúc ngoài cửa có gánh xiếc khỉ, Liêm ra xem bỏ cả học. Đến chừng đoán thầy sắp về, sợ hãi bèn bỏ trốn.
Rời nhà được mấy dặm thấy một nữ lang áo trắng dắt đứa tỳ nữ nhỏ đi phía trước, một lần nàng quay lại, thấy xinh đẹp không ai sánh được. Nàng đi chậm lại, Liêm đi vượt lên thì nàng quay qua nói với đứa tỳ nữ "Thử hỏi xem lang quân có tới Quỳnh Châu (huyện thuộc Quang Đông) không". Đứa tỳ nữ gọi lại hỏi, Liêm hỏi có việc gì. Cô gái đáp "Nếu đi Quỳnh Châu thì có lá thư phiền chàng tiện đường đưa giúp về nhà. Mẹ già ta ở nhà cũng là người hiếu khách". Liêm lúc ra đi vốn cũng chưa định đi đâu, nghĩ ra biển cũng hay, bèn nhận lời. Cô gái rút thư đưa tỳ nữ trao cho sinh. Hỏi họ tên quê quán thì nàng đáp là họ Hoa, ở làng gái Tần cách phía bắc thành ba bốn dặm.
Sinh đáp thuyền đi, tới phía bắc huyện thành Quỳnh Châu thì trời đã tối, hỏi thăm thôn gái Tần lại không ai biết. Đi về hướng bắc bốn năm dặm thì trăng sao hiện sáng, cỏ dại mút mắt, đồng không chẳng có quán trọ, rất là mệt mỏi. Nhìn thấy một ngôi mộ bên đường, muốn nghỉ lại nhưng sợ thú dữ bèn leo lên cây ngồi. Nghe tiếng thông reo xào xạc, côn trùng tỉ tê, trong lòng thảng thốt, hối hận vô cùng. Chợt nghe có tiếng người phía dưới, cúi nhìn thì rõ ràng là một nơi đình viện, có một cô gái xinh đẹp ngồi trên phiến đá, hai tỳ nữ xõa tóc cầm đèn lồng đứng hai bên. Người đẹp quay qua bên trái nói "Đêm nay trăng sáng sao thưa, gói trà cô Hoa vừa tặng có thể đem pha một ấm uống ngắm cảnh đêm thanh". Sinh nghĩ là ma quỷ, rùng mình sởn ốc khống dám thở mạnh. Chợt đứa tỳ nữ ngẩng nhìn nói "Trên cây có người" Cô gái giật mình đứng vụt dậy nói "Đứa lớn mật nào dám tới đây nhìn trộm thế!". Sinh cả sợ, không còn chỗ trốn đành tụt xuống, phục xuống đất xin tha. Cô gái tới gần nhìn qua chợt đổi giận làm vui, kéo dậy cùng ngồi. Sinh liếc nhìn, thấy nàng khoảng mười bảy mười tám, vẻ người xinh đẹp có một, nghe giọng nói cũng không phải người ở đây. Nàng hỏi chàng đi đâu, sinh đáp có người nhờ đưa giúp lá thư. Nàng nói "Đồng hoang nhiều người xấu, nằm sương rất đáng lo, nếu không hiềm nhà tranh, mời vào nghỉ tạm", rồi đưa sinh vào nhà.
Chỉ có một chiếc giường, nàng sai con hầu sắp hai tấm chăn lên. Sinh thẹn mình xấu xa xin nằm dưới đất, nàng cười đáp "Khách quý đến nhà, con gái đâu dám nằm cao". Sinh bất đắc dĩ phải nằm chung giường, nhưng trong lòng sợ sệt không dám trở mình. Giây lát cô gái luồn tay qua chăn xoa nhẹ vào đùi sinh, sinh giả như ngủ say không biết. Lát sau nàng lại mở chăn ra chui qua lay, sinh vẫn nằm yên không động. Nàng bèn sờ xuống chỗ kín rồi dừng tay buồn bã, lạng lẽ giở chăn trở dậy, kế nghe tiếng khóc thút thít. Sinh xấu hổ không sao chịu nổi, chỉ giận trời bắt mình phải khuyết tật mà thôi. Cô gái gọi tỳ nữ thắp đèn, tỳ nữ thấy ngấn lệ kinh ngạc hỏi buồn khổ chuyện gì, nàng lắc đầu đáp "Ta tự xót phận mình thôi!"
Đứa tỳ nữ đứng trước giường nhìn chằm chằm, nàng nói "Gọi y dậy bảo đi đi!". Sinh nghe thế càng thêm xấu hổ, lại lo đêm hôm tối tăm không biết đi đâu. Đang nghĩ ngợi thì một người đàn bà đẩy cửa bước vào, đứa tỳ nữ nói "Cô Hoa đã về". Sinh hé mắt nhìn trộm thấy bà ta tuổi khoảng năm mươi nhưng còn phong vận. Bà thấy cô gái chưa ngủ liền hỏi duyên cớ, nàng chưa đáp, lại thấy trên giường có người nằm, bèn hỏi ai nằm cùng giường. Đứa tỳ nữ đáp thay là lúc tối có một chàng trai tới xin ngủ nhờ, bà ta cười nói "Không biết là Xảo Nương vui đuốc hoa" Chợt thấy cô gái nước mắt chưa khô, bà giật mình nói "Đêm hợp cẩn mà buồn khóc thì không hợp, không lẽ lang quân thô bạo sao?". Cô gái không đáp, càng thêm buồn bã.
Người đàn bà định kéo áo ra nhìn sinh, vừa kéo thì lá thư rơi ra giường, bà ta cầm lấy nhìn rồi hoảng sợ nói "Có lẽ là chữ con gái ta" kế mở đọc rồi thở dài. Cô gái hỏi, bà ta đáp "Đây là thư của con Ba báo tin chàng Ngô chồng nó đã chết, nay nó trơ trọi không nơi nương tựa, biết làm thế nào". Cô gái nói "Y có nói là đưa thư giúp ai đó, may mà ta chưa đuổi đi". Bà già gọi sinh dậy, hỏi rõ nguyên ủy lá thư, sinh kể rõ, bà nói "Làm phiền lặn lội xa xôi, biết lấy gì báo đáp". Lại ngắm kỹ sinh rồi cười hỏi sao lại làm trái ý Xảo Nương, sinh đáp không biết mình có tội gì. Bà lại hỏi cô gái, nàng than "Chỉ thương cho mình lúc sống lấy phải thằng chồng liệt dương, khi chết lại ngủ với đứa bị thiến, vì thế mà buồn thôi".
Bà già nhìn sinh nói "Chú nhỏ thông minh lanh lợi này là trống mà hóa ra lại là mái sao? Đây là khách của ta, không nên làm lụy người ta lâu". Liền dẫn sinh qua phòng phía đông, sờ xuống đũng quần khám rồi cười nói "Chẳng trách Xảo Nương lại khóc lóc. Nhưng may vẫn có cuống rễ, còn chữa được". Bèn khêu đèn tìm khắp rương hòm lấy ra một viên thuốc màu đen trao cho sinh bảo nuốt ngay, lại dặn nhỏ rằng đừng cử động, rồi đi ra. Sinh nằm một mình nghĩ ngợi không biết thuốc chữa bệnh gì. Khoảng canh năm tỉnh dậy, thấy dưới rốn có một luồng hơi nóng xông thẳng vào chỗ kín, lại lủng lẳng như có vật gì treo giữa hai đùi, tự sờ xem thì mình đã là đàn ông hẳn hoi, trong lòng mừng quýnh như vị quan chợt được ban cửu tích*.
*Cửu tích: chín loại vật dụng và nghi thức như xe ngựa, y phục, nhạc khí, cửu được sơn son, ra đường có quân hổ bôn hộ vệ... theo nghi lễ vương giả , ý nói được phong tước vương.
Khi ngoài song cửa sổ đã sáng thì người đàn bà bước vào đem bánh hấp cho sinh, dặn cố ngồi yên rồi khóa cửa ra ngoài nói với Xảo Nương "Y vất vả mang thư tới, hãy giữ lại gọi Tam Nương về cho nó kết nghĩa chị em, nên phải đóng cửa cho người ta khỏi buồn chán" kế ra cửa đi. Sinh quanh quẩn trong phòng buồn quá, cứ tới khe cửa nhìn ra như con chim ngóng ra ngoài lồng, nhìn thấy Xảo Nương cũng muốn gọi để nói rõ sự tình, nhưng thẹn vì khó nói lại thôi. Chờ đến khuya người đàn bà mới dẫn con gái về, mở cửa nói "Để lang quân buồn chết mất rồi. Tam Nương vào cám ơn đi". Cô gái gặp trên đường trước kia rụt rè bước vào khép nép nhìn sinh, người đàn bà bảo gọi nhau bằng anh em. Xảo Nương cười nói "Gọi là chị em gái cũng được". Rồi cùng ra phòng khách ngồi quây quần uống rượu.
Uống được một lúc, Xảo Nương hỏi đùa người hoạn thấy sắc có động lòng không, sinh đáp "Người què không quên giày, người lòa không quên ngó" mọi người cười rộ. Xảo Nương vì Tam Nương đi đường mệt nhọc ép phải đi nghỉ. Người đàn bà quay nhìn Tam Nương bảo nằm chung với sinh. Tam Nương đỏ bừng mặt không chịu. Người đàn bà nói "Đây là trượng phu đội khăn mặc yếm thôi, sợ gì chứ?". Rồi giục hai người đi ngủ, ngầm dặn sinh rằng "Trong thì làm rể nhưng ngoài làm con ta là được". Sinh mừng rỡ, nắm tay nàng dắt lên giường, dao sắc mới mài đem thử lần đầu, khoái trá thế nào có thể biết rõ. Kế hỏi Xảo Nương là ai, cô gái đáp "Là ma đấy. Tài sắc vô song nhưng số mệnh lận đận, lấy tiểu lang nhà họ Mao bị liệt dương, mười tám tuổi đầu vẫn chẳng ra con người nên ấm ức không vui, ôm hận mà chết". Sinh thất kinh, ngờ Tam Nương cũng là ma. Nàng nói "Nói thật với chàng, thiếp không phải là ma mà là hồ. Xảo Nương sống lẻ loi một mình mà mẹ con thiếp không có nhà nên tới ở nhờ". Sinh rất kinh ngạc, nàng nói "Đừng sợ, tuy là ma là hồ, nhưng không gây họa cho nhau đâu".
Từ đó hàng ngày thường cùng nhau chuyện trò yến ẩm, sinh tuy biết Xảo Nương không phải là người nhưng lòng vẫn yêu mến nhan sắc, chỉ hận không có dịp tự hiến thân. Sinh học hành uẩn súc, giỏi đùa cợt pha trò, nên Xảo Nương rất thương mến. Một hôm mẹ con họ Hoa đi vắng, lại đóng cửa nhốt sinh trong phòng. Sinh buồn bực đi loanh quanh rồi đứng cách vách gọi Xảo Nương. Xảo Nương sai tỳ nữ lấy chìa khóa thử mấy lần thì cửa mở, sinh ghé tai xin gặp riêng. Xảo Nương bảo tỳ nữ đi ra, sinh liền kéo nàng lên giường nằm sát vào. Nàng đùa đưa tay sờ xuống phía dưới rốn nói "Tiếc thay, chỗ này lại thiếu mất rồi" Chưa dứt lời thì tay vớ phải một nắm, giật mình nói "Sao trước vắng vẻ mà chợt đã bấy nhiêu thế?" Sinh cười đáp "Trước thấy người xấu hổ nên rụt lại, nay bị phỉ báng không chịu nổi nên làm con ếch tức giận phình ra đấy thôi" rồi cùng nhau giao hoan.
Xong xuôi nàng căm tức nói "Nay mới biết vì sao đóng cửa. Trước đây mẹ con họ lênh đênh không nhà, đã nhường nhà cho ở, Tam Nương theo học thêu thùa thiếp cũng không từng giấu diếm gì, mà lại ganh ghét như thế" Sinh kể thật mọi chuyện để khuyên giải nhưng Xảo Nương vẫn hậm hực. Sinh nói "Phải giữ kín đấy, Hoa Cô dặn ta kỹ lắm". Chưa dứt lời thì Hoa Cô đã đẩy cửa bước vào, hai người vội vàng nhỏm dậy. Hoa Cô trừng mắt hỏi ai mở cửa, Xảo Nương cười nhận là mình. Hoa Cô càng tức giận, quát mắng không thôi. Xảo Nương nhếch mép cười nói "Bà già này thật là buồn cười, là trượng phu đội khăn mặc yếm mà thế à?" Tam Nương thấy mẹ và Xảo Nương cứ khích bác nhau, lấy làm áy náy bèn đứng ra can ngăn, đôi bên mới đổi giận làm lành. Xảo Nương lời lẽ dẫu gay gắt nhưng từ đó đã nhún mình chiều chuộng Tam Nương, chỉ vì Hoa Cô ngày đêm ráo riết canh giữ nên đôi lòng không sao bày tỏ, chỉ biết liếc mắt gởi tình mà thôi.
Một hôm Hoa Cô nói với sinh "Cả hai chị em nó đều đã hầu hạ chàng, nhưng sống ở đây không phải là hay, chàng nên về trình với cha mẹ để sớm tính chuyện trăm năm", rồi sắm sửa hành trang giục sinh lên đường. Hai cô gái nhìn nhau buồn rầu, mà Xảo Nương càng như không chịu nổi, nước mắt chảy ròng ròng không dứt. Hoa Cô ngăn họ lại rồi đưa sinh ra, tới ngoài cổng thì nhà cửa đã biến mất cả, chỉ thấy một ngôi mộ hoang. Hoa Cô đưa sinh lên thuyền, nói "Chàng đi rồi lão thân cũng sẽ dắt hai con gái tới ngụ ở quý huyện, nếu không quên duyên cũ thì xin ở trong khu vườn hoang nhà họ Lý đợi làm lễ nghênh hôn" sinh bèn trở về.
Lúc ấy ông Phó tìm kiếm con trai không được đang nóng ruột lo lắng, thấy con về vô cùng mừng rỡ. Sinh kể lại vắn tắt đầu đuôi, nói cả việc họ Hoa hẹn ước. Cha nói "Lời yêu quái làm sao tin được. Ngươi sở dĩ sống sót về được là nhờ bị tật nguyền, không thì chết rồi". Sinh đáp "Họ tuy khác loài nhưng tình nghĩa cũng như người, lại thông minh xinh đẹp, có cưới cũng không sợ họ hàng làng xóm chê cười". Cha không đáp chỉ cười nhạt, sinh bèn lui ra. Nhưng ngứa nghề không chịu ở yên, bèn tư thông với đứa tỳ nữ, dần dần giữa ban ngày cũng công nhiên hành dâm, cố ý cho cha mẹ biết. Một hôm bị đứa tỳ nữ nhỏ nhìn trộm thấy chạy vào báo với mẹ, mẹ không tin tới xem mới giật mình, gọi đứa tỳ nữ hỏi kỹ mới biết rõ. Bà mừng quá gặp ai cũng rêu rao để tỏ ra là con mình không có tật, định hỏi cưới con nhà thế gia. Sinh thưa riêng với mẹ là không phải nhà họ Hoa thì không cưới, mẹ nói "Trên đời thiếu gì gái đẹp, cần gì phải cưới yêu ma". Sinh nói "Con mà không gặp Hoa Cô thì đâu biết được mùi đời, phụ bạc họ không hay đâu".
Ông Phó nghe lời, cho một người tớ trai và một vú già tới dò xem. Họ ra khỏi cửa Đông bốn năm dặm tìm được khu vườn hoang của nhà họ Lý, thấy trong đám tre trúc bên chỗ tường thấp đổ nát có làn khói bốc lên. Bà vú trèo qua tường đi thẳng tới cửa thì thấy mẹ con đang quét tước dọn dẹp như có ý chờ ai. Bà vú vái chào thưa lời chủ dặn, nhìn thấy Tam Nương thì giật mình nói "Đây là bà chủ nhỏ của nhà ta sao? Ta nhìn thấy còn thương, không trách công tử cứ đêm ngày nhớ nhung" Hỏi tới cô chị, Hoa Cô thở dài than "Đó là con gái nuôi của ta, ba hôm trước đây bị bạo bệnh chết rồi" Nhân đem rượu thịt ra thết đãi. Bà vú và người tớ trai về kể rõ dung mạo cử chỉ của Tam Nương, ông bà Phó đều vui mừng. Sau cùng mới báo tin Xảo Nương mất, sinh đau xót rơm rớm nước mắt. Đêm rước dâu sinh gặp Hoa Cô đích thân hỏi lại, Hoa Cô cười đáp "Đã đầu thai ở đất Bắc rồi", sinh than thở hồi lâu. Cưới Tam Nương rồi mà vẫn không sao quên được Xảo Nương, cứ nghe có ai ở Quỳnh Châu tới đều cho gọi tới hỏi chuyện.
Có người nói dưới mộ nàng họ Tần đêm đêm có tiếng ma khóc, sinh lấy làm lạ vào nói với Tam Nương. Tam Nương trầm ngâm hồi lâu rồi sa nước mắt nói "Em phụ chị rồi!". Sinh gạn hỏi, nàng cười đáp "Lúc mẹ con thiếp đi thật không có nói cho chị ấy biết, tiếng kêu khóc đó chắc là của chị ấy thôi. Trước đã định nói thật với chàng, nhưng lại sợ phơi bày lỗi của mẹ" Sinh nghe thế buồn xong lại vui, lập tức sai sắp sửa xe kiệu ngày đêm đi gấp tới mộ nàng, gõ vào bia mộ gọi to "Xảo Nương! Xảo Nương! Ta ở đây!". Giây lát thấy cô gái bế một đứa nhỏ từ mộ bước ra, mắt nhìn ai oán không thôi, sinh cũng rơi lệ. Sờ vào bọc hỏi con ai, Xảo Nương đáp "Đây là cái mầm oan nghiệt của chàng để lại đấy, được ba ngày rồi". Sinh nói "Lầm nghe lời Hoa Cô khiến mẹ con phải ôm mối lo dưới đất, tội thật không tha được".
Rồi cùng lên xe vượt biển về, bế con vào thưa với mẹ. Mẹ nhìn đứa nhỏ thấy khôi ngô khỏe mạnh không giống ma quỷ càng vui mừng. Hai nàng sống hòa thuận, thờ cha mẹ chồng rất có hiếu. Về sau ông Phó bị bệnh, mời thầy thuốc tới, Xảo Nương nói "Bệnh không làm gì được nữa, vì hồn đã lìa khỏi xác", rồi đôn đốc lo đồ táng liệm, vừa xong thì ông mất. Đứa nhỏ lớn lên rất giống cha mà còn thông minh hơn, mười bốn tuổi đã vào học trường huyện. Ông Cao Bưu hiệu Tử Hà tới đất Quảng nghe chuyện này, nhưng tên làng xóm thì quên mất và không rõ chung cục ra sao.
033. Trị Hồ (Phục Hồ)
Thái sử Mỗ bị hồ quấy phá bệnh nặng, cầu đảo hết cách vẫn không khỏi phải xin nghỉ quan về làng, nghĩ rằng có thể trốn được. Song trên đường về vẫn bị hồ theo, sợ hãi lắm mà không biết làm sao. Một hôm tới ngoài huyện Trác Môn (tỉnh Hà Bắc), nghe nói có người thầy thuốc tự xưng có thể trị được hồ. Thái sử bèn tìm tới xin thuốc, thì ra là loại thuốc dùng vào việc trong phòng. Bèn lập tức uống vào, tối đến ngủ với hồ, mạnh mẽ lợi hại vô cùng. Hồ run sợ nài nỉ xin thôi, nhưng ông không nghe, càng làm bạo hơn, hồ vùng vẫy lăn lộn mãi vẫn không giật ra được. Lát sau im bặt, nhìn lại thì đã hiện nguyên hình là hồ mà chết rồi.
Mỗ ở hương ta vốn có sở trường của Lao ái*, thường nói bình sinh chưa được lần nào thật thỏa mãn. Một đêm ngủ lại ở một quán trọ lẻ loi, chung quanh không có hàng xóm, chợt có người con gái tìm tới, cửa chưa mở đã lọt vào trong phòng. Y biết là hồ, nhưng cũng vui vẻ cùng giao hoan, vừa cởi quần áo ra đã chọc thẳng vào. Hồ đau quá kêu thét lên, giật ra như chim ưng thoát xiềng nhảy ra cửa sổ bỏ chạy. Y còn đuổi tới cửa sổ nhìn theo, lấy giọng đùa cợt gọi rất ai oán, nghĩ rằng hồ sẽ quay lại, nhưng đã chạy biệt tăm. Đó thật là bậc tướng mạnh trị hồ, nếu treo bảng nhận trị hồ thì có thể sống bằng nghề ấy vậy.
*Lao ái: người nước Tần cuối thời Chiến quốc, nổi tiếng vô hạnh, chuyên quyến rũ đàn bà con gái, sau được Tướng quốc Lữ Bất Vi tiến cử làm nhân tình cho mẹ Tần vương Chính (tức Tần Thủy Hoàng). Tương truyền ái có vật kín rất dị thường, từng có lần đùa giỡn lấy làm trục bánh xe, quay tít bánh xe mà không hề đau đớn!
034. Ba Vị Tiên (Tam Tiên)
Có người học trò lên Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) thi, đi ngang huyện Túc Thiên (tỉnh Giang Tô) gặp ba vị Tú tài. Cùng nhau trò chuyện, thấy đều khoáng đạt hơn đời, rất thích bèn mua rượu mời họ cùng uống. Trong lúc thù tạc, ba người đều xưng tên họ, một là Giới Thu Hành, một là Thường Phong Lâm, một là Ma Tây Trì. Mê mải chuyện trò với nhau, trời tối lúc nào không hay, Giới nói "Chưa làm phận sự chủ nhà lại được cho uống rượu, theo lẽ rất là không phải. Nhà cỏ cách đây không xa, xin mời tới đó nghỉ lại". Thường và Ma cũng đứng dậy kéo áo mời mọc, người học trò bèn gọi đầy tớ cùng đi theo.
Tới chỗ núi phía bắc làng, chợt thấy đình viện, ngoài cổng có dòng nước chảy quanh. Vào bên trong thì thấy nhà cửa rất sạch sẽ, chủ nhân gọi trẻ thắp đèn, lại sai đưa người đầy tớ đi nghỉ. Ma nói "Trước vẫn lấy văn chương họp bạn, nay đã gần đến ngày thi, không nên bỏ phí đêm đẹp. Xin nghĩ ra bốn đề bài, mỗi người rút thăm lấy một, làm văn xong hãy uống rượu. Mọi người theo lời, mỗi người nghĩ ra một đề bài, viết đặt lên bàn, ai rút được đề nào thì tới bàn riêng suy nghĩ mà làm. Chưa hết canh hai tất cả đều làm xong, đưa cho nhau lần lượt xem. Người học trò đọc văn của ba người rất khâm phục, bèn chép lại cất đi. Chủ nhân đưa rượu ngon ra mời khách, rót chén lớn uống liên tiếp, không biết say là gì. Khách từ tạ không uống nữa, chủ nhân cũng chiều lòng, đưa vào một phòng riêng. Người học trò say quá, cứ mặc áo mang giày nằm xuống ngủ thẳng.
Đến khi tỉnh dậy thì mặt trời đã mọc cao, nhìn bốn bên chẳng thấy có nhà cửa phòng ốc gì, chỉ có hai chủ tớ nằm trong hốc núi. Người học trò hoảng sợ vội gọi đầy tớ dậy. Nhìn ra thấy bên cạnh có một cái động, trong có dòng nước cuồn cuộn chảy ra, ngờ rằng mình nằm mơ, nhưng tìm lại trong bọc thì ba bài văn chép lại vẫn còn. Xuống tới dưới núi hỏi dân ở đó, mới biết đó là động Tam tiên, trong động có ba con vật là cua, rắn và ễnh ương rất linh thiêng, hay ra ngoài chơi, thỉnh thoảng họ vẫn trông thấy. Khi người học trò vào thi, đề bài ra đều trùng với ba bài mà tiên đã làm, nhờ vậy được đỗ đầu.
035. Khúc Hát ếch (Oa Khúc)
Vương Tử Tốn nói lúc ở kinh đô, từng thấy một người diễn trò ở chợ, mang một cái hộp đóng theo cách thức riêng, có mười hai cái lỗ, dưới mỗi lỗ có một con ếch nằm, lấy cái thước nhỏ gõ lên đầu thì kêu lên ồm ộp. Có ai cho tiền thì gõ loạn lên đầu bầy ếch như đánh thanh la, khúc điệu cung bậc nghe rất rõ ràng.
036. Màn Kịch Chuột (Thử Hý)
Lại nói có một người ở chợ huyện Trường An (tỉnh Thiểm Tây) diễn trò bằng chuột, trên lưng đeo một cái túi trong chứa hơn chục con. Mỗi khi tới nơi đông người thì lấy ra một cái giá nhỏ bằng gỗ đặt lên vai, giống như sàn diễn kịch. Rồi vỗ cái trống gỗ, hát vở tạp kịch xưa, khi tiếng hát trỗi lên thì chuột ở trong cái túi bò ra, mang mặt nạ, mặc quần áo, từ lưng y leo lên sàn diễn, đứng hai chân múa may, con làm đào con làm kép, khi vui vẻ lúc buồn rầu đều ăn khớp với thứ tự lớp lang trong vở kịch.
037. Con Cọp ở Triệu Thành (Triệu Thành Hổ)
Có bà già ở huyện Triệu Thành (tỉnh Sơn Tây) hơn bảy mươi tuổi chỉ có một người con trai. Một hôm y vào núi bị cọp vồ chết, bà già đau đớn chết đi sống lại, kêu khóc tới kiện với quan huyện. Quan huyện cười nói "Cọp thì làm sao lấy phép quan mà trị tội đưục?" Bà glà càng kêu khóc thảm thiết, không làm sao cho bà ta im đi được. Quan huyện tức giận quát tháo cũng không sợ hãi, lại thương xót bà ta già cả, bèn hứa sẽ bắt cọp trị tội. Nhưng bà già vẫn không ra về, đòi phải nhìn thấy trát quan ra lệnh bắt cọp mới chịu đi. Quan không biết làm sao, bèn hỏi các nha dịch ai đi được. Có một người lính lệ tên Lý Năng đang say ngồi ở đó, tự nói mình đi được, quan bèn viết trát giao cho y, bà già mới chịu ra về.
Người lính lệ tỉnh rượu hối hận, lại cho rằng quan huyện chỉ giả làm ra như thế để bà già không kêu khóc quấy rầy nữa, nên cũng không hề để ý, đem tờ trát tới xin hủy bỏ. Quan giận nói "Ngươi nói là đi được, tại sao lại hối?". Người lính lệ bí quá, xin hạ trát bắt các thợ săn trong huyện cùng đi, quan ưng thuận. Người lính lệ tập họp các thợ săn ngày đêm rình trong núi, mong bắt được một con cọp để không bị trách phạt. Nhưng hon một tháng chẳng được gì, bị phạt đánh mấy trăm trượng, khổ quá không biết kêu nài với ai, bèn tới Nhạc miếu ngoài phía đông huyện thành quỳ xuống cầu khẩn, khóc tắt cả tiếng. Không bao lâu, chợt có một con cọp từ ngoài đi tới, người lính lệ cả kinh, sợ bị nó vồ. Nhưng cọp vào tới nơi không ngó ngàng gì tới ai, chỉ ngồi xuống ngay giữa cổng miếu. Người lính lệ khấn rằng "Nếu người giết con trai bà già kia thì cúi đầu cho ta trói", rồi rút dây ra buộc vào cổ nó.
Cọp cụp tai chịu trói, người lính lệ bèn dắt nó về huyện đường. Quan huyện hỏi nó rằng "Có phải là ngươi giết con bà già không?" cọp gật đầu. Quan huyện nói "Giết người thì phải đền mạng, đó là pháp luật đã định từ xưa. Vả lại bà già chỉ có một đứa con trai, mà ngươi giết đi, bà ta già rồi, làm thế nào sinh sống? Nếu ngươi có thể làm con bà ta, thì ta tha cho", cọp lại gật đầu. Quan bèn sai cởi dây cho nó đi, bà già vẫn còn oán giận quan huyện không giết cọp để đền mạng cho con trai mình. Sáng ngày mở cửa chợt thấy có một con hươu chết nằm ở sân, bà già đem bán thịt lấy tiền sống qua ngày. Từ đó thường thường như thế, có lần cọp còn mang vàng lụa tới vứt trong sân. Bà già nhờ vậy cũng được dư dả, thấy được chăm sóc còn hơn cả lúc con trai còn sống cũng thương cọp. Có lúc nó tới nằm dưới thềm cả ngày không đi, nhưng người nhà và súc vật đều yên ổn, không bị sợ hãi náo động. Vài năm sau bà chết, con cọp tới kêu gào trong phòng khách. Những tiền bạc bà già gìn giữ tích góp được có thừa để làm đám ma, họ hàng lấy đó chôn cất cho bà. Mộ vừa đắp xong thì cọp ào ào phóng tới, khách khứa chạy sạch. Cọp đứng gào rít trước phần mộ, tiếng vang như sấm, hồi lâu mới đi. Dân ở đó lập đền thờ Nghĩa hổ ở phía đông huyện thành, đến nay vẫn còn.
038. Người Lùn (Tiểu Nhân)
Trong niên hiệu Khang Hy (1662-1722), có người làm trò mang một cái hộp gỗ nhỏ, bên trong chứa người lùn chỉ cao khoảng một thước. Có ai cho tiền thì mở nắp hộp gọi người lùn ra ca hát. Khi tới huyện Dịch (tỉnh Sơn Đông), quan huyện gọi vào công thự xét hỏi lai lịch người lùn. Ban đầu người lùn không dám nói, quan hỏi mãi mới nói ra làng xóm họ hàng. Thì ra là một đứa trẻ đi học, từ trường về bị người làm trò dụ dỗ làm cho mê man, lại đổ thuốc cho uống, tay chân chợt co rút lại, bị y bắt mang đi làm trò. Quan huyện nổi giận giết người làm trò, giữ đứa trẻ lại trong huyện, muốn chữa bệnh cho nhưng vẫn chưa tìm được cách nào.
039. Lương Ngạn (Lương Ngạn)
Lương Ngạn người Từ Châu, bị bệnh nghẹt mũi cứ khụt khịt đã lâu không khỏi. Một hôm đi ngủ, vừa nằm xuống thì chợt thấy lỗ mũi bên trái ngứa ngáy vô cùng, bèn ngồi dậy khịt mạnh. Có một con vật văng ra rơi xuống đất, hình dạng như con chó, to bằng đầu ngón tay. Lại khịt thì văng ra một con nữa, khịt tất cả bốn lần văng ra bốn con, ngọ nguậy như sâu, bò lại ngủi hít lẫn nhau. Chợt bốn con quay ra cắn xé nhau, con mạnh ăn con yếu, cứ ăn xong lại dài ra thêm một chút. Trong nháy mắt chỉ còn có một con to bằng con chuột, thè lưỡi bò quanh, có vẻ còn thèm ăn nữa. Lương rất kinh ngạc, giơ chân giẫm, con vật theo ống quần bò lên, dần dần tới đùi. Lương phất tay áo phủi xuống nhưng nó bám rất chặt không chịu rơi, giây lát chui vào trong áo, bò lên hông. Lương hoảng sợ vội cởi áo ném xuống đất, đưa tay mò bắt thì con vật đã dính chặt vào lưng, lay không động, giật thì đau, kết thành một cục thịt lồi lên, nhắm mắt ngậm miệng, như một con chuột đang nằm vậy.
Quyển III
040. Hồng Ngọc (Hồng Ngọc)
Ông Phùng người huyện Quảng Bình (tỉnh Hà Bắc) có một con trai tên Tương Như, cha con cùng là Chư sinh. Ông Phùng tuổi gần sáu mươi, tính cứng cỏi mà vẫn nghèo. Trong khoảng vài năm, vợ và con dâu nối nhau chết, việc cơm nước giặt giũ đều phải tự làm lấy.
Một đêm Tương Như ngồi dưới trăng, chợt thấy người con gái láng giềng phía đông leo lên tường nhìn trộm. Sinh thấy nàng đẹp, tới gần thấy hơi cười bèn vẫy, nàng không tới cũng không đi, nài mãi mới trèo thang qua, liền ngủ với nhau. Hỏi tên họ, nàng nói "Thiếp là con gái nhà láng giềng, tên Hồng Ngọc" Sinh rất yêu thương, hẹn cùng kết duyên mãi mãi. Nàng ưng thuận, từ dó đêm dêm thường tới. Được nửa năm, một đêm ông Phùng tỉnh giấc nghe trong phòng con có tiếng cười nói, nhìn vào thấy cô gái nổỉ giận gọi sinh ra mắng "Quân súc sinh làm gì thế? Nghèo túng thế này đã không chịu khổ lại còn học thói đàng điếm à? Người ta biết thì ngươi mất hết danh dự, người ta không biết thì ngươi cũng giảm thọ" Sinh quỳ xuống nhận lỗi, khóc nói đã hối hận. Ông Phùng mắng cô gái "Con gái không giữ lễ giáo, đã làm nhuốc mình lại làm nhơ cả người khác. Nếu việc lộ ra thì không chỉ một nhà này chịu nhục thôi đâu", mắng xong căm tức quay vào phòng.
Cô gái chảy nước mắt nói "Lời cha quở trách thật là thẹn nhục, duyên phận hai ta thế là hết rồi". Sinh nói "Cha còn thì không được tự chuyên, nếu nàng có tình thì nên ngậm tủi thương nhau". Cô gái quyết ý đoạn tuyệt, sinh rơi nước mắt, nàng khuyên giải, nói "Thiếp với chàng không có lời mai mối, không có lệnh cha mẹ, trèo tường theo nhau thì làm sao sống với nhau tới lúc bạc đầu được? Vùng này có một đám tốt, có thể hỏi cưới". Sinh nói nhà nghèo, cô gái nói "Tối mai cứ đợi nhau, thiếp sẽ tính cho". Đêm sau quả nhiên nàng tới, đưa ra bốn mươi lượng bạc tặng sinh, nói "Cách đây sáu mươi dặm có con gái họ Vệ ở Ngô thôn đã mười tám tuổi, còn kén chọn nên chưa lấy ai, chàng đưa nhiều tiền thì xong", rồi từ biệt ra đi.
Sinh tìm dịp thưa với cha muốn đi xem mặt, nhưng giấu chuyện cô gái tặng tiền, không dám nói cho cha biết. Ông Phùng nghĩ nhà nghèo nên bảo thôi, sinh lại nói khéo là cứ đi thử xem, không được thì thôi, ông bèn ưng thuận. Sinh bèn thuê đầy tớ và ngựa tới nhà họ Vệ. Vệ vốn là người làm ruộng, sinh gọi ra nói chuyện. Vệ biết sinh là nhà dòng dõi, lại thấy dáng người khôi ngô, trong lòng đã ưng nhưng còn lo không được nhiều tiền. Sinh thấy nói năng ngập ngừng biết ý, bèn dốc túi bày tiền ra bàn. Vệ mừng rỡ, nhờ người học trò láng giềng làm chứng, viết giấy đỏ giao ước.
Sinh vào chào bà già, thấy nhà cửa chật hẹp, cô gái đứng núp sau mẹ. Sinh liếc thấy nàng tuy áo vải thoa gai nhưng thần thái xinh đẹp, trong bụng mừng thầm. Vệ thuê nhà tiếp đãi con rể, nói "Công tử không cần đón dâu, đợi may ít quần áo sẽ đưa qua nhà". Sinh hẹn ngày rồi về, nói dối với cha rằng "Họ Vệ mến nhà ta dòng dõi thanh bạch nên không đòi tiền", ông Phùng cũng mừng. Đến ngày hẹn, Vệ quả đưa con gái tới. Cô gái tính cần kiệm lại hiền thục, vợ chồng rất êm ấm. Hơn hai năm nàng sinh một trai, đặt tên là Phúc Nhi.
Nhân tiết Thanh minh nàng bế con đi tảo mộ, gặp họ Tống là thân hào trong huyện. Tống làm quan tới chúc Ngự sử, phạm tội ăn hối lộ bị cách chức về nhưng vẫn cậy oai lộng hành. Hôm ấy Tống cũng đi tảo mộ về, thấy cô gái đẹp, hỏi người trong thôn biết là vợ sinh, nghĩ Phùng là học trò nghèo, lấy nhiều tiền dụ dỗ có thể xiêu lòng, liền sai người nhà bắn tin. Sinh vừa nghe thấy tức giận ra mặt, kế lại nghĩ thế không địch nổi bèn nén giận tươi cười rồi về nói với cha. Ông Phùng cả giận chạy ra gặp tên người nhà của Tống chỉ trời vạch đất chửi mắng thậm tệ. Tên người nhà trốn về, Tống cũng tức giận, sai mấy người xông vào nhà sinh đánh nhau, hai cha con sinh chửi ầm lên. Cô gái nghe thấy, bỏ con xuống giường, xõa tóc chạy ra kêu cứu, bọn kia liền bắt lấy khiêng lên rầm rộ bỏ đi. Cha con bị thương nằm rên rỉ dưới đất, đứa nhỏ thì khóc oa oa trong phòng. Láng giềng cùng thương xót vực cha con lên giường, qua hôm sau sinh chống gậy đứng lên được, ông Phùng thì tức giận bỏ ăn, thổ huyết mà chết.
Sinh khóc lớn, bế con đi kiện lên tới tỉnh, kiện tụng khắp nơi rốt lại vẫn không được xét. Sau nghe nói vợ không chịu khuất mà chết lại càng đau xót, căm giận đầy bụng không làm sao phát tiết. Thường nghĩ muốn đón đường đâm chết Tống, nhưng lo đầy tớ y đông, con lại không gửi ai được, ngày đêm đau xót nghĩ ngợi không hề chợp mắt. Chợt một người đàn ông tới nhà thăm hỏi, râu quăn cằm bạnh, chưa từng gặp qua. Sinh mời ngồi, vừa định hỏi họ tên quê quán, khách đã nói ngay "Ông có cái thù giết cha, mối hận cướp vợ mà không báo à?". Sinh ngờ là người của Tống sai tới dò xét nên chỉ giả vâng dạ. Khách nổỉ giận trợn mắt muốn rách khóe, bước ngay ra, nói "Ta cho rằng ông là người, nay mới biết là đồ hèn không đáng đếm xỉa". Sinh thấy lạ liền quỳ xuống kéo lại nói "Thật là sợ người nhà họ Tống tới dò la, nay xin bày tỏ gan ruột. Ta ôm lòng báo thù lâu rồi, nhưng thương đứa nhỏ trong bọc này, sợ bị tuyệt tự. Ông là bậc nghĩa sĩ, có thể vì ta mà làm Chữ Cữu* không?".
*Chử Cửu: Sử ký, Triệu thế gia chép Triệu Sóc nước Tấn thời Xuân thu lấy vợ là chị Tấn Thành công. Gian thần là Đồ Ngạn Giả hại chết Triệu Sóc, lúc ấy vợ Sóc đang mang thai, Giả chờ nếu sinh con trai sẽ giết. Sau phu nhân sinh con trai, môn khách của Sóc là Trình Anh và Công Tôn Chử Cữu bày mưu đưa được ra khỏi cung nhưng bị Ngạn Giả nghi ngờ, dò xét truy tìm rất gấp. Lúc ấy Trình Anh cũng vừa sinh con trai bèn tráo vào thay con Sóc rồi cho Chử Cữu đi tố giác. Ngạn Giả đem quân bắt được Anh, thấy con trai Anh quấn tã lót sang trọng bèn giết chết. Chử Cữu xin Ngạn Giả cho mang "con Anh" đi ở ẩn sau nuôi con Sóc lớn lên, trả thù được cho họ Triệu.
Khách nói "Đó là việc của đàn bà con gái, ta không làm được. Việc ông muốn nhờ người xin tự làm lấy, còn việc ông muốn tự làm thì ta xin làm thay cho". Sinh nghe nói dập đầu lạy, khách bỏ ra không thèm nhìn. Sinh đuổi theo hỏi họ tên, khách đáp "Việc không xong không nhận oán, việc xong không nhận ơn", rồi đi. Sinh sợ tai vạ tới, bế con bỏ trốn.
Đến đêm, cả nhà họ Tống đang ngủ, có người vượt qua mấy lần tường vào giết ba cha con Ngự sử và một tỳ nữ, một con dâu. Nhà họ Tống làm báo quan, quan cả sợ. Nhà họ Tống cứ vu cho Tương Như nên quan sai lính bắt sinh, vì sinh trốn không biết đi đâu nên càng tin là thật. Đầy tớ nhà họ Tống cùng lính quan đi lùng khắp nơi, đêm đến núi Nam nghe tiếng trẻ khóc, tìm tới nơi gặp sinh bèn trói giải về. Đứa nhỏ càng khóc dữ, chúng liền giật lấy vứt đi, sinh căm hòn muốn chết.
Khi gặp quan huyện, quan hỏi vì sau giết người, sinh nói "Thật oan quá! Họ chết ban đêm mà ta ra đi từ ban ngày, vả lại bế đứa nhỏ khóc oa oa thì làm sao vượt tường giết người?". Quan huyện hỏi "Không giết người tại sao bỏ trốn?", sinh nghẹn lời không đáp được, quan liền sai giam vào ngục. Sinh khóc nói "Ta chết cũng không tiếc, nhưng đứa nhỏ mồ côi kia có tội gì?" Quan huyện nói "Ngươi giết con người ta đã nhiều, thì con ngươi bị giết còn oán gì?". Sinh bị lột áo mũ nhà nho, lại nhiều lần bị tra tấn tàn khốc nhưng rốt lại không hề nhận tội.
Đêm ấy quan huyện nằm ngủ nghe có vật gì dập vào giường rung lên thành tiếng, cả sợ kêu lớn. Cả nhà giật mình thức dậy, xúm lại đốt đuốc soi, thấy một lưỡi đoản đao sáng loáng cắm vào giường sâu hơn một tấc, chặt cứng không rút ra được. Quan huyện nhìn thấy khiếp vía, cầm giáo đi lùng khắp nơi không thấy gì, trong lòng lo thầm. Lại vì họ Tống đã chết không đáng sợ nữa, bèn trình lên quan tỉnh giải oan cho sinh rồi tha về.
Sinh về nhà, trong hủ không một đấu gạo, một mình với bốn bức vách, may được láng giềng thương xót cho ăn uống, sống đỡ qua ngày. Nghĩ tới mối thù lớn đã trả thì tươi cười vui vẻ nhưng nhớ lại tai họa thảm khốc suýt chết toàn gia thì buồn bã sa lệ, lại nghĩ mình nửa đời nghèo thấu xương, không người nối dõi, thì khi vắng người bật tiếng khóc thất thanh không sao kìm được. Cứ thế nửa năm, việc bắt bớ lơi lỏng dần, bèn xin quan huyện cho mang hài cốt Vệ thị về. Chôn cất xong trở về, đau đớn chỉ muốn chết, trằn trọc trên giường nghĩ không còn cách gì để sống.
Bỗng có người gõ cửa, sinh lắng tai nghe thấy ngoài cửa có tiếng một người đang nựng nịu trẻ con. Sinh vội dậy ra nhìn thì như là một cô gái, cửa vừa mở đã hỏi "Nỗi oan lớn đã rửa, may không sao chứ?" giọng rất quen nhưng lúc vội vàng không sao nhớ ra được. Đánh lửa soi thì ra là Hồng Ngọc, dắt một đứa nhỏ cười đùa dưới chân. Sinh không kịp hỏi han, ôm nàng khóc nức nở, cô gái cũng buồn bã. Kế đẩy đứa nhỏ nói "Con quên cha rồi sao?" Đứa nhỏ nắm áo cô gái nhìn sinh chằm chằm, sinh nhìn kỹ thì là Phúc Nhi, cả kinh khóc hỏi "Sao con về đây được?". Cô gái nói "Nói thật với chàng, trước kia thiếp nói là con gái láng giềng là nói dối. Thiếp thật là hồ, nhân đi đêm thấy con khóc trong hang liền bế về nuôi ở đất Tần (tỉnh Thiểm Tây). Nghe nạn lớn đã yên nên đem con về cùng chàng đoàn tụ", sinh lau nước mắt lạy tạ. Đứa nhỏ nép vào lòng cô gái như nương tựa mẹ ruột, không nhận ra cha nữa.
Trời chưa sáng, cô gái đã trở dậy, hỏi thì nàng đáp "Nô tỳ muốn đi," Sinh cởi trần quỳ ở đầu giường khóc không ngẩng lên được. Cô gái cười nói "Thiếp lừa chàng thôi. Nay nhà đang gầy dựng, không thức khuya dậy sớm không được". Rồi nhổ cỏ dọn dẹp, làm lụng như đàn ông. Sinh lo nhà nghèo không đủ ăn, nàng nói "Xin chàng cứ buông rèm học hành, đừng hỏi chuyện thiếu đủ, may cũng không chết đói đâu". Rồi bỏ tiền ra sắm khung dệt, thuê vài mươi mẫu ruộng mướn người cày cấy, vác bừa làm ruộng, kéo tranh lợp nhà, hàng ngày làm lụng.
Làng xóm nghe sinh có vợ hiền càng vui lòng giúp đỡ, khoảng nửa năm trong nhà ăn uống sung túc như nhà giàu. Sinh nói "Sau lúc tro tàn, nhờ nàng một tay gầy dựng lại, nhưng còn một việc chưa xong, biết làm sao?". Nàng hỏi việc gì, sinh đáp "Kỳ thi sắp tới mà khăn áo chưa lấy lại được". Cô gái cười nói "Trước đây thiếp đã đem bốn lượng vàng gửi Học quan, ghi lại tên chàng vào sổ rồi, đợi tới chàng nhắc thì trễ lắm", sinh càng cho là thần. Khoa ấy sinh đỗ Cử nhân, năm ấy ba mươi sáu tuổi, ruộng tốt liền bờ, nhà cửa cao rộng. Cô gái mảnh khảnh như gió thổi là bay mà làm lụng còn hơn con nhà nông, mùa đông rét buốt vẫn làm việc mà bàn tay vẫn mềm mại, tự nói ba mươi tám tuổi nhưng nhìn chỉ như hơn hai mươi.
Dị Sử thị nói: Con giỏi mà cha có đức nên được báo đáp hào hiệp, mà chẳng riêng gì người hào hiệp, tự mình cũng giống kẻ hào hiệp nên tao ngộ cũng lạ lùng. Nhưng quan huyện mù mờ khiến người ta căm hờn, luỡi đao sắc cắm vào giường, còn tiếc gì mà không phóng qua cách đó nửa thước? Nếu Tô Tử Mỹ* đọc truyện này ắt sẽ hào hùng nói "Tiếc là đánh mà không trúng".
*TÔ Tử Mỹ... không trúng: Thế thuyết bổ chép Tô Vũ Khâm người thời Tống, tự Tử Mỹ, tính hay rượu, tới ở nhà cậu, cứ tối đến là xin một đấu rượu. Cậu sai gia nhân rình xem, thấy Tử Mỷ đọc truyện Trương Lương trong Hán thư, tới doạn Trương Lương cùng người khách ám sát Tần Thủy Hoàng thì vỗ tay nói "Tiếc là đánh mà không trúng", rồi uống cạn một chén lớn. Gia nhân về kể lại, cậu nói "Nếu thế thì uống một đấu rượu cũng không phải là nhiều".
041. Lâm Tứ Nương (Lâm Tứ Nương)
Ông Trần Bảo Thược làm quan ở đạo Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) là người đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) đêm ngồi một mình, có cô gái vén rèm bước vào. Nhìn ra thì không quen mà rất đẹp, tay áo dài như lối trong cung cười nói "Đêm thanh ngồi một mình không buồn à?". Ông giật mình hỏi là ai, nàng đáp "Nhà thiếp không xa, chỉ bên xóm tây". Ông đoán là ma nhưng lòng yêu thích bèn kéo áo mời ngồi, thấy trò chuyện rất phong nhã. Ông thích lắm ôm lấy, cũng không kháng cự gì lắm, chỉ ngoảnh lại hỏi "Ở đây không có ai khác sao?". Ông vội khép cửa đáp không. Giục cởi áo xiêm, nàng có vẻ thẹn thùng sợ sệt, ông phải ân cần cởi giúp cho. Nàng nói "Thiếp nay hai mươi tuổi, vẫn còn là xử nữ, mạnh bạo quá thì không chịu nổi". Giao hoan xong thấy máu đỏ vấy ra chiếu, kế dựa gối cùng trò chuyện, tự nói là Lâm Tứ Nương. Ông hỏi kỹ, nàng nói "Một tấm kiên trinh đã để cho chàng khinh bạc mà mất hết, nếu yêu thương thiếp thì chỉ cần tính chuyện lâu dài với nhau là được, hỏi lằng nhằng làm gì?"
Không bao lâu gà gáy, nàng trở dậy ra đi. Từ đó đêm nào cũng tới, thường đóng cửa uống rượu, nói tới âm luật thì nàng hiểu hết cung bậc. Ông đoán chắc hát rất hay, nàng nói "Lúc còn nhỏ vốn được học". Ông xin hát cho nghe một khúc, nàng nói "Đã lâu không đụng tới âm nhạc, cung bậc quên mất quá nửa, sợ người hiểu biết cười cho". Ông cố nài ép, nàng bèn cúi đầu gõ nhịp, hát khúc châu Y châu Lương, giọng rất thê thiết, hát xong rơi nước mắt. Ông cũng chua xót, ôm nàng an ủi "Nàng đừng vì cái âm nhạc mất nước ấy mà buồn khiến người ta mất vui". Cô gái nói "âm thanh là để tỏ ý, người buồn không thể bắt vui, cũng như người vui không bắt buồn được". Hai người thân thiết còn hơn cả vợ chồng, lâu ngày người nhà nghe trộm, nghe thấy tiếng hát đều rơi nước mắt. Phu nhân nhìn trộm dung mạo, nghi là trên đời không có người đẹp đến như thế, không phải ma ắt là hồ, sợ sẽ gieo tai họa bèn khuyên ông dứt tình.
Ông không nghe, chỉ hỏi kỹ gốc tích cô gái. Nàng buồn rầu nói "Thiếp là Cung nhân trong Hành phủ, gặp tai biến mà chết mười bảy năm rồi. Nghĩ chàng cao nghĩa nên gửi thân kết tình, thật không dám làm hại chàng. Nếu nghi ngờ thì xin giã biệt từ đây". Ông nói "Ta không hiềm nghi gì, nhưng đã yêu thương nhau như vậy thì phải biết rõ sự thật thôi". Bèn hỏi việc trong cung thuở trước, cô gái kể rành rọt nghe rất thú vị, kể tới lúc suy vi thì nức nở nói không nên lời. Cô gái ít ngủ, hàng đêm cứ trở dậy tụng kinh Chuẩn đề, Kim cang. ông hỏi "Ở chín suối cũng có thể tự sám hối sao?" nàng đáp "Cũng như nhau cả, thiếp nghĩ trọn đời luân lạc nên muốn kiếp sau được giải thoát thôi".
Lại cùng ông phẩm bình thi từ, chỗ nào dở là chê, gặp câu hay thì cất tiếng ngâm nga, ý khí phong lưu khiến người nghe quên mỏi mệt. Ông hỏi có hay thơ không thì đáp "Lúc sống ngẫu nhiên cũng có làm" ông đòi viết tặng cho mình, nàng cười nói "Lời thơ của đàn bà con trẻ đâu đủ đến tai bậc cao nhân?". Được ba năm, một đêm chợt nàng buồn rầu từ biệt. Ông giật mình hỏi, nàng cười đáp "Diêm Vương nói thiếp kiếp trước không có tội mà vẫn không quên tụng kinh nên cho thác sinh làm con vua, đêm nay là vĩnh biệt, không còn gặp lại nhau nữa đâu".
Nói xong buồn rầu, ông cũng rơi lệ. Bèn bày rượu cùng uống với nhau cho thật say, cô gái ngậm ngùi cất tiếng hát, âm điệu đau xót, mỗi tiếng mỗi tiếng đều thay đổi cung bậc, tới chỗ thương tâm thì nức nở, dừng lại mấy lần mới hát trọn khúc. Rượu cũng không sao uống say, đứng lên bồi hồi định từ biệt. Ông cố giữ lại, nàng ngồi thêm một lúc, chợt nghe tiếng gà gáy bèn nói "Không thể ở lại lâu nữa rồi. Chàng vẫn trách thiếp không chịu dâng lời thơ dở, nay sắp vĩnh biệt, xin viết qua một bài". Rồi đòi giấy bút, viết xong nói "Lòng đau ý loạn, không thể cân nhắc câu chữ, tiếng dở luật sai xin cẩn thận đừng đưa người khác xem" rồi lấy tay áo che mặt bước ra. Ông tiễn ra tới ngoài cổng, nàng tan đi như làn khói mất dạng. Ông đau xót hồi lâu, nhìn tới bài thơ thấy chữ viết ngay ngắn đẹp đẽ, trân trọng cất đi. Thơ rằng:
Tĩnh tọa thâm cung thập thất niên,
Thùy tương cố quốc vấn thanh thiên.
Nhàn khan điện vũ phong kiều mộc,
Khấp vọng quân vương hóa đỗ quyên.
Hải quốc ba đào tà tịch chiếu,
Hán gia tiêu cổ tĩnh phong yên.
Hồng nhan lực nhược nan vi lệ.
Huệ chất tâm bi chỉ vấn thiên.
Nhật tụng Bồ đề thiên vạn cú,
Nhàn khan bối diệp lưỡng tam thiên.
Cao xướng Lê viên ca đại khốc,
Thỉnh quân độc thính diệc tàm nhiên.
(Mười bảy năm trời xót nỗi niềm
Lòng đau nước cũ trách trời nghiêng
Rảnh nhìn điện gác buồn cây cỏ
Khóc nhớ quân vương xót đỗ quyên
Sóng vỗ bể xa vầng nhật xế
Nhạc lừng cung Hán khói mây yên
Má hồng sức yếu khôn làm quỷ
Chất huệ lòng đau chỉ hỏi thiền
Ngày đọc Bồ đề ngàn vạn chữ
Nhàn xem Bối diệp mấy mươi thiên
Cất khúc Lê viên thay tiếng khóc
Xin ông giữ kín chút niềm riêng)
Lời thơ trùng lắp sai luật, ngờ là người chép lại bị lầm. Xét bộ Trì bắc ngẫu đàm của tiên sinh Vương Ngư Dương cũng chép truyện này nhưng bài thơ thì là Đường luật, Lư Nhã Vũ tiên sinh ở Đức Châu có đưa vào tập Sơn Tả thi sao, nên chép thêm vào đây để so sánh.
Trần Bảo Thược tự Lục Nhai người đất Mân, làm Quan sát Thanh Châu. Một hôm ngồi trong thư trai, chợt có a hoàn khoảng mười bốn mười lăm tuổi dung mạo rất đẹp vén rèm bước vào nói "Lâm Tứ Nương yết kiến". Trần kinh ngạc, không biết nguyên do, đang ngần ngừ thì Tứ Nương đã tới trước mặt nói câu vạn phúc, búi tóc mặc áo đỏ thêu nửa tay áo, mang hài mỏ phượng, lưng đeo song kiếm. Trần ngờ là bậc hiệp khách tiên cô, bất đắc dĩ vái chào mời ngồi. Tứ Nương nói "Thiếp là cung tần cũ trong phủ Hành, quê ở Kim Lăng. Xưa Hành vương đem ngàn vàng cưới thiếp về cho ở trong hậu cung, sủng ái khác hẳn mọi ngưòi, không may chết sớm, chôn ở trong cung. Không đầy vài năm nước mất, vương lên bắc. Hồn thiếp còn lưu luyến mộ cũ, nay cung điện hoang vu, muốn mượn đình quán của ông để tiếp khách, vốn không có ích gì cho ông, nhưng cũng không có gì hại cho ông", Trần dạ dạ.
Từ đó mỗi ngày tới một lần, mỗi khi bày tiệc, lúc đầu không thấy tân khách, nhưng nghe thấy tiếng cười nói thù tạc. Lâu ngày bày tiệc mời Trần và mấy người Công xa đồng hương với Trần. Mười mấy người trên tiệc chuốc rượu mừng, không khác gì người thường, nhưng cũng không biết là từ đâu tới. Rượu say, Tứ Nương kể lại chuyện cũ trong cung, bi thương khôn xiết, gõ nhịp mà hát, âm thanh rất ai oán, cả tiệc nước mắt đẫm áo mà tan. Như thế hơn năm, một hôm nàng buồn bã như sắp chia tay, nói với Trần "Thiếp trần duyên đã hết, phải tới núi Chung Nam, vì ông hậu tình, nên tới chia tay một lần", từ đó không tới nữa. Có một quyển thơ, Tư khấu Lý Ngũ Huyền người Trường Sơn có bản sao, lại có Hội nguyên Trần Chu Lượng ghi được một bài. Thơ rằng:
Tĩnh tọa thâm cung ức vãng niên,
Lâu đài tiêu cô biến phong yên.
Hồng nhan lực bạc nan vi lệ.
Hắc hải tâm bi chỉ hoc thiền.
Tế độc Liên hoa thiên bách kệ,
Nhàn khan bối diêp lưỡng tam thiên.
Lê viên cao xướng thăng bình khúc,
Quân thí thinh (thính) chi diệc võng nhiên.
(Ngồi lặng cung sâu xót nỗi niềm
Lâu đài ngày cũ khói mây nghiêng
Má hồng sức yếu khôn làm quỷ
Biển tối lòng đau chỉ học thiền
Khẽ đọc Liên hoa ngàn vạn chữ
Nhàn xem Bối diệp mấy mươi thiên
Lê viên cao khúc thanh bình trước
Ông nếu nghe xong cũng sẽ quên)
Phụ: Bài Ký Về Lâm Tú Nương Của Lâm Tây Trọng (Vân Minh).
(Lâm Tây Trọng Vân Minh Lâm Tứ Nương Ký)
Ông Ngô Bảo Thược ở Tấn Giang (tỉnh Phúc Kiến) tự Lục Nhai, năm Khang Hy thứ 2 (1663) làm quan Thiêm sự ở đạo Thanh Châu tỉnh Sơn Đông, đêm cứ nghe có tiếng gõ cửa, lên tiếng hỏi thì không ai đáp. Tên đầy tớ tức tối không chịu nổi cầm giáo rình đâm. Đêm ấy chỉ nghe tiếng chửi mắng, xô cửa giữa xông ra thì là một con quỷ mặt xanh nanh dài cởi trần đứng sừng sững, đầu cao tới tận chái nhà, y hoảng sợ vứt giáo ngã lăn ra đất. Trần vội bước ra quát "Đây là công thự của triều đình, ngươi là yêu quái ở đâu dám tới quấy nhiễu?". Quỷ cười nói "Nghe quý nô bộc định giết nên tới chịu chết". Trần tức giận định gọi quân bắt giết, vừa nghĩ thì quỷ đã cười nói "Gọi quân bắt ta, sao mưu kế kém cỏi thế?".
Trần càng tức giận, sáng ra điều hai ngàn quân tới giữ cổng. Đến đêm quỷ từ trong góc tường nhô ra, cao chừng ba thước, đầu to như cái bánh xe, miệng há to như cái thúng, hai mắt lóe sáng, bò rạp dưới đất, hơi lạnh toát ra gai người. Quân sĩ quát tháo bắn túi bụi, đạn lửa đều không cháy, tên bắn trúng thì không mũi nào cắm vào nó. Quỷ giật cung bắn trả, tên bay như mưa nhưng đều lướt qua đầu chứ không làm ai bị thương, quân sĩ bỏ chạy tán loạn. Trần lại mời thầy pháp về làm phép xua đuổi, đêm đến thầy pháp ngủ lại trong dinh. Lúc ấy là tháng chạp rất lạnh, Trần vừa đi nghỉ thì quỷ tới thẳng chỗ thầy pháp ngủ lột sạch chăn nệm quần áo thầy pháp sợ hãi kêu cứu, Trần bất đắc dĩ phải tới năn nỉ. Quỷ cười nói "Nghe nói thầy pháp cao tay lắm, nghĩ là có phép thuật mà tài nghề chỉ có bấy nhiêu thôi sao?" rồi ném trả quần áo. Hôm sau thầy pháp xấu hổ từ biệt ra đi.
Từ đó trong dinh cứ bị ném đá liệng ngói sớm tối không yên, có khi thấy tường sụp cột đổ mọi người vội tránh xa thì lại không có chuyện gì, Trần lo lắm. Sau ta có người bạn đồng niên là Lưu Vọng Linh lên kinh, đi ngang Thanh Châu hỏi biết chuyện bèn nói với Trần "Ông tự chuốc lấy tai họa đó thôi. Lý trong thiên hạ có dương ắt có âm, nếu không hấp tấp trừ yểm thì cũng không đến nỗi bị phá phách như vậy", chưa dứt lời thì quỷ đã hiện ra lạy tạ. Lưu thấy hung ác đáng sợ bèn khuyên nên thay đổi dung mạo, quỷ lập tức bước vào phòng kín, giây lát trở ra thì là một giaì nhân tuyệt sắc, tóc mây búi cao, y phục đẹp đẽ tha thướt đi tới. Quần áo của nàng đều bằng thứ lụa long sa trơn láng mềm mại, cũng không thấy đường may, hương thơm sực nức không sao tả xiết. Nàng tự xưng là Lâm Tứ Nương, có một tớ trai tên Quán Đạo, một tỳ nữ tên Đông Cô, đều có bóng không có hình, chỉ Tứ Nương là không khác gì người sống.
Trần hàng ngày cùng nàng uống rượu làm vui, thân cận rất mực, chỉ không có chuyện kia nọ mà thôi. Phàm các công văn trong dinh phần lớn đều do nàng thảo ra, những án ngục khó xét lâu năm thì nàng dò xét rõ cả đầu đuôi, Trần ra xét một lần là ai cũng phục. Trần đi khảo thí thì nàng phẩm bình văn chương, xếp hạng trên dưới đều xứng đáng nên rất nổi tiếng.
Trước kia Trần chờ bổ nhiệm ở Yên Kinh có vay một người nhà buôn hai ngàn quan tiền, lúc ấy người nhà buôn bất ngờ tới đòi không sao trả được, xin trả một nửa nhưng y không chịu. Tứ Nương ra trách, nói "Trần công há phải là kẻ quịt nợ sao, chỉ vì nhất thời nên không đủ sức trả hết thôi. Người cứ nằng nặc đòi bằng được để đẩy ông vào chỗ mất danh dự thì có gì hay cho ngươi? Ta là ma đây, nếu không nghe lời thì ta sẽ gieo tai họa cho ngươi đấy".Người nhà buôn vốn không tin chuyện ma quỷ nên cười nói "Nàng là người đẹp mà lấy chuyện ma quỷ dọa ta, nếu quả là ma thì phải biết nhà cửa nghề nghiệp của ta ở kinh" Tứ Nương nói "Nhà cửa nghề nghiệp của ngươi khó gì mà không biết. Ngươi gần đây có làm một việc nhơ nhuốc ở nơi nọ, ta nói ra chỉ sợ ngươi phải chết thôi". Người nhà buôn hoảng sợ cáo từ ra về, Trần ngầm hỏi việc y làm nhưng rốt lại Tứ Nương vẫn không chịu nói ra, giấu điều xấu cho người như thế đấy.
Tính nàng ưa ngâm vịnh, thơ phú làm ra phần lớn có âm điệu thê lương cảm khái, người ta không nỡ đọc. Phàm những người ở đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) tới thăm Trần thì nàng ắt cùng họ uống rượu vui đùa, khi chia tay là tặng thơ, trong có ẩn ngữ, về sau phần lớn đều nghiệm. Có một người học trò thích nàng xinh đẹp nên động tà niệm, Tứ Nương tức giận nói "Thằng mán rừng này thật vô lễ", rồi ra lệnh "Phạt gậy!". Người học trò chợt ngã lăn xuống đất kêu gào xin tha, hai mông đít đầy vết gậy đánh. Mọi người xin tha cho y, Tứ Nương bèn gọi tỳ nữ Đông Cô lấy thuốc cho y uống, lập tức không còn đau đớn gì nữa, rồi lại cùng nhau uống rượu vui vẻ như lúc đầu.
Trần hỏi đầu đuôi việc thành ma, Tứ Nương đáp "Ta là người huyện Bồ Điền (tỉnh Phúc Kiến) trong niên hiệu Sùng Trinh nhà Minh (1628 -1643). Trước cha ta làm quan giữ kho ở phủ Giang Ninh (tỉnh Nam Kinh), ăn cắp của kho bị hạ ngục. Ta cùng người anh con cậu hết sức chạy vạy, suốt nửa năm đi đâu cũng có nhau nhưng không hề có chuyện tư tình. Đến khi cha ta được tha lại nghi ngờ, ta bèn thắt cổ tự tử để chứng tỏ là không có chuyện gì, hồn phách cứng cỏi nên không tan. Vì có tình đồng hương với ông nên tới đây, cũng không phải là ngẫu nhiên đâu. Tính lại nàng ở dinh thự được mười tám tháng thì cáo từ, sau khi chia tay Trần nhớ tiếc mãi. Năm Khang Hy thứ 6 (1667) Trần được bổ làm Truyền dịch đạo ở Giang Nam, kể cho nghe chuyện này, dặn ta ghi lại.
042. Con Gái Ông Lỗ (Lỗ Công Nữ)
Trương Ư Đán người huyện Chiêu Viễn (tỉnh Sơn Đông) tính ngang tàng không chịu bị trói buộc, tới học ở chùa Tiêu. Lúc ấy quan Tri huyện là ông Lỗ người Tam Hàn (vùng đất phía nam Triều Tiên) có cô con gái thích đi săn, sinh tình cờ gặp nàng ngoài đồng, thấy phong tư lộng lẫy, mặc áo lông điêu gấm, cưỡi con ngựa câu nhỏ, xinh đẹp như tranh vẽ, trở về nhớ nhung, băn khoăn tơ tưởng. Sau nghe tin nàng mắc bạo bệnh mà chết, vô cùng đau xót.
Lỗ vì nhà ở xa nên gởi quan tài nàng trong chùa, tức nơi sinh ở. Sinh kính cẩn như đối với thần minh, sáng ra thì thắp hương, đến bữa thì cúng vái, cứ rưới rượu khấn rằng "Thấy mặt một lần mộng hồn vương vấn, không ngờ người ngọc chợt qua đời, nay thì tuy gần gũi trong gang tấc mà xa xôi như núi sông, thật hận làm sao. Nhưng nàng còn sống thì còn có điều trói buộc chứ chết rồi không còn gì ngăn cấm, dưới chín suối có thiêng thì xin nhẹ nhàng về đây cho vơi niềm mong nhớ!" sớm tối cứ thế khấn khứa suốt nửa năm.
Một đêm khêu đèn đọc sách, chợt ngẩng đầu thì thấy cô gái đang đứng trước đèn tươi cười. Sinh giật mình đứng lên hỏi, nàng đáp "Cảm vì tình của chàng, không cầm lòng được nên không sợ mang tiếng tư tình". Sinh cả mừng kéo nàng ngồi xuống rồi cùng nhau ân ái, từ đó đêm nào nàng cũng tới. Cô gái nói với sinh "Lúc thiếp còn sống thích cung ngựa, lấy việc bắn hươu giết nai làm vui, tội nghiệt rất sâu, chết không có nơi về, nếu chàng thật lòng thương yêu xin phiền tụng kinh Kim cương cho đủ số một tạng* thì đời đời kiếp kiếp không dám quên ơn". Sinh kính cẩn nghe lời, cứ sáng ra là lập tức tới trước quan tài lần tràng hạt đọc kinh.
*Đủ số một tạng: tức đủ 81 lần. 81 1à con số thiêng của nhà Phật.
Gặp lúc cuối năm, muốn cô gái cùng về nhà với mình, cô gái lo chân yếu không thể lặn lội. Sinh xin cõng đi, nàng cười nghe theo, thấy như cõng trẻ con không có chút gì nặng nhọc mỏi mệt. Từ đó lấy thế làm thường, đi khảo thí cũng đưa nàng theo, nhưng chỉ ban đêm mới đi. Sinh sắp đi thi hương, cô gái nói "Chàng phúc mỏng, vất vả làm gì", sinh nghe lời bèn thôi.
Được bốn năm năm, Lỗ bãi chức nghèo quá không thể đưa quan tài con gái cùng về quê, định chôn ở đó nhưng ngặt không có đất. Sinh bèn tự trần rằng "Ta có khoảnh đất xấu gần chùa, xin cứ chôn cất tiểu thư ở đó". Lỗ mừng lắm, sinh lại hết sức giúp đỡ việc chôn cất, Lỗ rất biết ơn nhưng không hiểu vì sao. Lỗ đi rồi, hai người lại khắng khít như trước.
Một đêm nàng nép vào lòng sinh nước mắt lã chã nói "Gắn bó được năm năm, nay phải chia tay rồi. Thiếp chịu ơn của chàng mấy kiếp cũng không báo đáp được," Sinh ngạc nhiên hỏi, nàng đáp "Đội ơn tới tận suối vàng, kinh sấm đã tròn một tạng, nay được đi đầu thai vào nhà quan Hộ bộ họ Lư ở Hà Bắc. Nếu chàng không quên tình hôm nay thì đúng ngày Trung thu mười lăm năm sau xin tới gặp nhau". Sinh rơi nước mắt nói "Ta đã hơn ba mươi tuổi rồi, thêm mười lăm năm nữa thì sắp vào quan tài, gặp nhau có làm được gì?". Cô gái cũng khóc nói "Thiếp xin làm nô tỳ để đền ơn", lát sau lại nói "Chàng đưa thiếp đi giùm sáu bảy dặm với, từ đây ra đó đường nhiều gai góc, thiếp sợ rách hết quần áo". Rồi ôm cổ sinh, sinh cõng nàng ra tới đường cái, thấy ven đường có một dãy xe ngựa, trên ngựa hoặc một hoặc hai người, trên xe hoặc ba bốn người hoặc mười mấy người không như nhau.
Có một chiếc xe buông màn thêu treo rèm ngọc, chỉ có một bà già ngồi trên, thấy cô gái tới bèn gọi "Tới rồi đấy à?". Cô gái đáp "Tới rồi đây", rồi ngoảnh nhìn sinh nói "Tới đây thì thiếp xin đi, đừng quên lời thiếp dặn", sinh vâng dạ. Cô gái bước tới cạnh xe, bà già đưa tay kéo lên, rồi đó lăn bánh lên đường, xe ngựa rầm rập phóng đi.
Sinh buồn bã trở về, ghi lại ngày hẹn lên vách, nhưng lại nghĩ tới công hiệu của kinh Phật, lại càng chuyên cần tụng niệm. Nằm mơ thấy thần nói "Lòng thành của ngươi rất đáng khen, nhưng cũng phải tới Nam Hải* nữa". Sinh hỏi "Nam Hải cách đây xa không?" thần đáp "Chỉ trong gang tấc". Sinh tỉnh dậy hiểu ý, bèn tụng kinh Quan âm, tu hành càng nghiêm cẩn.
*Nam Hải: đây chỉ nơi ở của Quan Thế âm Bồ tát.
Ba năm sau con thứ là Minh, con trưởng là Chính nối nhau thi đỗ. Sinh quý hiển nhưng vẫn giữ thiện hạnh, đêm mơ thấy một người áo xanh mời đi, tới một nơi cung điện, trong điện có một người ngồi, hình dáng như Quan âm Bồ tát đứng lên đón, nói "Ông làm điều lành đáng khen, tiếc không được sống lâu, may ta đã xin được Thượng đế cho thêm tuổi thọ rồi". Sinh lạy rạp dập đầu, Bồ tát gọi đứng lên, cho ngồi uống trà, thấy mùi vị thơm ngát như hoa lan. Lại sai đồng tử dẫn đi, bảo xuống ao tắm, nước ao trong suốt có thể đếm được cá đang bơi, bước xuống thấy ấm áp, vốc lên thấy có mùi hương sen. Lát sau dần ra tới chỗ sâu, hụt thân chìm nghỉm, giật mình tỉnh dậy lấy làm lạ lùng.
Từ đó thân thể càng khỏe mạnh, mắt càng sáng, vuốt râu thì những sợi râu trắng đều lả tả rơi xuống, lâu sau thì râu đen cũng rụng xuống, những nếp nhăn trên mặt cũng giãn ra. Vài tháng sau thì cằm không còn sợi râu nào mà mặt như trẻ con giống lúc mười lăm mười sáu tuổi. Lại thích những trò nghịch ngợm phá phách, có khi làm điều bậy bạ, hai con trai phải xin lỗi che chở cho. Không bao lâu, phu nhân già mắc bệnh chết, hai con trai muốn hỏi cưới vợ kế con nhà thế tộc cho cha, sinh nói "Chờ ta tới Hà Bắc trở về rồi sẽ cưới vợ".
Bấm đốt ngón tay tính đã tới ngày hẹn, bèn sai đầy tớ thắng ngựa tới Hà Bắc, hỏi thăm quả có nhà quan Hộ bộ họ Lư. Trước là ông Lư sinh được một con gái, sinh ra đã biết nói, lớn lên càng thông minh xinh đẹp, cha mẹ rất yêu dấu. Các nhà giàu sang tới dạm hỏi thì nàng cứ chối từ không chịu, cha mẹ lấy làm lạ hỏi, nàng kể lại lời hẹn kiếp trước. Cha mẹ cùng tính lại tuổi tác sinh, cười lớn nói "Con nhãi ngây ngốc, Trương lang tính ra đã gần năm mươi tuổi, nếu việc người thay đổi thì xương đã mục nát, mà nếu còn sống cũng thì đã đầu hói răng rụng rồi". Cô gái không nghe, mẹ thấy nàng quyết ý bèn bàn với ông Lư sai người giữ cửa không được đưa tin sinh tới, chờ qua kỳ hẹn để nàng không mong đợi nữa.
Không bao lâu sinh tới, người giữ cửa từ chối không cho vào, sinh quay lại nhà trọ buồn bã không biết làm sao. Lúc nhàn rỗi đi dạo ngoài đồng, nhân ngầm tìm cách nghe ngóng tin tức trong nhà họ Lư. Cô gái cho rằng sinh phụ ước, khóc lóc bỏ ăn, mẹ nói "Y không tới, chắc đã chết rồi, nếu không thì cái lỗi phụ ước không phải là do con" nàng không nói gì, chỉ nằm cả ngày. Lư lo sợ, cũng nghĩ muốn gặp sinh một lần xem sao bèn lấy cớ ra ngoài dạo chơi, gặp sinh ngoài đồng, nhìn thấy là một thiếu niên lấy làm kinh ngạc. Bèn trải chiếu xuống đất cùng ngồi trò chuyện, thấy rất hợp ý, mừng rỡ mời về nhà.
Sinh đang định hỏi chuyện, Lư lập tức đứng lên dặn khách ngồi đợi một lúc rồi vội vào nói với con gái. Cô gái vui mừng gượng dậy, ra núp nhìn mặt sinh thấy không giống, rơi lệ quay vào, oán trách cha lừa dối mình. Lư ra sức phân trần đó đúng là sinh, cô gái không nói gì, chỉ rơi lệ không thôi. Lư trở ra, trong lòng chán nản, trò chuyện với khách rất lạt lẽo. Sinh hỏi "Quý nhân có phải là quan Hộ bộ không?", Lư ngạo mạn gật đầu, ngoảnh nhìn chỗ khác như không muốn tiếp khách. Sinh thấy ngạo mạn vô lễ bèn cáo từ ra về, cô gái khóc lóc mấy ngày rồi chết. Sinh đêm nằm mơ thấy nàng tới nói "Người tới đó đúng là chàng ư? Tuổi tác cùng dung mạo quá cách biệt, lại nhìn qua rèm nên không thấy rõ mặt, thiếp vì phẫn uất mà chết, xin chàng tới miếu Thổ địa gọi hồn gấp thì thiếp còn có thể sống lại, nếu chậm thì không kịp đâu.
Sinh tỉnh dậy vội tới cổng nhà họ Lư nghe ngóng, quả nhiên cô gái đã chết hai ngày rồi. Sinh vô cùng đau xót, vào tận nhà trong điếu tang, kế kể lại giấc mơ cho Lư nghe, Lư theo lời lập đàn gọi hồn về rồi mở vải liệm ra vỗ về xác cô gái, kêu gọi khấn khứa. Giây lát nghe trong cổ họng nàng có tiếng thở khò khè, chợt thấy môi son hé mở, nhưng toàn thân vẫn lạnh như băng. Vội bế ra đặt lên giường, giây lát thì nàng rên rỉ, Lư mừng rỡ mời khách ra ngoài, mở tiệc khoản dãi. Hỏi tới gia thế biết sinh là nhà quý hiển, càng thêm mừng rỡ bèn chọn ngày tốt gả con gái cho sinh.
Sinh ở đó nửa tháng rồi đưa cô gái về, Lư cũng tiễn về tới tận nhà, ở lại nửa năm mới đi. Vợ chồng ăn ở với nhau rõ ra là một cặp vợ chồng trẻ, nhiều người không biết cứ lầm tưởng vợ chồng con trai là vợ chồng sinh. Qua năm sau ông Lư chết, con trai còn quá nhỏ nên bị bọn cường hào lấn hiếp, gia sản dần khánh kiệt, sinh bèn đón về nuôi, sau con trai Lư làm nhà ở đó luôn.
043. Đạo Sĩ (Đạo Sĩ)
Hàn sinh là con nhà thế gia, tính hiếu khách, có họ Từ cùng thôn thường tới uống rượu. Một lần đang họp mặt thì ngoài cổng có đạo sĩ tới ăn xin, người nhà cho tiền gạo đều không lấy cũng không đi, chúng tức giận bỏ vào không nhìn tới nữa. Hàn nghe tiếng cãi cọ hồi lâu bèn hỏi người nhà, họ thưa lại, chưa dứt lờí đạo sĩ đã vào tới. Hàn mời ngồi, đạo sĩ nhìn chủ khách giơ tay một cái rồi ngồi ngay xuống. Hỏi qua mới biết là ngụ trong ngôi miếu nát ở xóm Đông. Hàn nói "Không biết dấu hạc về quán Đông lúc nào khiến ta thiếu lễ địa chủ". Đạo sĩ đáp "Kẻ quê kệch mới tới, không quen biết ai, nghe nói cư sĩ rộng rãi nên rất muốn xin uống rượu" Hàn sai rót rượu, đạo sĩ uống rất hào, Từ thấy quần áo rách rưới dơ dáy có vẻ nghèo khổ nên không trọng lắm, Hàn cũng coi là loại khách thoáng qua. Đạo sĩ uống cạn hơn hai chục chén rồi chào ra về.
Từ đó cứ mở tiệc mời khách là đạo sĩ tới, gặp lúc ăn thì ăn, gặp lúc uống thì uống, Hàn cũng hơi bực mình. Có lần đang uống rượu, Từ chế nhạo nói "Đạo trưởng hàng ngày làm khách, sao không làm chủ một phen?". Đạo sĩ cười đáp "Đạo sĩ với cư sĩ như nhau, chỉ có hai vai mang một cái mồm thôi", Từ thẹn không sao trả lời được. Đạo sĩ nói "Tuy nhiên bần đạo có lòng thành đã lâu, cũng phải hết sức làm chén nước để mời", kế uống xong dặn "Trưa mai xin mời quá bộ".
Hôm sau hai người rủ nhau cùng đi, vẫn ngờ là đạo sĩ không đặt tiệc, nhưng ông ta đã đón trên đường. Vào cổng thấy nhà cửa đều mới làm, gác rộng liền mây, vô cùng lạ lùng, nói "Lâu không tới đây, xây mới lúc nào vậy?". Đạo sĩ đáp "Cũng vừa làm xong". Vào tới nhà trong thấy đồ vật bày biện đều sang trọng đẹp đẽ, các nhà thế gia cũng không có, hai người bất giác nảy lòng kính trọng. Mời ngồi xong, những kẻ rót rượu bưng mâm đều là bọn đồng tử đẹp trai khoảng mười sáu tuổi, áo gấm hài đỏ, còn rượu và thức ăn thơm ngon thì ê hề. Ăn xong lại bưng lên thức tráng miệng, có nhiều loại trái cây quý không biết tên, đựng trong khay pha lê ngọc thạch lóng lánh, rượu thì rót vào chén pha lê chu vi cả thước.
Đạo sĩ nói "Gọi chị em họ Thạch lên đây", tiểu đồng đi giây lát thì có hai mỹ nhân bước vào. Một nàng mảnh khảnh mà cao như cành liễu, một nàng thấp, tuổi cũng trẻ hơn, cả hai đều xinh đẹp. Đạo sĩ sai hát mời rượu, nàng trẻ tuổi gõ phách mà hát, nàng kia thổi sáo họa lại, âm thanh vi vu trong trẻo. Dứt khúc, đạo sĩ đưa chén ra bảo rót rượu, rồi bảo uống cạn. Lại hỏi người đẹp "Lâu quá không múa, nay múa được không?", lập tức có bọn tớ trai đem nệm ra trải dưới tiệc. Hai nàng đối nhau múa, áo dài phất tung, hương thơm bay ngát, múa xong dựa người vào tấm bình phong vẽ. Hai người thần hồn bay mất, bất giác uống tới say mèm.
Đạo sĩ cũng không nhìn ngó gì tới khách nữa, cứ nâng chén uống cạn, kế đứng lên nói "Xin phiền cứ tự rót rượu, ta đi nghỉ một lúc sẽ trở lại" rồi bước đi. Vách phía nam có đặt một cái giường khảm xà cừ, hai cô gái đem nệm gấm trải ra rồi đỡ đạo sĩ lên nằm. Đạo sĩ bèn kéo nàng cao lên cùng nằm, sai nàng trẻ đứng ở dưới xoa lưng. Hai người thấy thế bực lắm, Từ bèn gọi lớn "Đạo sĩ không được vô lễ", rồi sấn tới phá đám, đạo sĩ vội trở dậy chạy trốn. Từ thấy nàng trẻ tuổi vẫn đứng trước giường, nhân đang say bèn kéo lên chiếc giường ở vách phía bắc, công nhiên ôm ấp. Ngoái lại thấy người đẹp trên giường vẫn nằm yên bèn nói với Hàn "Sao ông đứng xa thế". Hàn liền leo lên giường định giao hoan, nhưng người đẹp ngủ say, lay không nhúc nhích bèn ôm nàng cùng ngủ. Trời sáng tỉnh rượu thúc giấc, thấy trong lòng có một vật lạnh buốt, nhìn lại thì ra mình ôm một hòn đá dài nằm dưới bậc thềm. Vội nhìn lại Từ thấy vẫn chua tỉnh, gối đầu vào một viên đá ngủ say trong nhà xí cũ. Tới đá cho tỉnh dậy, cùng lạ lùng kinh sợ, nhìn quanh thì chỉ có một sân cỏ hoang, hai gian nhà nát mà thôi.
044. Họ Hồ (Hồ Thị)
Vùng Trục Lệ (tỉnh Hà Bắc) có nhà giàu muốn đón thầy dạy học, chợt có vị Tú tài tới cửa tự giới thiệu. Chủ nhân mời vào, thấy ngôn ngữ hào sảng, quý mến như bạn lâu ngày. Tú tài tự nói mình họ Hồ*, chủ nhân bèn nộp tiền dạy học, giữ lại ở đó. Hồ dạy học rất chăm chỉ, kiến thức khác hẳn bọn học trò tầm thường, nhưng thường ra ngoài chơi đến khuya mới về, cổng nẻo vẫn đóng chặt, không thấy gõ cửa mà đã vào tới trong phòng rồi. Chủ nhân ngờ là hồ nhưng xét tình ý thấy không có vẻ độc ác nên vẫn đối xử lễ phép, không vì quái dị mà coi thường.
*Họ Hồ: chữ "Hồ" đây viết 1à nhục + nguyệt đồng âm chứ không phải là chữ "hồ" (con chồn).
Hồ biết chủ nhân có con gái, muốn kết thông gia, mấy lần nói xa nói gần nhưng chủ nhân cứ làm như không hiểu. Hồ bèn lấy cớ có việc đi vắng, hôm sau có khách tới, buộc con lừa đen ở cổng. Chủ nhân ra mời vào, thấy tuổi khoảng năm mươi, áo quần tươm tất sạch sẽ, lời lẽ ý khí phong nhã, ngồi vào trò chuyện mới biết là người mai mối của Hồ. Chủ nhân im lặng hồi lâu rồi nói "Ta với Hồ tiên sinh quen nhau không có gì trái ý, cần gì phải làm thông gia, vả lại con gái ta đã hứa gả cho người khác rồi, phiền ông tạ lỗi giùm với tiên sinh". Khách nói "Ta biết chắc lệnh ái còn chưa hứa gả cho ai, sao ông cự tuyệt nhau quá thế?". Nói đi nói lại mấy lần chủ nhân vẫn không chịu, khách có vẻ thẹn thùng, nói "Họ Hồ cũng là thế tộc, có chỗ nào không bằng ông?", chủ nhân nói thẳng rằng "Thật không có ý gì khác, chỉ vì khác loài mà thôi".
Khách nghe thấy nổi giận, chủ nhân cũng nổi giận, lớn tiếng sỉ vả nhau. Khách đứng bật dậy đánh chủ nhân, chủ nhân sai người nhà vác gậy đánh đuổi, khách bỏ chạy bỏ cả con lừa lại. Nhìn kỹ lại thì thấy con lừa lông đen tuyền, xua tai vẫy đuôi đúng là con lừa, nhưng kéo đi thì không động đậy, đánh đuổi thì theo tay khuỵu xuống kêu rền rĩ, té ra là một con sâu. Chủ nhân thấy khách căm tức, biết ắt sẽ báo thù nên chuẩn bị đề phòng. Hôm sau quả có quân hồ kéo tới rất đông, người đi ngựa, người đi bộ, hoặc mang giáo hoặc mang cung, người kêu ngựa hí ầm ĩ, chủ nhân không dám ra.
Bọn hồ kêu lớn "Đốt nhà y đi", chủ nhân càng sợ. Có người khỏe mạnh dắt gia nhân xông ra ném đá bắn tên, hai bên đánh nhau, bên nào cũng có người bị thương, bọn hồ dần dần yếu thế, nhao nhao bỏ chạy, vút cả gươm giáo xuống đất, thấy sáng loáng như tuyết, tới gần nhặt lên thì toàn là lá lúa mì. Mọi người cười nói "Tài nghề bọn chúng chỉ có bấy nhiêu thôi" nhưng sợ hồ sẽ lại kéo tới nên càng phòng bị nghiêm ngặt. Sáng hôm sau mọi người đang họp lại bàn tán chợt có một người to lớn từ trên trời rơi xuống, mình cao hơn một trượng, vai rộng mấy thước, vung đại đao to bằng cánh cửa đuổi người mà chém. Mọi người bắn tên đạn túi bụi, người ấy ngã lăn ra đất, nhìn lại thì là hình nộm bằng cỏ mà thôi, cùng lấy làm lạ. Ba ngày liền hồ không tới nữa, mọi người hơi lơ là. Vừa lúc chủ nhân vào nhà xí, chợt bọn hồ ào ào kéo tới bắn loạn xạ, bị trúng tên vào mông, cả sợ kêu cứu, mọi người đổ ra đánh dữ dội, bọn hồ mới lui. Nhổ tên ra xem thì đều là cọng cỏ bồng.
Cứ thế hơn tháng, bọn hồ lúc tới lúc không, tuy không bị thiệt hại gì nhiều, nhưng ngày nào cũng phải nơm nớp đề phòng, chủ nhân vô cùng lo lắng. Một hôm Hồ sinh dẫn quân tới, chủ nhân đích thân ra, Hồ thấy mặt bèn lẩn vào đám đông, chủ nhân gọi lớn, bất đắc dĩ Hồ phải ra. Chủ nhân nói "Ta tự thấy mình không hề thất lễ với tiên sinh, sao tiên sinh lại dấy động binh đao?". Bọn hồ muốn bắn, Hồ ngăn lại, chủ nhân tới gần nắm tay mời vào phòng dạy học cũ, bày rượu khoản đãi rồi ung dung nói "Tiên sinh là người đạt lý, chắc sẽ tha thứ cho. Ta tuy thân thiết với tiên sinh nhưng không muốn làm thông gia, chỉ vì xe ngựa nhà cửa của tiên sinh phần lớn đều khác với loài người, con gái ta theo về thì tiên sinh cũng biết là không thể được. Vả lại lời ngạn có câu: "Trái dưa mọc ra thì ai hái cũng chỉ để ăn, vậy tiên sinh cưới làm gì?". Hồ cả thẹn, chủ nhân nói "Không sao, con trai ta còn đây, nếu không chê là ngu hèn, thì thằng nhỏ theo học ông đã mười lăm tuổi, xin cho nó làm rể, không biết ông có đứa con gái nào không?" Hồ mừng rỡ nói "Ta có đứa em gái kém công tử một tuổi, nếu không chê là thô lậu, xin được hầu hạ khăn lược cho công tử, có được không?". Chủ nhân đứng lên vái lạy, Hồ cũng vái trả, rồi đó thù tạc rất vui vẻ, quên hết thù hiềm cũ. Chủ nhân sai mang rượu thịt ra khao thưởng tất cả bọn hồ đi theo, trên dưới đều hoan hỉ. Lại hỏi tới nơi ở để sai người tới nộp sính lễ nhưng Hồ từ tạ, trời tối lại đốt đuốc uống rượu đến lúc say mới về, từ đó chủ nhân lại được yên ổn.
Hơn năm sau Hồ không tới, có người ngờ là hẹn dối nhưng chủ nhân vẫn kiên tâm chờ. Lại sau nửa năm Hồ chợt tới, hỏi thăm sức khỏe chủ nhân xong, nói "Em gái ta đã truởng thành, xin chọn ngày lành tháng tốt cho nó được về thờ cha mẹ chồng". Chủ nhân mừng rỡ, lập tức đính ước. Kế Hồ ra về, đến ngày hẹn quả nhiên có xe kiệu đưa cô dâu tới, của hồi môn rất nhiều, bày đầy cả phòng. Cô dâu ra mắt cha mẹ chồng, vô cùng lễ phép, chủ nhân cả mừng. Hồ sinh cùng một người em trai đưa cô dâu tới, trò chuyện đều phong nhã, tửu lượng lại cao, uống rượu đến sáng mới về. Cô dâu mới lại có thể biết trước năm nào được mùa năm nào mất mùa, nên việc trồng trọt mưu sinh trong nhà cứ theo đó mà quyết. Anh em Hồ sinh cùng bà mẹ thường tới thăm nàng, mọi người đều biết mặt.
045. Bậc Vương Công (Vương Giả)
Tuần phủ Hồ Nam là ông Mỗ sai quan Châu tá áp tải sáu mươi vạn tiền lương về kinh. Giữa đường gặp mưa, trời tối lỡ đường không có chỗ ngủ, thấy xa xa có một ngôi chùa cổ bèn tới đó nghỉ lại. Sáng ra nhìn tới số tiền thì đã mất hết. Mọi người kinh hãi nhưng không thể quy tội cho ai, bèn về bẩm với Tuần phủ. Tuần phủ cho là bịa đặt định đem trị tội, đến khi tra hỏi các sai dịch đi cùng thì không ai nói gì khác, liền bắt phải trở lại chỗ mất tiền điều tra manh mối.
Tới trước miếu thấy một người mù tướng mạo kỳ dị treo tấm bảng đề "Biết việc trong lòng", nhân nhờ bói cho. Người mù nói "Đây là vì việc mất vàng", viên Châu tá nói "Phải" rồi kể lể nỗi khổ. Người mù đòi một cỗ kiệu, nói "Cứ đi theo ta sẽ biết", mọi người theo lời, các sai dịch cũng đi theo. Người mù nói "Đi về phía đông", mọi người đi về phía đông, nói "Đi về phía bắc", mọi người đi về phía bắc. Được năm ngày thì vào trong núi sâu, chợt thấy thành quách, người đi lại nhộn nhịp. Vào thành đi một lúc, người mù nói "Dừng lại" rồi xuống kiệu, chỉ về hướng nam nói "Cứ tới cái cổng cao quay về phía tây thì vào mà hỏi" rồi chắp tay bỏ đi.
Viên Châu tá theo lời, quả tới cái cổng cao liền vào. Có một người ra, ăn mặc theo kiểu thời Hán, không xưng tên họ. Viên Châu tá kể nguyên do mình tới, người ấy nói "Xin ở lại vài hôm, sẽ đưa ông tới ra mắt người có trách nhiệm" Rồi đưa viên Châu tá đi, cho ở một nơi riêng, lo đủ cơm nước. Nhân lúc rảnh rỗi, viên Châu tá đi dạo ra sau nhà thấy có cái đình trong khu vườn, tùng già rợp bóng, cỏ mượt như nhung. Qua mấy đoạn hành lang lại tới một cái đình cao, theo bậc thềm bước lên, thấy trên vách treo mấy tấm da người còn đủ cả tai mắt mũi mồm, mùi tanh nồng nặc, bất giác sởn hết gai ốc, vội vàng quay về phòng. Tự nghĩ chắc phải gởi thây nơi đất lạ, không mong gì sống được. Nhưng nghĩ bề nào cũng chết, hãy cứ chờ xem.
Hôm sau người kia tới gọi đi, nói "Hôm nay có thể gặp được", viên Châu tá dạ dạ. Người kia cưỡi ngựa phóng như bay, viên Châu tá hộc tốc chạy theo. Lát sau tới một quân dinh oai vệ như dinh Tổng đốc, sai dịch dàn hàng hai bên, không khí nghiêm trang. Người kia xuống ngựa dẫn viên Châu tá vào, qua một lớp cửa nữa, thấy một vị vương giả áo gấm mũ ngọc ngồi quay về hướng nam. Viên Châu tá bước lên lạy chào, vị vương giả hỏi "Ngươi là quan giải lương ở Hồ Nam phải không?", viên Châu tá thưa phải. Vị vương giả nói "Tiền còn đủ ở đây, chẳng đáng bao nhiêu, quan Tuần phủ của ngươi khẳng khái dâng nộp chắc cũng được mà".
Viên Châu tá khóc nói "Kỳ hạn đã mãn, trở về sẽ bị trị tội, biết lấy gì bẩm lại với quan trên?" Vị vương giả đáp "Chuyện đó không khó", rồi đưa cho một cái tráp to, nói "Đem cái này về đưa lên, chắc chắn vô sự". Kế hạ lệnh lực sĩ đưa ra, viên Châu tá sợ sệt không dám nói gì, nhận tráp mà về. Đường ra núi sông khác hẳn đường vào, ra khỏi núi người đưa đường quay về. Vài ngày về tới Trường Sa (tỉnh thành Hồ Nam) bẩm lại với Tuần phủ. Tuần phủ càng cho là bịa đặt, nổi giận không thèm nghe nữa, sai ngay tả hữu mang dây ra trói. Viên Châu tá cởi khăn lấy cái tráp đưa lên. Tuần phủ mở ra, vừa nhìn thấy đã tái mặt bảo thôi trói, nói "Tiền bạc là việc nhỏ, cho ngươi lui". Kế vội phát văn thư sai các thuộc quan tìm cách bù vào, vài hôm sau thì ốm rồi chết.
Trước đó Tuần phủ cùng người thiếp yêu nằm ngủ, khi tỉnh dậy thì tóc người thiếp bị cắt hết, cả nha môn hoảng sợ không biết vì sao, thì ra tóc ấy được đựng trong cái tráp. Ngoài ra còn có lá thư viết "Ngươi từ khi làm quan Tuần phủ, chúc vị cao sang, hối lộ tham ô tiền không kể xiết. Khoản tiền sáu mươi vạn kia đã xét thu vào kho, hãy mở túi tham mà nộp cho đủ. Viên quan áp tải không có tội, không được xử bậy. Trước đây cắt tóc người thiếp để cảnh cáo qua loa, nếu không tuân lệnh thì sớm tối sẽ lấy đầu ngươi. Món tóc gởi kèm là để làm tin đấy". Sau khi Tuần phủ chết, người nhà mới truyền lá thư ra. Về sau các thuộc viên sai người tìm tới chốn nọ thì chỉ thấy núi cao vực sâu, không có đường đi nào.
Dị Sử thị nói: Câu chuyện rất giống với chuyện các hiệp khách đời cổ lấy vàng chia cấp cho người nghèo, thật cũng lạ lùng khoái ý. Nhưng người tránh loạn vào Đào Nguyên thì không đi ăn cướp, mà nếu các bậc kiếm khách tụ họp thì làm sao có được thành quách nha thự như vậy được? Than ôi, đó là vị thần nào chăng? Nhưng nếu có một chỗ như vậy thật, thì chỉ sợ người trong thiên hạ tới tố cáo không lúc nào ngớt thôi.
046. Trần Vân Thê (Trần Vân Thê)
Chân Dục Sinh người Di Lăng đất Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc) là con một Cử nhân, học giỏi đẹp trai, hai mươi tuổi đã nổi tiếng. Lúc còn nhỏ có thầy tướng đoán "Về sau sẽ lấy vợ là đạo cô", cha mẹ đều cười nhưng bàn tới việc hôn nhân của sinh thì khổ nỗi cứ kén chọn mãi không xong.
Tang phu nhân mẹ sinh quê ở huyện Hoàng Cương (tỉnh Hồ Bắc), sinh có việc về quê ngoại nghe người ta nói "Bốn nàng Vân ở Hoàng Cương, xinh đẹp không ai sánh bằng". Nguyên ở huyện có am thờ Lữ tổ bốn đạo cô trong am đều xinh đẹp nên có lời đồn như thế. Am cách nhà họ Tang hơn mười dặm nên sinh lén tới gọi cổng, quả có bốn đạo cô vui vẻ ra đón tiếp, phong thái đều tao nhã, có một nàng trẻ nhất xinh đẹp vô song, sinh thích lắm cứ nhìn chằm chằm. Nàng lấy tay che mặt nhìn qua chỗ khác. Các đạo cô lo lấy ấm pha trà, sinh thừa dịp hỏi thăm tên họ, nàng đáp "Họ Trần tên Vân Thê". Sinh nói đùa "Lạ thật, tiểu sinh lại đúng họ Phan*". Trần đỏ mặt cúi đầu không nói, đứng dậy bước ra.
*Họ Trần... họ Phan: Cổ kim nữ sử chép thời Tống ở đạo quán Nữ Trinh có đạo cô Trần Diệu Thường rất xinh đẹp, hay thơ giỏi đàn, tư thông với bạn của quan huyện Lâm Giang Trương Vu Hồ là Phan Pháp Thành. Phan kể lại với Trương, Trương ra lệnh cho hai người lấy nhau. Đây Chân Dục Sinh có ý nói đùa Vân Thê là Trần Diệu Thường còn mình là Phan Pháp Thành.
Giây lát trà quả bưng lên, các đạo cô xưng tên: một nàng tên Bạch Vân Thâm, tuổi khoảng ba mươi, một nàng tên Thịnh Vân Miên khoảng đôi mươi trở lại, một nàng tên Lương Vân Đống khoảng hăm bốn hăm lăm là đàn em, duy Vân Thê không vào Sinh mất vui bèn hỏi, Bạch đáp "Con nhãi ấy sợ người lạ". Sinh đứng lên cáo từ, Bạch hết sức giữ lại không được, nói "Nếu muốn gặp Vân Thê, xin mời mai tới"
Sinh về nhớ nhung tha thiết, hôm sau lại tới am. Các đạo cô đều có mặt, chỉ vắng Vân Thê. Sinh chưa tiện hỏi thì các đạo cô dọn cơm mời khách, sinh cố từ chối nhưng không được. Bạch xắn bánh trao đũa mời mọc rất ân cần. Sinh hỏi Vân Thê đâu, họ đáp sẽ tự tới. Hồi lâu mặt trời xế bóng, sinh muốn về, Bạch nắm tay giữ lại nói "Xin cố ở lại, ta sẽ bắt con nhãi ra chào", sinh bèn ở lại. Giây lát họ thắp đèn bày rượu, Vân Miên cũng ra ngoài. Rượu được vài tuần, sinh cáo đã say, Bạch nói "Cứ cạn ba chén nữa thì Vân Thê sẽ ra", sinh bèn uống đủ ba chén. Lương cũng nài nỉ mời ba chén, sinh uống cạn rồi úp chén cáo là đã say. Bạch nhìn Lương nói "Chúng ta đáng khinh không thể mời rượu được, cô đi dắt con nhãi Trần tới đây, cứ nói chàng Phan đợi Diệu Thường lâu rồi". Lương ra, giây lát quay lại nói Vân Thê không tới. Sinh muốn về nhưng đã khuya liền giả say nằm vật ra. Hai người cởi quần áo sinh rồi thay phiên đòi hỏi suốt đêm không sao chịu nổi, trời sáng sinh không cáo biệt về luôn, mấy ngày sau không dám quay lại.
Nhưng vẫn không sao quên được Vân Thê nên cứ lâu lâu lại tới gần am nghe ngóng. Một hôm trời đã tối, thấy Bạch cùng một thiếu niên đi ra, sinh mừng vì không sợ Lương lắm liền tới gõ cổng. Vân Miên ra mở, hỏi thăm thì Lương cũng đi vắng. Nhân hỏi Vân Thê, Thịnh dẫn tới một gian phòng gọi "Vân Thê, có khách tới!". Chỉ thấy cửa phòng đóng sầm lại, Thịnh cười nói "Đóng cửa rồi!". Sinh đứng ngoài cửa sổ như định nói gì, Thịnh liền bỏ đi. Vân Thê nói vọng ra "Họ đều lấy thiếp làm mồi nhử chàng, nếu chàng tới mãi sẽ mất mạng đấy. Thiếp không thể giữ trọn thanh quy nhưng cũng không dám coi thường liêm sỉ, muốn đưọc người như chàng Phan để thờ mà thôi". Sinh thề chung sống suốt đời, Vân Thê nói "Công sư phụ thiếp nuôi dạy cũng không ít, nếu quả thương yêu nhau thì phải đem hai mươi lượng vàng chuộc thiếp, thiếp xin chờ ba năm. Còn như muốn làm trò trên bộc trong dâu thì không thể được". Sinh nhận lời đang muốn nói rõ về mình thì Thịnh đã trở lại, đành theo ra rồi chào về. Trong lòng vẫn buồn rầu, muốn nán lại gặp nbau lần nữa thì gặp lúc người nhà tới báo cha bệnh, bèn vội vã về quê.
Không bao lâu ông Cử nhân mất, phu nhân thì dạy con rất nghiêm, sinh không dám tỏ bày tâm sự, chỉ dè sẻn để dành dụm tiền bạc. Có ai mối lái đánh tiếng thì cứ lấy cớ đang có tang từ chối. Mẹ không nghe, sinh lựa lời nói "Trước đây ở Hoàng Cương bà ngoại đã định hỏi con gái họ Trần cho con, thật đúng sở nguyện. Nay nhà có việc, tin tức cách trở, đã lâu chưa đi thăm bà, nay mai con sẽ đi một phen, nếu đám đó không xong sẽ xin vâng lời mẹ". Phu nhân bằng lòng, sinh vội thu xếp tiền để dành được đem theo.
Tới Hoàng Cương qua am thì viện quán vắng vẻ khác hẳn ngày trước, vào trong chỉ có một ni cô già đang nấu cơm, nhân hỏi tin tức. Ni cô nói "Năm rồi đạo sĩ già chết, bốn nàng Vân mỗi người một ngả". Hỏi họ đi đâu, bà đáp Vân Thâm, Vân Đống trốn theo bọn trai trẻ đàng điếm, nghe nói Vân Thê tới ngụ ở bắc huyện, còn Vân Miên thì không nghe tin". Sinh nghe thế buồn rầu than thở, sai đánh xe lên bắc, gặp đạo quán là hỏi thăm mà không thấy tung tích gì. Đành rầu rĩ trở về nói dối với mẹ rằng "Cậu nói ông Trần đi Nhạc Châu (huyện thuộc Hồ Nam), đợi khi nào ông về sẽ sai người báo tin".
Nửa năm sau phu nhân về thăm nhà, đem chuyện hỏi mẹ thì bà không biết gì. Phu nhân giận con nói dối, nhưng bà mẹ ngờ là hai cậu cháu bàn tính riêng với nhau mà chưa nói cho mình biết, may là cậu đi vắng nên sinh không bị lộ chuyện nói dối. Phu nhân lên dâng hương trên núi Liên Phong, tối nghỉ trọ ở dưới núi, đã đi nằm thì chủ nhân gõ cửa dẫn một đạo cô vào trọ chung. Nàng tự xưng tên Trần Vân Thê, nghe nói phu nhân ở Di Lăng liền qua ngồi cùng giường kể chuyện mình trắc trở, lời lẽ buồn rầu, sau cùng nói "Có người anh họ là Phan sinh cũng ở Di Lăng, phiền phu nhân sai con cháu nhắn giúp một câu là ta đang ở tạm chỗ sư thúc Vương Đạo Thành tại quán Thê Hạc, sớm tối nguy nan khổ sở, một ngày như một năm, xin tới thăm cho sớm, chứ e sau này chưa biết ra sao". Phu nhân hỏi tên Phan sinh thì nàng lại không biết, chỉ nói "Anh ấy đã đi học ở trường huyện, các vị Tú tài chắc ai cũng biết". Trời chưa sáng nàng đã từ biệt ra đi, còn ân cần dặn đi dặn lại.
Phu nhân về nhà kể lại với sinh, sinh quỳ xuống nói "Thưa thật với mẹ, chàng Phan sinh ấy chính là con". Phu nhân hỏi rõ duyên cớ, giận nói "Thằng con xấu xa vào chùa quán chơi bời, nếu lấy đạo cô làm vợ thì còn mặt mũi nào nhìn họ hàng bè bạn nữa!", sinh cúi đầu không dám nói gì. Gặp khi sinh lên quận thi, lén thuê thuyền tới thăm Vương Đạo Thành. Tới nơi thì Vân Thê đã ra đi nửa tháng không về, sinh về nhà buồn rầu phát bệnh. Kế bà Tang mất, phu nhân về chịu tang. Chôn cất xong trở về lạc đường tới nhà họ Kinh, hỏi ra thì là em họ mình. Phu nhân nhân tiện ghé vào chơi, thấy có một thiếu nữ trong phòng, tuổi khoảng mười tám mười chín, dung nhan tuyệt thế, bà chưa từng thấy ai đẹp bằng. Phu nhân thường muốn tìm một nàng dâu thật đẹp cho thằng con không oán hờn, thấy nàng thì động lòng bèn hỏi lai lịch. Bà em nói "Đây là Vương thị, cháu gọi ông Kinh bằng cậu, cha mẹ đều đã mất, tạm ở nhờ nhà ta" phu nhân hỏi chồng là ai, bà em đáp chưa có. Phu nhân cầm tay nàng trò chuyện thấy dịu dàng nết na thích lắm, vì thế nghỉ lại qua đêm, ngỏ ý riêng với bà em. Bà em nói "Xứng đôi lắm nhưng nó làm cao, nếu không thì đâu lại đến nay còn chưa lấy chồng, xin để ta bàn lại". Phu nhân gọi cô gái tới ngủ chung giường, nàng nói cười rất vui vẻ, xin nhận phu nhân làm mẹ. Phu nhân mừng, rủ cùng về Kinh Châu. Nàng càng vui mừng, hôm sau cùng lên thuyền về.
Về tới nhà thì sinh còn ốm chưa dậy. Mẹ muốn con đỡ bệnh liền sai tỳ nữ vào nói thầm với sinh "Phu nhân đưa người đẹp về cho công tử đấy". Sinh chưa tin, núp dưới cưa sổ nhìn ra, thấy cô gái còn đẹp hơn cả Vân Thê, nhân nghĩ "Cái hẹn ba năm đã hết, nàng ra đi không về thì hoa thơm chắc đã có chủ, được người đẹp này thì trong lòng cũng được an ủi". Rồi đó vui vẻ trở lại, bệnh cũng dần khỏi. Phu nhân gọi hai người tới chào nhau, sinh ra. Phu nhân nói với cô gái "Có hiểu ý ta đưa con cùng về không?" nàng mỉm cười đáp "Con đã biết rồi, có điều ý con lúc đầu nhận về cùng thì mẹ chưa biết. Lúc con còn nhỏ đã đính ước với Phan sinh ở Di Lăng, nhưng tin tức vắng bặt, chắc chàng đã có vợ khác rồi. Nếu thế con sẽ làm con dâu của mẹ, nếu không thế thì con sẽ làm con gái của mẹ suốt đời, sẽ có ngày báo đáp ơn sâu. Phu nhân nói "Nếu con đã có lời đính ước ta cũng không ép. Nhưng trước đây ta ở núi Ngũ Tổ có gặp một đạo cô hỏi thăm họ Phan, nay con cũng nói tới họ Phan, song các nhà thế tộc đất Di Lăng vốn không có họ ấy" Cô gái giật mình nói "Người nghỉ lại dưới núi Liên Phong là mẹ sao? Người hỏi thăm họ Phan chính là con đây". Phu nhân chợt hiểu ra, cười nói "Nếu đúng thế thì Phan sinh ở đây". Cô gái hỏi ở đâu phu nhân sai tỳ nữ dẫn tới chào sinh. Sinh giật mình hỏi "Nàng là Vân Thê phải không?". Cô gái hỏi sao biết, sinh kể lại sự tình, lúc ấy nàng mới biết sinh tự xưng là Phan lang để đùa, thẹn thùng bàn chuyện chung thân rồi vội vàng quay ra thưa với mẹ. Mẹ hỏi "Thế sao con lại lấy họ Vương" nàng đáp "Con vốn họ Vương, vì đạo sư yêu quý coi như con gái nên lấy họ Trần thôi". Phu nhân cũng mừng, chọn ngày làm lễ thành hôn.
Nguyên trước đây cô gái và Vân Miên đều tới nương tựa Vương Đạo Thành. Đạo Thành ăn ở hẹp hòi, Vân Miên bỏ đi Hán Khẩu, còn nàng vốn yếu ớt ngây thơ không thể làm lụng vất vả, lại xấu hổ không dám đi hành nghề đạo sĩ nên Đạo Thành cũng không thích lắm. Gặp lúc ông cậu họ Kinh đỉ qua Hoàng Cương, nàng gặp mặt rơi nước mắt, ông bèn đưa về nhà, cho bỏ trang phục đạo cô, định gả cho nhà sĩ tộc nên giấu biệt việc nàng từng làm đạo cô. Nhưng có ai làm lễ vấn danh thì nàng không chịu, cậu mợ không biết nàng muốn gì nên rất bực mình. Hôm ấy nàng theo phu nhân đi, được chỗ gửi gắm tử tế, họ như cất được gánh nặng. Sau lễ hợp cẩn, hai người cùng kể lại chuyện mình, mừng quá phát khóc. Cô gái hiếu thảo kính cẩn, phu nhân rất thương yêu, nhưng nàng chỉ gảy đàn đánh cờ chứ không biết coi sóc gia nhân làm ăn nên bà rất lo lắng.
Hơn tháng sau phu nhân sai vợ chồng tới thăm họ Kinh, ở lại vài hôm rồi về. Thuyền đang trên sông chợt có một thuyền khác đi tới, trong có một dạo cô tới gần thì là Vân Miên. Vân Miên chỉ thân với cô gái nên nàng vui mừng gọi qua thuyền mình, nhìn nhau cùng chua xót. Hỏi định đi đâu, Thịnh đáp "Lâu ngày nhớ nhau, tới quán Thê Hạc tìm thì nghe tin nàng đã về nương tựa ông cậu họ Kinh nên định tới Hoàng Cương thăm thôi. Không ngờ nàng đã được đoàn tụ với người trong mộng rồi. Nay nhìn nàng như tiên, chỉ còn kẻ phiêu bạt này không biết đến lúc nào mới hết kiếp" rồi than thở mãi. Cô gái bày kế, bảo đổi bỏ trang phục đạo cô giả làm chị mình về ở với phu nhân rồi sẽ thong thả chọn nơi xứng đáng.
Thịnh nghe theo, về tới nhà cô gái vào thưa trước với phu nhân rồi Thịnh mới vào, cử chỉ như con nhà đại gia, trò chuyện thì rõ ra là người am hiểu việc đời. Phu nhân góa bụa đang buồn vì vắng vẻ cô đơn, gặp Thịnh vui lắm, chỉ sợ nàng đi. Thịnh dậy sớm giúp đỡ bà làm việc nhà, không coi mình là khách. Mẹ càng mừng, thầm muốn cưới thêm chị để át cái tiếng đạo cô của em nhưng chưa dám nói ra. Một hôm bà quên một việc, vội hỏi lại thì Thịnh đã làm giúp xong từ lâu, bèn nói với cô gái "Người đẹp như tranh mà không làm nổi việc nhà thì có làm gì. Con dâu mà được như chị thì ta không lo gì nữa".
Không ngờ cô gái đã tính từ lâu nhưng sợ mẹ giận, nghe nói thế liền cười thưa "Mẹ đã yêu quý chị ấy thì con dâu muốn bắt chước Nữ Anh Nga Hoàng*, ý mẹ thế nào?" Mẹ không đáp nhưng cũng tươi cười cô gái lui về nói với sinh "Mẹ già gật đầu rồi". Rồi dọn dẹp một gian phòng khác, nói với Thịnh rằng "Lúc trước cùng ngủ chung trong đạo quán, chị nói chỉ cần được một người biết thương yêu thì hai ta cùng thờ, chị còn nhớ không?". Thịnh bất giác quắc mắt nói "Cái ta nói là "thương yêu" ấy không phải gì khác đâu, nếu ngày ngày làm lụng mà không ai biết cho nỗi ngọt bùi cay đắng. Vài hôm ở đây có chút khó nhọc, được mẹ già thương yêu thì lòng đã khác trước rồi. Nếu không ra lệnh đuổi khách thì xin được sống mãi với mẹ già là đủ thỏa nguyện, chứ không mong làm theo đúng lời nói trước đây".
*Nga Hoàng Nữ Anh: hai con gái vua Nghiêu, chị em cùng 1àm vợ vua Thuấn, đây ý nói hai người Vân Miên Vân Thịnh cùng lấy Chân Dục Sinh.
Cô gái thưa lại với mẹ, mẹ sai chị em thắp hương thề không oán hối rồi bảo sinh làm lễ thành thân với Vân Miên. Lúc sắp đi ngủ, nàng nói với sinh "Thiếp là cô gái còn trinh già hăm ba tuổi đấy". Sinh chưa tin, đến lúc thấy trên nệm có vết hồng mới lấy làm lạ. Thịnh nói "Thiếp sở dĩ vui được chổng tốt không phải vì không chịu được cảnh vắng vẻ, mà thật là vì tấm thân khuê các mà tươi cười thù ứng như ca kỹ thanh lâu thì không kham nổi thôi. Nên mượn dịp này vào ở nhà chàng, sẽ vì chàng phụng duỡng mẹ già, coi sóc việc nhà, chứ việc vui thú phòng the xin chàng cứ tìm người khác". Ba ngày sau Miên ôm chăn chiếu qua ngủ với mẹ, đuổi không chịu đi. Vân Thê bèn vào phòng mẹ giành chỗ trước, Vân Miên bất đắc phải về với sinh. Từ đó cứ hai ba ngày đổi phiên một lần, dần dần thành lệ.
Phu nhân vốn đánh cờ giỏi nhưng từ khi góa bụa không rảnh mà chơi, từ khi có Thịnh coi sóc việc nhà đâu đấy nên cả ngày rảnh rỗi, cứ đánh cờ với Vân Thê. Tối đến thì thắp đèn pha trà nghe hai con dâu đàn hát, nửa đêm mới ngủ. Thường nói với người ta rằng "Lúc ông ấy còn sống cũng chưa từng được vui thế này". Thịnh coi việc xuất nhập, thường ghi sổ trình mẹ, mẹ ngờ vực nói "Các con vẫn nói là mồ côi từ nhỏ, vậy ai dạy cho biết chữ đánh đàn chơi cờ?". Cô gái cười kể thật, mẹ cũng cười nói "Ta lúc đầu không muốn con trai cưới một đạo cô làm vợ, nay lại cưới tới hai đạo cô. Sực nhớ lại quẻ bói lúc nó còn là trẻ con, mới biết số trời đã định thì khó mà tránh được".
Sinh đi thi mấy lần không đỗ, phu nhân nói "Nhà ta tuy không giàu, nhưng ba trăm mẫu ruộng xấu may được Vân Miên coi sóc nên ngày càng no ấm, con cứ ở dưới gối cùng hai nàng dâu vui thú với già này, chứ ta không mong con cầu công danh phú quý", sinh vâng lời. Sau Vân Miên sinh một trai một gái, Vân Thê sinh một gái ba trai, mẹ hơn tám mươi mới mất, các cháu nội đều được vào học trường huyện, cháu lớn do Vân Miên sinh thi đỗ Cử nhân.
047. Chúc Thành (Chúc Thành)
Trong hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam) thường có việc thủy thần mượn thuyền, thuyền mà trống thì dây buộc chợt tự tháo ra, lững lờ trôi đi. Chỉ nghe trên không trung có tiếng đàn sáo trỗi lên, những người chèo thuyền quỳ mọp trong một góc không dám ngẩng nhìn, để mặc thuyền tự trôi, xong lại dạt vào chỗ cũ.
Có Liễu sinh thi rớt về say nằm trên thuyền, chợt có tiếng nhạc nổi lên, những người chèo thuyền lay gọi vẫn không tỉnh, vội ra cả đầu thuyền chui xuống dưới sạp. Chợt có người đẩy sinh, sinh say quá, theo tay lăn xuống dưới sàn, vẫn ngủ như cũ, họ bèn để cho nằm đó. Giây lát đàn trống om sòm, sinh hơi tỉnh, ngửi thấy mùi lan xạ thơm phức, hé mắt ra nhìn thấy trên thuyền đều là mỹ nhân, biết là có việc lạ bèn giả như vẫn còn ngủ. Kế nghe truyền gọi Chúc Thành, lập tức có người thị tỳ tới, đứng cạnh đầu sinh, thấy quần xanh dệt sa tía, hài nhỏ như ngón tay, trong lòng rất thích, ngầm cắn vào gấu quần. Lát sau thị tỳ bước đi bị giằng ngã xuống, người ngồi trên hỏi, bèn thưa lý do. Người ngồi trên tức giận sai đem sinh ra giết, lập tức có võ sĩ bước vào trói sinh lôi dậy. Sinh thấy một người ngồi ngoảnh mặt về phía nam, áo mão như bậc vương giả, lúc đi ra bèn nói "Nghe nói Long quân hồ Động Đình họ Liễu, thần cũng họ Liễu, ngày xưa người thi rớt, nay thần cũng thi rớt, người được gặp tiên nữ mà thành tiên, thần say đùa cô hầu mà bị giết, sao mà may rủi khác nhau tới như thế?".
Vương nghe thấy gọi quay lại hỏi "Ngươi là học trò thi rớt à?", sinh vâng dạ. Bèn đưa giấy bút, bảo sinh làm bài phú Tóc chải gió đầu gội mưa*. Sinh vốn là danh sĩ đất Tương Dương (tỉnh Hồ Bắc) nhưng lập tứ rất chậm, cầm bút hồi lâu chưa viết. Vương nói mỉa "Danh sĩ gì hạng ngươi?", sinh gác bút thưa "Người xưa viết bài phú Tam đô** mười năm mới xong, xem đó đủ biết làm văn quý hay chứ không quý mau", Vương cười ngồi chờ. Từ giờ Thìn đến giờ Ngọ sinh mới làm xong, Vương xem vui vẻ nói "Đúng là bậc danh sĩ", bèn thưởng rượu.
*Tóc chải gió đầu gội mưa nguyên văn 1à "Phong hoàn vụ mấn" (Tóc chải gió đầu gội mù), chúng tôi tạm đính là "vũ" (mưa) cho thống nhất với câu trong Phụ lục kèm theo.
** Bài phú Tam đô: tức bài Tam đô phú của Tả Tư thời Tấn, tương truyền viết mười năm mới xong, khi truyền tới kinh đô người ta đua nhau sao chép, giá giấy vì vậy tăng vọt. Đây ý nói văn chương hay.
Trong phút chốc, những thức ăn ngon bày lên la liệt. Đang lúc chuyện trò, một viên lại ôm sổ vào thưa "Danh sách những người chết đuối đã soạn xong". Vương hỏi "Cả thảy là bao nhiêu người?", thưa "Một trăm hai mươi tám người". Hỏi "Công sai là ai?", thưa "Hai viên úy ở Trạch Nam". Sinh đứng dậy bái từ, Vương tặng mười cân vàng, lại cho một viên ngọc pha lê chặn giấy, nói "Trong hồ sắp có kiếp nạn nhỏ, cầm cái này có thể thoát chết". Chợt thấy người ngựa mang cờ quạt chia đứng trên mặt nước, Vương xuống thuyền lên kiệu, chớp mắt đã không thấy đâu nữa.
Yên ắng hồi lâu, những người chèo thuyền mới từ dưới sạp chui lên, chèo thuyền lên phía bắc, bị gió ngược không đi được. Chợt thấy dưới nước nổi lên một con mèo bằng sắt, bọn chèo thuyền hoảng sợ nói "Mao tướng quân* xuất hiện rồi", khách buôn trên các thuyền đều nằm rạp cả xuống. Phút chốc trên hồ lại nhô lên một cây gỗ dựng thẳng, lắc lư lay động, mọi người càng sợ, nói "Nam tướng quân* cũng xuất hiện rồi". Liền đó sóng lớn nổi lên ầm ầm che khuất cả mặt trời, nhìn ra thuyền bốn phía trên hồ đều nhất loạt chìm hết. Sinh giơ viên ngọc chặn giấy ngồi im trong thuyền, sóng lớn muôn trượng đổ tới gần đều chợt tan hết, nhờ vậy được sống sót.
*Miêu tướng quân, Nam tướng quân: tên thủy quái ở hồ Động Đình theo truyền thuyết.
Sinh về tới nhà, mỗi lần kể chuyện lạ cho mọi người nghe đều nói "Cô gái hầu trong thuyền tuy không nhìn rõ được dung mạo, song chỉ đôi hài cũng đã không tìm được ở cõi trần". Sau có việc tới Vũ Xương (tỉnh thành Hồ Bắc) có bà già họ Thôi gả con gái, sính lễ ngàn vàng cũng không chịu, chỉ cầm một viên ngọc pha lê chặn giấy nói "Ai có một cái như thế này ghép thành đôi sẽ gả cho". Sinh lấy làm lạ, mang cái chặn giấy tới, bà già hớn hở đón tiếp, gọi cô gái ra chào, thấy trạc mười lăm mười sáu tuổi trở lại, phong vận yêu kiều không ai sánh được, lạy một lạy rồi quay người trở vào sau màn.
Sinh vừa thấy mặt nàng, tâm thần rúng động nói "Tiểu sinh cũng có giữ một viên ngọc chặn giấy, không rõ có sánh được với viên của lão bà không?", kế cùng đem ra so, thì dài ngắn kiểu dáng giống hệt nhau không sai một mảy. Bà già mừng rỡ, hỏi nơi sinh ngụ, bảo sinh lập tức trở về mang xe kiệu lại đón, để viên ngọc lại làm tin. Sinh không chịu, bà già cười nói "Quan nhân đừng cẩn thận quá như thế, chẳng lẽ lão thân lại mang một viên ngọc chặn giấy trốn đi sao?". Sinh bất đắc dĩ phải để lại, trở về thuê xe kiệu quay lại ngay, thì bà già đã đi mất. Hoảng hốt hỏi khắp cả nhữug nhà lân cận, thì không ai biết cả.
Mãi tới xề chiều mới buồn bã hối tiếc, thẫn thờ ra về. Giữa đường gặp một chiếc xe vượt lên, chợt có người vén rèm hỏi "Liễu lang sao chậm thế?", nhìn ra thì là bà già họ Thôi. Sinh mừng hỏi "Lão bà đi đâu?", bà già cười nói "Chắc đã ngờ rằng lão thân lừa dối trốn đi rồi phải không? Sau khi chia tay, nhân cũng có xe, chợt nghĩ quan nhân đang ở trọ, khó lòng xếp đặt đầy đủ, nên đã đưa con gái lên thuyền rồi". Sinh gọi dừng lại, bà già không chịu, sinh hoảng hốt không dám tin, vội chạy tới thuyền, quả thấy cô gái và một tỳ nữ.
Cô gái thấy sinh vào, cười nói ra đón tiếp, sinh thấy quần xanh hài đỏ giống hệt như thị tỳ trên thuyền ngày nào, lấy làm lạ lùng, bồi hồi nhìn chằm chằm. Cô gái cười nói "Mắt cứ trừng trừng, chẳng lẽ chưa nhìn thấy nhau lần nào sao?". Sinh lại bò xuống nhìn, thì vết răng cắn vào gấu quần vẫn còn đó, cả kinh nói "Nàng là Chức Thành sao?", cô gái che miệng khẽ cười. Sinh vái dài nói "Nàng đúng là người thần rồi, xin nói rõ mọi chuyện ra cho ta khỏi lo sợ". Cô gái nói "Nói thật với chàng, người chàng gặp trên thuyền lúc trước là Long quân hồ Động Đình. Thấy chàng tài cao đem lòng ngưỡng mộ, đã muốn đem thiếp tặng cho chàng, nhung vì thiếp được vương phi yêu mến nên còn phải về bàn lại với phi. Thiếp tới đây là theo lệnh của vương phi đấy". Sinh mừug rỡ, rửa tay thắp hương, hướng về phía Hồ Nam vái tạ rồi đưa nàng về. Sau sinh tới Vũ Xương, cô gái xin đi cùng, nhân tiện quy ninh*.
*Quy ninh: ngày xưa con gái lấy chồng, lâu lâu về thăm cha mẹ ruột gọi là "quy ninh" (về thăm để cha mẹ yên lòng). Chức Thành không phải là con của vợ chồng Long quân Động Đình, nhưng đối với Liễu sinh thì họ là bên nhà gái, nên Chức Thành về thăm họ cũng như là quy ninh.
Khi tới Động Đình, nàng rút chiếc thoa ném xuống nước, chợt có một chiếc thuyền nhỏ dưới nước nhô lên, nàng nhún chân nhảy qua như chim bay lượn đáp xuống, trong chớp mắt đã biến mất. Sinh đang ngồi trên đầu thuyền nhìn chăm chăm vào chỗ chiếc thuyền nhỏ biến mất thì có một chiếc lâu thuyền từ xa lướt tới, gần tới thì cửa sổ mở ra, chợt như có một con chim ngũ sắc bay qua, nhìn lại thì Chức Thành đã đứng trước mặt. Một người trong cửa sổ lâu thuyền đưa qua vàng lụa bảo vật rất nhiều, đều là của vương phi ban cho. Từ đó thành lệ, cứ mỗi năm về thăm viếng đôi lần, nhà sinh vì vậy giàu có, có nhiều bảo vật đưa ra cho xem thì ngay các nhà thế gia cũng không biết là gì.
Phụ: Truyện Long Nữ Của Lý Thành Uy Thời Đường (Đường Lý Thành Uy Long Nữ Truyện)
Liễu Nghị thi rớt, trên đường về đi ngang bờ hồ, thấy một thiếu phụ chăn dê bên đường. Nghị hỏi, thiếu phụ đáp "Thiếp là con gái của Long quân hồ Động Đình, được gả cho con trai thứ của Long quân hồ Kinh Dương, nhưng bị chồng ghét bỏ, lại phạm tội với cha mẹ chồng, nên bị đày ải tới nỗi này. Nghe nói chàng về đất Ngô, xin chuyển giùm một lá thư. Phía nam hồ Động Đình có một cây quít lớn, vỗ vào thân cây ba cái sẽ có người trả lời".
Nghị tới Động Đình, vỗ vào cây quít ba cái, lập tức có người võ sĩ từ dưới sóng nhảy lên vái lạy hỏi "Quý khách có việc gì tới đây?" Nghị nói "Xin yết kiến đại vương". Người võ sĩ rẽ nước dẫn đường, dần vào tới thủy cung, nói "Đây là điện Linh Hư", kế thấy một người mặc áo tía cầm ngọc xanh bèn nói "Đây là Long quân". Nghị thưa "Gặp ái nữ của đại vương chăn dê ngoài đồng, tóc chải gió đầu gội mưa, thật không nỡ nhìn", rồi lấy thư dâng lên. Long quân hồ Động Đình xem xong ôm mặt khóc, sai đưa thư vào trong cung, tả hữu đều sa nước mắt.
Long quân nói với tả hữu rằng "Không được để cho Long quân sông Tiền Đường biết". Nghị hỏi "Long quân sông Tiền Đường là ai?", Long quân nói "Là em ruột của quả nhân". Chợt nghe thấy tiếng cười nói râm ran, trong có một người đeo đầy châu ngọc khua vang, quần áo lụa là tha thướt bước tới, nhìn ra thì là người thiếu phụ nhờ Nghị đưa thư. Long quân cười nói "Đứa tù nhân ở sông Kinh về đây rồi", bèn cho Nghị nghỉ lại ở điện Ngưng Quang. Hôm sau mở tiệc lớn ở điện Ngưng Bích, hội cả bạn bè thân thích, tấu nhạc rộn rã. Bắt đầu thì còi trống thanh la, gươm giáo cờ xí, hàng vạn người đàn ông múa bên phải, trong có một người bước ra nói "Đây là bài nhạc Tiền Đường phá trận". Kế đó tơ trúc đàn sáo, cờ lọng gấm vóc, hàng ngàn người con gái múa bên trái, trong có một người bước ra nói "Đây là khúc nhạc Công chúa về cung". Nghị bèn cùng về hồ Động Đình, không rõ tung tích ra sao.
048. Trúc Thanh (Trúc Thanh)
Ngư Dung người Hồ Nam, người kể chuyện quên mất quận huyện. Nhà nghèo đi thi bị trượt trở về, dọc đường hết sạch tiền nhưng xấu hổ không dám ăn xin, đói quá vào tạm nghỉ trong miếu Ngô Vương*, bi phẫn khấn vái trước án thờ rồi ra nằm ở hành lang. Chợt có một người dẫn đi yết kiến Ngô Vương, quỳ xuống tâu "Đội Hắc y còn thiếu một lính, xin lấy người này sung vào," Ngô Vương ưng thuận, Ngư liền được trao cho chiếc áo đen, vừa mặc vào thì biến thành quạ vỗ cánh bay ra. Thấy các bạn quạ họp thành bầy bèn bay theo chia nhau đậu trên cột buồm. Khách trên thuyền tranh nhau ném thịt cho ăn, đàn quạ lượn lờ trên không đón lấy. Sinh cũng bắt chước, giây lát no bụng, bay đậu lên cành cây, cũng rất mãn nguyện. Qua hai ba ngày, Ngô Vương thương còn lẻ loi ghép cho một con mái tên Trúc Thanh, rất thương yêu nhau.
*Ngô Vương: Tức Cam Ninh, đại tướng Đông Ngô thời Tam quốc, trong trận Hào Đình bị tướng Tây Thục là Sa Ma Kha bắn trúng gáy đeo cả tên mà chạy rồi chết dưới một gốc cây to ven sông, có đàn quạ mấy trăm con sà xuống che kín xác. Duẫn lang ngẫu bút của Mục Trọng thời Tống chép Cam Ninh được dân trấn Phú Trì ở Sở Giang lập miếu thờ, linh hiển phi thường, đến thời Tống được phong tước vương, cạnh miếu luôn có vài trăm con quạ tụ họp, người ta gọi là "Quạ thần của Ngô Vương" (Ngô Vương thần nha).
Ngư mỗi khi đi kiếm mồi không hề đề phòng, Thanh nhiều lần khuyên nhưng Ngư không nghe. Một hôm bị người lính đi thuyền qua bắn trúng bụng, may được Trúc Thanh quắp mang đi mới không bị bắt. Bầy quạ nổi giận vỗ cánh quạt nước, sóng nổi cuồn cuộn lật úp hết thuyền bè. Trúc Thanh tha mồi mớm cho Ngư nhưng Ngư bị thương nặng quá, một ngày thì chết, chợt như tỉnh mộng thì ra đang nằm trong miếu. Nguyên là trước đó dân chung quanh thấy Ngư chết, không biết là ai, sờ vào người thấy còn ấm nên cứ lâu lâu lại tới xem. Đến lúc ấy họ hỏi biết duyên do, liền góp tiền giúp cho về quê.
Ba năm sau Ngư lại qua chốn cũ liền vào bái yết miếu Ngô Vương, bày thức ăn gọi bầy quạ xuống ăn, khấn "Trúc Thanh như có ở đây, xin ở lại gặp", nhưng bầy quạ ăn xong đều bay đi hết. Sau Ngư đỗ Cử nhân về qua lại vào bái yết miếu Ngô Vương, dâng cỗ cúng tế. Kế bày cỗ lớn mời hết các bạn quạ, lại khấn như trước. Đêm ấy ghé vào nghỉ ở Hồ Thôn, đốt đèn ngồi chơi chợt thấy trước bàn như có con chim đáp xuống, thì ra là một mỹ nhân khoảng hai mươi tuổi. Nàng tươi cười hỏi "Từ khi chia tay chàng vẫn khỏe chứ?". Ngư kinh ngạc hỏi, nàng đáp "Chàng không nhận ra Trúc Thanh à?". Ngư mừng rỡ hỏi từ đâu tới, nàng đáp "Thiếp nay là thần nữ Hán Giang, ít có dịp về cố hương. Trước đây bạn quạ hai lần kể lại tình chàng nên tới gặp nhau một lần". Ngư càng bồi hồi cảm động, hai người như vợ chồng xa cách lâu ngày, rất mực nồng nàn.
Sinh định đưa nàng về nam, nàng lại muốn sinh theo về tây, không quyết được bề nào. Sinh thức giấc thì nàng đã dậy rồi, mở mắt thấy mình đang trong một ngôi nhà lớn, đèn đuốc sáng choang chứ không phải trong thuyền nữa. Sinh kinh ngạc trở dậy hỏi đây là nơi nào, nàng cười đáp "Đây là Hán Dương (huyện thuộc Hồ Bắc). Nhà thiếp tức là nhà chàng, cần gì phải về nam?". Trời dần sáng, đám tỳ nữ vú già nhao nhao kéo tới, rượu thịt đã bày, kê giường rộng, đặt ghế thấp, vợ chồng cùng nhau ăn uống. Ngư hỏi đầy tớ của mình đang ở đâu, nàng đáp "Ở trên thuyền". Ngư lo nhà thuyền không thể chờ lâu, nàng nói "Không sao, thiếp sẽ báo giúp cho". Từ đó ngày đêm vui thú, Ngư vui quên cả chuyện về.
Nhà thuyền thức dậy chợt thấy đang ở Hán Dương sợ lắm. Người hầu của Ngư đi tìm chủ khắp nơi không thấy, nhà thuyền muốn đi thì chèo lái bị cột chặt không cởi ra được, đành cùng ở lại giữ thuyền. Được hơn hai tháng, sinh chợt nhớ quê, nói với cô gái "Ta ở đây tuyệt đường thân thích, vả lại ta với nàng tiếng là vợ chồng mà chưa một lần biết tới nhà cửa họ hàng thì làm sao được?". Nàng đáp "Chưa nói tới chuyện thiếp không đi được, nếu đi được thì ở nhà chàng đã có vợ, vậy sẽ xử với thiếp ra sao? Chi bằng cứ để thiếp ở đây làm một phòng khác của chàng là được rồi".
Sinh buồn nỗi đường xa không thể tới thường, cô gái đưa chiếc áo đen ra, nói "áo cũ của chàng còn đây, lúc nào nhớ thiếp cứ mặc vào thì có thể tới ngay, tới rồi thiếp sẽ cởi ra cho". Rồi sai bày tiệc lớn đưa tiễn, sinh say rồi ngủ, khi tỉnh dậy thì thấy mình trong thuyền, nhìn ra thì vẫn là cảnh vật chỗ ghé thuyền ở hồ Động Đình cũ. Nhà thuyền và đầy tớ đều có đó, nhìn nhau kinh sợ xúm lại hỏi đi đâu. Sinh làm ra vẻ bàng hoàng sợ hãi, thấy bên gối có cái bọc, mở ra xem thì là áo mới, giày thêu của cô gái tặng, chiếc áo đen cũng xếp để trong đó. Lại có cái túi thêu buộc dây thắt ngang, mở ra thì thấy đầy tiền bạc. Rồi đó đi thẳng về nam, khi cập bến Ngư trả công hậu cho nhà thuyền rồi về.
Về nhà được mấy tháng sinh nhớ Hán Thủy, liền ngầm lấy chiếc áo đen ra mặc, hai tay mọc ra đôi cánh bay vút lên không, qua hai giờ đã tới Hán Thủy. Bay vòng nhìn xuống thấy giữa đảo nhỏ có một dãy lầu gác bèn đáp xuống. Đã có một tỳ nữ nhìn thấy từ xa gọi lớn "Quan nhân tới". Không bao lâu Trúc Thanh ra, sai mọi người cởi áo cho, sinh thấy lông cánh đều trút xuống hết. Nàng cầm tay sinh đi vào nhà, nói "Chàng tới vừa hay, chỉ nay mai là thiếp sinh nở". Sinh đùa hỏi "Sinh con hay đẻ trứng?" nàng đáp "Thiếp nay là thần, xương cốt đều thay đổi, chắc phải khác trước chứ".
Vài hôm sau quả nàng lâm bồn, bọc thai to dày nhìn như quả trứng lớn, xé vỏ ra thì là con trai. Sinh mừng rỡ đặt tên là Hán Sản. Sau ba ngày các thần nữ ở Hán Thủy đều tới, đem đủ quần áo đồ chơi quý lạ chúc mừng, người nào cũng xinh đẹp, tuổi đều không quá ba mươi. Họ vào phòng tới bên giường lấy ngón tay cái ấn lên mũi đứa nhỏ, gọi là "Tăng thọ". Họ về rồi, sinh hỏi là ai, cô gái đáp "Đều là bạn thiếp, nàng mặc áo trắng đi cuối cùng chính là người cởi ngọc ở Hán Cao* đấy".
* Người cởi ngọc ở Hán Cao: Liệt tiên truyện chép Trịnh Giao Phủ đi chơi Hán Giang, tới dưới đài Hán Cao gặp hai cô gái đeo hai viên ngọc to bằng quả trứng gà, Giao Phủ tới chuyện trò rồi xin ngọc, hai nàng bèn cởi ra cho. Giao Phủ chào đi, lại muốn được cả hai nàng, ngoảnh nhìn thì không thấy đâu nữa mà ngọc cũng biến mất.
Được vài tháng, nàng cho thuyền đưa sinh về, thuyền không cần dùng cánh buồm mái chèo mà cứ tự lướt đi. Tới bờ đã có người dắt ngựa chờ bên đường, sinh liền cưỡi về, từ đó qua lại không dứt. Được vài năm, Hán Sản càng khôi ngô, sinh yêu quý lắm. Vợ sinh họ Hòa khổ vì không sinh nở đưọc, cứ đòi gặp Hán Sản một lần. Sinh nói với cô gái, nàng liền sắp sửa hành trang cho con theo cha về, hẹn ba tháng phải quay lại. Về tới nhà, Hòa thị yêu quý Hán Sản còn quá con đẻ, giữ lại hơn mười tháng không nỡ cho về. Một hôm đứa nhỏ phát bệnh mà chết, Hòa thị đau xót muốn chết. Sinh bèn đi Hán Thủy báo cho cô gái, vào cửa thì thấy Hán Sản cởi truồng nằm trên giường, mừng quá vội hỏi. Cô gái đáp "Chàng lỡ hẹn lâu quá, thiếp nhớ con nên gọi nó về". Sinh nhân giải thích vì Hòa thị quá mến con, nàng nói "Chờ thiếp sinh lần nữa sẽ cho Hán Sản về hẳn bên đó".
Hơn năm sau nàng đẻ sinh đôi, một trai một gái. Trai đặt tên là Hán Sinh, gái đặt tên là Ngọc Bội, sinh bèn đưa Hán Sản về. Nhưng mỗi năm ba bốn lần đi lại không tiện, nên sinh dời nhà tới ở Hán Dương. Năm Hán Sản mười hai tuổi vào học ở trường quận. Cô gái cho là ở trần gian không có người đẹp, gọi con tới Hán Thủy cưới vợ cho rồi bảo về. Vợ tên Hỗ Nương, cũng là con gái thần nữ. Sau Hòa thị mất, Hán Sinh và em gái đều tới chịu tang. Chôn cất xong, Hán Sản ở lại còn sinh dắt Hán Sinh và Ngọc Bội đi, từ đó không trở về nữa.
049. Nhạc Trọng (Nhạc Trọng)
Nhạc Trọng người Tây An (tỉnh thành Thiểm Tây), cha chết lúc mẹ còn mang thai, sau mới sinh Trọng. Mẹ chuộng đạo Phật, không ăn mặn uống rượu. Trọng lớn lên thích uống rượu, ưa ăn nhậu, trong lòng thầm cho là mẹ không phải, cứ đem các thức béo ngon dâng mẹ, nhưng mẹ đều nhổ ra. Sau mẹ bệnh sắp chết lại thèm ăn thịt, Trọng trong lúc gấp gáp không biết tìm đâu ra bèn cắt thịt ở đùi trái nấu nướng dâng lên. Mẹ khỏi bệnh, hối hận vì phá giới, bỏ ăn mà chết. Trọng càng thêm đau xót, lấy đao sắc cắt luôn thịt đùi phải nhìn thấy cả xương, người nhà xúm lại cứu, bó thuốc cho, dần dần lành lại.
Trọng thương mẹ chịu khổ giữ tiết, lại xót mẹ ngu muội theo đạo, bèn đốt tượng Phật mẹ thờ, lập bàn thờ thờ mẹ, lúc uống rượu say cứ nhìn lên khóc lóc. Năm Trọng hai mươi tuổi mới lấy vợ mà vẫn còn là đồng nam, cưới được ba ngày thì nói với người ta rằng "Việc trai gái trong phòng là nhơ nhớp nhất trên đời, ta thật không ưa" rồi bỏ vợ. Cha vợ là Cố Văn Uyên nhờ họ hàng xin Trọng cho con gái về lại, nhưng tới xin ba bốn lần mà Trọng vẫn nhất quyết không chịu, lần lữa tới nửa năm, Cố bèn gả con gái cho người khác.
Trọng ở vậy mười năm, hành vi càng thêm phóng túng, uống rượu với cả tôi tớ con hát, làng xóm có ai xin xỏ nhờ vả gì cũng không từ chối. Có người nói gả con gái mà không có nồi niêu, Trọng lập tức vào bếp bưng ra cho, từ đó cứ nấu nướng nhờ bên nhà láng giềng. Bọn vô lại biết tính Trọng, đứa thì sớm tối tới lừa dối bòn rút, đứa thì lấy việc đánh bạc hết tiền mà than thở trước mặt Trọng, kể lể chuyện nợ thúc thuế đòi, sắp phải bán vợ đợ con. Trọng nghe thấy là dốc cả tiền để dành đóng thuế ra đưa, đến khi người thu thuế tới tận nhà đòi mới lo cầm bán đồ đạc mà đóng, vì thế nhà ngày càng sa sút.
Trước kia khi Trọng giàu có thì bọn em cháu họ hàng tranh nhau phụng sự, trong nhà có vật gì cứ mặc ý cho lấy đi, cũng không tính đếm gì. Đến khi Trọng sa sút thì không mấy người tới thăm hỏi, nhưng may Trọng là người khoáng đạt nên không để bụng. Gặp ngày giỗ mẹ, Trọng mắc bệnh không ra mộ được, định sai bọn em cháu trong họ ra tế thay, đầy tớ đi nói khắp các nhà mà ai cũng tìm cớ từ chối. Trọng bèn làm lễ tế trong phòng, nhìn bàn thờ mẹ gào khóc, lo buồn về việc không có con nối dõi nên bệnh càng nặng. Trong lúc mê man thấy có người xoa bóp vỗ về hé mắt nhìn thì ra là mẹ. Giật mình hỏi sao mẹ tới đây, mẹ đáp "Vì trong nhà không có ai ra mộ cúng tế nên về đây hưởng đồ cúng, mới biết con bệnh". Trọng lại hỏi trước nay ở đâu, mẹ đáp là ở Nam Hải. Mẹ xoa bóp xong Trọng thấy tay chân mát rượi, mở mắt nhìn quanh thì không thấy ai nhưng bệnh đã đỡ nhiều.
Đến khi khỏi hẳn muốn tới Nam Hải bái yết Quan âm Bồ tát, ngặt không có ai đi cùng. Gặp lúc thôn bên cạnh có bọn người kết làm hội dâng hương đi Nam Hải lễ Phật, Trọng bán mười mẫu ruộng tới xin vào hội, nhưng họ cho rằng Trọng không ăn chay giữ giới nên không chịu, năn nỉ mãi họ mới ưng thuận. Dọc đường đi Trọng cứ ăn thịt uống rượu, nhai hành nhã tỏi nồng nặc cả phòng, mọi người càng ghét, nhân lúc Trọng ngủ say lẳng lặng bỏ đi. Từ đó Trọng đi một mình, tới địa giới đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) gặp người bạn mời đi uống rượu, trong tiệc có một danh kỹ tên Quỳnh Hoa thấy nói đi Nam Hải lễ Phật xin đi cùng cho có bạn. Trọng mừng rỡ, liền chờ nàng sắp sửa hành trang rồi cùng nhau lên đường, ăn ngủ gì cũng có nhau nhưng không hề có chuyện nọ kia.
Khi tới Nam Hải thì hội dâng hương vừa lập xong đàn tế, thấy Trọng dắt ca kỹ tới càng nhạo báng chê bai, khinh bỉ không thèm hành lễ chung. Trọng và Quỳnh Hoa biết ý, chờ họ lễ bái xong mới vào làm lễ. Mọi người lạy lục xong, hận không thấy gì lạ, có kẻ oà khóc, còn hai người vừa lạy phục xuống chợt thấy khắp mặt biển đều có hoa sen, trên hoa đều có người đeo tràng hạt. Quỳnh Hoa nhìn thấy cho là Bồ tát, Trọng nhìn thì ra những người đứng trên hoa đều là mẹ mình, vội chạy tới gọi mẹ, nhảy luôn xuống nước lội ra. Mọi người thấy hàng vạn đóa hoa sen đều biến thành cầu vồng rực rỡ như tấm màn gấm che khuất cả mặt biển. Giây lát mây tan sóng lặng, tất cả đều biến mất mà Trọng vẫn còn đứng trên bờ biển, cũng không hiểu vì sao mình lên được tới bờ, mà quần áo giày tất vẫn khô ráo. Trọng nhìn ra biển gào khóc, cả vùng đảo đều nghe thấy. Quỳnh Hoa kéo áo khuyên giải Trọng mới buồn bã rời chùa, gọi thuyền trở về bắc.
Dọc đường có nhà giàu mời Quỳnh Hoa đi, Trọng nghỉ ở quán trọ một mình, thấy có đứa nhỏ khoảng tám chín tuổi xin ăn trong quán, mặt mũi không giống như bọn trẻ ăn mày. Hỏi han thì ra nó bị mẹ kế đuổi đi, Trọng rất thương xót. Đứa nhỏ cứ quanh quẩn bên Trọng xin cứu vớt, Trọng dắt nó cùng về. Hỏi họ tên, nó nói "Cháu họ Ung tên Tân, mẹ họ Cố, thường nghe mẹ nói về với họ Ung sáu tháng thì sinh ra cháu, chứ đúng ra phải là họ Nhạc". Trọng cả kinh nhưng nghĩ lại bình sinh chỉ lấy vợ có một lần, không thể nào có con được, nhân hỏi "Họ Nhạc ấy người ở đâu?". Đứa nhỏ đáp "Cháu không biết, nhưng lúc mẹ cháu chết có để lại một phong thư, dặn không được đánh mất", Trọng vội đòi xem phong thư. Tân mở cái bị lấy ra đưa cho, Trọng xem thì là tờ ly hôn với Cố thị năm xưa, hoảng sợ nói "Đúng là con ta rồi". Xét tới năm tháng thấy đều ăn khớp, trong lòng được an ủi rất nhiều, có điều gia cảnh ngày càng tiêu điều. Qua hai năm thì ruộng vườn đã bán gần hết, cũng không thể nuôi nổi tôi tớ nữa.
Một hôm hai cha con đang tự nấu cơm, chợt có một người đẹp bước vào, nhìn lên thì ra là Quỳnh Hoa. Trọng giật mình hỏi từ đâu tới, nàng cười nói "Số phận là phải làm vợ chồng hờ với nhau, sao chàng còn hỏi? Trước đây không theo chàng ngay là vì bà chủ còn sống, nay bà ta đã chết, thiếp nghĩ không theo làm vợ người thì không có nơi nương tựa, theo làm vợ người thì không giữ được trong sạch, tính lại muốn trọn vẹn đôi bề thì không gì bằng theo chàng, nên mới không ngại ngàn dặm mà lặn lội tới đây", rồi thay áo nấu cơm giúp con, Trọng mừng lắm. Đến đêm cha con ngủ chung với nhau như cũ, dọn một gian phòng sạch sẽ cho Quỳnh Hoa ở.
Quỳnh Hoa cũng khéo chăm sóc đứa nhỏ, láng giềng biết chuyện đều mở tiệc mừng Trọng, hai vợ chồng cũng vui vẻ nhận lời. Có khách tới chơi thì Quỳnh Hoa lo liệu cơm rượu rất đầy đủ, Trọng cũng không hỏi nàng lấy tiền đâu ra. Quỳnh Hoa dần dần đem vàng ngọc ra chuộc lại ruộng vườn cũ, tôi tớ trâu ngựa trong nhà cũng càng ngày nhiều thêm. Trọng thường nói với Quỳnh Hoa rằng "Lúc ta say rượu thì nàng nên lánh mặt, đừng để ta nhìn thấy", Quỳnh Hoa cười ưng thuận. Một hôm Trọng say quá, gọi Quỳnh Hoa rất gấp, Quỳnh Hoa ăn mặc lộng lẫy bước ra, Trọng nhìn sững hồi lâu, chợt cả mừng nhảy nhót như cuồng, nói "Ta ngộ ra rồi". Rồi chợt tỉnh rượu, thấy chung quanh sáng rỡ, nhà cửa đều trở thành lầu quỳnh gác ngọc, hồi lâu mới hết, từ đó không uống rượu ngoài quán nữa mà chỉ đối ẩm với Quỳnh Hoa, Quỳnh Hoa ăn chay chỉ uống trà ngồi tiếp.
Một hôm Trọng ngà ngà say, bảo Quỳnh Hoa bóp đùi cho mình. Nàng thấy vết sẹo trên hai đùi Trọng đã biến thành hai nụ sen thấp thoáng dưới da thì lấy làm lạ. Trọng cười nói "Lúc nào nàng thấy hai nụ hoa này nở ra, thì hai mươi năm làm vợ chồng hờ đã hết đấy". Quỳnh Hoa cũng tin lời. Kế cưới vợ cho Tân, Quỳnh Hoa dần dần giao hết việc nhà cho con dâu, cùng Trọng ở riêng một nơi. Vợ chồng con trai cứ ba ngày tới thăm một lần, nếu không có chuyện gì khó khăn thì nàng không nói tới việc nhà, chỉ có hai người tỳ nữ hầu hạ, một người hâm rượu, một người pha trà mà thôi.
Một hôm Quỳnh Hoa tới chỗ con ở, con dâu thưa bẩm đủ chuyện, rất lâu mới về, Tân cũng theo tới thăm cha. Vào cửa thấy Trọng để chân trần ngồi trên giường, nghe tiếng động hé mắt cười khẽ nói "Mẹ con tới rất hay" rồi lập tức nhắm mắt lại. Quỳnh Hoa hoảng sợ nói "Chàng định làm gì thế?", nhìn tới đùi Trọng thì thấy hai đóa hoa sen nở lớn, tới gần gọi thử thì Trọng đã tắt hơi rồi. Quỳnh Hoa vội lấy tay bóp hai đóa hoa lại khấn rằng "Thiếp ngàn dặm tới theo chàng, không phải là chuyện dễ dàng, lại vì chàng nuôi con dạy dâu, cũng có chút ơn nghĩa, chỉ còn hai ba năm nữa sao không chịu khó chờ nhau một chút". Khoảng nấu xong nồi cơm chợt Trọng mở mắt ra cười nói "Nàng có việc của nàng, sao cứ lôi kéo người ta làm bạn, thôi ta cũng tạm ở lại chờ vậy". Quỳnh Hoa buông tay ra thì hai đóa hoa sen đã khép lại, từ đó Trọng ăn ở như lúc trước.
Sau hơn ba năm, Quỳnh Hoa tuổi gần bốn mươi mà dáng vẻ vẫn xinh đẹp như người hơn hai mươi, chợt nói với Trọng "Phàm người ta chết rồi thì bị kẻ khác đỡ đầu nâng chân, thật rất không sạch sẽ". Liền sai thợ đóng hai chiếc quan tài, Tân hoảng sợ hỏi, nàng đáp "Không phải là chuyện con biết được". Quan tài đóng xong, nàng tắm gội trang điểm rồi nói với vợ chồng Tân "Ta sắp chết đây". Tân khóc nói "Mấy năm nay nhờ mẹ lo toan mới không đói rét, mẹ còn chưa được yên vui ngày nào, sao lại bỏ con mà đi?". Quỳnh Hoa nói "Cha trồng phúc thì con hưởng, tôi tớ trâu ngựa ruộng vườn nợ nần đều là trả lại cho cha con, chứ ta có công lao gì đâu. Ta vốn là Thiên nữ rắc hoa, ngẫu nhiên động lòng trần tục nên bị đày xuống trần gian hơn ba mươi năm, nay đã hết hạn rồi". Rồi bước vào quan tài nằm xuống, Tân tới gọi thì hai mắt đã nhắm lại.
Tân khóc lóc chạy tới báo với cha thì Trọng đã đội mũ mặc áo nằm cứng đờ không biết từ lúc nào. Tân gào khóc muốn đứt hơi, liệm xác cha cho vào quan tài quàn trong sảnh đường mấy ngày chưa chôn, có ý chờ cho sống lại. Có ánh sáng từ đùi Tân phóng ra soi rõ cả bốn vách, trong quan tài Quỳnh Hoa thì có mùi hương thơm ngát tỏa ra, láng giềng đều ngửi thấy, đậy nắp quan tài thì ánh sáng hương thơm mới hơi giảm.
Chôn cất xong, bọn em cháu trong họ tham lam của cải, cùng nhau tính kế đuổi Tân đi bèn kiện lên quan, quan không biết làm sao liền phán cắt một nửa ruộng vườn trâu ngựa giao cho chúng. Tân không chịu, đâm đơn lên phủ kiện, lâu ngày xử mãi không xong. Lúc đầu ông Cố gả con gái cho họ Ung, được hơn một năm thì Ung tới ngụ ở đất Mân, không có tin tức gì. Cố già không có con trai, nhớ con gái bèn tới nhà rể thăm thì con gái đã chết mà cháu ngoại đã bị đuổi đi. Cố uất ức kiện lên quan, Ung sợ đưa nhiều tiền xin thôi kiện nhưng Cố không chịu, nhất quyết đòi tìm bằng được cháu ngoại.
Ung tìm kiếm khắp nơi, nửa năm vẫn không thấy, hai vợ chồng đều bị quan trách phạt đánh đòn. Cố đang đi đường chợt thấy có một cỗ kiệu kết hoa đi qua vội tránh qua vệ đường, thấy trong kiệu có một mỹ nhân gọi Cố nói "Có phải ông Cố đấy không?". Cố gật đầu, nàng nói "Cháu ngoại ông là con ta, hiện đang ở nhà họ Nhạc, đừng kiện tụng gì nữa, cháu ngoại ông đang gặp nạn, nên tới đó ngay". Cố muốn hỏi thêm thì cỗ kiệu đã đi xa, bèn nhận tiền của Ung rồi lên đường tới Tây An. Tới nơi thì hai bên đang kiện tụng cãi cọ ầm ĩ, Cố liền vào thưa với quan về ngày tháng con gái mình bị Trọng bỏ, ngày tháng lấy Ung, ngày tháng sinh Tân rất rõ ràng. Bọn họ Nhạc đều bị đánh đòn, vụ án bèn kết thúc. Cố về kể lại ngày gặp mỹ nhân trên kiệu thì đúng là ngày Quỳnh Hoa chết, lúc bấy giờ còn chưa có việc kiện tụng. Tân dời gia đình Cố tới ở cùng, xây nhà cửa tặng tỳ thiếp, năm Cố hơn sáu mươi tuổi thì sinh được một con trai, Tân cũng thường chăm sóc chu cấp cho.
Dị Sử thị nói: Ăn chay giữ giới thì giống như Phật, phóng khoáng chân thành thì đúng là Phật. Nhạc Trọng với người đẹp thì nhìn thẳng mà lấy làm bạn dâng hương, không coi là bạn chăn gối. Ăn ở với nhau hai mươi năm*, như có tình mà cũng như vô tình, đó đúng là chân diện mục của Bồ tát, người trần làm sao hiểu được!
*Hai mươi năm: cả hai bản Hương Cảng và Đài Bắc đều in là "tam thập niên" (ba mươi năm), có lẽ là sơ suất của tác giả, đây tạm đính lại như trên.
050. Hương Ngọc (Hương Ngọc)
Cung Hạ Thanh núi Lao có cây nại đông cao hai trượng, to mấy mươi chét tay và cây mẫu đơn cao hơn trượng, khi trổ hoa thì rực rỡ như gấm. Hoàng sinh người Mục Châu (tỉnh Sơn Đông) làm nhà ở đó đọc sách. Một hôm ngồi trong cửa sổ nhìn ra thấy một cô gái áo trắng thấp thoáng trong đám hoa, nghi là trong đạo quán sao lại có con gái, bước mau ra thì đã trốn mất. Từ đó thường thấy nàng, bèn núp trong bụi cây rậm để đợi. Chẳng bao lâu cô gái lại cùng một người mặc xiêm hồng tới, từ xa thấy cả hai tuyệt đẹp, tới gần thì nàng mặc xiêm hồng hoảng sợ lui lại nói "Ở đây có người". Sinh đứng bật dậy, hai nàng sợ hãi bỏ chạy, áo xiêm phấp phới, thoang thoảng mùi thơm. Đuổi theo qua bức tường thấp thì đã biến mất. Sinh vô cùng hâm mộ, nhân đề bài thơ lên thân cây rằng:
Vô hạn tương tư khổ,
Hàm tình đối đoản song.
Khủng quy Sa Trá Lợi,
Hà xứ mịch Vô Song
(Tương tư xiết kể bao đau khổ
ôm mối tình riêng ngóng trước song
E phải về tay Sa Trá Lợi*
Nơi nào lại gặp được Vô Song)
*Sa Trá Lợi, Cổ áp Nha: xem hai truyện Phụ lục. Hai câu thơ trên nguyên văn là "Giai nhân dĩ thuộc Sa Trá Lợi, Nghĩa sĩ kim vô Cổ Áp Nha", chưa rõ tác giả.
Về phòng học ngồi mơ tưởng, chợt cô gái bước vào. Sinh giật mình mừng rỡ đón chào, nàng cười nói "Chàng hùng hổ như ăn cướp làm người ta hoảng sợ, không ngờ cũng là người tao nhã, có gần cũng không sao". Sinh hỏi qua thân thế, nàng đáp "Thiếp tiểu tự là Hương Ngọc, người chốn bình khang, bị đạo sĩ nhốt trong núi, thật không phải ý nguyện". Sinh hỏi "Đạo sĩ tên gì? Ta sẽ rửa hờn cho nàng". Cô gái nói "Không cần, y cũng chưa dám ép buộc gì, cứ mượn nơi này cùng khách phong lưu làm chỗ gặp gỡ kín đáo cũng hay". Sinh hỏi "Nàng mặc áo hồng là ai?", nàng đáp "Đó là Giáng Tuyết, chị kết nghĩa của thiếp", rồi cùng nhau đi ngủ. Tỉnh giấc thì trời đã rạng, cô gái vội trở dậy nói "Ham vui quên cả trời đã sáng". Mặc áo đi giày xong, lại nói "Thiếp xin khẩu chiếm họa lại bài thơ, chàng chớ cười". Thơ rằng:
Lương dạ canh vị tận
Triều đôn dĩ thượng song.
Nguyện như lương thượng yến,
Thê xứ tự thành song
(Đêm vui vẫn biết canh thường ngắn
Vầng nhật đà lên rọi trước song.
Những ước trên rường làm cặp én
Khi bay lúc đậu cũng song song)
Sinh nắm cổ tay nàng nói "Nàng đã đẹp lại thông minh, khiến người ta yêu quên chết. Một ngày xa nhau như xa cách ngàn dặm, lúc nào nàng rảnh thì tới, đừng đợi đến đêm". Cô gái nhận lời, từ đó sớm tối thường tới, sinh thường bảo mời Giáng Tuyết mà không thấy tới nên lấy làm hận. Nàng nói "Chị Giáng tính rất lạnh lùng, không như thiếp si tình, cứ để thiếp từ từ khuyên nhủ, không cần nóng nảy". Một đêm nàng buồn rầu bước vào nói "Chàng không giữ được đất Lũng mà còn mong lấy Thục ư? Từ nay thì vĩnh biệt nhau rồi". Sinh hỏi đi đâu, nàng lấy tay áo lau nước mắt nói "Đây là định số, khó nói với chàng được. Câu thơ ngày trước nay thành lời sấm rồi. "Người đẹp đã về Sa Trá Lợi, Nghĩa sĩ nay không Cổ áp Nha" có thể nói là vịnh cảnh ngộ của thiếp đấy". Sinh gạn hỏi thì nàng không đáp, chỉ nức nở khóc, suốt đêm không ngủ, sáng ra đi ngay.
Sinh lấy làm lạ, hôm sau có họ Lam ở Túc Mặc vào cung quán vãn cảnh, thấy cây bạch mẫu đơn thích lắm bèn đào lên mang về. Sinh mới hiểu ra Hương Ngọc là tinh hoa, buồn rầu không thôi. Qua vài hôm nghe nói cây hoa họ Lam đem về nhà trồng ngày càng khô héo, sinh rất hận, làm năm mươi bài thơ khóc hoa, ngày ngày tới chỗ cây bạch mẫu đơn cũ, nước mắt ròng ròng nhỏ xuống cái hố. Một hôm sinh ra đó, từ xa thấy cô gái mặc xiêm hồng đứng khóc cạnh hố, thong thả tới gần nàng cũng không tránh mặt, nhân kéo vạt áo nàng sa nước mắt, kế mời vào nhà.
Nàng cũng theo vào, than rằng "Chị em với nhau từ thuở nhỏ, một sớm chia lìa, thấy chàng thương cảm thiếp cũng mủi lòng, nước mắt rơi xuống suối vàng may ra cảm thấu lòng thành mà tái sinh. Nhưng người chết thần khí đã tan, trong giây lát làm sao có thể cùng nhau cười nói được". Sinh nói "Tiểu sinh phận bạc làm hại người tình, quả không có phúc được cả hai người đẹp. Trước từng nhiều lần nhờ Hương Ngọc bày tỏ lòng thành, sao không chịu tới?". Nàng nói "Thiếp cho rằng bọn học trò trẻ tuổi mười người thì tám chín là kẻ bạc hãnh, không biết chàng là kẻ chí tình. Nhưng thiếp cùng chàng giao hảo vì tình nghĩa chứ không vì chăn gối, nếu đêm ngày ôm ấp thì thiếp không làm được". Nói xong cáo biệt, sinh nói "Hương Ngọc mất đi làm ta bỏ cả ăn ngủ, muốn cậy nàng ở lại một lúc cho khuây nỗi nhớ, sao lại dứt khoát về như vậy?". Cô gái bèn ở lại, hết đêm ra về, mấy ngày liền không tới. Một hôm mưa lạnh rả rích ngoài song, sinh nhớ thương Hương Ngọc, trằn trọc trên giường, lệ ướt đẫm gối, xốc áo trở dậy khêu đèn cầm bút theo vần trước viết một bài thơ:
Sơn viện hoàng hôn vũ
Thùy liêm tọa tiểu song
Tương tư nhân bất kiến
Trung dạ lệ song song
(Mưa đêm viện núi nghe lòng lạnh
Buông tấm rèm thưa đứng cạnh song
Tương tư chẳng thấy người thương nhớ
Nửa đêm lệ nhớ nhỏ song song)
Viết xong đọc lên, chợt có tiếng người ngoài cửa sổ nói "Có xướng không thể không có họa", nghe thì là tiếng Giáng Tuyết. Sinh mở cửa mời vào, nàng xem thơ xong lập tức viết ngay phía sau một bài:
Liên khuyết nhân hà xứ?
Cô đăng chiếu vãn song.
Không sơn nhân nhất cá,
Đối ảnh tự thành song.
(Người xưa chung gối nay đâu tá?
Đèn lạnh cô đơn chiếu cạnh song
Núi thẳm một thân ngùi chuyện cũ
Một mình một bóng cũng song song)
Sinh đọc xong sa nước mắt, nhân trách nàng ít tới. Nàng nói "Thiếp không thể nồng nàn như Hương Ngọc được, chỉ có thể an ủi cho chàng ít nhiều khuây cảnh tịch mịch thôi". Sinh muốn ngủ chung, nàng nói "Gặp nhau là vui, cần gì phải thế". Từ đó lúc nào sinh thấy cô quạnh thì nàng lại tới. Tới thì yến ẩm xướng họa, có khi không ngủ lại, tan tiệc là về, sinh cũng chiều ý, nói với nàng "Hương Ngọc là vợ yêu của ta, Giáng Tuyết là bạn tốt của ta", thường hỏi "Nàng là cây thứ mấy trong viện xin nói cho biết, ta sẽ mang trồng trong nhà, khỏi bị bọn ác cướp đi mất như Hương Ngọc, để hận lại suốt đời". Nàng đáp "Chốn cũ khó dời, nói cho chàng biết cũng vô ích. Vợ còn chẳng theo nhau trọn đời được, huống là bạn ư". Sinh không nghe, kéo tay cùng ra, tới mỗi cây mẫu đơn lại hỏi "Có phải là nàng không?", cô gái không nói chỉ che miệng cười.
Gặp lúc sinh về quê ăn tết, qua tháng hai chợt mơ thấy Giáng Tuyết tới buồn rầu nói "Thiếp gặp nạn lớn, chàng tới mau thì may ra còn gặp được nhau, chậm là không kịp đâu". Sinh tỉnh dậy lấy làm lạ, vội sai người nhà thắng ngựa lên núi ngay, tới nơi thấy đạo sĩ sắp làm nhà, có một cây nại đông vướng chỗ, đám thợ sắp đốn đi. Sinh biết đó là ứng với giấc mơ vội vàng cản lại. Đến đêm Giáng Tuyết tới tạ ơn, sinh cười nói "Trước không nói thật nên gặp nạn này. Từ nay đã biết rõ nàng rồi, nếu không tới ta sẽ lấy ngải cứu đốt cho xem". Nàng đáp "Thiếp vốn biết chàng như thế nên trước kia mới không dám nói". Ngồi một lát, sinh nói "Nay ngồi với bạn tốt lại thêm nhớ vợ đẹp. Lâu không viếng Hương Ngọc, nàng có thể đi với ta không?". Hai người bèn tới hố đất mà khóc, gần hết canh một Giáng Tuyết lau nước mắt khuyên giải sinh rồi ra về.
Vài ngày sau, sinh đang ngồi một mình buồn bã, Giáng Tuyết tươi cười bước vào nói "Có tin mừng báo cho chàng hay. Thần hoa cảm lòng chí tình của chàng, cho Hương Ngọc tái sinh ở cung này". Sinh mừng hỏi đến lúc nào, nàng đáp "Không rõ nhưng chắc không bao lâu nữa". Trời sáng trở dậy, sinh nói "Ta vì nàng mà tới đây, đừng để người ta chịu hiu quạnh mãi đấy", nàng cười gật đầu. Hai đêm nàng không tới sinh bèn tới ôm lấy cây, vuốt ve rung lắc gọi tên Giáng Tuyết mấy lần mà không nghe đáp lại. Liền về ngồi dưới đèn vê mồi ngải định tới đốt cây. Cô gái vội chạy vào, giật mồi ngải ném đi, nói "Chàng hay đùa ác khiến người ta bị đau, phải đoạn tuyệt với chàng thôi". Sinh cười ôm lấy nàng, vừa ngồi chưa yên thì Hương Ngọc lững thững bước vào.
Sinh trông thấy vùng sa nước mắt, vội đứng lên đỡ nàng. Hương Ngọc giơ một tay kéo Giáng Tuyết, nhìn nhau sụt sùi, kế cùng ngồi xuống than thở chuyện xa cách. Sinh cầm tay Hương Ngọc thấy trống không như tự nắm tay mình, kinh ngạc cho là khác với ngày trước. Hương Ngọc ứa nước mắt nói "Thiếp trước là thần hoa nên thể chất ngưng tụ, nay là ma hoa nên thể chất hư tán, nay tuy gặp nhau nhưng chàng đừng coi là thật, chỉ là như gặp nhau trong mộng thôi". Giáng Tuyết nói "Em tới hay lắm, chị bị chồng em quấy rối muốn chết", rồi lập tức cáo biệt. Hương Ngọc vẫn âu yếm như xưa, song lúc tựa kề nhau, phảng phất như một mình tựa bóng. Sinh buồn bực không vui, Hương Ngọc cũng áy náy tủi hận, nói "Chàng lấy bột bạch liễm trộn với ít lưu hoàng pha nước mỗi ngày tưới cho thiếp một chén, ngày này sang năm xin đền ơn chàng", rồi cũng từ biệt đi.
Hôm sau sinh ra chỗ cũ thì có mầm cây mẫu đơn mới nảy bèn làm theo lời, hàng ngày chăm bón, lại rào chung quanh để giữ gìn, Hương Ngọc tới rất cảm kích. Sinh bàn dời cây mang về nhà, nàng không chịu, nói "Thiếp vốn thể chất yếu đuối, không chịu nổi việc đào lên trồng xuống. Vả lại mọi vật sinh ra đều có nơi nhất định, thiếp từ trước vốn không định sinh ở nhà chàng, làm trái đi sẽ giảm thọ, chỉ cần yêu thương nhau thì ắt có ngày sum họp thôi". Sinh hận Giáng Tuyết không tới, Hương Ngọc nói "Nếu muốn ép chị ấy tới thì thiếp có thể làm được". Bèn cùng sinh thắp đèn ra dưới gốc cây, lấy một cọng cỏ đo vào xiêm mình làm cữ rồi đo gốc cây từ dưới lên trên bốn thước sáu tấc thì đánh dấu vào, bảo sinh lấy hai móng tay gãi. Giây lát Giáng Tuyết từ sau thân cây đi ra, mắng "Con nhãi tới giúp Kiệt làm điều bạo ngược à", rồi dắt tay nhau cùng về.
Hương Ngọc nói "Chị đừng trách, phiền chị tạm làm bạn với chàng, một năm sau em không dám quấy quả nữa", từ đó Giáng Tuyết lại tới thường. Sinh thấy mầm cây ngày càng tươi tốt, cuối xuân đã cao gần hai thước, trước khi về nhà đưa tiền tặng đạo sĩ nhờ tưới bón giúp. Tháng tư năm sau trở lại cung quán thấy có một nụ hoa chưa nở, đang còn tần ngần thì hoa bỗng lay động như muốn gãy, giây lát thì nở, đóa to như cái mâm, có một người đẹp nghiễm nhiên ngồi trong nhụy hoa, chỉ cao ba bốn đốt tay, trong chớp mắt nhẹ nhàng bước xuống, chính là Hương Ngọc. Nàng cười nói "Thiếp chịu gió mưa để đợi chàng, sao chàng tới muộn thế?". Rồi cùng vào nhà thì Giáng Tuyết đã tới, cười nói "Ngày ngày làm vợ thay người, bây giờ may mắn lại được lui về làm bạn" . Rồi cùng nhau chuyện trò xướng họa, nửa đêm Giáng Tuyết ra về, hai người cùng đi nằm, lại mặn nồng như trước.
Sau vợ sinh chết, sinh vào trong núi ở luôn không về nhà nữa, lúc ấy cây mẫu đơn đã to bằng cánh tay. Sinh thường chỉ cây nói "Sau này ta sẽ gửi hồn ở đó, mọc bên trái nàng". Hai cô gái cười nói "Chàng đừng quên đấy". Hơn mười năm sau sinh chợt mắc bệnh, con trai tới thăm, nhìn cha đau xót, sinh cười nói "Đây là ngày ta sinh chứ không phải ngày ta chết, đau xót làm gì?". Rồi nói với đạo sĩ "Sau này dưới gốc mẫu đơn có một mầm đỏ chợt nảy ra, một lúc trổ năm lá chính là ta đấy", rồi không nói gì nữa. Con trai sinh chở về, tới nhà thì sinh chết. Năm sau quả có cái mầm lớn chợt nảy ra, trổ đủ năm lá, đạo sĩ lấy làm lạ càng năng vun tưới. Ba năm sau thì cao mấy thước, to một ôm nhưng không trổ hoa. Đạo sĩ già mất đi, các đệ tử không biết, thấy cây không trổ hoa nên đốn bỏ. Cây bạch mẫu đơn cũng héo đi rồi chết, không bao lâu cây nại đông cũng chết.
Dị Sử thị nói: Tình đã kết thì có thể thông với quỷ thần, hoa thì có ma theo mà người thì lấy hồn gởi, chẳng phải là kết tình rất sâu sao? Một người mất thì hai kẻ chết, tuy không phải kiên trinh song cũng là chết vì tình vậy. Người ta không thể trinh tiết cũng là chưa hết lòng với tình mà thôi. Trọng Ni đọc thơ Đường đệ mà nói "Chưa nghĩ tới", đáng tin làm sao!
Phụ: Truyện Liễu Thị Của Hứa Nghiêu Thời Đường (Đường Hứa Nghiêu Liễu Thị Truyện)
Hàn Hoằng lúc trẻ nổi tiếng tài giỏi nhưng nhà nghèo, láng giềng có ca kỹ của Lý Tương là nàng họ Liễu, mỗi khi Liễu tới chơi là mời Hàn qua cùng uống rượu. Một hôm Lý nói với Hàn "Tú tài là bậc danh sĩ thời nay, Liễu thị là bậc quốc sắc thời nay, đem quốc sắc đánh đổi với danh sĩ, chẳng cũng hay sao!". Hàn bèn tới ở với Liễu, năm sau thi đỗ, vài năm sau Tiết độ sứ Hoài Thanh Hầu Hy Dật tiến cử làm Tùng sự, Hàn chưa đưa Liễu theo, Liễu bèn xuống tóc làm ni cô vào ở chùa.
Sau Hàn theo Hầu Hy Dật vào kinh tìm không được, té ra nàng đã bị tướng Phiên Sa Tra Lợi có công với triều đình bắt đi. Hàn không làm gì được, kế được bổ làm quan ở Trung thư sảnh. Trên đường gặp chiếc xe bèn đi theo, người trong xe hỏi "Có phải Hàn Viên ngoại không? Thiếp là Liễu thị, sáng mai còn theo đường này về, xin chàng tới từ biệt nhau một lần". Hàn theo lời tới vĩnh quyết. Hôm ấy quân Lâm Tri mừng công, mở tiệc mời Hàn, Hàn buồn bã không vui. Mọi người trong tiệc hỏi han, Hàn kể lại việc Liễu thị, có Ngu hầu tướng Hứa Tuấn đứng lên nói "Xin Viên ngoại viết cho vài chữ, ta sẽ đưa nàng về ngay".
Hàn viết thư đưa Hứa, Hứa bèn cưỡi một con ngựa dắt theo một con khác phi mau tới quân dinh của Sa Tra Lợi. Gặp lúc Sa Tra Lợi đi vắng, liền vào nói "Tướng quân ngã ngựa không cứu được, sai đưa Liễu phu nhân tới". Liễu ngạc nhiên bước ra, Hứa đưa thư Hàn cho xem rồi đỡ lên ngựa phóng mau trở về, đưa tới chỗ Hàn nói "May mà không nhục mệnh".
Phụ: Truyện Vô Song Của Tiết Điều (Tiết Điều Vô Song Truyện)
Vương Tiên Khách là cháu gọi Thượng thư Lưu Chấn bằng cậu, lúc nhỏ cùng con gái Chấn là Vô Song chơi đùa rất thân thiết. Lưu thị bị bệnh, gọi Chấn tới gởi gắm Tiên Khách mà không dặn gả Vô Song cho người khác. Tiên Khách về chôn cất mẹ xong, sắp xếp hành lý lên kinh, sai bà vú già tới cầu hôn nhưng Chấn không bằng lòng.
Một hôm Chấn vào chầu, chợt phóng ngựa về nhà nói "Quân Kinh Nguyên làm phản, Thiên tử ra Bắc Môn, các quan theo tới hành tại, ta nghĩ tới vợ con nên về qua một lúc". Rồi vội gọi Tiên Khách tới nói "Cháu giúp ta lo toan việc nhà, ta sẽ gả Vô Song cho". Rồi đem vàng bạc gấm vóc ra, bảo Tiên Khách áp tải ra cổng Khai Viễn, nói "Ta và mợ cháu cùng Vô Song ra cổng Khải Hạ". Tiên Khách theo lời, chờ mãi không thấy bèn vòng qua cổng Khải Hạ thì cổng đã đóng. Tiên Khách hỏi người giữ cổng thành "Hôm nay có ai ra không?", người ấy đáp "Sau giờ Ngọ có một người dắt vợ con cùng năm ba người định ra cổng này, người ta đều biết đó là Thượng thư bộ Hộ họ Lưu, quan giữ cổng không dám cho ra, gần tối thì quân kỵ đuổi theo phóng tới, xua cả qua Bắc Môn rồi".
Tiên Khách bèn về Tương Dương, ba năm sau vào kinh hỏi thăm tin tức gặp người đầy tớ cũ của cậu là Tái Hồng mới biết Vô Song đã bị đưa vào Dịch đình, chỉ còn có tỳ nữ cũ của nàng là Thái Tần ở nhà Kim ngô tướng quân Vương Toại Trung. Tiên Khách tới ra mắt Toại Trung xin đưa nhiều tiền để chuộc Thái Tần, Toại Trung ưng thuận. Tiên Khách bèn thuê nhà ở với Tái Hồng, kế được Toại Trung tiến cử làm Huyện lệnh Phú Bình coi trạm Trường Lạc. Chợt có tin quan Trung sứ áp giải ba mươi người trong Dịch đình tới Viên Lăng, phải chuẩn bị dọn dẹp đón tiếp, bèn nói với Hồng "Ta nghe nói trong Dịch đình phần nhiều là con cái các quan, sợ có Vô Song trong số này, người hãy đi thăm dò giúp ta", Tái Hồng vâng dạ ra đi.
Đến đêm vào trạm dò xét, chợt nghe trong rèm có người nói "Tái Hồng, Vương lang khỏe không?", Hồng đáp "Lang quân đang ở đây, ngờ có nương tử trong trạm nên sai Tái Hồng tới hỏi thăm". Cô gái nói "Sáng mai ngươi ra dưới căn gác phía đông bắc lấy thư ta gởi chàng". Hồng được thư đem về đưa Tiên Khách, thư rằng "Thường nghe sứ giả nói Cổ áp Nha ở Phú Bình là người có lòng trong thiên hạ, chàng có thể nhờ ông ấy không?". Tiên Khách bèn tìm tới Cổ áp Nha kể thật việc mình, Cổ sinh nói "Chuyện này rất không dễ, không thể một sớm một chiều mà xong được", sau nửa năm gởi thư xin cho Thái Tần tới.
Một đêm Vương nghe tiếng gõ cửa rất gấp, mở ra thì Cổ sinh đeo một cái giỏ lớn bước vào, nói "Vô Song trong này, nay đã chết nhưng mai sẽ sống lại". Tiên Khách bế nàng vào giường chăm sóc, đến sáng mới hơi ấm lại mở mắt nhìn thấy Tiên Khách thì kêu lớn một tiếng rồi ngất đi, đến đêm mới tỉnh. Cổ sinh bèn tuốt đao chém đứt đầu Tái Hồng, nói "Hôm nay thì ngươi đã báo ơn lang quân đủ rồi. Vốn nghe nói đạo sĩ ở Mao Sơn có thuốc lạ, ai uống vào sẽ chết ngay, ba ngày thì sống lại, ta xin được một viên bèn sai Thái Tần giả làm Trung sứ tới nói Vô Song là con kẻ phản nghịch nên ban cho thuốc ấy bắt tự tử. Kế đem trăm lượng vàng chuộc xác, dọc đường đi qua các trạm dịch đều hối lộ rất hậu, ắt không bị tiết lộ đâu. Lão phu vì chàng, cũng sẽ tự tử". Nói xong vung đao lên, Tiên Khách vội sấn tới cản lại thì đầu Cổ đã rơi xuống đất.
051. Đại Nam (Đại Nam)
Hề Thành Liệt là sĩ nhân ở Thành Đô (tỉnh thành Tứ Xuyên), có một vợ một thiếp, người thiếp họ Hà, tiểu tự là Chiêu Dung. Vợ chết sớm, Hề lấy vợ kế họ Thân nhưng không tử tế được với nhau, ngược đãi Hà làm khổ lây cả Hề, cả ngày cãi vã ầm ĩ không sao sống nổi, Hề tức giận bỏ đi. Sau khi chồng đi, Hà sinh được một trai đặt tên là Đại Nam. Lâu ngày Hề không trở về, Thân gạt Hà ra không cho ăn cơm chung, cứ tính ngày đong gạo cấp cho.
Đại Nam lớn dần, Hà không dám xin cấp nhiều hơn, phải dệt vải để kiếm thêm. Đại Nam thấy trẻ con ở trường ngâm nga đọc sách thích lắm nói với mẹ muốn đi học, mẹ thấy còn nhỏ quá nên tạm đưa tới trường cho học thử để làm khó. Nhưng Đại Nam thông minh, học mau gấp đôi các trẻ khác. Thầy lấy làm lạ, tình nguyện dạy không lấy tiền, Hà bèn cho con theo học, thù tạ chút ít cho thầy. Được hai ba năm Đại Nam đã đọc thông kinh sử, một hôm về nói với mẹ "Trong trường có năm sáu đứa đều xin tiền cha mua quà bánh, sao con không có cha?". Mẹ nói "Lúc nào con lớn mẹ sẽ cho biết". Đại Nam hỏi "Con mới bảy tám tuổi, lúc nào mới là lớn", mẹ đáp "Con tới trường đi ngang miếu Quan Đế thì nên vào lạy, người sẽ phù hộ cho mau lớn".
Đại Nam tin lời, ngày hai buổi đi qua đều vào miếu lạy. Mẹ biết, hỏi con cầu xin chuyện gì thì đáp "Chỉ xin người sang năm cho con lớn như mười lăm mười sáu tuổi". Mẹ cười, nhưng Đại Nam sức học và vóc dáng đều tăng nhanh, đến năm mười tuổi đã như mười ba mười bốn, làm văn thì thầy học cũng không thể thêm bớt sửa đổi. Một hôm nói với mẹ "Trước mẹ nói lúc nào con lớn mẹ sẽ cho biết cha ở đâu, nay đã đến lúc rồi!". Mẹ nói "Chưa đâu, chưa đâu!". Lại hơn một năm nữa, đã như người lớn hẳn hoi, càng gạn hỏi luôn luôn. Mẹ bèn thuật lại ngành ngọn. Đại Nam nghe kể vô cùng thương cảm, muốn đi tìm cha. Mẹ nói "Con còn nhỏ lắm, mà cha con sống chết ra sao chưa rõ, làm sao tìm được?".
Đại Nam không đáp đi ra, đến trưa không về, mẹ tới trường hỏi thì thầy nói sau giờ cơm sớm chưa trở lại trường. Mẹ cả kinh, thuê người đi tìm kiếm khắp nơi mà không thấy tung tích. Đại Nam ra cửa, không biết nên đi đâu, cứ theo đường mà đi. Gặp một người đang đi Quỳ Châu (huyện thuộc Tứ Xuyên), tự nói là họ Tiền, bèn xin đi theo. Tiền thấy đi chậm chán quá, thuê cho con lừa đỡ chân, tiền lưng cạn hết. Tới Quỳ Châu cùng ăn cơm, Tiền ngầm bỏ thuốc mê vào, Đại Nam mê man bất tỉnh. Tiền chở tới một chùa lớn nói là con mình, đi đường bị ốm hết cả tiền ăn, muốn bán cho sư. Các sư thấy mặt mũi khôi ngô tranh nhau mua, Tiền được vàng ra đi.
Các sư đổ nước cho, Đại Nam dần tỉnh lại, sư ông mới biết bèn tới xem, thấy tướng mạo lấy làm lạ, hỏi biết được ngọn ngành càng thương, trách phạt các sư rồi cho Đại Nam tiền bảo đi. Có Tú tài họ Tưởng ở huyện Lô Châu (tỉnh Tứ Xuyên) thi trượt trở về trên đường gặp hỏi biết chuyện khen là hiếu, bèn dắt cùng đi. Tới Lô Châu ở lại nhà Tưởng hơn một tháng, tìm hỏi khắp nơi. Có người nói trong các thương nhân đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) có người họ Hề, bèn chào Tưởng để đi Mân. Tưởng tặng tiền áo giày, làng xóm cũng góp tiền giúp đỡ.
Trên đường có hai khách buôn vải đi Phúc Thanh (tỉnh thành Phúc Kiến) rủ đi cùng. Đi được vài ngày, họ nhìn thấy tiền trong túi Đại Nam bèn đưa tới chỗ vắng trói tay chân cướp sạch rồi bỏ đi. Gặp lúc có ông Trần người huyện Vĩnh Phúc (tỉnh Tứ Xuyên) đi ngang đó cởi trói cho chở về nhà. Nhà Trần giàu có, khách buôn các trấn trong vùng phần lớn đều xuất thân từ nhà ông. Ông dặn các khách buôn Nam Bắc hỏi giùm tin Hề, giữ Đại Nam lại cho học với các con mình. Đại Nam bèn ở lại không đi đâu nữa, nên quê càng xa, tin nhà càng vắng.
Hà Chiêu Dung sống cô đơn ba bốn năm, Thân thị chu cấp ít đi, ép phải tái giá nhưng Hà tự làm lụng mà sống, không chịu đổi lòng. Thân bán bừa cho một khách buôn ở Trùng Khánh (tỉnh Tứ Xuyên), người ấy bắt cóc Hà mang đi. Đến đêm Hà lấy dao tự cứa cổ, người khách buôn không dám ép, chờ vết thương lành bán lại cho một khách buôn ở Diêm Đình. Tới Diêm Đình, Hà tự rạch bụng thấy cả ruột gan, người khách buôn sợ bó thuốc cho, khi lành rồi Hà chỉ xin cho làm ni cô. Người khách buôn nói "Ta có người bạn buôn không có ngọc hành thường nluốn tìm một người để may vá, ở với y cũng như làm ni cô, mà cũng có thể bù lại cho ta ít tiền", Hà nghe theo. Người khách buôn cho kiệu đưa đi, tới cửa chủ nhân bước ra thì là Hề sinh. Nguyên Hề đã bỏ nghiệp nho đi buôn, người khách buôn thấy không có vợ nên đem Hà tặng cho. Hai người gặp nhau kinh ngạc đau xót, cùng kể nỗi khổ, Hề mới biết là có con trai đi tìm cha chưa về. Hề bèn nhờ các quán trọ dò hỏi tin tức Đại Nam, còn Chiêu Dung từ chỗ là thiếp trở thành chính thất.
Nhưng nàng trải nhiều tai nạn nên đau yếu lắm bệnh không làm được việc nhà, bèn khuyên chồng lấy vợ lẽ. Hề nhớ lại tai họa trước đây nên không nghe, Hà nói "Nếu thiếp là kẻ tranh giành nơi giường chiếu thì mấy năm nay đã theo người sinh con rồi, làm sao còn đoàn tụ với chàng như hôm nay! Vả lại việc người ta đối xử với mình nay còn thầm đau trong lòng, lẽ nào mình lại đối xử như thế với người khác". Hề bèn dặn bạn khách buôn mua cho một người thiếp già hơn ba mươi tuổi. Qua nửa năm, khách quả mua được người về, vào tới cửa thì ra là Thân thị, ai cũng lạ lùng kinh sợ. Trước đó Thân thị ở một mình thêm được hơn năm thì anh là Bao khuyên tái giá. Thân nghe theo, duy ruộng nương thì bị họ hàng nhà chồng cản trở không cho bán, liền bán các vật dùng được mấy trăm lượng vàng về nhà anh ở. Có người khách buôn ở huyện Bảo Ninh (tỉnh Tứ Xuyên) nghe nói có nhiều của hồi môn bèn đút lót nhiều tiền cho Bao để lừa cưới. Nhưng người khách buôn già nua không còn sức làm đàn ông, Thân oán anh không chịu ở yên, hết thắt cổ lại nhảy xuống giếng, phiền nhiễu không chịu nổi. Người khách buôn giận, lục soát tiền bạc lấy hết, định đem bán làm thiếp, nhưng ai nghe cũng chê đã quá ba mươi rồi.
Người khách buôn đi Quỳ Châu đưa Thân cùng đi, người bạn buôn với Hề gặp bèn mua về. Thân gặp mặt Hề thì vừa thẹn thùng sợ sệt không nói một câu. Hề hỏi người bạn buôn biết rõ đầu đuôi bèn nói "Nếu gặp được người đàn ông mạnh khỏe thì đã ở lại Bảo Ninh, đâu có gặp nhau ở đây, cũng là số trời. Nhưng nay ta mua thiếp chứ không phải cưới vợ, nên cứ vào lạy Chiêu Dung cho đúng lễ vợ cả vợ bé đã". Thân lấy làm nhục, Hề nói "Trước kia ngươi làm vợ cả thì sao?". Hà khuyên thôi nhưng Hề không chịu, cầm gậy đe dọa cưỡng ép, Thân bất đắc dĩ phải lạy, nhưng trước sau vẫn không chịu hầu hạ, chỉ làm lụng ở phòng khác. Hà đều bỏ qua hết, cũng không nỡ xét nét siêng năng hay lười biếng. Hề cứ chuyện trò yến ẩm với Chiêu Dung là gọi Thân thị tới hầu hạ bên cạnh, Hà muốn sai tỳ nữ thay nhưng không nghe. Gặp lúc ông Trần Tự Tông tới làm Huyện lệnh Diêm Đình, Hề có việc tranh chấp nhỏ với người làng, họ bèn kiện Hề tội bắt vợ cả làm vợ lẽ, Trần thét đuổi ra.
Hề mừng ca ngợi ông với Hà. Một đêm đã khuya, đứa hầu nhỏ gõ cửa vào bẩm quan huyện tới. Hề hoảng sợ vội tìm áo mũ thì quan đã tới cửa phòng, lại càng sợ không biết làm gì. Hà nhìn kỹ, vội bước ra nói "Con ta đây mà" rồi bật khóc, Trần bèn lạy phục xuống đất khóc nức nở, té ra Đại Nam lấy họ ông Trần nay đã làm quan. Lúc trước từ kinh tới đi vòng qua quê cũ mới biết hai mẹ đều đã cải giá, trong lòng đau xót. Họ hàng biết Đại Nam đã làm quan liền trả lại ruộng vườn nhà cửa, Đại Nam cho đầy tớ ở lại sửa sang xây cất đợi ngày cha về. Kế được bổ nhiệm ở Diêm Đình, lại muốn bỏ quan tìm cha, ông Trần hết sức khuyên can. Vừa gặp lúc có người thầy bói bèn xin một quẻ, thầy bói nói "Nhỏ làm lớn, dưới thành trên, tìm trống được mái, tìm một được hai, làm quan rất tốt". Trần bèn đi nhậm chức, vì không tìm được cha nên làm quan không uống rượu ăn mặn.
Hôm ấy nhận được đơn kiện của người làng thấy nói đến họ Hề có ý ngờ, ngầm sai tớ gái dò hỏi thì quả là cha. Bèn nhân lúc đêm tối vi hành, gặp mẹ càng tin thầy bói tài giỏi. Lúc ra về dặn đừng tiết lộ, đưa ra hai trăm lượng vàng, bảo cha sửa soạn về quê. Cha về tới nơi thì nhà của mới mẻ, nuôi thêm người hầu ngựa cưỡi, nghiễm nhiên là một đại gia. Thân thị thấy Đại Nam sang giàu càng hổ thẹn, anh là Bao biết được, kiện lên quan giành lại ngôi vợ cả cho em. Quan xét được sự thật, giận nói "Đã tham của khuyên em tái giá, bỏ Hề lấy chồng hai lần rồi, lại còn mặt mũi tranh giành cả lẻ như xưa à?", rồi sai đánh Bao thật đau. Từ đó danh phận rõ ràng, Thân coi Hà như em, Hà cũng coi Thân như chị, thức ăn cái mặc đều chia cho. Thân lúc đầu vẫn sợ Hà trả thù, đến lúc ấy càng thẹn thùng hối hận. Hề cũng bỏ qua lỗi trước, cho người nhà gọi Thân là Thái mẫu, chỉ không được phong tặng thôi.
Dị Sử thị nói: Làm cho chúng sinh điên đảo không biết đâu mà bàn, đó là sự khéo léo của tạo hóa vậy. Hề sinh không thể sống được với vợ và thiếp thì chỉ là một người tầm thường thôi, nếu không có mẹ hiền con thảo thì làm sao có được sự hội ngộ kỳ lạ, ngồi không mà hưởng phúc đến trọn đời như vậy.
052. Thạch Thanh Hư (Thạch Thanh Hư)
Hình Vân Phi người phủ Thuận Thiên thích đá, thấy đá đẹp là mua ngay không tiếc tiền. Tình cờ đánh cá ở sông thấy có vật vướng vào lưới, lặn xuống gở thì được tảng đá bề ngang khoảng một thước, bốn mặt lóng lánh lởm chởm như núi non rất đẹp, mừng như được ngọc báu, lấy gỗ đàn hương tía chạm thành cái đế bày trên bàn. Mỗi khi trời sắp mưa thì các lỗ sinh mây, nhìn xa như bông bay phơ phất.
Có nhà thế hào Mỗ tới xin xem, nhìn thấy cướp luôn, đưa cho tên đầy tớ khỏe mạnh vác rồi quất ngựa đi mất. Hình không làm gì được, chỉ biết giẫm chân căm tức mà thôi. Tên đầy tớ vác đá tới bờ sông nghỉ vai ở trên cầu, chợt tuột tay, đá rớt xuống sông. Nhà thế hào giận đánh đầy tớ rồi bỏ tiền thuê người giỏi lặn tìm đủ cách mò lên mà vẫn không thấy, bèn treo tiền thưởng cho ai mò được rồi đi.
Từ đó người mò đá hàng ngày kéo tới đầy sông mà không ai lấy được. Sau Hình tới chỗ đá rơi, nhìn sông than thở thì thấy nước trong suốt, đá vẫn ở dưới đó. Hình cả mừng cởi áo lặn xuống ôm lên, cái đế gỗ đàn vẫn còn. Về nhà không bày ở phòng khách nữa, dọn sạch phòng ngủ đặt ở đó.
Một hôm có ông già gõ cửa xin xem, Hình nói thác rằng mất đã lâu. Ông già cười nói "Không phải ở phòng khách sao?". Hình bèn mời vào phòng khách để chứng tỏ là không có, vào tới thì thấy tảng đá bày trên ghế, kinh ngạc đớ lưỡi. Ông già xoa tảng đá nói "Đây là vật cũ của nhà ta bị mất đã lâu, vẫn còn ở đây à? Nay đã thấy xin cho lại". Hình cuống quá bèn cãi nói của mình, ông già cười hỏi "Đã là của nhà ông thì lấy gì làm bằng?" Hình không sao trả lời. Ông già nói "Ta thì biết rõ lắm, trước sau có tất cả chín mươi hai lỗ, trong lỗ lớn có năm chữ Thanh Hư thiên thạch cung (Đá trời cung Thanh Hư )". Hình nhìn kỹ quả trong lỗ có hàng chữ nhỏ như hạt gạo, cố nhìn mới đọc được, lại đếm số lỗ thì đúng như ông già nói. Hình không đáp được, chỉ giữ không chịu đưa ông già cười nói "Vật của nhà ai mà ông đòi làm chủ?" rồi chào ra.
Hình đưa ra tới cổng, quay vào thì đá đã đâu mất. Cả kinh nghi là ông già lấy, vội đuổi theo thì thấy ông thong thả đi cũng chưa xa, Hình chạy theo níu áo van xin. Ông già nói "Lạ chưa, tảng đá to cả thước, ai mà giấu được trong tay áo?". Hình biết là thần, cố kéo về nhà, quỳ xuống năn nỉ. Ông già bèn hỏi "Đá đó thật là của ông hay của ta?". Hình đáp "Quả là của ông, chỉ xin ông dứt tình mà cho thôi". Ông già nói "Nếu thế thì đá vẫn ở đấy", Hình vào phòng ngủ thì đá vẫn ở chỗ cũ.
Ông già nói "Vật quý trên đời nên để cho người biết quý. Tảng đá này có thể tự chọn chủ, ta cũng mừng. Nhưng nó vội xuất hiện, ra đời sớm thì ma kiếp chưa trừ, ta thật muốn mang đi, ba năm nữa mới đem tặng ông. Nếu muốn giữ nó ngay thì phải giảm thọ ba năm nó mới làm bạn với ông mãi được, ông có chịu không?". Hình đáp chịu, ông già bèn lấy hai ngón tay miết lên một cái lỗ, cái lỗ mềm như bùn, theo ngón tay vít kín lại, lần lượt vít ba lỗ. Ông già nói "Số lỗ trên đá là số tuổi thọ của ông", rồi chào đi. Hình cố giữ lại nhưng ông nhất định chối từ, Hình hỏi họ tên cũng không nói, ra đi ngay.
Hơn năm sau, Hình có việc đi vắng, đêm có kẻ trộm vào phòng, không lấy vật gì mà chỉ trộm tảng đá mang đi. Hình về buồn bã tưởng chết, dò hỏi thuê tìm nhưng không thấy manh mối. Vài năm sau tình cờ vào chùa Báo Quốc, thấy có người bán đá, tới gần xem thì là vật cũ bèn nhận của mình. Người bán đá không chịu, nhân vác đá lên quan. Quan hỏi "Lấy gì làm bằng?", người bán đá nói đúng số lỗ. Hình hỏi còn gì khác không thì không nói được. Hình bèn nói năm chữ trong lỗ và ba vết ngón tay, việc liền rõ ràng. Quan định phạt đòn người bán đá, người ấy khai mua ở chợ mất hai mươi lượng vàng, quan bèn tha. Hình mang được đá về, lấy gấm bọc lại cất vào rương, thỉnh thoảng lấy ra ngắm thì đốt trầm trước rồi mới đem ra.
Có quan Thượng thư nọ đem một trăm lượng vàng tới mua nhưng Hình thì vạn lượng vàng cũng không bán. Thượng thư tức giận ngầm lấy việc khác hãm hại, Hình bị bắt, vợ con cầm ruộng bán vườn chạy vạy, Thượng thư sai người bắn tin cho con Hình là muốn lấy đá. Con thưa lại, Hình nói thà chết chứ không chịu mất đá. Vợ bàn riêng với con đem đá dâng Thượng thư, Hình ra khỏi ngục mới biết, chửi vợ đánh con, nhiều lần thắt cổ tự tử nhưng người nhà đều biết cứu thoát. Một đêm mơ thấy một người đàn ông tới, tự xưng là Thạch Thanh Hư, nói với Hình rằng "Đừng buồn, chỉ tạm xa ông hơn một năm thôi. Mờ sáng ngày hai mươi tháng tám sang năm cứ đem hai quan tiền tới cửa Hải Đại chuộc về".
Hình mừng rỡ ghi lại ngày tháng cẩn thận, mà tảng đá trong nhà Thượng thư cũng không sinh mây nữa, dần dần cũng không quý trọng lắm. Năm sau Thượng thư có tội bị cách chức, kế chết. Đúng ngày hẹn Hình tới cửa Hải Đại thì gia nhân Thượng thư ăn cắp đá ra đang tìm người để bán, Hình bèn bỏ ra hai quan mua về.
Về sau Hình sống đến tám mươi chín tuổi, tự sắm sửa quan quách, dặn con hễ mình chết thì chôn đá theo. Kế chết, con theo lời chôn đá vào trong mộ. Khoảng nửa năm kẻ trộm đào mộ lấy đá đi, con Hình biết nhưng không có cách nào đòi được. Qua hai ba hôm dắt dầy tớ đi trên đường chợt thấy hai người mồ hôi nhễ nhại chạy theo, ngẩng lên không cầu khẩn "Hình tiên sinh tha cho bọn ta đi, hai đứa lấy đá chẳng qua bán được bốn lượng bạc thôi", liền bắt trói đưa lên quan, quan hỏi liền nhận tội ngay. Hỏi đá thì họ khai là bán cho họ Cung, bèn lấy lên. Quan nhìn thấy rất thích, muốn chiếm lấy bèn sai cất vào kho. Viên lại vừa bưng đi thì đá chợt rơi xuống đất vỡ làm mấy mươi mảnh, ai cũng hoảng sợ. Quan cho cùm kẹp hai tên trộm thật đau rồi tha ra. Con Hình nhặt các mảnh đá đem chôn vào mộ cha như cũ.
Dị Sử thị nói: Vật kỳ lạ chỉ mang họa tới, thế mà muốn đổi mạng sống lấy vật, cũng thật là si mê quá đáng. Nhưng rốt lại đá lại cùng người có thủy có chung, ai nói rằng đá vô tình? Người xưa nói "Kẻ sĩ chết cho người biết mình", thì không phải là sai. Đá còn như thế, huống chi là người sao!
053. Tăng Hữu Vu (Tăng Hữu Vu)
Ông họ Tăng là người đất Côn Dương (huyện Diệp tỉnh Hà Nam) là con nhà thế gia cũ. Lúc ông chết còn chưa chôn, hai mắt ứa lệ giàn giụa, nhưng có sáu người con mà không ai hiểu vì sao. Người con thứ tên Đễ, tự Hữu Vu là danh sĩ trong huyện cho là điều không lành, nói với anh em đều nên cẩn thận giữ gìn đừng để người quá cố đau lòng, nhưng một nửa số anh em khinh bỉ chế nhạo là ngu xuẩn vu vơ. Trước kia ông Tăng lấy vợ sinh được người con trưởng là Thành, được bảy tám tuổi thì hai mẹ con bị giặc cướp bắt đi. Lấy vợ kế sinh được ba con trai là Hiếu, Trung, Tín, người thiếp sinh được ba con trai là Đễ, Nhân, Nghĩa. Hiếu vì bọn Đễ là con dòng thứ nên khinh bỉ không coi là ngang hàng, kéo bè kéo cánh với Trung và Tín. Như đang uống rượu với khách mà bọn Đễ đi ngang thềm thì tỏ ra ngạo mạn vô lễ, Nhân và Nghĩa đều tức giận, bàn với Hữu Vu định trả đũa. Hữu Vu tìm đủ cách can ngăn khuyên giải chứ không nghe theo, mà Nhân và Nghĩa vì còn quá nhỏ nên nghe anh nói thế cũng thôi.
Hiếu có con gái gả cho họ Chu người cùng huyện bị bệnh chết, bèn dắt các em đến đánh đập người mẹ chồng. Chu báo lên huyện, quan huyện tức giận bắt giam bọn Hiếu định trị tội thật nặng. Hữu Vu sợ hãi lên ra mắt quan huyện nài nỉ. Quan huyện vốn ngưỡng mộ phẩm hạnh Hữu Vu, nhờ vậy bọn anh em không phải chịu khổ nhiều. Hữu Vu lại tự mang roi tới nhà Chu xin nhận lỗi, Chu cũng kính trọng Hữu Vu nên thôi không kiện nữa. Bọn Hiếu được trở về nhưng rốt vẫn không hề biết ơn Vu. Không bao lâu, mẹ Hữu Vu là Trương phu nhân chết, bọn Hiếu đều không để tang mà vẫn yến ẩm như cũ, Nhân và Nghĩa càng căm tức. Hữu Vu nói "Đó là họ vô lễ chứ chúng ta đâu có mất gì?". Đến khi chôn cất thì bọn Hiếu ra giữ cửa mộ không cho hợp táng với ông Tăng, Hữu Vu bèn chôn mẹ ở đường vào mộ cha.
Không bao lâu vợ Hiếu chết, Hữu Vu gọi Nhân và Nghĩa tới giúp việc tang, hai người đều nói "Họ không để tang vợ lẽ của cha, thì làm gì có chuyện chúng ta để tang chị dâu?", khuyên mấy lần vẫn thản nhiên bỏ đi. Hữu Vu bèn tới, khóc lóc rất đau thương. Nghe Nhân và Nghĩa ở nhà bên đàn hát uống rượu, Hiếu tức giận họp các em qua đánh. Hữu Vu vác gậy xông vào trước, Nhân biết được bỏ chạy, Nghĩa đang trèo qua tường thì Hữu Vu đuổi tới đánh ngã xuống đất. Bọn Hiếu xúm lại đánh túi bụi không ngừng tay. Hữu Vu lấy thân mình che chở cho Nghĩa, Hiếu tức giận chửi Hữu Vu. Hữu Vu nói "Đánh nó vì tội vô lễ chứ tội ấy không đáng chết, em không tha thằng em vô lễ nhưng cũng không thể thấy anh nóng giận mà không can, xin được chịu tội thay nó"' Hiếu bèn quay gậy đánh Hữu Vu, Trung và Tín cũng giúp Hiếu đánh anh, gầm thét ầm ĩ, người làng xúm lại khuyên giải mới thôi. Hữu Vu bèn vác gậy tới nhà anh xin chịu tội, Hiếu đuổi đi không cho để tang. Nhưng Nghĩa bị đánh trọng thương không ăn uống gì được, Nhân bèn lên quan kiện thay, tố cáo bọn Hiếu không để tang thứ mẫu. Quan bèn ra lệnh bắt bọn Hiếu, sai Hữu Vu khai báo. Hữu Vu vì mặt mũi bị thương không tới công đường được, chỉ làm tờ bẩm năn nỉ bỏ qua chuyện này. Quan huyện bèn không xét tới nữa, Nghĩa cũng dần dần bình phục, từ đó càng thù hận bọn Hiếu.
Nhân và Nghĩa đều còn nhỏ yếu ớt, cứ mỗi khi bị đánh đập thì nói với Hữu Vu "Người ta đều có anh em, chỉ có chúng ta là không", Hữu Vu nói "Ta mà nói câu ấy ra thì hai em sẽ đi đâu mà sống?", nhân đó hết sức khuyên giải, nhưng rốt lại hai người vẫn không nghe. Hữu Vu bèn đóng cửa nhà, dắt vợ con tới ngụ ở làng khác cách đó hơn năm mươi dặm, không ai biết tin tức. Hữu Vu lúc còn ở nhà tuy không bênh vực gì hai em nhưng bọn Hiếu cũng hơi kiêng dè, lúc đi rồi thì bọn Hiếu không sợ hãi gì nữa, cứ tới nhà Nhân và Nghĩa chửi mắng, xúc phạm cả tới mẹ ruột họ. Nhân và Nghĩa tự lượng không đủ sức đánh lại, chỉ đóng chặt cửa nghĩ cách tìm lúc bọn Hiếu sơ hở mà đâm chết, đi đâu cũng giắt dao trong người.
Một hôm chợt người anh lớn bị cướp bắt đi là Thành dắt mẹ trở về, các anh em vì chia gia tài đã lâu, họp lại bàn bạc ba ngày mà không biết đối xử với Thành thế nào, bèn tới báo với Hữu Vu, Hữu Vu mừng rỡ về ngay, đưa ruộng vườn nhà cửa cho Thành ở. Bọn Hiếu tức giận, cho rằng Hữu Vu làm ơn để lấy lòng Thành, tới tận nhà sỉ vả làm nhục. Nhưng Thành ở lâu ngày với bọn cướp cũng quen thói dữ tợn, nghe thế cả giận nói "Ta về tới đây đã không người nào đưa cho một gian nhà để ở, may có chú ba nghĩ tình anh em thì các người lại bắt lỗi này nọ, muốn đuổi ta đi phải không?". Rồi vác đá ném Hiếu, Hiếu ngã lăn ra, Nhân và Nghĩa đều vác gậy xông ra bắt Trung và Tín đánh túi bụi. Thành không chờ bọn Hiếu thưa kiện mà đi kiện trước, quan huyện lại sai người tới hỏi ý Hữn Vu. Hữu Vu bất đắc dĩ phải lên gặp quan, cúi đầu không nói gì chỉ chảy nước mắt, quan hỏi mãi mới thưa chỉ xin cứ theo phép công mà xét.
Quan bèn truyền bọn Hiếu phải đưa lại ruộng vườn nhà cửa cho Thành, sai chia làm bảy phần cho đều, từ đó Nhân và Nghĩa càng thêm kính trọng yêu mến Thành. Nhân cùng trò chuyện kể lại việc chôn mẹ, hai người rơi nước mắt, Thành căm giận nói "Bất nhân như thế thì thật là cầm thú". Bèn định bốc mộ mẹ ba anh em Hữu Vu lên để cải táng, Nhân và Nghĩa tới báo, Hữu Vu vội về can ngăn nhưng Thành không nghe, chọn ngày lập đàn chay cạnh mộ, cầm đao phạt đứt một cái cây nói với các em rằng "Đứa nào không chịu mặc áo tang đi theo, thì sẽ như cái cây này đấy". Mọi người đều líu ríu vâng dạ, cả nhà đều ra khóc than, chôn cất đủ lễ, từ đó anh em yên ổn với nhau. Nhưng Thành tính nóng nảy cứng rắn, thường đánh đập các em, nhất là bọn Hiếu, duy chỉ trọng có Hữu Vu, đang lúc giận sôi lên mà Hữu Vu tới nói một câu là nguôi ngay. Những việc Hiếu làm Thành đều không ưa, vì vậy ngày nào Hiếu cũng tới nhà Hữu Vu chửi lén Thành, nhưng Hữu Vu khéo léo can ngăn, không nghe lời Hiếu. Hữu Vu thấy phiền nhiễu không chịu nổi bèn dời tới ngụ ở đất Tam Bạc, thuê nhà để ở, càng xa quê hơn trước, từ đó tin tức đi lại thưa dần. Được hai năm, các em đều sợ Thành, lâu ngày quen dần không còn tranh giành cãi cọ với nhau nữa.
Nhưng Hiếu bốn mươi sáu tuổi, sinh được năm con trai, trưởng là Kế Nghiệp, thứ ba là Kế Đức là con vợ lớn, con thứ là Kế Công, thứ tư là Kế Tích là con vợ thứ, lại có Kế Tổ là con người thiếp, lúc ấy đều đã trưởng thành, cũng học thói cha ngày xưa kéo bè kéo cánh hàng ngày tranh giành cãi cọ nhau, Hiếu không sao ngăn cấm được. Duy có Tổ là không có anh em ruột nào, lạỉ nhỏ tuổi nhất, các anh đều có người để chửi mắng. Nhà cha vợ Tổ vốn ở gần Tam Bạc, gặp hôm Tổ tới thăm bèn lén vòng qua thăm chú, vào tới nhà chú thấy hai anh một em đang đọc sách râm ran, thích lắm bèn ở lại lâu ngày không nói tới việc về. Chú giục về, Tổ nài nỉ xin cho ở lại, chú nói "Cha mẹ cháu đều không biết chuyện này, chứ chú đâu tiếc gì miếng cơm hớp nước với cháu?". Tổ bèn về, mấy tháng sau vợ chồng đi mừng thọ mẹ vợ bèn nói với cha "Con đi lần này không về nữa đâu". Cha hỏi han, Tổ bèn ngỏ ý riêng, cha sợ Hữu Vu nhớ oán hờn cũ khó nỗi ở lâu. Tổ nói "Cha lo xa quá, chứ chú hai là bậc thánh hiền đấy". rồi dắt vợ lên đường tới Tam Bạc. Hữu Vu chia nhà cho ở, coi như con ruột, sai học với con lớn là Kế Thiện. Tổ học rất giỏi, từ đó ngụ luôn ở Tam Bạc.
Anh em trong nhà Tổ ngày càng bất hòa, một hôm Nghiệp vì cãi cọ chuyện nhỏ chửi mắng thứ mẫu, Công tức giận đâm chết Nghiệp. Quan bắt Công trừng phạt nặng nề, được vài hôm Công chết trong ngục. Vợ Nghiệp là Phùng thị hàng ngày cứ chửi mắng thay việc khóc chồng, vợ Công là Lưu thị nghe thấy tức giận nói "Chồng ngươi chết còn chồng ta thì sống à?", rồi xách dao vào chém chết Phùng thị, kế nhảy xuống giếng tự tử. Cha Phùng thị là Đại Lập xót con gái chết thảm bèn dắt con cháu trong nhà giấu binh khí dưới áo tới bắt vợ Hiếu về, lột truồng đánh đập làm nhục. Thành tức giận nói "Nhà ta đang chết như rạ mà họ Phùng sao dám làm thế?" rồi gầm thét xông ra, anh em con cháu họ Tăng cũng đổ ra. Bọn nhà họ Phùng chạy tán loạn, Thành túm được Đại Lập, cắt luôn hai vành tai. Con Phùng tới cứu bị Kế Tích cầm gậy sắt đánh gãy hai chân, bọn nhà họ Phùng đều bị thương, kêu gào chạy tứ tán. Chỉ có con Phùng còn nằm bên đường, mọi người không biết tính sao, Thành bèn xốc nách đưa tới bỏ gần thôn Phùng rồi về, gọi Kế Tích bảo lên quan tự thú.
Lúc ấy đơn kiện của họ Phùng cũng vừa gởi tới, anh em con cháu nhà họ Tăng đều bị bắt. Chỉ có Trung chạy thoát, tới Tam Bạc chần chừ mãi ngoài cổng vì sợ anh nhớ thù xưa. Gặp lúc Hữu Vu dắt con lớn và cháu đi thi về, nhìn thấy ngạc nhiên nói "Sao em lại tới đây?". Trung quỳ mọp ven đường, Hữu Vu càng hoảng sợ nắm tay dắt vào nhà, hỏi biết sự tình kinh sợ nói "Làm thế nào bây giờ, cả nhà đều phạm tội. Ta đã biết có họa này từ lâu, nếu không thì đâu trốn lánh thế này. Anh xa nhà đã lâu, không có giao thiệp gì với quan huyện, nay cho dù có khúm núm tới đó cũng chỉ chuốc lấy cái nhục mà thôi. Có điều cha con họ Phùng tuy bị thương nặng nhưng không chết, nếu ba người chúng ta có ai may mắn thi đỗ thì tai họa này có thể gỡ ra một chút". Rồi giữ Trung lại, ngày ăn cùng mâm, đêm nằm cùng chiếu, Trung rất cảm động. Ở đó hơn mười ngày lại thấy chú cháu Hữu Vu thân thiết như cha con, anh em đều như một mẹ, buồn rầu sa nước mắt nói "Nay em mới biết ngày trước mình làm quấy". Hữu Vu thấy Trung tỉnh ngộ hối hận cũng vui mừng, đối xử rất chu đáo. Chợt có tin báo cha con Hữu Vu đều thi đỗ Cử nhân, Tổ cũng đỗ Tú tài, cả mừng không dự ăn yến mừng các vị tân khoa, trở về cúng mộ cha mẹ trước.
Cuối thời Minh khoa bảng rất được coi trọng, bọn nhà họ Phùng vì thế đều nín hơi. Hữu Vu lại nhờ bạn bè đưa vàng lụa tới cho họ lo thuốc men, việc kiện tụng bèn dứt. Cả nhà họ Tăng đều khóc, xin Hữu Vu quay về làng ở. Hữu Vu bèn cùng anh em đốt hương lập lời thề, ai nấy đều theo đó sửa mình rồi dời nhà về. Tổ theo chú không muốn về nhà, Hiếu bèn nói với Hữu Vu rằng "Ta thiếu đức, lẽ ra không được có đứa con làm rạng rỡ dòng họ như thế, em lại khéo dạy bảo, xin cứ cho theo ý nó gởi lại nhờ em, sau này có khá hơn thì cho nó về". Hữu Vu theo lời, ba năm sau quả nhiên Tổ thi đỗ Cử nhân, Hữu Vu bảo dời về ở với cha mẹ, vợ chồng đều khóc ròng ra đi. Được vài tháng, Tổ có đứa con mới ba tuổi cứ trốn tới nhà Hữu Vu không chịu về, đuổi bắt đưa về thì chạy trốn. Hiếu bèn dời nhà tới ở cạnh Hữu Vu, Tổ thì mở cửa bên vách thông qua nhà chú, qua lại thăm hỏi hai nhà như nhau. Từ đó Thành cũng dần già yếu, việc trong dòng họ giao cho Hữn Vu quyết, vì vậy môn hộ đều yêu thương nhau, nổi tiếng là hiếu hữu.
Dị Sử thị nói: Trên đời chỉ có cầm thú là biết có mẹ mà không biết có cha, sao những nhà đọc sách cũng theo vết ấy? Phàm việc xử sự trong gia đình cũng dần dần thành nếp cho con cháu, ăn sâu vào xương tủy, nên người xưa nói "Cha giết người trả thù thì con ắt làm ăn cướp", thói xấu lưu truyền nghĩ cũng đúng thôi. Hiếu tuy bất nhân, đã bị báo ứng thê thảm nhưng rốt lại có thể tự biết mình thiếu đức, gởi con cho em, nên mới có đứa con nóng lòng lo sợ tai họa như thế, nếu nói là chuyện quả báo thì sai lắm.
054. Công Tử ở Gia Bình (Gia Bình Công Tử)
Công tử Mỗ ở đất Gia Bình phong tư tuấn tú, năm mười bảy mười tám tuổi lên quận thi khoa Đồng tử, tình cờ đi ngang kỹ viện nhà họ Hứa. Ngoài cổng có một cô gái đẹp, công tử nhìn chằm chằm, nàng mỉm cười gật đầu, công tử vui vẻ tới gần trò chuyện. Cô gái hỏi chỗ trọ ở đâu, công tử nói rõ, nàng lại hỏi có ai ở cùng không, công tử đáp không. Nàng liền nói "Tối nay thiếp sẽ tới thăm, đừng để ai biết". Công tử gật đầu rồi về, bảo gia nhân đi hết qua nơi khác. Tối quả cô gái tới, tự nói tiểu tự là Ôn Cơ, lại nói "Thiếp hâm mộ công tử phong lưu nên trốn bà chủ tới đây, phận hèn rất muốn được hầu hạ công tử trọn đời". Công tử cũng mừng rỡ, hẹn sẽ đem món tiền lớn chuộc nàng ra khỏi kỹ viện, từ đó cứ hai ba hôm nàng lại tới một lần.
Một đêm nàng đội mưa tới, vào cửa rồi cởi chiếc áo ngoài bị ướt mắc lên giá, lại cởi chiếc hài nhỏ ở chân xin công tử gột giùm bùn đất cho. Công tử nhìn chiếc hài thấy là loại gấm mới năm màu, dính bùn bê bết cả, lấy làm tiếc. Cô gái nói "Không phải thiếp dám lấy việc hèn hạ bắt công tử phục dịch, chỉ là muốn công tử biết mối tình si của thiếp thôi". Nghe ngoài song tiếng mưa vẫn rả rích không ngớt, bèn ngâm "Thê phong lãnh vũ mãn giang thành" (Gió buồn mưa lạnh ngập giang thành), rồi xin công tử nối vần. Công tử từ chối nói không làm được, nàng nói "Công tử là một người như thế, mà không biết chuyện phong nhã, làm thiếp mất cả hứng". Nhân khuyên công tử cố gắng học tập, công tử vâng dạ.
Sau nàng thường lui tới nên đám gia nhân đều biết, công tử có người anh rể họ Tống cũng là con nhà thế gia nghe biết chuyện, lén xin công tử cho gặp Ôn Cơ một lần. Công tử nói lại nhưng nàng nhất định không chịu. Tống bèn tới rình trong phòng gia nhân, chờ nàng tới núp ngoài cửa sổ nhìn trộm, thấy say mê đến phát điên bèn xô cửa sấn vào, cô gái đứng dậy leo qua tường đi mất. Tống càng hâm mộ, bèn sắm sửa lễ vật tới gặp bà chủ nêu đích danh Ôn Cơ xin gặp, thì đúng là ở đó có Ôn Cơ song đã chết lâu rồi. Tống kinh ngạc về nói với công tử, công tử mới biết nàng là ma nhưng trong lòng vẫn yêu mến. Đêm nàng tới, công tử kể lại lời Tống, cô gái nói "Đúng thế, nhưng chàng muốn có vợ xinh đẹp, thiếp cũng muốn có chồng tuấn tú, ai cũng thỏa nguyện thì bàn làm gì chuyện người hay ma", công tử cho là đúng.
Thi xong trở về, cô gái cũng về theo, người khác không ai nhìn thấy nàng mà chỉ công tử nhìn thấy. Về tới nhà, công tử để nàng ở trong phòng khách rồi cũng ngủ một mình ở đó, cha mẹ đều ngờ vực. Khi cô gái về thăm nhà công tử mới nói riêng với mẹ. Cha mẹ cả sợ, bắt công tử tuyệt tình với nàng, công tử không nghe, hai ông bà lo lắng, tìm đủ cách trừ ếm mà không được. Một hôm, công tử có tờ thiếp răn bảo gia nhân đặt ở bàn, trong đó nhiều chữ viết sai như "tiêu" viết thành "thúc", "khương", viết thành "giang", "khả hận" viết thành "khả lãng". Cô gái đọc thấy, viết thêm vào phía dưới rằng "Hà sự khả lãng, Hoa thúc sinh giang, Hữu tế như thử, Bất như vi xướng" (Việc gì "đáng sóng", "Hoa thúc sinh giang", Có chồng như thế, Làm đĩ còn hơn)*, rồi giã từ công tử, nói "Thiếp lúc đầu cho rằng công tử là văn nhân nhà thế gia nên mặt dày tự theo về, không ngờ chỉ có cái mẽ ngoài, chỉ biết xét người theo dung mạo thế này liệu tránh khỏi thiên hạ chê cười không?" nói xong biến mất. Công tử tuy xấu hổ căm hờn nhưng cũng không hiểu nàng viết gì, cứ đem tờ thiếp ra răn bảo gia nhân, người nghe được kể cho nhau nghe để cười.
*Việc gì... còn hơn: "khả lãng" tức "khả hận" (đáng giận), "hoa thúc" tức "hoa tiêu" (tiêu xanh), "sinh giang" tức "sinh khương" (gừng sống), vì công tử dốt nên viết sai, thành ra tối nghĩa, Ôn Cơ nhại lại để mỉa.
Dị Sử thị nói: Ôn Cơ là một cô gái khá, mà đường đường một vị công tử thế kia sao lại bề trong chỉ có bấy nhiêu thôi? Đến như hối hận "làm đĩ còn hơn" thì thê thiếp của công tử phải thẹn thùng sa nước mắt vậy. Nghĩ lại hàng trăm cách đuổi vẫn không đi, nhưng thấy tấm thiếp liền biến mất, thì câu "hoa thúc sinh giang" có khác gì việc đọc câu thơ "Đầu lâu Tử Chương" của Tử Mỹ* đâu!
* Việc đọc câu thơ... Tử Mỹ: tháng 4 năm Thượng Nguyên thứ 2 (76a) Thứ sử Tử Châu Đoàn Tử Chương làm phản đánh úp Tiết độ sứ Đông Xuyên Lý Trị ở Cẩm Châu, tự xưng là Lương vương, đặt niên hiệu là Hoàng Long, đổi Cẩm Châu làm phủ Hoàng Long, đặt bách quan. Tháng 5 Thành Đô doãn Thôi Quang Viễn đem tướng 1à Hoa Kính Định đánh Cẩm Châu, chém được Tử Chương. Đỗ Phủ nhân viết bài Hoa liễu ca, trong có câu "Tử Chương xúc lâu huyết mô hồ" (Đầu lâu Tử Chương máu bê bết). Cổ kim thi thoại chép về sau có người bị sốt rét, Đỗ Phủ bảo "Đọc thơ của ta thì khỏi", nhân dạy người ấy đọc câu thơ nói trên, quả nhiên người ấy khỏi bệnh. Đây ý nói thơ văn hay dở có ảnh hưởng tới người khác.
055. Miêu Sinh (Miêu Sinh)
Cung sinh người Dận Châu (tỉnh Tứ Xuyên) lên Tây An (tỉnh Thiểm Tây) dự thi, nghỉ lại ở quán gọi rượu uống một mình. Chợt có một người đàn ông to lớn bước vào, ngồi xuống cùng trò chuyện, sinh nâng chén mời. Khách cũng không từ chối, tự nói tên là Miêu sinh, lời lẽ rất thô hào, sinh cho là không biết văn chương, đối xử rất ngạo mạn, uống hết rượu không gọi thêm nữa. Miêu nói "Bọn học trò uống rượu làm người ta phát chán" rồi đứng lên bước ra quầy bỏ tiền mua rượu, xách một vò lớn bước vào. Sinh chối từ không uống nữa, Miêu nắm tay mời mọc, tay sinh đau buốt như sắp gãy, bất đắc dĩ phải cạn thêm vài chén. Miêu lấy tô đựng canh múc rượu uống, cười nói "Ta không biết mời khách, uống nữa hay thôi thì tùy ông".
Sinh mang hành lý ra đi, được vài dặm thì con ngưa bị bệnh khuỵu xuống lăn ra đường, sinh ngồi đợi ven đường, hành lý nặng nề không biết làm sao. Kế Miêu tới hỏi biết chuyện, bèn đưa hành lý cho đầy tớ, vác con ngựa lên vai đi hơn hai mươi dặm mới tới quán trọ, bỏ ngựa vào chuồng, hồi lâu chủ tớ sinh mới tới. Sinh kinh ngạc cho là thần nhân, đối xử rất ân cần lễ phép, gọi lấy cơm rượu cùng ăn uống. Miêu nói "Ta ăn khỏe lắm, ông không cho ăn no nổi đâu, nhưng uống rượu thì được". Uống cạn một vò rồi đứng lên giã từ, nói "Ông chữa bệnh cho ngựa cũng phải mất ngày giờ, ta không chờ được, bây giờ xin đi".
Sau đó thi xong, sinh cùng ba bốn người bạn lên chơi Hoa Sơn, trải chiếu ra đất bày tiệc. Vừa ngồi vào uống rượu cười nói thì Miêu chợt tới, tay trái xách vò rượu lớn, tay phải cầm cái đùi heo, ném xuống chiếu nói "Nghe tin các vị lên chơi, xin tới hầu hạ", mọi người đứng lên chào hỏi, kế cùng ngồi xuống uống rượu rất vui vẻ. Mọi người định làm thơ liên cú, Miêu giành nói "Uống rượu rất vui, cần gì phải nghĩ ngợi cho buồn rầu?". Mọi người không nghe, bày lệ ai không làm được thơ thì bị phạt uống rượu. Miêu nói "Ai làm thơ không hay thì phải xử theo quân pháp". Mọi người cười nói "Tội ấy thì không đến nỗi bị trị như thế". Miêu nói "Nếu không bị giết thì ta tuy là kẻ vũ phu cũng làm được".
Người ngồi đầu tiệc là Cấn sinh đọc "Tuyệt hiến bàng lâm nhãn giới không" (Lên ngắm non cao mắt trống không). Miêu ứng khẩu đọc tiếp ngay rằng "Thóa hồ kích khuyết kiếm quang hồng" (Gõ hồ hát lớn ánh gươm hồng). Mọi người trầm ngâm hồi lâu, Miêu bèn nghiêng vò tự rót rượu uống, hồi lâu cả bọn mới đọc nối theo thành bài, ý thơ quê mùa bỉ lậu. Miêu gọi nói "Thế là được rồi, đừng dọa ta nữa", mọi người không nghe. Miêu không nhịn được nữa vùng dậy quát lên như tiếng rồng ngâm vang dội cả hang núi, lại ngẩng đầu múa điệu sư tử, mọi người tứ thơ đều rối loạn mới thôi không làm nữa. Kế lại rót rượu uống tiếp, đến lúc ngà ngà khách lại đọc những bài làm trong trường thi để tâng bốc nhau. Miêu không muốn nghe, lôi sinh ra ngoài vật tay, đã mấy phen phân thắng phụ mà đám kia còn ngâm đọc tán tụng không thôi. Miêu lớn tiếng nói "Ta đã nghe cả rồi, loại văn chương ấy chỉ đáng đem về đọc cho vợ nghe trong phòng, chứ trước chỗ đông người mà cứ lải nhải thì đáng chán lắm".
Mọi người hổ thẹn, lại thêm ghét Miêu thô mãng, càng cao giọng ngâm nga. Miêu càng tức giận, nằm phục xuống đất gầm lớn, lập tức biến thành con cọp xông vào vồ chết cả bọn rồi gầm thét bỏ đi, những người còn sống chỉ có sinh và Cấn. Khoa ấy Cấn đỗ Cử nhân, ba năm sau lại qua Hoa âm (tỉnh Sơn Đông), chợt gặp Kê sinh, cũng là kẻ bị cọp giết trên núi, cả sợ định bỏ chạy. Kê nắm dây cương ngựa, Cấn không chạy được bèn xuống ngựa hỏi định làm gì. Kê đáp "Ta nay làm ma trành của Miêu sinh, theo hầu hạ rất khổ, phải giết một người học trò để thay. Ba ngày nữa sẽ có một người mặc áo đội mũ nhà nho bị cọp vồ dưới núi Thương Long, là người thay ta đấy. Hôm ấy ông nên mời các bậc văn sĩ tới đó để mưu việc giùm bạn cũ". Cấn không dám nói gì, kính cẩn gật đầu rồi chia tay.
Tới nơi ngụ suy nghĩ suốt đêm không biết làm sao để giúp bèn quyết ý nuốt lời, mặc kệ con ma. Chợt có người anh bên ngoại là Tưởng sinh tới, Cấn thuật lại chuyện lạ. Tưởng là kẻ danh sĩ, trong huyện có Vưu sinh đi khảo thí được điểm cao hơn mình nên ngấm ngầm ghen ghét. Hôm ấy nghe Cấn nói, ngầm có ý hại Vưu bèn gởi thư mời Vưu hôm ấy lên núi chơi, tự mình mặc áo trắng tới đó. Vưu không hiểu ý, hôm ấy lên tới giữa núi thấy rượu thịt đã bày đủ, trò chuyện rất thân mật lễ phép. Gặp lúc quan Thái thú lên núi, Thái thú vốn là thông gia với Tưởng, nghe nói Tưởng ở dưới sai người xuống mời lên. Tưởng không dám mặc áo trắng lên gặp, bèn đổi áo mão với Vưu, vừa mặc áo nhà nho vào xong thì cọp phóng ra vồ Tưởng mang đi mất.
Dị Sử thị nói: Kẻ đắc ý hào hứng cho tay vào tay áo bắt người khác phải nghe, người nghe thì mỏi mệt buồn ngủ muốn bỏ đi, mà người đọc cứ khoa chân múa tay không tự biết. Những người biết cũng nên kéo tay giẫm chân, sợ rằng trên tiệc có người không nhịn được như Miêu sinh vậy. Còn kẻ ghen ghét đổi áo mà chết, thì biết Miêu sinh cũng là kẻ vô tâm thôi, nhưng gầm thét nổi giận thì Miêu mà không phải là Miêu vậy.
056. Em Lấy Chồng Thay Chị (Tỷ Muội Dịch Giá)
Tướng quốc họ Mao* ở huyện Dịch (tỉnh Sơn Đông) lúc nhỏ nhà nghèo, cha phải đi chăn trâu cho người ta. Lúc ấy nhà thế tộc họ Trương trong huyện có khu mộ ở sườn núi phía đông, có người đi qua nghe trong phần mộ có tiếng quát tháo "Các ngươi phải đi ngay, không được ở lâu trong ngôi đất của quý nhân". Trương nghe kể cũng chưa tin lắm, kế chợt nằm mơ thấy thần nói "Khu mộ của gia đình ngươi vốn là ngôi đất quý của ông Mao, sao lại mượn lâu thế?". Từ đó trong nhà liên tiếp gặp mấy chuyện rủi ro, có người môn khách khuyên nên dời mộ qua nơi khác thì hay, Trương nghe theo bèn cải táng.
*Tướng quốc họ Mao: bản Hương Cảng chú nhân vật này tên Tự, tự Duy Chi, thi đỗ Giải nguyên năm Bính ngọ niên hiệu Thành Hóa thời Minh (1486), thi đỗ Tiến sĩ năm Đinh mùi (1487), làm quan tới chức Cẩn Thân điện Đại học sĩ, chết được truy tặng hàm Thái bảo.
Một hôm cha Tướng quốc đi chăn trâu, ra tới khu mộ cũ nhà họ Trương thì trời chợt mưa lớn, bèn núp dưới huyệt mộ cũ. Kế mưa càng lớn như trút, nước tràn xuống huyệt, đất lở sụp xuống nên chết đuối dưới đó. Lúc ấy Tướng quốc còn là trẻ con, bà mẹ bèn tới nhà Trương xin cho vài thước đất chôn cha đứa nhỏ. Trương hỏi biết họ tên lấy làm lạ, tới xem nơi cha ông chết thì thấy đất nổi lên như cái gò, càng thêm hoảng sợ bèn cho chôn luôn ở đó, lại bảo dắt đứa nhỏ tới. Chôn cất xong bà mẹ dắt con tới nhà Trương tạ ơn, Trương vừa nhìn thấy đã mừng rỡ, giữ lại ở nhà mình dạy cho học, coi như con cháu, lại xin gả con gái lớn cho. Bà mẹ sợ hãi không dám đáp, vợ Trương nói "Nếu đã nói ra thì không giữa chừng thay đổi đâu" bà mẹ bèn ưng thuận.
Nhưng con gái lớn Trương rất coi thường nhà họ Mao, oán hận hổ thẹn hiện ra nét mặt, nếu có ai nhắc tới chuyện đó thì bịt tai không thèm nghe, thường nói với người ta rằng "Ta thà chết chứ không lấy thằng chăn trâu". Đến hôm làm lễ rước dâu, chàng rể đã vào ăn tiệc, kiệu hoa chờ ngoài cửa mà cô gái cứ lấy tay áo che mặt quay vào vách khóc lóc, giục trang điểm thì không chịu, khuyên giải mấy cũng không nghe. Kế chàng rể xin về, đàn sáo đã trỗi mà cô gái mắt còn ngấn lệ, tóc còn rối tung. Cha nàng bèn ngăn con rể lại, tự vào trong khuyên cô gái, nàng cứ khóc lóc như không nghe thấy, cha nổi giận lôi kéo càng khóc lớn, cha không biết làm sao.
Lại có người nhà vào thưa là chàng rể muốn lên đường, cha vội chạy ra nói "Áo quần còn chưa sắp xếp xong, xin con chờ thêm một lúc", rồi lại lập tức chạy vào xem con gái ra sao, chạy ra chạy vào không nghỉ chân. Dằng dai thêm một lúc, việc càng gấp rút, cô gái rốt lại vẫn không chịu đổi ý, cha không biết làm sao, định tự tử. Cô con gái thứ hai đứng bên cạnh, cho là chị làm thế rất không phải, ra sức khuyên lơn. Chị giận nói "Con nhãi cũng học đòi múa mép, sao ngươi không lấy người ta đi?," Cô em nói "Cha vốn chưa từng hứa gả em cho chàng Mao, chứ nếu cha hứa gả em cho chàng thì không cần chị phải khuyên dỗ đâu!"
Cha thấy lời nàng khẳng khái hào sảng bèn cùng mẹ nàng bàn riêng, định lấy em thay chị. Mẹ lập tức gọi nàng hỏi "Con nhãi ngỗ nghịch kia không vâng lời cha mẹ, cha mẹ mượn lấy con thay nó, con có chịu không?". Cô gái khẳng khái thưa "Cha mẹ dạy con đi lấy chồng, giả như chồng là ăn mày cũng không dám từ chối, vả lại chắc gì chàng họ Mao đã phải đói rét mà chết đâu?". Cha mẹ nghe thế cả mừng, bèn lấy quần áo cưới của chị cho cô gái mặc, rồi vội đưa nàng lên kiệu đi. Về tới nhà chồng, vợ chồng rất yêu thương nhau, nhưng cô gái có bệnh rụng tóc cứ nơm nớp lo ông chê, lâu sau ông nghe phong thanh chuyện tráo người nên lại càng cám ơn nàng là kẻ tri kỷ.
Không bao lâu, ông được lấy làm Giám sinh, đi dự thi hương, đường đi ngang qua quán trọ của Xá nhân họ Vương. Đêm trước chủ quán nằm mơ thấy thần nói "Sáng mai sẽ có Thủ khoa họ Mao tới đây về sau sẽ giúp ngươi thoát được tai ách", vì vậy dậy sớm ra đứng chờ những khách từ phía đông vào. Đến khi gặp ông mừng lắm, cung phụng hầu hạ rất kính trọng, không chịu nhận tiền trọ, lấy việc giấc mộng ra kể, coi đó là trách nhiệm của mình. Ông cũng rất tự phụ, nghĩ thầm vợ mình rụng trụi cả tóc, sợ bị những người quyền quý chê cười, định là lúc thi đỗ xong sẽ cưới vợ khác. Kế đó ra bảng thì ông thi rớt, than thở rằng mình lận đận, trong lòng chán nản, thầm hổ thẹn với chủ quán trọ bèn đi đường khác về nhà.
Ba năm sau lại đi thi, chủ quán trọ vẫn tiếp đãi nồng hậu như trước. Ông nói "Lời ông nói lần trước không đúng, ta rất xấu hổ được đối xử như thế này". Chủ quán nói "Tú tài vì ngầm muốn bỏ vợ nên bị âm ty đánh rớt, đâu phải ta mơ mộng quàng xiên". Ông kinh ngạc hỏi, thì ra sau khi chia tay chủ quán lại nằm mơ thấy thần nói thế. Ông nghe kể áy náy hối hận, đứng thừ ra như tượng gỗ. Chủ quán trọ nói "Tú tài nên tự giữ mình, rồi thế nào cũng đỗ Thủ khoa mà". Không bao lâu quả nhiên ông đỗ Thủ khoa, tóc phu nhân cũng dần dần dài ra, ngày thêm mượt mà, càng xinh đẹp hơn.
Người chị thì lấy chồng là con nhà giàu trong làng, càng thêm kiêu hãnh, nhưng chồng chơi bời lêu lổng, nhà dần dần sa sút, đến nỗi trong nhà không còn gì, dưới bếp không nổi lửa. Nghe nói em gái đã là vợ Hiếu liêm càng thêm xấu hổ, đi đường gặp em là tránh mặt. Không bao lâu người chồng chết, nhà càng nghèo túng, kế đó ông Mao lại thi đỗ Tiến sĩ, người chị nghe thấy vô cùng hối hận, uất ức xuống tóc vào chùa làm ni cô. Đến khi ông được phong chức Tể tướng về thăm nhà, ni cô ép lòng sai đệ tử tới phủ Tể tướng khuyến hóa, có ý chờ ông tặng tiền bạc. Tới nơi thì phu nhân lấy vải vóc the lụa như thường lệ đưa cho, nhưng ngầm gói vàng bên trong. Người đệ tử không biết, đem gói vải về đưa thầy, thầy thất vọng bực tức nói "Cho tiền bạc thì còn có thể mua củi gạo, chứ những thứ quà biếu này thì ta cần gì", rồi sai đem trả lại.
Ông Mao và phu nhân ngờ vực đến khi mở ra xem thì vàng đều còn đó, mới hiểu ý người chị từ chối. Phu nhân bèn cất vàng đi, cười nói "Thầy của ngươi có hơn trăm lượng vàng cũng không giữ được, làm sao có phúc lấy quan Thượng thư nhà ta?". Rồi lấy năm mươi lượng vàng đưa cho người đệ tử đem về, dặn "Đem về đưa cho thầy ngươi chi dùng, nhiều hơn thì sợ là kẻ ít phúc không nhận nổi đâu". Người đệ tử về kể hết mọi chuyện với thầy, người chị im lặng thầm than thở, nghĩ thấy những việc mình làm lúc trước đều dại dột, lẫn lộn người hay kẻ dở. Ôi, há có phải chỉ do người thôi đâu? Về sau chủ quán trọ dính líu vào việc án mạng bị bắt giam, nhờ ông Mao ra sức giúp đỡ mà được khỏi tội.
Dị Sử thị nói: Khu mộ cũ nhà ông Trương lại là ngôi đất quý của họ Mao, kể cũng lạ thật. Ta nghe người thời ấy có vở tuồng Chồng cô chị thành chồng cô em, Giải nguyên trước thành Giải nguyên sau, đó há phải là những người khôn ngoan tinh ranh bịa đặt mà viết ra được đâu? Than ôi, trời xanh kia lâu lắm không ai hỏi được, sao lại có ông Mao, nhân quả báo ứng mau lẹ như thế!
057. Sư Tây Vực (Phiên Tăng)
Sư Thể Không kể lúc ở phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) gặp hai nhà sư Tây Vực trạng mạo cổ quái, tai đeo vòng, mặc áo vàng, râu tóc xoăn tít, nói là ở Tây Vực tới, nghe quan Thái thú chuộng đạo Phật nên tới yết kiến. Thái thú sai hai người lính đưa tới ở chùa, Hòa thượng Linh Bí ở đó coi thường, người quản lý trong chùa thấy tướng mạo họ kỳ lạ nên đứng ra khoản đãi giữ lại ngủ. Có người hỏi "Tây Vực có nhiều bậc dị nhân, chắc các vị La Hán đây cũng có phép lạ chứ?". Một người mỉm cười rút từ tay áo ra một cái tháp nhỏ cao khoảng một thước long lanh rất đẹp. Chỗ cao nhất trên vách có cái kệ nhỏ, nhà sư ném cái tháp lên, cái tháp nghiễm nhiên đứng thẳng không hề nghiêng ngửa, trên ngọn tháp có viên ngọc xá lỵ phóng ra ánh sáng chiếu sáng cả phòng. Giây lát nhà sư lấy tay vẫy, cái tháp lại rơi vào lòng bàn tay. Nhà sư kia trật vai áo duỗi cánh tay trái ra, thấy dài tới sáu bảy thước, còn cánh tay phải không thấy đâu nữa, lại chuyển qua duỗi cánh tay phải ra thì cánh tay trái cũng rút vào không thấy đâu.
058. Tư Giám Họ Lý (Lý Tư Giám)
Tư giám Lý Vĩnh Niên là Cử nhân, ngày hai mươi tám tháng chín năm Khang Hy thứ 4 (1665) đánh vợ là Lý thị chết, địa phương báo lên quan, quan trên sức về cho huyện tra xét. Tư giám đang đứng trước phủ, chợt rút một con dao trên giá chạy vào miếu Thành hoàng, lên thẳng trên gác quỳ xuống trước bàn thờ nói "Thần trách ta nghe lời kẻ gian làm điên đảo thị phi trong làng xóm, nên cắt tai ta". rồi tự cắt rụng vành tai trái ném xuống dưới gác. Lại nói "Thần trách ta nhận tiền của người, nên chặt tay ta", rồi tự chặt bàn tay trái. Lại nói "Thần trách ta gian dâm với phụ nữ, nên thiến dái ta", rồi tự thiến dái, ngã quay ra chết cứng. Lúc ấy quan Tổng đốc Chu Vân Môn gởi bản tâu hặc tội Lý, xin triều đình cách chức luận tội, vừa có chỉ dụ gởi xuống thì Lý đã bị âm ty trừng phạt rồi. Việc này xem ở để báo*.
* Để báo: một loại công báo của triều đình dùng để thông báo tin tức cần thiết cho quan lại các địa phương thời Thanh.
059. Bảo Trú (Bảo Trú)
Phiên vương Ngô Tam Quế lúc chưa làm phản* thường ra lệnh cho tướng sĩ rằng ai một mình tay không bắt sống được cọp sẽ được cấp bổng hạng nhất, tặng danh hiệu Đả hổ tướng. Trong các viên tướng ấy có một người tên Bảo Trú, khỏe mạnh nhanh nhẹn như khỉ, lúc trong vương phủ xây ngôi lầu cao, xà vừa gác lên, Trú men theo góc lầu mà lên, trong giây lát đã tới trên nóc, đứng trên xà chạy đi chạy lại mấy lần, kế lại co người nhảy xuống đứng thẳng dưới đất. Vương có người ái cơ giỏi đánh đàn tỳ bà, chiếc đàn nàng dùng lấy noãn ngọc làm chốt lên dây, cầm lên là cả phòng ấm hẳn. Người thiếp quý báu cất kỹ, nếu không phải vương ra lệnh thì không đem ra cho ai thấy. Một đêm ăn yến, khách có người xin được xem vật lạ một lần, vương đang mỏi mệt nên hẹn để hôm sau. Lúc ấy Trú đang ở bên cạnh nói "Không cần vương gia phải ra lệnh, thần có thể lấy được".
*Phiên vương... làm phản: Ngô Tam Quế 1à người thời Minh, 1àm tướng giữ Sơn Hải quan. Khi Lý Tự Thành diệt nhà Minh, Ngô Tam Quế mở cửa quan mời quân Mãn Châu vào Bắc Kinh đánh Lý Tự Thành. Quân Mãn Châu nhân đó chiếm đóng Trung Quốc, lập ra nhà Thanh, phong Ngô Tam Quế làm Bình Tây vương trấn thủ Vân Nam, Cảnh Tinh Trung làm Tĩnh Nam vương trấn thủ Phúc Kiến và Thượng Khả Hỷ làm Bình Nam vương trấn thủ Quảng Đông, hơp xưng là Tam phiên (Ba phiên vương). Về sau vua Khang Hy nhà Thanh triệt phiên, Tam phiên làm phản, lần lượt bị tiêu diệt.
Vương bèn sai người báo khắp trong ngoài vương phủ, ra lệnh phòng bị nghiêm cẩn rồi sai Trú đi lấy. Trú vượt qua mười mấy lần tường mới vào tới chỗ người ái cơ của vương ở, thấy đèn trong phòng sáng choang mà của nẻo khóa chặt không vào được. Dưới hành lang có cái lồng nuôi chim vẹt, Trú giả tiếng mèo kêu, kế lại giả tiếng vẹt kêu ầm lên là có mèo tới, lại làm ra tiếng vỗ cánh phành phạch rất gấp. Nghe người ái cơ nói "Lục Nô ra ngay xem, con vẹt bị mèo vồ chết rồi", Trú liền nép vào góc tối. Giây lát có một cô gái khêu đèn lách ra, Trú nhân đó lẻn vào, thấy người ái cơ đang cầm chiếc đàn tỳ bà ngồi trên ghế liền xô vào giật lấy bỏ chạy. Người ái cơ hoảng sợ la lớn giặc tới, đám quân canh gác đổ cả ra, thấy Trú ôm đàn chạy nhưng đuổi theo không kịp, bắn tên rào rào như mưa. Trú nhảy lên gốc cây, dưới tường vốn có cây hòe lớn, Trú chuyền qua cành cây như chim chuyền cành, hết gốc cây lên tới gác, hết gác lên tới lầu, chuyền vào trong điện như có cánh, chớp mắt đã không thấy đâu nữa. Khách còn đang uống rượu, Trú ôm chiếc đàn phi thân vào đứng trước tiệc, cửa vẫn đóng chặt như cũ, không hề có tiếng gà kêu chó sủa.
060. Nạn Lụt (Thủy Tai)
Năm Khang Hy thứ 21 (1682) đại hạn, từ xuân qua hạ đất khô cháy không còn cọng cỏ nào xanh. Ngày mười ba tháng sáu có cơn mưa nhỏ mới có kẻ trồng bắp, ngày mười tám thì mưa lớn ngập bàn chân, người ta mới trồng đậu. Một hôm ở trang Thạch Môn (tỉnh Chiết Giang) có ông già lúc chiều tối nhìn thấy hai con trâu húc nhau trên núi, nói với người trong thôn rằng "Sắp có lụt lớn" rồi lập tức dắt gia đình đi tránh, người trong thôn đều cười. Không bao lâu mưa đổ ào ào từ đêm đến sáng không ngớt, trên đất bằng nước cao mấy thước, nhà cửa đều bị ngập hết. Có một nông dân bỏ hai đứa con lại, cùng vợ dìu cha mẹ chạy lên gò cao, nhìn xuống dưới thôn thì đã như cái đầm lớn, nghĩ không kịp quay về cứu con nữa. Khi nước đã rút trở về, thấy cả thôn đã thành bãi hoang, vào nhà thấy một gian phòng còn nguyên mà hai đứa con đều ngồi trên giường cười đùa không hề hấn gì. Có người nói đó là trời thương cho hai vợ chồng có hiếu, đó là việc ngày hai mươi tháng sáu.
Năm Khang Hy thứ 34 (1695) ở Bình Dương có động đất, nhân dân mười phần chết hết bảy tám, thành quách đều sụp đổ chỉ còn một căn nguyên vẹn là nhà một người con có hiếu. Giữa cơn đại kiếp mênh mang mà chỉ có những người con hiếu là không việc gì, ai bảo là ông trời kia không phân biệt được trắng đen?
061. Mỗ Giáp ở Chư Thành (Chư Thành Mỗ Giáp)
Học quan tiên sinh Tôn Cảnh Hạ nói trong huyện có Mỗ Giáp, gặp lúc có giặc bị chém, đầu rơi xuống trước ngực. Khi giặc rút đi người nhà tìm được xác, đang định đem chôn thì nghe còn hơi thở, nhìn kỹ thấy cổ họng còn một khoảng bằng ngón tay chưa đứt, bèn nâng đầu lên giữ lại cho đúng chỗ rồi khiêng về. Qua một ngày một đêm thì bắt đầu rên rỉ, người nhà lấy thìa đút cháo cho, nửa năm thì lành. Hơn mười năm sau, Giáp cùng hai ba người trò chuyện, có kẻ kể chuyện cười, mọi người cùng cười ầm lên, Giáp cũng vỗ tay. Đang lúc nghiêng ngửa thì vết thương cũ chợt toác ra, rơi đầu phun máu, mọi người cùng nhìn lại thì đã đứt hơi chết rồi. Cha Giáp đi kiện người kể chuyện, mọi người cùng góp tiền van xin, người cha bèn chôn Giáp mà không kiện nữa.
Dị Sử thị nói: Cười một trận mà rơi đầu, quả là chuyện cười hiếm có trong ngàn năm. Cổ họng liền lại không chết, để mười năm sau làm thành một vụ án cười, há không phải là kiếp trước hai ba người láng giềng kia mắc nợ y sao?
062. Đùa Giỡn Thắt Cổ (Hý ải)
Mỗ người huyện ta là kẻ lông bông vô lại, tình cờ ra ngoài thôn thấy một thiếu phụ cưỡi ngựa đi tới bèn nói với bạn bè "Ta có thể làm nàng cười một trận". Mọi người không tin, đánh cuộc một bữa rượu. Mỗ bèn chạy lên trước ngựa kêu luôn mồm rằng "Ta muốn chết đây". Nhân thấy chỗ đầu tường có một miếng ván mỏng nhô ra, bề ngang hơn một thước bèn cởi dây lưng móc lên đó, thò cổ vào làm như sắp tự tử. Thiếu phụ đi qua nhìn thấy quả nhiên bật cười, bạn bè cũng đều cười rộ. Thiếu phụ đi xa rồi mà Mỗ vẫn bất động, mọi người càng cười dữ, nhưng tới gần xem thì đã thè lưỡi trợn mắt tắt hơi rồi. Treo cổ lên tấm ván mà chết há chẳng phải là chuyện lạ sao? Chuyện này đủ để răn bọn người khinh bạc vậy.
Quyển IV
063. A Tiêm (A Tiêm)
Hề Sơn người huyện Cao Mật (tỉnh Sơn Đông) làm nghề buôn bán, thường qua lại vùng Mông Sơn, Nghi Thủy (đều thuộc tỉnh Sơn Đông). Một hôm dọc đường gặp mưa, tới được nhà trọ quen thì đã khuya, gõ cửa mãi mà không ai lên tiếng. Đang ngần ngừ dưới hiên thì hai cánh cửa chợt mở, một ông già bước ra mời vào. Sơn mừng theo vào, lần dò lên sảnh, trong sảnh không có giường ghế gì cả. Ông già nói "Ta thương khách không có chỗ nghỉ nên mời vào, chứ thật ra ta không phải là người mở hàng bán cơm. Nhà không có ai đỡ đần, chỉ có bà vợ già và đứa con gái nhỏ đã ngủ cả rồi. Cái ăn thì còn đủ nhưng không còn nóng lắm, đừng chê là nguội lạnh".
Nói xong vào trong, giây lát mang ra một cái chõng thấp đặt xuống đất mời khách ngồi. Lại trở vào mang ra một cái bàn con, đi lại tất bật trông rất vất vả. Sơn đứng ngồi không yên, giữ ông lại nói xin cứ nghỉ một lúc. Giây lát một cô gái mang rượu ra, ông già nói "Con A Tiêm nhà ta dậy rồi", nhìn thấy khoảng mười sáu mười bảy tuổi, xinh đẹp yểu điệu, phong thái đoan trang. Sơn có em trai chưa vợ, cũng thầm có ý bèn hỏi thăm dòng dõi quê quán ông già. Ông đáp "Ta họ Cổ tên Sĩ Hư, con cháu đều chết yểu chỉ còn đứa con gái này nên không nỡ làm nó mất giấc ngủ ngon, chắc bà vợ ta gọi nó dậy đấy". Hỏi "Chồng cô em là ai?", ông đáp còn chưa hứa gả, Sơn mừng thầm. Kế thức ăn bày lên đủ thứ, như trong hàng cơm. Sơn ăn xong cung kính nói "Con người bèo nước, đội ơn thương tới, đến chết cũng không dám quên. Nhân thấy ông thịnh đức nên xin đường đột tỏ lời quê mùa. Ta có đứa em trai nhỏ là Tam Lang mười bảy tuổi theo nghiệp đèn sách, cũng không đến nỗi ngu tối, muốn cầu chỉ thắm xe duyên, không biết ông có chê nghèo hèn không". Ông già mừng nói "Lão phu ở đây cũng là ngụ cư, nếu nó có chỗ gửi thân, nhân mượn được túp lều dời đi chỗ khác thì cũng đỡ lo". Sơn đều xin vâng, đứng dậy vái tạ. Ông già ân cần sắp đặt chỗ ngủ cho khách đâu đó rồi vào.
Gà vừa gáy ông đã ra gọi khách dậy rửa mặt, Sơn gói hành lý xong đưa trả tiền cơm, ông già từ chối, nói "Khách ở lại dùng bữa cơm, không lý gì lại lấy tiền, hay định đưa tiền dẫn cưới đây?" Kế chia tay, hơn tháng sau Sơn quay lại, cách thôn hơn dặm thì thấy có bà già dắt một cô gái, khăn áo đều trắng, tới gần thấy như là A Tiêm. Cô gái cũng mấy lần nhìn Sơn rồi nắm áo bà già nói nhỏ gì đó, bà già liền dừng chân quay lại hỏi Sơn "Ông họ Hề phải không?" Sơn dạ dạ. Bà già buồn rầu nói "ông nhà ta không may bị tường đổ đè chết rồi. Hôm nay bọn ta định đi thăm mộ, ở nhà không có ai, xin đợi bên đường một lát sẽ trở lại ngay", rồi đi vào rừng.
Lát sau trở lại thì trời đã tối, bèn cùng đi về, nói chuyện mẹ góa con côi, bất giác mủi lòng thương khóc Sơn cũng bùi ngùi. Bà già nói "Dân ở đây rất không lương thiện, con côi mẹ góa khó sống nổi. A Tiêm đã là dâu nhà ông, để lâu nữa sợ chậm trễ ngày tháng, chẳng bằng khuya nay cùng đưa nhau về sớm", Sơn bằng lòng. Tới nhà, bà già khêu đèn dọn cơm đãi khách xong, nói với Sơn "Nghĩ là ông sắp tới nên đã bán thóc lúa cất trữ đi, chỉ còn hơn hai mươi thạch vì xa nên chưa bán được. Cách đây khoảng bốn năm dặm về phía bắc có ngôi nhà đầu xóm là nhà Đàm Nhị Tuyền là người vẫn mua thóc của ta. Xin phiền ông chịu khó mang một túi tới trước gọi cổng, cứ nói bà già họ Cổ ở xóm Nam có vài thạch thóc định bán lấy tiền đi đường, phiền cho lừa tới chở luôn một lúc", rồi đưa túi thóc cho Sơn. Sơn vội vàng đi ngay, tới nơi gõ cửa thì một người đàn ông bụng phệ ra, Sơn nói rõ rồi trút thóc về trước. Lát sau có hai người phu dắt năm con lừa tới, bà già dẫn Sơn tới chỗ chứa thóc, thì là một căn hầm. Sơn chui xuống cầm hộc xúc lên, mẹ con bà già chuyền cho nhau, chốc lát đầy túi đưa họ mang đi. Đi lại tới bốn lần mới chở hết thóc, kế họ đưa tiền đưa cho bà già, bà giữ lại một người và hai con lừa rồi thu xếp hành lý đi về phía đông. Được hai mươi dặm, trời mới sáng rõ, tới một khu chợ, thuê được ngựa xe ở đầu chợ, đầy tớ họ Đàm bèn quay về.
Về tới nhà, Sơn thưa lại với cha mẹ. Hai bên gặp nhau rất vui vẻ, bèn dọn một chỗ riêng cho bà già ở rồi chọn ngày lành làm lễ thành hôn cho Tam Lang, bà già sắm sửa tư trang cho con gái rất đầy đủ. A Tiêm hiền lành ít nói, ai trò chuyện chỉ mỉm cười, sớm tối lo dệt vải không ngừng, vì thế cả nhà ai cũng thương yêu. Nàng dặn Tam Lang "Nhớ dặn anh nếu có trở lại miền Tây thì đừng nói gì về mẹ con thiếp cả"
Được ba bốn năm, nhà họ Hề càng giàu có, Tam Lang được vào học trường huyện. Một hôm Sơn ghé trọ nhà láng giềng cũ của họ Cổ, tình cờ kể chuyện năm trước không có chỗ trọ, phải ngủ nhờ nhà ông bà già. Chủ nói "Ông khách lầm rồi, đó là căn nhà riêng của bác ta, trước đó ba năm người ở đó thường thấy chuyện quái dị nên bỏ hoang đã lâu, làm gì có ông bà già nào mà cho ông ngủ lại?". Sơn rất kinh ngạc nhưng chưa tin lắm. Chủ nhân lại nói "Khu nhà ấy bỏ không mười năm, không ai dám vào. Một hôm bức tường sau nhà bị sập, bác ta tới xem thì thấy đá đè lên một con chuột to như con mèo, khúc đuôi bên dưới còn quẫy, vội về gọi mọi người tới xem thì không thấy đâu nữa. Ai cũng nghi vật đó là yêu quái, hơn mười ngày sau vào xem thử thì yên ắng không thấy gì, hơn năm sau mới có người tới ở".
Sơn càng lấy làm lạ, về nói riêng với người nhà, trộm ngờ em dâu không phải là người. Lo thầm cho Tam Lang, nhưng Tam Lang vẫn hết lòng yêu quý vợ như thường. Lâu ngày người nhà xì xào bàn tán, cô gái thoáng nghe biết, nửa đêm nói với Tam Lang "Thiếp theo chàng mấy năm chưa từng có một lỗi nhỏ. Nay lại đặt chuyện để khinh rẻ, xin viết cho tờ ly hôn để chàng chọn một người vợ xứng đáng", rồi rơi nước mắt. Tam Lang nói "Lòng ta thế nào thì nàng đã rõ. Từ ngày nàng về, nhà ngày một no đủ, vẫn nghĩ là nhờ phúc trạch của nàng, đâu lại còn điều này tiếng khác?". Nàng nói "Chàng vốn không hai lòng, thiếp há không biết sao? Nhưng nhiều người nói ra nói vào, e rồi không khỏi như chiếc quạt đến mùa thu bị bỏ xó". Tam Lang khuyên giải mấy lần mới thôi. Nhưng Sơn vẫn không tha, ngày ngày cứ tìm mèo giỏi bắt chuột về để dò ý tứ. Cô gái tuy không sợ nhưng rầu rầu không vui.
Một đêm nói mẹ không khỏe, xin Tam Lang cho về săn sóc, sáng ra Tam Lang qua tìm thì trong phòng trống không, phát hoảng cho người đi tìm khắp nơi không thấy tung tích, bứt rứt bỏ ăn bỏ ngủ. Cha và anh lại đều lấy làm may, cùng vỗ về an ủi, định cưới vợ khác cho, nhưng Tam Lang nhất định không chịu. Chờ hơn một năm, tin tức vắng bặt, cha và anh cứ chế nhạo trách mắng, bất đắc dĩ phải bỏ nhiều tiền mua một người thiếp, mà lòng nhớ A Tiêm vẫn không nguôi. Lại vài năm nhà họ Hề nghèo dần, vì thế càng thương nhớ A Tiêm.
Có người em con chú Tam Lang là Lam nhân có việc tới huyện Giao (tỉnh Sơn Đông), đường xa nghỉ lại nhà người họ hàng bên ngoại là Lục sinh, đêm nghe bên nhà láng giềng có tiếng khóc rất đau thương, cũng chưa rảnh hỏi thăm. Lúc quay về lại nghe thấy bèn hỏi, chủ nhân đáp "Mấy năm trước có người đàn bà góa và cô gái mồ côi thuê nhà ở đó. Tháng trước bà già mất, cô gái ở một mình không người thân thích nên khóc đó thôi". Lam nhân hỏi họ, Lục đáp "Họ Cổ, thường đóng cửa không giao thiệp với làng xóm nên chưa rõ gia thế ra sao". Lam giật mình nói "Thế thì là chị dâu ta rồi". Bèn qua gọi cửa thì có người nín khóc bước ra, đứng trong cửa nói "Nhà ta không có đàn ông đâu". Lam nhìn qua khe cửa, từ xa ngắm kỹ thấy đúng là chị dâu liền nói "Chị mở cửa, em ở nhà chú A Toại đây". Cô gái nghe tiếng, mở cửa mời vào, kể lể tình cảnh lẻ loi khổ sở, lời lẽ rất bi thảm. Lam nói "Anh Tam Lang nhớ chị lắm, vợ chồng có gì trái ý đâu mà chị xa lánh tới tận đây", rồi lập tức định thuê xe cùng về. Cô gái buồn rầu nói "Ta vì bị người khinh rẻ mới đưa mẹ đi ẩn, nay lại trở về nương tựa người thì ai không khinh rẻ? Như muốn ta trở về thì phải cùng anh chia bếp, nếu không, ta chỉ còn nước uống thuốc độc tự vẫn cho rồi".
Lam về kể lại cho Tam Lang, Tam Lang lật đật đi ngay. Vợ chồng gặp nhau đều rơi lệ, hôm sau nói với chủ nhà xin về. Chủ nhà là Giám sinh họ Tạ thấy nàng đẹp, ngầm tính cưới nàng làm thiếp nên mấy năm không lấy tiền nhà, đã nhiều lần ngỏ ý với bà già nhưng bà cự tuyệt. Bà chết rồi, đang mừng mưu mình chắc xong thì Tam Lang chợt tới, bèn tính tiền nhà luôn trong mấy năm để làm khó. Nhà Tam Lang vốn không dư dật, nghe nói tiền nhiều có ý lo. Cô gái nói không sợ, rồi dẫn vào xem vựa thóc, khoảng hơn ba mươi thạch, trả tiền nhà rồi vẫn thừa. Tam Lang mừng nói với Tạ, Tạ không nhận thóc, cứ nhất định đòi tiền. Cô gái than "Trăm sự cũng vì nghiệp chung thân này", rồi kể lại tình thật. Tam Lang tức giận định kiện lên huyện. Lục bèn can, đem thóc chia bán cho người thân thích trong làng lấy tiền trả Tạ, rồi đem xe tiễn hai người về.
Tam Lang thưa với cha mẹ, xin cùng anh chia nhà ra để ở. A Tiêm bỏ tiền riêng, ngày ngày xây kho thóc mà trong nhà vẫn chưa có lấy được một thạch, ai cũng lấy làm lạ, nhưng hơn năm xem lại thì kho đã đầy. Không vài năm, nhà đã giàu có mà Sơn vẫn nghèo khổ. Nàng mời cha mẹ chồng về nuôi dưỡng và đem tiền gạo chu cấp cho anh, nhiều lần thành lệ. Tam Lang mừng nói "Nàng có thể nói là người không để tâm thù oán". Cô gái đáp "Cũng bởi anh ấy có lòng thương em trai. Nếu không có anh ấy, thiếp đâu được cùng chàng nên duyên?". Về sau cũng không có chuyện gì lạ.
064. Thụy Vân (Thụy Vân)
Thụy Vân là danh kỹ ở đất Hàng (tỉnh Chiết Giang), nhan sắc tài nghệ vô song. Năm mười bốn tuổi bà chủ là mụ dầu họ Sái định cho ra tiếp khách. Thụy Vân nói "Đây là lúc con bắt đầu vào đời, không thể qua quít, nên giá thì do mẹ định nhưng khách thì xin cho con tự chọn". Mụ ưng thuận, bèn định giá là mười lăm lượng vàng, nàng bèn hàng ngày ra tiếp khách. Khách muốn gặp thì đưa lễ vật tới, nhiều thì được tiếp một ván cờ, tặng một bức tranh, ít thì được mời uống chén trà mà thôi.
Thụy Vân nổi tiếng đã lâu, từ đó các bậc phú thương quý quan ngày ngày nối nhau tới cổng. Hạ sinh người huyện Dư Hàng (tỉnh Chiết Giang) nổi tiếng tài danh nhưng gia tư chỉ đủ ăn, vốn ngưỡng mộ Thụy Vân nhưng chưa dám nghĩ tới giấc mộng uyên ương, cũng gắng sửa chút lễ mọn, chỉ mong được một lần gặp mặt, vẫn thầm lo nàng trải đời đã nhiều, không để mắt tới kẻ nghèo hèn. Đến lúc gặp mặt, vừa chuyện trò nàng đã tỏ ra rất ân cần. Cùng nói chuyện hồi lâu, đầu mày cuối mắt đều chứa chan tình ý, lại tặng sinh bài thơ rằng:
Hà sự cầu tương giả,
Lam Kiều khấu hiểu quan.
Hữu tâm tầm ngọc chử
Đoan chỉ tại nhân gian
(Xin nước làm chi cho vất vả
Tinh sương lại phải tới cầu Lam*
Có lòng xin cố tìm chày ngọc
Dám chắc còn trên cõi thế gian)
*Cầu Lam: dịch chữ Lam Kiều. Bùi Hàng truyền kỳ chép Bùi Hàng là người thời Đường đi ngang trạm Lam Kiều khát nước ghé vào nhà một bà già xin nước uống, bà già sai con gái là Vân Anh mang nước ra cho. Hàng thấy nàng xinh đẹp xin cưới làm vợ, bà già nói mình có phương thuốc tiên nhưng còn thiếu cối ngọc chày ngọc để giã, nếu Hàng tìm được sẽ gả Vân Anh cho. Sau Hàng mua được cối ngọc chày ngọc tới bà già sai Hàng giã thuốc một trăm ngày rồi gả Vân Anh cho Hàng, kế hai vợ chồng cũng thành tiên.
Sinh được thơ mừng quýnh, còn muốn nói nữa chợt a hoàn vào báo khách tới. Sinh vội từ biệt, về nhà đem bài thơ ra ngắm nghía ngâm nga, mộng hồn vướng vít. Được một hai hôm không kìm được, lại sắm sửa lễ vật tìm tới. Thụy Vân đón tiếp rất vui vẻ dời ghế tới gần sinh, buồn bã nói "Chàng có thể lo được một đêm sum họp không?". Sinh đáp "Học trò nghèo chỉ có tấm tình si để tặng tri kỷ, lo được cái lễ nhỏ mọn thì bao nhiêu tơ tằm đã rút hết, được gần mặt hoa là thỏa nguyện rồi, còn như đầu gối tay ấp thì đâu dám mong tưởng". Thụy Vân nghe nói chau mày không vui, hai người chỉ nhìn nhau không nói. Sinh ngồi lâu không ra, mụ chủ mấy lần gọi Thụy Vân để giục giã. Sinh bèn ra về, trong lòng buồn bực, muốn đem hết gia sản chuốc một lần vui, nhưng hết đêm lại phải chia tay thì thật không sao chịu nổi, nghĩ tới đó thì tấm lòng hăm hở đều tiêu tan. Từ đó dứt hẳn không lui tới nữa.
Thụy Vân kén rể mấy tháng mà chưa chọn được người vừa ý. Mụ dầu bực tức, định ép uổng nhưng còn chưa ra tay. Một hôm có người Tú tài đem lễ vật tới, ngồi nói chuyện một lúc bèn đứng lên, ấn một ngón tay lên trán nàng nói "Đáng tiếc, đáng tiếc" rồi ra về. Thụy Vân tiễn khách ra trở vào mọi người cùng nhìn thì thấy trên trán nàng có dấu ngón tay in đen như mực, rửa lại càng đậm. Sau vài hôm vết mực lan rộng ra, hơn một năm sau thì lan từ trán xuống cả mũi, ai thấy cũng cười, vì vậy vết xe ngựa ngoài cổng cũng mất hẳn. Mụ dầu lột hết trang sức, bắt làm việc của hạng tôi tớ, Thụy Vân lại ẻo lả không làm nổi việc nặng nhọc nên ngày càng tiều tụy.
Hạ nghe tin ghé qua, thấy nàng đầu bù tóc rối dưới bếp, xấu xí như ma, ngẩng đầu thấy sinh thì quay vào tường giấu mặt. Hạ thương xót bèn nói với mụ dầu xin chuộc nàng, mụ ưng thuận. Hạ bán ruộng dốc túi mua nàng đem về. Tới nhà nàng kéo áo lau nước mắt, không dám tự xem là vợ, chỉ xin giữ phận làm lẽ, để ngôi chính thất chờ người sau này. Hạ nói "Người ta ở đời vẫn quý kẻ biết mình. Lúc nàng đang thịnh, nàng còn biết tới ta, lẽ nào vì nàng suy mà ta quên nàng sao?", rồi không lấy vợ nữa. Ai nghe chuyện cũng chế nhạo, nhưng sinh thì càng thương yêu nàng thêm.
Được hơn năm, sinh ngẫu nhiên tới đất Tô (tỉnh Giang Tô), gặp Hòa sinh cùng trọ một chỗ. Bỗng Hòa hỏi "Danh kỹ đất Hàng là Thụy Vân nay ra sao?", sinh đáp đã lấy chồng rồi. Hòa lại hỏi lấy ai, sinh đáp "Người đó cũng đại loại như ta". Hòa nói "Nếu được như ông thì có thể nói là lấy đúng người, không biết giá bao nhiêu?". Hạ nói "Vì mắc bệnh lạ nên cũng rẻ thôi, nếu không loại bọn ta làm sao mua nổi người đẹp trong kỹ viện". Hòa lại hỏi "Người đó quả thật có được như ông không?". Hạ thấy câu hỏi kỳ lạ bèn căn vặn lại, Hòa cười nói "Thật không dám dối, trước đây ta từng gặp nàng một lần, rất tiếc tài mạo tuyệt thế mà lênh đênh không có người xứng đôi nên dùng chút thuật mọn che ánh sáng để giữ vẻ ngọc, dành lại chờ tấm gương soi chân hình của kẻ yêu tài". Hạ vội hỏi "Ông chấm được chắc cũng rửa được chứ?". Hòa cười đáp "Sao không được, nhưng phải chính người kia thành tâm cầu xin thôi". Hạ đứng dậy vái nói "Người chồng của Thụy Vân chính là ta đây", Hòa mừng nói "Trong thiên hạ chỉ có kẻ chân tài mới có thể đa tình, không vì xấu đẹp mà đổi ý. Xin cho ta theo về nhà, ta sẽ tặng một người đẹp".
Bèn cùng nhau về, tới nhà Hạ định sai dọn rượu, Hòa ngăn lại nói "Cứ để ta làm phép để người dọn rượu phải vui vẻ trước đã". Rồi lập tức bảo bưng lên một chậu nước, lấy ngón tay vẽ bùa lên, nói "Rửa đi là khỏi, nhưng phải đích thân ra tạ ơn thầy thuốc đấy". Hạ cười bưng chậu nước vào, đứng đợi Thụy Vân rửa mặt, vết mực theo tay trôi hết, diễm lệ chẳng khác năm xưa. Vợ chồng đều cảm ơn, cùng nhau ra vái tạ thì khách đã biến mất, tìm khắp nơi không thấy, có lẽ là tiên chăng?
065. Tướng Công Long Phi (Long Phi Tướng Công)
Đới sinh ở An Khánh (tỉnh thành An Huy), lúc trẻ tính bừa bãi không kiềm thúc. Một hôm say rượu từ nơi khác về, dọc đường gặp người anh họ ngoại là Quý sinh, lúc đang say mờ mịt cũng quên mất là Quý sinh đã chết, bèn hỏi "Trước nay ở đâu?". Quý nói "Ta đã chết rồi, ông quên hay sao?". Đới mới sực nhớ ra nhưng đang say cũng không sợ hãi, bèn hỏi "Ông làm gì dưới âm ty?", Quý đáp "Gần đây làm chức giữ sổ sách cho Chuyển Luân vương điện hạ*". Đới nói "Nếu thế thì chắc ông biết được họa phúc của mọi người", Quý nói "Đó là chức phận của ta, sao lại không biết? Chỉ là nhiều quá, nếu không phải là người thật thân thiết thì không nhớ kỹ thôi.
*Chuyển Luân vương điện hạ: theo truyền thuyết dưới âm phủ có mười vua, trong đó Chuyển Luân vương coi việc cho các hồn ma đi đầu thai.
Ba hôm trước tình cờ soát lại sổ sách, thấy có tên ông". Đới vội hỏi trong ấy viết thế nào, Quý đáp "Thật không dám dối, tên ông có trong số những người bị giam vào ngục tối". Đới cả sợ tỉnh rượu hẳn, năn nỉ xin cứu giúp. Quý nói "Đây không phải là việc ta giúp được, chỉ có việc thiện là có thể giải cứu thôi. Nhưng sổ sách ghi tội lỗi của ông dày cả ngón tay, không có việc thiện lớn thì không cứu được, mà Tú tài nghèo khó thì làm sao làm được việc gì lớn. Thôi cứ lập tức mỗi ngày làm một việc thiện, không hơn một năm như vậy thì không được xét tới đâu. Bây giờ đã muộn rồi, giả như cố sức thì may ra có thể thoát khỏi địa ngục". Đới nghe thế rơi nước mắt lạy rạp xuống đất cầu khẩn, khi ngẩng lên thì Quý đã biến mất bèn buồn bã trở về.
Từ đó sửa lòng đổi nết, không dám sơ sẩy. Trước kia Đới tư thông với người đàn bà láng giềng, người chồng biết nhưng không nói ra, định rình bắt quả tang, nhưng Đới đã sửa nết không đi lại với người đàn bà nữa, người chồng rình mãi không bắt được căm tức lắm. Một hôm gặp nhau ngoài ruộng bèn giả vờ trò chuyện, lừa Đới tới cái giếng cạn rồi xô xuống. Giếng sâu mấy trượng nên y nghĩ thế nào Đới cũng chết, nhưng nửa đêm thì Đới tỉnh dậy, ngồi dưới giếng gào lớn mà không ai biết. Người láng giềng cũng sợ Đới sống lại, sáng hôm sau tới nghe ngóng, nghe tiếng Đới kêu cứu vội ném đá xuống. Đới lùi vào hốc dưới giếng, không dám kêu nữa, người láng giềng biết là chưa chết bèn xúc đất lấp giếng đầy gần tới miệng.
Cái hốc dưới giếng tối om, thật không khác gì địa ngục, Đới không có gì ăn, nghĩ thầm ắt phải chết. Lom khom bò vào trong khoảng ba bước thì đều là nước, không sao đi tiếp bèn quay lại ngồi chỗ cũ, ban đầu thì thấy đói bụng, hồi lâu cũng quên đi. Nhân nghĩ dưới suối vàng không có điều thiện gì mà làm, đành niệm Phật mà thôi. Kế thấy lửa ma trơi bay túa tới lập lòe đầy hang, bèn khấn "Nghe nói lửa ma trơi đều là hồn ma chết oan, ta tuy còn sống nhưng cũng khó trở về, nếu có thể trò chuyện được với nhau thì cũng đỡ tịch mịch". Chỉ thấy các đốm lửa ma trơi đều họp cả trên mặt nước, trong mỗi đốm đều có một người cao khoảng nửa người thường. Sinh hỏi từ đâu tới, họ đáp "Đây là cái hầm than cũ, chủ nhân đào lấy than động tới ngôi mộ cũ bị tướng công Long Phi khoét đất dẫn nước biển vào dìm chết bốn mươi ba người, bọn ta đều là các hồn ma ấy".
Sinh hỏi tướng công là ai, họ đáp "Không biết, nhưng tướng công là kẻ sĩ văn học, nay làm mạc khách của Thành hoàng, ông cũng thương bọn ta vô tội mà chết nên cứ năm ba ngày lại cho một bữa cháo loãng. Nhưng xương cốt bọn ta bị dầm trong nước lạnh không có ngày siêu thăng, nếu ông trở về được nhân thế xin vớt mớ xương tàn xây cho ngôi mộ làm phúc thì bọn ta dưới suối vàng được đội ơn nhiều lắm". Đới nói "Nếu vạn nhất được trở về thì chuyện ấy có khó gì? Chỉ là thân dưới chín suối, làm sao dám mong ngày thấy lại mặt trời". Nhân dạy đám ma niệm kinh Phật, vê đất làm tràng hạt, cứ theo đủ tạng số mà đọc, không biết ngày đêm thế nào, cứ mệt thì ngủ, thức thì ngồi niệm Phật mà thôi.
Chợt thấy chỗ sâu bên trong có ánh đèn lồng, bọn ma mừng rỡ nói "Tướng công Long Phi cho ăn đấy", rồi rủ Đới cùng đi. Đới sợ nước sâu, đám ma ép kéo đi, phất phới bay lên, quanh co chừng nửa dặm, tới một chỗ thì buông xuống bảo tự đi càng đi càng lên cao như bước lên bậc thang cao vài trượng, hết bậc thang thấy phòng ốc, trên sảnh đường có một ngọn nến cháy sáng, to bằng cánh tay. Đới đã lâu không thấy đèn lửa, mừng quá rảo bước tới, thấy ở trên có một ông già ngồi, mặc áo đội mũ nhà nho. Đới dừng chân không dám bước tới nữa song ông già đã nhìn thấy, kinh ngạc hỏi người lạ từ đâu tới đây.
Đới bước lên quỳ xuống thưa chuyện mình, ông già nói "Té ra là cháu năm đời của ta". Bèn bảo đứng dậy cho ngồi, tự nói "Ta tên là Đới Tiềm, tự Long Phi, trước đây vì đứa cháu hư là Đường kết đảng với bọn xấu, đào hầm than gần mộ khiến lão phu không được yên ổn dưới suối vàng nên khơi nước biển dìm chết cả bọn, người là con cháu dòng nào?". Đại khái họ Đới có năm chi, Đường là ngành trưởng, lúc đầu có nhà thế gia trong huyện đút tiền cho Đường để đào hầm lấy than cạnh mộ tổ, các em sợ thế lực nên không ai dám cãi lại. Không bao lâu nước dưới đất vọt ra, những người đào than đều chết dưới hầm, gia đình họ họp nhau thưa kiện, Đường và nhà thế gia kia vì thế trở nên nghèo khó, con cháu Đường đến nỗi không có tấc đất cắm dùi.
Đới là dòng dõi của em Đường, từng nghe ông cha kể lại chuyện ấy, bèn thưa với ông tổ. Ông già nói "Hư hỏng như thế thì con cháu làm sao mà khá được? Cháu đã tới đây, phải tiếp tục học hành". Rồi lấy rượu thịt cho ăn uống, kế đem sách đặt lên bàn, đều là những văn trường ốc trong niên hiệu Thành Hóa Hoằng Trị thời Minh (1465-1505) bắt phải học, lại ra đề bài cho làm văn như thầy dạy trò. Nến trong sảnh đường đều sáng, cắt bấc đi cũng không tắt. Đới cứ lúc mệt thì ngủ, không biết đang ngày hay đêm. Ông già lúc đi vắng thì sai một tiểu đồng tới hầu hạ, lâu như trải qua mấy năm nhưng may mà không phải chịu khổ. Có điều là không có sách gì khác để đọc, chỉ có trăm bài văn bát cổ, vài ngàn bài thơ mà thôi. Một hôm ông già nói "Cháu đã hết hạn quả báo, sắp được trở về nhân thế. Chỗ mộ ta có đường hầm đào than xoi vào, gió âm châm chích xương cốt, sau này cháu đắc chí rồi hãy dời mộ ta ra cánh đồng phía đông". Đới cung kính vâng dạ. Ông già bèn gọi bọn ma tới sai đưa Đới ra chỗ cũ, đám ma lạy rạp nghe lệnh, nhưng Đới cũng không biết làm sao mà lên khỏi giếng được.
Trước là gia đình thấy Đới mất tích, tìm kiếm khắp nơi, mẹ lên báo quan, bắt bớ đòi gọi rất nhiều người mà không có chút manh mối gì. Qua ba bốn năm, quan thôi giữ chức, việc tìm kiếm tra xét cũng thưa dần, vợ Đới không chờ được bèn xin lấy chồng khác. Gặp lúc người làng vét giếng cũ, vào trong hốc thấy Đới, vỗ về thấy chưa chết cả sợ báo cho gia đình biết, cáng về nhà mấy ngày mới nói được, kể lại mọi chuyện đã qua. Sau khi Đới rơi xuống giếng, người láng giềng cãi vã rồi giết chết vợ, bị cha vợ thưa kiện, giam nhốt xét xử hơn một năm, chỉ còn bộ da bọc xương trở về, nay nghe tin Đới sống lại cả sợ bỏ trốn. Người trong họ bàn xin thưa quan trừng trị, Đới không nghe, cứ nói "Trước đây là ta chuốc lấy tội, chuyện đó là âm ty trừng phạt chứ y có can dự gì?", người láng giềng thấy không có ý gì khác bèn lần mò trở về.
Nước dưới giếng đã vét sạch, Đới thuê người xuống thu nhặt xương cốt, đều sắm quan tài chôn cất ở nghĩa địa làm phúc. Lại giở tới gia phả thấy có tên Tiềm tự Long Phi, bèn sắm sửa lễ vật ra cúng tế trước mộ. Quan Học sứ nghe chuyện lạ, lại khen ngợi văn bài của Đới, khoa ấy lấy Đới làm hạng ưu cho đi thi hương, kế Đới thi đỗ Cử nhân. Đới trở về liền xây dựng phần mộ ở cánh đồng phía đông, dời mộ Long Phi ra đó, xuân thu cúng tế, hương lửa không dứt.
Dị Sử thị nói: Làng ta có người đào than, hầm than bị nước ngập, hơn mười người bị khốn dưới đó. Người ta múc nước tìm xác hơn hai tháng mới cạn mà hơn mười người không ai chết cả. Té ra lúc nước đổ tới thì họ cũng bị vây trên chỗ cao nên không bị chết đuối. Dòng dây xuống đưa lên, gặp gió thì tắt thở, một ngày một đêm mới tỉnh lại. Mới biết người ta ở dưới đất thì cũng như chim rắn côn trùng, nhất thời chưa thể chết được. Nhưng chưa có ai sống được suốt mấy năm dưới đất, nếu không phải là kẻ chí thiện thì ba năm liền sống trong địa ngục làm sao có thể sống mà trở về.
066. San Hô (San Hô)
An Đại Thành là người huyện Trùng Khánh (tỉnh Tứ Xuyên), cha đỗ Cử nhân nhưng mất sớm, em là Nhị Thành còn nhỏ. Sinh cưới Trần thị, tiểu tự là San Hô, nhưng mẹ sinh họ Thẩm tính tình hung dữ, đối xử tàn tệ, có khi ngược đãi mà San Hô không tỏ ra hờn oán, cứ sáng ra là trang điểm tới hầu. Gặp lúc sinh bị bệnh, mẹ cho rằng nàng trang điểm để mê hoặc sinh bèn chửi mắng. San Hô lui về, tháo bỏ trang sức, rửa hết phấn son rồi tới, mẹ tức giận, đập đầu vào tường gào thét. Sinh vốn có hiếu bèn đánh vợ, mẹ mới hơi nguôi giận, từ đó càng ghét con dâu, tuy nàng chăm chỉ hầu hạ vẫn không thèm nói với nàng một câu. Sinh biết mẹ giận cũng ngủ riêng, tỏ ý dứt tình với vợ.
Lâu ngày mẹ vẫn không hả dạ, cứ chửi chó mắng mèo để nói cạnh San Hô. Sinh nói "Cưới vợ là để hầu hạ cha mẹ, nay đã như thế thì có vợ làm gì?", bèn thôi vợ, sai bà vú già đưa San Hô về. Vừa ra tới cổng làng, San Hô khóc nói "Là đàn bà mà không làm vợ người ta được, về nhà còn mặt mũi nào nhìn thấy cha mẹ, chẳng bằng chết đi cho xong". Rồi rút kéo may trong tay áo ra đâm vào cổ họng, mọi người xúm lại cứu thì máu đã ướt đẫm áo quần, bèn dìu về nhà người thím trong họ. Bà thím sinh là Vương thị, góa chồng ở một mình bèn giữ nàng lại ở đó. Bà vú trở về, sinh dặn giấu kín chuyện nhưng trong lòng vẫn thầm sợ mẹ biết. Qua vài hôm nghe ngóng biết vết thương của San Hô đã hơi lành, bèn tới nhà Vương thị bảo đừng giữ San Hô ở đó. Vương thị gọi vào, sinh không chịu vào, chỉ hung hăng đòi đuổi San Hô. Không bao lâu nàng ra gặp sinh, hỏi "San Hô có tội gì?", sinh trách là không hầu hạ được mẹ. San Hô im lặng không nói câu nào, chỉ cúi đầu khóc nức nở, lệ đỏ như máu ướt đẫm vạt áo, sinh động lòng thương xót không sao nói nữa liền trở về.
Qua mấy hôm mẹ sinh biết chuyện, giận dữ tới nhà Vương lớn tiếng chửi mắng. Vương cũng ngạo nghễ không chịu lép, kể tội lại mẹ sinh ngược đãi San Hô, lại nói "Nàng ta đã bị đuổi, thì còn là người gì của nhà họ An nữa? Ta đây giữ con gái nhà họ Trần chứ không giữ con dâu nhà họ An, ai cần bà chõ mồm vào việc nhà người khác?". Mẹ sinh tức lắm nhưng đuối lý, lại thấy Vương thị có vẻ hung dữ bèn xấu hổ gào khóc quay về. San Hô áy náy, nghĩ tới việc qua ở nơi khác. Nguyên dì sinh là bà Vu, tức chị bà Thẩm, hơn sáu mươi tuổi thì con trai chết, chỉ còn một đứa cháu nội và con dâu góa, rất yêu mến San Hô, nàng bèn từ giã Vưong thị tới đó ở. Bà Vu hỏi biết duyên cớ, rất chê em gái hung dữ mê muội, muốn đưa nàng về ngay. San Hô hết sức nói là không được, lại xin đừng nói lộ ra. Rồi đó nàng ở cùng với bà Vu như mẹ chồng nàng dâu. San Hô có hai người anh nghe chuyện rất thương em, muốn đón nàng về gả chồng cho, nhưng San Hô nhất định không chịu, chỉ theo bà Vu kéo sợi dệt mướn sinh nhai.
Sinh sau khi bỏ vợ thì mẹ tìm đủ mọi cách cưới vợ cho, nhưng tiếng hung đữ đã lan rộng ra nên gần xa không ai muốn kết thông gia. Được ba bốn năm, Nhị Thành dần lớn lên, bèn hỏi vợ trước cho. Vợ Nhị Thành là Tàng Cô, hung dữ còn quá mẹ sinh, mẹ mà có vẻ nổi nóng thì Tàng Cô dằn giọng đối đáp, Nhị Thành lại nhu nhược không dám bênh vực ai, vì thế mẹ cũng không dám ra oai nữa, đã không dám bới móc lại trở lại tìm cách lấy lòng nhưng Tàng Cô vẫn không ưng ý. Tàng Cô sai khiến mẹ chồng như đầy tớ, sinh không dám nói gì, chỉ cố sức làm lụng thay mẹ, làm hết những việc rửa chén quét nhà, mẹ con thường những lúc không có ai cứ nhìn nhau khóc lóc. Không bao lâu mẹ uất ức sinh bệnh nằm liệt giường, những việc trở mình đi đồng đều nhờ sinh giúp, sinh suốt đêm không được ngủ, hai mắt đỏ ngầu.
Gọi em tới giúp, Nhị Thành vừa vào phòng thì Tàng Cô đã gọi đi mất. Sinh vì vậy tới kể với bà Vu, định nhờ bà tới trông nom mẹ mình, vào tới cửa thì vừa khóc vừa kể, kể chưa xong thì San Hô sau màn bước ra, sinh hổ thẹn quá im bặt định ra về. San Hô lấy hai tay khép cổng, sinh quýnh quáng xô nàng ra cướp đường chạy về, cũng không dám kể với mẹ. Không bao lâu bà Vu tới, mẹ sinh mừng rỡ giữ lại. Từ đó nhà bà Vu ngày nào cũng sai người đưa thức ăn ngon tới cho, bà nhắn con dâu rằng "Ta ở đây không đói, đừng gởi thức ăn thế nữa", nhưng ở nhà cứ đều đặn gởi tới. Bà Vu không nếm qua một miếng, cứ dành lại cho người bệnh ăn, bệnh mẹ sinh cũng đỡ dần. Cháu nội bà Vu lại vâng lệnh mẹ đem thức ăn tới cho bà và hỏi thăm sức khỏe mẹ sinh, mẹ sinh than "Nàng dâu ngoan thật, chị tu mấy kiếp mà được như thế?" Bà Vu hỏi "Có bằng nàng dâu em đuổi không?" Bà Thẩm nói "Ôi! Nói ra không hết chuyện, nhưng làm sao mà được như vợ thằng cháu bên nhà!". Bà Vu nói "Nàng dâu còn thì em không biết vất vả, em nóng giận thì nàng dâu không biết oán trách, có chỗ nào không bằng dâu chị?". Bà Thẩm rơi lệ tỏ ý hối hận, lại hỏi "San Hô lấy chồng khác chưa?". Bà Vu đáp "Không biết, để hỏi lại sau".
Mấy hôm sau bà Thẩm khỏi hẳn, bà Vu từ giã ra về, bà Thẩm khóc nói "Sợ chị đi thì em chết mất thôi". Bà Vu bèn bàn với sinh chia gia tài cho Nhị Thành ra ở riêng, Nhị Thành nói với Tàng Cô, Tàng Cô không vui nói nhiều lời xúc phạm tới anh, động chạm tới cả bà Vu. Sinh bèn tình nguyện đưa hết những ruộng tốt cho Nhị Thành, Tàng Cô mới vui vẻ, lập tờ chia gia tài xong bà Vu mới về. Hôm sau bà Vu lấy xe tới đón bà Thẩm, bà Thẩm vào tới nhà trước hết xin gặp con dâu bà Vu, hết sức ca ngợi nàng hiền.
Bà Vu nói "Đàn bà có trăm việc hay cũng đâu tránh khỏi có một điều dở. Ta phải rộng rãi bao dung, chứ như em thì cho dù có con dâu như ta e cũng chưa chắc đã nhờ vả gì được". Thẩm nói "Ồ, oan cho em lắm, chị bảo em là súc vật gỗ đá hay sao? Em cũng có miệng có mũi, há lại ngửi mùi thơm mà không biết sao?". Bà Vu hỏi "Như San Hô bị đuổi, không biết nghĩ tới em sẽ nói gì?", bà Thẩm đáp "Chỉ có mắng chửi thôi". Bà Vu nói "Nếu em tu tỉnh thì chẳng có chỗ nào để mắng chửi, mà cũng chẳng có chỗ nào ghét để chửi mắng". Bà Thẩm nói "Ai cũng có lúc lỗi lầm, chỉ có điều cô ta không thể hiền, nên em biết là cô ta sẽ chửi mắng". Bà Vu nói "Người đáng oán lại không oán thì đức thế nào đủ biết rồi, người đáng đuổi lại không đuổi thì tài thế nào đủ biết rồi. Những thức ăn hôm trước đem qua cung dưỡng vốn không phải của con dâu chị gởi đâu, mà là của con dâu em gởi đấy". Bà Thẩm giật mình hỏi "Chị nói gì?", bà Vu đáp "San Hô tới đây lâu rồi, những thức ăn gởi cho em là của nàng thức đêm dệt thuê lấy tiền mua đấy"
Bà Thẩm nghe thế nước mắt ròng ròng, nói "Em còn mặt mũi nào nhìn con dâu nữa?". Bà Vu bèn gọi San Hô, San Hô rơi lệ bước ra, lạy rạp xuống đất, mẹ đau xót hổ thẹn tự vả vào mặt mình, bà Vu khuyên mãi mới thôi, từ đó lại là mẹ chồng nàng dâu như trước. Hơn mười hôm sau cùng trở về, trong nhà chỉ còn vài mẫu ruộng xấu không đủ ăn, chỉ trông mong vào việc sinh học hành thi dỗ, San Hô thì may thuê dệt mướn. Nhị Thành có tiếng khá giả nhưng anh không qua nhờ vả, em cũng không ngó ngàng gì tới, Tàng Cô vì chị dâu từng bị đuổi nên khinh bỉ, San Hô cũng ghét cô ta đanh đá nên không đếm xỉa tới. Anh em ở sát vách nhau, Tàng Cô thường chửi chó mắng mèo, cả nhà đều bịt tai không nghe, Tàng Cô không cớ gì để gây sự bèn chửi chồng đánh tỳ nữ. Một hôm đứa tỳ nữ treo cổ tự tử, cha cô ta kiện Tàng Cô. Nhị Thành lên hầu quan thay vợ bị đánh đập rất nặng nhưng Tàng Cô cũng bị bắt, sinh chạy chọt lo lót khắp trên dưới cũng không được tha. Tàng Cô bị đánh vào mười ngón tay tróc hết cả thịt, quan lại tham lam đòi hỏi rất nhiều. Nhị Thành cầm cố ruộng vườn đem đủ số tới vợ mới được tha về. Nhưng chủ nợ cứ hàng ngày tới đòi, bất đắc dĩ phải bán hết ruộng tốt cho ông Nhiệm trong làng.
Ông Nhiệm vì thấy một nửa số ruộng ấy là của Đại Thành nhường cho, mời sinh tới ký tên vào văn tự bán ruộng. Sinh tới nơi, ông Nhiệm chợt nói "Ta là An Hiếu liêm đây, Nhiệm mỗ là ai mà dám mua cơ nghiệp của ta?", rồi nhìn sinh nói "Âm ty cảm động vì vợ chồng con hiếu thảo nên sai ta tạm tới gặp mặt một lần". Sinh rơi lệ nói "Cha có thiêng xin cứu giúp cho em con", An đáp "Thứ con hư dâu dữ có gì đáng tiếc, về nhà rồi mau lo tiền bạc tới chuộc lại cơ nghiệp của ta". Sinh nói "Mẹ con con chỉ kiếm được đủ sống, lấy đâu ra nhiều tiền như thế?". An nói "Dưới gốc cây Tử vi có vàng chôn, cứ lấy mà dùng". Sinh định hỏi lại thì ông Nhiệm im bặt, lát sau tỉnh lại cũng không biết mình vừa nói gì.
Sinh về kể lại với mẹ, cũng chưa tin lắm thì Tàng Cô đã dắt mấy người gia nhân ra đào vàng, sâu xuống bốn năm thước mà chỉ thấy có gạch ngói, không có chút gì gọi là vàng bạc, thất vọng trở về. Sinh nghe nói Tàng Cô đào vàng liền dặn mẹ và vợ đừng ra nhìn, sau nghe nói không tìm được gì, mẹ sinh lén tới xem chỉ thấy gạch ngói trộn lẫn với đất cát bèn về. Kế San Hô tới thì thấy dưới hầm đất đều là bạc nén trắng xóa, gọi sinh tới xem thì quả đúng thế. Sinh nghĩ đây là của ông cha để lại, không nỡ giấu diếm bèn gọi Nhị Thành tới chia đôi, mang lên mấy lần mới hết, phần ai người ấy bỏ túi mang về. Nhị Thành cùng Tàng Cô xem lại, mở túi ra chỉ thấy toàn là gạch ngói cả sợ. Tàng Cô ngờ Nhị Thành bị anh lừa liền bảo Nhị Thành tới nhà anh dò xét, thì thấy anh đang bày vàng bạc ra giường, mẹ con đang vui vẻ chúc mừng nhau.
Nhị Thành vào kể lại với anh, sinh cũng sợ nhưng trong lòng rất thương hại, bèn tặng hết số vàng bạc của mình. Nhị Thành mừng quá mang đi trả nợ, rất biết ơn anh. Tàng Cô nói "Xem đó đủ biết là anh gian trá, nếu không phải là hối hận thì đời thuở nào có ai đem phần mình được chia mà nhường hết cho người khác không?", Nhị Thành nửa tin nửa ngờ. Hôm sau chủ nợ sai người tới nói "Những tiền trả nợ đều là bạc giả, ta sẽ thưa lên quan". Hai vợ chồng đều tái mặt. Tàng Cô nói "Thế nào nào? Ta đã nói là anh không hiền đến như thế, làm thế là để giết thằng đấy". Nhị Thành sợ hãi tới năn nỉ chủ nợ, chủ nợ căm tức không chịu, Nhị Thành bèn gán văn tự ruộng mới lấy đủ số tiền đã trả nợ về.
Nhìn kỹ thấy hai nén bạc bị chặt ra, chỉ có một lớp bạc thật mỏng như chiếc lá bao bên ngoài, còn bên trong đều là đồng cả. Tàng Cô bèn bàn với Nhị Thành giữ lại hai nén bị chặt còn bao nhiêu đem trả cho anh xem thử ra sao, lại dặn nói rằng "Mấy lần được anh nhường nhịn thật lấy làm bất nhẫn, xin giữ lại hai nén để nhớ ơn, còn những ruộng đất đã cầm đó cũng là của anh, em không quen làm nhiều ruộng, những cơ nghiệp đã bỏ đi, có chuộc lại hay không là quyền ở anh". Sinh không biết cứ cố nhường, Nhị Thành nhất quyết từ chối. Sinh bèn nhận lại bạc, cân lên thì thiếu hơn năm lượng, bèn bảo San Hô bán nữ trang bù vào cho đủ số rồi đem tới trả nợ. Chủ nợ nghi cũng là số bạc cũ, lấy dao chặt ra xem thì sắc bạc trong ngoài đều như một không khác nhau mảy may bèn nhận bạc, trả lại văn tự ruộng đất cho sinh. Nhị Thành trả bạc cho anh xong cho rằng thế nào cũng có chuyện lôi thôi, kế nghe sinh đã chuộc lại được cả ruộng vườn cũ rồi, rất lấy làm lạ. Tàng Cô nghi là lúc đào lên anh đã giấu hết bạc thật đi, tức giận qua nhà anh gây gổ chửi mắng, lúc ấy sinh mới rõ vì sao Nhị Thành trả lại tiền bạc.
San Hô bước ra cười nói "Ruộng vườn còn cả đây, sao lại giận dữ". rồi bảo sinh đem văn tự ruộng đất ra đưa Tàng Cô. Một đêm Nhị Thành mơ thấy cha về trách mắng, nói "Ngươi bất hiếu bất đễ, đã sắp đến ngày chết, một tấc đất cũng không có được lại còn tranh chiếm ruộng vườn, định làm gì hả?". Tỉnh dậy nói với Tàng Cô, muốn đem ruộng đất trả lại anh, Tàng Cô chế nhạo là ngu. Lúc ấy Nhị Thành có hai con trai, đứa lớn bảy tuổi, đứa nhỏ ba tuổi, không bao lâu thì đứa lớn mắc bệnh đậu chết. Tàng Cô sợ bảo Nhị Thành đưa lại văn tự ruộng đất cho anh, nhưng nói mấy lần sinh vẫn không nhận. Không bao lâu đứa con nhỏ lại chết. Tàng Cô càng sợ, tự mang văn tự ruộng đất tới đưa chị dâu, lúc ấy sắp hết mùa xuân, ruộng bỏ hoang không cày, sinh bất đắc dĩ phải ra gieo cấy.
Tàng Cô từ đó sửa đổi tính nết, sáng thăm tối viếng mẹ như con hiếu, cũng hết sức kính trọng chị dâu. Chưa được nửa năm mẹ bệnh chết, Tàng Cô khóc lóc rất đau xót, bỏ cả ăn uống, nói với người ta rằng "Cha mẹ chồng chết khiến ta không được hầu hạ, đó là trời không cho ta được chuộc lỗi đấy". Sau sinh nở mười lần đều không nuôi được, bèn nuôi con anh làm con mình. Vợ chồng sinh đều sống lâu, sinh được ba con trai, hai người thi đỗ Tiến sĩ, người ta thường nói rằng đó là trời báo đáp lòng hiếu hữu vậy.
Dị Sử thị nói: Nhà nghèo hay con hiếu, nước loạn biết tôi trung, nhà hay nước cũng đều như thế chăng? Con dâu dữ cải hóa thì mẹ chết, té ra một nhà hiếu thuận thì kẻ không có đức khó mà hưởng được. Tàng Cô tự hối cải, nói trời không cho mình chuộc tội, không phải kẻ ngộ đạo thì làm sao nói ra được câu ấy? Lẽ ra phải chết sớm mà lại được sống lâu thì cũng là trời tha tội cho, song sống mà không được thanh thản thì là trời có ý trừng phạt chăng?
067. Dâm Thần Ngũ Thông (Ngũ Thông)
I.
Phương nam có dâm thần Ngũ thông cũng như phương bắc có hồ vậy. Nhưng ở phương bắc bị hồ ám thì còn tìm đủ cách khu trừ, chứ ở vùng Giang Tô Chiết Giang đàn bà con gái xinh đẹp trong dân gian mà bị thần Ngũ thông hành dâm thì cha mẹ anh em không ai dám ho he, gây hại còn dữ hơn cả hồ.
Có Thiệu Hồ là nhà buôn mở cửa hiệu ở huyện Ngô (tỉnh Giang Tô), vợ là Diêm thị rất xinh đẹp. Một hôm có người đàn ông nghênh ngang từ ngoài vào, vỗ kiếm trừng mắt nhìn quanh, vú già tớ gái trong nhà chạy sạch. Diêm muốn chạy ra, người ấy chặn lại nói "Đừng sợ, ta là Tứ lang trong Ngũ thông đây. Ta yêu nàng, không làm hại nàng đâu" rồi ôm ngang lưng Diêm thị nhấc lên như bế trẻ con đặt lên giường, giải quần nàng tự tuột ra, y bèn cưỡng hiếp, nhưng dương vật to cứng nàng không chịu nổi, lúc mê man đau đớn kêu rên như sắp chết. Tứ lang cũng thương xót không làm hết sức, kế bước xuống giường nói "Năm ngày nữa ta sẽ lại tới", rồi đi.
Hồ bày cửa hiệu ngoài cổng, đêm ấy đám tớ gái chạy tới thưa, Hồ biết là thần Ngũ thông không dám nói gì. Đến sáng thấy vợ mỏi mệt không dậy nổi, trong lòng rất nhục nhã xấu hổ, dặn người nhà không được kể rộng ra. Người đàn bà qua ba bốn ngày mới khỏe lại, nhưng sợ thần Ngũ thông lại tới, đám vú già tớ gái không dám ngủ đêm trong phòng, tránh hết ra nhà ngoài, chỉ có người đàn bà buồn rầu ngồi trước đèn chờ. Không bao lâu, Tứ lang dắt hai người nữa tới, đều là thiếu niên ôn nhã, có tên tiểu đồng bày rượu thịt ra cùng ăn uống với người đàn bà. Người đàn bà xấu hổ cúi đầu, họ ép uống rượu cũng không uống, trong lòng nơm nớp sợ họ thay phiên hành dâm thì hết sống. Ba người uống rượu vui vẻ với nhau, người gọi là đại ca người gọi là tam đệ. Uống đến khuya, hai người khách đứng lên nói "Hôm nay Tứ lang được mỹ nhân nên mời, cũng nên gọi Nhị lang Ngũ lang tới uống rượu mừng", rồi từ biệt đi.
Tứ lang kéo người đàn bà vào màn, nàng khóc lóc năn nỉ, Tứ lang cứ ép giao hoan, nàng máu me đầm đìa ngất đi không biết gì nữa, Tứ lang mới đi. Người đàn bà nằm vật ra trên giường khôn xiết căm hờn xấu hổ, nghĩ định tự tử nhưng treo cổ thì dây tự đứt, mấy lần đều như thế, khổ không sao chết được. May mà Tứ lang cũng không tới thường, cứ chờ khoảng nàng đỡ bệnh mới lại tới một lần, cứ thế hơn ba tháng, cả nhà không yên.
Có Vạn sinh ở Cối Kê (huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang) là em họ ngoại của Thiệu, dũng mãnh thiện xạ, một hôm tới thăm Thiệu. Lúc ấy trời đã tối, Thiệu vì nhà khách đã cho gia nhân ở bèn đưa Vạn vào ngủ nhà trong. Vạn nằm hồi lâu không ngủ, nghe trong sân có tiếng chân người bèn núp cạnh cửa sổ nhìn ra, thấy một người đàn ông bước vào phòng vợ Thiệu, lấy làm ngờ vực xách đao lẻn theo. Thấy người ấy ngồi sánh vai với Diêm thị, trên bàn thì đầy rượu thịt liền nổi giận sấn vào, người đàn ông giật mình vội đứng dậy nắm lấy kiếm thì đã bị chém toác đầu ngã xuống, nhìn ra thì là một con ngựa con to như con lừa.
Vạn kinh ngạc hỏi Diêm thị, người đàn bà kể lại mọi chuyện rồi nói "Các thần sắp tới, làm sao bây giờ?". Vạn xua tay ra hiệu đừng lên tiếng rồi tắt đèn cầm cung tên nằm chờ trong bóng tối. Không bao lâu có bốn năm người trên không đáp xuống, Vạn bắn mau một phát, người đi đầu trúng tên chết tươi. Ba người kia tức giận gầm thét, tuốt kiếm xông vào tìm kẻ bắn tên, Vạn cầm đao núp sau cánh cửa im lặng không động đậy, một người bước vào bị Vạn chém trúng đầu cũng lăn ra chết. Vạn đứng im chỗ cũ chờ hồi lâu thấy im ắng bèn bước ra gọi Thiệu dậy kể chuyện. Thiệu cả kinh cùng đốt đuốc vào xem thì thấy một con ngựa và hai con heo chết trong phòng. Cả nhà đều mừng rỡ, nhưng sợ hai con quái còn sống tới trả thù bèn giữ Vạn ở lại. Nấu nướng thịt heo thịt ngựa đem lên mời, thấy ngon ngọt khác hẳn thịt heo ngựa thường, từ đó Vạn sinh lừng lẫy tiếng tăm.
Vạn ở lại hơn tháng, không thấy đám quái tới nữa bèn từ giã Thiệu, sắp lên đường thì có nhà buôn Mỗ tới mời. Trước là Mỗ có con gái chưa lấy chồng, chợt Ngũ thông giữa ban ngày hiện ra, là một người đàn ông đẹp trai hơn hai mươi tuổi, nói sẽ cưới cô gái làm vợ, đưa một trăm lượng vàng làm sính lễ rồi hẹn ngày cưới. Mỗ tính lại sắp tới ngày hẹn, cả nhà lo sợ, nghe danh Vạn sinh bèn nài nỉ mời bằng được về nhà, nhưng sợ Vạn từ chối nên giấu không nói thật, thết tiệc xong mới cho con gái ăn mặc đẹp đẽ ra lạy chào. Vạn thấy cô gái khoảng mười sáu mười bảy tuổi, dung mạo xinh đẹp kinh ngạc không hiểu là có ý gì, vội đứng lên chào, Mỗ kéo ngồi xuống kể thật mọi việc. Vạn nghe thấy cả kinh, nhưng bình sinh ý khí hào hùng nên cũng không từ chối.
Đến ngày cưới, Mỗ cũng hoa giăng dây lụa ngũ sắc ngoài cổng, bảo Vạn ngồi trong phòng. Đến trưa vẫn không thấy Ngũ thông tới, Vạn mừng rỡ nghĩ thầm chắc tân lang là trong số đã bị mình giết. Phút chốc chợt thấy trước thềm có vật như con chim sa xuống rồi một thiếu niên ăn mặc đẹp đẽ bước vào, nhìn thấy Vạn quay người bỏ chạy. Vạn đuổi ra tới ngoài, chỉ thấy một làn khí đen sắp bay lên, vội rút đao nhảy lên chém theo, chặt đứt một chân, thiếu niên kêu gào bay mất. Cúi nhìn thì khúc chân là một cái móng lớn to bằng bàn tay, không biết là con gì, tìm theo vết máu thì thấy nhảy xuống sông. Mỗ cả mừng, lại nghe nói Vạn không có vợ, ngay đêm ấy chuẩn bị giường chiếu cho làm lễ hợp cẩn với cô gái. Từ đó những người vốn sợ Ngũ thông đều mời Vạn tới nhà mình ngủ một đêm. Được hơn năm Vạn mới đưa vợ về nhà, từ đó Ngô Trung chỉ còn một trong Ngũ thông, không dám công nhiên tác quái nữa.
Dị Sử thị nói: Ngũ thông Thanh oa làm mê hoặc thế tục đã lâu đến nỗi cứ mặc cho chúng tùy ý dâm loạn mà không ai dám nói một tiếng, Vạn sinh thật là người hào sảng trong thiên hạ vậy.
II.
Kim sinh tự Vương Tôn, người Tô Châu (tỉnh Giang Tô). Tới đất Hoài (tỉnh Giang Tô) dạy học, ở trong vườn một vị thân sĩ lầu gác không nhiều nhưng cây cối rậm rạp. Hàng đêm đến khuya, khi bọn tiểu đồng đầy tớ đã ngủ hết thường một mình ngồi trước đèn, trong lòng buồn bã. Một đêm vừa hết canh hai chợt nghe có người lấy ngón tay búng cửa sổ, sinh vội lên tiếng hỏi, bên ngoài nói là xin lửa, giọng nói như đứa tiểu đồng. Sinh mở cửa cho vào thì là một người đẹp khoảng mười sáu tuổi, có một tỳ nữ theo sau. Sinh ngờ là yêu quái, gạn hỏi cặn kẽ, cô gái nói "Thiếp thấy chàng là kẻ sĩ phong nhã mà cô tịch đáng thương nên không ngại sương gió tới định cùng vui vầy đêm nay, chứ sợ nói lai lịch ra thì thiếp không dám tới mà chàng cũng không dám chứa chấp đâu". Sinh lại nghĩ là con gái hư hỏng trong làng, lấy cớ sợ mang tiếng để từ tạ. Cô gái đưa mắt liếc, sinh thấy thần trí mê man, tâm thần điên đảo không thể tự chủ được nữa. Người tỳ nữ biết, bèn nói "Cô Hà, em đi đây". cô gái gật đầu, kế mắng "Đi thì cứ đi, còn Hà Hà Vân Vân gì?".
Người tỳ nữ đi rồi, nàng mới cười nói "Gặp lúc nhà không có ai mới dắt nó tới đây, ngu ngốc như thế đấy, nói lộ ra cho chàng biết tên tự của thiếp". Sinh nói "Nàng tinh tế sâu sắc quá làm ta sợ có tai họa". Nàng nói "Về sau sẽ biết thôi, nhưng thiếp cam đoan là không làm gì có hại cho chàng đâu, đừng lo". Kế nàng lên giường tháo gỡ đồ trang sức, sinh thấy trên tay nàng có đeo một cái xuyến bằng vàng tía khảm hai viên ngọc minh châu, tắt đèn vẫn lóng lánh chiếu sáng cả phòng. Sinh càng sợ hãi, không đoán được là nàng từ đâu tới. Vừa giao hoan xong thì người tỳ nữ tới gõ cửa, cô gái trở dậy, lấy chiếc xuyến soi đường vào trong rặng cây um tùm đi mất.
Từ đó đêm nào cũng tới, có lần sinh định lén đi theo, cô gái như đã biết bèn che ánh sáng, cây cối rậm rạp tối om giơ bàn tay lên cũng không nhìn thấy, sinh đành quay về. Một hôm sinh đi Hà Bắc, dây mũ bị đứt, gió thổi suýt rơi, ngồi trên ngựa cứ phải lấy tay giữ. Tới sông lên ngồi trên thuyền, mũ bị gió thổi rơi xuống sông rồi bị nước cuốn đi, nghĩ là mất rồi. Đến khi lên bờ thì gặp con gió lớn thổi chiếc mũ bay tới, chao chao trên không rồi rơi xuống, giơ tay chụp lấy thì thấy dây mũ đã liền lại, lấy làm lạ.
Khi trở về kể lại với cô gái, nàng không nói gì mà chỉ cười khẽ. Sinh ngờ là do nàng làm bèn nói "Nếu quả nàng là thần thì xin nói rõ cho ta yên lòng". Cô gái nói "Chàng lúc vắng vẻ tịch mịch lại được kẻ si tình giải khuây cho, thiếp tự nghĩ như thế là không xấu. Giả như thiếp làm được như thế thì cũng là yêu thương nhau đó thôi, căn vặn làm gì muốn tuyệt tình sao?", sinh không dám nói nữa.
Trước sinh có nuôi đứa cháu gái, đã đi lấy chồng, bị Ngũ thông quấy phá, rất lo lắng nhưng chưa từng nới với ai, vì quen biết thân mật với cô gái đã lâu nên kể ra không giấu giếm gì. Nàng nói "Những loại ấy thì cha thiếp có thể diệt trừ được, nhưng làm sao thiếp dám đem việc riêng của người tình mà kể với cha". Sinh năn nỉ xin bày cách cho, nàng ngẫm nghĩ rồi nói "Loại ấy cũng dễ trừ, nhưng phải đích thân thiếp đi, mà bọn ấy đều là đầy tớ nhà thiếp, nếu chỉ để chúng chạm một ngón tay vào người thôi thì nước Tây Giang cũng không rửa hết nhục". Sinh nài nỉ mãi, nàng nói "Để thiếp tính cho". Đêm sau nàng tới nói "Thiếp đã vì chàng sai đứa tỳ nữ xuống nam rồi, nhưng nó yếu ớt, sợ không giết được chúng thôi".
Đêm sau đang ngủ thì đứa tỳ nữ tới gọi, sinh vội dậy mở cửa cho vào. Cô gái hỏi công việc thế nào, đứa tỳ nữ đáp "Con không đủ sức bắt sống, nên đã thiến nó rồi". Nàng cười hỏi đầu đuôi, đứa tỳ nữ kể "Ban đầu con tưởng là ở nhà lang quân đây, nhưng tới nơi mới biết là không phải. Tới nhà chồng nàng thì đã lên đèn, vào trong thấy nàng ngồi trước đèn, gục xuống bàn như đang ngủ, con bèn thu hồn nàng cho vào vò úp lại. Giây lát con quái tới, vừa vào phòng thì lùi ra ngay, quát "Sao lại có người lạ nào thế?" nhưng nhìn kỹ không thấy ai khác lại bước vào. Con làm như đang mê man, y cởi quần áo ra leo lên, lại giật mình nói "Sao lại có binh khí thế này". Ý con không muốn cầm vào vật bẩn dơ tay, nhưng sợ chậm trễ sinh biến bèn chụp lấy thiến luôn. Con quái đau đớn kêu la bỏ chạy, con trở dậy mở cái vò lên, nàng tỉnh dậy rồi thì con đi". Sinh mừng rỡ tạ ơn, cô gái cùng đứa tỳ nữ ra về.
Hơn nửa năm sau không thấy nàng tới, sinh đã tuyệt vọng. Cuối năm sinh nghỉ dạy dịnh về quê, cô gái chợt tới. Sinh mừng rỡ ra đón, nói "Lâu quá nàng không tới, ta nghĩ chắc đã phạm lỗi gì, nay nàng không dứt tình chứ?". Nàng đáp "Gắn bó với nhau cả năm mà chia tay nhau không có một lời thì cũng chưa trọn vẹn. Nghe nói chàng thôi dạy học nên lén tới nói lời từ biệt". Sinh xin nàng cùng về quê với mình, nàng than "Khó nói lắm, hôm nay chia tay mà lòng không nỡ quên tình. Thiếp là con gái của Kim Long đại vương, vốn cùng chàng có túc duyên nên tới gặp gỡ. Không ngờ sai đứa tỳ nữ xuống Giang Nam làm giang hồ đồn ầm lên rằng thiếp vì chàng mà thiến Ngũ thông, cha thiếp nghe được cho là quá nhục nhã, đã định ban tội chết. May mà đứa tỳ nữ đứng ra nhận tội, ông mới hơi nguôi giận, phạt đánh nó một trăm gậy. Thiếp đi đâu nửa bước cũng có bà vú đi theo, chỉ nhân lúc sơ hở tới được đây một lần chứ không thể trọn duyên cầm sắt, biết làm sao được".
Nói xong từ biệt, sinh kéo lại rơi nước mắt, nàng nói "Chàng đừng làm thế, ba mươi năm sau sẽ lại sum họp mà". Sinh nói "Ta nay ba mươi tuổi, ba mươi năm nữa đã là một ông già tóc bạc, còn mặt mũi nào gặp lại nhau?". Cô gái nói "Không phải thế. Ở Long cung không có người già tóc bạc, mà người đời thọ hay yểu không phải ở chỗ dung mạo, song nếu chàng muốn giữ dung mạo cho không già là chuyện rất dễ", kế viết một phương thuốc lên bìa quyển sách trên bàn rồi đi. Sinh về quê, cháu gái kể lại chuyện lạ, nói "Tối đến mơ thấy một người tới bắt bỏ vào vò, tỉnh dậy thấy máu đầm đìa cả chăn nệm, mà con quái tuyệt tích luôn". Sinh nói "Đó là do ta cầu đảo Hà Bá đấy" mọi người mới rõ.
Về sau sinh sáu mươi tuổi mà diện mạo vẫn như người ba mươi. Một hôm qua sông, nhìn thấy xa xa phía thượng lưu có chiếc lá sen to như chiếc chiếu trôi xuống, một người đẹp ngồi ở trên, tới gần thì là cô gái thần liền nhảy qua, người theo chiếc lá sen nhỏ dần lại, khi còn bằng đồng tiền thì biến mất. Chuyện này và chuyện Thiệu Hồ đều xảy ra thời Minh mạt, không biết chuyện nào trước chuyện nào sau. Nếu chuyện này xảy ra sau khi Vạn sinh dụng võ thì vùng Ngô Hạ chỉ còn có nửa tên Ngũ thông, chắc không đủ để tác quái làm hại nữa.
068. Họ Thân (Thân Thị)
Cạnh sông Kính Hà (ở tỉnh Thiểm Tây) có họ Thân là con sĩ nhân, nhà rất nghèo, có ngày không nổi lửa nấu cơm, vợ chồng nhìn nhau không biết làm sao. Vợ nói "Hết cách rồi, hay là chàng đi ăn trộm vậy?", Thân đáp "Là con nhà sĩ nhân đã không làm rạng rỡ tổ tông mà còn làm mất danh tiếng, làm nhục ông cha, thì ăn trộm mà sống chẳng bằng trong sạch mà chết". Vợ uất ức nói "Ngươi muốn sống mà ghét mang nhục à? Trên đời những kẻ không cày ruộng mà sống chỉ có hai cách, ngươi đã không thể làm ăn trộm thì ta cũng không sao làm đĩ". Thân tức giận cãi vã với vợ, vợ uất ức bỏ đi ngủ.
Thân nghĩ mình là đàn ông mà không lo được ngày hai bữa cơm, để đến nỗi vợ muốn đi làm đĩ thì thà chết cho xong, bèn lặng lẽ dậy ra thắt thòng lọng trên cây ngoài sân treo cổ tự tử. Chợt thấy cha tới kinh ngạc nói "Thằng con ngu này sao lại đến nỗi như thế?". Rồi cắt dây, dặn "Ăn trộm thì cũng được, nhưng phải rình ở chỗ đám lúa dày, chuyến này thì được chứ không được làm lần nữa đâu đấy". Vợ nghe có tiếng rơi xuống đất giật mình tỉnh dậy gọi chồng không thấy lên tiếng, thắp đèn ra nhìn thì thấy trên cây có sợi dây đứt, Thân thì chết ngất ở dưới, hoảng sợ tới lay gọi, giây lát Thân tỉnh lại, vợ đỡ vào nằm trên giường, cũng bớt tức giận.
Trời sáng, vợ Thân nói thác là chồng bị bệnh qua xin cơm nhà láng giềng về cho Thân ăn. Thân ăn xong ra cửa đi, tới trưa vác một túi gạo về. Vợ hỏi gạo ở đâu, Thân đáp "Các bạn bè của cha ta đều là nhà thế gia, tới đó xin xỏ thì được nhưng không mặt mũi nào đi cầu xin. Người xưa nói "Kẻ không nổi tiếng thì làm gì cũng được, nay ta định đi ăn trộm đây, còn tiếc gì? Nấu cơm mau lên, ta định theo lời nàng đi trộm cướp đây". Vợ nghĩ Thân giận lời nói của mình hôm qua nên mới nói thế, bèn vo gạo nấu cơm, Thân ăn no rồi vội tìm gỗ cứng lấy búa đẽo thành cái gậy cầm lấy ra đi. Vợ thấy đúng là đi trộm cướp vội kéo áo giữ lại, Thân nói "Cô bảo ta đi trộm cướp, nếu việc bại lộ liên lụy tới nhau thì đừng có hối hận", rồi dứt áo đi thẳng.
Chập tối Thân tới thôn bên cạnh bèn vòng ra cách đó một dặm nằm rình. Chợt có cơn mưa rào đổ xuống, cả người ướt đầm, nhìn thấy phía xa có rặng cây bèn tìm tới tránh mưa. Chợt có tia chớp lóe sáng, thấy đã tới gần bức tường, xa xa lại như có người đi tới, sợ họ trông thấy, nhìn thấy dưới tường có đám lúa dày vội lủi mau vào đó ngồi thụp xuống. Không bao lâu có một người đàn ông tới, thân thể to lớn, cũng rẽ xuống đám lúa. Thân sợ không dám nhúc nhích, may mà người ấy đi xéo qua, nhìn theo thấy y nhảy vào trong tường. Thân nhớ lại phía trong tường là nhà phú ông họ Khang, ắt người này là kẻ trộm, cứ chờ y ăn trộm trở ra sẽ đòi chia. Lại nghĩ y to lớn khỏe mạnh, nếu không lấy trộm được nhiều sẽ không chịu chia, ắt phải dùng võ, nhưng tự lượng sức mình không đánh nổi y, chẳng bằng nhân lúc bất ngờ đánh ngã. Tính kế xong nằm xuống chờ hồi lâu, lúc gà gáy canh một y mới nhảy tường ra, chân chưa chạm đất, Thân đã vùng dậy đập một gậy vào lưng ngã xuống đánh huỵch, thì là một con rùa lớn, miệng to như cái chậu. Thân phát hoảng vác gậy đập túi bụi, con rùa chết luôn.
Trước là ông họ Khang có một con gái rất xinh đẹp, cha mẹ đều yêu thương. Một đêm có người đàn ông vào trong phòng nàng cưỡng ép đòi giao hoan, cô gái muốn la lên thì lưỡi đã cứng đơ rồi hôn mê không biết gì nữa, mặc cho y mượn làm gì thì làm. Khi y đi rồi nàng xấu hổ không dám nói, chỉ họp đám tỳ nữ lại ngủ cùng phòng, đóng cửa thật chặt mà thôi. Đêm sau không biết vì sao cửa phòng lại tự mở ra, vào xem thì mọi người đều mê man, đám tỳ nữ đều bị hành dâm, cùng hoảng sợ kể lại với nhau rồi báo cho ông Khang. Ông sai gia nhân cầm dao gậy rình sẵn, thắp đèn sáng ngồi trong phòng, khoảng gần nửa đêm thì người gác trong ngoài đều nhất loạt thiếp đi, chợt như tỉnh mộng thức dậy thì thấy cô gái đã trần truồng nằm trên giường ngất đi, hồi lâu mới tỉnh lại ông Khang hận lắm nhưng không biết làm sao, được vài tháng thì cô gái cứ héo hắt gầy mòn đi. Ông Khang nói với mọi người rằng ai có thể trừ tà cho thì sẽ thưởng ba trăm lượng vàng, ngày thường Thân cũng đã từng nghe. Đêm ấy đánh được con rùa, sực nghĩ ra đây là tà quỷ ám cô gái. Bèn gõ cửa xin thưởng, ông Khang mừng rỡ mở tiệc mời, sai treo con rùa ở sân phanh thịt ra, giữ Thân ở lại qua đêm, quả nhiên tà quỷ đều tuyệt tích, bèn đem đủ ba trăm lượng vàng thưởng cho Thân.
Thân mang vàng về, vợ thấy qua đêm không về đang lo lắng trông ngóng, thấy Thân vào vội hỏi han, Thân không đáp, bày vàng ra giường. Vợ nhìn thấy hoảng sợ nói "Thật là anh đi ăn cướp à?", Thân đáp "Cô bắt ta làm như thế, sao lại còn hỏi?". Vợ khóc nói "Hôm trước chỉ là nói đùa thôi, nay anh phạm tội chết chém, ta không thể chịu liên lụy với thằng giặc giết người, xin chết trước đây". Rồi chạy ra ngoài, Thân đuổi theo cười kéo lại kể thật mọi chuyện, vợ mới mừng rỡ. Từ đó đem vàng buôn bán, cũng nổi tiếng giàu có.
Dị Sử thị nói: Người ta không lo nghèo, chỉ lo mất nết mà thôi. Tính nết đã ngay thẳng thì tuy đói cũng không chết, nếu không được người thương cũng có quỷ giúp. Những người nghèo khổ trên đời quên nghĩa để cầu lợi, quên nhục để kiếm cơm, không ai dám nhờ giữ giùm một đồng, thì làm sao còn được quỷ thần giúp cho?
069. Hằng Nương (Hằng Nương)
Hồng Đại Nghiệp người kinh đô, vợ là Chu thị nhan sắc rất đẹp, hai bên đều yêu thương nhau. Sau Hồng cưới tỳ nữ là Bảo Đới làm thiếp, nhan sắc kém xa Chu nhưng Hồng lại yêu chiều. Chu bất bình, vì thế vợ chồng sinh ra bất hòa. Hồng tuy không dám công nhiên ở luôn lại phòng thiếp nhưng càng chiều chuộng Bảo Đới mà xa cách Chu.
Sau Hồng dời nhà, ở cạnh nhà một người buôn lụa họ Địch. Vợ Địch là Hằng Nương qua thăm Chu trước, thấy khoảng ba mươi tuổi, nhan sắc chỉ bình thường nhưng nói năng dịu dàng, Chu thích lắm. Hôm sau qua thăm đáp lễ thấy nhà nàng cũng có người thiếp khoảng hai mươi tuổi rất xinh đẹp. Ở cạnh nhau gần nửa năm, Chu không nghe thấy họ cãi cọ gì cả, mà Địch lại chỉ yêu quý có Hằng Nương, vợ thiếp chỉ là người để đó mà thôi. Một hôm Chu qua chơi nhà Hằng Nương, hỏi "Thiếp trước nay cho rằng chồng yêu vợ lẽ là vì vợ lẽ muốn thay bậc đổi ngôi, nay mới biết không phải. Phu nhân có thuật gì thế, nếu có thể dạy được thì thiếp xin làm học trò". Hằng Nương đáp "Ồ! chị tự xa cách rồi lại trách chồng sao? Ngày đêm cứ nói sa sả là đuổi chim sẻ cho bụi rậm, càng xa cách nhau hơn. Về nhà cứ để mặc họ, dù chồng tự tới cũng đừng cho vào phòng. Sau một tháng thiếp sẽ tính tiếp cho chị".
Chu theo lời, trang điểm thêm cho Bảo Đới, bảo cùng ngủ với chồng, Hồng ăn uống gì cũng bảo Bảo Đới ăn chung. Lúc nào Hồng quan tâm thì Chu ra sức từ chối, từ đó mọi người đều khen Chu thị hiền. Như thế hơn tháng, Chu qua thăm Hằng Nương, Hằng Nương vui vẻ nói "Được đấy!" Bây giờ chị về nhà bỏ hết nữ trang, đừng mặc quần áo đẹp, đừng đánh phấn tô son, để mặt bẩn đi giày rách làm lụng với người nhà, một tháng sau hãy qua đây".
Chu theo lời, mặc áo vá đụp, làm ra vẻ bẩn thỉu chỉ lo dệt vải chứ không hỏi gì tới chuyện khác. Hồng thương xót bảo Bảo Đới cùng làm lụng nhưng Chu không cho, cứ quát đuổi lên nhà. Như thế hơn tháng, lại qua gặp Hằng Nương, Hằng Nương nói "Đứa nhỏ này dạy được đấy! Ngày tới là tiết Thượng ty*, muốn rủ chị đi chơi. Chị nên bỏ hết quần áo rách, giày dép áo quần thay mới một loạt rồi qua ta cho sớm", Chu thị vâng dạ.
*Tiết thượng ty: một lễ hội ở Trung Quốc cổ, tiến hành vào ngày Tỵ đầu tiên trong thượng tuần tháng ba âm lịch.
Đến ngày, Chu thị soi gương trang điểm kỹ càng, hết thảy đều theo như lời Hằng Nương dặn. Trang điểm xong qua nhà Hằng Nương, Hằng Nương vui vẻ nói "Tốt lắm"' rồi búi hộ mái tóc cánh phượng, mượt bóng như gương, tay áo không hợp thời trang thì tháo ra may lại, lại nói kiểu giày vụng, lấy vải vụn trong rương ra cùng khâu, xong rồi lập tức bảo Chu thay đổi. Lúc chia tay mời Chu uống rượu rồi dặn "Về gặp mặt chồng xong là đóng cửa đi ngủ ngay, y có tìm gõ cửa cũng đừng mở. Gọi ba lần mới mở cửa cho vào một lần, nhưng phải dè sẻn chuyện hôn hít vuốt ve. Nửa tháng sau hãy qua đây".
Chu ăn mặc đẹp đẽ về nhà vào chào Hồng, Hồng chăm chú ngắm vợ từ trên xuống dưới, vui vẻ cười nói khác hẳn ngày thường. Chu thị kể qua buổi đi chơi rồi đỡ má ra vẻ mệt mỏi, trời chưa tối đã đứng dậy về phòng cài cửa đi nằm. Không bao lâu quả nhiên Hồng tới gõ cửa, Chu cứ nằm mãi không chịu dậy, Hồng mới bỏ đi, đêm sau cũng thế. Sáng ra Hồng trách móc, Chu nói "Ngủ một mình quen rồi, không chịu nổi sự quấy rầy". Trời vừa xế Hồng đã vào phòng vợ ngồi giữ chỗ, kế tắt đèn lên giường như đêm tân hôn, thương yêu rất mực, lại hẹn đêm sau. Chu không chịu, hẹn trở đi cứ ba ngày một lần.
Khoảng nửa tháng qua gặp Hằng Nương, Hằng Nương đóng cửa lại chuyện trò rồi nói "Từ nay thì chị có thể chiếm luôn chồng rồi. Có điều chị tuy đẹp nhưng chưa có duyên. Nhan sắc như chị mà biết làm duyên thì tranh giành được cả lòng sủng ái với Tây Thi, huống hồ là kẻ xấu hơn". Liền bảo Chu liếc thử, nói "Không phải thế! Cạnh ngoài khóe mắt chưa được". Lại bảo cười thử, nói "Không phải thế! Má bên trái chưa được," Rồi liếc mắt đưa tình, hé miệng cười duyên bảo Chu làm theo, mấy mươi lần mới hơi giống. Hằng Nương bảo "Chị về cứ soi gương mà tập, thuật chỉ có bấy nhiêu thôi. Còn như lúc trên giường thì tùy cơ mà khêu gợi, tùy sở thích mà chiều chuộng thì đó không phải là điều dùng lời mà dạy được!".
Chu về làm đúng như lời Hằng Nương dạy, Hồng rất đẹp ý, bị cả nhan sắc lẫn phong thái của vợ làm cho si mê, chỉ sợ bị cự tuyệt. Trời vừa xế là vào ngồi nói chuyện vui cười với vợ không chịu rời phòng nửa bước, ngày nào cũng thế, không sao bảo ra được. Chu càng tử tế với Bảo Đới, mỗi khi ăn uống trong phòng đều gọi vào ngồi cùng, nhưng Hồng càng thấy Bảo Đới xấu xí, chưa xong bữa đã bảo nàng ta đi ra. Chu lại lừa chồng vào phòng Bảo Đới rồi cài cửa ở bên ngoài nhưng suốt đêm Hồng không động chạm gì tới, Bảo Đới vì thế giận Hồng, gặp ai cũng oán trách ra miệng.
Hồng càng chán ghét, dần dần tới chỗ đánh đập. Bảo Đới phẫn uất bỏ cả trang điểm, áo bẩn giày rách, đầu bù tóc rối nên càng không trách ai được. Một hôm Hằng Nương hỏi Chu "Thuật của ta thế nào?". Chu đáp "Đạo thầy thật là tuyệt diệu, có điều đệ tử có thể làm được mà rốt lại vẫn chưa hiểu được. Để mặc là vì sao?". Hằng Nương nói "Chị không biết sao? Người ta vốn chán cái cũ mà thích cái mới, trọng cái khó mà khinh cái dễ. Chồng yêu vợ lẽ không hẳn vì cô ta đẹp mà vì thấy cái ít được nếm là ngon, thấy việc khó được gặp là hay. Cứ để mặc cho ăn no thì sơn hào hải vị cũng ngán chứ nói gì tới canh rau muống". Chu hỏi "Bỏ hết trang điểm rồi sau ăn mặc lộng lẫy là vì sao?". Hằng Nương đáp "Bỏ không ngó ngàng gì tới thì như xa cách lâu ngày, bỗng thấy trang điểm đẹp đẽ thì như mới tới, khác nào người nghèo chợt được ăn thịt ngon, sẽ thấy gạo lứt là vô vị. Lại không dễ dàng cho nếm ngay thì kẻ kia là cũ mà mình là mới, kẻ kia thì dễ mà mình thì khó, đó chính là thuật biến vợ thành thiếp đấy".
Chu cả mừng, bèn coi Hằng Nương là bạn thân chốn khuê phòng. Được vài mấy chợt Hằng Nương nói với Chu "Hai người chúng ta tình như ruột thịt, tự nghĩ không nên giấu diếm tung tích, trước đã định nói nhưng sợ chị nghi ngờ. Nay sắp từ biệt nên xin nói thật, thiếp chính là hồ. Thuở nhỏ thiếp gặp nạn, bị mẹ kế bán lên kinh đô, vì chồng thiếp đối xử tử tế nên không nỡ dứt tình ngay mới dùng dằng đến nay. Ngày mai cha thiếp trút xác lên tiên, thiếp phải về thăm không trở lại nữa". Chu cầm tay Hằng Nương than thở, sáng ra qua xem thì cả nhà đang hoảng hốt kinh sợ vì Hằng Nương đã biến đâu mất.
Dị Sử thị nói: Người mua ngọc không quý ngọc mà lại quý cái hộp đựng ngọc*. Tình người đối với mới, cũ, khó, dễ vẫn là điều ngàn xưa đến nay không sao hiểu được, nhưng cái thuật đổi ghét thành yêu đã được dùng trong chỗ đó rồi. Kẻ nịnh thần ngày xưa thờ vua thì ngăn vua gặp người, cản vua đọc sách, đủ biết việc giữ cho mình được sủng ái lâu dài cũng là điều tâm truyền đấy.
*Người mua ngọc... cái hộp đựng ngọc: Hàn Phi tử chép có người nước Sở bán viên ngọc cho người nước Trịnh, lấy gỗ mộc lan làm cái hộp đựng, sơn phết chạm trổ đẹp đẽ, người nước Trịnh bèn mua cái hộp mà trả lại viên ngọc.
070. Cát Cân (Cát Cân)
Thường Đại Dụng người đất Lạc (tỉnh Hà Nam), rất mê hoa mẫu đơn. Nghe nói mẫu đơn ở Tào Châu (tỉnh Sơn Đông) đứng đầu cả Tề Lỗ (vùng Sơn Đông), đã có ý tới tìm. Gặp lúc có việc tới Tào Châu, nhân thuê khu vườn của một nhà thân sĩ để ở. Lúc ấy mới tháng hai, mẫu đơn chưa có, sinh cứ bồi hồi trong vườn nhìn chằm chằm vào cành, mong thấy nụ hoa nhú ra, lại làm đủ một trăm bài thơ tứ tuyệt nhan đề Hoài mẫu đơn (Nhớ mẫu đơn).
Ít lâu sau mẫu đơn có nụ, tiền lưng đã cạn phải cầm bán quần áo, nhưng vẫn say mê với hoa quên cả chuyện về. Một hôm sáng sớm ra vườn hoa, thấy có một nữ lang cùng bà vú ở đó, ngờ là gia quyến nhà quan vội quay vào phòng. Chiều ra vườn lại thấy, họ thong thả tránh đi. Liếc nhìn thấy nữ lang mặc quần áo lối cung trang vô cùng xinh đẹp, đang lúc ngây ngất chợt nghĩ "Đây chắc là tiên chứ dưới trần há có được người như thế sao". Vội vàng quay lại tìm, vừa qua một hòn giả sơn thì giáp mặt bà vú. Nữ lang đang ngồi trên hòn đá, thấy sinh thì giật nảy mình. Bà vú đứng trước mặt nàng, quát "Cuồng sinh định làm gì?". Sinh quỳ rạp xuống nói "Nương tử đây ắt là thần tiên". Bà vú thét mắng "Ăn nói bậy bạ như vậy thật đáng trói lại giải lên quan lắm", sinh cả sợ. Nữ lang mỉm cười nói "Thôi ta đi", rồi họ vòng qua hòn giả sơn đi mất.
Sinh quay về, cất bước không nổi, nghĩ chắc nữ lang về kể lại với cha anh ắt mình phải chịu nhục nhã, nằm lăn trong phòng tự hối hận vì đã liều lĩnh. Rồi nghĩ may mà nữ lang không có vẻ tức giận, có lẽ nàng không để bụng. Vừa hối hận vừa lo sợ suốt đêm phát ốm, đến rạng ngày vẫn không thấy ai tới hỏi tội mới hơi yên lòng. Song nhớ lại dung mạo âm thanh của nàng thì lại đổi sợ ra nhớ, cứ thế ba ngày, người gầy rộc đi như sắp chết. Đêm thắp đèn ngồi đến khuya, đầy tớ đã ngủ say thì bà vú kia bước vào cầm một cái liễn đưa sinh nói "Nương tử Cát Cân nhà ta tự tay nấu tô canh thuốc độc này đây, uống mau đi". Sinh nghe thế phát hoảng, kế nói "Kẻ hèn này với nương tử vốn không có thù oán, sao lại ban cho tội chết? Nếu đã là nương tử tự tay sắc thì ốm tương tư mà chết không bằng uống thuốc độc mà chết", rồi ngửa cổ uống luôn. Bà vú cười cầm cái liễn đi. Sinh thấy vị thuốc thơm mát tựa hồ không phải là thuốc độc, giây lát thấy thân thể khoan khoái, đầu óc nhẹ nhàng, ngủ thiếp đi luôn.
Khi tỉnh thấy nắng đã soi sáng cửa sổ, thử trở dậy thì như đã khỏi bệnh, trong lòng càng tin nữ lang là tiên. Không biết làm sao gặp lại song lúc vắng người vẫn thấy phảng phất như nàng đang đứng đang ngồi, nên sinh lại vái lạy cầu khấn. Một hôm đi dạo chợt gặp phải nữ lang trong khóm cây rậm, không có ai khác bên cạnh. Sinh mừng quá lạy phục xuống đất, nữ lang tới gần đỡ dậy. Sinh chợt nghe mùi hương lạ tỏa ra khắp người nàng, liền nắm tay nàng đứng lên, thấy da thịt mềm mại khiến người ta nhũn cả xương cốt. Đang vừa muốn nói thì bà vú chợt tới, nàng bảo sinh núp vào sau tảng đá, chỉ về phía nam nói "Tối cứ theo cái thang trong vườn mà leo qua tường, chỗ bốn phía đều có cửa sổ sơn màu hồng là nơi thiếp ở", rồi vội vàng bỏ đi.
Sinh ngẩn ngơ mất cả hồn phách, không biết mình đang ở đâu. Đến đêm bắc thang leo lên bức tường phía nam thì bên trong đã có chiếc thang bắc sẵn, vui mừng leo xuống, quả thấy chỗ có cửa sổ sơn màu hồng, bên trong có tiếng gõ quân cờ. Sinh dừng lại không dám tới, lại leo qua tường quay về. Lát sau lại leo qua thì vẫn còn tiếng gõ quân cờ chan chát, tới gần nhìn thì thấy nữ lang đang ngồi đối diện với một mỹ nhân áo trắng, bà vú cũng ngồi đó, có một tỳ nữ đứng hầu, lại quay về. Qua lại ba lần, trống canh ba đã điểm. Sinh đang núp dưới chiếc thang bên này thì nghe bà vú đi ra nói "Ai đem cái thang ra bắc ở đây thế này?", rồi gọi tỳ nữ cùng đem cất. Sinh leo lên đầu tường, muốn xuống lần nữa thì không có thang, buồn bực quay về.
Đêm sau lại qua thì thang đã đặt sẵn trong tường, may là vắng vẻ không có ai. Vào tới nơi thì nữ lang ngồi một mình như đang nghĩ ngợi điều gì, thấy sinh giật mình đứng dậy thẹn thùng khép nép. Sinh chắp tay nói "Tự nghĩ mình phúc mỏng, sợ không có duyên phận với người tiên, ngờ đâu lại có đêm nay". Rồi ôm lấy nàng, thấy lưng ong nhỏ nhắn, hơi thở thơm phúc. Nàng đẩy ra nói "Sao mà gấp thế?", sinh đáp "Việc hay thường khó khăn, chậm trễ thì quỷ ghét!". Chưa dứt lời thì nghe có tiếng người xa xa, nàng vội nói "Em Ngọc Bản tới, chàng hãy tạm núp xuống gầm giường", sinh theo lời. Giây lát một cô gái bước vào cười nói "Tướng thua trận còn dám nói đánh nữa hay không? Ta đã pha trà sẵn, xin mời tới chơi luôn qua đêm". Cô gái lấy cớ mỏi mệt từ chối nhưng Ngọc Bản cứ cố mời, nàng ngồi lỳ không chịu đi. Ngọc Bản nói "Còn chần chừ nữa, hay là giấu trai trong phòng" rồi lôi nàng ra cửa đi mất.
Sinh lóp ngóp bò ra, hận quá liền lục chăn nệm mong tìm được một vật làm tin, nhưng trong phòng không có món nữ trang nào, chỉ có một cái như ý pha lê buộc mảnh khăn tía ở đầu giường trông xinh xắn đáng yêu, bèn nhét vào bụng. Kế leo qua tường, về tới nhà xếp áo thấy vẫn còn đượm hương thơm của nàng, càng thêm thiết tha ái mộ. Nhưng vì bị cái sợ chui dưới gầm giường nên lo bị khép vào tội lớn, nghĩ ngợi không dám quay lại nữa, chỉ giữ kỹ cái như ý chờ nàng tới tìm. Cách một đêm quả nhiên nữ lang tới, cười nói "Trước nay thiếp cho rằng chàng là bậc quân tử chứ không biết là kẻ trộm cắp". Sinh nói "Đúng thế đấy chứ, sở dĩ ngẫu nhiên có lúc chưa phải là bậc quân tử chỉ là vì mong được như ý thôi". Rồi ôm nàng vào lòng, cởi giải quần cho. Da ngọc vừa lộ ra, hương thơm đã tỏa khắp. Trong lúc ôm ấp vuốt ve thấy hơi thở mồ hôi của nàng đều thơm phức, nhân nói "Ta vẫn nghĩ nàng là bậc tiên nữ, nay càng thấy là đúng. Nay may được nàng đoái thương cũng là duyên kiếp ba sinh. Nhưng chỉ sợ Đỗ Lan Hương xuống trần một lúc*, cuối cùng sẽ thành mối hận biệt ly thôi".
* Đỗ Lan Hương xuống trần một lúc: Dung Thành tiên lục chép có người đánh cá ở Tương Giang ven hồ Động Đình nghe tiếng trẻ khóc, tới nhìn thì là một bé gái khoảng một hai tuổi bèn đem về nuôi, đến năm hơn mười tuổi thì dung mạo xinh đẹp lạ lùng, quả đúng như người tiên. Chợt có Đông Linh chân nhân trên không hạ xuống đưa nàng đi. Lúc ra đi cô gái nói với người đánh cá rằng "Ta là tiên nữ Đỗ Lan Hương, vì có lỗi bị đày xuống trần, nay xin từ biệt".
Nàng cười nói "Chàng nói quá lời! Thiếp chẳng qua như Thiến nữ lìa hồn* tình cờ động lòng vì tình thôi. Việc này phải thật kín đáo, chứ e lời thị phi đơm đặt trắng đen thì chàng không thể mọc cánh bay còn thiếp cũng không thể cưỡi gió trốn, lúc ấy tai họa còn thê thảm hơn biệt ly nhiều". Sinh cho là đúng nhưng rốt lại vẫn ngờ nàng là tiên, cứ cố hỏi họ tên. Nàng đáp "Chàng cho thiếp là tiên, mà đã là tiên thì cần gì phải lưu tên họ". Sinh lại hỏi bà vú là ai, nàng đáp "Đó là bà Tang. Thuở nhỏ thiếp được bà che chở nên không coi như hạng tôi tớ". Rồi trở dậy ra về, dặn "Chỗ thiếp ở có nhiều tai mắt, không thể ở lâu, lúc nào có cơ hội thiếp sẽ tới". Khi từ biệt nàng đòi cái như ý, nói "Vật này không phải của thiếp mà là của Ngọc Bản để quên". Sinh hỏi Ngọc Bản là ai, nàng đáp "Đó là em con ông chú", rồi trở gót quay về. Nàng đi rồi, chăn gối đều nhuốm mùi hương lạ.
* Thiến nữ lìa hồn: Thiến nữ tức Thiến Nương. Xem chú thích truyện Diệp sinh, quyển I.
Từ đó cứ hai ba đêm nàng lại tới một lần, sinh say mê chẳng nghĩ gì tới việc về quê mà đã hết sạch tiền, định bán ngựa. Nàng biết được, nói "Vì thiếp mà chàng hết tiền bán áo, lòng đã không nỡ, lại còn bán cả vật đỡ chân thì hơn ngàn dặm đường lấy gì mà đi? Thiếp có của riêng, có thể giúp chàng chút ít". Sinh từ chối, nói "Cảm lòng nàng yêu thương, dù thịt nát xương tan cũng không đủ đền đáp, thế mà còn tham lam hèn hạ để nàng tốn kém thì sao đáng gọi là người?". Nàng cố ép nói "Nhờ chàng một lúc" rồi cầm tay sinh dẫn tới dưới một gốc dâu, chỉ một hòn đá bảo vần đi. Sinh làm theo, nàng lại rút chiếc trâm trên đầu chọc vài mươi nhát xuống đất rồi bảo đào lên. Sinh làm theo, thấy lộ ra một cái miệng vò. Nàng mò vào trong lấy ra một đỉnh bạc khoảng năm mươi lượng, sinh giữ tay ngăn lại nhưng nàng không nghe, cứ lấy thêm hơn mười đĩnh nữa, sinh cố trả lại một nửa rồi lấp đất lại như cũ.
Một đêm nàng nói với sinh "Gần đây đã hơi có lời đồn, thế không thể lâu dài được, không thể không tính kế khác". Sinh cả kinh hỏi "Làm sao bây giờ. Tiểu sinh vốn lo xa nhưng nay vì chuyện nàng, thật như góa phụ thất tiết không thể tự chủ được. Xin nhất nhất vâng lời nàng, dù đao cưa rìu búa gì cũng bất kể". Nàng bàn cùng trốn đi, bảo sinh về trước, hẹn gặp nhau ở đất Lạc. Sinh sắp sửa hành trang về quê, định về trước đợi đón nàng, nhưng vừa vào tới nhà thì xe nàng đã tới cổng. Hai người lên sảnh cho gia nhân lạy chào, láng giềng tới mừng không ai biết là hai người đi trốn. Sinh nơm nớp lo sợ nhưng nàng vẫn thản nhiên, nói với sinh "Không nói là ngoài ngàn dặm thì ma quỷ cũng không biết được, dù có biết thì thiếp là con gái Trác Vương Tôn lại không bằng Tương Như* à?".
*Trác Vương Tôn... Tương Như: Hán thư chép con gái Trác Vương Tôn là Trác Văn Quân xinh đẹp, giỏi thi phú, hiểu âm luật nhưng góa chồng sớm. Tư Mã Tương Như tới chơi nhà Trác Vương Tôn thấy nàng xinh đẹp bèn gảy đàn hát khúc Phượng cầu hoàng để khêu gợi, Văn Quân bèn trốn theo Tương Như. Đây cô gái có ý nói sẵn sàng vì tình trốn theo người yêu.
Em trai sinh là Đại Khí, tuổi vừa mười bảy. Nàng nhìn thấy khen "Thật có bản căn thông tuệ, tiền đồ còn hơn chàng nhiều". Đại Khí sắp làm đám cưới thì vợ chưa cưới chết yểu, cô gái nói với sinh "Em Ngọc Bản của thiếp chàng đã thấy mặt rồi, dung mạo không xấu, tuổi cũng xấp xỉ, làm vợ chú ấy có thể nói là xứng đôi". Sinh nghe thế phì cười, đùa nhờ nàng làm mai. Nàng nói "Nếu muốn cũng không khó". Sinh mừng hỏi làm cách nào, nàng đáp "Em Ngọc Bản và thiếp rất thân thiết, chỉ cần hai con ngựa kéo chiếc xe nhẹ và một bà vú đi về thôi". Sinh sợ lộ chuyện trước không dám theo lời, nàng quả quyết không hề gì, lập tức sai thắng xe, bảo bà Tang đi. Vài ngày tới Tào Châu, tới gần cổng làng bà Tang xuống xe, bảo người đánh xe dừng lại đợi bên đường, nhân lúc trời tối vào làng, hồi lâu đưa Ngọc Bản ra lên xe phóng về, đêm nghỉ ngày đi. Cô gái tính ngày, bảo Đại Khí mặc quần áo đẹp đi đón, cách năm mươi dặm thì gặp nhau, đánh xe trở về, nổi nhạc kết đèn làm lễ cưới. Từ đó cả hai anh em cùng có vợ đẹp, gia cảnh ngày càng khá giả.
Một hôm có bọn cướp lớn vài mươi tên vào nhà, sinh biết có biến, gọi cả nhà lên lầu. Bọn cướp vào nhà tới vây chặt dưới lầu, sinh cúi xuống hỏi "Có thù oán gì với nhau chăng?"' Chúng đáp "Không có thù oán gì, nhưng có hai điều muốn xin. Một là nghe nói hai phu nhân nhà này xinh đẹp tuyệt thế, xin cho được thấy mặt một lần. Hai là năm mươi tám người ở đây, mỗi người xin năm trăm lượng vàng". Rồi chất củi dưới lầu, định dùng kế phóng hỏa để uy hiếp. Sinh ưng thuận nộp tiền nhưng chúng không thỏa ý, vẫn đòi đốt lầu, gia nhân cả sợ. Cô gái muốn cùng Ngọc Bản xuống lầu, ai ngăn cũng không nghe, thay áo quần lộng lẫy bước xuống, chưa hết ba bậc thì nói với bọn cướp "Chị em ta đều là người nơi tiên cung tạm thời xuống trần, sợ gì bọn giặc cướp. Muốn cho các ngươi ngàn vạn lượng vàng, chỉ e các ngươi không dám lấy thôi". Bọn cướp nhất tề ngước lên vái lạy, đồng thanh nói không dám. Hai chị em đang định trở lên, một tên thét "Trò bịp đấy". Nàng nghe thấy quay lại nói "Muốn gì cứ làm ngay đi, cũng chưa muộn mà"' Bọn cướp nhìn nhau im lặng, hai chị em ung dung bước lên lầu. Chúng nhìn theo đến khi hai nàng khuất bóng rồi mới ồn ào rút đi.
Sau hai năm, chị em mỗi người sinh một con trai, lúc ấy cô gái mới tự nói là họ Ngụy, mẹ được phong làm Tào Quốc phu nhân. Sinh ngờ là đất Tào không có nhà thế gia nào họ Ngụy, vả lại dòng họ lớn mà mất hai con gái đời nào chịu để yên, tuy không dám căn vặn tới cùng nhưng vẫn thầm ngờ vực. Bèn kiếm cớ trở lại đất Tào, vào địa giới đất Tào là hỏi thăm ngay nhưng không có nhà thế gia nào họ Ngụy. Bèn tìm đến nhà trọ cũ, chợt thấy trên vách có bài thơ Tặng Tào Quốc phu nhân, vô cùng kinh sợ lạ lùng. Bèn hỏi chủ nhân, chủ nhân cười, lập tức mời đi xem Tào Phu nhân, tới nơi thì là một gốc mẫu đơn cao ngang chái nhà. Hỏi vì đâu có tên ấy thì vì đó là thứ hoa đệ nhất đất Tào nên người ta mới phong đùa như vậy. Hỏi đó là giống gì, chủ nhân đáp là Tử Cát sinh càng sợ hãi, cho cô gái là tinh hoa.
Trở về cũng không dám hỏi han, chỉ kể lại chuyện bài thơ Tặng Tào phu nhân để dò ý. Cô gái chợt biến sắc bỏ ra ngay, gọi Ngọc Bản bế con tới, nói với sinh "Ba năm trước cảm lòng chàng nghĩ tới nên đem thân đền đáp. Nay đã ôm lòng nghi ngờ thì sao còn có thể chung sống được nữa?". Rồi lập tức ném con ra xa, hai đứa nhỏ rơi xuống chết ngay. Sinh đang hoảng hốt thì hai nàng đã biến mất, hối hận vô cùng. Vài hôm sau ở chỗ hai đứa nhỏ rơi chết mọc lên hai cây mẫu đơn, qua đêm đã cao một thước, ngay trong năm ấy nở hoa một màu tía, một màu trắng, đóa hoa to như cái mâm, tươi đẹp dày đặc hơn hẳn các giống Cát Cân, Ngọc Bản bình thường. Mấy năm sau hai cây mẫu đơn ấy tươi tốt thành bụi dày, nếu đem đi trồng nơi khác thì biến đổi không ra giống gì cả. Từ đó, nơi nhiều mẫu đơn không đâu hơn đất Lạc.
Dị Sử thị nói: Để lòng cả vào việc nhung nhớ thì có thể thông suốt tới cả quỷ thần, hoa kia lay động cũng không thể nói là vô tình vậy. Thiếu phủ cô quạnh còn coi hoa là phu nhân*, huống hồ là người đẹp biết nói cười, cần gì phải vất vả truy tìm cho tớì tận nguồn gốc lai lịch chứ! Tiếc cho Thường sinh chưa phải là kẻ đạt vậy.
*Thiếu phủ... phu nhân: lấy ý câu trong bài Hý đề tân tài tường vi của Bạch Cư Dị thời Đường "Thiếu phủ vô thê xuân tịch mịch, Hoa khai tương nhĩ đáng phu nhân" (Thiếu phủ xuân về buồn vắng vợ, Chờ khi hoa nở gọi phu nhân). Thời Đường thường gọi Huyện úy là Thiếu phủ, Bạch Cư Dị lúc ấy đang làm Huyện úy nên tự xưng như vậy.
071. Hoàng Anh (Hoàng Anh)
Mã Tử Tài người phủ Thuận Thiên, gia đình mấy đời rất chuộng hoa cúc, đến đời Tài thì càng say mê hơn, nghe ở đâu có giống cúc quý thì dù xa xôi ngàn dặm cũng tìm tới. Một hôm có người khách từ Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) tới trọ trong nhà, nói họ hàng bên ngoại mình có một vài giống cả phương Bắc không đâu có. Mã thích quá lập tức thu xếp hành trang theo tới Kim Lăng, khách tìm đủ cách mới tìm được cho hai cây. Mã giữ gìn như của báu, về tới giữa đường gặp một thiếu niên cưỡi ngựa theo sau một cỗ kiệu có mui, bèn tới gần bắt chuyện. Thiếu niên nói mình họ Đào, ăn nói rất phong nhã, nhân hỏi Mã từ đâu tới, Mã kể thật. Thiếu niên nói "Không có giống cúc nào không đẹp, chỉ là ở người chăm bón tưới tắm thôi". Nhân bàn tới thuật trồng cúc, Mã thích lắm, hỏi định đi đâu. Thiếu nỉên đáp "Chị ta chán đất Kim Lăng, muốn lên phương Bắc ở". Mã vui mừng nói "Nhà ta tuy nghèo nhưng lều tranh có thể ở tạm, nếu không chê hoang vắng bỉ lậu thì khỏi phải vất vả đi đâu cả" Đào phóng ngựa lên trước kiệu thưa với chị, người trong kiệu vén rèm trò chuyện, là một mỹ nhân tuyệt thế, tuổi khoảng hai mươi. Nàng nói với em trai "Nhà thấp nhỏ không sao nhưng vườn thì cần rộng". Mã gật đầu, hai chị em bèn theo Mã về.
Phía nam nhà Mã có một khu vườn hoang, trên có ba bốn gian nhà nhỏ, Đào mừng rỡ bèn vào đó ở. Hàng ngày qua nhà phía bắc giúp Mã trồng cúc, cúc đã chết khô thì nhổ lên rồi giâm xuống, cây nào cũng sống. Nhưng gia cảnh Đào thanh bần, hàng ngày ăn uống với Mã chứ xem trong nhà như không mấy khi nổi lửa. Vợ Mã là Lữ thị cũng rất quý chị Đào, thỉnh thoảng lại giúp cho gạo thóc. Chị Đào tiểu tự là Hoàng Anh, ăn nói khéo léo nhã nhặn, cứ qua chỗ Lữ thị cùng nhau may vá. Một hôm Đào nói với Mã "Nhà ông vốn không dư dật, hàng ngày ta lại vì miếng cơm làm lụy kẻ tri giao, cứ thế mãi sao được. Nay tính kế thì bán cúc cũng đủ mưu sinh". Mã vốn ngay thẳng nên nghe Đào nói thế rất khinh bỉ, nói "Ta cho rằng ông là kẻ cao sĩ phong lưu, có thể vui với cảnh nghèo, nay bàn như thế là lấy vườn cúc làm cái chợ, nhục cho cúc thật". Đào cười nói "Tay làm hàm nhai không phải tham, trồng hoa để sống không phải tục. Người ta vốn không nên mong giàu bậy bạ song cũng bất tất phải mong nghèo". Mã không nói gì, Đào đứng dậy ra về, từ đó cứ cành gãy mầm xấu bên nhà Mã bỏ đi thì nhặt hết đem về nhà mình, cũng không qua ăn ngủ với Mã nữa, Mã có mời mới qua.
Không bao lâu đến kỳ hoa cúc nở, Mã nghe bên cổng nhà Đào ồn ào như cái chợ, lấy làm lạ ra xem thì thấy khách buôn tới mua hoa, vai vác xe chở đầy đường. Nhìn tới hoa đều là giống lạ mắt chưa từng thấy, trong lòng ghét Đào tham lam, muốn tuyệt giao nhưng hận vì còn giữ kín giống lạ bèn gõ cửa qua định trách mắng. Đào ra dắt tay dẫn vào, thấy nửa mẫu sân bỏ hoang đều thành luống cúc, ngoài mấy gian nhà ra không còn đất trống, những chỗ vừa cắt cúc đi thì lấy cành khác dặm vào, hoa trên luống đều đẹp đẽ, nhìn kỹ đều là những thứ mình bỏ đi trước kia. Đào vào nhà lấy rượu thịt ra bày cạnh luống cúc nói "Ta nghèo không giữ được điều răn thanh bạch, bao nhiêu ngày mới may kiếm được chút ít, cũng đủ uống say"' Lát sau trong phòng có tiếng gọi Tam Lang, Đào dạ quay vào, giây lát đem ra các thức nấu nướng ngon lành. Mã nhân hỏi lệnh tỷ sao không xuất giá, Đào đáp chưa đến lúc. Mã hỏi lúc nào, Đào đáp bốn mươi ba tháng nữa. Mã lại gặng hỏi tại sao nói thế, Đào chỉ cười không đáp, hai người uống say rồi mới chia tay.
Hôm sau lại qua, thấy những nhánh cúc mới dặm đã cao gần thước lấy làm lạ bèn năn nỉ hỏi Đào cách trồng. Đào nói "Điều ấy không thể lấy lời mà truyền được, vả lại ông không trồng cúc để mưu sinh thì biết làm gì". Lại mấy hôm nữa, trong sân ngoài ngõ hơi vắng người mua, Đào bèn lấy chiếu cói bọc cúc, chất lên mấy xe chở đi. Giữa mùa xuân năm sau Đào mới chở hoa lạ ở phương Nam về, mở hàng bán hoa trong kinh đô, mười ngày thì bán hết sạch, kế lại về trồng cúc. Hỏi tới những người năm trước mua cúc của Đào giữ cây làm giống thì năm sau hoa đều thay đổi kém hẳn, lại phải mua của Đào. Đào vì thế ngày càng giàu có, năm đầu làm thêm phòng ốc, năm thứ hai xây nhà, việc xây cất cứ tùy ý không bàn với chủ nhân, dần dần vườn trồng cúc cũ đều là nhà cửa. Lại mua riêng một khu ruộng, xây tường chung quanh trồng toàn cúc, mùa thu chở hoa đi, cuối xuân vẫn không về. Kế vợ Mã chết, Mã muốn cưới Hoàng Anh nên nhờ người bắn tin, Hoàng Anh mỉm cười có vẻ ưng thuận, chỉ đợi Đào về mà thôi. Hơn năm Đào vẫn chưa về, Hoàng Anh đốc thúc tôi tớ trồng cúc giống hệt như Đào, có tiền lại càng buôn bán lớn, cấy cày đến hai mươi khoảnh ruộng tốt ngoài thôn, nhà cửa ngày càng bề thế. Bỗng có khách từ Đông Việt (tỉnh Quảng Đông) tới đem thư của Đào gới về, mở xem thì là Đào khuyên chị lấy Mã, xem lại ngày viết thư đúng là ngày vợ Mã chết. Mã nhớ lại lúc uống rượu trong vườn, tính đến đó vừa đúng bốn mươi ba tháng, vô cùng lạ lùng bèn đưa thư cho Hoàng Anh xem, hỏi nộp sính lễ ở đâu. Hoàng Anh từ chối không nhận sính lễ, lại vì chỗ ở cũ chật chội, muốn Mã qua ở bên khu nam giống như ở rể. Mã không nghe, chọn ngày đón dâu về nhà mình.
Hoàng Anh về với Mã rồi, mở cửa trên vách thông với khu nam, hàng ngày qua đó sai bảo đầy tớ. Mã xấu hổ vì vợ giàu, thường dặn Hoàng Anh làm sổ biên chép của cải hai khu để đề phòng bị lẫn lộn, nhưng những thức cần dùng, Hoàng Anh đều lấy ở khu nam. Chưa được nửa năm, vật dụng trong nhà đều là của nhà Đào, Mã lập tức sai người đem trả hết, dặn đừng lấy qua nữa. Chưa đầy một tuần mọi thứ lại lẫn lộn, mấy lần đem trả như thế, Mã không sao chịu nổi phiền phúc. Hoàng Anh cườí nói "Chàng Trần Trọng Tử* có mệt không?", Mã xấu hổ không kê biên gì nữa, nhất nhất theo ý Hoàng Anh. Hoàng Anh thuê thợ, mua vật liệu để dựng nhà, Mã không sao cản được, qua vài tháng thì lầu gác san sát, hai khu nhà hợp làm một không chia ranh giới nữa.
*Trần Trọng Tử: Cao sĩ truyện của Hoàng Phủ Mật chép ẩn sĩ Trần Trọng Tử nước Tề thời Chiến quốc là em Trần Đới đại quý tộc ở nước Tề, "ăn lộc muôn chung". Trần Trọng Tử cho rằng như thế là bất nghĩa, vì vậy dắt vợ trốn tới đất Ô Lăng nước Sở, chồng đan hài, vợ dệt vải để sống, được người ta coi là liêm. Nhân vật Hoàng Anh có ý chế nhạo.
Nhưng theo ý Mã nên gia đình đóng cửa không bán cúc nữa, song việc chi dùng còn hơn cả các nhà thế gia. Mã áy náy nói "Nết trong sạch ba mươi năm của ta vì nàng mà bị lụy. Nay sống ở đời mà mọi sự ăn ở đều nhờ vào vợ, thật không có chút phẩm giá đàn ông. Cho nên người ta đều muốn giàu mà ta chỉ muốn nghèo thôi". Hoàng Anh nói "Thiếp không phải là phường tham bỉ, nhưng nếu không dư dật chút ít thì ngàn năm sau người ta lại nói Uyên Minh* nghèo thấu xương, trăm đời không ngóc đầu nổi, nên phải xóa bỏ tiếng chê cười cho nhà Bành Trạch* chúng ta thôi. Nhưng kẻ nghèo mong giàu thì khó, còn kẻ giàu muốn nghèo vốn rất dễ, bao nhiêu tiền bạc trong nhà xin chàng cứ mặc ý phá tán, thiếp không tiếc đâu". Mã nói "Làm hao tổn tiền bạc của người khác thì tệ lắm". Hoàng Anh nói "Chàng không muốn giàu nhưng thiếp cũng không thể chịu nghèo. Thôi cứ ở riêng, ai trong cứ trong, ai đục cứ đục, có hại gì đâu?". Rồi sai cất một gian nhà tranh trong vườn, chọn tỳ nữ xinh đẹp cho tới hầu hạ Mã.
*Uyên Minh, Bành Trạch: Nam sử chép Đào Tiềm thời Tấn tự Uyên Minh, từng giữ chức Huyện lệnh Bành Trạch nên người ta còn gọi là Đào Bành Trạch, tính ngay thẳng thanh cao, rất thích hoa cúc. Chị em Hoàng Anh trong truyện này lấy họ Đào là có ý nói mình là hậu duệ của Đào Tiềm.
Mã yên lòng ra ở đó nhưng được vài ngày nhớ Hoàng Anh quá, sai gọi nhưng nàng không chịu tới bất đắc dĩ phải quay về, cứ cách một đêm một lần thành lệ. Hoàng Anh cười nói "ăn nhà đông ngủ nhà tây, kẻ liêm không nên như thế", Mã cũng phì cười không trả lời được, bèn lại ở chung như trước. Gặp lúc Mã có việc lên Kim Lăng đúng vào mùa cúc thu, sáng đi ngang hàng bán hoa thấy bày đủ thứ chậu, hoa đều rất đẹp, động lòng ngờ là cúc của Đào. Lát sau chủ nhân ra thì quả là Đào, mừng rỡ hàn huyên rồi ngủ lại đó. Mã nhân rủ Đào về, Đào nói "Kim Lăng là quê cũ của ta, ta sắp cưới vợ ở đây. Có dành dụm được ít tiền, phiền anh đem về cho chị ta, khoảng cuối năm ta sẽ về". Mã không chịu cố nài nỉ Đào về, lại nói "May gia cảnh đã phong túc, có thể ngồi mà ăn không cần phải buôn bán gì cả". Đào bèn ngồi trong hàng sai đầy tớ thay mình ngã giá bán rẻ, vài ngày thì bán hết hoa, vội thu xếp hành lý thuê thuyền về Bắc.
Vào nhà thì chị đã dọn dẹp phòng ốc, chuẩn bị giường chiếu chăn đệm như đã biết trước là em trai về. Đào từ khi về tới nhà thì cởi hành lý coi việc nhà, tu sửa hết nhà cửa vườn tược, hàng ngày chỉ cùng Mã uống rượu đánh cờ, không tiếp người khách nào. Anh chị muốn tìm vợ cho nhưng Mã không chịu, chị bèn sai hai tỳ nữ hầu hạ giường chiếu, qua ba bốn năm sinh được một gái. Đào vốn uống rượu rất hào, chưa ai thấy say. Mã có người bạn là Tăng sinh, tửu lượng cũng chưa ai bằng, gặp lúc ghé chơi, Mã bảo uống thi với Đào. Hai người thả sức uống rất vui vẻ, chỉ hận là biết nhau quá muộn. Uống từ giờ Thìn đến canh tư, tính ra mỗi người uống hết trăm bầu. Tăng say mèm ngủ luôn tại bàn, Đào đứng lên về phòng ngủ, ra tới luống cúc thì ngã vật xuống, ném cái áo bên cạnh hóa luôn thành cây hoa cúc cao bằng đầu người, mang hơn chục đóa hoa đều to bằng nắm tay. Mã khiếp đảm báo Hoàng Anh, Hoàng Anh vội tới nhổ cây cúc đặt trên mặt đất, nói "Sao mà say tới mức này?" rồi đắp cái áo lên, kéo Mã cùng đi, bảo đừng nhìn.
Sáng ra Mã tới thì thấy Đào nằm bên luống cúc, mới sực hiểu ra hai chị em là tinh cúc, từ đó càng thêm yêu kính. Từ ngày lộ tung tích, Đào uống rượu càng buông thả, thường viết thư mời Tăng tới uống rượu, chơi với nhau rất thân. Gặp ngày Tết Tăng tới thăm, dắt hai người đầy tớ mang theo một vò rượu trắng ngâm thuốc, hẹn cùng uống kỳ hết. Vò rượu gần cạn mà hai người vẫn chưa say lắm, Mã lại ngầm rót thêm rượu vào, hai người lại uống cạn. Tăng say khướt, bọn đầy tớ cõng về. Đào nằm lăn ra đất, lại hóa thành cây cúc. Mã thấy đã quen không sợ nữa, cứ theo đúng cách nhổ lên đặt trên đất rồi ngồi canh bên cạnh xem diễn biến. Hồi lâu lá cúc càng héo đi, Mã cả sợ mới báo với Hoàng Anh. Hoàng Anh hoảng hốt nói "Chết em ta rồi", rồi chạy ra xem thì cả gốc lẫn cành cúc đã khô héo. Nàng vô cùng đau xót, ngắt lấy cành hoa giâm vào chậu mang về phòng riêng, hàng ngày tưới bón chăm sóc. Mã vô cùng hối hận, rất oán Tăng, mấy ngày sau thì nghe tin Tăng chết vì say rượu. Nhánh cúc trong chậu dần nảy mầm, tháng chín đã trổ hoa, cành ngắn nụ mướt, ngửi có mùi thơm như rượu, đặt tên là "Túy đào" (Đào say), tưới bằng rượu thì rất tươi tốt. Về sau con gái Đào lớn lên lấy chồng nhà thế gia, còn Hoàng Anh đến trọn đời cũng không có gì khác lạ.
Dị Sử thị nói: Người của mây trắng trên núi xanh, say rượu mà chết*, đời đều thương tiếc nhưng chưa chắc họ đã không lấy đó làm điều khoái ý. Trồng loại hoa ấy trong sân thì như gặp mặt bạn hiền, như đối diện người đẹp, không thể không tìm cho được vậy.
*Người của... mà chết: Phó Kỳ người thời Đường, có bệnh không mời thầy thuốc, tự ghi mộ chí rằng "Kỳ là người của mây trắng núi xanh, say rượu mà chết". Đến năm tám mươi tuổi chết, dặn người nhà cứ để trần truồng mà chôn, kẻ thức giả cho là người phóng đạt.
072. Mê Sách (Thư Si)
Lang Ngọc Trụ người Bành Thành, cha làm quan Thái thú, lúc tại chức thanh liêm, được bổng lộc không mua ruộng đất nhà cửa, chỉ chứa sách đầy nhà. Đến đời Ngọc Trụ lại càng say mê, nhà nghèo khó phải bán hết đồ đạc nhưng một quyển sách của cha để lại cũng không nỡ bán. Khi cha còn sống từng chép thiên Khuyến học* dán bên phải chỗ ngồi, Lang hàng ngày vẫn ngâm nga, lại lấy the trắng bọc lại sợ mờ mất chữ, không phải vì công danh mà thật lòng tin rằng trong sách cũng có vàng có thóc.
*Thiên Khuyến học: tức bài thơ Khuyến học của vua Chân tông nhà Tống, nguyên văn như sau "Phú gia bất dụng mại lương điền, Thư trung tự hữu thiên chung túc. An cư bất dụng giá cao đường, Thư trung tự hữu hoàng kim ốc. Thú thê mạc hận vô lương môi, Thư trung hữu nữ nhan như ngọc. Xuất môn mạc hận vô nhân tùy, Thư trung xa mã đa như thốc. Nam nhi dục toại bình sinh chí, Ngũ kinh khuyến hướng song tiền độc" (Nhà giàu không cần mua ruộng nhiều, Trong sách tự có ngàn chung thóc. Ở yên chẳng cần xây gác cao, Trong sách tự có nhà kim ốc. Lấy vợ chớ hờn không mối mai, Trong sách có nàng mặt như ngọc. Ra đường chớ hờn không kẻ hầu, Trong sách ngựa xe nhiều lóc nhóc. Nam nhi muốn thỏa chí bình sinh, Sử kinh khuyên cố chuyên cần đọc)".
Ngày đêm mải mê đọc sách, mùa hè mùa đông cũng không bỏ bê, hơn hai mươi tuổi cũng không lo cưới vợ, chờ người đẹp trong sách tự tới. Bạn bè thân thích tới chơi cũng không buồn hỏi han chuyện trò, nói năm ba câu xong lại cất tiếng ngâm đọc, mặc khách tự về. Lần nào học quan về sát hạch cũng được lấy đứng đầu, nhưng thi mãi vẫn không đỗ. Một hôm Lang đang học, chợt có cơn gió lớn thổi bay sách, vội đuổi theo nhặt chợt chân bị sụt xuống đất, mò xem thì dưới hố có cỏ mục, đào lên thì là kho lúa của người xưa cất giấu, đã mục nát thành đất. Tuy không ăn được nhưng càng tin mấy chữ "ngàn chung thóc" là đúng nên càng chăm đọc sách.
Hôm khác bắc thang trèo lên giá sách cao, trong đống sách vở nhặt được chuỗi tiền vàng dài một thước, cả mừng cho rằng nghiệm với chữ "nhà vàng". Đưa cho người ta thì té ra là vàng mạ, không phải vàng thật, lòng thầm oán cổ nhân lừa mình. Không bao lâu người bạn cùng khoa với cha Lang ra làm Quan sát đạo ấy, tính mộ đạo Phật. Có người khuyên Lang cúng chuỗi tiền xây tháp Phật. Quan sát thích lắm ban cho Lang ba trăm đồng vàng và hai con ngựa. Lang mừng cho là chữ "xe ngựa, nhà vàng" đều đã nghiệm nên càng ra sức học hành nhưng đã ba mươi tuổi.
Có người khuyên lấy vợ, Lang nói "Trong sách có nàng mặt như ngọc, ta lo gì không có vợ đẹp". Lại học thêm hai ba năm vẫn không thấy gì, có người chế giễu. Lúc ấy trong dân gian ngoa truyền rằng "Chức Nữ trên trời trốn theo trai", có người nhân đùa Lang rằng "Cháu trời bỏ trốn chỉ vì ông thôi", Lang biết là đùa nên không buồn cãi. Một đêm đọc sách Hán thư tới quyển tám*, tới giữa quyển thấy hình một mỹ nhân cắt bằng lụa mỏng ép trong đó, hoảng sợ nói "Câu Trong sách có nàng mặt như ngọc là ứng vào đây chăng?", trong lòng chợt thấy buồn rầu.
* Hán thư tới quyển tám: Hán thư quyển này có chép tờ chiếu tháng 5 năm Bản Thủy thứ 4 đời Hán Tuyên đế, trong có câu "Phụ tử chi thân, phu phụ chi đạo, thiên tính dã" (Tình cha con, đạo vợ chồng là tính trời), có vẻ ám hợp với nội dung truyện này vì nhân vật Lang Ngọc Trụ không chịu lấy vợ.
Nhìn kỹ mỹ nhân thì thấy con mắt lông mày như người sống, sau lưng có chữ "Chúc Nữ" mờ mờ, vô cùng lạ lùng, hàng ngày cứ đặt lên trên sách xoay trở ngắm nghía đến nỗi quên ăn quên ngủ. Một hôm đang chăm chú nhìn thì mỹ nhân chợt nhỏm dậy ngồi trên sách mỉm cười, Lang khiếp đảm lạy sụp xuống trước bàn, khi ngẩng lên thấy nàng đã cao một thước, càng sợ lại lạy phục xuống. Mỹ nhân ung dung bước xuống đất, rõ ràng là một giai nhân tuyệt thế. Lang lạy hỏi là thần gì, mỹ nhân cười nóì "Thiếp họ Nhan tên Như Ngọc, chàng đã biết từ lâu rồi. Hàng ngày được chàng rủ mắt xanh, nếu thiếp không tới một phen e rằng ngàn năm sau không còn ai tin vào cổ nhân".
Lang mừng rỡ để ở cùng phòng, ngủ chung với nhau rất thân thiết, nhưng lúc chăn gối thì không làm sao cho ra đàn ông. Mỗi khi đọc sách là bảo cô gái ngồi cạnh, nàng bảo đừng học nữa nhưng Lang không nghe. Cô gái nói "Chàng sở dĩ không đỗ đạt là vì đọc sách đó thôi. Thử xem những người khoa bảng có mấy người đọc sách như chàng. Không nghe là thiếp bỏ đi đấy". Lang nghe theo nhưng chốc lát lại quên lời nàng, cất tiếng ngâm đọc. Giây lát ngoái tìm cô gái thì đã biến mất, hoảng hốt quỳ xuống cầu khấn nhưng vẫn không thấy đâu. Chợt nhớ tới nơi ẩn náu cũ của nàng, mở sách Hán thư kiểm kỹ lại, tới chỗ cũ quả tìm thấy. Gọi mãi vẫn không động, Lang quỳ xuống năn nỉ nàng mới bước ra, nói "Chàng còn trái lời thiếp thì quyết sẽ vĩnh biệt".
Rồi lấy bàn cờ cỗ bài ra hàng ngày cùng chơi, nhưng Lang không thích thú gì, cứ vắng nàng lại giở trộm sách ra đọc, sợ bị nàng biết nên ngầm cất quyển tám sách Hán thư vào chỗ khác để nàng không tìm thấy. Một hôm đang đọc say sưa thì cô gái tới, cho rằng nàng không biết, vội gấp sách lại thì nàng đã biến mất. Lang cả sợ, lục soát khắp sách vở không thấy, tới quyển tám sách Hán thư tới đúng trang cũ lại thấy, bèn lạy lục khấn khứa thề không đọc sách nữa. Cô gái bèn bước ra bắt cùng đánh cờ, nói "Nếu ba ngày đánh không khá thiếp sẽ đi đấy". Đến ngày thứ ba chợt một ván Lang thắng nàng hai quân, nàng bèn vui vẻ trao đàn bắt tập, hẹn năm ngày phải chơi được một khúc. Lang lo nhìn dây bấm phím, không rảnh mà nghĩ tới chuyện khác, lâu sau thì đã đàn đúng tiết tấu giai điệu, bất giác mừng rỡ múa lên. Cô gái bèn hàng ngày rủ uống rượu đánh bài, Lang vui thích quên cả việc đọc sách, nàng lại bảo ra ngoài kết bạn, vì vậy bỗng nhiên nổi tiếng sành đời.
Cô gái nói "Chàng có thể thi đỗ làm quan rồi". Một đêm Lang nói với cô gái "Phàm người ta nam nữ ở chung sẽ sinh con, nay ta với nàng ăn ở đã lâu mà sao không thấy gì cả?". Cô gái cười nói "Chàng hàng ngày đọc sách, thiếp đã nói là vô ích, nay quả chưa hiểu nổi một chương "Chồng vợ". Hai chữ "gối chăn" cũng có công phu chứ". Lang kinh ngạc hỏi công phu gì, nàng cười không nói. Lát sau ngầm bày vẽ, Lang thích lắm nói "Ta không nghĩ rằng cái lạc thú vợ chồng lại có chỗ không nói rộng ra được". Từ đó gặp người ta là kể, ai cũng che miệng cười. Cô gái biết được trách móc, Lang nói "Kẻ khoét ngạch trèo tường mới không dám kể ra, chứ cái lạc thú trong đạo thiên luân thì ai cũng thế, có gì mà kiêng kỵ". Qua tám chín tháng cô gái quả sinh một trai, thuê vú nuôi trông nom. Một hôm nàng nói với Lang "Thiếp theo chàng hai năm đã sinh con, có thể chia tay rồi, ở lâu sợ gây tai họa cho chàng, hối hận không kịp". Lang nghe nói khóc ròng, lạy phục xuống không đứng lên, nói "Nàng không nghĩ tới đứa nhỏ oa oa sao?". Cô gái cũng buồn rầu, hồi lâu mới nói "Nếu muốn thiếp ở lại thì phải phá tán hết sách vở đi", Lang nói "Đó là quê cũ của nàng, là tính mệnh của ta, sao nàng lại nói thế". Cô gái không ép, nói "Thiếp cũng biết là có số mệnh, nhưng không thể không báo trước".
Trước đây trong họ Lang có người nhìn thấy cô gái ai cũng giật mình, lại chưa thấy mai mối với nhà nào nên cùng cật vấn. Lang không biết nói dối nên cứ im lặng không đáp, mọi người càng ngờ vực, lời đồn đại dần tới quan huyện họ Sử. Sử người đất Mân (tỉnh Phúc Kiến), xuất thân Tiến sĩ, nghe chuyện động lòng muốn được thấy mặt người đẹp một lần bèn sai bắt Lang và cô gái. Cô gái nghe tin bỏ trốn biệt tích, quan huyện tức giận bắt Lang lột hết quần áo, cùm kẹp tàn nhẫn, mong cô gái sẽ tự tới. Lang gần chết vẫn không nói một lời, quan tra tấn đứa tỳ nữ, nó nói ra vài chuyện loáng thoáng. Quan cho là yêu quái bèn đích thân tới nhà Lang khám xét, thấy sách vở chất đầy nhà nhiều không kiểm xuể liền ra lệnh đốt, khói kết lại trước sân không tan, mờ mịt như mây mù.
Sau Lang được tha, xin được thư người học trò cũ của cha nên lấy lại được áo mũ nho sinh, năm ấy thì đỗ Cử nhân, năm sau đỗ Tiến sĩ. Nhưng trong lòng chứa chất căm hận, lập bài vị thờ Nhan Như Ngọc, sớm chiều khấn rằng "Nàng có khôn thiêng xin phù hộ cho ta được làm quan đất Mân". Sau quả được cử đi Tuần sát đất Mân, ở lại ba tháng tra hỏi các tội ác của Sử, tịch biên gia sản. Lúc ấy Sử có người anh em họ ngoại làm quan Tư lý đòi cưới ái thiếp, Sử nói thác là mua tỳ nữ gởi lại trong dinh. Khi vụ án kết thúc, Lang lập tức trở về, đưa cả người ấy theo.
Dị Sử thị nói: Vật trong thiên hạ, chứa cất thì bị oán ghét, ưa thích thì sinh ma quỷ, cô gái là yêu quái ma quỷ trong sách vở vậy. Việc giống như quái đản nhưng muốn trị cũng không phải không được, việc đốt sách chẳng cũng tàn ngược sao? Còn kẻ kia có lòng riêng tư ắt phải bị người căm hờn báo thù, than ôi, có gì lạ đâu!
073. Tề Thiên Đại Thánh (Tề Thiên Đại Thánh)
Hứa Thịnh người đất Duyện (tỉnh Trực Lệ) theo anh là Thành đi buôn bán tới đất Mân (tỉnh Phúc Kiến). Còn chưa cất hàng xong thì có người khách nói "Đại thánh thiêng lắm, hãy tới đền cầu khẩn". Thịnh chưa biết Đại thánh là thần nào bèn theo anh tới đó, vào thấy điện gác san sát nối nhau vô cùng tráng lệ đẹp đẽ. Vào điện cúng bái thấy tượng thần mình người đầu khỉ, té ra là Tề Thiên Đại thánh Tôn Ngộ Không, khách khứa đều kính cẩn vái lạy, không ai dám tỏ vẻ khinh nhờn. Thịnh vốn cương trực, cười thầm người đời ngu muội nên lúc mọi người thắp hương khấn khứa thì ngầm bỏ ra. Về tới nhà trọ, anh trách Thịnh không kính cẩn, Thịnh nói "Tôn Ngộ Không là truyện ngụ ngôn của ông Khưu* đặt ra, sao lại tin là có thật như thế? Mà giả như có thật thì bao nhiêu búa rìu sấm sét em xin chịu cả".
* Ông Khưu: tức Khưu Xử Cơ, người cuối thời Tống đầu thời Nguyên, đệ tử của Vương Trùng Dương phái Toàn Chân Đạo giáo, có đạo hiệu là Trường Xuân tử, được Thành Cát Tư Hãn mời qua Mông Cổ, có viết quyển Trường Xuân chân nhân Tây du ký. Nhân vật Hứa Thịnh trong truyện này lầm Tây du ký của Khưu Xử Cơ với Tây du ký của Thi Nại Am kể chuyện Huyền Trang thỉnh kinh.
Chủ quán trọ nghe gọi tên Đại thánh thì xua tay tái mặt như sợ Đại thánh nghe được, Thịnh thấy thế càng bô bô nói ầm lên, ai nghe thấy cũng bịt tai bỏ chạy. Đến đêm quả nhiên Thịnh bị bệnh, đầu nhức như búa bổ, có người khuyên tới đền tạ lỗi nhưng Thịnh không nghe. Không bao lâu thì đầu đỡ đau nhưng đùi lại nhức, qua đêm thì mọc một cái mụn nhọt lớn, cả chân đều lở lói, không ăn ngủ gì được, anh tới đền cầu khẩn thay nhưng không hiệu nghiệm. Có người nói thần phạt thì phải tự mình cầu khẩn, Thịnh rốt lại vẫn không tin, hơn một tháng thì những chỗ lở lành dần nhưng lại nảy ra một cái mụn nhọt khác đau nhức gấp bội. Thầy thuốc tới lấy dao cắt bỏ những chỗ thịt thối, máu chảy cả tô nhưng sợ người ta nói bị thần phạt nên cắn răng không rên rỉ.
Hơn tháng sau mới bình phục nhưng anh lại mắc bệnh nặng. Thịnh nói "Thế nào nào? Người kính thần cũng bị bệnh như vậy, đủ thấy là bệnh của ta chứ không phải do Ngộ Không". Anh nghe thế rất bực tức, trách em không đi cầu khấn cho mình. Thịnh nói "Anh em như chân tay, trước đây em chân tay lở lói còn không chịu đi cầu khấn, nay chẳng lẽ chân tay có bệnh mà đổi ý à?", rồi chỉ rước thầy cắt thuốc chứ không chịu đi cầu đảo. Anh uống thuốc xong thì lăn ra chết, Thịnh đau đớn uất ức trong lòng, mua quan tài liệm anh xong tới thẳng đền Đại thánh chỉ lên tượng thần kể tội, nói "Anh ta bị bệnh, nói là do người giận lây khiến ta không sao bày tỏ được, nếu như ngươi là thần thật cứ làm cho anh ta sống lại, ta sẽ lạy thờ làm sư phụ không dám nói gì khác, nếu không ta sẽ theo đúng cách ngươi đối xử với Tam Thanh mà đối xử với ngươi*, cũng có thể trút hờn cho anh ta nơi chín suối".
* Làm đúng cách ... với ngươi: Tây du ký kể Tôn Ngộ Không bảo hộ Tam Tạng đi lấy kinh tới nước Xa Trì, vua quan nước ấy trọng Đạo khinh Phật, Ngộ Không cùng Bát Giới, Sa Tăng nửa đêm lẻn vào nơi cúng Tam Thanh (tức Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thái Thượng Lão Quân, Linh Bảo Đạo Quân của Đạo giáo Trung Hoa) đem tượng Tam Thanh vứt vào nhà xí rồi hóa thành tượng Tam Thanh ăn uống. Đây nhân vật Hứa Thịnh có ý nói sẽ quăng tượng Tề Thiên Đại thánh vào nhà xí.
Đến đêm Thịnh nằm mơ thấy một người tới gọi đi, vào đền Đại thánh, ngẩng lên thấy Đại thánh lộ vẻ giận dữ quát mắng "Vì ngươi không chịu phục nên ta mới lấy đao của Bồ Tát xuyên qua chân ngươi, đã không biết tự hối lại còn ăn nói lằng nhằng. Lẽ ra ta đã tống ngươi xuống ngục Rút lưỡi dưới âm ty, nhưng nghĩ ngươi nhất sinh ngay thẳng nên mới tạm tha cho. Còn như anh ngươi bệnh thì vì ngươi rước gã lang băm về làm giảm tuổi thọ, chứ người khác dính líu gì vào đó? Nay mà ta không tạm thi triển chút ít pháp lực thì bọn ngông cuồng còn chưa chịu im mồm".
Rồi sai Thanh y sứ tới xin Diêm Vương, Thanh y sứ nói "Sau ba ngày thì danh sách ma quỷ đã báo lên Thiên đình, sợ Diêm Vương khó mà tha được"' Đại thánh bèn rút thiết bảng làm bút viết những gì không biết, rồi bảo Thanh y sứ cầm thư tới Diêm Vương. Hồi lâu Thanh y sứ trở về, Thành cũng theo về, vào quỳ xuống lạy tạ. Đại thánh hỏi sao chậm thế, Thanh y sứ bẩm "Diêm Vương không dám tự chuyên, cầm lệnh chỉ của Đại thánh lên báo với Bắc Đẩu* vì thế nên về chậm". Thịnh rảo bước lên vái lạy tạ ơn, Đại thánh nói "Đưa anh ngươi về ngay đi, nếu biết theo điều thiện thì ta sẽ ban phúc cho", anh em vừa mừng vừa tủi dắt nhau cùng về.
*Bắc đẩu: Tây du ký chép trên trời có hai tòa Nam tào Bắc đẩu coi sổ sách ghi việc sống chết của muôn vật, Nam tào coi sổ sinh, Bắc đẩu coi sổ tử.
Thịnh tỉnh dậy lấy làm lạ, vội tới mở quan tài ra xem thì quả anh đã sống lại bèn đỡ ra, hết sức cảm tạ pháp lực Đại thánh. Thịnh từ đó dốc lòng tin tưởng thờ phụng còn hơn cả người thường. Nhưng vốn liếng của hai anh em vì mắc bệnh đã hao mất một nửa, anh lại chưa thật khỏe, hai anh em cứ nhìn nhau buồn bã. Một hôm Thịnh ngẫu nhiên đi dạo ngoài thành, chợt gặp một người áo xám nhìn mình hỏi "Anh có chuyện gì lo lắng à?". Thịnh đang buồn rầu không biết nói với ai, bèn kể nhĩmg chuyện mình gặp. Người áo xám nói "Có một nơi phong cảnh rất đẹp, cứ tạm tới ngắm xem cũng đủ giải sầu". Hỏi ở đâu, người ấy chỉ nói không xa, Thịnh bèn đi theo.
Ra khỏi thành khoảng nửa dặm, người áo xám nói "Ta có thuật mọn, trong khoảnh khắc có thể tới nơi". Rồi bảo Thịnh ôm lưng mình, khẽ gật đầu một cái chợt có mây đùn lên dưới chân, nhảy vọt lên trên không biết là đi bao xa. Thịnh cả sợ nhắm mắt không dám mở ra, trong khoảnh khắc nghe người ấy nói "Tới rồi". Thịnh thấy thành quách trong vắt đủ màu sắc rực rỡ lạ lùng, kinh ngạc hỏi đây là nơi nào. Người ấy đáp "Đây là thiên cung" rồi rảo bước đi vào, càng đi càng lên cao, xa xa thấy một ông già, người áo xám mừng rỡ nói "Gặp được người này thì anh có phúc lắm", rồi giơ tay vái chào. Ông già mời vào nhà, pha trà mời khách nhưng chỉ bưng ra có hai chén chứ không nhìn ngó gì tới Thịnh. Người áo xám nói "Đây là đệ tử của ta, đi buôn bán ngàn dặm tới thăm tiên cung, xin ông tặng cho chút quà". Ông già sai tiểu đồng lấy ra một mâm đá trắng to bằng trứng chim sẻ, sáng loáng như băng, bảo Thịnh tự nhặt lấy.
Thịnh nghĩ cầm về có thể làm tửu lệnh uống rượu, bèn lấy sáu viên, người áo xám cho rằng quá ít bèn lấy thêm cho sáu viên nữa, đưa cả cho Thịnh bảo cất vào túi rồi chắp tay nói "Đủ rồi". Thịnh từ biệt ông già đi ra, người áo xám lại bảo bám vào mình rồi bay xuống, chốc lát đã tới mặt đất. Thịnh dập đầu thỉnh giáo tiên danh, người áo xám cười nói "Phép thuật đi trên mây vừa rồi gọi là Cân đẩu vân* đấy". Thịnh giật mình hiểu ra là Đại thánh, lại cầu xin giúp đỡ. Đại thánh nói "Vừa rồi là gặp Tài tinh, cho ngươi được lãi mười hai phần, còn muốn gì nữa".
*Cân đẩu vân: Tây du ký chép Tôn Ngộ Không có phép cân đẩu vân, uốn lưng một cái đã vượt được mười vạn tám ngàn dặm đường.
Thịnh lạy tạ, đứng lên nhìn thì Đại thánh đã biến mất. Thịnh trở về mừng rỡ kể lại với anh, cởi túi ra nhìn thì đá đã lặn cả vào thắt lưng rồi. Về sau cất hàng trở về, được lãi rất nhiều, từ đó cứ tới buôn bán ở đất Mân là vào đền khấn vái Đại thánh, người khác khẩn cầu có khi không hiệu nghiệm chứ Thịnh khẩn cầu thì điều gì cũng ứng nghiệm.
Dị Sử thị nói: Ngày xưa có người sĩ nhân đi ngang chùa, vẽ hình cây đàn tỳ bà lên vách rồi đi, đến khi quay về thì chùa nổi tiếng linh thiêng, lửa hương không dứt. Chuyện thiên hạ vốn không cứ phải có thật, người ta cho là thiêng thì thành thiêng thôi. Sao lại như thế? Vì lòng người hướng về thì vật cũng theo về vậy. Cứng cỏi ngay thẳng như Thịnh ắt phải được thần linh phù hộ, há cần tới ngọn kim thêu trong lỗ tai, lông tơ biến hóa, cân đẩu vân lên trời* sao? Rốt lại lại bị mê hoặc, cũng là kiến thức không đúng vậy.
* Kim thêu... lên trời: đều 1à những phép thuật của nhân vật Tôn Ngộ Không trong Tây du ký.
074. Thần ếch (Thanh Oa Thần)
Vùng Giang Hán thờ cúng thần ếch rất kính cẩn, trong đền không biết là bao nhiêu ngàn vạn con ếch, có con to bằng cái lồng. Có ai xúc phạm làm thần giận thì trong nhà liền có điềm lạ, ếch nhái nhảy cả lên bàn lên giường, thậm chí bám đầy trên vách không rơi xuống, nhà ấy sẽ gặp tai họa. Người ta sợ hãi cứ cúng tế cầu khẩn, nếu thần vui lòng thì khỏi. Đất Sở (tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc) có Tiết Côn Sinh lúc nhỏ thông minh, diện mạo tuấn tú. Năm lên sáu bảy tuổi có bà già áo xanh tới nhà tự xưng là sứ giả của thần, vào ngồi trò chuyện ngỏ ý thần muốn gả con gái cho Côn Sinh. Ông Tiết tính chất phác vụng về nghe thế rất không thích, liền lấy cớ con trai còn nhỏ để từ chối, nhưng tuy cố từ chối vẫn chưa dám hỏi cưới con gái nhà khác.
Được vài năm Côn Sinh dần lớn lên, dạm hỏi con gái họ Khương, thần nói với Khương "Tiết Côn Sinh là con rể của ta, sao ngươi dám ăn đồ cúng hả?". Khương sợ hãi trả lại sính lễ, ông Tiết lo lắng trai giới mang lễ vật ra đền khấn khứa, tự nói không dám kết thông gia với thần. Vừa khấn xong thì thấy cỗ bàn cúng tế đều có giòi lớn bò ra lúc nhúc cựa quậy, bèn đổ bỏ tạ tội rồi về, trong lòng càng sợ nhưng cũng chờ để nghe ngóng xem sao.
Một hôm Côn Sinh đi đường có sứ giả đón báo thần tuyên triệu, cố mời ghé lại, sinh bất đắc dĩ phải đi theo. Vào tới một phủ đệ cánh cổng sơn son, lầu gác hoa lệ, có ông già ngồi trên sảnh đường, trông như người bảy tám mươi tuổi. Côn Sinh vào lạy ra mắt, ông già sai kéo đứng lên, cho ngồi cạnh bàn. Giây lát đám tỳ nữ, vú già tụ tập lại nhìn ngó dày đặc chung quanh, ông già quay lại nói "Vào trong báo là Tiết lang tới". Mấy người tỳ nữ chạy đi, lát sau có bà già đỡ một nữ lang ra, khoảng mười sáu mười bảy tuổi, xinh đẹp vô song. Ông già chỉ nàng nói "Đây là tiểu nữ tên Thập Nương, ta tự cho rằng có thể sánh đôi với chàng, nhưng cha chàng lại cho là khác loài nên cự tuyệt, vậy thì do chàng thôi". Côn Sinh chăm chú nhìn Thập Nương, trong lòng yêu thích, im lặng không nói gì. Bà già nói "Ta đã biết là chàng ưng thuận, xin cứ về trước, sẽ lập tức đưa Thập Nương tới ngay". Côn Sinh vâng dạ rồi vội về kể vớì cha. Cha hốt hoảng không biết làm sao đành ưng thuận, sai con quay lại tạ ơn thần nhưng Côn Sinh không chịu đi.
Đang lời qua tiếng lại thì kiệu hoa đã tới ngoài cổng, cả đám tỳ nữ xúm xít đưa Thập Nương vào. Nàng lên sảnh đường làm lễ, cha mẹ chồng thấy mặt đều vui mừng. Ngay đêm ấy làm lễ hợp cẩn, cầm sắt rất hòa hợp. Từ đó vợ chồng thần thường giáng lâm nhà sinh, cứ thấy mặc áo đỏ là có tin vui, mặc áo tràng là có tiền bạc, vì vậy nhà ngày càng khá giả. Từ khi Côn Sinh cưới Thập Nương thì khắp nhà từ hàng rào đến cầu xí đều có ếch, mọi người không ai dám chửi bới giẫm đạp, chỉ có Côn Sinh tuổi trẻ ngông nghênh, vui thì thôi giận thì đạp cho chết chẳng thương xót gì lắm. Thập Nương tuy hiền lành nhu thuận nhưng hay giận, rất không thích việc ấy song Côn Sinh không vì có Thập Nương mà kiềm chế. Thập Nương bực tức nói năng có chỗ xúc phạm, Côn Sinh nổi giận nói "Ngươi cậy cha mẹ có thể gieo tai họa cho người ta à? Trượng phu có sợ gì con ếch?". Thập Nương nghe thế giận lắm, nói "Từ khi thiếp về đây thì nhà chàng ruộng thêm lúa, buôn thêm lời không phải là ít, nay cả nhà già trẻ đều được no ấm, lại như chim vọ mọc cánh rồi thì muốn mổ mắt chim mẹ sao?". Côn Sinh càng tức tối, nói "Ta đang ngại nhận thêm những thứ nhơ bẩn, không dám lưu lại cho con cháu, xin cứ chia tay cho sớm", rồi đuổi Thập Nương.
Cha mẹ vừa nghe tin thì Thập Nương đã đi rồi, bèn quát mắng Côn Sinh, sai mau đuổi theo giữ lại nhưng Côn Sinh căm tức không chịu. Đến đêm mẹ con đều ngã bệnh, trong người bứt rứt không ăn uống gì được. Ông Tiết sợ hãi tự mang roi tới đền thần tạ lỗi, thiết tha nài nỉ. Qua ba ngày thì hai người dần dần khỏi bệnh, Thập Nương tự quay về, vợ chồng lại đầm ấm như trước. Thập Nương hàng ngày cứ trang điểm xong là ngồi yên, không làm việc nội trợ, những áo quần giày tất của Côn Sinh đều nhờ mẹ khâu vá. Một hôm mẹ bực tức nói "Con trai đã có vợ còn làm phiền mẹ, nhà người ta thì con dâu hầu mẹ chồng, nhà này thì mẹ chồng hầu con dâu". Thập Nương nghe thấy tức tối lên thêm nói "Con buổi sớm tới thăm, buổi tối tới viếng, đạo thờ mẹ chồng còn gì khác nữa? Còn như việc con kém cỏi, thì thật không thể tiếc chút tiền thuê mướn mà chuốc khổ vào thân được". Mẹ không biết nói sao, hổ thẹn khóc lóc.
Côn Sinh vào thấy mắt mẹ có ngấn lệ, hỏi biết được chuyện giận dữ mắng Thập Nương, Thập Nương cứ giữ ý mình không chịu thua. Côn Sinh nói "Lấy vợ mà không được vui sướng thì chẳng bằng đừng có, cho dù làm con ếch già giận thì bất quá cũng chỉ gặp nạn dữ mà chết là cùng", lại đuổi Thập Nương, Thập Nương ra cửa đi thẳng. Hôm sau nhà Côn Sinh phát hỏa, lửa lan ra cháy rụi cả mấy gian, bàn ghế giường tủ đều thành tro. Côn Sinh tức giận tới đền thần quát mắng kể tội, nói "Nuôi con gái không thờ phụng được cha mẹ chồng, đã không dạy bảo gì mà lại còn bao che cái dở của con, thần là phải rất công bằng mà lại dạy người ta sợ vợ à? Vả lại việc bát đũa va chạm là do ta gây ra, không dính líu gì tới cha mẹ, muốn đâm chém cưa xẻ gì cứ nhằm vào ta thôi. Còn nếu không thế thì ta cũng đốt đền của ông để trả thù". Nói xong vác củi vào chất dưới điện định châm lửa, dân quanh đó xúm lại năn nỉ mới tức tối bỏ về, cha mẹ nghe được đều sợ tái mặt.
Đến đêm thần báo mộng cho thôn bên cạnh, sai cất lại nhà cho con rể, sáng ra thì kẻ mua gỗ người mướn thợ kéo tới làm nhà cho Côn Sinh, từ chối thế nào họ cũng không chịu thôi, hàng ngày có mấy trăm người gọi nhau trên đường. Không mấy ngày thì nhà cửa đều xây xong, mọi thứ đồ dùng đều đầy đủ. Vừa dọn dẹp đâu đấy thì Thập Nương đã tới, lên thềm tạ lỗi với cha mẹ, ăn nói nhỏ nhẹ từ tốn rồi quay qua Côn Sinh tươi cười cả nhà bèn đổi oán làm vui. Từ đó Thập Nương càng hiền dịu, suốt hai năm không có chuyện xích mích. Thập Nương rất ghét rắn, Côn Sinh đùa bắt một con rắn nhỏ bỏ vào hộp bảo nàng mở ra. Thập Nương biến sắc mắng nhiếc, Côn Sinh cũng đổi cười thành giận tức tối cãi vã, Thập Nương nói "Lần này thì không cần phải đuổi, xin vĩnh biệt từ đây", rồi ra cửa đi. Ông Tiết cả sợ đánh đòn Côn Sinh rồi tới tạ tội với thần, may mà không bị giáng họa nhưng cũng lặng ngắt không thấy đáp lại.
Hơn năm sau Côn Sinh nhớ Thập Nương, vô cùng hối hận, lén tới chỗ thần năn nỉ Thập Nương nhưng không ai trả lời. Không bao lâu nghe tin thần gả Thập Nương cho họ Viên, vô cùng thất vọng, cũng dạm hỏi người khác nhưng xem mặt mấy đám đều không có ai bằng Thập Nương, vì vậy càng thêm nhớ nhung. Tới nhà họ Viên nghe ngóng thì thấy họ đang quét dọn nhà cửa, sửa sang xe kiệu chuẩn bị đám cưới. Trong lòng thẹn thùng uất ức không thể tự chủ, bỏ ăn ngã bệnh, cha mẹ hoảng sợ lo lắng nhưng không biết làm sao. Chợt đang lúc mê man thấy có người vỗ về lay gọi, nói "Đại trượng phu mấy lần muốn dứt tình mà như thế này sao?", mở mắt nhìn thì là Thập Nương. Côn Sinh mừng quýnh nhảy bật dậy hỏi "Sao nàng lại tới đây?", Thập Nương đáp "Vì gã khinh bạc đối xử với nhau tệ bạc, chỉ nên nghe lời cha mẹ mà lấy người khác nên từ lâu đã nhận sính lễ của nhà họ Viên, có điều thiếp nghĩ đi nghĩ lại cũng không nỡ. Đêm nay đã là ngày cưới, cha lại cho rằng không mặt mũi nào trả lại sính lễ nên đích thân thiếp đem tới trả. Lúc đi cha thiếp đưa ra cửa nói: 'Con nhãi ngây không nghe lời ta, sau này có bị nhà họ Tiết đối xử tàn tệ thì có chết cũng đừng về đây nữa' ".
Côn Sinh cảm vì tình nghĩa của nàng chảy nước mắt ròng ròng, gia nhân cùng mừng rỡ chạy đi báo cho ông bà hay. Bà Tiết nghe tin không chờ nàng qua chào, vội tới phòng con trai nắm tay nàng òa khóc. Từ đó Côn Sinh cũng trở nên đứng đắn không đùa ác nữa, vợ chồng vì thế càng yêu thương nhau. Thập Nương nói "Trước đây thiếp cho rằng chàng là người khinh bạc, chưa chắc đã sống được với nhau đến lúc bạc đầu nên không dám lưu lại con cái nơi trần thế. Nay chàng đã không có ý khác, thiếp sẽ sinh con trai". Không bao lâu vợ chồng thần mặc áo đỏ giáng lâm nhà sinh, hôm sau Thập Nương lâm bồn, sinh một lần được hai con trai, từ đó hai bên đi lại không dứt. Dân quanh vùng nếu có ai xúc phạm làm thần giận cứ tới năn nỉ với Côn Sinh trước, sai đàn bà ăn mặc đẹp đẽ vào phòng vái lạy Thập Nương, nếu nàng cười thì được thần tha tội. Con cháu họ Tiết rất đông, người ta gọi là nhà Tiết ếch, nhưng người ở gần không dám gọi thế, chỉ có người ở xa gọi mà thôi.
075. Vãn Hà (Vãn Hà)
Tiết Đoan ngọ ở vùng Ngô Việt có trò đua thuyền rồng. Người ta chạm gỗ làm thuyền hình con rồng, vảy rồng sơn son thếp vàng, mạn thuyền đều chạm trổ, lấy gấm thêu làm buồm. Cuối thuyền là đuôi rồng, cao hơn một trượng, dùng dây vải kết làm sạp, có đứa con trai nhỏ ngồi trên đó múa may nhảy nhót diễn các trò khéo, bên dưới là sông sâu rất nguy hiểm. Cho nên thuê đứa trẻ ấy thường đưa nhiều tiền cho cha mẹ trước để dạy nó luyện tập, nếu rơi xuống nước chết cũng không được oán hận.
Ở vùng Ngô Môn (Tô Châu) thì cho các ca kỹ xinh đẹp đứng trên đuôi thuyền múa hát, cũng có khác nhau. Ở huyện Trấn Giang (tỉnh Giang Tô) có đứa nhỏ họ Tưởng tên A Đoan, mới bảy tuổi đã giỏi diễn những trò khéo không ai hơn được hết nên rất nổi tiếng. Năm mười sáu tuổi người ta vẫn còn thuê, nhưng thuyền đua tới núi Kim Sơn thì rơi xuống nước chết đuối, bà Tưởng chỉ có đứa con ấy nhưng cũng đành đau xót khóc lóc mà thôi.
A Đoan không biết mình đã chết, được hai người tới dẫn đi, thấy dưới nước cũng có một cõi trời đất riêng, ngoái nhìn thì thấy sóng nước vây quanh cao như vách núi. Chợt có cung điện hiện ra, thấy một người mặc giáp trụ ngồi trên điện, hai người kia nói "Đó là Long Oa quân", rồi bảo A Đoan vái lạy. Long Oa quân vẻ mặt ôn hòa vui vẻ nói "Tài khéo có thể cho vào ban Liễu Điều" hai người bèn dẫn A Đoan tới một chỗ bốn phía cung điện rộng rãi. Rảo bước lên hành lang phía đông thì có một bọn thiếu niên ra chào hỏi, đều khoảng mười ba mười bốn tuổi, kế có một bà già tới, mọi người gọi là bà Giải, lên ngồi sai diễn trò thử. Kế bèn dạy điệu múa Sấm ran sông Tiền Đường và khúc nhạc Gió dịu hồ Động Đình, chỉ nghe chiêng trống ầm ầm vang rền các cung điện. Khi tiếng chiêng trống đã tắt, bà già sợ A Đoan không thể nhớ hết, cứ dặn đi dặn lại. Nhưng A Đoan học qua một lần đã hiểu rõ cả, bà già mừng rỡ nói "Được thằng nhỏ này thật chẳng thua kém gì A Hà".
Hôm sau Long Oa quân tổng duyệt các ban ca vũ, các ban đều tập hợp cả lại. Đầu tiên duyệt ban Dạ Xoa, đều là mặt quỷ áo da cá, chiêng lớn chu vi khoảng bốn thước, trống thì khoảng bốn người ôm, tiếng như sấm sét, có gào thét cũng không nghe thấy gì. Ban ấy vừa múa thì sóng lớn nổi cuồn cuộn dâng lên ngang trời, liền có một điểm tinh quang trên trời sa xuống, tới đất thì tắt, Long Oa quân vội sai dừng lại. Sai ban Khổng Oanh ra, đều là mỹ nhân mười sáu tuổi thổi sinh gõ phách dìu dặt, liền có gió mát hây hây, tiếng sóng tắt hẳn, mặt nước êm ả trong suốt như một cõi pha lê nhìn rõ cả trên dưới, diễn xong thì đều lui vào đứng dưới thềm phía tây. Kế tới ban Yến Tử, đều kết bím tóc rũ xuống, trong có một nữ lang tuổi khoảng mười bốn mười lăm trở lại rung tay áo nghiêng búi tóc múa điệu Rắc hoa chập chờn qua lại, trên khắp người tung ra những đóa hoa ngũ sắc theo gió lả tả rụng xuống rải khắp trên sân, múa xong thì theo ban cũng lui vào dưới thềm phía tây.
A Đoan đứng bên cạnh nhìn trong lòng ưa thích, hỏi người cùng ban thì nàng ấy là Vãn Hà. Không bao lâu lại gọi tới ban Liễu Điều, Long Oa quân đặc biệt thử tài một mình A Đoan. Đoan liền múa theo điệu đã được dạy, vẻ vui mừng giận dữ hiện ra theo điệu nhạc, lui tới qua lại ăn khớp với tiết tấu, Long Oa quân khen là sáng dạ, thưởng cho nhung phục ngũ sắc và trâm cài đầu hình cá trên khảm ngọc dạ quang. A Đoan vái lạy tạ ơn rồi cũng rảo bước về thềm phía tây đứng vào ban. Đoan đứng giữa đám đông cứ nhìn Vãn Hà chằm chằm. Vãn Hà cũng từ xa chăm chú nhìn lại. Giây lát Đoan theo ban từ từ đi về phía bắc, Vãn Hà cũng thong thả theo ban đi về phía nam, cách nhau có mấy quãng đường phép nghiêm không dám làm rối loạn hàng ngũ, chỉ nhìn nhau ngây ngất mà thôi.
Kế duyệt tới ban Giáp Điệp, đều là đồng nam đồng nữ từng cặp ra múa, đứa cao đứa thấp, đứa lớn đứa nhỏ nhưng đều mặc áo quần màu trắng màu vàng một loạt như nhau. Các ban duyệt xong xếp hàng đi ra, ban Liễu Điều đi sau ban Yến Tử, Đoan rảo bước lên phía trên thì Vãn Hà đã thong thả lui về phía cuối, ngoảnh lại nhìn Đoan rồi cố ý đánh rơi chiếc trâm bằng san hô, Đoan vội nhặt lấy cho vào tay áo.
Về tới chỗ ở tơ tưởng thành bệnh bỏ ăn bỏ ngủ, bà Giải cứ mang thức ăn ngon tới cho, mỗi ngày ba bốn lần vào thăm hỏi, chăm sóc rất ân cần mà bệnh vẫn không hề giảm. Bà Giải lo lắng không biết làm sao, nói "Đã sắp đến ngày mừng thọ của Ngô Giang vương, làm sao bây giờ?". Chiều tối có một đồng tử tới vào ngồi bên giường trên chuyện với Đoan, tự nói là trong ban Giáp Điệp rồi thong thả hỏi "Anh bệnh vì Vãn Hà phải không?", Đoan giật mình hỏi sao biết, nó cười đáp "Chị Vãn Hà cũng như anh thôi". Đoan buồn rầu ngồi dậy nhờ tìm cách giúp cho, đồng tử hỏi "Anh đi được không?" Đoan đáp "Cố gắng thì cũng được", đồng tử bèn kéo Đoan ra, đi về phía nam, qua một cánh cửa thì vòng qua phía tây, lại mở hai lần cửa nữa thì thấy mấy mươi mẫu sen mọc trên đất bằng, tàu lá to như cái chiếu, cánh hoa to như cái lọng, đài hoa rụng xuống đất chất cao cả thước.
Đồng tử dẫn Đoan vào đó, nói "Cứ ngồi tạm ở đây" rồi đi. Giây lát một mỹ nhân rẽ hoa sen bước vào, thì là Vãn Hà. Hai nguời gặp nhau vừa mừng vừa sợ, cùng kể lể nỗi nhớ nhung rồi thuật qua chuyện mình. Kế lấy lá dằn lên lá sen che kín lại, vun đài hoa rụng làm chiếu rồi vui vẻ ân ái với nhau, kế hẹn chiều hôm sau gặp lại rồi chia tay. Đoan về thì bệnh cũng giảm từ đó ngày nào hai người cũng gặp nhau ở bãi sen. Qua vài hôm thì theo Long Oa quân tới chúc thọ Ngô Giang vương, chúc thọ xong các ban đều về, chỉ còn Vãn Hà và một người trong ban Khổng Oanh ở lại dạy múa trong cung Ngô Giang vương, vài tháng không có tin tức gì.
Đoan sốt ruột trông ngóng, thì có bà Giải hàng ngày lui tới phủ Ngô Giang vương, bèn bịa rằng Vãn Hà là em họ ngoại của mình, xin bà dẫn đi thăm mong được gặp mặt một lần. Nhưng ở lại trong phủ Ngô Giang vương mấy ngày mà cung cấm thâm nghiêm, Vãn Hà lại không sao ra được đành rầu rĩ trở về, hơn một tháng thì nhớ nhung mỏi mòn sắp chết. Một hôm bà Giải vào, đau xót chia buồn nói "Tiếc thay, Vãn Hà nhảy xuống sông tự tử rồi". Đoan kinh sợ chảy nước mắt ròng ròng không sao cầm được, vứt mũ xé áo mang vàng ngọc bỏ ra, định chết theo Vãn Hà, nhưng thấy nước trong sông như bức vách, ra sức lấy đầu húc mà vẫn không vào được cũng muốn quay về song sợ bị hỏi tới mũ áo tội sẽ nặng thêm, trong lòng quẫn bách, mồ hôi toát ra khắp người.
Chợt thấy trên vách sóng có một cây đại thụ bèn bám vào trèo lên, dần dần lên tới ngọn cây rồi hết sức nhảy xuống, may không bị ướt mà thấy mình nổi trên mặt nước. Trong lúc bất ngờ lại chợt thấy cõi trần, bèn bì bõm bơi đi. Giây lát vào tới bờ, lên khỏi bến sông nhớ tới mẹ già liền thuê thuyền về. Về tới quê nhìn cảnh vật bốn bề thấy như đã trải qua kiếp khác. Hôm sau về tới nhà, chợt nghe sau cửa sổ có người con gái nói "Con mẹ tới rồi", giọng nói rất giống Vãn Hà, kế cùng với mẹ bước ra, quả là Hà thật. Lúc ấy hai người mừng rỡ quên hết nỗi đau xót mà bà mẹ thì đau xót ngờ vực, sợ hãi mừng rỡ xen lẫn.
Lúc trước Vãn Hà ở trong phủ Ngô Giang vương thấy trong bụng máy động mà phép tắc dưới Long cung rất nghiêm, sợ một sớm một chiều lâm bồn sẽ bị trừng phạt mà không gặp được A Đoan lần nữa, chỉ muốn tìm cái chết bèn nhảy xuống sông tự tử. Thân thể nổi lên dật dờ trong sóng, được người khách đi thuyền vớt lên, hỏi tới quê quán thì Hà vốn là ca kỹ nổi tiếng ở đất Ngô chết đuối không tìm được xác, tự nghĩ không thể trở lại kỹ viện bèn nói "Họ Tưởng ở Trấn Giang là chồng ta", người khách bèn thuê thuyền cho về tới nhà. Bà Tưởng ngở là lầm, nàng nói là không lầm rồi kể rõ tình thật, bà thấy nàng xinh đẹp phong vận nên rất yêu mến. Kế lại nghĩ nàng còn quá trẻ, ắt không phải là kẻ chịu ở góa, nhưng cô gái rất cung kính hiếu thảo, thấy nhà nghèo bèn cởi châu báu trang sức bán được vài vạn đồng mang về, bà Tưởng thấy nàng không có ý gì khác rất mừng.
Nhưng vì không có con trai ở nhà nên sợ lúc nàng sinh nở thì họ hàng láng giềng không tin, cô gái nói "Cốt là mẹ được cháu nội thật chứ cần gì người ta biết", bà cũng yên lòng. Đến lúc ấy Đoan về, cô gái mừng quýnh, bà mẹ cũng ngờ là con không chết, lén đào mộ con lên thì hài cốt đều còn đó bèn đem chuyện căn vặn Đoan. Đoan mới sực hiểu nhưng sợ Vãn Hà chê mình không phải là người bèn dặn mẹ đừng nói ra, mẹ cho là phải bèn nói với láng giềng rằng cái xác vớt được trước đây không phải là con mình, nhưng rốt lại cũng sợ Đoan không thể sinh được con trai.
Không bao lâu Vãn Hà sinh được một con trai, bế thấy không khác gì trẻ con thường mới vui mừng. Lâu dần cô gái biết được A Đoan không phải là người bèn nói "Sao chàng không nói sớm, phàm là ma mà mặc áo của Long cung qua bốn mươi chín ngày hồn phách sẽ ngưng tụ lại chẳng khác gì người sống. Nếu có keo sừng rồng của Long cung thì có thể nối xương cốt mà sinh da thịt, tiếc là không mua cho sớm". Đoan bán viên ngọc của mình, có người khách buôn đất Hồ bỏ ra trăm vạn đồng để mua, nhờ đó trở thành giàu có cự vạn. Đến ngày mừng thọ mẹ thì vợ chồng múa hát dâng rượu, chuyện dần truyền tới phủ Hoài vuơng.
Vương muốn chiếm đoạt Vãn Hà, Đoan sợ hãi vào ra mắt vương tự tâu bày rằng hai vợ chồng đều là ma, vương sai xét nghiệm đều thấy không có bóng nên tin lời không bắt Vãn Hà nữa. Nhưng sai cung nhân ra biệt viện cho nàng dạy múa, Vãn Hà lấy nước đái rùa bôi lên mặt loang lổ che giấu dung mạo rồi mới tới ra mắt. Dạy được ba tháng họ cũng không sao học hết được tài múa, kế nàng trở về.
076 Bạch Thu Luyện (Bạch Thu Luyện)
Ở tỉnh Trực Lệ có Mộ sinh tự Thiềm Cung là con thương gia Mộ Tiểu Hoàn, thông minh ham học. Năm mười sáu tuổi cha cho rằng việc văn chương là viễn vông, bắt bỏ học đi buôn. Sinh theo cha tới đất Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc), mỗi khi trong thuyền rảnh rỗi lại ngâm nga đọc sách. Tới Vũ Xương (tỉnh thành Hồ Bắc), cha ở lại nhà trọ để giữ hàng, sinh nhân lúc cha đi vắng cầm sách đọc thơ, tiếng ngâm sang sảng, cứ thấy ngoài cửa sổ thấp thoáng như có người nghe trộm nhưng cũng chưa lấy gì làm lạ.
Một đêm cha đi uống rượu lâu không về, sinh càng cao giọng ngâm nga, thấy có người quanh quẩn ngoài song, trăng sáng nhìn thấy rất rõ, lấy làm lạ vội bước ra xem thì là một nữ lang tuyệt đẹp khoảng mười lăm mười sáu tuổi, thấy sinh vội vàng tránh đi. Hai ba ngày sau chở hàng về bắc, chiều tối đậu thuyền bên bờ hồ, cha vừa ra khỏi thuyền thì có bà già bước vào nói "Chàng giết con gái ta rồi". Sinh ngạc nhiên hỏi, bà đáp "Ta họ Bạch, có một gái tên Thu Luyện, cũng hơi biết chữ nghĩa, nói rằng lúc ở quận thành được nghe giọng ngâm thanh cao nên đem lòng nhớ nhưng đến nỗi bỏ cả ăn ngủ, ý muốn kết duyên, xin đừng chối từ". Sinh thật lòng rất thích nhưng còn lo cha giận, bèn nói thẳng với bà già, bà già không tin bắt phải thề nguyền, sinh không chịu. Bà giận nói "Việc nhân duyên ở đời, có kẻ xin mang sính lễ tới mà còn không được, nay già tự đứng ra làm mối cho con lại bị từ chối thì còn gì nhục bằng, vậy xin đừng nghĩ tới chuyện về Bắc nữa", rồi bỏ đi.
Lát sau cha về, sinh khéo léo kể lại, có ý mong cha chấp thuận nhưng cha vì đường sá xa xôi, lại có ý khinh rẻ các cô gái hoài xuân nên cười bỏ qua. Chỗ đậu thuyền nước sâu lút con sào, đến đêm cát sỏi chợt bồi lên, thuyền mắc cạn không xoay trở gì được. Hàng năm thuyền buôn trong hồ vẫn có người ở lại, đến mùa nước hoa đào năm sau hàng hóa nơi khác vẫn chưa kịp chở tới, những hàng trong thuyền đều tăng giá gấp trăm. Cha sinh vì vậy cũng không lo lắng gì lắm, chỉ tính cách làm sao sang năm về Bắc hàng vẫn được giá, bèn để con ở lại còn mình về nhà.
Sinh mừng thầm nhưng tiếc là không hỏi rõ nơi ở của bà già. Trời sập tối, bà già cùng một tỳ nữ dìu nữ lang tới, cởi áo khoác đặt nàng lên giường, kế nhìn sinh nói "Người ta bệnh tới mức này, xin đừng nằm khoèo làm ra vẻ vô sự nữa", rồi bỏ đi. Sinh vừa nghe thì hoảng sợ, cầm đèn tới nhìn cô gái thấy đang lúc đau ốm vẫn xinh đẹp, ánh mắt vẫn lóng lánh. Lại gần hỏi han, nàng chỉ cười khẽ. Sinh cố ép lên tiếng thì nàng nói "Câu Vì chàng tiều tụy, thẹn cùng chàng* là vịnh thiếp đấy".
* Vì chàng... cùng chàng: nguyên văn 1à "Vị lang tiều tụy khước tu lang", câu trong bài thơ của Thôi Oanh Oanh thời Đường gởi Trương Quân Thụy.
Sinh mừng quýnh muốn thân cận nhưng thương nàng còn yếu nên chỉ sờ tay vào bụng vuốt ve hôn hít làm vui. Cô gái chợt rạng rỡ mặt mày, tươi cười nói "Hãy ngâm cho thiếp nghe ba lần bài Áo là lớp lớp của Vương Kiến* thì sẽ khỏi bệnh". Sinh theo lời, ngâm đến lần thứ hai cô gái đã xốc áo ngồi dậy nói "Thiếp khỏi rồi", ngâm tiếp thì nàng cất giọng êm ái thỏ thẻ họa theo, sinh thần trí càng bay bổng bèn tắt đèn cùng ngủ. Trời chưa sáng cô gái đã dậy, nói "Mẹ già sắp tới rồi". Không bao lâu quả nhiên bà già tới, thấy con gái đang ngồi tươi tắn trang điểm bất giác mừng rỡ, giục về thì nàng cúi đầu không nói. Bà già lập tức ra về, nói "Ngươi thích vui đùa với lang quân thì mặc ngươi".
*Bài áo là... của Vương Kiến: nguyên văn là "Vương Kiến La y diệp diệp chi tác", tức bài Cung từ của Vương Kiến thời Đường, mở đầu bằng câu "La y diệp diệp tú trùng trùng" (áo là lớp lớp chập chùng thêu)
Sinh nhân hỏi nhà cửa ở đâu, cô gái nói "Thiếp với chàng chẳng qua là bạn mới quen, việc cưới xin còn chưa chắc chắn, cần gì phải biết nhà cửa, nhưng hai người vẫn yêu thương nồng mặn, thề thốt keo sơn. Một đêm cô gái chợt ngồi dậy, khêu đèn mở sách ra xem rồi buồn bã rơi lệ. Sinh vội dậy hỏi, nàng đáp "Cha chàng sắp tới đây, chuyện giữa hai ta mới rồi thiếp vừa mở sách bói một quẻ thì được bài Giang Nam khúc của Lý Ích*, ý bài thơ không phải là điềm hay". Sinh an ủi nói "Câu đầu bài thơ là Lấy chàng thương lái Cù Đường thì đại cát có gì là không hay". Cô gái mới hơi vui vẻ, đứng lên từ biệt, nói "Xin tạm chia tay, kẻo trời sáng lại nhiều người dòm ngó". Sinh cầm tay nàng nghẹn ngào hỏi "Nếu việc tốt đẹp thì báo cho nàng ở đâu?", cô gái đáp "Thiếp vẫn sai người dò la, việc tốt đẹp hay không là biết ngay". Sinh định lên bờ tiễn chân nhưng nàng cố từ chối rồi đi.
*Bài Giang Nam khúc của Lý ích: tức bài thơ của Lý ích thời Đường, nguyên văn là "Giá đắc Cù Đường cổ, Triêu triêu ngộ thiếp kỳ, Tảo tri triều hữu tín, Giá dữ lộng triều nhi" (Lấy chàng thương lái Cù Đường, Sớm hôm chờ đợi xót thương phận mình, Nếu hay con nước đáng tin, Đã theo con nước kết tình phu thê)
Không bao lâu quả ông Mộ tới, sinh dần dà thổ lộ tình thật, cha ngờ là dắt kỹ nữ về, nổi giận chửi mắng, đến khi xem kỹ trong thuyền thấy không mất mát chút gì mới thôi. Một đêm ông đi vắng, cô gái chợt tới, hai người buồn rầu nhìn nhau không biết làm sao. Nàng nói "Thấp cao có số, cứ lo việc trước mắt đã xin chàng ở lại thêm hai tháng rồi sẽ bàn tiếp". Lúc chia tay hẹn lấy tiếng ngâm thơ làm hiệu gặp nhau. Từ đó cứ cha đi vắng, sinh lại cao giọng ngâm nga thì nàng tới. Sắp hết tháng tư hàng hóa đều mất giá, đám khách buôn không biết làm sao bèn góp tiền sắm lễ vật tới cầu đảo ở miếu thần hồ. Sau tiết Đoan dương mưa to nước lên, thuyền mới đi được.
Sinh về tới nhà tương tư thành bệnh, ông Mộ lo lắng tìm đủ cách cầu cúng thuốc thang. Sinh nói riêng với mẹ "Bệnh của con chẳng có thuốc men cầu cúng nào chữa được, chỉ có Thu Luyện tới mới xong". ông Mộ lúc đầu nổi giận nhưng lâu sau thấy sinh ngày càng gầy gò héo hắt thì hoảng sợ, bèn thuê xe chở con trở lại đất Sở, xuống thuyền đậu đúng chỗ cũ. Hỏi người ở đó thì không ai biết bà già họ Bạch, vừa lúc có bà già ghé thuyền vào bờ, bước ra tự nhận là mình. Ông Mộ lên thuyền thấy mặt Thu Luyện mừng thầm, nhưng hỏi tới dòng dõi gia thế thì ra chỉ sống trên thuyền, trôi nổi đây đó mà thôi. Ông nhân nói thật bệnh của con trai, mong nàng tới thuyền mình để con bớt bệnh trước, nhưng bà già lấy cớ chưa định hôn ước nên không chịu.
Cô gái ngồi nghiêng chăm chú lắng nghe, thấy hai người tranh cãi thì rưng rưng muốn khóc. Bà già thấy mặt con gái như thế, lại vì ông Mộ năn nỉ quá nên cũng nhận lời. Đến đêm, ông ra ngoài, cô gái quả tới, lại gần giường khóc lóc, nói "Tình cảnh thiếp năm trước nay lại rơi vào chàng rồi ư? Mùi vị nó thế nào tưởng cũng phải để chàng nếm qua cho biết. Nhưng gầy rộc đi thế này, làm sao chữa khỏi ngay được? Xin vì chàng ngâm một bài thơ vậy". Sinh cũng mừng rỡ, cô gái bèn ngâm lại bài thơ của Vương Kiến ngày trước. Sinh nói "Đó là tâm sự của nàng, đem chữa cho cả hai người sao được. Nhưng nghe giọng nàng cũng đã thấy tâm thần khoan khoái, hãy thử ngâm bài Liễu hướng về tây ca vạn cành* cho ta nghe xem".
*Bài Liễu hướng về tây ca vạn cành: tức bài Xuân oán của Lưu Phương Bình thời Đường, nguyên văn là "Triêu nhật tàn oanh bạn thiếp đề, Khai liêm chỉ kiến thảo thê thê, Đình tiền thời hữu đông phong nhập, Dương liễu thiên điều tận hướng tây", (Sáng sớm quanh mình rộn tiếng oanh, Mở rèm chỉ thấy cỏ xanh xanh, Gió xuân thổi lộng trong đình viện, Liễu hướng về tây cả vạn cành).
Cô gái theo lời, sinh thích thú nói "Khoan khoái quá! Trước đây nàng đọc bài Hái sen trong tập Thi dư có câu Tốt tươi hương tỏa khắp mười gò* vẫn chưa quên, nay phiền nàng tốt giọng ngâm lên lần nữa", nàng lại theo lời. Vừa dứt tiếng, sinh nhảy ngay dậy nới "Tiểu sinh có bệnh gì đâu", rồi ôm ấp nhau như đã khỏi hẳn. Kế hỏi "Cha gặp mẹ nàng nói những gì? Việc có xong không?". Cô gái đã biết ý ông Mộ, nói thẳng rằng không xong rồi đi.
*Tốt tươi hương tỏa khắp mười gò: nguyên văn 1à "Hạm đạm hương liên thập khoảnh pha", chưa rõ xuất xứ.
Cha về thấy sinh đã dậy được mừng lắm nhưng chỉ lựa lời khuyên nhủ, nhân nói "Con bé rất đẹp, nhưng từ nhỏ đã ôm mái chèo gõ bánh lái ca hát, chưa nói tới chuyện là con nhà hèn mọn, cũng không thể là gái trinh", sinh im lặng. Cha vừa đi thì cô gái trở lại, sinh kể rõ ý cha. Nàng nói "Thiếp vừa nhìn đã biết ngay rồi. Việc đời cứ càng đeo đuổi thì càng xa lánh, càng săn đón thì càng cự tuyệt, cứ để ông tự đổi ý quay lại cầu cạnh nhau". Sinh hỏi kế, nàng đáp "Kẻ buôn bán thì chỉ mong được lợi thôi. Thiếp có thuật biết được giá cả hàng hóa, mới rồi thấy các hàng hóa trên thuyền chẳng thứ nào có lời chút gì. Hãy nói với cha chàng muốn lãi gấp ba thì mua hàng này, muốn lãi gấp mười thì mua hàng này, về tới nhà nếu đúng thì thiếp đúng là dâu hiền rồi. Lúc trở lại thì chàng mười tám tuổi còn thiếp mười bảy, còn có ngày sum vầy, có gì phải lo".
Sinh đem lời nàng nói lại với cha, cha không tin lắm nên tạm đem nửa số tiền còn thừa mua những hàng nàng dặn. Sau khi về, những hàng ông mua đều lỗ nặng, may có ít hàng mua theo lời cô gái được lãi lón nên bù lại được, vì thế phục Thu Luyện là thần. Sinh còn khoe khoang rằng cô gái tự nói có thể giúp mình thành giàu có, vì thế ông Mộ lại mang thêm nhiều tiền xuống Nam. Tới hồ mấy ngày không thấy bà già họ Bạch, qua mấy hôm nữa mới thấy bà đậu thuyền dưới gốc liễu bèn đem sính lễ tới. Bà không nhận gì cả, chỉ chọn ngày lành đưa con gái qua thuyền sinh, ông Mộ thuê một thuyền khác cho con làm lễ hợp cẩn. Cô gái bèn bảo ông xuống Nam, hàng nào cần mua đều viết ra giấy đưa ông, bà già bèn mời rể qua ở thuyền mình.
Ba tháng sau ông Mộ trở lại, hàng hóa mới về tới đất Sở đã tăng giá gấp đôi. Khi sắp về, cô gái xin chở theo một ít nước hồ, về tới nhà mỗi lần ăn cơm lại rưới vào một ít như chan tương. Vì vậy lần nào xuống Nam ông cũng mang về cho vài vò. Ba bốn năm sau nàng sinh một trai. Một hôm cô gái khóc muốn về thăm nhà, ông Mộ bèn dẫn cả con và dâu cùng tới đất Sở. Tới hồ không biết bà già ở đâu, cô gái gõ mạn thuyền gọi mẹ, thất sắc giục sinh theo ven hồ tìm hỏi. Vừa lúc có người câu cá tầm hoàng câu được một con cá ngựa trắng, sinh tới gần xem thì là một con cá lớn hình dáng như người, có đủ cả vú và âm hộ. Sinh về kể lại, cô gái hoảng hốt nói trước kia có lời nguyền phóng sinh, bảo sinh mua thả ra. Sinh tới thương lượng nhưng người câu cá đòi giá rất cao. Cô gái nói "Thiếp ở nhà chàng nghĩ cách kiếm ra tiền không dưới bạc vạn, mà sao lại khư khư tiếc nhau bấy nhiêu. Nếu không nghe thì thiếp nhảy xuống hồ chết quách cho rồi".
Sinh sợ, không dám nói với cha, lấy trộm tiền mua cá thả ra. Khi quay về không thấy cô gái, tìm mãi không được, đến khuya nàng mới về. Hỏi đi đâu, nàng đáp "Vừa về nhà mẹ". Hỏi mẹ ở đâu, nàng nói "Hôm nay thì không thể không thưa thật, con cá chàng vừa chuộc chính là mẹ thiếp đấy. Trước sống ở hồ Động Đình, được Long quân giao coi việc khách qua lại. Gần đây trong cung muốn tuyển phi tần, nhiều người đồn đại là thiếp xinh đẹp, nên có sắc chỉ trị tội mẹ để đòi thiếp. Mẹ thiếp tâu thật nhưng Long quân không nghe, đày mẹ xuống bến Nam, gần chết đói nên mới mắc nạn. Nay tuy thoát nạn nhưng vẫn chưa được xóa tội. Nếu chàng yêu thiếp thì hãy thay thiếp khẩn cầu với Chân quân, mẹ có thể được yên lành. Còn nếu thấy khác loài mà ghét bỏ thì xin trả con cho chàng, thiếp đi. Hầu hạ ở Long cung chưa chắc đã không gấp trăm lần ở nhà chàng".
Sinh cả sợ, lo không gặp được Chân quân, nàng nói "Giờ Mùi ngày mai Chân quân sẽ tới, cứ thấy vị đạo sĩ thọt chân thì phải phục xuống lạy ngay, ông ta xuống nước cũng phải xuống theo. Chân quân thích kẻ văn sĩ, ắt sẽ rủ lòng thương xót". Kế lấy ra một vuông lụa bóng mượt như bụng cá nói "Nếu Chân quân hỏi muốn xin điều gì thì đưa cái này ra xin ông viết cho một chữ Miễn". Sinh theo lời chờ, quả có một đạo sĩ khập khiễng đi tới. Sinh lạy phục xuống, đạo sĩ bước mau đi, sinh rảo theo sau. Đạo sĩ ném gậy xuống nước rồi nhảy lên trên, sinh cũng lội xuống nước lên theo, thì không phải gậy mà là một chiếc thuyền. Sinh lại sụp xuống lạy, đạo sĩ hỏi cần gì, sinh đưa vuông lụa ra xin viết chữ. Đạo sĩ giở ra nhìn, nói "Đây là vẩy cá ngựa trắng, sao ngươi có được?', Thiềm Cung không dám giấu, kể rõ đầu đuôi, đạo sĩ cười nói "Loài này rất phong nhã, con rồng già làm sao hoang dâm được". Bèn rút bút ra viết ngoáy một chữ "Miễn" như đạo bùa, rồi quay thuyền ghé bờ bảo sinh lên. Kế thấy đạo sĩ đạp cây gậy rẽ nước mà đi, phút chốc đã mất dạng.
Sinh về thuyền, cô gái mừng rỡ, dặn đừng nói lộ cho cha mẹ biết. Sau khi về nhà hai ba năm, ông Mộ xuống nam mấy tháng không về, bình nước hồ cạn dần mà chờ mãi không thấy. Cô gái bỗng lâm bệnh, ngày đêm thở dốc, dặn sinh "Nếu thiếp chết thì đừng chôn, cứ đúng các giờ Mão, Ngọ, Dậu lại ngâm một lần bài thơ Đỗ Phủ mộng thấy Lý Bạch, thì chết rồi thây vẫn không nát. Chờ khi nước về rót vào bồn rồi đóng cửa, cởi áo thiếp ra, ôm thiếp dầm vào trong nước, thiếp sẽ sống lại". Thở thoi thóp vài hôm, nàng lịm đi mà chết. Nửa tháng sau ông Mộ về, sinh vội làm theo lời, ngâm nước khoảng một giờ thì nàng dần dần tỉnh lại. Từ đó nàng thường có ý muốn về nam. Sau ông Mộ mất, sinh chiều ý nàng dời nhà xuống sống ở đất Sở.
077. Hòa Thượng Họ Kim (Kim Hòa Thượng)
Hòa thượng họ Kim là người Chư Thành (tỉnh Sơn Đông), cha là kẻ vô lại, đưa mấy trăm đồng tiền đem Kim lên gởi vào chùa trên núi Ngũ Liên. Kim lúc nhỏ ngu si đần độn không thể học kinh, chỉ làm được những việc chăn heo đi chợ như tôi tớ. Sau sư phụ của Kim chết, cũng có chút ít tiền bạc để lại, Kim cuỗm đi trốn khỏi chùa làm nghề buôn bán, rất giỏi những việc treo dê bán chó, tráo đấu lường thăng nên chỉ mấy năm vụt trở nên giàu có. Bèn mua ruộng đất nhà cửa ở làng Thủy Pha, đệ tử rất đông, hàng ngày có hàng ngàn người ăn cơm, quanh làng có mấy ngàn mẫu ruộng tất đều là của Kim, trong làng có vài mươi gian nhà lớn đều là sư ở. Nếu là người khác thì cũng là kẻ nghèo khó không sản nghiệp nên dắt vợ con tới đó ở nhà thuê làm ruộng mướn mà thôi, có mấy trăm gia đình như thế.
Mỗi nhà thì cất phòng sát tường san sát cho họ ở, sư thì ở giữa, phía trước có sảnh đường, rường sơn cột chạm sơn son thiếp vàng lóa mắt, bàn ghế bình phong trong sảnh bóng loáng có thể soi được. Phía sau thì làm phòng ở, rèm đỏ màn thêu xông lan xạ thơm phức, giường nằm chạm trổ khảm xà cừ, trên giường trải nệm dày hơn thước, trên vách thì treo kín các bức vẽ mỹ nhân sơn thủy nổi tiếng. Trong nhà gọi to một tiếng thì ngoài cổng có mấy mươi người dạ ran như sấm ào ào chạy vào xếp hàng im lặng lắng tai nghe lệnh. Khách tới bất ngờ thì trong vòng mười mâm có thể bày lên trong chớp mắt, cơm canh rượu thịt ngon lành bưng lên tới tấp. Chí là không dám công nhiên nuôi ca kỹ nhưng cũng có mười mấy tiểu đồng đẹp trai, đều lanh lợi khéo léo có thể làm vừa lòng người, sai đội khăn đen ca hát thì người nghe kẻ xem cũng không thấy chướng.
Kim mỗi lần ra khỏi nhà thì trước sau có vài mươi kỵ mã đeo cung dẹp đường, bọn tôi tớ đều gọi là gia gia, dân trong huyện người gọi là ông, người gọi là chú chứ không gọi là sư hay Thượng nhân, cũng không gọi theo pháp hiệu. Môn đồ Kim ra ngoài thì nghi vệ có kém hơn nhưng áo đẹp ngựa khỏe cũng gần như các công tử con quan. Kim lại giao du rộng, cho dù ngoài ngàn dặm cũng biết được tin tức, vì vậy các quan lớn nhỏ trong vùng nếu ngẫu nhiên làm Kim mất lòng cũng run sợ lo lắng. Nhưng Kim là người thô lỗ, từ đầu tới chân không có chút nào là văn nhã, bình sinh không đọc một câu kinh, tụng một câu sấm, chân không lui tới chùa chiền, phòng không bày biện chuông mõ, những vật ấy thì bọn môn đồ chưa từng thấy mà cũng chưa từng nghe. Phàm những gia đình tới thuê nhà ở thì phụ nữ trang sức như gái kinh đô, phấn sáp gương lược đều do sư cấp, sư cũng không bỏn xẻn. Vì vậy các gia đình không có ruộng mà làm nông trong vùng có tới vài trăm.
Thỉnh thoảng lại có chuyện tá điền giết sư trên giường, Kim cũng không tra xét gì lắm, chỉ đuổi đi nơi khác, dần dần thành lệ. Kim lại mua trẻ con khác họ nuôi làm con mình, rước thầy về dạy cho học hành. Đứa nhỏ thông minh học giỏi, bèn sai vào học trường huyện, kế theo lệ mua cho chức Thái học sinh. Không bao lâu y lên thi hương ở phủ Thuận Thiên đỗ Cử nhân, từ đó Kim được gọi là Thái công, những người gọi là gia gia trước đây càng khúm núm, con cháu của họ đều chắp tay làm lễ với Kim như ông tổ mấy đời.
Không bao lâu Thái công chết, Hiếu liêm mặc tang phục cư tang, tự xưng là con mồ côi, các môn đồ chống gậy đứng đầy quanh giường, nhưng sau linh sàng chỉ có một mình phu nhân Hiếu liêm khe khẽ sụt sùi mà thôi. Sĩ phu có người dắt vợ ăn mặc đẹp đẽ tới điếu tế an ủi, mũ lọng xe kiệu chen chúc tắc cả đường. Ngày chôn cất thì nhà táng cao chạm mây, cờ phướn rợp mặt trời, khi chôn thì bó cỏ dán giấy vàng bạc ngũ sắc làm vật tuẫn táng, gồm mấy mươi cỗ kiệu, một ngàn con ngựa, một trăm mỹ nhân. Làm thần dẹp đường đội khăn gấm đen, đầu cao chạm mây, nhà đám thì lầu gác phòng ốc rộng tới mấy mẫu, ngàn cửa trăm cổng, ai vào cũng lạc không biết đường ra, những vật đưa lên cúng tế đều không thể gọi tên.
Những người tới dự đám tang mũ lọng chen nhau, các quan lớn cũng lom khom vào quỳ lạy tám lần, các Giám sinh, Cống sinh và quan nhỏ ở huyện thì bò ra đất dập đầu làm lễ không dám để công tử và các sư thúc lạy trả. Cả vùng đổ tới xem đám ma, đàn ông dắt vợ, đàn bà bế con mồ hôi nhễ nhại đứng đầy đường, tiếng người ồn ào át cả tiếng chiêng trống, người đứng chỉ hở có từ vai trở lên, hàng vạn cái đầu ngoảnh qua ngoảnh lại mà thôi. Có kẻ có thai chuyển bụng sinh nở thì chị em bạn kéo xiêm giáng quanh làm màn che, nghe tiếng trẻ khóc cũng không buồn hỏi là trai hay gái, lập tức xé áo làm tã bế lên rồi kẻ dìu người kéo sản phụ chập choạng bước đi, thật là kỳ quan vậy! Sau khi chôn cất xong, đem những tiền của Kim để lại chia đôi, con Kim một phần, các môn đồ một phần. Hiếu liêm được nửa gian nhà, bốn phía nam bắc đông tây toàn là sư ở nhưng đều là hàng anh em, đau ngứa gì cũng có nhau.
Dị Sử thị nói: Một phái ấy thì hai dòng* chưa có, sáu tổ** không truyền, có thể nói là một mình mở ra một pháp môn vậy. Nhưng vẫn nghe ngũ uẩn đều không, lục trần không nhiễm là Hòa thượng, trong miệng thuyết pháp, trên ghế tham thiền là Hòa dạng, giày thơm đất Sở, nón nặng trời Ngô là Hòa chàng, chiêng trống ồn ào, đàn sáo ầm ĩ là Hòa xướng, chơi bời lăng nhăng, cờ bạc bợm bãi là Hòa chướng. Như Kim là Hòa thượng chăng, là Hòa dạng chăng, là Hòa chàng chăng, là Hòa xướng chăng, hay là Hòa chướng ở địa ngục chăng?
* Hai dòng: tức Nam tông và Bắc tông trong Phật giáo đại thừa Trung Hoa.
** Sáu tổ: tức sáu vị sau Đạt Ma trong Phật tâm tông của Phật giáo đại thừa Trung Hoa, gồm Tuệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn, Tuệ Năng, Thần Hội.
078. Nhà Sư Ăn Xin (Cái Tăng)
Ở Tế Nam (tỉnh thành Hà Nam) có một nhà sư, không rõ gốc gác ở đâu. Hàng ngày đi chân đất mặc áo vá, lê la trước các hàng quán bên hồ Phù Dung tụng kinh khuyến hóa, song ai cho cơm rượu tiền gạo gì đều không nhận, hỏi có cần gì khác không thì không đáp, thường cả ngày không thấy ăn uống. Có người khuyên nói "Sư đã không ăn rau lại chẳng uống rượu thì đi khuyến hóa trong thôn cùng ngõ vắng cũng được, cần gì phải mỗi ngày mỗi tới nơi ồn ào náo nhiệt như thế này?", sư cứ chắp tay tụng kinh, rủ đôi lông mi dài một tấc xuống như không hề nghe thấy. Lại hỏi nữa, sư mới mở mắt lớn tiếng đáp "Ta muốn khuyến hóa như vậy", rồi tiếp tục tụng kinh, hồi lâu mới bỏ đi.
Có người đuổi theo, hỏi tại sao phải khuyến hóa như vậy, sư cứ đi không đáp. Hỏi ba bốn lần, lại lớn tiếng nói "Ngươi không biết được đâu, lão tăng muốn khuyến hóa như vậy". Mấy hôm sau chợt ra ngoài phía nam thành, nằm dài như xác chết ở cạnh đường ba ngày không động đậy. Dân ở đó sợ sư chết đói thì liên lụy tới thôn xóm, họp nhau kéo tới khuyên nên đi chỗ khác nằm, muốn cơm sẽ cho cơm, muốn tiền sẽ cho tiền. Sư cứ nhắm mắt không lên tiếng, mọi người bèn lay gọi. Sư giận, rút trong áo ra một lưỡi đao ngắn tự rạch bụng, thò tay vào kéo ruột ra bày lên đường rồi đứt hơi chết. Mọi người khiếp sợ báo lên quan rồi đem chôn qua loa. Ngày khác chỗ ấy bị chó moi lên lộ manh chiếu bó thây ra, đạp lên thấy như không có gì, mở ra xem thì manh chiếu vẫn gói kín như cũ nhưng chỉ như cái kén rỗng.
079. Rồng Dời (Chí Long)
Quan Thông chính sứ họ Khúc ở đất U Lục (thuộc tỉnh Sơn Đông) đọc sách trên lầu, gặp lúc trời mưa mù mịt, thấy một con dời nhỏ sáng như đom đóm cựa quậy trên bàn, bò qua khỏi chỗ nào thì chỗ ấy cháy đen. Dần dần bò lên quyển sách, quyển sách cũng bị cháy. Ông nghĩ là rồng bèn bưng quyển sách lên tiễn đi, nhưng ra tới ngoài cửa đứng chờ hồi lâu vẫn thấy nằm bất động bèn nói "Hay là cho rằng ta không cung kính?". Bèn bưng quyển sách trở vào đặt lại lên bàn, đội mũ mặc áo vái dài rồi lại bưng ra. Vừa tới ngoài thềm thì con dời ngẩng đầu duỗi thân rời quyển sách bay lên, rít gió thành tiếng thành một đạo ánh sáng kéo dài. Ra được vài bước thì quay nhìn lại ông, đầu như cái vò, dài mấy mươi vây. Lại uốn lộn một hồi thì có tiếng sét nổ ầm ầm, vọt thẳng lên mây đi mất. Quay vào nhìn chỗ nó vừa bò qua thì thấy từng đoạn từng đoạn như tre bị đốt vậy.
080. Cái Búi Tóc Nhỏ (Tiểu Kết)
Huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông) có người dân là Mỗ đang ngồi chơi thì có người khách thấp lùn tới, ngước mặt trò chuyện hồi lâu, thấy bình sinh không hề quen biết, cố nhớ lại. Khách nói "Ba bốn hôm nữa sẽ dời tới đây làm láng giềng". Qua bốn năm hôm lại tới nói "Hôm nay đã là cùng làng, xin được sớm tối dạy bảo cho". Mỗ hỏi ngụ ở đâu, người ấy không nói rõ, chỉ lấy tay chỉ về phía bắc. Từ đó ngày nào cũng tới, có khi hỏi mượn vật dùng chén bát, nếu có ai bủn xỉn không cho thì tự nhiên bị mất, mọi người cùng nghi là hồ.
Phía bắc thôn có ngôi mộ cổ, sâu không biết là bao nhiêu, mọi người ngờ hồ ở đó, cùng nhau vác gậy gộc khí giới tới nằm rình, hồi lâu không thấy gì lạ. Đến hết canh một thì nghe dưới mộ có tiếng lào xào như hàng trăm hàng ngàn người trò chuyện, mọi người im lặng không động đậy. Giây lát có đám người lùn khoảng hơn một thước lũ lượt kéo ra, đông không biết bao nhiêu mà kể. Mọi người cùng quát tháo vùng dậy xô vào đánh túi bụi, đánh trúng thì trên gậy lửa bắn tứ tung, trong chớp mắt bọn kia chạy tứ tán. Chỉ còn lại một cái búi tóc nhỏ bằng trái hồ đào bọc lụa buộc dây kim tuyến, ngửi thử thì hôi tanh vô cùng.
081. Hoắc Sinh (Hoắc Sinh)
Hoắc sinh và Nghiêm sinh ở huyện Văn Đăng (tỉnh Sơn Đông) lúc nhỏ vẫn đùa giỡn với nhau, lớn lên cũng hay chọc ghẹo nhau, lấy miệng lưỡi hơn thua, chỉ sợ không bằng đối thủ. Hoắc có bà già láng giềng từng đỡ đẻ cho vợ Nghiêm, ngẫu nhiên trò chuyện với vợ Hoắc, nói rằng chỗ kín của vợ Nghiêm có hai mụn cóc, vợ bèn kể lại cho Hoắc. Hoắc bèn cùng chúng bạn bàn tính, rình lúc Nghiêm vừa tới, cố ý nói thầm với nhau rằng "Ta quá rành vợ y". Chúng bạn làm ra vẻ không tin, Hoắc bèn bịa đặt đủ cả đầu đuôi rồi nói "Nếu không tin, thì chỗ kín của vợ y có hai cái mụn cóc"' Nghiêm dừng lại ngoài cửa sổ nghe thấy hết bèn không vào, quay về nhà chửi mắng đánh đập vợ. Người vợ không chịu nhận, Nghiêm đánh đập càng tàn nhẫn, vợ không chịu nổi treo cổ tự tử.
Hoắc vô cùng hối hận nhưng không dám nói thật với Nghiêm là mình bịa đặt. Vợ Nghiêm chết rồi, đêm đêm cứ hiện hồn về khóc lóc, cả nhà không sao ở yên. Không bao lâu Nghiêm bị bạo bệnh mà chết, hồn ma mới không khóc nữa. Vợ Hoắc nằm mơ thấy vợ Nghiêm xõa tóc gào lớn rằng "Ta chết rất khổ, vợ chồng người lại muốn yên vui à?", tỉnh dậy mắc bệnh vài ngày thì chết. Hoắc cũng nằm mơ thấy vợ Nghiêm xỉa xói chửi mắng, lấy tay vả vào miệng mình, hoảng sợ tỉnh dậy thấy trên môi dau nhức, cứ sưng to dần, ba ngày thì biến ra hai cục thịt thừa thành tật luôn, không dám cười nói lớn tiếng vì há mồm to thì đau không chịu nổi.
Dị Sử thị nói: Kẻ chết rồi mà có thể làm hại là vì bị oan ức. Tật chỗ kín mà lại đem lên môi, thần linh thật như đùa cợt vậy. Trong huyện có họ Vương hay đùa giỡn với bạn học là Mỗ. Vợ Mỗ về thăm cha mẹ ruột, Vương biết con lừa nhà Mỗ nhút nhát bèn ra trước chỗ bụi rậm rình sẵn, chờ người đàn bà tới liền nhảy xổ ra. Con lừa hoảng sợ lồng lên hất người đàn bà ngã xuống, chỉ có một thằng nhỏ theo hầu không sao giữ được con lừa cho nàng leo lên. Vương bèn ân cần tới giúp đỡ, nàng cũng không biết là ai. Vương về lấy đó làm chuyện đắc ý, kể rằng nhân lúc thằng nhỏ đuổi theo con lừa thì mình đã tư thông với vợ Mỗ trong bụi, tả lại quần áo giày tất của nàng rất rõ ràng, Mỗ nghe thế xấu hổ bỏ về. Lát sau Vương nhìn qua cửa sổ thấy Mỗ một tay cầm dao, một tay kéo vợ tới trông rất hung dữ, cả sợ trèo qua tường bỏ chạy, Mỗ đuổi theo suốt hai ba dặm không kịp mới bỏ về. Vương vì ra sức chạy, phế quản bị giãn ra nên từ đó mắc bệnh thở khò khè, mấy năm không khỏi.
Quyển V
082. Hồ Đùa Giỡn (Hồ Hài)
Vạn Phúc tự Tử Tường là người huyện Bác Hưng (tỉnh Sơn Đông). Từ nhỏ theo đòi nghiệp nho, nhà cũng hơi khá giả nhưng thi cử lận đận, hơn hai mươi tuổi vẫn không đỗ đạt gì. Ở quê có lệ xấu là bắt các nhà giàu ra làm lý dịch, có người phải khuynh gia bại sản. Vạn bị ép làm chức ấy, sợ quá trốn tới Tế Nam (tỉnh thành Sơn Đông) vào nhà trọ ở. Đêm có cô gái tới khêu gợi, cũng khá xinh đẹp, Vạn thích bèn giao hoan. Hỏi họ tên, cô gái nói "Nói thật ta là hồ, nhưng không làm hại chàng đâu". Vạn mừng rỡ không ngờ vực gì, nàng dặn đừng ở chung với ai, từ đó ngày nào cũng tới ăn ở cùng phòng, phàm mọi chi dùng hàng ngày đều do hồ chu cấp.
Không bao lâu có vài người quen tới thăm chơi, thường ngủ lại không về. Vạn chán ghét nhưng không nỡ cự tuyệt, bất đắc dĩ phải nói thật. Khách xin được chiêm ngưỡng dung nhan người tiên một lần, Vạn nói với hồ, hồ nói với khách "Gặp ta làm gì? Ta cũng như mọi người thôi", nghe tiếng nói rõ ràng trước mắt, nhưng nhìn quanh thì không thấy đâu. Khách có người tên Tôn Đắc Ngôn giỏi khôi hài, cố xin được thấy mặt, lại nói được nghe giọng oanh, thần hồn điên đảo, sao lại tiếc không cho thấy dung nhan khiến người ta nghe tiếng mà tương tư. Hồ cười đáp "Cháu hiền muốn vẽ bức tranh hành lạc* cho bà cố à?", khách khứa đều cười.
*Bức tranh hành lạc: nguyên văn là "hành lạc đồ", vẽ những hình ảnh trai gái giao hoan, đại khái là loại tranh ảnh khiêu dâm.
Hồ nói "Ta là hồ, xin kể chuyện hồ cho khách nghe, chịu không?". Mọi người đều ừ, hồ kể "Xưa ở quán trọ làng nọ có nhiều hồ, thường ra quấy phá khách trọ, khách khứa qua lại biết được, dặn nhau đừng trọ ở đó. Nửa năm sau hàng quán vắng vẻ, chủ trọ lo lắm, rất kiêng nói tới hồ. Chợt có người khách từ xa tới, tự nói là người nước ngoài, thấy quán trọ nên vào nghỉ. Chủ trọ mừng lắm mời vào, liền có người đi đường lén nói với khách rằng "Nhà này có hồ". Khách sợ, nói rõ với chủ trọ rồi định qua trọ chỗ khác, chủ trọ ra sức phân trần rằng đó là lời bịa đặt.
Khách bèn ở lại, vào phòng vừa nằm xuống thì thấy bầy chuột từ gầm giường chạy ra, khiếp đảm nhào ra ngoài la hoảng "Có hồ". Chủ nhân sợ hãi hỏi han, khách oán trách nói "Hồ làm hang ở đây, sao nói dối ta là không có". Chủ nhân lại hỏi thấy hình thù nó thế nào, khách đáp "Ta nay mới thấy, nó ngắn ngắn nhỏ nhỏ, không phải hồ con ắt là hồ cháu". Vừa dứt lời thì khách khứa đều cười ầm. Tôn nói "Nếu không cho thấy mặt thì bọn ta sẽ ngủ lại, mà ai đó cũng đừng đi mà bỏ lỡ giấc mộng Dương Đài"*. Hồ cười đáp "Cứ ngủ lại không sao, nếu có hơi xúc phạm thì xin đừng để bụng". Khách sợ bị chơi ác bèn cùng tan về.
*Giấc mộng Dương Đài: bài tựa Cao Đường phú của Tống Ngọc viết vua Sở ra chơi đầm Vân Mộng, đêm mộng thấy một người con gái tới xin hầu chăn gối, khi chia tay nàng ấy nói "Thiếp là thần nữ ở núi Vu Sơn sớm làm mây, tối làm mưa, sáng sáng chiều chiều ở dưới Dương Đài", sau người ta thường dùng tích này để chỉ việc ái ân trai gái.
Kế cứ vài ngày lại tới, đòi hồ trêu cợt. Hồ rất giỏi khôi hài, cứ lên tiếng là khách cười nghiêng ngửa, nhưng kẻ có tài hoạt kê cũng không thể hơn được, mọi người đùa gọi là Hồ nương tử. Một hôm bày tiệc họp mặt, Vạn ngồi ghế chủ, Tôn và hai người khách nữa chia ngồi hai bên, đặt một cái giường phía sau mời hồ, hồ từ chối là không hay rượu. Có người xin cứ ngồi nói chuyện, hồ ưng thuận. Rượu được vài tuần, mọi người bày trò gieo xúc xắc làm tửu lệnh "qua man"*, khách trúng mặt dưa bị phạt, đùa đưa chén qua giường nói "Hồ nương tử là bậc đại tỉnh, xin uống giùm một chén". Hồ cười đáp "Ta vốn không uống được, xin kể một câu chuyện góp vui với các vị". Tôn bịt tai ra vẻ không muốn nghe, mọi người đều nói "Nếu chửi xỏ người thì phải chịu phạt đấy". Hồ cười hỏi "Thế ta chửi xỏ hồ được không?", mọi người đáp "Được", rồi lắng tai nghe.
*"Qua man": nghĩa đen là dây dưa bò lan, chưa rõ thể thức luật chơi cụ thể.
Hồ kể "Xưa có một ông quan lớn đi sứ nước Hồng Mao*" đội mũ lông hồ vào yết kiến quốc vương nước ấy. Quốc vương thấy cái mũ lạ, hỏi lông gì mà vừa dày vừa mềm như thế. Ông quan lớn ấy thưa là lông hồ. Quốc vương nói bình sinh chưa từng nghe nói tới, vậy chữ "hồ" viết ra sao? Ông quan lớn bèn lấy tay vạch lên không, tâu "Bên phải là một qua lớn, bên trái là một khuyển nhỏ**", chủ khách lại cười ầm.
*Nước Hồng Mao: tức Anh.
**Bên phải... nhỏ: đây là theo lối chiết tự trong chữ Hán, hồ có ý nói xỏ người khách ngồi bên trái Vạn tức Tôn là "khuyển" (chó), vì người bên phải đã gieo trúng mặt "qua" (dưa).
Hai người khách kia là hai anh em họ Trần, một tên Sở Kiến, một tên Sở Văn, thấy Tôn bị áp đảo quá bèn nói "Hồ đực đâu mà để hồ cái ác hại thế này?". Hồ nói "Có một câu chuyện kể chưa xong đã bị sủa loạn làm ngắt quãng, xin kể nốt. Quốc vương Hồng Mao thấy sứ thần cưỡi một con la, rất lạ lùng. Sứ thần thưa "Đây là do con ngựa đẻ ra"' quốc vương lại càng lấy làm lạ. Sứ thần nói ở Trung Quốc thì con ngựa đẻ ra con la, con la đẻ ra con ngựa choai". Quốc vương hỏi kỹ hình dạng, sứ thần đáp "Ngựa đẻ ra la là thần sở kiến, la đẻ ngựa choai là thần sở văn*", cử tọa lại cười ầm.
* Ngựa đẻ... sở văn: sở kiến nghĩa đen là "vốn thấy", sở văn nghĩa đen là "vốn nghe", nhưng cũng là tên hai anh em họ Trần, nên câu này có ý nói xỏ hai người là la và ngựa choai.
Mọi người biết không địch nổi mồm mép của hồ, liền giao hẹn trở đi nếu ai khơi chuyện ngạo ngược thì phải đứng ra làm chủ, bỏ tiền mua rượu. Giây lát rượu ngà ngà, Tôn nói đùa với Vạn "Có vế đối thách ông đối lại", Vạn hỏi câu gì, Tôn đọc "Kỹ nữ xuất môn phỏng tình nhân, lai thời vạn phúc, khứ thời vạn phúc*" cả bàn nghĩ mãi không ai đối được.
*Kỹ nữ... vạn phúc: nghĩa đen là "Kỹ nữ ra cửa thăm tình nhân, lúc tới thưa vạn phúc, lúc đi thưa vạn phúc", "vạn phúc" là lời chúc tụng nhưng cũng là tên của Vạn Phúc, nên đoạn sau còn có thể hiểu là "tới cũng Vạn Phúc, đi cũng Vạn Phúc", có ý đùa là Vạn Phúc chuyên tới kỹ viện chơi bời.
Hồ cười nói "Ta có câu rồi đây", mọi người lắng tai nghe, hồ đọc "Long vương hạ chiếu cầu trực gián, miết dã đắc ngôn, quy dã đắc ngôn*" tất cả lại cười bò ra. Tôn bực lắm, nói "Đã giao hẹn rồi, sao lại phạm?". Hồ cười đáp "Đúng là ta có lỗi, nhưng nếu không thế thì không đối cho sát được. Sáng mai xin đặt tiệc để chuộc lỗi", chủ khách cùng cười rồi chia tay. Hồ khôi hài đại loại như thế, không sao kể hết được.
*Long vương... đắc ngôn: nghĩa đen là "Long vương xuống chiếu cầu lời thẳng, vích cũng được nói, rùa cũng được nói", "được nói" (đắc ngôn) cũng là tên của Đắc Ngôn, nên đoạn sau còn có thể hiểu là "... vích là Đắc Ngôn, rùa là Đắc Ngôn", có ý nói xỏ Tôn Đắc Ngôn là con rùa. Rùa là một giống vật được người Trung Hoa ví với kẻ hạ tiện dâm đãng.
Được vài tháng, hồ cùng Vạn về quê. Tới địa giới Bác Hưng, hồ nói với Vạn "Ở đây ta có người họ hàng xa, đã lâu không qua lại, không thể không ghé thăm. Vả lại trời cũng đã tối, chàng cứ đi cùng tới đó ngủ lại, sáng mai đi cũng được". Vạn hỏi ở đâu, hồ chỉ nói không xa. Vạn ngờ vì trước nay khu này vốn không có làng xóm gì, nhưng cũng đi theo. Khoảng hai dặm quả thấy một gia trang, bình sinh chưa đi ngang lần nào. Hồ gõ cổng thì có một người hầu ra mở, vào trong thấy cửa liền gác nối, rõ ràng là nhà thế gia. Giây lát tới chỗ chủ nhân, có hai ông bà già, vái chào Vạn rồi mời ngồi, bày tiệc linh đình tiếp đãi như con rể, kế hai người nghỉ lại đó.
Sáng sớm hồ nói "Ta về ngay cùng chàng, sợ người nhà sợ hãi. Chàng cứ về trước, ta sẽ theo tới ngay". Vạn theo lời về trước nói rõ với gia nhân. Không bao lâu hồ tới, nói cười với Vạn, mọi người đều nghe rõ nhưng không nhìn thấy người. Năm sau Vạn lại có việc đi Tế Nam, hồ cũng đi cùng. Chợt có mấy người tới, hồ theo ra trò chuyện thăm hỏi rồi nói với Vạn "Ta vốn gốc gác ở Thiểm Trung (tỉnh Thiểm Tây), cùng chàng có mối túc duyên nên theo nhau bấy lâu, nay anh em ta đã tới, ta phải theo về, không theo hầu chàng trọn đời được". Vạn cố giữ lại không được, kế hồ ra đi.
083. Nối Giấc Kê Vàng (Tục Hoàng Lương)
Cử nhân họ Tăng người Phúc Kiến lúc vừa thi đỗ Tiến sĩ cùng vài người bạn thân khoa dạo chơi ngoài thành. Tình cờ nghe nói ở chùa Tỳ Lư có một thầy tướng liền kéo nhau tới xem quẻ. Tăng vào ngồi, thầy tướng nhìn thấy ý khí tự đắc bèn nịnh hót lấy lòng. Tăng phe phẩy quạt mỉm cười rồi hỏi "Ta có số làm Tể tướng không?". Thầy tướng nghiêm trang nói sẽ làm Tể tướng hai mươi năm trong đời thái bình, Tăng cả mừng, ý khí càng thêm cao ngạo. Gặp lúc có cơn mưa nhỏ, cùng bạn bè vào tăng xá tránh mưa, thấy bên trong có vị sư già mắt sâu mũi cao ngồi trên tấm bổ đoàn, ngạo mạn không chào hỏi ai. Cả bọn cùng chào rồi lên sạp ngồi nói chuyện với nhau, đều mừng Tăng sẽ làm Tể tướng.
Tăng càng đắc ý, chỉ bạn cùng đi nói "Khi nào ta làm Tể tướng, sẽ cử Trương huynh làm Tuần phủ Hà Nam, ông anh cô cậu của ta làm chức Tham du, lão bộc nhà ta cũng được chức Thiên bả nho nhỏ, thế là mãn nguyện", cả bọn cười vang. Kế nghe bên ngoài mưa càng lớn như trút nước, Tăng mỏi mệt nằm xuống giường, chợt thấy hai quan Trung sứ đem tờ chiếu do Thiên tử đích thân viết tới triệu Tăng Tể tướng vào triều bàn việc nước. Tăng đắc ý vội vàng vào triều, nhà vua hỏi han dịu ngọt hồi lâu, truyền cho Tăng được quyền thăng giáng các quan từ tam phẩm trở xuống, ban cho mãng bào đai ngọc và ngựa quý, Tăng mặc áo đeo đai dập đầu tạ ơn rồi ra về.
Vào nhà thì thấy không phải nơi ở cũ ngày trước mà toàn là cột chạm cửa sơn vô cùng lộng lẫy, cũng không hiểu vì sao vinh hiển mau lẹ như vậy, nhưng chỉ cần vuốt râu gọi khẽ thì quân hầu dạ ran như sấm. Kế các quan công khanh đem quà cáp tặng biếu tới khúm núm xếp hàng ngoài cổng. Các quan khanh sáu bộ tới thì Tăng vội vàng ra đón, hạng Thị lang thì vái chào cùng trò chuyện, chức thấp hơn thì chỉ gật đầu chào thôi. Tuần phủ Sơn Tây gởi tặng ban nữ nhạc mười người đều là con gái trẻ đẹp, trong đó Niễu Niễu và Tiên Tiên đẹp nhất, hai người rất được yêu quý, Tăng cho phục dịch khăn áo, hàng ngày hầu hạ ca múa.
Một hôm Tăng nhớ lại lúc còn hàn vi thường được thân sĩ trong huyện là Vương Tư Lương giúp đỡ, nay ta đã nhẹ bước thang mây mà ông ấy còn lận đận trên đường công danh, sao không đưa tay dìu dắt một phen. Sáng ra dâng sớ tiến cử Vương làm quan Gián nghị, lập tức có chỉ dụ bổ dụng. Lại nghĩ tới Thái bộc họ Quách từng trợn mắt với mình, liền gọi bọn Cấp gián họ Lữ và Thị ngu Trần Xương dặn dò, hôm sau sớ tấu đàn hặc nối nhau dâng lên, liền có chỉ cách chức Quách Thái bộc cho về làm dân. Đền ơn trả oán xong, Tăng rất thỏa ý.
Một hôm ra ngoài thành chơi, có người say rượu phạm vào nghi trượng, Tăng sai trói lại giải tới quan Kinh triệu doãn, người ấy lập tức bị đánh đòn mà chết. Những người có nhà cửa ruộng đất ở cạnh đều sợ quyền thế đem những ruộng tốt nhà to hiến cho, từ đó Tăng thành phú gia địch quốc. Không bao lâu, Niễu Niễu và Tiên Tiên nối nhau qua đời. Tăng khuya sớm nhớ nhung, chợt nhớ năm xưa thấy người con gái hàng xóm tuyệt đẹp, vẫn muốn mua làm tỳ thiếp nhưng vì ít tiền nên không được như nguyện, nay may đã đắc ý, bèn sai mấy tên gia nhân đắc lực đem tiền tới ép nhận sính lễ, giây lát kiệu nàng về tới, so lại với ngày trước thì càng đẹp hơn, tự nghĩ như thế đã thỏa nguyện ước bình sinh rồi.
Hơn năm sau thì các quan trong triều đều ngầm có lòng chê trách nhưng đều không dám nói ra, Tăng cũng nghênh ngang không thèm để ý. Có quan Long đồ học sĩ họ Bao dâng sớ hặc tội, đại lược như sau:
"Trộm nghĩ Tăng Mỗ vốn là một kẻ vô lại cờ bạc rượu chè, tiểu nhân đầu đường xó chợ, chỉ có một lời nói hợp ý mà được thánh thượng tin dùng, cha con vinh hiển, ân sủng tột bực. Thế mà không nghĩ tới việc dốc lòng báo đáp trong muôn một, lại phóng ý rông càn làm oai phúc, những tội đáng chết nhổ tóc mà đếm cũng không đủ. Danh vị trọng thể của triều đình thì coi như món hàng lạ, cân nhắc nhỏ to, ra giá cao thấp. Vì thế công khanh tướng sĩ đều phải lui tới nhà y, tính toán tiến thân như đi buôn, luồn lọt lấy lòng không kể xiết. Hoặc có kẻ kiệt sĩ hiền thần không chịu a dua, nhẹ thì bị gạt bỏ không dùng, nặng thì bị cách quan bãi chức. Thậm chí chỉ hơi trái ý thì y đặt điều vu cáo bắt phải đi đày, nên quan lại đều tê lòng, triều đình thành cô lập. Lại máu mỡ dân đen mặc tình vơ vét, con gái nhà lành bắt ép làm hầu, hơi oán mịt mờ, mặt trời u ám. Gia nhân của y tới nơi thì quan địa phương phải dạ lấy lòng, thư từ của y gởi ra thì kẻ cầm quyền phải làm trái phép. Có khi con cái tôi tớ, họ hàng dây dưa đi ra cũng dùng ngựa trạm, ruổi rong mịt bụi, hò hét thị uy. Địa phưong cung cấp hơi chậm trễ, roi vọt đánh đập liền ra tay, ức hiếp nhân dân, sai khiến quan lại, nghi trượng tới đâu thì ruộng đồng sạch cỏ. Thế mà Tăng Mỗ vẫn nghênh ngang hống hách, không chút ăn năn, tấu đối qua loa ở triều đình, dối trá gian tà trước thánh thượng. Xe kiệu vừa rời chốn công môn, sênh ca đã bày nơi hậu uyển. Thanh sắc chó ngựa cứ chơi tràn, quốc kế dân sinh chẳng lo nghĩ, trên đời há có loại Tể tướng như thế sao? Trong ngoài xôn xao, nhân tâm ly tán, nếu không có búa rìu trị ngay, ắt sẽ thành Mãng Tháo* gây họa. Thần sớm tối lo lắng, không dám yên thân, liều chết kể ra các tội của y, dâng lên Thánh thượng xem xét. Mong Thánh thượng ra lệnh xử chém kẻ gian nịnh, tịch thu của tham ô, để trên thỏa dạ trời, dưới hả bụng chúng. Nếu thần vu oan, xin cam chịu tội..."
*Mãng Tháo: tức Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán và Tào Tháo lấn quyền vua Hán, sử sách Trung Hoa ngày xưa coi là gian thần.
Tờ sớ dâng lên, Tăng nghe được vô cùng run sợ, người lạnh toát như uống băng, nhưng may nhờ vua khoan dung, để đó không xét. Kế các quan Khoa đạo cửu khanh lại liên tiếp dâng sớ đàn hặc, ngay những kẻ trước kia xin làm môn hạ, cung kính như cha cũng trở mặt vớì Tăng. Vua liền giáng chỉ tịch thu gia sản, bắt Tăng sung quân ở Vân Nam, con trai Tăng làm Thái thú quận Bình Dương (tỉnh Sơn Tây) cũng bị triều đình sai quan ra tra xét. Tăng nghe chỉ dụ đang kinh hoàng thì có mấy mươi võ sĩ đeo gươm cầm giáo vào thẳng nhà trong lột hết áo mão, vợ cũng bị trói. Kế thấy mấy người vác của cải trong nhà ra sân, vàng bạc tiền nong tới mấy trăm vạn, châu ngọc bảo vật tới mấy trăm hộc, rèm màn giường tủ cũng tới mấy ngàn món, còn những tã lót trẻ con, giày tất đàn bà thì vương vãi khắp sân. Tăng đều nhất nhất trông thấy, đau lòng xốn mắt. Giây lát lại có một người bắt nàng hầu đẹp nhất giải ra, tóc rối kêu khóc, mặt ngọc tái xanh, Tăng đau xót như lửa đốt ruột gan nhưng ngậm hờn không dám nói. Kế lầu gác kho tàng niêm phong xong, họ lập tức quát thét giải Tăng ra, toán lính áp giải xô đẩy vung giáo bắt đi mau. Vợ chồng Tăng nuốt lệ lên đường, lúc này muốn ngựa tồi xe xấu đỡ chân cũng không sao có được. Được hơn mười dặm thì vợ mệt quá loạng choạng muốn ngã, Tăng phải dìu đỡ. Lại hơn mười dặm nữa thì mình cũng mệt mỏi, thấy núi non xa xa cao chọc trời mà lo không trèo lên nổi, cứ kéo tay vợ nhìn nhau khóc lóc nhưng toán lính áp giải trợn mắt sấn tới không cho nghỉ chân. Lại thấy mặt trời đã lặn, không có chỗ nào nghỉ lại bất đắc dĩ phải khập khiễng lê bước. Tới lưng núi thì vợ kiệt sức khóc lóc ngồi phịch xuống vệ đường, Tăng cũng mệt quá ngồi xuống nghỉ, mặc cho toán lính áp giải quát tháo chửi mắng.
Bỗng nghe tiếng hò la ầm ĩ, có bọn cướp vác đao sắc ào ào xông ra, toán lính áp giải hoảng sợ bỏ chạy. Tăng quỳ mọp nói mình một thân trơ trọi bị đày đi xa, hành lý chẳng có gì đáng giá, năn nỉ bọn cướp tha cho. Bọn cướp trợn mắt nói "Bọn ta đều là dân bị hại, chỉ cần cái đầu đứa nịnh tặc chứ không cần lấy gì cả". Tăng nổi giận quát "Ta dù mắc tội cũng là quan lớn của triều đình, lũ giặc cỏ sao dám hỗn láo như thế?". Bọn cướp cũng nổi giận vung búa lớn trên đầu Tăng, nghe thấy đầu rơi xuống đất thành tiếng. Hồn Tăng còn đang kinh hãi thì lập tức có hai tên quỷ tốt tới nắm tay lôi đi. Đi mấy khắc thì vào tới một nơi đô hội, giây lát tới một cung điện, trên điện có một vị vương giả tướng mạo xấu xí ngồi xét xử tội phúc.
Tăng khúm núm tới quỳ trước mặt nghe lệnh, vị vương giả mở sổ xem qua mấy hàng lập tức giận dữ quát "Tên này phạm tội dối vua hại nước, phải bỏ vào vạc dầu", muôn quỷ dạ ran như sấm, lập tức có tên quỷ to lớn lôi Tăng xuống dưới thềm, thấy cái vạc cao khoảng bảy tám thước, bốn phía đốt than, chân vạc đỏ rực. Tăng run sợ kêu khóc, muốn chạy trốn mà không được, tên quỷ tốt tay trái túm tóc, tay phải nắm chân Tăng ném vào vạc dầu, Tăng theo dầu sôi nổi lên chìm xuống, da thịt bong rát đau thấu tim gan, dầu tràn vào miệng cháy bỏng gan ruột, muốn chết ngay mà không chết được. Khoảng xong bữa cơm, tên quỷ tốt lấy đinh ba vớt Tăng ra đem vào sảnh đường. Vị vương giả lại xem sổ sách, nổi giận nói "Y cậy thế hiếp người, phải quăng vào núi đao"' Quỷ tốt lại lôi Tăng đi, thấy hòn núi không to lớn lắm nhưng sườn đá dựng đứng, đao nhọn tua tủa như măng mọc dày đặc, đã có mấy người thủng bụng toác ruột đang vướng bên trên, đau đớn kêu gào vô cùng thảm thiết. Quỷ tốt giục Tăng leo lên, Tàng khóc rống lùi lại, quỷ tốt cầm dùi nhọn đâm vào gáy, Tăng nhịn đau xin tha cho, quỷ tốt nổi giận túm lấy Tăng ra sức ném lên trời. Tăng thấy mình lơ lửng trên mây rồi rơi thẳng xuống, bị đao xóc vào bụng, đau đớn không sao nói xiết. Lát sau vì thân thể to béo đè nặng lên nên vết đao đâm vào dần dần rộng ra, chợt rơi phịch xuống, chân tay co quắp. Quỷ tốt lại dẫn vào trước mặt vị vương giả, vương sai tính lại lúc sinh bình Tăng bán chức buôn danh, ăn hối lộ cướp của người được bao nhiêu tiền. Lập tức có người rậm râu đứng gãy bàn tính rồi nói "Tất cả là Ba trám hai mươi mốt vạn". Vương nói "Y đã gom góp thì bắt y uống đi". Phút chốc lấy vàng bạc ra chất đống dưới thềm, cao như gò núi, rồi từ từ bỏ vào nồi sắt quạt lửa nấu chảy ra, kế mấy tên quỷ tốt luân phiên lấy gáo múc đổ vào miệng Tăng, tràn qua gò má thì da thịt cháy khét, vào tới cuống họng thì ruột gan nóng sôi, lúc sống lo vật ấy có ít, lúc ấy lại sợ nó quá nhiều, mất nửa ngày mới uống xong.
Vương giả sai quỷ tốt giải Tăng đi đầu thai làm con gái ở đất Cam Châu (huyện Trương Dịch tính Cam Túc). Đi độ vài bước thấy trên giá cao có một cây trục sắt chu vi độ mấy thước xỏ qua một bánh xe lớn, rộng lớn không biết mấy trăm dặm, sáng lóe năm sắc chiếu tới mây xanh. Quỷ tốt đánh bắt trèo lên, Tăng nhắm mắt bước lên thì bánh xe theo chân xoay chuyển, thấy như bị rơi xuống, toàn thân mát lạnh, mở mắt nhìn lại mình thì đã hóa ra đứa trẻ sơ sinh mà lại là con gái. Nhìn tới cha mẹ thì áo quần rách rưới, trong gian phòng vách đất còn đủ cả bị gậy, biết đã đầu thai làm con ăn mày. Lớn lên hàng ngày theo đám trẻ ăn mày đi xin ăn, bụng lép kẹp ít khi được no, áo tả tơi gió lạnh thấu xương.
Năm mười bốn tuổi bị bán làm vợ lẽ cho Tú tài họ Cố, tuy hơi được no ấm nhưng gặp người vợ lớn hay ghen, hàng ngày thường đánh đập, lại nung sắt đỏ đốt vú, may là chồng thương xót nên cũng thấy được an ủi. Chợt có gã thiếu niên hung ác bên láng giềng trèo tường qua cưỡng ép, mới tự nghĩ kiếp trước làm nên tội nghiệt đã chịu hình phạt dưới âm ty rồi, nay sao lại phải chịu như thế nữa. Bèn kêu ầm lên, chồng và vợ lớn đều tỉnh dậy, gã thiếu niên mới bỏ chạy. Không bao lâu, một đêm Tú tài tới ngủ ở phòng, đang thì thầm to nhỏ kể lể oan khổ bỗng có tiếng ầm ầm, cửa phòng mở toang, có hai tên cướp cầm đao sấn vào chặt đầu Tú tài rồi lục lọi tài vật, sợ hãi nằm im trong chăn không dám lên tiếng. Kế bọn cướp đi rồi mới kêu khóc chạy tới phòng vợ lớn, vợ lớn cả kinh, cùng tới xem xét khóc lóc, nghi là vợ lẽ đưa gian phu vào giết chồng bèn làm đơn trình lên Thứ sử. Thứ sử cho bắt tra hỏi, bị tra tấn tàn nhẫn đành nhận bừa, bị kết án lăng trì.
Khi bị giải ra chỗ hành hình, trong lòng uất ức không sao phát tiết, vừa đi vừa la khóc rằng mười tám địa ngục dưới âm ty cũng không có nơi nào đen tối hơn. Đang kêu gào thảm thiết, nghe tiếng bạn cùng đi gọi "Anh bị ma đè à?", giật mình tỉnh dậy, thấy nhà sư già vẫn ngồi xếp bằng như cũ. Bạn bè lại hỏi "Trời chiều bụng đói sao ngủ say thế?". Tăng buồn rầu đứng lên. Nhà sư mỉm cười hỏi "Quẻ bói Tể tướng nghiệm chưa?". Tăng càng kinh sợ, vái lạy thỉnh giáo. Nhà sư nói "Tu nhân tích đức thì trong lò lửa tự có sen vàng chứ bần tăng làm sao biết được?". Tăng nghênh ngang khi tới, không ngờ buồn bã mà về, tấm lòng công danh từ đó nguội lạnh, sau vào núi tu, không rõ kết cục ra sao.
Dị Sử thị nói: Ban phúc cho kẻ lành, giáng họa cho người dâm là đạo thường của trời. Kẻ kia nghe nói sẽ được làm Tể tướng thì mừng rỡ cho là đúng, thì có thể biết không phải là người cúc cung tận tụy thờ vua rồi. Lúc bấy giờ thì nắm đại quyền, lầu gác thê thiếp không gì không có, tuy giấc mơ kia vốn là dối song mong ước ấy cũng không phải đúng. Nhà sư làm ra ảo mộng, lấy đạo thuật thần diệu để răn người, kê vàng thành lệ giấc mộng ấy ắt có thật, có thể phụ vào sau chuyện giấc mộng ở Hàm Đam*.
*Kê... vàng... Hàm Đan: Chẩm trung ký chép Lư sinh thời Đường tới ngụ ở Hàm Đan, vào quán trọ gặp tiên ông Lữ Động Tân, thở than mình nghèo khổ. Lúc ấy chủ quán đang nấu kê, tiên ông đưa chiếc gối cho Lư, bảo gối lên mà ngủ sẽ được như nguyện. Lư chớp mắt thấy mình thi đỗ Tiến sĩ, làm quan lớn, vợ đẹp con khôn, giàu sang vinh hiển suốt năm mươi năm. Khi tỉnh dậy thì nồi kê trong quán trọ vẫn chưa chín. Lư kinh ngạc hỏì "Chỉ là mộng thôi sao?". Lữ Động Tân cười đáp "Việc đời đều như thế cả". Sau người ta hay dùng tích này để nói việc công danh phú quý chỉ là ảo mộng.
084. Chó Săn Nhỏ (Tiểu Lạp Khuyển)
Tể tướng họ Vệ ở Sơn Tây lúc còn là Chư sinh ghét ồn ào phiền nhiễu nên tới ở trong chùa, khổ là trong phòng rất nhiều rận rệp ruồi muỗi, cả đêm không chợp mắt được nên ăn cơm trưa xong bèn lên giường nằm nghỉ. Chợt thấy một võ sĩ nhỏ bé đội mũ gắn lông trĩ, cao khoảng hai tấc, cưỡi con ngựa to bằng con sâu, vai mang cái đai xanh trên có con chim ưng to bằng con ruồi từ ngoài vào qua lại trong phòng, lúc đi lúc chạy. Ông đang chăm chú ngắm nhìn chợt lại có một người khác vào, trang phục như người trước, lưng đeo bộ cung nhỏ, dắt con chó săn to bằng con kiến càng. Khoảnh khắc thì có vài trăm quân bộ quân kỵ ồ ạt kéo vào, dắt theo vài trăm con chim ưng, vài trăm con chó săn, có bao nhiêu ruồi muỗi đang bay đều thả ưng ra đánh giết bằng hết.
Lại thả chó lên giường lần theo sát vách tìm săn rận rệp sâu bọ, sục tới khe hở nào thì sâu bọ trong đó đều phải bò ra, trong chớp mắt đã cắn giết sạch. Ông vờ ngủ hé mắt nhìn, thấy chim ưng đánh giết, chó săn săn mồi sát bên người mình. Kế có một người mặc áo màu vàng đội mũ bình thiên như bậc vương giả lên một giường khác, nghênh ngang dong xe bốn ngựa đi lại. Bọn quân kỵ đều xuống ngựa dâng các con vật săn được lên, chất đống bên cạnh, cũng không rõ là trò chuyện những gì. Giây lát vị vương giả lại lên xe, quân hộ vệ đều vội vàng lên ngựa rầm rập túa ra như đậu lăn kéo đi như mây bay gió cuốn, trong chớp mắt đã đi hết.
Ông nhìn thấy rõ ràng, kinh lạ không rõ bọn họ từ đâu tới, xỏ giày bước ra xem thì không thấy bóng dáng dấu vết gì cả, duy thấy trên hòn gạch sát tường còn sót một con chó nhỏ, vội vàng bắt lấy. Con chó rất thuần, ông đặt vào cái hộp đựng nghiên mực xoay đi xoay lại ngắm nhìn, thấy lông rất mượt, cổ có đeo cái vòng nhỏ. Lấy cơm cho ăn thì nó chỉ ngửi rồi bỏ đi, nhảy lên giường tìm những nếp chăn nếp áo sục sạo bắt rận rệp, xong rồi quay về nằm xương ngủ. Qua một đêm, ông ngờ là nó đã bỏ đi, xem lại thấy vẫn nằm khoanh tròn như cũ. ông ngủ trưa thì nó nhảy lên giường, cứ thấy sâu bọ nào trên chiếu là cắn chết hết, ruồi muỗi cũng không dám đáp xuống, ông quý hơn cả vàng ngọc.
Một hôm ông ngủ trưa, con chó tới rúc xuống nằm bên cạnh. Ông tỉnh dậy trở mình đè lên nó, thấy có vật gì cộm dưới lưng, nghĩ ngay là con chó vội vàng dậy xem thì nó đã chết bẹp như mảnh giấy, nhưng từ đó không bị rận rệp gì cắn nữa.
Phụ Lục: Một Truyện Trong Trì Bắc Ngẫu Đàm(Phụ Lục: Trì Bắc Ngẫu Đàm Nhất Tắc)
Quan Tể tướng Mỗ lúc chưa thi đỗ, mùa hè thường nằm ngủ trưa. Chợt thấy một người nhỏ bé cưỡi ngựa vào, người ngựa đều cao khoảng hơn tấc, lưng đeo cung tên, vai mang chim ưng to bằng con ruồi. Kế một người nữa tới, cũng nhỏ bé như vậy, dắt một con chó săn to bằng con kiến càng. Hai người đi vòng vòng trong phòng, hồi lâu có vài ngàn giáp sĩ kéo vào, cờ xí rực rỡ chia làm hai cánh bổ vây mở cuộc săn lớn, ruồi muỗi trong phòng đều bị giết sạch, những sâu bọ trốn núp trên kẽ vách đều bị lôi ra. Kế có một người áo đỏ xuống xe ngồi lên giường khác, quân sĩ lần lượt tới dâng những vật săn bắt được. Xong lại lên xe, đội ngũ tề chỉnh kéo đi, quân giáp sĩ cũng ra theo như mây bay gió cuốn rút hết. Ông choàng dậy không thấy gì nữa, chỉ còn một con chó nhỏ ngơ ngác trên vách, lập tức bắt lấy bỏ vào tráp. Con chó rất thuần, ông cho cơm thì không ăn, ông ngủ thì nằm bên cạnh gối, cứ thấy ruồi muỗi thì cắn đuổi đi.
085. Cô Tân Mười Bốn (Tân Thập Tứ Nương)
Phùng sinh ở huyện Quảng Bình (tỉnh Hà Bắc) là người thời Chính Đức nhà Minh (1506-1521), lúc trẻ lông bông hay rượu. Sáng sớm ra đường gặp một thiếu nữ mặc áo khoác đỏ, vô cùng xinh đẹp, có đứa tiểu đồng theo hầu, đạp bừa trên sương mà đi, giày tất ướt hết, lòng thầm yêu mến. Chiều tối say rượu trở về, bên đường vốn có ngôi chùa bỏ hoang đã lâu, có cô gái từ trong đi ra, chính là người đẹp lúc sáng. Nàng vừa thấy sinh tới, lập tức quay người trở vào. Sinh nghĩ thầm người đẹp như thế sao lại ở trong chùa, liền buộc lừa ở cổng rồi vào trong tìm hiểu chuyện lạ.
Vào thấy tường rào đổ nát, cỏ phủ đầy thềm, còn đang ngần ngừ thì một ông già tóc bạc đi ra, áo mũ chỉnh tề hỏi khách tới đây làm gì. Sinh đáp "Ngẫu nhiên đi ngang thấy ngôi chùa cổ nên muốn vào lễ Phật, còn ông tới đây làm gì?". Ông già đáp "Lão phu ngụ cư không có chỗ ở nên mượn tạm nơi này cho gia đình ở, được ông quang lâm, có chén trà núi cũng tạm thay rượu được", rồi cung kính mời khách vào. Thấy hậu điện có gian nhà, đường đi lát đá sáng bóng không có chút rêu cỏ, vào nhà thì rèm cửa màn giường đều thơm phức. Ngồi xuống hỏi họ tên, ông già nói là Mông Tẩu họ Tân. Sinh nhân say hỏi "Nghe nói ông có một cô con gái chưa gả cưới, ta không xét mình, tình nguyện làm rể được không?". Tân cười nói "Để ta bàn lại với bà ấy", sinh lập tức hỏi lấy giấy bút làm một bài thơ rằng:
Thiên kim mịch ngọc chử,
Ân cần thủ tự tương.
Vân Anh như hữu ý,
Thân vị đảo nguyên sương.
(Ngàn vàng tìm chày ngọc
Ân cần tay tự mang
Vân Anh như có ý
Xin giã thuốc cho nàng)*
*Vân Anh... cho nàng: Bùi Hàng truyền kỳ chép Bùi Hàng 1à người thời Đường đi ngang trạm Lam Kiều khát nước ghé vào nhà một bà già xin nước uống, bà già sai con gái là Vân Anh mang nước ra cho. Hàng thấy nàng xinh đẹp xin cưới làm vợ, bà già nói mình có phương thuốc tiên nhưng còn thiếu cối ngọc chày ngọc để giã, nếu Hàng tìm được sẽ gả Vân Anh cho. Sau Hàng mua được cối ngọc chày ngọc tới, bà già sai Hàng giã thuốc một trăm ngày rồi gả Vân Anh cho Hàng, kế hai vợ chồng cũng thành tiên. Bài thơ của Phùng sinh dùng tích này để ngỏ ý xin làm rể nhà ông Tân.
Chủ nhân đọc thơ cười đưa cho người hầu, giây lát có tỳ nữ từ nhà trong ra ghé tai Tân nói nhỏ. Tân đứng lên xin khách chịu khó ngồi đợi rồi vén rèm vào nhà trong, nghe trò chuyện loáng thoáng năm ba câu rồi lập tức trở ra. Sinh nghĩ chắc có tin hay nhưng Tân cứ ngồi cười nói trò chuyện chứ không nói gì tới việc đó. Sinh không kìm được hỏi luôn "Chưa rõ ý ông về việc đó thế nào, xin dạy bảo cho ta hết ngờ vực". Tân đáp "ông là bậc tài sĩ, ta đã hâm mộ từ lâu, nhưng có chuyện riêng nên không dám nói thôi". Sinh cứ nài nỉ xin cho biết, Tân đáp "Ta có tất cả mười chín con gái, đã gả chồng cho mười hai đứa, nhưng việc cưới gả đều quyền ở bà nó chứ ta không dự bàn". Sinh nói "Tiểu sinh chỉ muốn hỏi cưới người dắt đứa tiểu đồng lội sương sáng nay thôi".
Tân không đáp, im lặng nhìn khách, nghe trong phòng có tiếng con gái thì thào, sinh mượn men vén rèm bước vào, nói "Đã không thành vợ chồng được, thì cũng phải thấy mặt một lần ta mới nguôi hận". Bên trong nghe tiếng rèm khua đều sửng sốt đúng cả dậy, quả có cô gái áo đỏ xốc tay áo nghiêng đầu mân mê giải áo, thấy sinh xông vào hoảng hốt nhìn khắp mọi người trong phòng. Tân tức giận sai mấy người lôi sinh ra cửa. Men rượu càng bốc, sinh ngã lăn vào bụi gai, gạch đá ném xuống như mưa, may mà không trúng vào người. Nằm một lúc nghe con lừa vẫn còn gặm cỏ bên đường, bèn dậy lên lừa thất thểu ra đi.
Trời tối lầm đường lạc vào khe núi, sói gào cú rúc rợn gáy lạnh mình, ngập ngừng nhìn quanh không biết đang ở đâu. Nhìn tới khu rùng xa xa thấy có ánh đèn thấp thoáng, nghĩ là làng xóm, liền giục lừa tới, thấy cánh cổng cao rộng bèn cầm roi gõ cửa. Bên trong có người hỏi "Lang quân ở đâu mà nửa đêm tới đây?", sinh đáp là lạc đường. Người ấy nói "Chờ ta thưa với chủ nhân". Sinh đứng đợi chồn cả chân, chợt nghe tiếng then lạch cạch rồi cánh cổng mở ra, một người tớ trai khỏe mạnh bước ra đỡ dây cương lừa.
Sinh vào, thấy nhà cửa hoa lệ, trên sảnh thắp đèn sáng trưng. Ngồi giây lát thì có người đàn bà ra hỏi tên họ khách, sinh nói rõ. Hồi lâu có mấy tỳ nữ đỡ một bà già ra, nói "Quận quân tới". Sinh đứng lên định vái lạy, bà già ngăn lại bảo ngồi rồi hỏi "Ngươi là cháu nội của Phùng Vân Tử phải không?", sinh đáp "Thưa phải". Bà già nói "Vậy thì ngươi là cháu gọi lão thân bằng bà mợ. Thân già như chuông câm lậu cạn, đến cuối đời họ hàng ruột thịt cũng không ai lui tới". Sinh nói "Cháu lúc nhỏ mồ côi cha, những người lui tới với ông nội mười phần không biết một nên chưa được chào bà, xin chỉ bảo cho"' Bà già nói "Rồi cháu sẽ tự rõ". Sinh không dám hỏi nữa, ngồi đối diện bà già trầm tư.
Bà già hỏi "Sao cháu lại nửa đêm tới đây?", sinh bèn khoe khoang mình gan dạ, kể rõ những chuyện đã qua. Bà già cười nói "Đó là việc mừng lớn, huống hồ cháu là danh sĩ, chẳng có gì làm nhà thông gia phải xấu hổ mà con chồn tinh nhà quê sao dám làm cao như thế? Cháu đừng lo, để ta thu xếp cho". Sinh vâng dạ cám ơn, bà già quay lại hỏi tả hữu "Ta không biết con gái họ Tân lại có đứa xinh đẹp như thế đấy". Một tỳ nữ nói "Y có mười chín con gái, người nào cũng xinh xắn, không rõ quan nhân định hỏi người nào?". Sinh đáp "Là người khoảng mười lăm tuổi". Người tỳ nữ nói "Vậy là cô Mười bốn, ba hôm trước từng theo mẹ tới đây chúc thọ Quận quân, Quận quân quên rồi sao?". Bà già cười nói "Phải là người kết hột sen làm giày cao gót, trong chứa bột thơm, ngoài bọc sa mỏng mà đi không?", người tỳ nữ đáp "Thưa phải". Bà già nói "Con nhãi ấy biết làm ra vẻ quyến rũ khéo lắm, nhưng quả là xinh đẹp, cháu ta thưởng lãm không sai", rồi lập tức bảo "Sai thằng Mèo Con gọi nó tới đây".
Người tỳ nữ đó vâng dạ đi ra, lát sau quay vào bẩm "Đã gọi được cô Mười bốn nhà họ Tân tới", liền thấy cô gái áo đỏ bước vào phủ phục làm lễ, bà già kéo dậy nói "Sắp làm vợ cháu ta, không nên làm lễ như tỳ nữ thế nữa". Cô gái thướt tha đứng lên, hai tay áo đỏ rủ xuống, bà già sửa mái tóc cho, sờ đôi hoa tai của nàng hỏi "Gần đây Tân Mười bốn ở nhà làm gì?". Nàng đáp khẽ "Lúc rảnh con chỉ thêu thùa"' rồi quay đầu thấy sinh, có vẻ ngượng ngập bối rối. Bà già nói "Đó là cháu ta, nó có ý tốt muốn kết duyên với con, sao lại để nó lạc đường, đêm khuya thất thểu trong khe núi thế?", nàng cúi đầu im lặng. Bà già nói "Ta gọi con tới đây không có chuyện gì khác, chỉ là muốn làm mai cho cháu ta đấy thôi", nàng vẫn im lặng. Bà già sai quét giường trải nệm để làm lễ thành hôn lập tức, cô gái thẹn thùng nói "Xin cho con về thưa với cha mẹ". Bà già nói "Ta làm mai cho con thì còn có gì sai sót chứ?". Nàng thưa "Quận quân ra lệnh thì cha mẹ con phải vâng lời chứ đâu đám trái, nhưng qua quít thế này thì con dù chết cũng không dám vâng mệnh". Bà già cười nói "Con bé này chí khí cứng cỏi, thật xứng đáng làm vợ cháu ta", bèn rút một chiếc thoa vàng trên tóc nàng đưa cho sinh làm tin, bảo về chọn ngày lành giờ tốt làm lễ cưới. Rồi sai tỳ nữ đưa nàng về, nghe xa xa có tiếng gà gáy lại sai dắt lừa tới tiễn sinh ra.
Sinh đi được vài bước, ngoảnh lại thì nhà cửa xóm làng đã biến mất, chỉ thấy cây cối um tùm, cỏ hoang mộ lở mà thôi, định thần ngẫm nghĩ hồi lâu mới nhớ ra chỗ đó là mộ quan Thượng thư họ Tiết. Tiết vốn là em bà nội sinh nên gọi sinh là cháu. Lúc ấy sinh biết mình đã gặp ma, nhưng không hiểu cô Tân Mười bốn là ai. Bèn than thở quay về, chọn bừa một ngày tốt chờ nhưng vẫn thầm ngờ vực lời hẹn của ma quỷ khó tin, lại tới ngôi chùa cổ xem thì trong ngoài vắng tanh, hỏi thăm thì người ở đó nói trong chùa thường có hồ quy. Sinh nghĩ thầm nếu được vợ đẹp thì có là hồ cũng tốt.
Đến ngày đã định liền cho dọn phòng quét ngõ, sai người nhà thay phiên nhau ra ngóng, đến nửa đêm vẫn yên ắng, sinh đã hết trông chờ. Giây lát nghe ngoài cổng ồn ào, lật đật ra xem thì kiệu hoa đã ngừng ở sân, hai a hoàn đỡ cô gái vào phòng, của hổi môn không có gì đáng giá chỉ có hai người tớ trai khiêng một cái phốc mãn to bằng cái khạp ghé vai đặt xuống góc phòng khách. Sinh mừng được vợ đẹp, không nghĩ gì tới việc khác loài, nhân hỏi cô gái "Một người đã chết như vậy sao nhà nàng quá phục tùng thế?". Nàng đáp "Quan Thượng thư họ Tiết hiện làm Ngũ Đô Tuần hoàn sứ, hồ quỷ trong vài trăm dặm đều phải theo hầu, nên ít khi về mộ". Sinh nhớ cái ơn làm mối, hôm sau tới tế mộ ông bà, lúc về thấy hai tỳ nữ đem tới một cuộn gấm mừng, đặt lên bàn rồi đi. Sinh kể lại cho cô gái, nàng xem cuộn gấm rồi nói "Đây là vật của quận quân đấy".
Trong huyện có công tử con quan Thông chính ty họ Sở, thuở nhỏ học chung với sinh, chơi bời thân mật, nghe sinh cưới được vợ hồ liền đem thức ăn tới, sinh lập tức ra sảnh đường nhận rượu mừng. Vài hôm sau công tử lại bày tiệc mời, cô gái nghe chuyện nói với sinh "Hôm trước công tử tới, thiếp nhìn trộm qua kẽ vách thấy người ấy mắt vượn mũi ưng không thể thân cận, chàng đừng đi", sinh nghe theo. Hôm sau công tử tới trách sinh lỗi hẹn, nhân khoe bài văn mới làm. Sinh bình phẩm có ý giễu cợt, công tử cả thẹn không vui, kế chia tay. Sinh vào phòng cười kể lại, cô gái buồn bã nói "Công tử độc ác như sài lang, không nên trêu chọc. Chàng không nghe lời thiếp thì sắp gặp tai vạ rồi"' sinh cười xin lỗi nàng.
Sau đó sinh gặp công tử thì cười đùa vui vẻ, chuyện xích mích trước dần tiêu tan. Gặp lúc có kỳ thi ở dinh Đốc học, công tử đỗ đầu, vô cùng vui vẻ sai người mời sinh qua uống rượu, sinh từ chối, công tử sai mời mấy lần mới tới. Khi tới mới biết là ngày sinh nhật của công tử, khách khứa đầy nhà, rượu thịt ê hề. Công tử đưa quyển thi cho sinh xem, bạn bè đua nhau ca tụng. Rượu được vài tuần, dàn nhạc ra tấu dưới thềm, tiếng đàn sáo tưng bùng, chủ khách đều rất vui vẻ. Bỗng công tử nói với sinh "Lời ngạn có câu Trong trường chớ bàn văn chương hơn kém, nay mới rõ câu ấy là sai. Sở dĩ mới rồi tiểu sinh may mắn đỗ trên ông là nhờ vài câu khởi đề cao hơn một bực mà thôi". Công tử nói xong, cả tiệc đều cất tiếng khen ngợi. Sinh đang say không nhín được, cười rộ nói "Mãi đến nay ông mới nhờ văn chương mà thành đạt tới mức ấy à?". Sinh nói xong cả tiệc đều tái mặt, công tử vừa thẹn vừa uất. Khách khứa lần lượt ra về, sinh cũng lẩn đi.
Khi tỉnh rượu hối hận bèn kể lại cho vợ, nàng không vui, nói "Chàng thật là gã thôn phu quê mùa! Phàm lấy thái độ khinh bạc đối xử với bậc quân tử thì tổn đức, đối xử với kẻ tiểu nhân thì hại thân, tai họa sắp tới cho chàng không còn xa đâu. Thiếp không nỡ thấy chàng lưu lạc, từ nay xin giã biệt". Sinh lo sợ sa nước mắt tỏ ý ăn năn, nàng nói "Nếu muốn thiếp ở lại thì chàng phải hứa là từ nay trở đi đóng cửa tuyệt hết bạn bè, không uống rượu say sưa nữa", sinh kính cẩn theo lời.
Cô Mười bốn tính cần kiệm hơn người, hàng ngày thường lo việc canh cửi, có lúc về thăm nhà nhưng không bao giờ ở lại qua đêm. Có khi lại xuất tiền buôn bán, hàng ngày có lời thì bỏ vào cái phốc mãn. Ngày ngày đóng cửa, ai tới thăm viếng cững bảo gia nhân ra từ tạ không tiếp. Hôm sau, công tử họ Sở gửi thư tới, nàng đốt bỏ không cho sinh biết. Lại hôm sau sinh vào thành điếu tang, gặp công tử ở nhà tang chủ, công tử nắm tay lôi kéo mời mọc, sinh thác cớ không đi. Công tử sai mã phu nắm cương ngựa sinh kéo đi, tới nhà công tử lập tức sai bày tiệc, sinh lại cáo từ muốn về sớm. Công tử nhất định giữ lại, lại gọi ban nhạc trong nhà ra đàn hát giúp vui. Sinh vốn không chịu bị gò bó, từ khi phải đóng cửa ở lỳ trong nhà rất lấy làm buồn bực, gặp bữa rượu lớn chợt nổi hứng không nghĩ gì tới ý trước nữa, cứ thả sức uống đến lúc say mèm lăn ra luôn bên bàn tiệc.
Vợ công tử là Nguyễn thị rất hung dữ ghen tuông, đám tỳ thiếp không dám trang điểm son phấn. Hôm trước có một nàng hầu vào phòng sách của công tử bị Nguyễn thị bắt được, cứ lấy gậy đập vào đầu, nàng ấy vỡ đầu chết ngay. Công tử vẫn căm giận vì bị sinh chế giễu, hàng ngày nghĩ cách báo thù, bèn mưu phục rượu cho say để vu cáo. Nhân lúc sinh say ngủ, liền khiêng cái xác nàng hầu lên giường rồi khép cửa bỏ đi. Đến canh năm sinh tỉnh mới biết mình ngủ trên ghế bèn dậy tìm giường, thấy có vật mềm mềm vướng chân, mò xem thì là người. Bụng nghĩ chắc chủ nhân cho tiểu đồng ngủ chung để chăm sóc hầu hạ, nhưng lay gọi sờ nắn thì bất động mà cứng đờ, cả sợ ra cửa la ầm lên. Tôi tớ trong nhà vùng dậy, thắp đèn soi thấy xác chết liền bắt sinh đánh dập. Công tử tới giả xem xét xác chết rồi vu cho sinh cưỡng gian giết nàng hầu của mình, giải nộp lên huyện Quảng Bình.
Hôm sau cô Mười bốn mới biết chuyện, khóc nói "Ta đã biết trước là sẽ có ngày hôm nay mà", rồi hàng ngày gởi tiền bạc cho sinh. Sinh gặp quan Phủ doãn không có lý lẽ gì để minh oan nên sớm chiều bị tra khảo đánh đập tuột da nát thịt. Cô gái vào ngục thăm, sinh gặp nàng nghẹn ngào đau đớn không nói nên lời. Nàng biết đã mắc vào mưu sâu bèn khuyên cứ nhận tội bừa cho khỏi bị tra tấn đau đớn, sinh khóc nghe theo. Nàng ra vào trong ngục mà người cách nhau gang tấc cũng không nhìn thấy, về nhà thở dài buồn bã, đuổi hết tớ gái ra ngoài, ở trong phòng một mình liền mấy ngày. Kế nhờ bà mối mua giùm một cô gái nhà dân tên Lộc Nhi, tuổi vừa cập kê, nhan sắc khá đẹp, cho ăn cùng mâm nằm cùng chiếu, yêu mến khác hẳn đám tỳ thiếp trong nhà.
Sinh nhận tội ngộ sát bị kết án thắt cổ, người lão bộc nghe tin chạy về khóc lóc kể không ra tiếng, nhưng nàng thản nhiên như không để ý. Kế sắp đến ngày đem xử những tù phạm bị kết án tử hình, nàng mới nhớn nhác vội vã, ngày đi đêm về không lúc nào nghỉ ngơi, lúc vắng người thì ngồi buồn rầu, bỏ cả ăn ngủ. Một hôm trời vừa sập tối, chợt con hồ tỳ tới, nàng vội đứng lên dắt vào phòng kín trò chuyện, lúc quay ra thì có vẻ hón hở, lại coi sóc việc nhà như ngày thường. Hôm sau người lão bộc vào ngục thăm, sinh gởi lời vĩnh biệt nương tử, người lão bộc về thuật lại, nàng ậm ừ mà cũng chẳng có vẻ đau thương buồn bã, chỉ lạnh lùng mặc kệ, tôi tớ đều lén chê là nàng nhẫn tâm.
Chợt khắp nơi đồn đại quan Thông chính sứ họ Sở bị cách chức, quan Quan sát Bình Dương vâng đặc chỉ xét lại vụ án Phùng sinh. Lão bộc nghe tin, mừng rỡ vào nói với bà chủ. Nàng cũng mừng, lập tức sai lão bộc lên phủ thăm dò, thì sinh đã ra khỏi ngục, gặp nhau vừa mừng vừa tủi. Giây lát thấy công tử bị bắt giải tới, chỉ tra hỏi một lượt là biết hết nội tình, sinh được tha ngay về. Về tới nhà, sinh vừa nhìn thấy vợ vùng sa nước mắt, nàng cũng chua xót. Sinh buồn rồi lại vui, nhưng rốt lại vẫn không rõ nhờ đâu mà vua biết được. Nàng cười chỉ con hồ tỳ nói "Đây là công thần của chàng đấy", sinh mới kinh ngạc hỏi han.
Trước là nàng sai con hồ tỳ lên yên Kinh, muốn vào cung vua kêu oan cho sinh nhưng tới nơi thấy trong cung có thần canh giữ, cứ quanh quẩn ngoài ngự câu mấy tháng không vào được. Nó sợ hỏng việc, toan về bàn tính lại, chợt nghe tin Thiên tử sắp ngự giá tới huyện Đại Đồng (tỉnh Sơn Tây), liền tới đó trước, giả làm con hát rong. Vua tới kỹ viện gặp nó rất thương yêu, tỏ ý ngờ không phải là kẻ phong trần, nó bèn cúi đầu khóc lóc. Vua hỏi có chuyện gì oan khổ, con hồ tỳ tâu "Thiếp vốn quê ở huyện Quảng Bình, con gái sinh viên Phùng mỗ, vì cha bị vu oan sắp bị xử tử nên bị bán vào kỹ viện". Vua nghe thấy buồn bã thương xót, ban cho một trăm lượng vàng, lúc ra về lại hỏi kỹ đầu đuôi câu chuyện, lấy giấy bút ghi lại tên họ, lại nói muốn đưa nó về cùng chung hưởng phú quý. Con hồ tỳ nói chỉ muốn cha con đoàn tụ chứ không mong được hưởng giàu sang, vua gật đầu rồi đi. Con hồ tỳ kể lại cho sinh nghe, sinh vội vái lạy tạ ơn, nước mắt lưng tròng.
Không bao lâu sau, cô gái chợt nói với sinh "Thiếp không vì tình duyên thì đâu phải chịu cảnh phiền não thế này. Lúc chàng bị giam, thiếp chạy chọt khắp cả họ hàng thân thuộc mà không một ai bàn tính giùm mưu kế gì, lúc ấy trong lòng chua cay, thật không thể nói ra. Nay thấy chán ghét tục lụy, đã tìm sẵn cho chàng một người vợ hiền, vậy từ đây xin giã biệt". Sinh nghe lạy phục xuống đất khóc lóc không chịu đứng lên, cô gái mới ở lại. Đến đêm nàng sai Lộc Nhi qua với sinh, sinh nhất định từ chối. Sáng hôm sau thấy cô Mười bốn dung mạo sút hẳn, hơn một tháng thì già sọm đi, nửa năm thì mặt nám da đen như bà già nhà quê, nhưng sinh vẫn kính mến không khác trước.
Chợt cô gái lại đòi từ biệt, nói "Chàng đã có vợ đẹp rồi, cần gì tới con quỷ già này?"' sinh lại khóc giữ lại như trước. Qua tháng sau, cô gái phát bệnh nguy cấp, bỏ cả ăn uống nằm liệt. Sinh hôm sớm thuốc thang như lo cho cha mẹ, nhưng thuốc men bùa chú gì cũng vô hiệu, kế nàng chết. Sinh đau thương muốn chết theo luôn, liền lấy số vàng của con hồ tỳ được vua ban cho trước kia lo việc chôn cất. Vài hôm sau con hồ tỳ cũng đi. Sinh bèn lấy Lộc Nhi làm vợ, hơn một năm sinh được một trai. Nhưng sinh đi thi mấy khoa liền không đỗ mà gia cảnh ngày càng sa sút, vợ chồng không biết làm sao, chỉ nhìn nhau buồn rầu. Chợt nhớ tới cái phốc mãn trong góc nhà, thường thấy cô Mười bốn bỏ tiền vào trong, không biết có còn không? Tới xem thì nồi niêu chai lọ bày la liệt ở trên, phải nhấc cả ra rồi lấy đũa chọc thử nhưng không chọc vào được, bung lên đập vỡ thì tiền bạc tuôn ra đầy nhà, nhờ thế bỗng chốc sinh lại trở thành sung túc.
Về sau người lão bộc tới núi Thái Hoa, gặp cô Tân Mười bốn cưỡi ngựa đi trước, con hồ tỳ cưỡi lừa theo sau, hỏi "Phùng lang bình yên chứ?", lại dặn "Về nói cho ông chủ biết là ta đã thành tiên rồi", nói xong thì biến mất.
Dị Sử thị nói: Những lời khinh bạc phần lớn là do các kẻ sĩ nói ra, đó là điều bậc quân tử than tiếc. Ta từng mạo cái danh không thật, nói là oan uổng thì cũng đã lỡ rồi, song chưa từng không khắc khổ tự khích lệ mình để gượng dự vào hàng quân tử, còn chuyện họa hay phúc thì không dự bàn. Như Phùng sinh chỉ lỡ lời một câu mà mấy lần suýt mất mạng, nếu không phải là trong nhà có người tiên thì làm sao thoát khỏi ngục tù mà sống lại ở đời? Thật đáng sợ thay!
086. Bạch Liên Giáo (Bạch Liên Giáo)
Bạch Liên giáo* có Mỗ người tỉnh Sơn Tây, không rõ tên họ, đại khái là đệ tử của Từ Hồng Nho**, dùng yêu thuật mê hoặc dân chúng, có nhiều người hâm mộ phép thuật nhận y làm thầy. Có hôm Mỗ đi vắng, đặt một cái chậu trong sảnh đường, lại lấy một cái chậu khác úp lên, dặn một người học trò ngồi giữ nhưng không được mở ra nhìn. Mỗ đi rồi, trò mở ra xem thì thấy trong chậu đựng nước trong, trên mặt nước có một chiếc thuyền kết bằng cỏ đủ cả cánh buồm bánh lái, lấy làm lạ đưa ngón tay khều, chiếc thuyền nghiêng đi một cái rồi nổi lại như cũ, bèn úp chậu lại. Kế thầy về hỏi sao dám trái lời ta, trò ra sức biện bạch là không hề mở ra, thầy nói "Vừa rồi thuyền đi trên biển suýt bị lật, còn dám dối ta à?".
* Bạch Liên giáo: tên một tổ chức quần chúng mang hình thức tôn giáo xuất hiện ở Trung Quốc cuối thời Nguyên, liên tục bị giai cấp phong kiến từ Nguyên đến Minh, Thanh đàn áp nhưng vẫn tồn tại với tôn chỉ chống chính quyền. Tổ chức này có nhiều người dùng võ nghệ, thuốc men, ảo thuật để tập hợp nhân dân, nên thường bị coi là tà giáo.
**Từ Hồng Nho: xem truyện Bạch Liên giáo, quyển Thập di.
Lại một đêm thầy đốt đuốc cắm trên sảnh đường, dặn phải giữ đừng để gió thổi tắt rồi ra đi. Hết canh một thầy vẫn chưa về, trò mệt mỏi lên giường nằm ngủ, thức giấc thì đuốc đã tắt ngấm vội đứng dậy đốt lên. Kế thầy vào, lại trách mắng, trò nói "Con vốn không hề ngủ, làm sao đuốc tắt được?". Thầy tức giận nói "Mới rồi ta phải đi thầm hơn chục dặm, lại còn cãi à?" trò cả sợ. Những việc làm kỳ lạ như thế rất nhiều, không thể chép ra hết được.
Sau người ái thiếp của Mỗ tư thông với một người học trò, Mỗ biết nhưng để bụng không nói ra, sai trò đi cho heo ăn. Trò bước vào chuồng heo thì ngã lăn ra đất biến thành con heo, Mỗ lập tức gọi đồ tể tới giết thịt đem bán, không ai biết cả. Cha người ấy không thấy con về tới hỏi, Mỗ chối nói là lâu lắm không thấy tới, người cha quay về tìm kiếm khắp nơi không có tin tức gì. Có người học trò khác của Mỗ ngầm biết việc đó lén nói cho người cha, người cha lên báo với quan huyện. Quan huyện sợ Mỗ trốn thoát, không dám đi bắt, bẩm lên quan trên xin phát một ngàn giáp sĩ kéo tới vây nhà, bắt được cả Mỗ lẫn vợ con nhốt vào lồng sắt, định giải lên kinh.
Đi ngang núi Thái Hàng, trong núi có một người to lớn bước ra, cao như cây lớn, mắt như cái tô, miệng như cái chậu, răng dài hơn thước, quân sĩ hoảng sợ đứng ngây ra không dám đi. Mỗ nói "Đó là yêu quái, vợ ta có thể đuổi được", quân sĩ theo lời cởi trói cho vợ Mỗ. Vợ Mỗ vác giáo xông tới, người to lớn tức giận vồ lấy nuốt chửng, mọi người càng sợ hãi. Mỗ nói "Nó đã giết được vợ ta, thì phải con trai ta ra mới xong", quân sĩ lại thả con trai Mỗ ra, nhưng cũng bị nuốt sống như thế. Mọi người nhìn nhau không biết làm sao. Mỗ khóc lóc rồi giận dữ nói "Đã giết vợ ta, lại giết con ta làm sao nhịn được? Nhưng không phải đích thân ta ra thì không xong". Mọi người quả nhiên lại thả Mỗ ra khỏi lồng sắt, trao cho thanh đao bảo tới đánh. Người to lớn giận dữ xông tới, tay không ác đấu một lúc thì vươn tay chụp lấy Mỗ đút vào miệng, rướn cổ ra nuốt xuống rồi ung dung bỏ đi.
087. Tướng Công Hồ Tứ (Hồ Tứ Tướng Công)
Trương Hư Nhất ở huyện Lai Vu (tỉnh Sơn Đông) là anh Học sứ Trương Đạo Nhất, tính hào sảng tự tin. Nghe nói ngôi nhà của người nọ trong huyện bị hồ chiếm ở, bèn mang danh thiếp tới yết kiến mong được gặp một lần. Nhét danh thiếp vào khe cửa một lúc thì cánh cổng tự mở, đầy tớ sợ hãi lui lại. Trương sửa áo kính cẩn bước vào, thấy trong sảnh đường đủ cả bàn ghế nhưng vắng ngắt không có một ai, bèn vái dài khấn rằng "Tiểu sinh trai giới tới đây, thượng tiên đã không nỡ từ chối ngay từ cổng, sao không ban ơn cho thấy mặt?". Chợt nghe có tiếng người nói "Làm phiền ông lặn lội giá lâm, đã nghe tiếng bước chân rồi, xin mời ngồi xuống dạy dỗ cho", lập tức thấy hai chiếc ghế di động tới đối mặt với nhau.
Trương vừa ngồi lập tức có cái khay đỏ sơn đen đựng hai chung trà lơ lửng tới trước mặt, mỗi bên cầm một chén lên uống, nghe tiếng thổi, tiếng hớp nước nhưng vẫn không thấy người. Uống trà xong, kế có rượu dọn ra, Trương hỏi lai lịch, hồ đáp "Đệ họ Hồ, bày hàng thứ tư, bọn tùy tùng gọi là Tướng công". Rồi đó uống rượu trò chuyện, thấy rất hợp nhau. Thấy chả ba ba, khô thịt nai, rau sống liên tiếp đưa lên, như có rất nhiều người hầu rượu. Trương uống rượu xong đang muốn uống trà, vừa nghĩ xong đã có trà thơm phức đặt lên bàn, cứ vừa nghĩ cần món gì thì lập tức món đó đã được mang tới. Trương thích lắm, uống say mới về. Từ đó cứ ba bốn hôm lại đến thăm Hồ một lần, Hồ cũng thường tới nhà Trương như qua lại đáp lễ.
Một hôm Trương hỏi "Có bà đồng ở nam thành vẫn khoe nhà có thần hồ mà lấy tiền người bệnh, không rõ ông có quen hồ nhà ấy không?". Hồ đáp "Mụ ta bịa đấy, không có hồ thật đâu". Lát sau Trương đứng dậy đi tiểu, nghe thấy tiếng nói nhỏ "Vừa rồi nghe nói tới bà đồng có hồ ở nam thành, chẳng biết ra sao. Tiểu nhân muốn theo tiên sinh tới xem, xin tiên sinh nói với chủ nhân một câu". Trương biết đó là đám hồ nhỏ, bèn gật đầu nói "Được rồi". Rồi quay vào chỗ ngồi nói với Hồ rằng "Ta muốn mượn hai ba người hầu dưới trướng tới xem thư bà đồng có hồ, xin ông ra lệnh". Hồ cứ nói không cần, Trương năn nỉ mấy lần mới ưng thuận.
Kế Trương ra thì ngựa tự tới như có người nắm cương dắt đi, khi lên ngựa đi thì dọc đường hồ nói với Trương "Từ nay tiên sinh đi đường thấy cát nhỏ bắn lên vạt áo tức là có bọn ta đi theo đấy". Nói tới đó thì vào thành, tới nhà bà đồng nọ. Bà đồng thấy Trương tới, tươi cười ra đón, nói "Sao quý nhân lại bất ngờ quang lâm?". Trương hỏi "Nghe nói ông hồ trong nhà bà linh thiêng lắm phải không?". Bà đồng nghiêm sắc mặt dáp "Người sang cả không nên nói lời khinh bạc, sao lại nói là ông hồ? E rằng bà chị xinh đẹp nhà ta không vui đâu!". Chưa dứt lời thì có nửa viên gạch ném tới trúng tay, bà đồng giật mình nhảy dựng lên, hoảng sợ hỏi Trương "Sao quan nhân lại ném gạch vào già?". Trương cười nói "Bà già mù rồi, đó là gạch ngói trên nóc nhà bà lở xuống, định vu oan cho người ngoài à?". Bà đồng ngạc nhiên không biết viên gạch từ đâu bay tới, đang dáo dác ngó quanh lại bị một hòn đá ném trúng đầu ngã lăn ra, kế bị bùn đất cứt đái ném xuống tới tấp, mặt mày lấm lem như quỷ, chỉ kêu gào xin tha mạng.
Trương xin đám hồ nhỏ tha cho, chúng mới dừng tay. Bà đồng vội vùng dậy chạy tuốt vào phòng đóng chặt cửa không dám ra nữa. Trương gọi hỏi "Hồ của ngươi bằng hồ của ta không?", bà đồng chỉ rối rít xin lỗi. Trương ngẩng đầu lên không bảo đừng ném nữa, bà đồng mới dám run rẩy bước ra, Trương cười an ủi vài câu rồi về. Từ đó Trương đi một mình trên đường mà thấy cát bụi bắn lên áo thì gọi hồ cùng trò thuyện, lần nào cũng có bên cạnh, nhờ thế chẳng sợ gì sói cọp trộm cướp. Cứ thế nửa năm, ngày càng thân thiết với đám hồ. Thường hỏi tuổi, cả bọn đều không nhớ rõ, chỉ nói rằng từng thấy Hoàng Sào* làm phản nhưng cũng chỉ như vừa hôm qua.
*Hoàng Sào: lãnh tụ nông dân cuối thời Đường, theo Phương Tiên Chi khởi nghĩa rồi thay Tiên Chi lãnh đạo, từng đánh chiếm Trường An, xưng hiệu Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Tề, chống nhà Đường trong thời gian 874-884.
Một đêm đang cùng trò chuyện chợt nghe đầu tường có tiếng hú lớn rất ghê rợn, Trương lấy làm lạ, Hồ nói "Đó ắt là anh ruột ta". Trương hỏi "Vậy sao không mời vào chơi?", Hồ đáp "Y tệ lắm, chỉ thích trộm cắp gà qué mà ăn, cứ mặc kệ y là xong". Trương nói với Hồ "Giao du thân thiết như hai chúng ta có thể nói là không ngờ vực gì nhau, thế mà chưa lần nào được thấy mặt ông, nghĩ thật đáng hận". Hồ đáp "Chỉ cần chơi thân với nhau là được rồi, thấy mặt làm gì?".
Một hôm Hồ bày tiệc mời Trương, nói xin cáo biệt. Trương hỏi định đi đâu, Hồ đáp "Đệ có sản nghiệp ở Thiểm Trung (tỉnh Thiểm Tây), định về lại đó. Ông vẫn hận việc đối diện không thấy mặt, nay xin nhìn qua người bạn mấy năm một lần để ngày sau còn nhận ra nhau". Trương nhìn quanh không thấy gì, Hồ nói "Ông cứ vén rèm cửa phòng ngủ ra là thấy đệ". Trương theo lời vén rèm lên, thấy có một thiếu niên đẹp trai đang nhìn mình cười, phục sức sang trọng, mày mắt như vẽ, chớp mắt không thấy đâu nữa. Trương quay người bước ra thì có tiếng giày lẹp kẹp phía sau, nói "Hôm nay ông hết hận rồi nhé". Trương lưu luyến không nỡ chia tay, Hồ nói "Tan hợp là có số, băn khoăn làm gì?". Rồi lấy chén lớn mời rượu, đến nửa đêm mới sai lấy đèn lồng đưa Trương về.
Sáng ra Trương tới xem, thì chỉ có nhà không vắng ngắt mà thôi. Về sau tiên sinh Trương Đạo Nhất làm quan Học sứ ở Tây Xuyên (tỉnh Tứ Xuyên), Trương vẫn nghèo như trước bèn tới thăm em, cũng mong được biếu thật nhiều. Hơn tháng trở về, được biếu quá ít so với lòng mong mỏi, trên ngựa cứ thở vắn than dài như vợ chết. Chợt có một thiếu niên cưỡi ngựa Thanh câu từ sau đuổi theo, Trương nhìn thấy áo đẹp ngựa khỏe, dáng vẻ rất phong nhã, bèn trò chuyện qua loa.
Thiếu niên thấy Trương có vẻ buồn bã bèn hỏi, Trương cũng thở dài kể lại nguyên do, thiếu niên cũng tìm lời an ủi. Cùng đi hơn một dặm, tới ngã ba thiếu niên chắp tay chào nói "Phía trước có người gởi ông một vật của cố nhân, xin vui lòng nhận cho", định hỏi lại thì đã phóng ngựa đi thẳng, Trương cũng chẳng hiểu là có ý gì. Lại đi hai dặm, gặp một người đầy tớ cầm cái rương nhỏ đón trước ngựa đưa lên nói "Tướng công Hồ Tứ kính gởi tiên sinh", Trương lúc ấy mới chợt hiểu ra. Bèn đón lấy mở ra xem, thì bên trong toàn bạc nén trắng xóa, nhìn lại người đầy tớ thì không biết đã đi đâu mất.
088. Cừu Đại Nương (Cừu Đại Nương)
Cừu Trọng người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây) không rõ phủ huyện, gặp loạn bị giặc bắt đi. Có hai trai là Phúc và Lộc còn nhỏ, vợ kế là Thiệu thị chăm sóc đôi trẻ mồ côi, may nhờ sản nghiệp của Trọng để lại cũng được ấm no, nhưng gặp mấy năm mất mùa liên tiếp, lại bị cường hào lấn áp đến nỗi không giữ được mà ăn. Chú của Trọng là Thượng Liêm thấy cháu dâu cải giá thì có lợi cho mình, thường khuyên lấy chồng nhưng Thiệu thị thề giữ chí không lay chuyển. Liêm ngầm hẹn với một nhà đại tộc, định cưỡng ép nàng, bàn bạc đã xong mà người ngoài vẫn không ai biết.
Trong làng có tên Ngụy là kẻ gian giảo quỷ quyệt từ lâu có hiềm khích với nhà Trọng, có chuyện gì cũng nghĩ cách phá đám, nhân Thiệu thị ở góa bèn phao tin nhảm để bêu xấu. Nhà đại tộc nghe được, cho Thiệu thị là người không có đức bèn thôi. Lâu ngày mưu của Liêm và lời đồn đại bên ngoài cũng tới tai Thiệu thị, nàng buồn rầu uất sớm tối sa lệ dần dần tay chân tê bại nằm liệt giường. Phúc đã mười sáu tuổi, vì trong nhà không có người khâu vá nên vội lo việc lấy vợ, hỏi cưới con gái Tú tài Khương Dĩ Chiêm, có tiếng hiền thục đảm đang, việc nhà đều nhờ nàng lo toan xếp đặt, nhờ vậy nhà cũng hơi dư dật, bèn cho Lộc đi học.
Ngụy ghen ghét nhưng làm ra vẻ thân thiện, nhiều lần mời Phúc uống rượu, Phúc thấy thế coi Ngụy như bạn thân. Ngụy nhân dịp nói "Lệnh đường bệnh nằm liệt giường không thể coi sóc việc nhà, chú em thì chỉ ngồi ăn không làm được việc gì, hai vợ chồng việc gì phải nai lưng ra làm trâu ngựa? Lại lúc chú em cưới vợ thì còn tốn kém nhiều nữa chứ. Tính kế cho ông chẳng bằng cứ sớm ra riêng, thì chú em sẽ phải nghèo chứ ông sẽ giàu có". Phúc về bàn với vợ, vợ cho là nói bậy. Nhưng Ngụy cứ rủ rỉ xúi giục ngày này tháng khác, mưa dầm thấm sâu nên Phúc nghe theo, bèn nói thẳng ý ấy với mẹ. Mẹ tức giận chửi mắng, Phúc càng tức tối, cho rằng tiền bạc thóc gạo trong nhà chẳng qua chỉ là của người khác nên không ngó ngàng gì tới nữa.
Ngụy thừa cơ rủ rê Phúc cờ bạc, thóc trong kho cứ vơi dần, vợ biết nhưng chưa dám nói, đến lúc hết thóc ăn, mẹ giật mình hỏi mới nói thật. Mẹ giận lắm nhưng không làm sao được, đành cho Phúc ra ở riêng. May là cô gái họ Khương hiền đức, sáng chiều vẫn qua lại lo cơm nước hầu hạ mẹ như trước. Phúc đã ra riêng càng không nể sợ gì nữa, thả sức cờ bạc, chỉ trong vài tháng đã bán sạch ruộng vườn nhà cửa để trả nợ chơi bời mà mẹ và vợ vẫn chưa biết. Khi tiền bạc đã hết sạch, không còn cách nào bèn làm tờ gán vợ để vay tiền mà không ai chịu nhận.
Trong huyện có Triệu Diêm La vốn là tên cướp lớn lọt lưới, ngang ngược nhất vùng nên không sợ Phúc nuốt lời, thản nhiên cho vay. Phúc cầm tiền đi, vài ngày thì thua sạch, đang ngần ngừ định bội ước thì Triệu đã trừng mắt nhìn. Phúc cả sợ, lừa dắt vợ tới giao cho Triệu. Ngụy nghe tin mừng thầm, chạy ngay tới nói với nhà họ Khương, rắp tâm làm cho họ Cừu lụn bại. Khương tức giận phát đơn kiện, Phúc sợ quá bèn bỏ trốn. Cô gái họ Khương tới nhà Triệu mới biết là bị chồng lừa bán, khóc lớn chỉ muốn chết ngay. Triệu ban đầu còn dỗ dành nhưng nàng không nghe, kế ra oai quát nạt thì nàng càng mắng chửi, cả giận đánh đập nàng cũng không chịu khuất phục, rút trâm cài đầu tự đâm vào cổ họng, vội tới cứu thì đã lút vào thực quản, máu phun ra. Triệu vội lấy lụa băng bó cho nàng, còn nghĩ cứ để thong thả sẽ khuất phục được.
Hôm sau có trát quan tới đòi, Triệu thản nhiên lên hầu như không có chuyện gì. Quan khám thấy vết thương của cô gái rất nặng, sai nọc Triệu ra đánh, nhưng đám lính cứ nhìn nhau không dám ra tay. Quan nghe đồn Triệu ngang ngược đã lâu, đến lúc ấy càng tin, cả giận gọi người nhà ra đánh Triệu chết luôn tại chỗ, Khương bèn cáng con gái về. Từ khi họ Khương đi kiện, Thiệu thị mới biết Phúc hư hỏng tới mức ấy, gào khóc cơ hồ đứt hơi rồi nhắm mắt ngất đi. Bấy giờ Lộc mười lăm tuổi, một mình lúng túng không biết làm sao.
Trọng có một gái con vợ trước là Đại Nương gả chồng xa, tính khí cương cường, mỗi khi về thăm mà thức ăn vật dùng không vừa ý thì cãi vã với cha mẹ rồi giận dữ bỏ đi, Trọng vì thế giận ghét, lại vì đường xa nên có khi vài năm không một lần thăm hỏi. Lúc Thiệu thị bệnh nặng, Ngụy muốn gọi nàng tới để gây ra việc tranh giành của cải, gặp lúc có người lái buôn ở cùng làng với Đại Nương bèn thác cớ nhắn tin, lại mừng rằng nhà này thế là tan nát.
Vài hôm sau quả nhiên Đại Nương dắt một đứa con nhỏ tới, vào nhà thấy em nhỏ hầu mẹ ốm, quang cảnh rất thảm đạm, bất giác mủi lòng. Nhân hỏi tới Phúc, Lộc kể hết đầu đuôi, Đại Nương nghe thấy giận nghẹn cổ nói "Nhà không có người lớn nên để cho người ta giày xéo đến như thế! Ruộng vườn nhà ta sao bọn ăn cướp dám lừa chiếm lấy?". Rồi xuống bếp chụm lửa nấu cháo bưng lên mời mẹ trước, kế gọi em và con cùng ăn. Ăn xong giận dữ ra đi, tới huyện nộp đơn kiện bọn cờ bạc. Cả bọn sợ góp tiền đút lót Đại Nương, nàng nhận tiền nhưng vẫn kiện.
Quan cho bắt tên Giáp, tên Ất... đánh đòn quở trách nhưng không hỏi tới việc ruộng vườn. Đại Nương căm tức không thôi, dắt con lên thẳng lên quận. Quận thú rất ghét cờ bạc, Đại Nương hết sức bày tỏ nỗi cô khổ cùng tình trạng bị bọn cờ bạc lừa đảo, lời lẽ thống thiết. Quận thú động lòng, ra lệnh cho quan huyện truy thu ruộng vườn cấp lại cho chủ cũ và trừng phạt Cừu Phúc làm gương cho bọn hư hỏng. Sau khi nàng về, quan huyện được lệnh ráo riết thi hành nên nhà cửa ruộng vườn cũ lấy lại được hết. Lúc ấy Đại Nương góa chồng đã lâu, bèn bảo đứa con nhỏ về nhà, dặn phải theo anh lo làm ăn không được tới nữa. Đại Nương từ đó ở lại nhà mẹ, nuôi mẹ dạy em, xếp đặt trong ngoài đâu vào đấy. Mẹ được an ủi rất nhiều, dần dần khỏi bệnh, việc
nhà giao cả cho Đại Nương.
Bọn cường hào trong làng có hơi lấn lướt thì nàng vác dao tới tận cửa cứng cỏi đấu lý, kẻ nào cũng phải nhụt. Hơn một năm thì ruộng vườn ngày càng tăng, thỉnh thoảng lại mua thuốc men và thức ngon vật lạ gởi cho cô gái họ Khương. Lại thấy Lộc dần trưởng thành, nhiều lần dặn mối lái tìm nơi cưới hỏi. Ngụy nói với mọi người rằng "Sản nghiệp nhà họ Cừu đều giao cho Đại Nương, e rằng sau này không lấy lại được", mọi người tin theo nên không ai muốn kết thông gia với họ Cừu. Có công tử Phạm Tử Văn, nhà có khu vườn nổi tiếng nhất ở đất Tấn, các loại hoa quý trong vườn trồng dọc hai bên đường chạy thẳng vào nhà trong. Có người không biết lỡ đi vào, gặp lúc gia đình công tử đang ăn tiệc, ông nổi giận bắt trói bảo là kẻ trộm, đánh cho gần chết.
Gặp tiết Thanh minh, Lộc từ trường học trở về, Ngụy rủ đi chơi, dắt tới chỗ ấy. Ngụy vốn quen người coi vườn nên được cho vào, đi xem khắp cả đình tạ. Giây lát tới một chỗ nước khe chảy cuồn cuộn, có chiếc cầu vẽ lan can màu đỏ thông vào cánh cổng sơn đen, từ xa nhìn tới thấy hoa rậm như gấm, là nơi phòng sách của công tử. Ngụy lừa nói "Anh cứ vào trước, ta đi tiểu một chút". Lộc tin bèn bước lên, qua cầu vào cửa, tới một dãy viện thì nghe tiếng con gái cười nói. Vừa dừng chân thì có một tỳ nữ ra, nhìn thấy Lộc lập tức quay gót trở vào, Lộc mới sợ hãi bỏ chạy. Giây lát công tử bước ra quát người nhà lấy dây thừng đuổi bắt, Lộc bí quá nhảy luôn xuống khe. Công tử hết giận bật cười, sai đầy tớ xuống dắt lên.
Thấy mặt mũi y phục của Lộc đều phong nhã, ông sai đem áo và giày ra cho thay rồi dắt vào một ngôi đình hỏi họ tên, thái độ hết sức niềm nở thân mật. Lát sau công tử đi nhanh vào trong rồi trở ra ngay, tươi cười dắt tay Lộc đi, qua cầu dần tới chỗ lúc nãy. Lộc không hiểu ý thế nào, dùng dằng không dám bước, công tử cố kéo vào. Thấy sau giậu hoa thấp thoáng có người đẹp nhìn trộm, vừa ngồi xuống thì các tỳ nữ dọn rượu lên. Lộc từ tạ nói "Trẻ con không biết gì, đi lầm vào chốn khuê các, được khoan xá là đã mừng lắm, chỉ mong được cho về sớm thì đội ơn vô cùng", nhưng công tử không nghe. Giây lát thức ăn bày lên la liệt, Lộc lại đứng lên từ tạ là đã no say rồi. Công tử kéo ngồi xuống, cười nói "Ta có một cái tên từ khúc, nếu ông đối được xin cho đi ngay". Lộc dạ dạ xin cho biết. Công tử nói "Phách tên Chẳng hề giống", Lộc ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đối "Bạc đúc Biết làm sao". Công tử cười lớn nói "Quả đúng là Thạch Sùng!"*, Lộc không hiểu gì cả.
*Công tử nói... Thạch Sùng: nguyên văn hai vế đối trên là "Phách danh Hồn bất tự, Ngân thành Một nại hà". Vế trước lấy tích Chiêu Quân có chiếc đàn tỳ bà bị hỏng, sai làm chiếc khác, khi dâng lên thì bé hơn chiếc trước, Chiêu Quân cười nói "Chẳng hề giống chiếc trước" (Hồn bất tự), người sau nhân lấy đó đặt tên cho một bản nhạc, vì ngoa truyền nên có khi gọi là "Hồn phát tứ". Vế sau lấy tích nhà Trương Tuần, Vương Tuấn thời Tấn có nhiều bạc, cho đúc thành hình quả cầu, mỗi quả là một ngàn lượng, gọi tên là "Biết làm sao" (Một nại hà), ý nói quá giàu có. Thạch Sùng là người thời Tấn, nổi tiếng phú gia địch quốc.
Thì ra công tử có con gái tên Huệ Nương, xinh đẹp lại biết chữ, vẫn tìm chỗ gả chồng cho. Đêm trước nàng mơ thấy một người nói "Chồng ngươi là Thạch Sùng", hỏi ở đâu thì đáp "Ngày mai sẽ rơi xuống nước", sáng ra kể với cha, mọi người đều lấy làm lạ. Vừa gặp việc Lộc rất hợp với giấc mơ nên công tử mời vào nhà trong cho phu nhân và đàn bà con gái trong nhà xem mặt. Công tử nghe câu đối của Lộc rất mừng, nói "Tên phách nhạc là do tiểu nữ đặt ra, nghĩ mãi mà không đối được, nay mới được câu đối hay, cũng là duyên trời. Ta muốn để cháu làm người nâng khăn sửa túi cho ông, vả lại tệ xá cũng không thiếu nơi ở, không dám làm phiền phải rước dâu". Lộc bối rối từ tạ lại lấy cớ mẹ đang ốm không ở rể được. Công tử bảo cứ về bàn lại rồi sai mã phu thắng ngựa mang áo quần ướt đưa Lộc về.
Về tới nhà Lộc kể với mẹ, mẹ sợ cho là việc bất tường, từ đó mới biết Ngụy là kẻ hiểm độc nhưng vì gặp việc dữ mà được điều lành nên cũng không đem lòng thù oán, chỉ khuyên con nên xa lánh đừng giao thiệp với y nữa mà thôi. Qua vài hôm công tử lại cho người đến ngỏ ý với mẹ Lộc, rốt lại bà vẫn không dám nhận lời, Đại Nương bèn nhận lời rồi nhờ hai bà mối đi nộp sính lễ cho nhà công tử. Không bao lâu Lộc tới gởi rể ở nhà công tử, qua năm sau được vào học trường huyện nổi tiếng tài giỏi. Em vợ dần dần lớn lên, không kính trọng anh rể như trước nữa. Lộc tức giận bèn đưa vợ về nhà mình. Lúc ấy mẹ đã chống gậy đi lại được mấy năm liền nhờ có Đại Nương trông nom nên nhà cửa cũng khang trang.
Cô dâu mới đã về, tớ trai tớ gái tấp nập, rõ ra có phong thái đại gia. Ngụy bị tuyệt giao lại càng ghen ghét, giận không vạch lá tìm sâu gì được để hãm hại, gặp lúc có bọn cướp lớn đang bị truy nã bèn vu cáo Lộc giấu diếm tiền bạc cho chúng, Lộc bị xử đày ra ngoài cửa ải. Phạm công tử đút lót từ trên tới dưới chỉ xin miễn cho Huệ Nương khỏi bị đi đày, còn ruộng vườn nhà cửa đều bị sung công. May là Đại Nương cầm giấy chia gia tài lên quan cãi lý, bao nhiêu ruộng vườn mới mua thêm đều đứng tên Phúc nên mẹ con mới được ở yên. Lộc nghĩ mình không trở về được nữa bèn làm giấy ly hôn đưa cha vợ rồi lẻ loi lên đường.
Đi được vài ngày tới đất Bắc Đô, vào ăn trong quán, thấy có người ăn mày khép nép ngoài cửa, mặt mũi rất giống anh mình, ra hỏi thì đúng là anh. Lộc kể chuyện mình, anh em đều buồn thảm. Lộc mở hành lý chia cho Phúc ít tiền bảo về nhà. Phúc rơi lệ nhận rồi chia tay.
Lộc tới cửa ải được sung làm lính hầu cho tướng quân, vì là học trò yếu ớt nên được giữ việc biên chép sổ sách, ăn ở chung với đám tôi tớ. Bọn họ hỏi han gia thế, Lộc kể hết, trong bọn có một người cả kinh nói "Đúng là con ta rồi". Thì ra Cừu Trọng ban đầu bị bọn cướp sai chăn ngựa, về sau chúng bỏ trốn, Trọng bị bắt đày ra cửa ải làm đầy tớ cho tướng quân. Trọng thuật lại rõ đầu đuôi, cha con mới nhận ra nhau bèn ôm nhau khóc, mọi người đều mủi lòng. Không bao lâu, tướng quân bắt được vài mươi tên cướp lớn, trong có một tên chính là kẻ trước đây Ngụy vu cáo là bè đảng của Lộc. Kế lấy lời cung của y xong, hai cha con kêu khóc với tướng quân. Tướng quân dâng sớ rửa oan cho, vua biết chuyện bèn ra lệnh cho quan địa phương chuộc lại ruộng đất trả lại họ Cừu, cha con đều mừng rỡ. Lộc hỏi số người trong nhà để tính cách chuộc mình cho cha mới biết từ khi theo hầu tướng quân Trọng đã hai lần lấy vợ mà không có con, lúc ấy lại vừa góa vợ. Lộc bèn sắm sửa hành trang về quê.
Trước đó Phúc chia tay em về tới nhà, khúm núm sụp lạy xin chịu tội. Đại Nương rước mẹ lên ngồi nhà trên, cầm gậy hỏi Phúc "Ngươi chịu đánh đòn thì có thể tạm cho ở lại còn không thì ruộng vườn nhà cửa của ngươi đã hết sạch, đây cũng không phải chỗ người xin ăn, mời xéo ngay!". Phúc khóc lạy xuống đất xin chịu đòn, Đại Nương vứt gậy xuống nói "Cái người đã bán vợ thì ta cũng chẳng thèm đánh đòn, nhưng án cũ vẫn chưa xóa, nếu tái phạm cứ báo quan thôi!", rồi lập tức cho người qua báo tin cho họ Khương. Cô gái họ Khương mắng "Ta là người gì của nhà họ Cừu mà phải báo tin!", Đại Nương cứ nhắc đi nhắc lại câu ấy để đay nghiến Phúc, Phúc hổ thẹn không dám lên tiếng.
Suốt nửa năm Đại Nương cho Phúc đủ ăn đủ mặc nhưng bắt làm việc như tôi tớ, Phúc cũng làm lụng không hề oán trách, có giao cho tiền bạc cũng không dám bừa bãi. Đại Nương xét thấy không có ý gì khác, bèn thưa với mẹ mời cô gái họ Khương về. Mẹ cho rằng không sao làm nàng hồi tâm lại được, Đại Nương nói "Không phải thế, nếu người ta chịu thờ hai chồng thì đã không tự chuốc lấy đau đớn khổ sở, chứ không thể không có nỗi uất hận ấy", rồi dắt em trai qua chịu tội. Ông bà nhạc trách mắng hết lời, Đại Nương quát bắt Phúc quỳ xuống rồi mới xin gặp mặt cô gái. Mời ba bốn lần nàng vẫn khăng khăng từ chối không chịu ra, Đại Nương kéo ra thì nàng chỉ mặt Phúc mắng nhiếc. Phúc thẹn toát mồ hôi, không sao tha thứ được cho mình, bà Khương mới kéo Phúc, bảo đứng lên. Đại Nương xin cho biết ngày trở về, cô gái nói "Trước nay chịu ơn chị rất nhiều, nay chị dạy như thế đâu dám nói gì khác nhưng sợ không giữ được khỏi bị bán lần nữa. Vả chăng ân nghĩa đã dứt, còn mặt mũi nào ăn ở với đứa vô lại xấu xa ấy nữa? Muốn xin chị cho một chỗ ở riêng, thiếp qua đấy phụng dưỡng mẹ già còn hơn cạo đầu đi tu là đủ". Đại Nương nói hộ là Phúc đã ăn năn, hẹn ngày mai qua đón rước rồi chào về.
Sáng hôm sau cho kiệu qua đón cô gái về, mẹ ra đón ở cổng quỳ lạy, cô gái cũng sụp lạy khóc lớn. Đại Nương khuyên lơn an ủi, dọn tiệc ăn mừng, bảo Phúc ngồi cạnh bàn rồi nâng chén rượu nói "Ta tranh giành khổ sở không phải để mưu lợi cho mình. Nay em đã hối lỗi, vợ hiền đã trở về, xin đem sổ sách giao lại, ta tới tay không thì cũng về tay không". Vợ chồng đều rời bàn tiệc đứng dậy, nghiêm trang vái lạy khóc lóc năn nỉ, Đại Nương bèn thôi. Không bao lâu lệnh rửa oan về tới, chỉ vài ngày ruộng vườn nhà cửa lại trở về chủ cũ. Ngụy kinh hãi không biết vì sao, tự giận mình không còn kế gì để thi thố. Gặp lúc nhà láng giềng phía tây bị cháy, Ngụy lấy cớ chữa cháy chạy qua, ngầm lấy mồi rơm đốt nhà Lộc, gió lại thổi mạnh cháy lan gần hết, chỉ còn hai ba gian nhà của Phúc, cả nhà phải ở chung vào đó ít lâu sau Lộc về, gặp nhau mừng mừng tủi tủi.
Lúc trước Phạm công tử nhận được tờ ly hôn, đem bàn với Huệ Nương, Huệ Nương khóc ròng xé nát vứt xuống đất, cha chiều ý không ép nữa. Lộc về nghe nỏi nàng chưa cải giá mừng rỡ tới nhà nhạc gia, công tử biết nhà Lộc vừa bị cháy, mượn giữ ở lại đó nhưng Lộc không chịu, cáo từ ra về. May là Đại Nương còn tiền cất được bèn đem ra sửa nhà, Phúc vác mai đi đào đất đắp nền, đào phải hầm tiền chôn. Đêm đến cùng em ra đào thì là một cái bể xây bằng đá rộng khoảng một trượng chứa đầy tiền đồng, nhờ đó mướn thợ xây nhà, lầu gác san sát tráng lệ sánh ngang nhà đại gia. Lộc nhớ ơn tướng quân, sắp ra ngàn vàng để chuộc cha. Phúc xin đi, nhà bèn cho đầy tớ khỏe mạnh theo hầu. Lộc đón Huệ Nương về, ít lâu sau cha và anh cùng về, cả nhà vui vẻ tưng bừng.
Đại Nương từ khi về ở nhà mẹ thì cấm con tới thăm để tránh tiếng, nay cha đã về liền quyết ý xin đi, hai em không nỡ để chị đi. Cha bèn chia gia sản làm ba, con trai hai phần con gái một phần. Đại Nương từ tạ không nhận, hai em rơi nước mắt nói "Hai em không có chị thì làm gì có được ngày nay!". Đại Nương bèn ở lại, sai người gọi con dọn nhà về ở chung. Có người hỏi Đại Nương rằng chị em khác mẹ sao gắn bó như vậy, Đại Nương đáp "Biết có mẹ mà không biết có cha, chỉ có cầm thú mới thế thôi? Là người sao lại bắt chước giống vật chứ". Phúc và Lộc nghe nói đều chảy nước mắt. Rồi sai thợ làm nhà cho Đại Nương, cũng rộng lớn như nhà mình.
Ngụy nghĩ hơn mười năm tìm cách gây họa mà hóa ra lại là tạo phúc cho người, rất hổ thẹn áy náy. Lại ngưỡng mộ họ Cừu giàu có, muốn làm thân bèn lấy cớ mừng Trọng mới về, đưa lễ vật qua mừng. Phúc muốn từ chối nhưng Trọng không nỡ phật ý bèn nhận gà rượu. Gà có buộc dây vải ở chân, sổng ra chạy vào bếp, lửa bén vào dây vải, gà nhảy lên đống củi đậu, đám tôi tớ đều nhìn thấy nhưng chưa để ý. Lát sau đống củi bốc cháy, cả nhà hoảng sợ, may có đông người nhiều tay xúm lại dập tắt được ngay nhưng đồ đạc trong bếp đã cháy sạch, anh em đều bảo đồ vật của Ngụy là không lành.
Sau đó gặp ngày mừng thọ của Trọng, Ngụy lại biếu con dê, từ chối không được phải buộc dê vào gốc cây ngoài sân. Đến đêm có đứa tiểu đồng bị tên đầy tớ đánh, tức giận chạy ra gốc cây mở sợi dây buộc dê tự treo cổ chết. Anh em than rằng "Y làm phúc lại không bằng y gây họa", từ đó tuy Ngụy vẫn ân cần, nhưng nhà Trọng không dám nhận đến một sợi chỉ, chỉ đối xử với y thật tốt mà thôi. Sau Ngụy già nghèo khổ phải đi ăn mày, nhà họ Cừu vẫn lấy ơn trả oán, chu cấp cho cái ăn cái mặc.
Dị Sử thị nói: Ôi, tạo vật quả thật rất không theo ý người. Càng thù ghét thì càng đem phúc tới cho, sự gian trá của kẻ kia không thể nói là quá đáng được! Nhưng mong được y thương yêu kính trọng thì lại gặp tai họa, chẳng cũng lạ ư? Thế mới biết nước suối Đạo Tuyền*, vốc một vốc thì nhơ bẩn một vốc.
* Đạo Tuyền: tên một con suối ở tỉnh Sơn Đông, "Đạo" có nghĩa là trộm cướp Tương truyền Khổng Tử đi ngang suối ấy khát nước nhưng không chịu uống vì ghét tên suối, người ta dùng tích này để chỉ việc kẻ quân tử tự trọng thân phận trong hành động. Đây có ý nói nên thận trọng trong việc giao du với người xấu.
089. Lý Bá Ngôn (Lý Bá Ngôn)
Lý sinh tên Bá Ngôn là người huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông), cương trực can đảm. Chợt mắc bệnh nặng, người nhà mang thuốc cho uống, Lý từ chối nói "Bệnh của ta không phải là thuốc mà chữa được, vì chức Diêm Vương ở âm ty bị khuyết nên ta tạm đi giữ ấn triện thôi, đừng chôn ta, cứ để đấy đợi". Hôm ấy Lý chết, thấy có nghi trượng tới đón đi, vào tới một nơi cung điện có người dâng áo mão Diêm Vương, nha lại đứng hầu rất nghiêm chỉnh.
Trên bàn sổ sách chất đống, có một vụ án là tên Mỗ ở Giang Nam, tính lại bình sinh đã cưỡng gian tám mươi hai người đàn bà con gái nhà lương thiện, tra xét thì thấy đủ cả chứng cứ không sai, xét theo luật âm ty phải chịu tội bào lạc. Dưới thềm có cây cột đồng cao tám chín thước, chu vi khoảng một ôm, ruột rỗng để đổ than lửa vào đó, trong ngoài đều đỏ rực. Đám quỷ tốt lấy chùy sắt có gai nhọn đánh giải Mỗ tới, bắt giang tay khuỳnh chân trèo lên. Lên tới đỉnh cột thì khói bốc mù mịt, đoàng một tiếng nổ tung ra như ống pháo tre, thân thể rơi xuống, nằm co quắp một hồi mới tỉnh lại. Đám quỷ tốt lại đánh bắt trèo lên, lại nổ ra rơi xuống như lần trước, tới lần thứ ba chỉ còn là một đám khói là là mặt đất rồi tan ra, không sao còn có thể trở thành hình người nữa.
Lại tới một vụ khác, là Vương Mỗ người cùng huyện, bị cha người tỳ nữ kiện là bắt cóc con gái, Vương vốn là thông gia với sinh. Trước là có một người bán tỳ nữ, Vương biết là y bất chính nhưng thấy giá hời bèn mua về. Đến lúc ấy Vương bị bạo bệnh chết, hôm sau bạn Vương là Chu lại gặp bên đường, biết là ma bỏ chạy về nhà, Vương cũng theo vào. Chu sợ hãi ra gặp hỏi định làm gì. Vương đáp "Phiền ông xuống làm chứng giùm dưới âm ty", Chu kinh ngạc hỏi làm chứng việc gì, Vương đáp "Ta mua tỳ nữ theo đúng giá, nay bị vu là bắt cóc, việc này chính ông chứng kiến, xin nói cho một câu làm tin, không cần nói gì khác". Chu cố từ chối, Vương bỏ ra nói "Sợ chuyện này thì ông không làm chủ được thôi".
Không bao lâu quả nhiên Chu chết, cùng bị giải tới Diêm Vương đối chất. Lý thấy Vương trong lòng ngầm có ý thiên vị, chợt trên nóc điện có ngọn lửa bùng lên, rường cột cháy phùng phừng, Lý cả sợ đứng bật dậy, viên lại ngầm bước tới sau lưng nói "Âm ty không phải như dương thế, không thể có một chút ý niệm riêng tư, xin ông bỏ ngay ý ấy thì lửa sẽ tự tắt". Lý bèn ngưng thần gạt bỏ tạp niệm, ngọn lửa tắt ngay. Kế hỏi cung, vương và cha người tỳ nữ tranh cãi không thôi, hỏi Chu thì Chu cứ theo sự thật thưa lên. Vương bị kết án cố ý phạm tội, phạt đánh gậy, đánh xong Lý sai đem cả về cho hồi sinh. Vương và Chu đều chết ba ngày rồi sống lại.
Lý xét việc xong, có xe kiệu đưa về, giữa đường gặp một bọn vài trăm người sứt đầu cụt chân nằm rạp dướỉ đất van xin. Lý dừng xe hỏi thì là ma quỷ chết xa quê muốn trở về nhưng sợ dọc đường bị ngăn trở, xin dẫn đường cho. Lý nói "Ta coi việc Diêm Vương chỉ có ba ngày, nay đã thôi giữ chức, làm sao giúp được". Đám ma nói "Hồ sinh ở thôn nam sắp lập đàn chay tế độ, xin ông nói giùm", Lý ưng thuận. Về tới nhà thì tùy tùng đều quay đi, Lý mới sống lại.
Hồ sinh tự Thủy Tâm chơi thân với Lý, nghe nói Lý sống lại bèn tới thăm, Lý hỏi ngay lúc nào mở đàn chay. Hồ kinh ngạc nói "Sau cơn binh lửa, ta may mà vợ con được vô sự, hôm trước bàn với bà nó định làm điều tâm nguyện ấy nhưng chưa từng nói với một ai, sao ông biết được?". Lý kể lại mọi chuyện, Hồ than "Một câu vừa thốt ra trong phòng kín mà đã đồn đại khắp chốn u minh, thật đáng sợ!", rồi cung kính nhận lời mà về.
Hôm sau Lý qua nhà Vương, Vương còn nằm bệnh, thấy Lý vào lập tức kính cẩn đứng lên tạ ơn đã che chở giúp đỡ cho. Lý nói "Pháp luật không thể nương nhẹ tha thứ gì cả, nay ông may vẫn không sao chứ?". Vương đáp "Nay thì không bị gì khác, chỉ những chỗ bị đánh thì làm mủ thôi". Hơn hai mươi ngày sau mới lành hẳn, thịt thối ở mông rụng ra, còn lại những vết sẹo như lằn gậy in xuống vậy.
Dị Sử thị nói: Hình phạt dưới âm ty còn thảm độc hơn trên dương thế, khiển trách cũng nặng nề hơn, nhưng không ai can thiệp xin xỏ gì được nên kẻ chịu hình phạt thảm khốc cũng không hờn oán. Ai dám nói nơi mộ huyệt không có ánh sáng mặt trời? Ta chỉ hờn không có ngọn lửa nào thiêu đốt sảnh đường trị dân trên dương thế mà thôi.
090. Hoàng Cửu Lang (Hoàng Cửu Lang)
Hà Sư Tham tự Tử Túc làm phòng học ở phía đông Thiều Khê (ở núi Thiên Mục tỉnh Chiết Giang). Cửa nhà học nhìn ra cánh đồng rộng, xế chiều ngẫu nhiên ra ngoài thấy có người đàn bà cưỡi lừa đi tới, một thiếu niên theo sau. Người đàn bà khoảng năm mươi tuổi, phong thái nhàn nhã, thiếu niên thì khoảng mười lăm mười sáu, phong tư xinh đẹp còn hơn cả giai nhân. Hà sinh vốn có bệnh thích đàn ông, thấy thiếu niên điên đảo cả thần hồn, nhón chân nhìn theo đến khi mất hút mới trở về.
Hôm sau lại ra đứng đón, đến sẩm tối thiếu niên mới tới. Sinh niềm nở bước ra đón, cười hỏi đi đâu về, thiếu niên đáp là từ nhà ông ngoại về. Sinh mời vào nghỉ chân, thiếu niên từ chối nói là không rảnh, sinh lôi kéo mãi bèn vào, ngồi giây lát lại đứng lên cáo từ, không thể giữ lại được. Sinh dắt tay đưa ra, ân cần dặn lúc nào tiện đường cứ ghé chơi, thiếu niên dạ dạ rồi đi. Sinh từ đó cứ ngơ ngẩn nhớ nhưng, ra vào trông ngóng cả ngày.
Một hôm lúc mặt trời đang lặn thiếu niên chợt tới, sinh cả mừng mời vào, sai tiểu đồng dọn rượu tiếp đãi. Hỏi tên họ, thiếu niên đáp là họ Hoàng, bày vai thứ chín, vì còn nhỏ nên chưa có tên tự. Hỏi sao hay qua lại đường này, thiếu niên đáp "Mẹ ta ở bên nhà ông ngoại, hay có bệnh nên ta phải qua thăm". Rượu được vài tuần thì cáo từ ra về, sinh nắm tay giữ lại, khóa chặt cửa, Cửu lang không biết làm sao, bẽn lẽn ngồi xuống lại. Sinh thắp đèn cùng trò chuyện, thấy thiếu niên nhỏ nhẻ như con gái, buông lời chọc ghẹo thì càng có vẻ thẹn thùng, quay mặt vào vách. Lát sau cùng đi ngủ, sinh ôm chặt lấy vuốt ve mơn trớn đòi này nọ. Cửu lang tức giận nói "Ta cho rằng ông là kẻ sĩ phong nhã nên mới qua lại, nay lại làm như thế thật chẳng khác gì cầm thú". Không bao lâu, sao trời chỉ còn thưa thớt, Cửu lang bỏ về. Sinh sợ Cửu lang sẽ tuyệt giao, lại ra cửa chờ, qua lại đăm đăm trông ngóng.
Qua mấy hôm Cửu lang mới tới, sinh ra đón tạ lỗi, ép kéo vào nhà, giục ngồi trò chuyện cười nói, thầm lấy làm may mắn vì Cửu lang không để bụng chuyện cũ. Cửu lang nói "Tình thương yêu của ông ta đã khắc sâu vào lòng, nhưng thân ái đâu cứ phải làm thế". Rồi đang đêm ra về, sinh buồn bực như mất vật quý, quên ăn bỏ ngủ, ngày càng héo hắt, chỉ hàng ngày sai tiểu đồng ra cổng chờ đợi. Một hôm Cửu lang ngang qua cổng, định đi thẳng luôn nhưng tiểu đồng ra nắm áo kéo vào. Thấy sinh tiều tụy, Cửu lang kinh sợ hỏi han. Sinh kể thật đầu đuôi, nước mắt rơi lã chã. Cửu lang nói nhỏ "Cái ý thương mến nhau ấy thật đáng cảm kích, nhưng đã chẳng ích lợi gì cho đệ mà còn làm hại cho ông, nên không muốn thôi. Chứ nếu ông đã thích thì ta có tiếc gì".
Sinh cả mừng, Cửu lang đi rồi thấy bệnh tật phút chốc tiêu tan. Vài hôm hoàn toàn bình phục rồi quả nhiên Cửu lang lại tới, cùng nhau vui vầy rồi nói "Nay nể lòng chiều ông, xin đừng làm như thế nữa". Kế nói "Có việc muốn nhờ, không biết ông có chịu giúp không", sinh hỏi việc gì, Cửu lang đáp "Mẹ ta bị đau tim, chỉ có Tiên thiên đan của quan Thái y Tề Dã Vương chữa được, ông chơi thân với ông ấy chắc sẽ xin được", sinh hứa sẽ xin cho. Lúc Cửu lang ra đi lại dặn dò, sinh bèn vào thành xin thuốc, chiều tối mang về. Cửu lang mừng rỡ cảm ơn ca ngợi, nói "Xin tìm cho ông một mỹ nhân, còn hơn đệ gấp vạn lần". Sinh hỏi là ai, Cửu lang đáp "Đệ có người biểu muội xinh đẹp vô song, nếu ông ưng thuận đệ sẽ làm mai cho".
Sinh cười khẽ không đáp, Cửu lang cầm thuốc về. Ba hôm sau lại tới xin thuốc, sinh giận vì tới muộn, lời lẽ có ý bực túc. Cửu lang nói "Bản ý vốn không muốn làm hại ông nên không tới thường, nay ông đã không rộng lượng cho, thì xin đừng hối hận". Từ đó tối nào cũng vui vầy với nhau, mà cứ ba ngày lại xin thuốc một lần. Tề lấy làm lạ vì cứ xin mãi, nói "Thuốc này ai uống ba lần cũng khỏi bệnh, sao lâu quá vẫn không khỏi thế?", rồi lấy ba tễ trao cả cho, lại nhìn sinh nói "Ông khí sắc tối tăm, có bệnh phải không?", sinh đáp "Không". Tề bèn cầm tay bắt mạch, giật mình nói "Ông có quỷ mạch, bệnh ở mạch Thiếu âm, nếu không tự gìn giữ thì chết đấy".
Sinh về kể lại, Cửu lang than "Quả thật là danh y, nói thật ta là hồ, sợ không phải là điều may cho ông". Sinh ngờ là dối trá nên giấu bớt thuốc lại không đưa hết vì sợ Cửu lang không tới nữa. Không bao lâu quả nhiên sinh bị bệnh, rước Tề tới xem, Tề nói "Trước đây ông không nghe ta, nay thần khí đã tan tác, thầy giỏi nào chữa được nữa?". Cửu lang hàng ngày tới chăm sóc, nói "Không nghe lời ta, quả đến nông nỗi này", kế sinh chết, Cửu lang khóc lớn rồi đi.
Trước là trong huyện có Thái sử Mỗ lúc trẻ cùng học với sinh, năm mười bảy tuổi đã làm Hàn lâm. Lúc ấy phiên vương đất Tần (tỉnh Thiểm Tây) tham bạo mà thích ăn của đút, các quan trong triều không ai dám nói. Ông bèn dâng sớ hặc tội, bị kết tội quá phận cách chức. Phiên vương lại được thăng chức Tuần phủ tỉnh ấy, hàng ngày cứ rình ông sơ hở để bắt tội. Ông lúc trẻ có tiếng tài giỏi, có một phiên vương làm phản coi trọng, lúc ấy Tuần phủ bắt được thư từ qua lại giữa đôi bên đem tới uy hiếp, ông sợ treo cổ tự tử, phu nhân cũng tự thắt cổ chết.
Qua đêm chợt ông sống lại nói "Ta là Hà Tử Túc". Người nhà hỏi han thấy đều nói chuyện nhà họ Hà, biết là Hà mượn xác hoàn hồn, giữ lại không được bèn cho về nhà cũ. Tuần phủ ngờ là gian trá, cũng muốn đẩy vào chỗ chết bèn sai người tới đòi ngàn vàng, sinh giả vâng dạ nhưng vô cùng lo lắng.
Chợt Cửu lang tới, cùng nhau mừng rỡ trò chuyện, vừa mừng vừa tủi. Kế lại muốn cùng vui vầy với nhau, Cửu lang nói "ông có tới ba mạng sống à?", sinh đáp "Ta hối vì sống lo chẳng bằng chết sướng", nhân kể lại chuyện oan khổ. Cửu lang nghĩ ngợi rồi nói "May mà ông còn sống lại gặp nhau. Ông còn chưa có vợ, trước ta đã nói biểu muội xinh đẹp đa mưu, có thể giúp ông". Sinh muốn gặp mặt một lần, Cửu lang nói "Không khó, ngày mai nàng cùng tới thăm mẹ ta, cũng đi qua đây, ông giả làm anh của đệ, ta sẽ giả khát vào xin nước uống. ông cứ nói Lừa chạy mất rồi, thế là xong". Bàn tính xong Cửu lang ra về.
Gần trưa hôm sau quả nhiên Cửu lang cùng một nữ lang đi ngang cổng, sinh ra chắp tay trò chuyện dằng dai, liếc thấy nữ lang mắt phượng mày ngài, quả thật xinh đẹp như tiên. Cửu lang đòi uống trà, sinh mời vào nhà, Cửu lang nói "Tam muội đừng ngại, đây là anh em kết nghĩa của anh, ghé vào nghỉ một chút không hề gì", rồi đỡ nàng xuống, buộc lừa ngoài cổng cùng vào. Sinh tự pha trà mời, đưa mắt nhìn Cửu lang nói "Trước đây ông nói chưa đủ đâu, hôm nay đúng là ta được chỗ để chết rồi". Cô gái như biết nói tới mình, rời ghế đứng phắt dậy, khẽ nói "Đi thôi".
Sinh nhìn ra ngoài nói "Lừa chạy mất rồi". Cửu lang vội vàng chạy ra. Sinh ôm cô gái đòi giao hoan, cô gái đỏ bừng cả mặt mày, lính quýnh như con chó bị nhốt, gọi Cửu huynh nhưng không thấy đáp, bèn nói "Chàng đã có vợ rồi, sao lại làm mất danh tiết người ta", sinh bèn phân trần rằng mình không có vợ, nàng nói "Nếu dám thề rằng không phụ rẫy nhau, thì thiếp xin vâng lời". Sinh bèn chỉ lên mặt trời thề thốt, cô gái bèn không chống cự nữa. Xong đâu đấy rồi Cửu lang bước vào, cô gái hầm hầm nét mặt trách mắng, Cửu lang nói "Đây là Hà Tử Túc, trước là danh sĩ, nay là Thái sử, chơi thân với anh. Người này có thể nương tựa được, nếu cậu mợ nghe thấy chắc cũng không phiền giận gì đâu". Trời xế chiều, sinh giữ lại không cho đi, cô gái sợ cô lo lắng, Cửu lang nhận sẽ lo hết rồi lên lừa ra đi.
Được vài hôm, có người đàn bà dắt một tỳ nữ tới, tuổi trạc bốn mươi, phong nhã xinh đẹp giống hệt Tam nương. Sinh gọi cô gái ra xem thì quả là mẹ nàng. Bà nhìn con gái kinh ngạc hỏi sao lại ở đây, nàng thẹn thùng không đáp, sinh bèn mời vào lạy chào rồi kể rõ. Người đàn bà cười nói "Cửu lang thật là tính khí trẻ con, sao không bàn trước". Cô gái vào bếp làm thức ăn mời mẹ, bà ăn xong rồi về. Sinh từ khi lấy được vợ đẹp trong lòng vui sướng, nhưng nỗi lo lắng còn dó nên thường chau mày nghĩ ngợi. Cô gái hỏi, sinh kể rõ đầu đuôi, nàng cười nói "Chuyện đó thì một mình Cửu huynh cũng giúp được, chàng việc gì phải lo". Sinh hỏi nguyên do, nàng đáp "Nghe nói quan Tuần phủ thích thanh sắc, chuyện thằng nhãi con ngu ngốc ấy thích đều là sở trường của Cửu huynh. Đem cái y thích mà dâng, thì thù oán gì mà y không bỏ qua". Sinh sợ Cửu lang không chịu, cô gái nói "Phải năn nỉ thôi".
Qua hôm sau, sinh thấy Cửu lang tới, bèn khép nép ra đón, Cửu lang ngạc nhiên nói "Hai đời giao du đã biết rõ nhau, dù cho tan xương nát thịt cũng không dám tiếc, sao lại đối xử với nhau như thế?". Sinh kể lại việc mình và vợ bàn tính, Cửu lang có vẻ ngần ngừ, cô gái nói "Thiếp thất thân với Hà lang là vì ai gây nên? Nếu để Hà lang nửa đường đứt gánh thì thiếp sẽ ra sao?", Cửu lang bất đắc dĩ phải ưng thuận. Sinh bèn cùng Cửu lang bàn tính, gởi thư tới bạn thân là Vương Thái sử, lại gởi gắm Cửu lang.
Vương hiểu ý, mở tiệc lớn mời Tuần phủ tới, sai Cửu lang mặc y phục đàn bà ra múa khúc Thiên ma vũ, xinh đẹp như con gái. Tuần phủ thích lắm, xin Vương cho trả nhiều tiền để mua Cửu lang nhưng vẫn sợ không được. Vương làm ra vẻ nghĩ ngợi như khó xử, ngần ngừ hồi lâu rồi tỏ ý sinh muốn dâng Cửu lang. Tuần phủ vui mừng không căm giận gì sinh nữa, từ khi được Cửu lang, ăn ngủ gì cũng có nhau, có hơn mười người thiếp trẻ đẹp đều coi như đất bùn, cung phụng cái ăn cái mặc cho Cửu lang như bậc vương giả, ban cho vàng bạc hàng vạn lượng. Được nửa năm Tuần phủ ngã bệnh, Cửu lang biết là sắp chết bèn chở hết vàng bạc gấm vóc về nhà sinh. Kế Tuần phủ chết, Cửu lang bỏ tiền ra xây nhà cửa mua tôi tớ, mẹ con cùng cậu mợ đều tới đó ở chung. Mỗi khi Cửu lang ra đường thì mặc áo cừu cưỡi ngựa béo rất sang trọng, mọi người không ai biết là hồ.
(Mỗi khi Cửu lang ra đường thì mặc áo cừu cưỡi ngựa béo rất sang trọng, mọi người không ai biết là hồ). Ta có đùa bình một bài, cũng chép cả vào đây.
Trai gái ở chung, là đạo thường chồng vợ, khô ướt thông suốt, ấy khiếu chính âm dương. Chờ trăng đón gió* còn chuốc danh nhơ, cắt áo chia đào**, khó che tiếng xấu. Người đều là lực sĩ, đường chim bay mới được mở ra, động chẳng phải Đào Nguyên, sào ngư phủ sao cho chọc xuống. Nay Mỗ theo lối dưới mà quên trở lại, bỏ đường chính mà chẳng đi theo. Mây mưa chưa hừng, trên dưới liền tay sờ mó, âm dương ngược thế, trong ngoài cứ thế làm gian. Ao hoa thành chốn không dùng, nói bậy sư già nhập định, động Mán là vùng không cỏ, lại sai tướng chột vung gươm.
* Chờ trăng đón gió: nguyên văn là "nghênh phong đãi nguyệt", chữ trong câu thơ của Thôi Oanh Oanh thời Đường "Đãi nguyệt Tây sương hạ, Nghênh phong hộ bán khai" (Chờ trăng hiên thấp mái, Đón gió cửa không cài), đây chỉ việc hẹn hò trai gái.
** Cắt áo chia đào: nguyên văn là "đoạn tụ" và "phân đào"' Hán Ai đế sủng ái Đổng Hiền, có lần ngủ chung trở dậy thấy Đổng Hiền nằm đè lên tay áo mình, bèn cắt tay áo để Đổng Hiền không bị mất giấc ngủ. Vệ Linh công sủng ái Di Tử Hà, có lần cùng dạo trong vườn, Di Tử Hà hái một trái đào chín, cắn một miếng rồi đút cho Vệ Linh công. Đây chỉ việc đàn ông thích đàn ông.
Buộc Xích thố ngoài viên môn, như toan bắn kích*", mò cung lớn trong quốc khố, những muốn phá rào**. Hay là nhà Giám mộng cá vàng***, thăm tri giao đêm trước, rõ ràng họ Vương dùi mận đỏ****, đòi báo đáp kiếp sau. Rừng Hắc Tùng người ngựa thường qua, vốn là yên ổn, phủ Hoàng Long nước triều chợt tới, lấy gì chặn ngăn. Phải chặt đứt cây gậy đâm xoi, mà nút kín con đường đưa đón.
*Buộc Xích thố ... bắn kích: lấy tích Lữ Bố thời Hậu Hán bắn kích giải hòa cho Lưu Bị và Kỷ Linh tướng của Viên Thuật, nghĩa bóng chỉ quan hệ tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn ông.
**Mò cung lớn ... phá rào: lấy tích Dương Hổ thời Xuân thu lấy trộm cung lớn trong quốc khố, nghĩa bóng chỉ quan hệ tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn ông.
*** Nhà Giám mộng cá vàng: Nhĩ đàm chép Vương Tế tửu ở Nam Kinh thân thiết với một viên Giám sinh, người ấy nằm mơ thấy có con cá chiên vàng từ đũng quần rơi ra, kể lại với bạn bè. Đám Giám sinh đùa nói "Giấc mơ của Mỗ rất nhiêu khê. Chuyện cá chiên vàng xoi vào mông rất đáng ngờ, chắc là Vương học sĩ đang đêm tới thăm người thương".
**** Họ Vương dùi mận đỏ: Tấn thư, Vương Nhung truyện chép nhà Vương Nhung có cây mận ngon, Vương hái quả bán nhưng sợ người ta lấy giống, nên trước khi bán là dùng kim đâm phá hỏng hạt mận, nghĩa bóng chỉ quan hệ tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn ông.
091. Cô Gái Ở Kim Lăng (Kim Lăng Nữ Tử)
Người dân ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) là Triệu Mỗ có việc vào thành trở về, gặp một cô gái mặc áo trắng khóc than bên đường rất thảm thiết. Triệu liếc thấy xinh đẹp thích lắm, dùng lại nhìn chằm chằm không chịu đi. Cô gái gạt lệ nói "Ông kia đường không chịu đi lại cứ nhìn ta". Triệu nói "Ta thấy đồng không mông quạnh mà nàng đau xót khóc lóc nên thật rất thương tâm". Cô gái nói "Chồng chết không biết về đâu nên đau lòng thôi". Triệu khuyên nên lấy chồng khác, nàng đáp "Một thân lưu lạc, biết ai mà chọn? Nếu được nương tựa thì làm vợ lẽ cũng được". Triệu mừng rỡ xin đứng ra bảo bọc, cô gái bèn đi theo. Triệu vì nhà ở xa, định tìm ngựa đỡ chân, cô gái nói không cần rồi bước lên trước, lãng đãng đi mau như chạy.
Về tới nhà rồi, nàng lo việc nhà rất chăm chỉ, được hơn hai năm nói với Triệu "Cảm vì chàng thương mến nên theo về, thấm thoát đã hai năm, nay phải đi thôi". Triệu hỏi "Trước nàng nói không biết về đâu, nay định tới nơi nào?", nàng đáp "Lúc ấy chỉ là nói dối thế thôi, chứ đâu lại không còn nơi về? Cha thiếp bán thuốc ở Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), nếu chàng muốn gặp nhau thì nên chở thuốc tới, sẽ giúp đỡ cho ít nhiều đi đường". Triệu tính toán định thuê xe ngựa cho, nàng từ tạ rồi ra cửa đi thẳng, Triệu đuổi theo không kịp, trong chớp mắt đã mất hút.
Lâu sau Triệu càng nhung nhớ, bèn mua thuốc chở lên Kim Lăng, gởi hàng ở quán trọ rồi ra phố, chợt có ông già ở hiệu thuốc nhìn ra nói "Con rể tới rồi", rồi ra kéo vào. Cô gái đang giặt áo trong sân, thấy Triệu không nói cũng không cười, cứ mãi miết giặt giũ. Triệu uất ức bỏ ngay ra, ông già lại kéo trở vào, nàng vẫn không nhìn ngó gì tới. Ông già bảo dọn cơm rượu thết đãi, định tặng tiễn cho Triệu thật hậu, cô gái ngăn lại nói "Y bạc phúc, có cho nhiều cũng không hưởng được, chỉ cần an ủi nỗi vất vả tới đây, lựa ra mười mấy bài thuốc trao cho là thừa cơm áo một đời rồi". Ông già hỏi tới số thuốc Triệủ mang lên, nàng đáp "Đã ngã giá rồi, đang để cả ở đây". Ông già bèn đưa bài thuốc ra, trao tiền cho Triệu về. Dùng thử các bài thuốc thì hiệu nghiệm phi thường, đến nay có người ở Nghi Thủy còn biết bài thuốc lấy vỏ trái vải giã nát ra hứng nước mưa ở mái tranh để tẩy nốt ruồi, là một trong những bài ấy, rất có công hiệu.
092. Liên Tỏa (Liên Tỏa)
Dương Vu Úy dời nhà tới ở cạnh sông Tứ Thủy, phòng học liền với cánh đồng rộng, ngoài tường có nhiều ngôi mộ cổ. Đêm nghe cành lá bạch dương rung ào ào như sóng dâng, khuya dậy thắp đèn ngồi, đang buồn bã bâng khuâng chợt nghe ngoài tường có tiếng người ngâm thơ rằng " Nguyên dạ thê phong khích đảo xuy, Lưu oanh nặc thảo phục triêm vi" (Hiu hắt đêm rằm gió lạnh qua, Lập lòe đom đóm đậu màn là), ngâm đi ngâm lại, âm thanh rất não nùng, Dương lắng tai nghe kỹ thấy dịu dàng như tiếng con gái, lấy làm ngờ vực. Hôm sau ra ngoài tường xem không thấy vết chân người nào cả, duy có một sợi dây lụa tía rơi trong bụi gai, bèn nhặt về để trên bậu cửa sổ. Đến canh hai lại nghe tiếng ngâm nga như đêm trước, Dương bắc ghế leo lên nhìn ra thì tiếng ngâm vụt tắt, biết đó là ma nhưng rất thích.
Đêm sau ra núp chờ bên tường, vừa hết canh một thấy có một cô gái trong đám cỏ lững thững đi ra, tỳ tay vào gốc cây nhỏ cúi đầu buồn bã ngâm nga. Dương khẽ đằng hắng, nàng vội lui vào đám cỏ rậm biến mất. Từ đó Dương cứ ra chờ, một đêm đợi cô gái vừa ngâm xong, liền cách tường đọc tiếp rằng "U tình khổ tự hà nhân kiến, Thúy tụ đơn hàn nguyệt thượng thì" (Tình riêng mối khổ nào ai rõ, áo biếc mong manh dưới nguyệt tà), hồi lâu vẫn thấy im ắng. Dương bèn trở vào phòng, vừa ngồi xuống chợt thấy một cô gái đẹp từ ngoài bước vào, khép nép nói "Chàng vốn là văn nhân phong nhã mà bấy lâu nay thiếp cứ sợ sệt trốn tránh". Dương mừng rỡ kéo nàng ngồi, thấy ẻo lả như mặc áo không nổi. Hỏi quê quán nơi nào, ở đây bao lâu rồi, nàng đáp "Thiếp là người quận Lũng Tây (tỉnh Cam Túc) theo cha lưu lạc tới đây, năm mười bảy tuổi bị bạo bệnh chết, đến nay đã hơn hai chục năm rồi. Hồn ở suối vàng, thây vùi đồng trống, trơ trọi một mình, hai câu thơ thường ngâm là của thiếp làm ra để gởi gắm niềm u hận, lâu nay vẫn muốn làm trọn bài nhưng nghĩ không ra, được chàng nối giùm nên thiếp ở dưới suối vàng lấy làm vui sướng". Dương muốn cùng giao hoan, nàng cau mày nói "Xương nát dưới dạ đài không như người sống, nếu còn nọ kia sẽ làm người ta tổn thọ, thiếp không nỡ gây họa cho bậc quân tử", Dương mới thôi. Đùa thò tay nắn bóp ngực nàng thì đầu vú còn son, rõ ràng vẫn là xử nữ, lại muốn nhìn đôi hài dưới chân. Nàng cúi mặt cười nói "Anh chàng si cuồng tò mò quá". Dương cầm chân nàng đùa giỡn, thấy hài làm bằng gấm màu nguyệt bạch nhỏ như bó tơ, nhìn kỹ thấy một chiếc thiếu giải lụa tía. Hỏi sao không buộc cả hai chiếc, nàng đáp "Đêm trước sợ chàng bỏ chạy, không biết đánh rơi chỗ nào". Dương nói "Để ta thay sợi khác cho nàng rồi lấy sợi dây lụa tía trên bậu cửa sổ đưa cho cô gái. Nàng ngạc nhiên hỏi ở đâu ra, Dương kể lại nàng bèn giắt vào thắt lưng. Kế mở xem sách vở trên bàn, chợt thấy tập Liên xướng cưng từ* cảm khái nói "Lúc thiếp còn sống rất thích đọc tập thơ này, giờ nhìn thấy, giống như đang trong mơ vậy". Dương cùng nói chuyện văn thơ, thấy nàng thông minh đáng yêu, chong đèn trò chuyện như gặp bạn quý.
*Liên xướng cung từ: tên tập thơ của Nguyên Chẩn, nhà thơ thời Đường.
Từ đó cứ đêm đến nghe tiếng ngâm thơ khe khẽ thì thấy nàng tới. Thường dặn Dương rằng "Xin chàng giữ kín đừng cho ai biết, thiếp từ nhỏ vẫn nhút nhát nên sợ có khách khứa hung dữ hiếp đáp" Dương ưng thuận. Hai người vui như cá nước gặp nhau, tuy chưa thật là vợ chồng nhưng trong chốn phòng khuê còn âu yếm đằm thắm hơn cả vợ chồng. Cô gái thường trước đèn chép sách cho Dương, nét chữ đoan chính đẹp đẽ. Lại tự chọn một trăm bài Cung từ chép để ngâm nga, còn dặn Dương sắm bàn cờ vây, mua đàn tỳ bà, đêm đêm dạy Dương đánh cờ, không thì nàng so phím lên dây gảy khúc Mưa sa tàu chuối bên song khiến người phải não lòng. Dương không nỡ nghe hết khúc, thì nàng gảy bản Tiếng oanh trong vườn buổi sớm, chợt Dương thấy trong lòng khoan khoái. Thường chong đèn vui chơi quên cả đêm dài, thấy ánh mai hiện ra trên cửa sổ nàng mới vội vã ra đi.
Một hôm Tiết sinh tới chơi, gặp lúc Dương đang ngủ trưa, thấy trong nhà đủ cả bàn cờ nhạc khí, biết không phải là những môn Dương giỏi. Lại lật sách vở xem, gặp tập Cung từ thấy nét chữ ngay thẳng đẹp đẽ không phải chữ Dương, càng thêm ngờ vực. Dương thức dậy, Tiết hỏi bàn cờ nhạc khí từ đâu ra, Dương đáp là đang muốn học, lại hỏi về quyển thơ, Dương nói thác là mượn của bạn bè. Tiết giở ra xem đi xem lại, tới tờ cuối thấy có hàng chữ nhỏ đề ngày ấy tháng ấy Liên Tỏa viết bèn cười nói "Đây là tên con gái mà, sao dối nhau quá thế?". Dương bí quá không biết trả lời thế nào, Tiết càng hỏi riết. Dương không chịu nói, Tiết bèn lấy tập thơ bỏ túi, Dương cùng đường phải nói thật.
Tiết xin cho gặp một lần, Dương nhắc lại lời Liên Tỏa dặn. Tiết càng hâm mộ cứ thiết tha xin gặp, Dương bất đắc dĩ đành nhận lời. Khuya cô gái tới, Dương tỏ ý Tiết, nàng giận nói "Trước đã dặn thế nào, mà lại ba hoa với người ta!". Dương kể lại sự tình để phân trần, nàng nói "Duyên phận với chàng đến đây là hết rồi". Dương tìm đủ lời năn nỉ khuyên giải mà nàng vẫn không vui, đứng dậy từ biệt, nói "Thiếp phải tạm lánh mặt". Hôm sau Tiết tới, Dương cho biết là Liên Tỏa không chịu, Tiết ngờ là kiếm cớ thoái thác, chiều tối rủ hai bạn học nữa tới, dằng dai không chịu ra về, làm ầm ĩ suốt đêm, Dương bực lắm nhưng không biết làm sao. Họ thấy mấy đêm liền không có gì lạ cũng chán, dần dần yên lặng, chợt nghe tiếng ngâm thơ, cùng lắng tai nghe, thấy rất buồn thảm. Tiết còn đang chăm chú nghe, trong bọn có một người bạn học võ là Vương sinh lượm hòn đá to ném ra nói lớn "Làm bộ làm tịch không chịu ra mặt, thơ có ra gì mà ngâm nga sướt mướt nghe phát bực", tiếng ngâm thơ tắt liền. Mọi người rất tức, Dương thì bực bội ra mặt. Hôm sau họ mới chịu đi, Dương ngủ một mình ở phòng sách chờ cô gái trở lại nhưng nàng biệt tăm.
Qua hai hôm nàng chợt tới khóc nói "Chàng đón những khách hung tợn tới làm thiếp sợ gần chết". Dương chưa kịp xin lỗi, nàng đã bước ngay ra, nói "Thiếp đã nói duyên phận với chàng hết rồi, từ đây xin vĩnh biệt". Dương định kéo lại thì nàng đã biến mất, suốt hơn tháng sau không thấy tới nữa. Dương nhớ nhung tới mức gầy ốm nhưng không còn cách nào gặp được nàng. Một đêm đang ngồi uống rượu một mình, chợt cô gái vén rèm bước vào. Dương mừng quá, nói "Nàng tha thứ cho ta rồi sao?". Cô gái chảy nước mắt im lặng không đáp, hỏi mãi thì nàng muốn nói lại thôi, kế nói "Tức giận bỏ đi, lại có chuyện nguy cấp phải nhờ người, nghĩ mà hổ thẹn". Dương gặng hỏi mấy lần, nàng nói "Có một tên lính lệ thô bỉ không biết ở đâu tới ép thiếp phải làm vợ lẽ của y. Thiếp nghĩ mình là con nhà thanh bạch, há lại chịu khuất phục một tên quỷ tốt, nhưng một thân yếu đuối làm sao chống cự. Nếu chàng coi thiếp như vợ chồng thì chắc không để mặc thiếp phải khổ". Dương cả giận, căm tức tưởng chết nhưng lo người với ma khác loài, không thể giúp nàng được. Cô gái nói "Đêm mai cứ đi ngủ sớm, thiếp nhờ chàng trong mộng vậy". Rồi cùng nhau chuyện trò đợi sáng, lúc nàng ra đi dặn Dương đi ngủ để giữ cái hẹn buổi tối, Dương theo lời.
Buổi chiều uống vài chén rượu rồi nhân lúc ngà ngà lên giường, để nguyên áo mà ngủ. Chợt thấy cô gái tới, đưa cho thanh bội đao rồi cầm tay dắt đi. Tới một căn nhà, vừa vào đóng cửa trò chuyện thì nghe có người đập cửa cô gái hoảng sợ nói "Kẻ thù tới đấy". Dương mở cửa sấn ra, thấy một người mũ đỏ áo xanh, râu quai nón tua tủa như lông nhím, tức giận thét đuổi đi. Tên lính trợn mắt quát lại, lời lẽ rất ngạo mạn. Dương cả giận sấn vào, y vác đá ném như mưa, Dương bị ném trúng tay không cầm đao được nữa. Đang lúc nguy cấp, chợt thấy xa xa có một người đeo cung tên đi săn, nhìn kỹ chính là Vương sinh, bèn kêu lớn cầu cứu. Vương sinh giương cung chạy tới bắn trúng đùi tên lính, lại bắn thêm một phát giết chết luôn. Dương mừng rỡ cảm tạ. Vương hỏi duyên cớ, Dương kể lại đầu đuôi. Vương mừng đã chuộc được lỗi trước, bèn cùng vào nhà. Cô gái thẹn thùng sợ sệt đứng xa nhìn không nói một câu. Trên bàn có thanh đao nhỏ dài hơn một thước khảm vàng ngọc, rút ra khỏi vỏ thì long lanh sáng quắc. Vương khen ngợi không nỡ rời tay, trò chuyện qua loa với Dương, thấy cô gái sợ sệt rất đáng thương bèn bước ra chia tay rồi đi.
Dương cũng ra về, tới cổng thì ngã chúi, giật mình tỉnh dậy nghe gà trong thôn gáy ran. Thấy cánh tay đau buốt, sáng ra nhìn kỹ thì da thịt sưng lên đỏ bầm. Trưa Vương sinh tới, nói đêm qua nằm mơ rất lạ. Dương hỏi "Mơ thấy bắn tên phải không?", Vương lấy làm lạ sao Dương biết. Dương đưa tay cho xem rồi nói rõ duyên cớ. Vương nhớ lại người đẹp trong mộng, hận chưa được thấy người thật, nhưng nghe may có chút công với cô gái nên lại xin cho được gặp. Đêm đến cô gái tới cảm tạ, Dương quy công cho Vương sinh rồi tỏ bày lòng thành của Vương. Nàng nói "Cái ơn giúp đỡ làm sao dám quên, nhưng y mạnh mẽ dữ tợn, thật thiếp sợ quá". Kế lại nói "Y thích thanh bội đao của thiếp, thanh đao ấy là cha thiếp ngày trước mua ở đất Việt (tỉnh Quảng Đông) hết trăm lượng vàng. Thiếp thích nên cha cho tua buộc tơ vàng, vỏ nạm minh châu, cha thương thiếp mệnh bạc nên bỏ vào quan tài chôn theo. Nay xin dứt tình đưa tặng, y thấy đao cũng như gặp thiếp vậy".
Hôm sau Dương tỏ ý ấy Vương thích lắm. Đến đêm, cô gái quả đem thanh đao tới, nói "chàng dặn y giữ cho kỹ, đây không phải là vật ở Trung Hoa đâu", từ đó lại lui tới nhà Dương như trước. Vài tháng sau chợt nàng ngồi dưới đèn nhìn Dương như định nói gì, nhưng hai ba lần đỏ mặt rồi thôi. Dương ôm nàng hỏi han, nàng đáp "Lâu nay được chàng yêu mến, tiếp nhận sinh khí người sống, hàng ngày ăn những thức nấu nướng nên mớ xương khô chợt có sinh cơ, nhưng phải có tinh huyết của người sống mới có thể sống lại". Dương cười nói "Vì nàng không muốn chứ ta có tiếc gì đâu". Cô gái nói "Thiếp tiếp nhận tinh khí rồi thì chàng ắt ốm nặng hơn hai mươi ngày, nhưng uống thuốc là khỏi", bèn cùng nhau giao hoan. Kế nàng mặc áo trở dậy, lại nói "Còn phải có một giọt máu tươi, chàng nhịn đau cho nhau đươc không?" Dương liền cầm dao sắc tự đâm vào tay lấy máu, cô gái nằm trên giường bảo nhỏ máu vào rốn, xong rồi đứng dậy nói "Thiếp không tới nữa. Chàng nhớ là sau đây một trăm ngày ra trước mộ thiếp, thấy có con chim xanh kêu trên ngọn cây thì lập tức đào lên". Dương hứa theo lời. Lúc nàng ra cửa lại dặn "Chàng nhớ kỹ đừng quên, sớm hay trễ hơn đều không được đâu", rồi đi.
Hơn mười ngày sau quả Dương phát bệnh, bụng trướng lên gần chết, thầy lang cho uống thuốc, xổ ra hôi thối như bùn, đúng mười hai hôm thì khỏi. Tính đủ trăm ngày, sai gia nhân mang cuốc ra chờ sẵn bên mộ, lúc mặt trời xế bóng quả thấy hai con chim xanh hót. Dương mừng nói "Đến lúc rồi", rồi phát gai đào mồ, thấy quan tài đã mục nát mà dung mạo cô gái vẫn như còn sống, sờ vào người thấy âm ấm liền lấy chăn bọc lại khiêng về đặt vào phòng kín. Lát sau có hơi thở như sợi tơ, từ từ đổ nước cho, nửa đêm thì nàng sống lại. Thường nói với Dương "Hơn hai mươi năm* mà thấy như một giấc mộng thôi".
* Hơn hai mươi năm: cả hai bản Đài Loan và Hương Cảng đều in là, thập dư niên" (hơn mười năm), có lẽ là sơ suất của tác giả, vì bên trên nhân vật Liên Tỏa có nói là đã chết hơn hai mươi năm. Đây tạm đính như trên.
093. Bạch Vu Ngọc (Bạch Vu Ngọc)
Ngô Quân tự Thanh Am lúc trẻ đã nổi tiếng, quan Thái sử họ Cát đọc thấy văn bài thường khen ngợi, nhờ người quen mời tới nhà, thấy ngôn ngữ phong thái bèn nói "Chẳng lẽ có tài như Ngô sinh mà nghèo hèn mãi sao?". Nhân nhờ người đánh tiếng, nói "Nếu Thanh Am gắng sức thi đỗ thì ta gả con gái cho". Lúc ấy Thái sử có cô con gái tuyệt đẹp, sinh nghe thế cả mừng, rất tự tin sẽ thi đỗ. Kế thi hương bị đánh rớt, bèn nhờ người nói với Thái sử rằng nhất định sẽ được giàu sang, chỉ không biết sớm hay muộn thôi, xin chờ cho ba năm nữa, nếu mình không thành danh hãy gả chồng cho tiểu thư, từ đó càng ra sức học hành.
Một đêm sáng trăng có người Tú tài tới thăm, da trắng râu ngắn, vóc nhỏ móng tay dài. Hỏi từ đâu tới, khách tự xưng là họ Bạch, tự Vu Ngọc, cùng chuyện trò vài câu thấy hợp nên thích lắm, mời ngủ lại. Sáng ra Bạch sắp lên đường, sinh dặn có qua ngang tiện đường nhớ ghé chơi. Bạch cảm vì ân cần, xin lần sau cho ở nhờ, hẹn ngày tới rồi chia tay. Đến ngày hẹn, có một người đầy tớ đem các vật dụng nhà bếp tới trước, kế Bạch tới, cưỡi con ngựa thần thái như con rồng, sinh để một gian nhà riêng cho Bạch ở. Bạch sai đầy tớ dắt ngựa đi, còn mình ở lại sớm tối cùng sinh gần gũi, rất vui vẻ tương đắc.
Sinh thấy những sách Bạch đọc đều không phải loại thường thấy, cũng tuyệt nhiên không có loại sách văn chương khoa cử nên ngạc nhiên hỏi. Bạch cười đáp "Kẻ sĩ ai có chí người ấy, ta không phải là người trong trường công danh". Thường đêm, Bạch mời sinh qua uống rượu, đưa một quyển sách cho xem, đều là dạy thuật đạo dẫn dưỡng sinh, nhiều chỗ không hiểu nổi, sinh thấy viễn vông nên bỏ đó. Hôm khác Bạch nói "Quyển sách ta đưa hôm trước là con đường tu luyện, chiếc thang lên tiên đấy". Sinh cười nói "Việc gấp của ta không phải ở đó, vả lại muốn thành tiên ắt phải dứt hết lòng trần, bỏ hết ham muốn, nhưng ta có tật xấu nên chưa làm được"' Bạch hỏi vì sao, sinh đáp phải lo có người nối dõi. Bạch hỏi "Vậy sao vẫn không lấy vợ?", sinh cười đáp "Quả nhân có tật xấu, quả nhân thích sắc đẹp". Bạch cũng cười nói "Xin nhà vua đừng thích cái sắc nhỏ, ông thích sắc đẹp ra sao?"*. Sinh kể lại việc Thái sử, Bạch ngờ rằng con gái Thái sử chưa chắc đã thật đẹp. Sinh nói "Chuyện đó thì xa gần đều biết, không phải tiểu sinh không có mắt đâu", Bạch cười khẽ rồi im lặng.
*Quả nhân... sắc nhỏ: nguyên văn là "Quả nhân hữu tật, quả nhân hiếu sắc", và "Vương thỉnh vô hiếu tiểu sắc", câu đầu là lời Tề Hoàn công thời Xuân thu nói với Quản Trọng, câu sau là nhại lời Mạnh Tử nói với Đằng Văn công "Vương hà tất viết lợi", đây hai nhân vật dùng để nói đùa với nhau.
Hôm sau chợt sắp hành lý chào đi, sinh buồn bã cùng trò chuyện, quyến luyến không dứt ra được, Bạch bèn sai tiểu đồng mang hành lý đi trước. Hai người còn đang bịn rịn, chợt thấy một con ve xanh sè sè đáp xuống bàn. Bạch chào nói "Ngựa xe đã tới, từ nay xin giã biệt. Nếu ông nhớ nhau thì cứ quét cái giường ta nằm mà ngủ". Sinh đang muốn hỏi lại thì trong chớp mắt Bạch đã chỉ còn nhỏ như ngón tay, nhảy lên cưỡi trên lưng con ve, e e bay lên biến mất trong mây. Sinh lúc ấy mới biết Bạch không phải là người thường, kinh ngạc than thở hồi lâu, buồn bực như mất của quý. Mấy hôm sau chợt trời mưa phùn, sinh càng nhớ Bạch, nhìn tới chỗ giường Bạch nằm thấy vết chân chuột chi chít, cảm khái quét dọn rồi trải chiếu lên nằm ngủ. Giây lát thấy đứa tiểu đồng của Bạch tới mời bèn vui vẻ đi theo.
Chợt có con phượng đáp xuống, tiểu đồng giục sinh "Đường tối khó đi, cưỡi nó đỡ chân cũng được". Sinh lo con chim nhỏ không chở nổi, tiểu đồng nói "Ông cứ cưỡi thử xem sao". Sinh theo lời thì thấy ngồi còn thừa chỗ, tiểu đồng cũng ngồi ghé trên đuôi, chim giương cánh soạt một tiếng bay thẳng lên không. Không bao lâu, thấy một cái cổng sơn son, tiểu đồng bước xuống trước rồi đỡ sinh cùng xuống. Sinh hỏi đây là nơi đâu, tiểu đồng đáp "Đây là cổng trời". Bên cửa có con cọp lớn ngồi chồm chổm, sinh sợ hãi, tiểu đồng bèn lấy mình che cho cùng vào, thấy phong cảnh khắp nơi đều khác hẳn thế gian.
Tiểu đồng dẫn vào cung Quảng Hàn, bên trong lấy thủy tinh làm bậc thềm, người đi lên như đang giữa tấm gương, có hai cây quế lớn vấn vít lấy nhau, mùi hương theo gió thơm tho không dứt, đình tạ cửa sổ đều sơn son. Lúc lúc lại có mỹ nhân ra vào, người nào cũng xinh đẹp lạ thường, thế gian không sao bì kịp. Tiểu đồng nói mỹ nhân ở cung Vương Mẫu còn xinh đẹp hơn nhưng sợ ông chủ đợi lâu, không thể thơ thẩn rồi dắt sinh đi mau ra. Giây lát thấy Bạch đứng chờ ngoài cửa, cầm tay sinh đưa vào thấy trước nhà suối trong cát trắng, tiếng chảy róc rách, thềm ngọc hiên son như cung điện vua chúa, vừa ngồi xuống đã có hai thị nữ trẻ bưng trà lên mời. Kế Bạch sai dọn rượu, có bốn mỹ nhân khép nép hầu hạ chung quanh, vừa thấy trong lưng hơi ngứa thì mỹ nhân đã lấy móng tay dài gãi giùm.
Sinh thấy tâm thần phiêu diêu, quên cả là mình đang ở đâu, lúc đã ngà ngà say không tự chủ được nữa, cười liếc mỹ nhân, kéo lại nói nhỏ, mỹ nhân mỉm cười né ra. Bạch sai đàn hát chuốc rượu, một nàng mặc áo hồng bưng chén rượu mời khách rồi đứng trước tiệc cất tiếng hát du dương, các nàng khác gõ sênh phách réo rắt họa theo. Kế tới một nàng mặc xiêm xanh cũng chuốc rượu rồi hát, còn một nàng mặc áo tía, một nàng mặc áo màu nguyệt bạch cứ cười khúc khích đùn đẩy nhau không chịu bước ra. Bạch sai mỗi nàng mời một chén hát một bài, nàng áo tía bèn bước lên rót rượu. Sinh mượn cớ đón chén rượu đùa nắm lấy cổ tay, nàng bật cười buột tay làm rơi chén rượu xuống đất Bạch trách mắng, nàng nhặt chén lên mỉm cười, cúi đầu nói khẽ "Da lạnh như tay ma mà cố nắm tay người ta?". Bạch cười lớn, phạt nàng phải múa hát một mình. Nàng múa xong, nàng áo nguyệt bạch lại mời một chén, sinh từ chối nói không uống nổi nữa. Cô gái bưng chén rượu có vẻ hổ thẹn, sinh bèn gượng uống. Nhìn kỹ bốn nàng thấy phong thái yêu kiều, người nào cũng xinh đẹp tuyệt thế, sinh nói với chủ nhân "Người đẹp trên đời, ta mong được một mà còn khó khăn, ông thì tụ họp bấy nhiêu giai nhân, có thể cho nhau hưởng thú tiêu hồn không?".
Bạch cười nói "Túc hạ trong lòng đã có giai nhân rồi, thế này đâu đã đủ lọt vào mắt?". Sinh nói "Nay ta mới biết kiến thức của mình còn hẹp hòi". Bạch gọi tất cả các cô gái tới cho chọn, sinh mê mệt không biết chọn ai. Bạch nghĩ nàng áo tía có cái duyên nắm tay, bèn sai lo giường nệm hầu khách. Kế cùng chung chăn chung gối, hết sức yêu thương, sinh đòi tặng một vật làm kỷ niệm, nàng tháo chiếc xuyến vàng ở cổ tay đưa cho. Chợt đứa tiểu đồng vào nói "Tiên phàm khác nhau, ông nên đi ngay", cô gái vội trỗi dậy đi ra. Sinh hỏi ông chủ, tiểu đồng nói "Ông chủ ta đi chầu Ngọc Hoàng, lúc đi có dặn ta tiễn khách về". Sinh buồn bã theo ra, lại theo lối cũ, gần tới cổng quay lại nhìn thì tiểu đồng đã đi đâu mất. Con cọp gầm thét chồm lên, sinh sợ hãi bỏ chạy, nhìn xuống dưới thấy mờ mịt nhưng chân đã lọt xuống, giật mình tỉnh dậy thì phía đông đã hừng sáng. Vừa giũ áo đứng lên thì có một vật rơi nhẹ xuống chiếu, nhìn lại thì là chiếc xuyến, càng lấy làm lạ.
Từ đó ý nghĩ lúc trước thành nguội lạnh, thường muốn tìm tiên học đạo nhưng còn lo về nỗi không có con nối dõi. Qua hơn mười tháng, một hôm sinh ngủ trưa mơ thấy nàng áo tía từ ngoài vào, bế một đứa nhỏ nói "Đây là xương máu của chàng, trên trời không giữ lại được nên xin đem tới trả chàng", rồi đặt đứa nhỏ trên giường, kéo vạt áo sinh đắp cho nó rồi vội vã định đi. Sinh ép cùng giao hoan, kế nàng nói "Lần trước là động phòng, lần này là vĩnh quyết, vợ chồng trăm năm đến đây là hết. Nếu chàng có chí, may ra còn có lúc gặp lại".
Sinh tỉnh giấc thấy đứa nhỏ nằm trong bọc tã trên giường, liền bế vào nói với mẹ. Mẹ mừng rỡ, thuê vú nuôi cháu, đặt tên là Mộng Tiên. Rồi đó sinh sai người báo cho Thái sử rằng mình sắp đi ở ẩn xin kén rể khác. Thái sử không chịu, sinh cố từ chối. Thái sử kể cho con gái, nàng nói "Xa gần chẳng ai không biết con đã hứa làm vợ Ngô lang, nay thay đổi hóa ra là hai chồng sao?", Thái sử đem lời ấy nói với sinh. Sinh nói "Ta chẳng những không có chí về việc công danh mà còn tuyệt tình về đường gia thất nữa, sở dĩ không vào núi ngay chỉ vì còn mẹ già đó thôi". Thái sử lại bàn với con gái, nàng nói "Ngô lang nghèo thì con cam phận rau cháo, Ngô lang đi thì con xin thờ mẹ chồng, quyết không theo người khác".
Sinh sai người qua lại hai ba lần cũng không xong, Thái sử bèn chọn ngày lành cho xe kiệu đưa con gái về nhà chồng. Sinh cảm là người hiền đức, rất mực kính yêu. Nàng thờ mẹ chồng rất có hiếu, chiều chuộng hầu hạ còn hơn con gái nhà nghèo. Qua hai năm mẹ chồng mất, nàng cầm bán tư trang lo liệu tang lễ rất tươm tất. Sinh nói "Được người vợ như nàng, ta còn lo gì. Nhưng nghĩ một người đắc đạo bỏ nhà lên tiên, ta sắp đi xa, việc nhà xin phó thác cho nàng". Nàng thản nhiên không hề giữ lại, sinh bèn ra đi.
Nàng ngoài lo mưu sinh, trong dạy con côi, đều có phép tắc. Mộng Tiên dần dần lớn lên, vô cùng thông minh, mười bốn tuổi thi khoa Thần đồng đỗ Cử nhân, mười lăm tuổi vào Hàn lâm viện, triều đình phong tặng nhưng không biết tên mẹ đẻ nên chỉ có bà Cát được phong tặng mà thôi. Đến ngày tế, Mộng Tiên hỏi cha ở đâu, bà Cát nói rõ, Mộng Tiên muốn từ quan đi tìm cha, bà nói "Cha con rời nhà đến nay đã hơn mười năm, chắc đã lên tiên rồi, biết đâu mà tìm".
Sau Mộng Tiên phụng chỉ ra tế ở Nam Nhạc, giữa đường gặp cướp, đang lúc nguy cấp có một đạo sĩ cầm gươm xông vào đánh, bọn cướp thua chạy tán loạn nên được giải vây. Mộng Tiên cảm ơn đạo sĩ, tặng tiền nhưng y không nhận, đưa ra một phong thư nói "Ta có người bạn cũ cùng làng với đại nhân, phiền đưa giùm lá thư thăm hỏi". Mộng Tiên hỏi họ tên người ấy, đạo sĩ đáp là Vương Lâm, nhưng nhớ lại trong thôn không có ai tên ấy, đạo sĩ nói "Người ấy con nhà hèn mọn nên ông không biết thôi". Lúc từ giã lại đưa ra một chiếc xuyến vàng, nói "Đây là vật dùng của đàn bà con gái, bần đạo nhặt được nhưng không dùng gì tới, xin biếu ông luôn".
Mộng Tiên thấy chiếc xuyến chạm trổ rất tinh xảo, đem về đưa phu nhân. Phu nhân thích lắm, sai thợ khéo theo đúng kiểu làm thêm chiếc nữa, nhưng không sao tinh xảo bằng được. Mộng Tiên hỏi khắp trong thôn thì không có ai tên Vương Lâm, bèn lén mở phong thư ra xem, thấy phía trên viết như sau:
Ba năm loan phượng
Chia cách đôi miền
Nuôi con chôn mẹ
Toàn cậy nàng hiền
Lấy gì báo đức?
Tặng thuốc một viên
Cắt ra mà uống
Có thể thành tiên
Dưới viết "Kính gửi Phu nhân Lâm nương". Mộng Tiên đọc xong không hiểu là gởi ai bèn cầm tới kể với mẹ. Bà Cát đọc xong khóc nói "Đây là thư của cha con gửi về nhà, Lâm là tiểu tự của ta", Mộng Tiên mới sực hiểu ra "Vương Lâm" là chiết tự chữ "Lâm"*, ân hận không thôi. Lại đưa chiếc xuyến cho mẹ xem, bà Cát nói "Đây là di vật của mẹ đẻ con, lúc cha con còn ở nhà vẫn đưa cho ta xem". Mộng Tiên thấy viên thuốc bằng hạt đậu lớn, vui mừng nói "Cha đã thành tiên, mẹ uống viên thuốc này ắt được trường sinh"' nhưng bà Cát chưa muốn uống ngay, bèn nhận lấy cất đi.
*Vương Lâm"... chữ "Lâm": đây theo lối chiết tự trong chữ Hán. Chữ Lâm (ngọc lâm) đây gồm bộ ngọc và chữ lâm (rừng), nhưng bộ ngọc thường viết giảm một chấm nên thành chữ vương.
Gặp lúc Thái sử qua thăm cháu, bà đọc bức thư của Ngô lang cho ông nghe, nhân mang viên thuốc ra chúc thọ. Thái sử cắt làm đôi cho cha con cùng uống, trong giây lát thấy tinh thần phấn chấn hẳn lên. Năm ấy Thái sử đã bảy mươi tuổi, già nua yếu ớt lắm rồi mà chợt thấy sức lực cuồn cuộn dưới da thịt, lúc về bỏ kiệu xuống bộ đi rất nhanh, bọn gia nhân chạy theo mướt mồ hôi mới kịp. Năm sau đô thành có nạn cháy nhà, lửa bốc suốt ngày không tắt, mọi người đêm không dám ngủ, tụ tập ở sân. Thấy lửa cứ lan ra, dần dần tới lối xóm, cả nhà nhớn nhác không biết làm sao.
Bỗng chiếc xuyến vàng ở tay phu nhân soạt một tiếng thoát khỏi tay bay ra, nhìn theo thấy to mấy mẫu úp quanh trên nhà, hình dáng như vành trăng, chỗ mối nối hướng về phía đông nam, nhìn thấy rất rõ ràng, mọi người đều kinh ngạc. Giây lát ngọn lửa từ phía tây lan tới, tới gần cái vành thì tạt qua phía đông. Khi thế lửa đã dịu, phu nhân đang thầm nghĩ chắc mất chiếc xuyến rồi, không sao lấy lại được nữa chợt thấy ánh vàng vụt thu lại, chiếc xuyến rơi leng keng ngay dưới chân. Mấy vạn nhà dân trong thành đều cháy sạch, chung quanh đều ra tro, chỉ có nhà họ Ngô là không bị gì, duy có một ngôi lầu nhỏ ở phía đông nam bị cháy rụi, tức là nơi mối nối của chiếc xuyến để hở ra. Bà Cát hơn năm mươi tuổi mà có người gặp, thấy chỉ như ngoài hai mươi.
094. Nước Dạ Xoa (Dạ Xoa Quốc)
Họ Từ ở đất Giao Châu (huyện Ngô Châu tỉnh Quảng Tây) vượt biển đi buôn, bị bão thổi bạt thuyền. Mở mắt thấy tới một xứ núi cao rừng rậm, cho rằng có người ở bèn buộc thuyền đem theo lương khô lên bờ. Vừa vào thì thấy hai bên núi đều có cửa hang dày đặc như lỗ tổ ong, phía trong như có tiếng người. Bèn tới ngoài một cửa hang nhìn vào, thấy có hai con dạ xoa răng tua tủa như dao, mắt sáng quắc như đèn đang lấy móng xé một con hươu ăn sống, hồn bay phách lạc vội chạy lui lại thì dạ xoa quay lại nhìn thấy, bỏ ăn quay ra bắt vào. Hai con nói chuyện với nhau, tiếng như chim kêu thú gào, rồi tranh nhau xé nát áo Từ như muốn ăn tươi nuốt sống. Từ cả sợ quá vội lấy lương khô thịt khô trong túi ra đưa, chúng chia nhau ăn có vẻ ngon lành lắm rồi lại lục cái túi. Từ xua tay ra hiệu không còn, dạ xoa tức giận lại túm lấy Từ. Từ năn nỉ "Tha cho ta đi, trong thuyền ta có nồi niêu, có thể nấu nướng được". Dạ xoa không hiểu, vẫn tức giận. Từ dùng tay ra hiệu, chúng có vẻ hơi hiểu bèn theo Từ ra thuyền.
Từ đem nồi vào hang, gom củi nhen lửa nấu chín thịt hươu còn lại đưa cho dạ xoa, hai con vật ăn xong thích lắm. Đêm đến chúng vần khối đá lớn lấp cửa hang như có ý sợ Từ bỏ trốn. Từ nằm co quắp xa xa, chỉ sợ không sao sống được. Trời sáng hai con vật ra, lại lấp chặt cửa hang, lát sau mang về một con hươu đưa cho Từ. Từ lột da, múc nước chảy ở cuối hang luộc thịt làm mấy nồi, giây lát có một bầy mấy con dạ xoa kéo tới ăn ngấu nghiến hết sạch, rồi cùng chỉ vào cái nồi như chê nhỏ. Ba bốn ngày sau, một dạ xoa vác tới một cái nồi lớn như người ta vẫn thường dùng. Từ đó cả bầy cứ đem tới nào nai nào sói cho Từ nấu, thịt chín rồi thì gọi Từ cùng ăn. Được vài ngày, dạ xoa dần dà quen Từ, khi đi không vần đá lấp cửa hang nhốt lại nữa mà đối xử như cùng trong bầy.
Từ dần dần xét tiếng kêu của chúng mà xem ý tứ rồi tập kêu theo, nói tiếng dạ xoa. Dạ xoa càng thích, đưa một dạ xoa cái tới làm vợ Từ. Lúc đầu Từ sợ không dám gần, dạ xoa cái tới ngủ chung, cùng Từ ăn nằm thích lắm, thường đem thịt cho Từ ăn như vợ chồng con người vậy. Một hôm cả bầy dậy sớm, lấy chuỗi hạt minh châu đeo quanh cổ thay phiên nhau ra cửa như chờ khách quý, lại bảo Từ nấu nhiều thịt. Từ hỏi dạ xoa cái, nó đáp đây là tiết Thiên thọ. Dạ xoa cái ra nói với bầy rằng "Từ lang không có vòng đeo cổ". Mỗi con bèn trích trong chuỗi minh châu của mình năm hạt đưa nó, nó cũng rút mười hạt trong chuỗi của mình ra, được tất cả năm mươi hạt rồi lấy dây cỏ xỏ thành một chuỗi đeo vào cổ cho Từ, Từ xem kỹ thấy mỗi hạt đều đáng giá hàng trăm đồng vàng. Lát sau cả bầy đều ra ngoài, Từ nấu thịt xong, dạ xoa cái vào bảo đi, nói là ra đón thiên vương.
Tới một cái hang lớn rộng chừng một mẫu, giữa có tảng đá to bằng phẳng như cái bàn, chung quanh đều có chỗ ngồi bằng đá, một chỗ trên cùng phủ da báo, còn lại đều phủ da hươu, hai ba chục dạ xoa đã ngồi la liệt trong hang. Giây lát gió to tung bụi bay mù mịt, cả bọn vội vàng ra đón, thấy một con vật to lớn hình thù như dạ xoa chạy ào vào hang, nhảy lên ngồi ngất ngưỡng trên bệ, đưa mắt nhìn khắp chung quanh. Bầy dạ xoa theo vào chia ngồi xuống hai bên, đầu ngẩng cao, hai cánh tay chắp thành hình chữ thập trước ngực. Con vật đếm cả bọn rồi hỏi "Bọn Ngọa My Sơn có mặt cả ở đây không?", cả bầy cùng dạ. Nó nhìn Từ hỏi "Từ đâu tới?", dạ xoa cái thưa là chồng, cả bầy đều ca ngợi Từ biết nấu thịt. Lập tức hai ba dạ xoa chạy đi lấy thịt chín bày lên, con vật bốc ăn no, hết sức khen ngợi, bảo phải cung đốn thường xuyên. Lại quay nhìn Từ hỏi "Vòng hạt sao ngắn thế?", cả bọn thưa "Mới tới nên chưa đủ". Con vật rút mười hạt trong chuỗi hạt đeo trên cổ đưa cho, hạt nào cũng to như đầu ngón tay, tròn như viên đạn, dạ xoa cái vội đón lấy đeo vào cho Từ, Từ cũng chắp tay nói tiếng dạ xoa tạ ơn.
Kế con vật ra khỏi hang, lướt gió đi nhanh như bay, cả bầy bèn ăn chỗ thịt còn lại rồi tan đi. Được hơn bốn năm, vợ Từ sinh ba, hai trai một gái, đều có hình người chứ không giống mẹ. Bầy dạ xoa đều rất thích ba đứa nhỏ, cùng vỗ về đùa giỡn với chúng. Một hôm cả hang đi vắng, chỉ còn một mình Từ, chợt một dạ xoa cái ở hang khác sang gạ gẫm, Từ không chịu, nó tức giận quật Từ xuống đất. Vợ Từ từ ngoài vào, nổi giận đánh nhau, cắn đứt tai nó. Giây lát con đực chồng nó về, gỡ ra đuổi nó đi, từ đó dạ xoa cái giữ rịt lấy Từ không rời. Lại ba năm sau, ba đứa trẻ biết đi, Từ dạy chúng tiếng người, dần dần biết nói, bập bẹ như người, tuy còn nhỏ nhưng trèo núi như đi trên đất bằng, khắng khít với Từ như cha con loài người.
Một hôm dạ xoa cái và một trai một gái ra ngoài, nửa ngày chưa về mà gió bấc thổi mạnh, Từ chạnh tình quê, dẫn con trai tới bờ biển. Thấy chiếc thuyền cũ vẫn còn, định cùng nhau trở về, đứa con định báo với mẹ, Từ ngăn lại. Hai cha con xuống thuyền, một ngày một đêm về tới Giao Châu, tới nhà thì vợ đã cải giá. Từ bán hai hạt châu được rất nhiều tiền, trong nhà dư dật. Đứa con lấy tên là Bưu, mười bốn mười lăm tuổi đã có thể nhấc nổi vật nặng trăm thạch, tính thô mãng thích đánh nhau. Viên Tổng súy đất Giao gặp lấy làm lạ, trao cho chức Thiên tổng. Gặp lúc có loạn ngoài biên, Bưu lập được công, năm mười tám tuổi được phong Phó tướng.
Lúc ấy có một lái buôn đi biển cũng bị gió bạt tới Ngọa My, vừa lên bờ thì gặp một thiếu niên, lấy làm kinh ngạc. Thiếu niên biết là người Trung Quốc liền tới hỏi han, người lái buôn nói rõ. Thiếu niên dẫn tới hẻm núi vắng, đưa vào một hang đá . nhỏ, bên ngoài toàn là cây cỏ gai góc, dặn chớ ra ngoài. Đi hồi lâu quay về đem thịt hươu cho người lái buôn ăn, nói cha mình cũng là người Giao Châu, người lái buôn hỏi ra thì là Từ, lúc đi buôn có biết nhau bèn nói "Ông ta là bạn ta, nay đứa con trai đang làm Phó tướng". Thiếu niên không hiểu Phó tướng là gì người ấy nói "Đó là chức quan ở Trung Quốc". Thiếu niên lại hỏi quan là gì, người ấy đáp "Ra đường thì cưỡi ngựa đi xe, vào nhà thì ngồi trên sảnh đường, gọi một tiếng thì trăm người dạ, ai gặp cũng không dám nhìn thẳng, không dám đứng thẳng, như thế gọi là quan". Thiếu niên có vẻ thích lắm, người lái buôn nói "Tôn quân đã ở Giao Châu, sao còn chịu ở đây lâu thế?". Thiếu niên kể lại sự tình.
Người lái buôn khuyên nên về nam, thiếu niên nói "Ta cũng thường có ý ấy, song mẹ ta không phải là người Trung Quốc, vẻ người tiếng nói đều khác, vả lại nếu đồng loại mà biết sẽ làm hại nên còn chần chừ". Rồi đi ra, nói "Đợi gió bắc nổi ta sẽ đưa ông về, phiền ông tới báo cho cha anh ta biết tin". Người lái buôn ẩn trong hang gần nửa năm, có lần nhìn qua đám gai góc thấy dạ xoa qua lại bên ngoài sợ lắm, không dám động đậy. Một hôm gió bắc ù ù nổi, thiếu niên chợt tới, dẫn người lái buôn trốn ra, dặn "Đừng quên điều ta nhờ", người lái buôn vâng dạ rồi về, tới Giao Châu vào ngay phủ Phó tướng kể lại những điều đã gặp. Bưu nghe chuyện chạnh lòng muốn đi tìm mẹ và em, cha lo biển khơi sóng gió, yêu vật hung dữ, nguy hiểm khó lòng nên hết sức ngăn cản. Bưu đấm ngực kêu khóc, cha phải cho đi.
Bưu tới trình với Tổng súy đất Giao, dẫn hai người lính ra biển. Thuyền bị gió ngược, trôi dạt trên biển nửa tháng, nhìn quanh chỉ thấy mênh mông trời nước không bờ, không phân biệt được phương hướng. Bỗng gặp con sóng to ngất trời, thuyền bị lật úp, Bưu rơi xuống biển bị sóng cuốn hồi lâu thì được một con vật kéo đi. Tới một nơi thấy có nhà cửa, nhìn thấy con vật ấy có hình dáng dạ xoa, bèn nói tiếng dạ xoa. Dạ xoa kinh ngạc hỏi han, Bưu nói rõ là mình định đi đâu, dạ xoa mừng rỡ nói "Ngọa My là quê cũ của ta, đường đột thế này thật có lỗi. Ông đã đi chệch đường tám ngàn dặm, đây là đường tới nước Độc Long, không phải lối đến Ngọa My". Rồi tìm thuyền đưa Bưu xuống, dạ xoa bơi dưới nước đẩy thuyền đi nhanh như tên bắn, chớp mắt đã vượt ngàn dặm, qua một đêm thì tới bờ bắc Ngọa My.
Thấy trên bờ có một thiếu niên quanh quẩn trông ngóng, Bưu biết trên núi không có loài người ở, ngờ đó là em, tới gần hỏi quả đúng. Hai anh em nắm tay nhau khóc, kế Bưu hỏi tin tức mẹ và em gái, em trai nói đều mạnh khỏe bình yên. Bưu muốn tới thăm, em trai ngăn lại, trời tối quay đi. Bưu trở ra cám ơn dạ xoa đưa mình tới thì nó đã đi mất. Không bao lâu mẹ và em gái cùng tới, vừa thấy Bưu đã khóc ròng. Bưu nói ý mình, mẹ dạ xoa buồn rầu bảo "Sợ đến sẽ bị người làm nhục". Bưu nói "Con ở Trung Quốc rất quý hiển, ai dám coi thường". Khi đã quyết ý về Giao Châu thì lại gặp gió ngược không đi được, mẹ con đang lúng túng thì cánh buồm xoay về phía nam kêu phần phật, Bưu mừng nói "Trời giúp ta rồi". Mẹ con theo nhau lên thuyền, sóng xuôi gió thuận, thuyền đi như tên bắn, ba ngày thì tới Giao Châu, người trên bờ nhìn thấy đều bỏ chạy.
Bưu chia quần áo cho ba người, về tới nhà, mẹ dạ xoa thấy Từ thì giận dữ chửi mắng vì ra đi không bàn với mình, Từ phải xin lỗi mãi. Gia nhân tới chào chủ mẫu, người nào cũng run sợ. Bưu khuyên mẹ học nói tiếng Trung Quốc, cho mặc đẹp ăn ngon, mẹ dạ xoa dần dần vui vẻ yên lòng. Cả mẹ và con gái đều mặc nam trang, được vài tháng mẹ dần biết tiếng người, hai em thì trắng ra. Em trai đặt tên là Báo, em gái đặt tên là Dạ Nhi, đều rất khỏe mạnh. Bưu xấu hổ vì em không biết chữ, cho Báo học hành. Báo rất thông minh, kinh sử chỉ đọc qua là hiểu nhưng không muốn học văn, Bưu bèn cho tập cưỡi ngựa bắn cung, sau đỗ Tiến sĩ võ, lấy con gái viên Du kích họ A.
Dạ Nhi thì vì khác loài không ai lấy, sau có viên Thủ bị họ Viên dưới trướng Bưu góa vợ mới lấy gượng. Dạ Nhi có thể giương được cung cứng trăm thạch, ngoài trăm bước bắn trúng chim nhỏ, không sai một phát. Viên mỗi khi đánh dẹp thường đưa vợ cùng đi, dần làm tới chức Đồng tri tướng quân, một nửa công trạng là do vợ lập. Báo năm ba mươi tư tuổi được đeo ấn Tướng quân, mẹ cũng thường theo đi đánh dẹp phía nam, mỗi khi gặp đám giặc mạnh là mặc giáp cầm gươm tiếp ứng cho con, quân giặc trông thấy là sợ hãi lui chạy. Nhà vua xuống chiếu phong tước nam, Báo thay mẹ dâng sớ từ chối, được phong Phu nhân.
Dị Sử thị nói: Phu nhân dạ xoa là chuyện ngày nay ít nghe, nhưng nghĩ kỹ thì không ít đâu, trong phòng nhà nào cũng thường có dạ xoa đấy thôi.
095. Cướp Già (Lão Hào)
Hình Đức người Trạch Châu (huyện Tấn Thành tỉnh Sơn Tây) là tay kiệt hiệt trong bọn lục lâm, có thể phát tên liên tiếp nhiều mũi, nổi tiếng là tuyệt kỹ, bình sinh phóng khoáng không để ý tới chuyện kiếm tiền, ra cửa mới nhìn lại túi. Các nhà buôn lớn ở hai kinh* đều thích đi chung với Hình vì dọc đường chắc chắn sẽ được yên ổn. Gặp lúc đầu mùa đông, có hai ba người khách buôn tới vay ít tiền rồi rủ Hình cùng đi, Hình cũng dốc túi góp vốn với họ. Bạn Hình có người bói giỏi, Hình tới hỏi, người bạn gieo quẻ rồi nói "Quẻ này rất xấu, làm gì cũng không những không có lời mà còn cụt vốn". Hình không vui, đã định thôi không đi nữa nhưng mấy người khách cứ ép lên đường ngay.
*Hai kinh: tức Trường An và Lạc Dương, hai trung tâm chính trị và kinh tế ở Trung Quốc thời cổ.
Tới kinh quả nhiên buôn bán thua lỗ, giữa tháng chạp Hình cưỡi ngựa rời kinh, tự nghĩ qua năm mới không có tiền, càng thêm phiền muộn. Lúc ấy là buổi sáng, hơi mù ngập đồng, Hình phóng nhanh tới một quán rượu cạnh đường, cởi hành lý gọi rượu. Thấy một ông già tóc bạc trắng ngồi cùng hai thiếu niên uống rượu chỗ của sổ phía bắc, có một đứa tiểu đồng đứng hầu, tóc xõa rối tung. Hình ngồi bàn phía nam, đối diện với ông già. Đứa tiểu đồng bưng rượu lỡ tay làm đổ mâm vấy cả thức ăn vào áo ông già, một thiếu niên tức giận đứng dậy kéo tai nó rồi lấy khăn lau áo cho ông già. Kế lại thấy trên cổ tay đứa tiểu đồng có đeo một chuỗi đạn sắt dày khoảng nửa tấc, mỗi viên nặng khoảng hơn hai lượng. Ăn uống xong ông già bảo thiếu niên lấy bọc tiền trong túi da đổ ra trên bàn, tính toán trả tiền xong còn đủ uống thêm mấy chén nữa, bèn cất trở vào.
Thiếu niên dắt một con ngựa đen buộc dưới tàu ra, đỡ ông già lên, đứa tiểu đồng cũng nhảy lên ngựa đi theo. Hai thiếu niên thì đều đeo cung tên trên lưng, thúc ngựa cùng ra. Hình nhìn trộm thấy họ có nhiều tiền, lại đang lúc túng quẫn, máu tham nổi lên vội trả tiền đuổi theo, thấy ông già và đứa tiểu đồng đang thủng thỉnh phía trước bèn rẽ xuống đường tắt phóng ngựa vòng lên chặn trước ông già, kéo căng dây cung chĩa thẳng tên trợn mắt hăm dọa. Ông già cúi xuống tháo chiếc giày bên chân trái ra cười khẽ nói "Người không biết lão cướp già này à?". Hình bắn thử một phát, ông già ngã người trên yên ngựa giơ chân lên lấy hai ngón cặp mũi tên rồi cười nói "Tài nghề chỉ có bấy nhiêu thì chưa đáng là địch thủ của cha ngươi đâu". Hình nổi giận giở tuyệt kỹ ra, mũi trước vừa phát đi, mũi sau lại xé gió bay tới. Ông già vươn tay chụp được mũi trước nhưng dường như không đề phòng tên liên châu nên bị mũi sau bắn trúng miệng ngã lăn xuống ngựa, miệng ngậm tên, mắt trợn ngược, đứa tiểu đồng cũng vội xuống ngựa.
Hình mừng rỡ cho là ông ta đã chết bèn phóng tới gần, ông già phun mũi tên ra nhảy choàng dậy vỗ tay nói "Sao vừa gặp nhau đã giở độc thủ ra thế?". Hình cả kinh, con ngựa cũng giật mình phóng đi, vì thế biết ông già là người lạ, không dám quay lại nữa. Đi được ba bốn mươi dặm thấy có một bọn gia nhân nhà quan chở đồ đạc về kinh, Hình đánh cướp luôn, tính ra được khoảng hơn ngàn vàng, lại bắt đầu hăng hái. Đang lúc phóng nhanh chợt nghe phía sau có tiếng vó ngựa, ngoảnh nhìn thì thấy đứa tiểu đồng đã thay con ngựa khác đuổi tới như bay, quát lớn "Thằng kia đừng chạy, số hàng vừa cướp được phải chia đôi". Hình hỏi "Ngươi có biết Liên châu tiễn Hình mỗ không?", nó đáp "Ta vừa được lãnh giáo rồi".
Hình nhìn bộ dạng nó không có gì là khỏe mạnh, lại không thấy có cung tên nên xem thường, phát luôn ba mũi tên liên châu nối nhau không dứt như bầy chim ào ạt bay ra. Đứa tiểu đồng không hề hoang mang, giơ tay bắt hai mũi, há miệng cắn một mũi rồi cười nói "Tài nghề như thế thì nhục nhã thật, cha ngươi đi gấp quá không kịp mang cung, vật này vô dụng, xin trả lại ngay", rồi rút chuỗi đạn sắt trên tay xỏ vào mũi tên lấy hết sức phóng trả. Mũi tên rít gió bay tới, Hình vội lấy dây cung gạt ra, vừa chạm vào chuỗi đạn sắt thì phựt một tiếng, dây cung đứt đôi, cánh cung cũng bị sứt một mảnh.
Hình khiếp đảm, chưa kịp bỏ chạy thì mũi kế lại lướt qua mang tai, bất giác ngã ngựa. Đứa tiểu đồng xuống ngựa tới túm lấy, Hình nằm dưới đất lấy cánh cung đánh trả. Đứa tiểu đồng tức giận giật cung bẻ làm đôi, lại chập đôi bẻ làm tư ném đi, rồi một tay nắm hai tay, một chân đạp lên hai đùi Hình, tay nắm chặt như dây trói, chân đạp nặng như đá đè, Hình hết sức vùng vẫy mà không sao nhúc nhích được. Trên lưng Hình có thắt sợi dây lưng dày hai lớp, rộng bằng ba ngón tay, đứa tiểu đồng lấy một tay giật ra, sợi dây theo tay đứt tả tơi như tro. Lấy hết tiền của Hình xong, nó nhảy lên ngựa giơ tay một cái, một tràng vó ngựa vừa vang lên thì người đã mất hút. Hình về tới nhà, sau đó trở nên lương thiện, thường kể lại cho người ta nghe chuyện ấy không hề lấy làm xấu hổ. Chuyện này cũng phảng phất như chuyện Lưu Đông Sơn*.
*Chuyện Lưu Đông Sơn: chưa rõ nội dung, nhưng bản Hương Cảng chú là chép trong Cửu thược tập của Tống ấu Thanh.
096. Cơ Sinh (Cơ Sinh)
Nhà họ Ngạc ở Nam Dương (tỉnh thành Hà Nam) bị hồ quấy phá, tiền bạc đồ dùng cứ bị lấy trộm, chửi mắng thì càng phá phách thêm. Ngạc có cháu ngoại là Cơ sinh, là kẻ danh sĩ, tính vốn không chịu bị ràng buộc, cứ đốt hương khấn khứa năn nỉ thay Ngạc nhưng hồ không nghe. Lại khấn khứa xin tha cho nhà ông ngoại, bảo cứ về nhà mình mà phá phách, hồ cũng không chịu, người ta đều cười. Sinh nói "Hồ có thể biến hóa thì ắt biết suy nghĩ, nên ta cố dẫn dắt cho vào đường chính", cứ hai ba hôm lại khấn khứa một lần. Tuy vẫn không hiệu nghiệm nhưng cứ sinh tới thì hồ không phá phách gì nữa, vì vậy Ngạc thường giữ sinh ngủ lại.
Sinh đêm đêm cứ nhìn lên trời khấn khứa ngày càng thêm kiên tâm. Một hôm sinh về nhà, đang ngồi một mình trong phòng, chợt cửa phòng từ từ khép lại, sinh đứng lên kính cẩn nói "Hồ huynh tới đấy ư?", nhưng không có tiếng động nào khác nữa. Một đêm cánh cổng tự mở ra, sinh nói "Nếu đúng là hồ huynh giáng lâm thì đó là vì tiểu sinh khấn khứa nài nỉ, ngại gì mà không cho gặp mặt?", thì lại yên ắng, nhưng có hai trăm đồng tiền để ở đầu bàn, sáng ra nhìn tới đã mất rồi. Đến đêm sinh lại để thêm vài trăm đồng, giữa khuya nghe ngoài màn có tiếng động, sinh nói "Lại tới đấy ư? Có sẵn vài trăm đồng tiền để đó phòng khi huynh cần dùng, ta tuy không dư dả gì nhưng cũng chẳng phải loại keo kiệt, nếu huynh cần gấp để chi dùng cứ hỏi mà lấy có hề gì, cần chi phải lấy trộm?". Lát sau ra nhìn thấy chuỗi tiền bị rút mất hai trăm đồng, sinh vẫn để yên đó nhưng mấy đêm không bị mất nữa.
Có con gà luộc định đãi khách thì mất, tối đến sinh lại đặt thêm bầu rượu vào đó, nhưng từ đó hồ tuyệt tích luôn. Nhà họ Ngạc thì vẫn bị quấy phá như cũ, sinh qua khấn nói "Ta để tiền mà ông không cầm, để rượu mà ông không uống, còn ông ngoại ta già yếu, sao cứ quấy phá mãi thế? Ta có sắp sẵn vật mọn, đêm nay nhờ ông tới lấy giúp". Rồi lấy mười ngàn đồng tiền và một vò rượu gói lại đặt lên bàn, sinh nằm ngay bên cạnh nhưng cả đêm không thấy một tiếng động, tiền và rượu vẫn còn nguyên chỗ cũ, từ đó hết hẳn nạn hồ. Một hôm chiều tối sinh về nhà, mở cửa phòng sách thấy trên bàn có một bầu rượu, một đĩa thịt gà luộc và bốn trăm đồng tiền xâu bằng dây đỏ, là những món bị mất trước đây, biết là hồ đem tới.
Ngửi bầu rượu thấy thơm phức, rót ra thấy màu xanh biếc, uống vào vô cùng ngon ngọt, uống cạn bầu rượu thì hơi say, chợt nảy ý tham lam muốn đi ăn trộm bèn mở cổng bước ra. Nhớ lại trong thôn có một nhà giàu bèn tới đó nhảy qua tường, tuy tường cao nhưng nhảy lên rồi nhảy xuống nhẹ nhàng như có cánh, vào phòng xách luôn cái áo cừu, bưng cái đỉnh đồng trở ra quay về nhà đặt ở đầu giường rồi mới đi ngủ. Sáng ra cắp vào phòng vợ, vợ ngạc nhiên hỏi, sinh thì thào kể lại, dáng vui vẻ lắm. Vợ lúc đầu còn cho là sinh đùa, khi biết là thật hoảng sợ nói "Chàng vốn ngay thẳng, sao bỗng nhiên lại đi làm chuyện này?". Sinh thản nhiên không hề lấy làm lạ lùng, còn kể chuyện hồ có tình nghĩa. Vợ giật mình hiểu ra ắt là trong bình rượu có thuốc độc của hồ, nhân nghĩ đan sa có thể giải tà độc bèn lấy nghiền ra hòa vào rượu bảo sinh uống.
Giây lát chợt sinh rú lên nói "Tại sao ta lại đi ăn trộm?", vợ giải thích nguyên do, sinh thẫn thờ như mất của. Lại nghe nói nhà giàu bị trộm, cả làng đồn đại, sinh cả ngày bỏ ăn không biết làm sao, vợ bàn nhân đêm tối đem ném trả vào trong tường, sinh nghe theo. Nhà giàu lấy lại được vật bị mất, việc ấy mới lắng xuống. Sinh khảo khóa cuối năm đỗ đầu, lại được cử làm Chư sinh hạng ưu, theo lệ thì được thưởng gấp đôi. Đến ngày phát thưởng chợt trên xà nhà công thự có một tấm thiếp dán vào, trên viết "Cơ sinh là ăn trộm, lấy trộm áo cừu đỉnh đồng của ông Mỗ, sao lại được hạng ưu?". Xà nhà rất cao, không thể nhảy lên mà dán vào được, khảo quan lấy làm ngờ vực, cầm tấm thiếp hỏi sinh. Sinh ngạc nhiên, nghĩ việc này ngoài vợ ra thì không ai biết, huống hồ công thự canh gác nghiêm cẩn thì tấm thiếp từ đâu tới được, chợt sực nghĩ ra nói "Đây chắc là hồ làm ra". Rồi kể lại mọi việc không e ngại gì, khảo quan bèn thưởng thêm cho. Sinh vẫn tự nghĩ không làm gì nên tội với hồ, mấy lần mình sa hầm sẩy hang cũng chỉ là cái nhục của kẻ tiểu nhân, vì mình là kẻ tiểu nhân mà thôi.
Dị Sử thị nói: Cơ sinh muốn dẫn dắt kẻ tà đạo vào đường chính mà lại bị kẻ tà mê hoặc, chưa chắc là hồ đã có ác ý, có lẽ sinh đùa dẫn dắt thì hồ cũng đùa phá quấy thôi. Nhưng nếu thân không có túc căn, nhà không có vợ hiền, thì biết đâu lại chẳng như Nguyên Thiệp vẫn nói "Gia nhân, quả phụ vì trộm cắp nhơ danh rồi làm bậy luôn*", sao! Ôi, đáng sợ thay!
*Nguyên Thiệp... làm bậy luôn: Tiền Hán thư, Du hiệp truyện chép Nguyên Thiệp làm Huyện lệnh Cốc Khẩu, tính ưa chiêu hiền đãi sĩ, có người môn khách nghèo bệnh chết, Thiệp tới tận nhà giúp đỡ tiền bạc tống táng chu đáo, lại thường chu cấp cho vợ con người ấy. Có người chê Thiệp bỏ tiền mua cái danh hào hiệp, Thiệp nói người ta ai cũng muốn làm đầy tớ trung thành, góa phụ trinh tiết, nhưng nếu trong nhà thiếu thốn phải trộm cắp nhơ danh thì sẽ làm bậy luôn, nên phải giúp đỡ cho họ giữ được tiếng trong sạch mà giữ lòng trong sạch.
097. Tướng Quân Khỏe Mạnh (Đại Lực Tướng Quân)
Tra Y Hoàng là người đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), tiết Thanh minh đi chơi, vào uống rượu trong một ngôi chùa hoang. Thấy trước điện phật có cái chuông cổ to bằng hai cái lu, trên dưới đầy vết tay bụi bặm còn mới, lấy làm ngờ vực bò xuống xem thì bên trong có cái giỏ tre đựng khoảng tám thăng, không biết chứa vật gì. Sai mấy người xúm lại nhấc lên mà không nổi, càng sợ bèn ngồi lại uống rượu chờ xem. Không bao lâu có một người ăn mày từ ngoài vào, đặt các thức cơm bánh xin được thành đống xuống cạnh chuông, một tay nhấc chuông lên, một tay bốc bỏ vào cái giỏ, mấy lượt như thế mới hết rồi đậy chuông lại bỏ đi. Lát sau trở lại bốc ăn, ăn xong lại đậy chuông lại, nhẹ nhàng như mở nắp rương, cả bọn đều sợ hãi. Tra hỏi "Anh là kẻ nam nhi, tại sao phải xin ăn?" người ấy đáp vì ăn khỏe quá nên không có ai thuê mướn. Tra thấy thế khuyên nên đầu quân, người ấy thở dài nói rằng không có người dẫn dắt.
Tra bèn dắt về nhà cho ăn uống, thấy ăn khỏe bằng năm sáu người. Lại may y phục cho, rồi tặng năm mươi đồng vàng làm lộ phí. Hơn mười năm sau, cháu của Tra làm Tri huyện ở đất Mân (tỉnh Phúc Kiến), chợt có tướng quân Ngô Lục Nhất tới bái phỏng. Đang lúc chuyện trò, tướng quân hỏi Y Hoàng là người thế nào với ông, cháu Tra đáp "Đó là chú ta, quen biết tướng quân ở đâu?". Tướng quân nói "Đó là thầy ta, chia tay đã mười năm, lòng thường không quên, phiền ông nhắn với tiên sinh tới chơi một lần". Cháu Tra ậm ừ, tự nghĩ chú mình có tiếng văn chương, làm sao có được học trò theo nghề võ. Gặp lúc Y Hoàng tới, cháu kể lại, Y Hoàng quên bẵng không nhớ ra là ai nhưng thấy nói là thăm hỏi rất ân cần, lập tức sai đầy tớ dắt ngựa tới phủ tướng quân đưa danh thiếp xin yết kiến.
Tướng quân rảo bước ra đón tận ngoài cổng lớn, Tra thấy không hề quen biết, nghĩ thầm chắc là tướng quân lầm. Nhưng tướng quân tỏ vẻ rất cung kính, mời khách vào nhà, qua ba bốn lần cửa tới một chỗ có đàn bà con gái qua lại, Tra biết là nơi ăn ở của gia đình bèn dừng lại, tướng quân lại kéo đi. Giây lát lên một sảnh đường, những người cuốn rèm bưng ghế đều là tỳ thiếp trẻ đẹp. Tra vừa ngồi xuống, đang định hỏi thì tướng quân khẽ hất hàm, một người tỳ thiếp liền bưng mũ áo đại trào tới, tướng quân lập tức đứng dậy thay áo. Tra không biết tướng quân định làm gì thì các tỳ thiếp đều xắn tay áo, tướng quân sai mấy người xúm lại giữ chặt Tra ngồi yên không cho nhúc nhích rồi lạy phục xuống đất như ra mắt thiên tử vậy. Tra rất kinh ngạc không hiểu vì sao, tướng quân lạy xong lại vào thay áo ra ngồi, cười nói "Tiên sinh không nhớ thằng ăn mày nhấc cái chuông à?", Tra mới sực nhớ ra.
Kế đó mời lên thềm cao ăn yến, phường hát trong nhà ca múa ở dưới, lúc say rồi các tỳ thiếp xúm lại hầu hạ. Tướng quân vào trong bảo dọn giường cho Tra nghỉ rồi mới đi. Tra say rượu dậy muộn, tướng quân đã tới ngoài cửa phòng hỏi thăm mấy lần. Tra áy náy cáo từ muốn về, tướng quân sai đóng cổng lại không cho ra. Tra thấy tướng quân hàng ngày không làm gì khác, chỉ tính toán số tỳ thiếp và tôi tớ trong nhà, kiểm điểm xe ngựa, quần áo, vật dùng, bắt làm sổ sách, dặn không được để sót. Tra cho rằng đó là việc nhà của tướng quân nên cũng không hỏi gì.
Một hôm tướng quân cầm sổ sách tới nói với Tra "Kẻ bất tài này có được ngày hôm nay là nhờ ơn lớn của tiên sinh, một người một vật cũng không dám riêng tư, xin kính dâng tiên sinh một nửa". Tra ngạc nhiên từ chối, tướng quân không nghe, đem tiền bạc ra có đến mấy vạn chia làm hai phần, kế theo sổ sách đem từ đồ cổ ngoạn tới bàn ghế giường tủ ra bày la liệt từ trong tới ngoài. Tra cố từ chối nhưng tướng quân không để ý gì tới, kê biên tên họ tôi tớ tỳ thiếp xong, lập tức ra lệnh đàn ông lo thu thập hành lý, đàn bà lo thu thập tư trang, dặn phải kính cẩn thờ phụng tiên sinh, mọi người dạ rân. Lại đích thân đưa các tỳ thiếp lên kiệu, sai bọn mã phu dắt lừa ngựa rầm rộ ra đi rồi quay lại chào Tra. Về sau Tra vướng vào cái án làm sử* bị bắt, sau cùng được tha đều là nhờ sức tướng quân.
*Cái án làm sử: xem chú thích đoạn Phụ lục.
Dị Sử thị nói: Ban ơn mà không hỏi gì tới tên họ, đúng là bậc trượng phu hào hiệp thời cổ. Mà tướng quân báo đáp cũng khẳng khái hào sảng, ngàn năm ít thấy, bụng dạ như thế thì ắt không thể chết già nơi ngòi rãnh. Xem đó đủ biết hai bậc hiền tài gặp nhau không phải là ngẫu nhiên đâu.
Phụ Lục: Một Truyện Trong Cô Thặng Tuyết Cấu (Phụ Lục Cô Thặng Tuyết Cấu Nhât Tắc)
Hiếu Liêm họ Tra ở huyện Hải Ninh tỉnh Chiết Giang tự Y Hoàng là người tài hoa tiêu sái, thường nói "Mắt thấy mênh mông, không sao gặp gỡ hết các bậc kỳ kiệt trong thiên hạ, nếu không tìm trong đám người thường thì không được". Cuối năm ở nhà, sai lấy rượu ra độc ẩm, khoảnh khắc mây mù giăng mắc, tuyết rơi mờ mịt, bèn đi dạo ra cổng xem có khách quý nào tới để cùng ngâm cảnh. Chợt thấy một người ăn mày tránh tuyết nép dưới vòm cổng, hiên ngang đứng thẳng, Hiếu liêm đứng nhìn hồi lâu thầm lấy làm lạ.
Nhân gọi vào ngồi, hỏi "Ta nghe nói trong chợ có một người ăn mày tay không cầm gậy, miệng như ngậm tăm, áo rách hở bụng mà không có vẻ đói rét, mọi người đều gọi là Thiết cái (ăn mày sắt), có phải là ngươi không?", người ấy đáp "Phải". Lại hỏi "Uống rượu được không?", người ấy đáp "Được Hiếu liêm bèn sai tiều đồng lấy chỗ rượu thừa trong bầu trút vào tô cho y uống, người ăn mày bưng tô uống một hơi hết sạch. Hiếu liêm thích quá lại sai quạt than hâm rượu, hẹn với y rằng "Ngươi uống một tô thì ta uống một chung, hết chỗ rượu này thì thôi"' Người ăn mày uống liền hơn ba mươi tô mà mặt chưa đỏ, còn Hiếu liêm đã say nằm lăn ra chiếu. Tiểu đồng xốc nách dìu vào nhà trong, người ăn mày đứng lên, lại bước ra đứng dưới vòm cổng. Đến sáng tuyết ngừng rơi, Hiếu liêm tỉnh rượu nói với gia nhân rằng "Đêm qua ta cùng Thiết cái đối ẩm vui quá, thấy quần áo y rách rưới, lấy gì chống rét cho được, lấy cái áo bông của ta đem cho y". Người ăn mày khoác áo rồi đi, cũng không xin vào tạ ơn chủ nhân.
Năm sau Hiếu liêm tới ngụ trong chùa Tường Minh ở Hàng Châu (tỉnh thành chiết Giang), lúc cuối xuân cùng bạn bè mang rượu đi chơi trên hồ. Chợt gặp người ăn mày ấy ở đình Phóng Hạc (tại Cô Sơn ở Tây Hồ), áo hở khuỷu tay, chân trần không dép ngẩng đầu đi một mình, bèn kéo về chùa, hỏi cái áo cho ngày trước đâu? Y đáp "Đang là tiết xuân, dùng nó làm gì? Ta đã bán lấy tiền gởi cả vào quán rượu rồi". Hiếu liêm nghe thế lấy làm lạ, nhân hỏi đã từng học chữ chưa, y đáp "Nếu không học chữ đọc sách thì đã không làm ăn mày". Hiếu liêm chạnh lòng, cho tắm rửa ăn mặc sạch sẽ rồi hỏi tên họ quê quán, người ăn mày nói "Ta là hậu duệ Diên Lăng, hâm mộ Trần Bình*, nhà ở Việt Hải (tỉnh Quảng Đông), tên là Lục Kỳ.
*Hậu duệ Diên Lăng, hâm mộ Trần Bình: nguyên văn là "Hệ xuất Diên Lăng, tâm nghĩa Khúc Nghịch". Diên Lăng là địa danh thuộc huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô, là nơi ở của Ngô Quý Trát thời Xuân thu, đây nhân vật Lục Kỳ có ý nói mình họ Ngô. Khúc Nghịch tức Khúc Nghịch hầu, tước phong của Trần Bình, một trong Hán triều tam kiệt là Trương Lương, Hàn Tín, Trần Bình, ba khai quốc công thần bậc nhất của nhà Hán, đây nhân vật Lục Kỳ có ý nói mình có hoài bão lớn lao.
Chỉ vì cha anh mất sớm, tính lại ưa cờ bạc nên tới nỗi lưu lạc giang hồ, trôi nổi như thế này. Nhân nghĩ gõ cửa xin ăn thì người hiền ngày xưa có khi cũng không tránh được, ta là hạng người nào mà dám cho đó là cái nhục, không nghĩ rằng gặp được minh công coi trọng kẻ phong trần, ra ơn lúc gặp gỡ. Ta tuy không phải kẻ thiếu niên ở Hoài âm* nhưng cái ơn một bữa cơm cũng đâu dám quên?". Hiếu liêm vội đứng dậy nắm tay y nói "Ngô sinh vốn là bậc kỳ kiệt trên đời mà ta lại coi là bạn rượu, để mất Ngô sinh rồi". Bèn sai sư trong chùa mua một thạch rượu Lê hoa xuân uống với nhau trọn ngày, giữ lại cả tháng rồi tặng tiền đi đường, bảo về Việt Đông.
*Thiếu Hoài âm: tức Hàn Tín, người huyện Hoài âm, Phá Sở Nguyên nhung của Hán Cao tổ Lưu Bang, là người cầm quân đánh bại Tây Sở Bá vương Hạng Vũ, kết thúc cục diện Hán Sở tranh hùng. Lúc Hàn Tín còn hàn vi ra câu cá ở bờ sông, được một bà già giặt vải (Phiếu mẫu) cho ăn cơm suốt cả tháng. Sau Tín lập nên công nghiệp, đem ngàn lượng vàng về tạ ơn bà.
Lục Kỳ nhiều đời ở Triều Châu (tỉnh Quảng Đông), từng học Thi Thư nhưng vì say mê cờ bạc mà gia tài khánh tận, gởi thân làm phu trạm nên đường đi cửa ải hình thế hiểm trở ra sao đều biết rất rõ. Lúc ấy thiên hạ vừa định*, vương sư từ Chiết Giang tiến vào Quảng Đông, chiến thuyền liên tiếp nối nhau, cờ xí đỏ rực chiêng trống ầm ầm suốt mấy trăm dặm không dứt, qua các thành ấp quận huyện cư dân đều chạy trốn về thôn xóm, trên đường không một bóng người.
*Thiên hạ vừa định: chỉ lúc nhà Thanh đã đàn áp được nhiều phong trào phản Thanh phục Minh, bắt đầu khẳng định được quyền thống trị ở Trung Hoa.
Lục Kỳ một mình thản nhiên đi tới bị đội tiền tiêu bắt giải về dưới trướng, nhân đó xin ra mắt chủ tướng, thưa rõ về hình thế đất Việt Trung (tỉnh Quảng Đông), nói có thể truyền hịch mà bình định. Kỳ có ba mươi anh em kết nghĩa, vốn có tiếng anh hùng giỏi võ, chỉ vì thiên hạ vô chủ nên tụ tập bè đảng chiếm cứ đất đai làm cướp. Nay gặp lúc Hoàng thượng lên ngôi, thiên binh nam chinh, chính là lúc cứu vớt dân đen, sử dụng hào kiệt, bèn cho Kỳ đem ba mươi tờ văn thư phong chức đi trước chia cấp cho quần hùng, người gần ra hàng, người xa hưởng ứng, chưa đầy một tháng đã hình thành cái thế phá giặc như chẻ tre.
Chủ tướng theo lời Lục Kỳ, đất Việt bèn yên. Từ đó Lục Kỳ bày mưu tính kế, nói gì trúng đó, những kẻ có sức khỏe cũng không chống được, đánh đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) phá đất Thục (tỉnh Tứ Xuyên) nhiều lần lập kỳ công, trong vòng vài năm được thăng tới chức Thông tỉnh Thủy lục Đề đốc. Lúc Lục Kỳ lưu lạc chưa gặp thời, tự nghĩ rằng mình phải làm ăn mày hèn hạ suốt đời, gặp được Tra Hiếu liêm cởi áo tặng vàng, lại nổi tiếng là bậc kỳ kiệt trong thiên hạ nên trong lòng mừng rỡ hăng hái, trong quân ngũ ra sức lập công, dần làm tới bậc nguyên nhung, thường nói "Thiên hạ có một người tri kỷ, không ai được như Tra Hiếu liêm".
Đầu niên hiệu Khang Hy (1662-1722) mở phủ Đề đốc ở Tuần Châu (tỉnh Quảng Đông), lập tức sai nha tướng đem ba ngàn lượng vàng về để sẵn trong nhà rồi gửi thư mời Tra Hiếu liên tới đất Việt, chuẩn bị đầy đủ thuyền bè xe kiệu. Tra vừa qua Mai Lĩnh thì Ngô công tử đã đón đường vái lạy đón rước, giữ lễ rất mực cung kính, còn cách tỉnh thành hai mười dặm thì Ngô tự ra đón, đem nghi vệ dẫn đường như bậc vương hầu. Hiếu liêm về tới phủ thì Ngô phục lạy dập đầu, tự nói "Thằng ăn mày hèn hạ ngày xưa nếu không gặp được tiên sinh thì làm gì có ngày hôm nay. Nay may được tỉên sinh quá bộ tới chơi, dẫu nát thân ăn mày này cũng không đủ báo ơn".
Tra ở đó một năm, Ngô tuy việc quân bận rộn nhưng ai được Tra tiên sinh nói giúp một lời thì Ngô lập tức nghe theo, nhờ vậy Tra được người ta biếu xén có tới hàng vạn lượng vàng. Đến khi Tra về, Ngô đem ba ngàn lượng vàng ra tiễn tặng, nói "Không dám nói là đền ơn, chỉ là để ghi lại lòng cảm kích của kẻ thiếu niên ở Hoài âm mà thôi". Trước là ở Thiều Trung (tỉnh Chiết Giang) có nhà giàu Trang Đình Việt mua được bộ sử của Chu Tướng quốc, tìm mời các danh sĩ vùng Tam Ngô (Tô Châu, Nhuận Châu, Hồ Châu) san định tu sửa, khắc in lưu truyền. Đầu sách có kể ra mười mấy ngườitham gia san định, vì Tra Hiếu liêm là bậc danh sĩ nên cũng kể vào. Không bao lâu cái án làm sử riêng* phát ra, ai dính líu đều bị khép trọng tội. Ngô ra sức tâu bày nên Tra Hiếu liêm mới thoát chết.
*Cái án làm sử riêng: tức vụ án Minh thư tập lược nổi tiếng thời Thanh. Trang Đình Long người Hồ Châu mua được bản thảo bộ Minh sử của tướng quốc nhà Minh Chu Quốc Trinh bèn dựa vào đó biên soạn thêm, mời nhiều danh sĩ Giang Nam san định bình chú, đặt tên sách là Minh thư tập lược, khắc bản lưu hành. Vì trong sách có dùng niên hiệu các vua nhà Minh, lời lẽ cũng nhiều chỗ động chạm tới nhà Thanh, nên gây ra vụ án lớn, có đến hàng trăm danh sĩ bị bắt, những người in sách bán sách mua sách cũng bị liên lụy, hàng vạn người tan cửa nát nhà náo động một thời.
Hiếu liêm từ đó về sau càng thả tình ở thơ rượu, dốc hết tiền bạc mua mười hai người con gái xinh đẹp dạy cho múa hát. Mỗi lúc đêm thanh mở tiệc thì buông rèm thắp đèn ca múa, châu ngọc khua ran, mỹ nữ yêu kiều, ai nhìn thấy cũng phải ngây ngất. Phu nhân của Hiếu liêm cũng giỏi âm luật, thường đích thân ra gõ phách cho đám ca kỹ trong nhà múa hát, sửa cho những chỗ sai, vì vậy phường nữ nhạc của họ Tra nổi tiếng nhất ở vùng Chiết Trung.
Trước kia lúc Hiếu liêm ở mạc phủ Quảng Đông thấy vườn hoa trong phủ cực đẹp, trong có một tòa giả sơn bằng đá thạch anh cao hơn hai trượng, lóng lánh đẹp đẽ như là quỷ thần tạc ra, rất ưa thích bèn đề cho hai chữ "Xu Vân" (Mây the). Qua tuần sau lại ra xem thì tòa giả sơn không còn, té ra Ngô đã sai lấy thuyền lớn chở về nhà Hiếu liêm, qua sông lên núi tốn phí tới hàng ngàn quan tiền. Nay Hiếu liêm đã chết, ca kỹ đã già, vườn hoang ao cạn mà tòa giả sơn vẫn còn.
Quyển VI
098. Lưu Hải Thạch (Lưu Hải Thạch)
Lưu Hải Thạch người huyện Bồ Đài (tỉnh Sơn Đông), tránh loạn tới ở Tân Châu (thuộc tỉnh Cát Lâm). Năm ấy mười bốn tuổi học cùng thầy với người học trò ở Tân Châu là Lưu Thương Khách, nhân chơi thân với nhau nên kết nghĩa anh em. Không bao lâu cha mẹ Hải Thạch mất, Hải Thạch mang hài cốt về quê, từ đó bặt tin. Thương Khách nhà khá giả, đến năm bốn mươi tuổi có hai con trai, con trưởng là Cát, mười bảy tuổi đã là danh sĩ trong huyện, con thứ cũng thông minh. Thương Khách lại nộp sính lễ cưới con gái nhà họ Nghê trong huyện, rất yêu dấu. Nửa năm sau con trưởng đau óc rồi chết, vợ chồng đều buồn rầu. Không bao lâu vợ lại mắc bệnh chết, vài tháng sau con dâu trưởng cũng chết, rồi tôi tớ cũng nối nhau chết, Thương Khách vô cùng thương xót đau buồn.
Một hôm đang ngồi buồn bã chợt người giữ cổng vào báo là Hải Thạch tới, Thương Khách mừng rỡ vội ra cổng đón vào. Đang định hỏi thăm sức khỏe, chợt Hải Thạch kinh ngạc nói "Anh có cái tai vạ chết sạch cả nhà mà không biết sao?", Thương Khách ngạc nhiên không hiểu ý tứ. Hải Thạch nói "Lâu quá không có tin tức, vẫn thầm nghĩ gần đây anh không được vui". Thương Khách sa nước mắt kể lại mọi chuyện, Hải Thạch than thở hồi lâu rồi cười nói "Tai ương chưa hết, lúc nãy là phúng điếu cho anh, nhưng may là anh gặp được ta, vậy xin chúc mừng anh". Thương Khách hỏi "Lâu quá không gặp chắc anh học được nghề thuốc giỏi lắm phải không?". Hải Thạch đáp "Chuyện đó thì không phải sở trường, nhưng những môn coi đất xem nhà thì có học".
Thương Khách mừng rỡ xin xem nhà cho, Hải Thạch bèn vào trong xem khắp trước sau, kế xin cho gặp mặt hết mọi người trong nhà. Thương Khảch theo lời, gọi tất cả con trai con dâu, thê thiếp gia nhân tới sảnh đường, Hải Thạch nhìn kỹ từng người, tới họ Nghê thì ngửa mặt cười lớn không thôi. Mọi người đang kinh hãi thì thấy cô gái họ Nghê run rẩy tái mặt, thân hình chợt co rúm lại chỉ còn hơn hai thước. Hải Thạch lấy thước đánh vào đầu, nghe leng keng như gõ vào đá. Hải Thạch nắm tóc cô ta xem sau gáy, thấy có mấy cọng lông trắng, toan nhổ thì cô gái rụt cổ quỳ xương kêu khóc xin tha đừng nhổ. Hải Thạch giận dữ nói "Ngươi chưa bỏ hết lòng hung ác à?", rồi nhổ cả ra, cô gái lập tức biến thành con vật đen như con mèo mun, mọi người cả sợ.
Hải Thạch tóm lấy bỏ vào tay áo, quay lại nhìn con dâu thứ của Thương Khách nói "Cháu bị ngấm chất độc đã nhiều, trên lưng ắt có sự lạ, xin cho ta xem". Người con dâu xấu hổ không chịu vén áo lên, con trai Lưu phải ép vén lên, thấy trên lưng có sợi lông trắng dài khoảng bốn đất tay. Hải Thạch lấy trâm khều ra, nói "Sợi lông này đã mọc lâu rồi, chỉ bảy ngày nữa ắt không sao cứu được". Lại xem tới lưng con trai Lưu thì cũng có sợi lông trắng nhưng chỉ mới dài khoảng hai đốt tay, bèn nói "Thế này thì hơn một tháng sẽ chết". Rồi xem khắp từ Thương Khách tới gia nhân, khều ra hết cho, nói "Nếu ta không tới, thì chắc cả nhà không ai sống nổi". Lưu hỏi đó là con gì, Hải Thạch đáp "Cũng là hồ thôi, nhưng hút tinh khí người ta để tu luyện, chuyên làm chết người".
Thương Khách hỏi "Lâu quá không gặp ông, sao lại có phép thuật thần diệu như vậy, hay đã thành tiên rồi ư?". Hải Thạch cười đáp "Chỉ là theo thầy học chút thuật mọn thôi, đâu đáng nói là tiên?". Hỏi thầy là ai, Hải Thạch đáp "Là Sơn Thạch đạo nhân. Con vật này thì ta không thể giết, định sẽ mang về nộp cho thầy". Nói xong cáo từ, xem lại thấy trong tay áo trống không giật mình nói "Nó chạy mất rồi, ở cuối đuôi còn sợi lông lớn chưa nhổ nên nó trốn được". Mọi người đều hoảng sợ, Hải Thạch nói "Nó đã bị nhổ hết lông trên cổ thì không thể biến ra hình người nữa, chỉ có thể biến thành thú, chắc chưa chạy xa đâu". Bèn vào phòng xem xét lũ mèo, lại ra cổng tắc lưỡi gọi chó, đều nói là không có.
Tới mở cửa chuồng heo xem thì cười nói "Nó đây rồi". Thương Khách nhìn, thấy trong chuồng dư ra một con heo, nghe tiếng Hải Thạch cười thì nằm mọp xuống không dám động đậy. Hải Thạch nắm tai kéo ra, thấy ở chót đuôi có một sợi lông trắng cứng như cây kim, đang định nhổ thì con heo giãy giụa kêu khóc không cho nhổ. Hải Thạch nói "Ngươi làm ác đã nhiều mà bị nhổ một sợi lông cũng không muốn à?". Rồi nhổ luôn ra, con heo lập tức biến thành chồn, Hải Thạch bỏ vào tay áo định đi luôn, Thương Khách giữ mãi mới ở lại ăn một bữa cơm. Hỏi khi nào lại gặp nhau, Hải Thạch đáp "Chuyện đó khó biết trước, nhưng thầy ta có lời nguyền nên thường sai bọn ta ngao du khắp nơi cứu giúp cho người ta, cũng có thể sẽ gặp lại". Sau khi chia tay, Thương Khách nhớ lại tên đạo nhân mới sực hiểu, nói "Hải Thạch thành tiên rồi". Chữ sơn và chữ thạch hơp lại thành chữ Nham, chính là tên húy của tiên ông Lữ Động Tân.
099. Ngọn Đèn Chó (Khuyển Đăng)
Nhà Quang lộc tự khanh Hàn Đại Thiên có người đầy tớ đêm ngủ ngoài hè, thấy trên lầu có ánh đèn như sao sáng. Không bao lâu ánh đèn lập lòe rơi xuống, tới đất thì biến thành con chó, hé mắt nhìn thấy nó đi vòng ra sau nhà. Vội vùng dậy lẻn theo xem, vào tới trong vườn thấy biến thành cô gái, biết là hồ bèn quay lại chỗ ngủ. Lát sau cô gái từ sau nhà tới, y vờ ngủ để chờ xem sao, cô gái bèn tới nằm đè lên. Y làm ra vẻ vừa tỉnh ngủ, hỏi là ai. Cô gái không đáp, y nói "ánh đèn trên lầu là nàng đấy phải không?". Cô gái đáp "Đã biết rồi còn hỏi làm gì", rồi ngủ với nhau. Từ đó cứ sáng đi khuya tới, dần dần thành lệ.
Chủ nhân biết được, sai hai người đầy tớ khác cùng tới ngủ kèm, nhưng cứ khi họ tỉnh dậy thì thấy mình đã nằm dưới đất, cũng không biết rơi khỏi giường lúc nào. Chủ nhân càng tức giận, nói với người đầy tớ "Lúc nào nó tới thì phải bắt đem tới đây, nếu không thì ăn đòn". Người đầy tớ không dám nói gì, dạ dạ lui ra, nhưng nghĩ bắt cô ta rất khó, mà không bắt thì sợ bị tội trăn trở không biết làm sao. Chợt nhớ ra cô gái có chiếc áo lót mình màu đỏ, thường mặc sát vào người chưa lần nào cởi ra, ắt đó là chỗ yếu hại, có thể nắm lấy nó để uy hiếp.
Nửa đêm cô gái tới, hỏi "Chủ nhân dặn anh bắt ta phải không?", y đáp "Đúng là có chuyện đó, nhưng hai ta ân tình thắm thiết, nỡ nào ta chịu?". Kế đó cùng lên giường, y lén cởi chiếc áo lót, cô gái vội kêu lên, giãy giụa vùng ra chạy mất, từ đó biệt tăm luôn. Sau người đầy tớ từ nơi khác về, xa xa nhìn thấy cô gái ngồi cạnh đường, tới gần thì nàng lấy tay áo che mặt. Y xuống ngựa gọi rồi hỏi "Sao lại làm thế?". Cô gái đứng dậy cầm tay y nói "Ta vẫn cho là chàng đã quên tình cũ, nay thấy có ý quyến luyến cố nhân thì có thể tha thứ. Chuyện trước đây là theo lệnh chủ nhân, cũng không trách chàng được. Nhưng duyên phận đã hết, nay có bữa tiệc nhỏ xin mời vào uống để chia tay".
Lúc ấy đang đầu mùa thu, lúa mì đang tốt, cô gái dắt y chui vào đám ruộng, thấy bên trong có một tòa phủ đệ lớn. Y buộc ngựa rồi vào, thấy trong sảnh đường đã bày đầy rượu thịt, ngồi vào bàn thì đám tỳ nữ liên tiếp đưa thức ăn lên. Mặt trời sắp lặn, người đầy tớ có việc phải về báo với chủ nhân bèn chia tay. Khi trở ra thấy vẫn là ruộng lúa mì như cũ.
100. Liên Thành (Liên Thành)
Kiều sinh người huyện Tấn Ninh (tỉnh Vân Nam), thuở trẻ rất nổi tiếng. Năm hơn hai mươi tuổi tính gan dạ, chơi thân với Cố sinh, khi Cố mất thường chu cấp cho vợ con Cố. Quan huyện lấy văn chương cùng sinh giao du thân mật, kế mất tại chức, gia đình nấn ná mãi không về được, sinh bỏ hết gia tài ra đưa linh cữu về quê quán, khứ hồi hơn hai ngàn dặm, vì thế sĩ lâm càng trọng, nhưng từ đó nhà cửa ngày càng sa sút. Hiếu liêm họ Sử có con gái tên Liên Thành, giỏi thêu thùa, lại biết chữ nên Hiếu liêm rất thương yêu, đem bức tranh Thiếu nữ ngồi thêu mỏi mệt của nàng thêu ra cho các văn sĩ thiếu niên đề vịnh, ý muốn qua đó kén rể. Sinh hiến bài thơ như sau:
Dung hoàn cao kết lục bà sa,
Tảo hướng lan song tú bích hà
Thích đáo uyên ương hồn dục đoạn
Ám đình châm tiễn kiển song nga
(Tóc xanh cao búi dáng thơ ngây
Sáng tới song thêu cảnh ráng mây
Thêu tới uyên ương hồn tựa đứt
Lén ngừng kim chỉ khẽ chau mày
Lại một bàì khen nàng thêu khéo rằng:
Tú tiễn khiêu lai tự tả sinh,
Bức trung hoa điểu tự thiên thành
Đương niên chức cẩm phi trường kỹ
Hạnh bả hồi văn cảm thánh minh
(Thêu như sống thật thấy tài chưa?
Hoa điểu trời xanh há kém thua
Hơn hẳn năm xưa người dệt gấm
Hồi văn may được cảm lòng vua)*
*Tranh gấm... lòng vua: theo Trữ tình thi, đời Đường Vũ tông nàng họ Hầu có chồng là Trương Thấu làm tướng ra đồn thú ở biên cương mười năm không được về, nàng bèn thêu bài thơ hồi văn theo hình con rùa (tức bài thơ mà các dòng chữ đan chéo vào nhau trở đi trở lại tạo ra các ô hình quả trám giống mai rùa, chỗ nhô ra giống đầu rùa là chỗ bắt đầu bài thơ), tới cửa khuyết dâng lên Vũ tông, vua cảm động bèn cho Trương Thấu về.
Cô gái được thơ mừng lắm, trước mặt cha cứ khen sinh nức nở, nhưng cha chê sinh nghèo. Nàng gặp ai cũng ca ngợi sinh, lại sai bà vú giả vâng lệnh cha đem tiền tặng giúp sinh học hành. Sinh than rằng "Liên Thành là tri kỷ của ta", từ đó trong lòng luôn mơ tưởng như kẻ khát muốn uống nước. Kế Sử Hiếu liêm nhận hứa gả nàng cho con nhà buôn muối Vương Hóa Thành, sinh mới tuyệt vọng, nhưng mộng hồn vẫn còn tơ tưởng.
Ít lâu sau, nàng mắc bệnh nặng nằm liệt giường, có nhà sư Tây Vực nói mình có thể chữa được, nhưng phải có một đồng cân thịt ở ngực đàn ông để trộn thuốc. Sử sai người tới nhà họ Vương nói với con rể, con rể cười nói "Ông già ngây đòi cắt thịt ở ngực ta sao?". Người ấy về kể lại, Sử tức giận nói với mọi người rằng ai có thể cắt thịt cứu con gái thì sẽ gả nàng luôn cho. Sinh nghe tin tới nhà Sử, tự cầm đao bén cắt thịt trước ngực trao cho nhà sư máu ướt đẫm cả áo, nhà sư rịt thuốc cho mới hết. Nhà sư trộn thịt với thuốc thành ba viên cho uống trong ba ngày, cô gái liền khỏi bệnh. Sử định làm theo lời hứa, nhưng trước tiên cho họ Vương biết, Vương nổi giận định kiện. Sử bèn làm tiệc mời sinh, bày ngàn vàng trên án, nói "Mang ơn rất nặng, xin được báo đáp", rồi nói rõ lý do nuốt lời. Sinh không vui, nói "Ta sở dĩ không tiếc miếng thịt trên ngực là để báo đáp người tri kỷ chứ có bán thịt đâu", rồi phẩy tay áo bỏ về.
Cô gái nghe thấy trong lòng không nỡ, nhờ bà vú tới an ủi, lại nói "Tài hoa như chàng chắc không phải khổ lâu, lo gì trên đời thiếu giai nhân. Ta thường nằm mơ thấy điềm không lành, ba năm nữa ắt chết, chàng không cần tranh giành con người sắp chết này". Sinh nói với bà vú "Kẻ sĩ chết cho người biết mình chứ không vì sắc đẹp. Ta sợ Liên Thành chưa thật biết ta, chứ nếu nàng biết thật thì không lấy nhau cũng có hề gì". Bà vú thay nàng thề thốt bày tỏ lòng thành, sinh nói "Nếu đúng thế thì lúc nào gặp nhau, chỉ cần nàng cười với ta một cái thì dù chết cũng không ân hận gì", bà vú bèn trở về. Mấy hôm sau sinh tình cờ ra đường, gặp cô gái từ nhà chú về, đưa mắt liếc sinh nhoẻn miệng cười. Sinh cả mừng nói "Liên Thành quả thật biết ta".
Gặp lúc họ Vương qua bàn chọn ngày đón dâu, bệnh cũ của cô gái lại phát, vài tháng thì chết. Sinh tới viếng tang, đau lòng gào lớn một tiếng rồi chết luôn. Sử cho khiêng về nhà, sinh tự biết mình đã chết nhưng cũng không buồn bã gì, cứ đi ra khỏi thôn, muốn gặp Liên Thành một lần. Xa thấy trên đường phía tây bắc người đi nườm nượp như kiến, sinh trà trộn chen lẫn vào đó. Giây lát vào một dinh thự gặp ngay Cố sinh. Cố kinh ngạc hỏi "Sao ông lại tới đây?", rồi lập tức cầm tay sinh định dắt về. Sinh thở dài nói tâm nguyện còn chưa xong, Cố nói "Ta coi sổ sách ở đây cũng được tín nhiệm, nếu giúp đỡ đỡ gì thật không dám tiếc". Sinh hỏi Liên Thành, Cố lập tức dẫn đi, qua mấy nơi thì thấy Liên Thành cùng một nữ lang áo trắng đang buồn bã ngồi ở góc hành lang.
Nàng thấy sinh tới đứng bật dậy như rất mừng rỡ, hỏi sao tới đây. Sinh đáp "Nàng chết, ta đâu dám sống". Liên Thành khóc nói "Kẻ phụ nghĩa thế này còn không phỉ nhổ bỏ đi, chết theo làm gì? Nhưng đã lỗi hẹn với chàng kiếp này, thề kiếp sau sẽ báo đáp". Sinh nói với Cố "Ông có việc xin cứ đi, ta vui sướng được chết chứ không thích sống nữa, nhưng phiền ông tra lại sổ sách xem Liên Thành thác sinh ở đâu để ta đi theo", Cố gật đầu rồi đi. Nữ lang áo trắng hỏi sinh là ai, Liên Thành kể lại, nữ lang nghe xong như cũng ngậm ngùi. Liên Thành nói với sinh "Nàng này cùng họ với thiếp, tên Tân Nương, con gái quan Thái thú Trường Sa, cùng đi một đường tới đây nên rất thương yêu nhau". Sinh liếc thấy nàng có vẻ dễ thương, đang định hỏi rõ hơn thì Cố đã quay lại nhìn sinh chúc mừng "Ta đã lo liệu cho ông xong rồi, nương tử đây nay được theo ông hoàn hồn, được chứ?".
Hai người cùng mừng rỡ, đang định từ biệt thì Tân Nương khóc lớn nói "Chị đi thì em biết về đâu? Xin rủ lòng thương xót cứu cho em được theo hầu". Liên Thành thương xót nhưng không biết làm sao, quay qua bàn với sinh, sinh lại năn nỉ Cố. Cố tỏ vẻ khó khăn, nói là không được, sinh năn nỉ mãi bèn nói "Để ta thử làm bừa xem sao" rồi đi. Khoảng ăn xong bữa cơm thì quay lại xua tay nói "Biết mà, thật là vạn phần không sao giúp được". Tân Nương nghe thế nghẹn ngào khóc lóc, cứ nép vào Liên Thành chỉ sợ nàng đi mất, buồn bã không biết làm sao, chỉ nhìn nhau im lặng, nét mặt thê thảm khiến người ngoài cũng phải mủi lòng. Cố sinh phát phẫn nói "Thôi ông cứ đưa Tân Nương theo, nếu chẳng may có chuyện gì tiểu sinh xin chịu hết", Tân Nương mới mừng rỡ theo sinh ra. Sinh lo cho nàng đường xa không có ai đi cùng, Tân Nương nói "Thiếp đi theo chàng chứ không muốn về nhà". Sinh nói "Nàng ngây quá, không về thì làm sao sống lại được. Ngày khác ta tới Hồ Nam, xin đừng lánh mặt là may rồi".
Vừa lúc có hai bà già nhận trát tới Tràng Sa, sinh gởi Tân Nương theo, Tân Nương khóc từ biệt lên đường. Trên đường về Liên Thành đi rất chậm, cứ hơn dặm lại nghỉ, nghỉ hơn mười lần mới thấy cổng làng. Liên Thành nói "Sau khi sống lại e lại có chuyện lật lọng, xin cứ đòi lấy xác thiếp, thiếp sống lại ở nhà chàng mới không phải ăn năn về sau", sinh cho là đúng. Bèn cùng nhau về nhà sinh, cô gái run rẩy như không đi nổi, sinh phải đứng lại chờ. Nàng nói "Thiếp tới đây thấy chân tay run rẩy như không tự chủ được, e không được toại nguyện, phải bàn bạc thật kỹ, nếu không thì sau khi sống lại làm sao theo ý mình được?". Hai người cùng vào gian phòng cạnh nơi quàn quan tài, im lặng một lúc thì Liên Thành cười hỏi "Chàng có ghét thiếp không?". Sinh ngạc nhiên hỏi sao nói thế, nàng thẹn thùng đáp "Sợ việc không xong thì lại phụ chàng lần nữa, xin lấy hồn báo đáp chàng trước". Sinh mừng rỡ, cùng nàng giao hoan hết sức đằm thắm, vì vậy lưu luyến không rời, ở cùng nhau luôn ba ngày. Liên Thành nói "Lời ngạn có câu Nàng dâu có xấu cũng phải ra mắt cha mẹ chồng, cứ bịn rịn ở đây không phải là kế lâu dài", rồi nàng giục sinh vào nhập hồn, vừa tới cạnh quan tài thì sinh giật mình sống dậy.
Người nhà kinh ngạc lấy nước cháo đổ cho, sinh bèn sai người mời Sử tới, xin cho được đem xác Liên Thành về, nói là có thể làm cho nàng sống lại. Sử mừng rỡ theo lời, vừa khiêng nàng tới nhà sinh, nhìn lại thì đã sống lại. Nàng nói với cha rằng "Con đã trao thân cho Kiều lang, không có lý nào trở về, nếu có chuyện gì thay đổi thì chỉ có chết mà thôi", Sử về sai tớ gái qua hầu hạ nàng. Họ Vương nghe tin làm đơn kiện, quan ăn hối lộ xử bắt nàng về lại nhà Vương. Sinh phẫn hận muốn chết, nhưng cũng không biết làm sao. Liên Thành tới nhà Vương, phẫn uất bỏ ăn uống, chỉ mong chết ngay, cứ lúc vắng người là treo cổ lên xà nhà. Qua hôm sau bệnh càng nặng, hơi thở thoi thóp, Vương sợ đưa nàng về nhà Sử, Sử lại cho khiêng về nhà sinh, Vương biết nhưng đành phải bỏ đó.
Liên Thành khỏi bệnh, thường nhớ Tân Nương, muốn gởi thư thăm hỏi nhưng vì đường xa đi lại khó khăn. Một hôm gia nhân vào thưa ngoài cổng có xe ngựa khách lạ, vợ chồng chạy ra xem thì Tân Nưong đã vào tới sân, gặp nhau vừa mừng vừa tủi. Quan Thái thú đích thân đưa con gái tới, sinh mời vào nhà. Thái thú nói "Tiểu nữ nhờ ông mà được sống lại, thề không lấy ai khác, hôm nay ta làm theo ý nó", sinh bèn vái lạy theo lễ con rể cha vợ. Sử Hiếu liêm cũng tới ba nhà đoàn tụ rất vui vẻ. Sinh tên Niên, tự Đại Niên.
Dị Sử thị nói: Một nụ cười mà biết nhau, đem thân theo về, người đời có kẻ cho là ngây, nhưng như thế thì chẳng lẽ năm trăm tráng sĩ dưới quyền Điền Hoành* đều ngu cả sao? Đó là bởi người biết mình rất ít nên lấy làm quý, bậc hào kiệt vì thế mà cảm động không thể làm chủ được. Ngoảnh nhìn bốn biển mênh mang, những bậc anh tài đều xiêu lòng vì một cái cười của người đẹp thôi, nghĩ đáng buồn thay.
*Năm trăm... Điền Hoành: Điền Hoành là tướng nước Tề thời Hán Sở tranh hùng. Khi tướng Hán là Hàn Tín đánh bại quân Tề, Điền Hoành hết sức chống cự không được bèn dẫn năm trăm tráng sĩ dưới quyền ra hải đảo sống, nhất định không chịu theo Hán. Sau Lưu Bang đánh bại được Hạng Vũ, sợ Điền Hoành gây loạn bèn sai người ra ép Hoành về kinh. Hoành tới nơi không chịu đầu hàng, Lưu Bang sai giết, kế lại sai người ra chiêu dụ năm trăm tráng sĩ dưới quyền Hoành. Năm trăm người nghe tin Hoành chết đều lần lượt đâm cổ tự tử, nhất định không theo nhà Hán.
101. Uông Sĩ Tú (Uông Sĩ Tú)
Uông Sĩ Tú người đất Lô Châu (huyện Hợp Phì tỉnh An Huy), tính gan dạ khỏe mạnh, có thể nhấc được cái cối đá. Cha con đều giỏi đá cầu, năm cha hơn bốn mươi tuổi qua sông Tiền Đường bị chết đuối. Tám chín năm sau, Uông có việc đi Hồ Nam, đêm đậu thuyền trên hồ Động Đình. Lúc ấy trăng rằm mọc ở phía đông, mặt nước phẳng lặng như tấm lụa. Uông đang ngắm cảnh chợt có năm người dưới hồ nhô lên, cắp theo chiếc chiếu to trải lên mặt hồ, rộng chừng nửa mẫu, rồi lăng xăng bày rượu thịt, cốc chén va nhau thành tiếng nhưng không vang như tiếng sành sứ. Bày xong, ba người ngồi xuống, hai người hầu rượu.
Trong ba người ngồi có một mặc áo vàng, hai mặc áo trắng, đều đội khăn đen cao vót, phía dưới liền luôn với vai áo, kiểu dáng rất kỳ lạ nhưng ánh trăng chập chờn không sao nhìn rõ. Hai người hầu đều mặc áo đen, một người tựa tiểu đồng, một người tựa ông già. Chỉ nghe người áo vàng nói "Đêm nay trăng đẹp quá, phải uống thật say"' Người áo trắng nói "Phong cảnh đêm nay giống hệt hôm Quảng Lợi vương thết tiệc ở đảo Lê Hoa". Ba người chuốc rượu lẫn nhau, uống rất ngon lành nhưng nói hơi khẽ nên không nghe thấy gì nữa. Người lái thuyền nép mình, không dám thở mạnh. Uông nhìn kỹ người hầu già thấy rất giống cha nhưng nghe giọng nói lại không phải. Sắp hết canh hai, chợt một người nói "Nhân lúc trăng sáng thế này, nên đá cầu một lúc cho vui". Lập tức thấy đứa tiểu đồng nhảy xuống nước mang lên một vật hình tròn to đầy một ôm, bên trong như chứa thủy ngân, trong ngoài sáng quắc. Ba người ngồi đứng cả dậy, người áo vàng gọi ông già cùng đá, quả cầu bay cao hơn trượng, lấp loáng chói mắt. Chợt nghe "bình" một tiếng, quả cầu bay ra xa lọt vào thuyền.
Uông ngứa nghề lấy hết sức đá trả, thấy mềm nhẹ lạ thường. Cú đá mạnh như phá vỡ, quả cầu vọt lên gần một trượng, chất sáng bên trong bắn ra rót xuống như cầu vồng rồi rơi mau xuống, quả cầu cũng như ngôi sao chổi lao thẳng xuống nước, kêu ùng ục rồi mất tăm. Mấy người trên tiệc đều nổi giận nói "Thằng tục tử nào làm bọn ta mất hứng thế?"' Người hầu già cười nói "Không kém không kém, đó là ngón Quặt sao băng của nhà ta đấy"' Người áo trắng bực giọng bỡn cọt ấy, túc giận nói "Ta đang bực mình, thằng hầu già lại dám đùa hả? Mau cùng thằng nhỏ qua bắt tên ngông cuồng lại đây, không thì đầu gối sẽ được ăn chùy đấy". Uông thấy không còn chỗ nào trốn được nên cũng không sợ nữa, xách đao ra đứng giữa thuyền.
Thấy ông già và đứa tiểu đồng cầm binh khí tới, nhìn kỹ thì đúng là cha mình, vội gọi lớn "Cha ơi! Con đây mà!". Ông già cả sợ nhìn con buồn thảm, đứa tiểu đồng thấy vậy quay về ngay. Ông già nói "Con trốn ngay đi, nếu không thì chết cả hai cha con bây giờ". Chưa dứt lời thì cả ba người kia đã lên tới trên thuyền, người nào cũng mặt mũi đen sì, mắt to hơn trái lựu, túm lấy ông già lôi đi. Uông cố sức giằng lại, thuyền chòng chành đứt cả dây neo. Uông dùng đao chém vào tay họ, một cánh tay rơi xuống, người áo vàng bỏ chạy. Một người áo trắng sấn vào Uông, Uông chém sả vào đầu, y rơi tõm xuống nước, cả bọn biến mất. Uông định giong thuyền đi luôn trong đêm thì thấy có cái mõm to nhô lên mặt nước, sâu rộng như cái giếng, nước hồ bốn bên rót vào, réo lên ào ào. Lát sau nó phun nước ra, sóng cao tận sao trời, hàng vạn chiếc thuyền cùng chòng chành, người trên hồ đều khiếp đảm.
Trên thuyền có hai cái trống đá đều nặng cả trăm cân, Uông nhấc một cái ném xuống đánh ầm như sét, sóng nước êm dần, ném luôn cái nữa thì sóng gió tắt hết. Uông ngờ cha là ma, ông già nói "Số ta chưa chết, mười chín người cùng đắm thuyền đều bị yêu quái ăn thịt, ta nhờ biết đá cầu nên được toàn tính mạng. Bọn yêu đắc tội với Long quân sông Tiền Đường nên trốn qua hồ Động Đình này, cả ba đều là cá thành tinh, quả cầu kia là bong bóng cá". Cha con vui mừng, đang đêm chèo thuyền đi ngay. Trời sáng thấy trong thuyền có cái vây cá đường kính tới bốn năm thước, chợt nghĩ ra đó là cánh tay chặt đứt được đêm qua.
102. Tiểu Nhị (Tiểu Nhị)
Triệu Vượng người huyện Đằng (tỉnh Sơn Đông), vợ chồng đều thờ Phật, không ăn mặn, người trong vùng xếp vào hạng thiện nhân. Nhà cũng khá giả, có một con gái tên là Tiểu Nhị rất thông minh xinh đẹp, Triệu rất thương yêu. Năm nàng sáu tuổi, được cho theo anh là Trường Xuân cùng đi học, qua năm năm thì thuộc làu cả Ngũ kinh. Có Đinh sinh là bạn học, lớn hơn ba tuổi, dáng người nho nhã phong lưu rất say mê nàng, nói với mẹ tới cầu hôn với họ Triệu, nhưng Triệu muốn gả nàng cho nhà đại gia nên chối từ. Không bao lâu Triệu bị Bạch Liên giáo mê hoặc, khi Từ Hồng Nho làm phản, cả nhà đều theo giặc.
Tiểu Nhị học giỏi thông minh, phàm những phép thuật cắt giấy làm quân, rải đậu làm ngựa cho qua là hiểu ngay. Có sáu cô gái nhỏ theo làm đồ đệ của Từ thì nàng giỏi nhất, nhờ vậy họa được hết phép thuật của Từ. Triệu nhờ có con gái như vậy nên được Từ trọng dụng. Năm ấy Đinh mười tám tuổi, đã vào học trường huyện nhưng không chịu cưới vợ vì không quên Triệu Nhị, bèn ngầm trốn đi tới xin làm quan của Từ. Cô gái gặp Đinh rất mừng rỡ, đối xử trọng hậu khác hẳn người thường. Cô gái vì là học trò giỏi của Từ, được coi sóc việc cơ nên đi đêm về hôm cha mẹ cũng không ngăn cấm được. Đêm nào nàng cũng gặp Đinh, thường đuổi hết những người hầu đi, đến canh ba mới về.
Đinh nói riêng với nàng rằng "Tiểu sinh tới đây, nàng có biết ý mọn là gì không?", cô gái đáp không biết. Đinh đáp "Ta không phải muốn cầu danh vị, sở dĩ tới đây thật ra cũng vì nàng mà thôi. Bọn tả đạo chẳng làm được chuyện gì đâu, chỉ chuốc lấy diệt vong thôi, nàng là người thông tuệ mà không nghĩ tới điều đó sao? Nếu trốn đi với ta, thì quyết không phụ nhau". Cô gái sực nghĩ ra, chợt như tỉnh mộng, nói "Bỏ cha mẹ mà đi thì bất nghĩa, xin để ta nói với hai người đã". Rồi vào trình bày lợi hại, Triệu không nghe, nói "Thầy ta là bậc thần nhân, há lại lầm lẫn sao?". Nàng biết không thể can ngăn, bèn búi tóc lại lấy ra hai con diều bằng giấy rồi cùng Đinh mỗi người cưỡi lên một con, diều vỗ cánh phành phạch như gọi nhau rồi sát cánh bay lên. Đến sáng tới địa giới huyện Lai Vu (tỉnh Sơn Đông), nàng lấy ngón tay búng vào cổ diều, hai con diều xếp cánh hạ xuống. Cô gái cất diều đi, lấy ra hai cỗ lừa rồi cùng tới làng Sơn âm, nói thác là người chạy loạn, thuê nhà ở lại đó.
Hai người vội vã ra đi nên không mang theo bao nhiêu tiền bạc, củi nước không đủ, Đinh rất lo lắng, nhưng hỏi láng giềng chẳng ai chịu cho vay mượn. Cô gái lại không hề tỏ vẻ lo buồn, cứ cầm bán vòng xuyến, đóng cửa ở yên với nhau. Đêm đến vặn nhỏ đèn ngồi nhớ lại những sách đã học. Láng giềng bên tây họ Ông, là kẻ kiệt hiệt trong bọn lục lâm, một hôm về nhà, cô gái nói "Có láng giềng như thế ta còn lo gì nữa. Hãy mượn ngàn vàng, liệu y cho không?". Đinh cho là khó, cô gái nói "Ta sẽ bắt y tình nguyện đưa chứ". Rồi cắt giấy làm hình Phán quan âm ty đặt dưới đất, lấy cái lồng gà úp lên rồi kéo Đinh lên giường hâm rượu uống.
Lấy sách Chu lễ làm tửu lệnh, cứ nói quyển ấy trang nào dòng nào rồi cùng mở ra xem, ai được chữ có bộ thực (ăn), bộ thủy (nước), bộ dậu (như chữ tửu) thì phải uống, được chữ tửu (rượu) thì phải uống gấp đôi. Kế cô gái được chữ tửu, Đinh lấy chén lớn rót đầy rượu bắt uống ngay, nàng bèn khấn "Nếu mượn được vàng về thì chàng phải được bộ ẩm". Đinh giở sách được chữ miết (ba ba), cô gái cười lớn nói "Chàng được chữ miết, phải uống say như con ba ba". Đang tranh cãi ầm lên chợt nghe trong cái lồng gà có tiếng lạch cạch, cô gái bước xuống nói "Tới rồi", rồi mở ra xem thì thấy vàng nén chất đống, Đinh vô cùng kinh ngạc mừng rỡ. Về sau bà vú nhà họ Ông bế trẻ qua chơi, nói vụng rằng "Chủ nhân vừa về tới nhà, đang đốt đèn ngồi chợt mặt đất xé ra sâu không biết là bao nhiêu, có một vị Phán quan từ dưới bước lên nói 'Ta là sai dịch dưới âm ty. Thái Sơn Đế quân hội các ty tào ở âm phủ làm quyển sách ghi chép tội ác của bọn trộm cướp, làm một ngàn ngọn đèn mỗi ngọn nặng mười lượng vàng, người nào cúng một trăm ngọn thì dược xóa hết tội lỗi'. Chủ ta sợ quá thắp hương khấn khứa rồi cúng một ngàn lượng vàng. Phán quan cầm lấy bước xuống dưới, mặt đất lại khép lại". Hai vợ chồng nghe thế cố ý tặc lưỡi tỏ vẻ kinh ngạc.
Từ đó dần dần mua trâu ngựa, nuôi đầy tớ, xây nhà cửa. Bọn vô lại trong làng thấy giàu có bèn họp đảng nhân đêm tới đánh cướp nhà Đinh. Vợ chồng Đinh vừa tỉnh giấc thì thấy đèn đuốc sáng rực, bọn cướp đã đứng đầy trong nhà. Hai tên bắt lấy Đinh, lại một tên khác thò tay vào bụng cô gái, cô gái vùng ra chỉ tay quát "Đứng im", tất cả mười ba tên cướp đều trợn mắt đớ lưỡi đứng sững ra như tượng gỗ. Cô gái mới mặc áo bước xuống giường gọi gia nhân, trói cả bọn lại hỏi cung rõ ràng xong bèn nói "Người ở phương xa tới nương náu, lẽ ra phải giúp đỡ, sao lại bất nhân như thế? Người ta ai cũng có lúc này lúc khác, các ngươi cùng quẫn thì cứ nói rõ, ta há lại nỡ giàu có đủ ăn một mình sao? Cái thói sài lang lẽ ra phải giết hết, nhưng ta không nỡ, hãy tạm tha cho một lần, nếu tái phạm sẽ không tha đâu", bọn cướp dập đầu lạy tạ rồi đi.
Không bao lâu Từ Hồng Nho bị bắt, vợ chồng và con trai họ Triệu đều bị chém, sinh bỏ tiền tới xin chuộc đứa con nhỏ của Trường Xuân mang về. Đứa nhỏ lúc ấy ba tuổi, Đinh nuôi nấng như con ruột, cho lấy họ Đinh, đặt tên là Thừa Triệu, từ đó người làng dần dần biết nó là hậu duệ của Bạch Liên giáo. Gặp lúc có cào cào phá lúa, cô gái lấy giấy cắt làm mấy trăm con ó thả trên ruộng, cào cào đều tránh xa không dám vào ruộng nhà, nhờ thế không bị tổn hại gì. Người làng đều ghen ghét kéo nhau lên thưa quan rằng nàng là dư đảng của Từ Hồng Nho, quan thấy nhà Đinh giàu cũng muốn làm tiền, bèn bắt Đinh. Đinh đem nhiều tiền lo lót với quan mới được thả. Cô gái nói "Lui tới buôn bán là kế tạm bợ, thế nào cũng bị tổn thất, mà đây là nơi làng xóm rắn rết, không thể ở lâu được". Nhân bán hết cơ nghiệp dời đi, tới ở ngoài cửa Tây huyện thành.
Cô gái là người lanh lợi khéo léo, giỏi buôn bán, làm ăn còn hơn cả đàn ông. Mở xưởng làm đồ pha lê, chỉ vẽ cho thợ cách làm, hàng làm ra đều tinh xảo đẹp đẽ những xưởng khác không sao bằng được, vì vậy bán giá cao mà vẫn chạy. Được vài năm càng thêm giàu có, nhưng cô gái đốc thúc tôi tớ rất nghiêm, nhà có hàng trăm người ăn nhưng không ai dám lười biếng. Lúc rảnh thường cùng Đinh pha trà đánh cờ hoặc đọc sách làm vui. Từ tiền gạo thu chi cho tới công việc tôi tớ cứ năm ngày lại xem xét một lần, cô gái cầm thẻ, Đinh thì ghi sổ, đọc rõ từng việc. Người siêng năng thì thưởng theo thứ bậc, người lười biếng thì đánh roi bắt quỳ, ngày hôm ấy thì không làm việc ban đêm, vợ chồng dọn rượu thịt gọi gia nhân vào ăn uống hò hát làm vui.
Cô gái xét việc sáng suốt như thần, mọi người không ai dám lừa dối nhưng nàng thường công xứng đáng nên công việc đều trót lọt. Trong làng có hơn hai trăm nhà, nhà nào nghèo thì giúp vốn cho làm ăn, nhờ thế vùng ấy không có ai lười biếng rong chơi. Gặp lúc đại hạn, nàng bảo người trong thôn đắp đàn ngoài ruộng, đang đêm ngồi kiệu ra đó lên đàn làm phép đảo vũ, lập tức mưa ngọt đổ xuống, trong năm dặm đều ngập bàn chân, mọi người càng cho là thần. Cô gái ra ngoài ít khi che mặt, người trong làng đều nhìn thấy, có bọn thiếu niên tụ tập bàn vụng rằng nàng đẹp nhưng khi gặp nàng đều kính cẩn không dám nhìn thẳng mặt. Cứ tới mùa thu lại cho tiền bọn trẻ con chưa đủ sức làm ruộng trong thôn thuê cắt cỏ đồ tô, qua hai mươi năm chất đống đầy trong nhà, người ta trộm chê cười. Gặp lúc Sơn Đông đói kém, người ta phải ăn thịt nhau, cô gái đem cỏ nấu cháo cấp cho kẻ đói, các thôn chung quanh đều nhờ vào đó mà sống, không ai phải bỏ đi.
Dị Sử thị nói: Những điều Tiểu Nhị làm đều là nhờ sức trời chứ không phải là sức người làm được. Nhưng nếu không có một lời nói của Đinh sinh làm cho tỉnh ngộ, thì đã chết lâu rồi. Từ đó mà xem thì những người ôm cái tài phi thường trên đời song lầm lẫn nhập đảng với bọn xấu mà chết chắc cũng không ít. Biết đâu trong sáu người bạn cùng học với Tiểu Nhị cũng có người như nàng, khiến người ta phải hận vì họ không gặp được người như Đinh sinh vậy.
103. Canh Nương (Canh Nương)
Kim Đại Dụng là con nhà thế gia cũ ở Trung Châu (tỉnh Hà Nam), cưới con gái quan Thái thú họ Vưu tên Canh Nương, xinh đẹp mà hiền đức, vợ chồng rất thương yêu nhau. Vì có bọn giặc nổi loạn, mọi người đều bỏ nhà tìm nơi trốn tránh, Kim dẫn gia quyến đi về miền nam. Giữa đường gặp một thiếu niên cũng dắt vợ chạy loạn, tự nói là Vương Thập Bát ở đất Quảng Lăng (huyện Giang Đô tỉnh Giang Tô), tình nguyện dẫn đường. Kim vui mừng, lúc đi lúc nghỉ đều có nhau. Tới Hà Thượng, Canh Nương nói thầm với chồng "Đừng đi chung thuyền với người này. Yđã mấy lần nhìn thiếp, ánh mắt láo liêng mà sắc mặt thay đổi, là người tâm địa khó lường", Kim ưng thuận.
Nhưng Vương đã ân cần đi tìm thuê một chiếc thuyền lớn, lăng xăng khiêng vác hành lý lên giúp, rất là sốt sắng nên Kim không nỡ từ chối để đi riêng. Lại nghĩ y có đem vợ theo, chắc cũng không có ý gì khác. Vợ Vương cùng ngồi với Canh Nương trong thuyền, thấy ý tứ cũng hiền hậu dịu dàng, Vương thì ngồi trên mũi thuyền trò chuyện rì rầm với chủ thuyền như quen biết thân thiết với nhau từ lâu. Không bao lâu mặt trời lặn mà đường sông quanh co dần dần không còn nhận ra phương hướng, Kim nhìn quanh thấy vắng vẻ hiểm hóc đã hơi ngờ sợ, lát sau trăng mọc, chỉ thấy lau sậy ngút ngàn. Kế thuyền đậu lại, Vương mời cha con Kim ra ngoài ngắm cảnh, thừa cơ xô Kim xuống sông. Cha Kim nhìn thấy định la lên thì bị người chủ thuyền cầm sào gạt xuống nước, cũng chìm luôn. Mẹ Kim nghe tiếng bước ra xem, lại bị gạt rơi xuống nốt, bấy giờ Vương mới kêu cứu. Lúc mẹ bước ra, Canh Nương ở phía sau đã rình thấy mọi việc, kế nghe nói cả nhà chết đuối cũng không có vẻ sợ hãi, chỉ khóc nói "Cha mẹ chồng đều chết, ta biết về đâu?".
Vương vào thuyền khuyên "Nương tử đừng lo, xin theo ta về Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), nhà ta có ruộng đất đủ sống, quyết không có gì đáng ngại". Nàng nín khóc nói "Nếu được như vậy là ta thỏa nguyện rồi", Vương cả mừng, đối xử với nàng hết sức ân cần. Tối đến kéo nàng đòi giao hoan, nàng nói thác là đang kỳ kinh, Vương bèn về chỗ vợ nằm. Đến hết canh một, hai vợ chồng cãi nhau ầm lên, không biết vì chuyện gì, chỉ nghe vợ nói "Ngươi làm như thế thì e sấm sét đánh nát đầu ra". Vương đánh vợ, vợ la lớn "Chết thì thôi chứ ta quyết không làm vợ thằng giặc giết người". Vương tức giận gầm lên, túm lấy vợ lôi ra ngoài, nghe một tiếng ùm, rồi Vương kêu lên là vợ mình ngã xuống sông chết đuối rồi.
Không bao lâu tới Kim Lăng, Vương dẫn Canh Nương về nhà, lên sảnh đường ra mắt mẹ. Mẹ ngạc nhiên vì không phải là con dâu cũ, Vương nói "Vợ con chết đuối, mới lấy người này". Về tới phòng riêng, Vương lại muốn giở trò này nọ, Canh Nương cười nói "Đàn ông ngót ba chục tuổi mà còn chưa biết xử sự. Cho dù là mua tỳ thiếp thì đêm thành thân cũng phải có chén rượu nhạt, nhà anh giàu có thì chuyện ấy cũng không khó, chứ lặng ngắt nhìn nhau thì còn ra thể thống gì?". Vương mừng rỡ bèn dọn tiệc đối ẩm, Canh Nương nâng chén mời rất ân cần. Vương dần say, chối từ không uống nữa, nàng bèn rót một chén lớn gượng lả lơi mời mọc, Vương không nỡ chối từ liền uống cạn, lúc ấy say mèm, cởi tuột quần áo ra hối đi ngủ. Canh Nương dọn mâm tắt đèn rồi nói thác là đi tiểu, ra ngoài phòng cầm dao trở vào, trong bóng tối lấy tay mò lên cổ Vương. Vương còn vuốt tay nàng lè nhè lả lơi, Canh Nương ra sức cứa mạnh một nhát nhưng Vương không chết ngay, rú lên vùng dậy, nàng bồi thêm nhát nữa mới chết.
Mẹ Vương nghe có tiếng chạy qua hỏi, nàng cũng giết nốt. Em trai Vương là Thập Cửu biết chuyện chạy tới, Canh Nương tự biết không thoát được vội tự tử nhưng lưỡi dao đã cùn không cứa sâu được, vội mở cửa bỏ chạy. Thập Cửu đuổi tới thì nàng đã nhảy xuống ao rồi. Thập Cửu gọi láng giềng cứu lên thì nàng đã chết nhưng dung mạo vẫn tươi đẹp như khi còn sống. Mọi người cùng vào xem xác Vương, thấy có bức thư trên cửa sổ, mở ra xem thì là thư của nàng kể rõ sự oan khổ, đều cho rằng nàng trinh liệt, bàn nhau góp tiền chôn cất. Sáng ra có mấy ngàn người tới xem, nhìn thấy dung mạo nàng đều vái lạy. Trọn ngày thì quyên được trăm lượng vàng, chôn nàng ở phía nam thành, những kẻ hiếu sự còn đem mão ngọc áo bào liệm cho nàng, xây mộ rất to cao.
Lúc trước Kim sinh rơi xuống sông bám được tấm ván trôi trên sông nên không chết, chiều hôm sau trôi tới Hoài Thượng thì gặp một chiếc thuyền nhỏ vớt lên. Thuyền này là của nhà phú hộ họ Doãn đặt trên sông để cứu người chết đuối, Kim tỉnh lại rồi bèn tới tạ ơn ông Doãn, ông đối xử rất tử tế, giữ Kim ở lại nhờ dạy con mình học. Kim không rõ cha mẹ sống chết ra sao, đang còn ngần ngại chưa quyết thì có người tới thưa ông Doãn rằng vừa vớt được xác hai ông bà già. Kim ngờ là cha mẹ mình, chạy tới nhìn mặt quả đúng. Ông Doãn sắm quan tài chôn cất cho, sinh đang đau đón khóc lóc, lại nghe báo vớt được một người đàn bà, tự nói chồng mình là Kim sinh. Kim giật mình gạt lệ ra xem thì người đàn bà đã tới, không phải Canh Nương mà là vợ Vương Thập Bát. Nàng nhìn Kim khóc lớn, nói xin đừng bỏ nhau. Kim nói "Ta đang lúc lòng dạ rối bời, còn rảnh đâu mà lo cho vợ người khác?", nàng càng đau xót. Doãn hỏi rõ đầu đuôi, mừng là đạo trời báo ứng, khuyên Kim lấy nàng làm vợ. Kim chối từ nói đang có tang, vả lại đang định báo thù cho cha mẹ, sợ nàng yếu ớt sẽ bị liên lụy. Nàng nói "Nói như chàng thì giả như Canh Nương còn sống chàng cũng vì việc cư tang và báo thù mà bỏ hay sao?". Doãn khen lời ấy, xin tạm thu dưỡng nàng thay, Kim mới ưng thuận. Hôm chôn cất cha mẹ Kim nàng cũng mặc tang phục khóc lóc như là cha mẹ chồng thật.
Chôn cất xong, Kim định giắt dao đeo bị xin ăn tìm tới Quảng Lăng, nàng ngăn lại nói "Thiếp họ Đường, tổ tiên vốn ở Kim Lăng, cùng làng với gã lang sói ấy, lúc trước y nói ở Quảng Lăng là dối trá. Vã lại bọn thủy khấu chốn sông hồ có một nửa là đồng đảng của y, coi chừng thù không trả được mà rước vạ vào thân". Kim ngần ngừ không biết tính sao, chợt có tin đồn về chuyện cô gái giết chết kẻ thù, khắp một vùng sông hồ đều xôn xao, nói rõ ràng cả tên họ. Kim nghe được một phen hả dạ nhưng càng đau đớn, chối từ không lấy Đường thị, nói "May mà ta không bị mang nhục, nhưng trong nhà có người vợ trinh liệt như thế thì đâu nỡ phụ lòng mà cưới vợ nữa". Đường thị nói đã bàn bạc thành chuyện rồi, không chịu giữa đường chia tay, nguyện làm nàng hầu vợ lẽ.
Gặp lúc có Phó Tướng quân họ Viên quen biết Doãn, nhân lên đường phó nhiệm ở miền tây ghé thăm, gặp Kim rất thích, mời theo làm Ký thất. Không bao lâu sau giặc cướp nổi loạn phạm vào kinh đô, Viên đánh dẹp lập công lớn, Kim cũng tham dự việc quân cơ, được bảo cư phong chức Du kích trở về, lúc ấy vợ chồng mới làm lễ thành thân. Vài hôm sau Kim dắt vợ đi Kim Lăng viếng mộ Canh Nương, ngang huyện Trấn Giang (tỉnh Giang Tô) định lên Kim Sơn ngắm cảnh. Đang xuôi dòng chợt có chiếc thuyền đi ngược chiều, trong có một bà già và một thiếu phụ, ngạc nhiên vì thấy thiếu phụ rất giống Canh Nương. Thuyền Kim lướt mau qua, thiếu phụ nhô ra cửa sổ nhìn Kim, càng thấy thần thái giống nàng. Kim kinh ngạc ngờ vực không dám đuổi theo hỏi, vội gọi lớn "Nhìn lũ vịt con đang bay trên trời kìa"' Thiếu phụ nghe thấy cũng lớn tiếng gọi "Chó con lại muốn ăn thịt mèo sao?", đó là lời nói lóng của vợ chồng vẫn đùa nhau trong phòng riêng ngày xưa.
Kim giật mình cho quay chèo đuổi theo, tới gần thì quả là Canh Nương. Con hầu đỡ Canh Nương qua thuyền Kim, vợ chồng ôm nhau khóc nức nở, người trên thuyền đều thương cảm. Đường thị lấy lễ vợ thiếp chào Canh Nương, Canh Nương ngạc nhiên hỏi, Kim bèn kể lại mọi chuyện. Canh Nương cầm tay Đường thị nói "Trò chuyện một lần với nhau trên thuyền, lòng vẫn không quên, không ngờ nay lại được Hồ Việt một nhà. Đội ơn thay mặt chôn cất cha mẹ chồng, lẽ ra ta phải tạ ơn trước, sao lại làm lễ với nhau như thế?". Bèn so tuổi tác Đường thị kém một tuổi nên làm em.
Trước là canh Nương đã được chôn cất, cũng không tự biết đã bao lâu, chợt nghe có người gọi nói "Canh Nương, chồng ngươi không chết đâu, rồi vợ chồng sẽ được sum họp", liền thấy như vừa tỉnh mộng. Sờ thấy bốn phía đều là vách tường, mới hiểu ra rằng mình chết đi đã được chôn, nhưng chỉ thấy hơi buồn bực chứ cũng không có gì khổ sở. Có bọn thiếu niên bất lương biết nàng có nhiều vật tùy táng quý giá bèn đào mộ phá quan tài, đang định tìm tòi nhặt nhạnh thì thấy Canh Nương vẫn còn sống, cả bọn đều khiếp đảm. Canh Nương sợ chúng làm hại nên năn nỉ, nói "May có các ông tới nên ta lại được nhìn thấy mặt trời, bao nhiêu trâm vòng xin cứ lấy hết, xin đem bán ta cho chùa làm ni cô thì có thể cũng được thêm ít nhiều, ta không nói lộ ra với ai đâu"
Bọn trộm dập đầu nói "Nương tử trinh liệt, thần người đều khâm phục. Bọn tiểu nhân chẳng qua vì nghèo túng hết cách sống mà phải làm việc bất nhân này, chỉ cần nương tử không nói lộ ra là may lắm rồi, chứ đâu dám bán nương tử làm ni cô". Canh Nương đáp "Đó là tự ta muốn mà". Một tên nói "Cảnh phu nhân ở Trấn Giang góa chồng mà không có con, nếu gặp được nương tử ắt là mừng lắm". Canh Nương tạ ơn rồi tự tháo hết các vật châu báu trang sức ra đưa, bọn trộm không dám nhận. Nàng cố ép, cả bọn cùng lạy tạ nhận lấy rồi chở nàng đi. Tới nhà Cảnh phu nhân, họ nói thác rằng nàng bị gió bạt thuyền lạc tới đây. Cảnh phu nhân nhà giàu có mà lớn tuổi góa chồng vò võ một mình, gặp Canh Nương cả mừng, coi như con đẻ, hôm ấy là hai mẹ con đi chơi Kim Sơn trở về. Canh Nương kể hết đầu đuôi xong, Kim bèn qua thuyền lạy mẹ. Phu nhân tiếp đãi như con rể, mời tới nhà chơi mấy ngày mới cho về từ đó vợ chồng qua lại nhà bà luôn luôn.
Dị Sử thị nói: Trước biến cố lớn, kẻ dâm thì cầu sống mà người trinh thì thà chết, kẻ sống thì khiến người ta xốn mắt, người chết thì khiến người ta rơi lệ vậy. Đến như cười nói không sợ, vung đao báo thù thì các bậc trượng phu nghĩa liệt ngàn xưa cũng có mấy người sánh được? Ai nói đàn bà con gái không thể theo kịp bậc anh hùng.
104. Cung Mộng Bật (Cung Mộng Bật)
Liễu Phương Hoa người Bảo Định (tỉnh thành Hà Bắc), giàu có nhất vùng, tính phóng khoáng hiếu khách, trên tiệc thường có hàng trăm người. Giúp người nguy cấp thì ngàn vàng cũng không tiếc, bạn bè khách khứa vay mượn không trả là thường. Liễu chỉ có một người khách tên Cung Mộng Bật, người Thiểm Tây là không hề nhờ vả xin xỏ gì, mỗi lần tới chơi thì ở lại cả năm, ngôn ngữ trang nhã, phong thái tiêu sái, Liễu cùng ăn ở chuyện trò nhiều nhất. Con trai Liễu tên Hòa, lúc ấy còn nhỏ, gọi Cung là chú, Cung cũng thích đùa giỡn với Hòa. Mỗi lần Hòa ở trường học về thì cùng gỡ gạch lát dưới nền nhà lên vùi đá sỏi xương giả như chôn giấu vàng bạc làm vui. Nhà có năm gian, đào bới chôn giấu khắp cả. Mọi người cười là tính khí trẻ con nhưng Hòa lại rất yêu thích Cung, thân thiết với Cung hơn tất cả mọi người.
Hơn mười năm sau nhà sa sút dần, không thể thỏa mãn lòng mong cầu của nhiều người nên khách thưa dần, nhưng vẫn thường có mười mấy người hội họp chuyện trò đến sáng. Đến lúc Liễu già thì nhà ngày càng sa sút, nhưng còn cắt ruộng đất bán được tiền mà đãi khách. Hòa cũng phung phí, theo gương cha mời thết đám bạn nhỏ, Liễu cũng không ngăn cấm. Không bao lâu Liễu bệnh chết, nhà nghèo đến nỗi không mua được quan tài. Cung bèn bỏ tiền túi ra lo liệu việc tang cho Liễu, Hòa càng biết ơn, việc lớn nhỏ gì cũng nhờ chú Cung. Mỗi lần Cung đi đâu về ắt có cất gạch đá trong tay áo, vào tới nhà thì ném vào những chỗ khuất, chẳng ai hiểu để làm gì. Hòa trò chuyện với Cung thường lo nghèo khổ, Cung nói "Cháu không biết cái khó nhọc của việc kiếm tiền, đừng nói là không có tiền, dù có ngàn vàng đưa cháu cũng sẽ hết sạch ngay. Kẻ nam nhi chỉ lo không tự lập thân được chứ lo gì nghèo?".
Một hôm Cung từ giã, Hòa khóc dặn trở lại mau, Cung ừ rồi đi. Hòa nghèo quá không đủ sống, trong nhà còn món gì cứ đem cầm bán, dần dần hết sạch. Hàng ngày mong Cung tới lo toan giúp đỡ cho, nhưng Cung vắng tăm bặt tích như hạc vàng một đi không về lại. Trước kia lúc Liễu còn sống đã hỏi con gái họ Hoàng ở huyện Vô Cực (tỉnh Hà Bắc) cho Hòa, nhà ấy cũng giàu có, sau nghe tin Liễu sa sút nên ngầm có ý hối hôn. Khi Liễu chết Hòa báo tang Hoàng cũng không tới phúng điếu, còn nghĩ vì đường xa nên bỏ qua. Hòa mãn tang xong, mẹ sai tự tới nhà nhạc gia xin hẹn ngày cưới, có ý mong Hoàng thương xót giúp đỡ cho. Hòa tới, Hoàng nghe nói áo cũ giày rách bèn bảo người giữ cổng không cho vào, nhắn "Trở về lo được trăm lượng vàng hãy tới, nếu không từ nay xin thôi". Hòa nghe thế khóc lớn, có bà già họ Lưu ở nhà đối diện với Hoàng thương xót đem cơm cho ăn, lại tặng ba trăm đồng tiền, an ủi bảo về.
Mẹ Hòa cũng buồn bã uất ức nhưng không biết làm sao, nhân nhớ tới khách khứa ngày xưa mười người có tới tám chín vay mượn chưa trả, liền bảo Hòa chọn những kẻ giàu có mà tới xin họ giúp đỡ. Hòa nói "Trước kia họ giao du với nhà ta chỉ vì tiền bạc của nhà ta thôi. Nếu con giong ngựa hay ngồi xe lớn thì dù mượn ngàn lượng vàng cũng không khó, nhưng nay nhà ta nghèo khó thế này, còn ai nhớ ơn xưa nghĩa cũ. Vả lại cha cho người ta vay không hề làm giấy tờ gì, khó có bằng cớ mà đòi nợ". Mẹ cứ ép, Hòa vâng lời, đi suốt hơn hai mươi ngày không đòi được một đồng, chỉ có người kép hát Lý Tứ xưa thường được Liễu giúp đỡ nghe chuyện tới tặng một đồng vàng. Mẹ con cùng khóc lớn, từ đó thôi không trông mong gì ai nữa. Cô gái họ Hoàng đến tuổi lấy chồng, nghe cha dứt tình với Hòa thầm cho là không phải. Hoàng muốn gả cho người khác, nàng khóc nói "Liễu lang không phải sinh ra đã nghèo, giả như nay giàu hơn thì kẻ hỏi cưới con có cướp được của chàng không? Nay thấy nghèo lại bỏ thì bất nhân lắm".
Hoàng không vui, tìm đủ cách khuyên mà rốt lại cũng không làm nàng lay chuyển được. Hai vợ chồng cùng tức giận, sớm tối chửi mắng, cô gái cũng vẫn thế. Không bao lâu, đang đêm có bọn cướp vào nhà, vợ chồng Hoàng bị nướng dùi đốt thịt tra khảo chết đi sống lại, bao nhiêu của cải đều bị cướp sạch. Thấm thoát qua ba năm, nhà càng sa sút. Có nhà buôn nghe tiếng cô gái đẹp, xin nộp sính lễ năm mươi lượng vàng, Hoàng thấy nhiều tiền bèn ưng thuận, định ép con gái bằng được. Cô gái đoán biết, mặc áo rách bôi đen mặt, nhân đêm bỏ trốn, xin ăn dọc đường, trải hai tháng mới tới Bảo Định, hỏi thăm nhà Hòa rồi tìm thẳng vào. Mẹ Hòa ngỡ là vợ kẻ ăn mày bèn xua đuổi, nàng nức nở thưa rõ, bà nắm tay nàng chảy nước mắt nói "Sao con lại ra nông nổi này". Cô gái lại khóc lóc kể hết đầu đuôi, mẹ con Hòa đều khóc. Kế múc nước cho nàng tắm rửa, thấy nhan sắc xinh đẹp, mặt mũi sáng sủa, mẹ con cùng mừng rỡ.
Nhưng nhà ba miệng ăn, mỗi ngày chỉ được một bữa, mẹ khóc nói "Mẹ con ta phải chịu cực khổ đã đành, chỉ thương cho nàng dâu thảo của ta thôi". Nàng cười an ủi bà rằng "Con dâu của mẹ lúc trong đám ăn mày đã nếm đủ mùi cực khổ, hôm nay nhìn lại thấy như thiên đường khác với địa ngục vậy", mẹ mới vui vẻ. Một hôm cô gái vào gian nhà bỏ không thấy cỏ dại mọc lan khắp nơi, tới phòng trong thì bụi bặm phủ đầy. Trong góc tối có vật gì đó chất thành đống, bước vào thấy vướng chân, nhặt lên xem thì toàn là bạc ròng, giật mình chạy về nói với Hòa. Hòa theo nàng vào xem, thì những gạch ngói ngày xưa Cung ném vào đó đều trở thành bạc nén trắng xóa. Nhân nhớ lại lúc còn nhỏ thường cùng Cung chôn gạch đá trong nhà, biết đâu đều là vàng bạc. Nhưng nhà cũ đã đem cầm cho láng giềng, vội qua chuộc lại thì thấy gạch lát nền đã vỡ cả, những chỗ chôn gạch ngói ngày xưa đều lộ cả ra, vô cùng thất vọng. Đến khi đào tìm dưới đất thì thấy toàn là bạc ròng sáng loáng, trong chốc lát trở thành giàu có ức vạn. Nhờ vậy chuộc ruộng vườn thuê tôi tớ, nhà cửa hoa lệ còn hơn ngày xưa.
Hòa vì thế hăng hái tự nhủ "Nếu không cố gắng lập thân, thật là phụ lòng chú Cung của ta", rồi ra sức học hành, ba năm sau đỗ Cử nhân. Bèn đích thân đem trăm lượng vàng tới tạ ơn bà Lưu, y phục rực rỡ lóa mắt, mười mấy tùy tùng khỏe mạnh đều cưỡi ngựa đẹp như rồng. Bà Lưu chỉ có một gian nhà, khách phải ngồi cả lên giường, người ngựa ồn ào vang động cả xóm. Hoàng từ khi con gái trốn đi, người nhà buôn đòi lại món tiền sính lễ, nhưng đã tiêu mất một nửa nên phải bán nhà mới trả được. Vì thế trở thành cùng quẫn như Hòa ngày xưa, nay nghe rể cũ giàu có sang trọng chỉ đóng cửa tự thương thân mà thôi. Bà Lưu mua rượu dọn tiệc đãi Hòa, nhân kể con gái Hoàng hiền, tỏ ý tiếc vì nàng bỏ nhà đi mất, rồi hỏi Hòa lấy vợ chưa, Hòa đáp rồi. Ăn uống xong, Hòa cố mời bà đi xem mặt vợ mình, rồi chở cùng về.
Tới nhà, nàng ăn mặc lộng lẫy bước ra, tỳ nữ xúm quanh như tiên, gặp nhau cùng sửng sốt, rồi cùng nhắc lại chuyện cũ, nhân hỏi thăm tin tức cha mẹ. Bà Lưu ở lại vài ngày, được tiếp đãi rất tử tế, may sắm quần áo mới rồi cho đưa về. Bà qua nhà Hoàng, kể lại tin tức cô gái và nhắn lời nàng hỏi thăm, vợ chồng cả kinh. Bà Lưu khuyên tới thăm con gái nhưng Hoàng có vẻ ngần ngại, kế khổ cực quá không chịu nổi nên bất đắc dĩ phải đi Bảo Định. Tới nơi thấy cổng kín tường cao, người giữ cổng trừng mắt nhìn, suốt ngày không nhắn gì được. Mãi sau có một bà già đi ra, Hoàng nhũn nhặn năn nỉ, tự nói họ tên, nhờ lén báo cho con gái biết.
Một lát bà già trở ra dắt Hoàng vào căn nhà phụ, nói "Nương tử rất muốn gặp ông một lần nhưng sợ lang quân biết nên phải chờ cơ hội thuận tiện. Ông tới đây bao lâu, đã ăn gì chưa?", Hoàng được dịp kể lể nỗi khổ. Người đàn bà đem một bầu rượu, hai đĩa thức ăn bày ra trước mặt Hoàng, lại đặt lên năm đồng vàng, nói "Lang quân đang ăn tiệc ở trong phòng, e nương tử không tới được. Sáng mai ông nên đi sớm, chớ để lang quân biết". Hoàng vâng dạ, sáng dậy mang gói ra thì cổng chưa mở, phải đứng chờ. Chợt có tiếng ồn ào nói ông chủ đi ra, Hoàng định nép mình tránh mặt nhưng Hòa đã nhìn thấy, ngạc nhiên hỏi là ai. Tất cả gia nhân đều im lặng, Hòa giận nói "Ắt là kẻ gian, cứ bắt giải lên quan!". Chúng dạ vang đổ ra trói Hoàng vào gốc cây, Hoàng vừa sợ vừa thẹn không biết nói gì. Không bao lâu người đàn bà hôm qua ra quỳ xuống thưa "Đây là cậu ruột ta, tới lúc chặp tối nên chưa kịp thưa với ông chủ?", Hòa bèn sai cởi trói. Bà già dẫn Hoàng ra, nói "Vì ta quên dặn người giữ cổng nên có chuyện rắc rối. Nương tử nhắn rằng lúc nào tưởng nhớ cứ nói bà nhà giả làm người bán hoa đi với bà Lưu tới".
Hoàng vâng dạ, về nhà kể chuyện với vợ, bà nhớ con gái vội qua nói với bà Lưu, bà Lưu bèn cùng đi, tới nhà Hòa qua hơn mười lớp cửa mới tới chỗ con gái ở. Nàng mặc gấm vóc, đeo châu ngọc khắp mình, hương thơm ngào ngạt, thỏ thẻ kêu một tiếng thì tỳ nữ tớ gái xúm tới nhắc ghế mang gối, pha trà mời khách. Mẹ con nói tiếng lóng chuyện trò, nhìn nhau rưng rưng nước mắt. Đêm tới dọn phòng cho hai bà già nghỉ, thấy nệm ấm gối êm, nhà mình năm xưa tuy giàu có cũng chưa từng dùng qua. Lưu lại năm ba ngày, nàng đối xử rất chu tất, bà dẫn nàng ra chỗ vắng khóc lóc hối hận về việc sai trái ngày trước. Nàng nói "Mẹ con ta thì có lầm lỗi nào không bỏ qua được, nhưng chồng con tức giận không nguôi, chỉ sợ chàng biết thôi", nên cứ khi Hòa tới thì bà liền tránh mặt.
Một hôm đang ngồi chơi chợt Hòa bước vào nhìn thấy nổi giận quát "Mụ nhà quê nào lại dám ngồi ngang hàng với nương tử thế kia? Nắm đầu tống cổ ra cho ta". Bà Lưu vội bước lên nói "Đó là Vương tẩu làm nghề bán hoa, có họ với già, xin ông tha lỗi". Hòa bèn chắp tay tạ lỗi rồi ngồi xuống nói "Bà đến chơi mấy hôm mà ta bận quá chưa hỏi chuyện được, lão súc sinh họ Hoàng còn sống không?". Bà Lưu đáp "Cả hai ông bà vẫn mạnh khỏe, có điều nghèo lắm, quan nhân quá giàu sang sao không nghĩ tình cha vợ chàng rể một chút". Hòa đập bàn nói "Năm xưa không có bà thương xót cho bát cháo thì ta làm sao về tới được quê quán, nay còn muốn bắt lão mà lột da ra chứ nghĩ tình cái gì?", nói tới đó căm giận quá dậm chân đứng dậy chửi mắng. Cô gái bực tức nói "Họ dẫu bất nhân cũng là cha mẹ ta. Ta từ xa xôi tìm tới đây rách chân nát gót, cũng tự thấy không phụ lòng chàng, sao chàng trước mặt con mà chưi mắng cha, khiến người ta không chịu nổi", Hòa mới nguôi giận đứng dậy bỏ đi. Vợ Hoàng thẹn tím mặt từ giã ra về, cô gái lấy hai chục đồng vàng đưa riêng cho mẹ. Sau khi bà về, không có tin tức gì nữa.
Cô gái thương nhớ cha mẹ quá, Hòa bèn sai người tới mời, hai vợ chồng tới vẫn có vẻ thẹn thùng áy náy. Hòa xin lỗi nói "Năm trước ông bà tới chơi lại không nói rõ, khiến ta mắc tội rất nhiều", Hoàng chỉ dạ dạ. Hòa may sắm quần áo mới cho, lưu lại hơn một tháng. Hoàng vẫn thấy áy náy, mấy lần xin về. Hòa tặng một trăm lượng vàng, nói "Người nhà buôn trước kia đưa năm mươi lượng, nay ta xin đưa gấp đôi". Hoàng thẹn toát mồ hôi nhận lấy. Hòa cho xe ngựa đưa về, cuối đời Hoàng sống cũng hơi dư dật.
Dị Sử thị nói: Sau khi Ung Môn* khóc xong thì giày son vắng cổng khiến người ta uất ức đóng cửa tuyệt giao. Thế nhưng bạn tốt chôn cất, đá hóa ra vàng, không thể nói rằng đó không phải là sự báo đáp cho người khẳng khái được. Còn kẻ phòng khuê chỉ ngồi mà hưởng, nghiễm nhiên như phi tần trong cung vua, nếu không phải là người trung trinh kỳ lạ như nàng họ Hoàng thì ai có thể hưởng thụ như vậy mà không xấu hổ? Tạo vật không giáng họa ban phúc sai là như thế đấy.
*Ung Môn: Hoàn đàm tân luận chép Ung Môn Chu cầm đàn tới ra mắt Mạnh Thường quân nói "Ta trộm cho rằng túc hạ có điều đau buồn. Đạo trời vốn không thường, ngàn vạn năm sau tôn miếu ắt không ai thờ cúng, đài cao đã nghiêng, ao sâu đã lấp, trên mộ đầy gai góc, chồn cáo làm hang bên trong, trẻ chăn trâu giẫm đạp lên ca hát mà nói sự giàu sang của Mạnh Thường quân cũng chỉ thế này thôi sao". Mạnh Thường quân ngậm ngùi rơi lệ, Ung Môn Chu nhân đó gảy thành khúc đàn. Đây ý nói người giàu sang nhưng đã chết cũng không ai đoái hoài tới nữa.
105. Người Thiếp Hồ (Hồ Thiếp)
Lưu Động Cửu người huyện Lai Vu (tỉnh Sơn Đông) làm quan ở Phần Châu (tỉnh Sơn Tây), ngồi một mình trong dinh nghe ngoài sân có tiếng cười nói, dần tới gần rồi vào trong phòng. Nhìn ra thì là bốn cô gái, một nàng độ bốn mươi tuổi, một nàng khoảng ba mươi, một nàng chừng hai mươi tư hai mươi lăm, cuối cùng là một nàng còn để tóc xõa. Cả bốn đứng trước kỷ nhìn nhau cười, Lưu vốn biết trong dinh nhiều hồ nên không ngó tới. Giây lát, nàng để tóc xõa rút ra chiếc khăn hồng đùa ném lên mặt Lưu. Lưu nhặt lấy quăng lên cửa sổ, vẫn không thèm nhìn. Bốn nàng cười rồi đi.
Một hôm nàng lớn nhất tới nói với Lưu "Em gái ta có nhân duyên với ông, xin đừng chê là hèn hạ". Lưu ừ bừa, nàng ấy liền đi. Lát sau cùng một tỳ nữ dẫn nàng để tóc xõa tới, đặt ngồi sánh vai với Lưu rồi nói "Thật là đẹp đôi. Đêm nay động phòng hoa chúc, cố mà hầu hạ Lưu lang, ta về đây". Lưu nhìn kỹ thấy nàng xinh đẹp vô song, bèn cùng vui vầy. Hỏi tới lai lịch, nàng nói "Thiếp không phải là người, nhưng thật ra cũng là người. Thiếp là con gái quan tiền nhiệm ở đây, bị hồ làm chết, xác chôn trong vườn. Lũ hồ làm phép cho sống lại, cũng biến hóa như hồ vậy". Lưu thò tay sờ phía sau, nàng hiểu ý cười nói "Chàng định nói là hồ thì có đuôi chứ gì?", rồi quay người lạỉ nói "Thử sờ xem nào". Từ đó nàng ở lại luôn, đứng ngồi đều có đứa tỳ nữ ở bên, gia nhân đều tôn kính gọi là bà thứ, tôi tớ lên chào ra mắt đều được thưởng rất hậu.
Gặp dịp sinh nhật của Lưu, khách khứa đông đảo, tính ra tới ba chục mâm, phải có nhiều đầu bếp, đã sức gọi từ trước nhưng chỉ có một hai người tới, Lưu bực tức lắm. Cô gái biết được bèn nói "Đừng lo, số đầu bếp đã không đủ dùng thì cứ cho mấy người tới về luôn cho xong. Thiếp tuy kém cỏi nhưng nấu ba chục mâm cũng chẳng phải khó". Lưu mừng rỡ, sai mang cá thịt tỏi gừng vào tư thất, gia nhân chỉ nghe tiếng dao thớt khua ran không dứt. Cửa trong đặt một chiếc bàn, những người hầu để mâm lên đó, quay đi quay lại đã đầy thức ăn, bưng xong lại quay lại, hơn mười người đi lại liên tiếp mà lấy bao nhiêu cũng có. Sau cùng người hầu vào gọi lấy bánh canh, bên trong nói "ông chủ không dặn trước, gấp gáp thế này làm sao có được?". Kế lại nói "Không còn cách nào, đành phải mượn vậy". Giây lát gọi vào lấy bánh canh, nhìn lại thì thấy đã có hơn ba chục tô bánh canh bốc khói đặt trên bàn. Khách về rồi, nàng nói với Lưu "Phải đưa tiền trả tiền bánh canh cho nhà nọ". Lưu sai đem tiền tới nhà ấy thì họ mất bánh canh còn đang kinh ngạc, khi người nhà Lưu tới trả tiền mới hết ngờ vực.
Một hôm uống rượu đêm, Lưu chợt thèm rượu nếp đắng Sơn Đông, nàng xin đi lấy rồi ra cửa đi. Giây lát trở về nói "Được một vò ngoài cửa, đủ uống mấy ngày rồi". Lưu ra xem, quả có một vò, đúng là thứ rượu mới cất ở nhà. Qua vài hôm, phu nhân sai hai người đầy tớ tới Phần Châu, giữa đường một người nói "Nghe nói phu nhân chồn hồ thưởng rộng rãi, chuyến này mà được tiền thưởng ta sẽ mua một cái áo lông chiên". Nàng ở dinh đã biết cả, nói với Lưu "Người nhà ở quê sắp tới, đáng giận thằng đầy tớ vô lễ, phải trị mới được". Hôm sau người đầy tớ vừa vào trong thành, đầu đã đau nhức, tới dinh thì ôm đầu kêu gào, mọi người đều bàn đi tìm thầy thuốc. Lưu cười nói "Không cần chữa, đến lúc sẽ tự hết", mọi người ngờ là y phạm tội với bà thứ.
Người đầy tớ tự nghĩ mới tới đây chưa kịp cởi hành lý ra thì đã làm gì nên tội, nhưng không biết kêu van với ai đành phải bò tới năn nỉ. Trong rèm có tiếng nói "Ngươi gọi phu nhân là đủ rồi, sao còn nói chữ hồ?". Người đầy tớ sực nhớ ra, lạy lục không thôi. Trong rèm lại nói "Đã muốn có áo lông chiên sao lại vô lễ thế?", kế nói tiếp "Ngươi khỏi rồi đấy", dứt câu thì người đầy tớ thấy hết đau, lạy tạ định lui ra, chợt trong rèm ném ra một cái bọc, nói "Đây là một cái áo lông dê non, ngươi cầm đi", y mở ra xem thì thấy có năm đồng vàng. Lưu hỏi tin nhà, người đầy tớ thưa đều được vô sự chỉ có đang đêm bị mất một vò rượu, tính lại ngày giờ thì đúng vào đêm nàng đi lấy rượu. Mọi người kính sợ nàng có phép thần thông, gọi là Thánh tiên.
Lưu vẽ tranh nàng, lúc ấy Trương Đạo Nhất làm quan Đề học sứ nghe chuyện lạ liền lấy tình đồng hương tới thăm Lưu xin được gặp mặt một lần, nàng từ chối. Lưu đưa bức tranh cho xem, Trương giật lấy đem về treo cạnh chỗ ngồi, đêm ngày khấn khứa "Xinh đẹp như nàng muốn gì chẳng được, sao lại gởi thân cho lão già râu xồm? Hạ quan không thua kém gì Động Cửu, sao không chiếu cố cho nhau một lần". Nàng ở dinh chợt nói với Lưu "Trương công vô lễ phải trừng phạt một chút". Một hôm Trương đang khấn khứa thấy như có ai cầm thước đánh mạnh vào trán đau điếng, cả sợ cuốn bức tranh sai người đem trả. Lưu hỏi vì sao trả lại, người ấy giấu việc Trương bị đánh mà bịa chuyện trả lời, Lưu cười hỏi "Trán chủ ngươi có đau không?", người ấy không dám nói dối phải kể thật.
Không bao lâu sau, rể Lưu là Nguyên sinh tới thăm, xin được ra mắt nhưng nàng từ chối. Nguyên nài nỉ mãi, Lưu hỏi "Con rể nào phải người ngoài, sao cự tuyệt quá thế?". Nàng đáp "Con rể tới ra mắt ắt phải có gì tặng, nhưng y mong cầu quá lắm, ta tự thấy không làm vừa lòng y được nên không muốn gặp đó thôi". Kế Nguyên lại cố nài nỉ, nàng hứa mười ngày sẽ cho ra mắt. Đến ngày hẹn Nguyên vào, đứng ngoài rèm chắp tay vái rồi hỏi thăm sức khỏe, chỉ thấy loáng thoáng dung mạo nhưng không dám nhìn kỹ. Kế lui ra, đi được mấy bước cứ ngoảnh lại nhìn chằm chằm, chỉ nghe tiếng nàng nói "Con rể quay lại kìa", dứt lời cười lớn, lanh lảnh như tiếng cú rúc. Nguyên nghe thấy gân cốt nhũn cả ra, run rẫy tựa mất hồn.
Ra ngoài ngồi hồi lâu mới hơi định thần, bèn nói "Vừa nghe tiếng cười như nghe tiếng sét, thật không biết mình còn sống hay đã chết"' Giây lát người tỳ nữ vâng lệnh nàng đem ra hai mươi lượng vàng tặng Nguyên, Nguyên nhận rồi nói "Thánh tiên hàng ngày ở với ông chồng, há lại không biết tính ta phung phí chứ không quen dùng món tiền nhỏ sao?"' Nàng nghe thế nói "Ta vẫn biết là thế, nhưng vừa lúc hết tiền, mới rồi cùng bạn bè đi Biện Lương (tỉnh thành Hà Nam) thì thành bị Hà Bá chiếm cứ, kho tàng đều ngập dưới nước, lặn xuống lấy mỗi người chỉ được bấy nhiêu, làm sao đầy được túi tham không đáy của y. Vả lại nếu ta tặng cho thật hậu thì y phúc bạc cũng không thể hưởng được đâu".
Phàm mọi việc cô gái đều có thể biết trước nên có việc gì nghi ngờ cứ bàn với nàng là quyết được ngay. Một hôm đang cùng ngồi chuyện trò, chợt nàng ngữa mặt lên trời cả kinh nói "Đại nạn sắp tới, làm sao bây giờ". Lưu hoảng sợ hỏi người trong nhà lành dữ ra sao, nàng nói "Tất cả vô sự, chỉ có nhị công tử là đáng lo. Không bao lâu nơi đây sẽ thành chiến trường, chàng nên xin đi công cán nơi xa mới khỏi nạn". Lưu theo lời, xin quan trên cho đi áp tải lương tiền tới Vân Nam Quý Châu. Đường sá xa xôi, ai nghe cũng thương xót cho Lưu, duy có cô gái lấy làm vui mừng. Không bao lâu Khương Khôi làm phản*, Phần Châu bị giặc chiếm làm sào huyệt, con trai thứ hai của Lưu từ Sơn Đông tới thì vừa gặp loạn, bị giết chết. Thành bị hãm, quan lại đều bị hại, chỉ có Lưu đi công cán nơi xa được thoát, đến khi yên giặc mới trở về.
*Khương Khôi làm phản: Khương Khôi là người cuối thời Minh, giữ chức Tổng binh Đại Đồng, khi Lý Tự Thành đánh tới thì Khôi đem thành đầu hàng, theo Tự Thành chống nhà Minh.
Sau Lưu dính líu vào vụ án lớn bị bãi chức, nghèo túng tới mức ngày không lo đủ hai bữa cơm, quan lại còn đòi hỏi hạch sách rất nhiều nên cùng quẫn lo lắng muốn chết. Nàng nói "Đừng lo, dưới gầm giường có chôn ba ngàn đồng vàng, cũng đủ chi tiêu". Lưu mừng rỡ hỏi đánh cắp được ở đâu, nàng đáp "Của vô chủ trong thiên hạ muốn lấy bao nhiêu cũng có, cần gì phải trộm cắp?". Lưu dùng số tiền ấy lo lót được thoát tội về quê, cô gái cũng đi theo. Vài năm sau chợt bỏ đi, để lại cái túi giấy chứa mấy vật lại cho Lưu, trong có lá phướn nhỏ treo nhà đám ma dài độ hai tấc, mọi người đều cho là điềm bất tường, kế Lưu chết.
106. Thần Sấm Sét (Lôi Tào)
Nhạc Vân Hạc và Hạ Bình Tử lúc nhỏ ở cùng làng, lớn lên học cùng trường, chơi với nhau rất thân. Hạ thông minh từ nhỏ, mười tuổi đã nổi tiếng, Nhạc dốc lòng kính ái, Hạ cũng thường khuyên dạy cho không biết mỏi. Nhạc học hành ngày càng tấn tới nhờ vậy cũng nổi tiếng, nhưng khoa cử lận đận, cứ đi thi là rớt. Không bao lâu Hạ mắc bệnh dịch chết, nhà nghèo không chôn cất nổi, Nhạc khẳng khái đứng ra lo liệu, Hạ còn vợ góa con côi thì thường lui tới thăm hỏi, kiếm được chút ít gì cũng chia cho một nửa. Vợ con Hạ nhờ vậy mới sống được, các bậc sĩ đại phu vì thế càng khen Nhạc hiền. Nhà Nhạc không có của cải gì nhiều, lại còn chu cấp cho vợ con Hạ nên gia cảnh ngày càng sa sút, bèn than "Tài học như Bình Tử mà còn phải lận đận rồi chết, huống chi là ta? Sự giàu sang ở đời phải đúng lúc, nếu cứ lo lắng tròn năm thì e sẽ chết trước cả giống vật nơi ngòi rãnh, phí cả một đời, chẳng bằng lo liệu cho sớm".
Từ đó Nhạc bỏ học đi buôn, làm ăn nửa năm thì cảnh nhà hơi khá lên. Một hôm đi buôn tới Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), vào nghỉ trong quán trọ thấy một người cao lớn, bắp thịt cuồn cuộn cứ quanh quẩn cạnh chỗ mình ngồi, sắc mặt ảm đạm, có vẻ lo buồn. Nhạc hỏi "Muốn ăn cơm không?", người ấy cũng im lặng. Nhạc đẩy mâm ra mời, y lấy tay bốc ăn, trong giây lát hết sạch. Nhạc lại gọi thêm một mâm mấy phần cơm, y lại ăn hết, Nhạc bèn bảo chủ quán cắt thịt heo, bóc bánh chưng đầy mâm, y lại ăn sạch mấy phần nữa mới no, cảm tạ nói "Ba năm nay chưa từng được bữa nào ăn no thế này". Nhạc hỏi "Ông là bậc tráng sĩ sao lại lưu lạc khổ cực tới mức này?", y đáp "Ta mắc tội với trời, không thể nói ra được". Nhạc hỏi quê quán nhà cửa, y đáp "Trên bộ không có nhà cửa, dưới nước không có ghe thuyền, chỉ sáng vào trong làng tối ra ngoàí ruộng thôi".
Nhạc sửa soạn hành lý ra đi, người ấy đi theo, bịn rịn không rời. Nhạc từ tạ, y nói "Ông sắp gặp nạn lớn, ta không nỡ quên cái ơn cho một bữa ăn". Nhạc lấy làm lạ, bèn cho y đi cùng, trên đường kéo vào quán ăn cơm, y từ chối nói "Cả năm ta chỉ ăn vài bữa thôi", Nhạc càng lấy làm lạ. Hôm sau qua sông, chợt sóng gió nổi lên, ghe thuyền chở thuê đều đắm cả, Nhạc và người ấy cũng chìm xuống sông. Lát sau gió lặng sóng yên, y cõng Nhạc đạp sóng ngoi lên, đưa Nhạc lên một chiếc thuyền khách rồi lại rẽ nước đi. Giây lát kéo về một chiếc thuyền, đỡ Nhạc qua dặn ngồi đó giữ rồi nhảy xuống nước, trồi lên thì hai tay xách hàng hóa bị chìm ném vào thuyền rồi lại lặn xuống, mấy lần lên xuống thì hàng hóa bị chìm được vớt lên đầy cả thuyền.
Nhạc cảm tạ nói "Ông cứu sống ta là quá đủ rồi, đâu dám mong lấy lại được hàng hóa"' Kiểm lại của cải thấy không bị mất gì, càng mừng rỡ kính phục y là thần, định dong thuyền đi thì y từ biệt, Nhạc cố giữ cùng qua sông. Kế cười nói "Cái nạn thế này mà chỉ mất có một chiếc trâm vàng", người ấy muốn lại xuống nước tìm, Nhạc đang ngăn lại bảo thôi thì y đã nhảy xuống nước mất hút. Nhạc kinh ngạc hồi lâu, chợt thấy y tươi cười trồi lên đưa cho chiếc trâm, nói "May là cũng tìm thấy", người trên sông ai cũng kinh lạ. Nhạc đưa người ấy về nhà, ăn cùng mâm nằm cùng chiếu. Cứ mười mấy ngày y mới ăn một bữa, mà ăn thì ăn rất nhiều.
Một hôm từ giã đi, Nhạc cố giữ lại, vừa lúc trời tối tăm như muốn mưa, nghe có tiếng sấm. Nhạc nói "Không biết quang cảnh trong mây ra sao, sấm sét là vật gì, làm sao lên được trên trời mà xem một lần mới hết thắc mắc". Người ấy cười nói "ông muốn lên mây chơi à?". Giây lát chợt Nhạc thấy trong người mỏi mệt quá, lăn ra giường thiu thiu ngủ, khi tỉnh thấy người đong đưa không giống như đang nằm trên giường. Mở mắt nhìn thì thấy đang trong mây, chung quanh trắng toát như bông, hoảng sợ vùng dậy thấy váng vất như đang đi thuyền, dưới chân thì mềm mại không phải là đất, ngẩng đầu thì thấy tinh tú ngay trước mắt, nghĩ rằng mình đang nằm mơ. Nhìn kỹ thấy các ngôi sao khảm vào bầu trời như hạt sen trong gương sen, ngôi lớn bằng cái khạp, ngôi vừa bằng cái vò, ngôi nhỏ bằng cốc chén, lấy tay lắc thử thấy sao lớn bám chặt không nhúc nhích, sao nhỏ thì lung lay như có thể hái xuống. Liền hái lấy một ngôi cất vào tay áo rồi vén mây nhìn xuống thì bể bạc mênh mông, thấy thành quách nhỏ như hạt đậu, kinh ngạc tự nghĩ nếu lỡ hụt chân một cái thì còn gì là mạng.
Bỗng thấy hai con rồng uốn lượn kéo một chiếc xe căng màn chạy tới, đuôi ngoắt thành tiếng vun vút như roi trâu. Trong xe có cái bồn chu vi mấy trượng đựng đầy nước, có mấy mươi người cầm gáo múc nước tưới khắp trên mây. Họ thấy Nhạc đều lấy làm lạ, Nhạc nhìn kỹ thì thấy trong bọn có người tráng sĩ bạn mình. Y nói với mọi người "Đây là bạn ta", rồi đưa Nhạc một cái gáo bảo múc nước mà tưới. Lúc đó trời đang đại hạn, Nhạc đón lấy cái gáo, vén mây nhìn về phía quê chăm chỉ múc tưới. Lát sau người bạn nói với Nhạc "Ta vốn là thần sấm sét, vì trước đây làm mưa sai hẹn nên bị phạt đày ba năm, nay đã mãn hạn, từ đây xin vĩnh biệt". Rồi lấy sợi dây buộc xe dài cả vạn thước bảo Nhạc bám vào một đầu để thả xuống đất. Nhạc lo dây đứt, y cười nói không hề gì, Nhạc theo lời bám vào, thấy lơ lửng trong chớp mắt đã tới mặt đất, nhìn lại thì đang đứng ngoài làng, sợi dây thì thu dần vào trong mây không thấy đâu nữa.
Lúc ấy hạn hán đã lâu mới có trận mưa, nhưng ngoài mười dặm nước chỉ ngập ngón tay, chỉ có làng Nhạc thì hồ rạch tràn đầy. Về tới nhà Nhạc mò lại trong tay áo thì ngôi sao đã hái vẫn còn, đem đặt lên bàn thì đen như hòn đá, đến đêm thì long lanh sáng rực chiếu rọi khắp nhà. Nhạc càng quý báu gói lại cất kỹ, mỗi khi có khách quý thì mang ra thay đèn uống rượu ban đêm, nhìn thẳng vào thấy ánh sáng chói cả mắt. Một đêm, vợ Nhạc ngồi trước ngôi sao chải tóc chợt thấy ánh sáng thu nhỏ mờ dần chỉ còn như con đom đóm, lại động đậy bay lên, giật nảy mình định kêu lên thì ngôi sao đã chui tọt vào miệng, vừa khạc thì đã xuống tới cổ họng. Nàng sợ hãi chạy vào kể cho Nhạc, Nhạc cũng lấy làm lạ.
Kế nằm ngủ mơ thấy Hạ Bình Tử tới nói "Ta là sao Thiếu Vi những việc ông giúp cho ta vẫn nhớ không quên. Lại nhờ ông thương mến đem ta trên trời về, có thể nói là có duyên với nhau, nay xin làm người nối dõi cho ông để đền ơn lớn". Lúc ấy Nhạc đã ba mươi tuổi vẫn chưa có con, mơ thấy thế mừng lắm. Từ đó vợ có mang, khi lâm bồn có ánh sáng chiếu khắp nhà như lúc đặt ngôi sao trên bàn, nhân đó đặt tên con là Tinh Nhi. Tinh Nhi khôn ngoan lạ thường, năm mười sáu tuổi thi đỗ Tiến sĩ.
Dị Sử thị nói: Ông Nhạc nổi tiếng văn chương một thời, chợt thấy việc theo đuổi công danh đến già không hợp với mình liền vứt ngọn bút như cởi chiếc dép, có khác gì Ban Siêu ném bút*! Đến như thần sấm sét cảm ơn cho ăn, sao Thiếu Vi đáp tình bạn cũ, há phải là thần nhân đền đáp ơn riêng đâu mà là tạo vật báo đáp cho bậc hiền hào đấy.
*Ban Siêu ném bút: nguyên văn là "Yến hạm đầu bút". Hậu Hán thư, Ban Siêu truyện chép Ban Siêu thuở trẻ nhà nghèo phải làm việc chép thuê trong dinh quan để sống, gặp người thầy tướng nói "Ông hàm én đầu hổ (yến hạm hổ đầu), bay cao mà ăn thịt, đó là tướng được phong hầu ngoài vạn dặm", Siêu ném bút than "Đại trượng phu phải lập công nơi đất lạ để được phong hầu, chứ sao có thể theo việc bút nghiên mãi được". Sau đi sứ Tây Vực có công được phong tước Định Viễn hầu. Đây tác giả có ý nói ngược lại.
107. Bùa Đánh Bạc (Đổ Phù)
Đạo sĩ họ Hàn ở miếu Thiên Tề trong huyện ta giỏi phép thuật, mọi người đều gọi là tiên. Cha ta chơi thân với ông, cứ có dịp vào thành là ghé thăm. Một hôm cha ta cùng chú ta vào thành, định tới thăm thì gặp Hàn trên đường, Hàn đưa chìa khóa nói "Xin cứ tới mở cửa vào ngồi đợi một lúc, ta sẽ về ngay". Cha ta theo lời, tới miếu mở cửa vào thì Hàn đã ngồi ở trong, những việc như vậy rất nhiều. Trước trong họ hàng có người hay cờ bạc, qua cha ta nên cũng quen Hàn, gặp lúc có một nhà sư ở chùa Thiên Phật tới, rất sành cờ bạc, đánh bạc rất lớn. Người ấy gặp thích lắm, mang tiền tới chơi, thua nặng, càng cay cú. Về cầm bán nhà cửa ruộng vườn tới chơi tiếp, hết đêm thì thua sạch, chán nản bất đắc chí ra về, tiện đường ghé Hàn, đầu óc thẫn thờ, ngôn ngữ thất thố. Hàn hỏi, người ấy kể lại mọi chuyện, Hàn cười nói "Thường đánh bạc thì không ai không thua, nếu ngươi chừa đánh bạc được thì ta sẽ giúp lấy tiền lại cho". Người ấy nói "Nếu lấy lại được thì xin đem chày sắt đập nát hết xúc xắc". Hàn bèn lấy giấy vẽ bùa đưa cho bảo giắt vào thắt lưng, dặn "Nếu lấy lại được hết tiền thua rồi phải thôi ngay, không nên được voi đòi tiên". Lại đưa cho một ngàn đồng tiền, hẹn khi thắng rồi thì trả lại, người ấy cả mừng ra đi.
Nhà sư thấy chỉ có bấy nhiêu tiền coi thường không thèm chơi, người ấy cố ép, hẹn chỉ đánh một tiếng bạc thôi. Nhà sư cười ưng thuận, người ấy đặt cả một ngàn đồng tiền. Nhà sư gieo xúc xắc trước, chưa phân thắng bại, người ấy gieo liền thắng ngay. Nhà sư lại đánh hai ngàn đồng tiền, lại thua, dần dần tăng tới mười mấy ngàn đồng. Người ấy gieo lần đầu thì rõ ràng là điểm rất thấp quát lên một tiếng thì con xúc xắc lật lại thành điểm cao nhất, trong khoảnh khắc đã lấy lại được tất cả số tiền đã thua, nhưng nghĩ thầm kiếm thêm vài ngàn nữa cũng hay. Bèn đánh thêm thì thua ngay, lấy làm kỳ quái đứng lên nhìn lại thắt lưng thì lá bùa đã biến mất, cả sợ bèn thôi không chơi nữa. Bèn chở tiền về miếu, trả cho Hàn xong tính cả số bị thua trong tiếng bạc chót với số thắng được thì vừa khớp với số tiền bị thua trước đó. Liền xấu hổ xin lỗi về việc mất lá bùa, Hàn cười nói "Nó ở đây rồi, ta đã dặn đừng tham mà ông không chịu nghe nên đã lấy về"
Dị Sử thị nói: Cái làm thiên hạ khuynh gia bại sản không gì mau bằng cờ bạc, cái làm thiên hạ tổn đức mất nết không không gì mạnh bằng cờ bạc, sa vào rồi thì như rơi xuống biển mê không biết đâu là đáy. Phàm kẻ làm ruộng buôn bán đều có nghề nghiệp, kẻ học trò đọc sách càng tiếc thời giờ. Đọc sách cầm cày vốn là đường chính để thành gia, chén rượu chung trà cũng là niềm vui trên cõi thế. Thế mà lại theo bạn xấu rủ rê, suốt canh khuya đàn đúm. Nghiêng rương vét tủ, treo vàng mơ trên mấy tầng trời, la thắng thét ù, xin thần giúp trong trò ngu dại. Năm con xúc xắc đổ tựa gieo châu, mấy lá bài chia cầm như xòe quạt. Liếc bài người lại ngó bài mình, chán cho mắt quỷ, bài thì tốt mà kêu là xấu, giở đủ trò ma. Trước cửa tân khách chờ, còn lưu luyến bên sòng bạc, ở nhà cơm nước đợi, vẫn mê mãi với quân bài. Quên ăn bỏ ngủ, lâu ngày thành mê, mặt sạm môi chì, nhìn xem tựa quỷ. Đến lúc thua sạch tiền lưng, ngồi trơ mắt ếch. Nhìn vào sòng thì la hét vang rân, anh hùng ngứa ngáy, ngó lại túi thì trống không nhẵn nhụi, tráng sĩ thẫn thờ. Nghểnh cổ bồi hồi, biết tay trắng không sao chơi được, cúi đầu than thở, đến hừng đông mới chịu ra về. Ngang nhà người quen đang ngủ, sợ chó sủa ầm, thấy bụng mình đói cứ sôi, hờn nồi cạn sạch. Kế lại bán vợ đợ con, cũng muốn cầu may thủ vận, chẳng ngờ nắm lông lò lửa, chung quy đáy nước mò trăng. Lúc tàn mạt mới ngẫm lại mình, thấy đã ra người hạ tiện, đám cờ bạc hỏi ai giỏi nhất, đều tôn ấy bậc không quần. Thậm chí xoa bụng đói dài, phải đi làm cướp, gãi đầu tính lại, đành chịu xin ăn. Than ôi, cờ bạc chính là một con đường dẫn tới chỗ tổn đức mất nết, tan cửa nát nhà đấy.
108. A Hà (A Hà)
Cảnh Tinh Giả người huyện Văn Đăng (tỉnh Sơn Đông), lúc trẻ có tiếng tài giỏi, ở cạnh nhà Trần sinh, phòng sách chỉ cách nhau một bức tường ngắn. Một hôm vừa chập tối, Trần đi qua một bãi đất vắng nghe trong tiếng con gái khóc trong đám tùng bách, tới gần thấy trên cành cây mọc ngang có sợi dây vắt qua như sắp treo cổ tự tử. Trần hỏi han, cô gái gạt lệ nói "Mẹ đi xa gởi thiếp ở nhà người anh bên ngoại, không dè quân lang sói tàn ác nuôi nấng không ra sao, bơ vơ thế này thì chết đi còn hơn", nói xong lại khóc. Trần cởi sợi dây khuyên nàng tìm người mà lấy, nàng lo không có ai để nương tựa, Trần mời về nhà mình ở tạm, cô gái bèn đi theo. Về tới nhà khêu đèn nhìn kỹ thấy phong tư xinh đẹp, Trần rất thích, muốn làm ẩu, cô gái lớn tiếng chống cự, cãi nhau ồn ào vang qua bên kia vách. Cảnh sinh leo tường qua xem, Trần mới buông nàng ra. Cô gái thấy Cảnh cứ nhìn không chớp mắt, hồi lâu bỏ chạy, hai người cùng đuổi theo nhưng không biết nàng chạy về hướng nào.
Cảnh về nhà đóng cửa định đi ngủ thì cô gái lững thững trong phòng bước ra, ngạc nhiên hỏi, nàng đáp "Y đức ít phúc mỏng, không thể nương tựa suốt đời". Cảnh mừng lắm gạn hỏi tên họ quê quán, nàng nói "Tổ tiên thiếp ở đất Tề (tỉnh Sơn Đông) nên lấy chữ Tề làm họ, tiểu tự là A Hà". Cảnh buông lời trêu ghẹo, nàng cười không có vẻ chống cự gì lắm, bèn cùng ăn ở với nhau. Nhà hay có đông bè bạn lui tới, cô gái thường núp kín trong phòng. Qua mấy hôm nói "Thiếp phải tạm đi, nơi này đông người ồn ào mệt quá. Từ nay xin hẹn nhau buổi tối thôi". Cảnh hỏi nhà ở đâu nàng đáp "Cũng không xa lắm", rồi đi sớm, buổi tối quả nhiên lại tới.
Mấy hôm sau nàng lại nói "Hai ta tuy thương yêu nhau nhưng rốt lại vẫn là tự ý chung chạ. Nay cha đi làm quan ở miền tây, sáng mai phải theo mẹ đi, định tìm dịp thưa rõ rồi sẽ theo chàng trọn đời". Cảnh hỏi chia tay bao lâu, nàng hẹn khoảng một tuần rồi đi. Cảnh nghĩ ở nhà học không tiện, mà dọn vào ở nhà trong thì lo vợ ghen, tính không gì bằng bỏ vợ, bèn quyết ý. Vợ tới cứ mắng chửi, vợ nhục nhã không chịu nổi, khóc lóc đòi chết. Cảnh nói với vợ "Cô chết sợ ta bị liên lụy, xin cứ về lại nhà cô", rồi giục đi mau. Vợ khóc lóc nói "Thiếp theo chàng mười năm chưa làm điều gì thất đức, sao quyết dứt tình như thế". Cảnh không thèm nghe, càng đuổi đi gấp, vợ bèn ra cửa đi. Từ đó sơn phết tường vách, quét dọn nhà cửa, dài cổ trông ngóng A Hà, không ngờ tin tức vắng bặt như đá chìm xuống biển.
Vợ Cảnh bị đuổi rồi, mấy lần nhờ bạn thân nói giùm xin cho trở lại nhưng Cảnh không chịu, bèn lấy chồng họ Hạ Hầu. Làng Hạ Hầu gần nhà Cảnh, vì chuyện bờ ruộng nên nhiều đời có hiềm khích với nhau, Cảnh nghe tin ấy càng tức giận, nhưng còn đợi A Hà trở lại để tự an ủi lỗi lầm. Hơn một năm chẳng thấy tăm hơi, gặp ngày cúng Hải thần, trong ngoài đền trai gái tấp nập, Cảnh cũng tới đó. Xa xa thấy một cô gái rất giống Hà, Cảnh tới gần thì nàng chen vào đám đông, theo ra tới ngoài cổng thì nàng đi rất nhanh, Cảnh đuổi theo không kịp tức tối bỏ về.
Nửa năm sau Cảnh đi trên đường thấy một nữ lang mặc áo đỏ cưỡi ngựa đen có đầy tớ dắt cương đi tới, nhìn ra thì là A Hà, bèn hỏi kẻ tùy tùng nương tử là ai, y đáp là vợ kế công tử họ Trịnh ở thôn Nam. Cảnh lại hỏi công tử cưới bao lâu rồi, y đáp "Nửa tháng nay thôi". Cảnh đang nghĩ hay mình lầm, thì nữ lang nghe tiếng trò chuyện quay lại, Cảnh nhìn thì đúng là Hà. Thấy nàng đã lấy người khác, trong lòng giận sôi lên, kêu lớn "Nàng Hà sao lại quên lời hứa cũ?". Bọn tùy tùng nghe gọi bà chủ mình xúm lại toan đánh, cô gái vội ngăn lại vén khăn che mặt nói với Cảnh "Gã phụ lòng còn dám nhìn mặt nhau à?". Cảnh nói "Tự nàng phụ ta chứ ta phụ nàng lúc nào?". Nàng đáp "Phụ phu nhân còn tệ hơn phụ ta, với người kết tóc trăm năm còn thế huống hồ với kẻ khác? Trước đây nhờ âm đức ông bà nên ngươi được ghi tên vào bảng thi đỗ, ta mới đem thân theo ngươi. Nay vì việc bỏ vợ, âm ty đã phạt tước giảm lộc số của ngươi rồi. Khoa này người đỗ thứ hai là Vương Xương thay vào tên ngươi đấy. Nay ta đã theo Trịnh quân, ngươi đừng mơ tưởng nữa".
Cảnh gục đầu cụp tai không dám mở miệng, nhìn thấy cô gái thúc ngựa phóng như bay, chỉ còn biết não nề mà thôi. Khoa thi ấy Cảnh trượt, người đỗ thứ hai quả họ Vương tên Xương, Trịnh cũng đỗ. Từ đó Cảnh mang tiếng phụ bạc, bốn mươi tuổi không có vợ, nhà càng sa sút, thường tới ăn chực ở nhà bạn bè. Một hôm ngẫu nhiên tới nhà Trịnh, Trịnh khoản đãi giữ lại ngủ đêm. Cô gái lén ra nhìn khách, thấy Cảnh thương xót hỏi Trịnh "Người khách ở nhà trên có phải là Cảnh Khánh Vân không?". Trịnh hỏi vì sao biết, nàng nói "Lúc chưa lấy chàng từng lánh nạn ở nhà y, được y nuôi nấng cũng tử tế. Tính nết y tuy hèn nhưng âm đức tổ tiên chưa dứt, vả lại còn là cố nhân của chàng, cũng nên giúp đỡ cho trọn nghĩa bạn bè". Trịnh cho là phải, đưa áo quần mới cho Cảnh thay, giữ lại khoản đãi mấy ngày.
Nửa đêm Cảnh sắp đi ngủ có người tỳ nữ cầm hơn hai mươi đồng vàng vào tặng, cô gái thì đứng ngoài của sổ nói "Đó là của riêng ta đền đáp nghĩa cũ, nên về tìm cưới một người vợ tốt. May là phúc đức tổ tiên còn lớn, cũng đủ giúp cho con cháu. Từ nay nên ráng giữ nết, đừng để tổn thọ", Cảnh cảm tạ. Trở về bỏ ra hơn mười đồng vàng mua một tỳ nữ nhà thân hào, vừa xấu vừa dữ, sinh được một con trai về sau liên tiếp đỗ thi hương rồi thi hội. Trịnh thì làm quan tới chức Lang trung bộ Lại, khi chết cô gái chôn cất xong trở về, vén rèm kiệu thì không có ai, bấy giờ mới biết nàng không phải là người. Ôi! kẻ vô lương được mới nới cũ, rốt lại tổ lật mà chim cũng bay, trời cao báo ứng cũng thảm độc lắm!
109. Con Hồ Lông Lá (Mao Hồ)
Nhà nông Mã Thiên Vinh hơn hai mươi tuổi góa vợ, nghèo không cưới nổi vợ khác. Một hôm đang bừa ruộng, thấy một thiếu phụ ăn mặc đẹp đẽ xuyên bờ đạp lúa đi ngang, sắc mặt đỏ sậm, cũng có vẻ phong lưu. Mã ngờ là bị lạc đường, nhìn quanh không có ai bèn đùa trêu chọc, thiếu phụ cũng mỉm cười. Mã muốn giao hoan tại đó, nàng nói "Ban ngày ban mặt làm thế sao được? Chàng cứ về nhà khép cửa chờ, trời tối ta sẽ tới". Mã không tin, nàng thề sẽ tới, Mã nói rõ phương hướng cửa ngõ nhà mình, nàng bèn đi. Đến đêm quả tới, cùng nhau giao hoan, Mã thấy da thịt nàng rất mềm mại, thắp đèn soi thì da đỏ mỏng như trẻ sơ sinh, lông tơ đầy mình, lấy làm lạ. Lại ngờ vì lai lịch nàng không rõ ràng, nghĩ biết đâu là hồ liền đùa hỏi thử, nàng nhận ngay không hề e ngại. Mã nói "Đã là người tiên thì cầu gì được nấy, đã đội ơn thương yêu, sao không giúp luôn cho ta ít tiền qua cơn nghèo?". Nàng nhận lời, đêm sau tới, Mã hỏi tiền, nàng ra vẻ sửng sốt nói "Ta quên bẵng đi mất"' lúc sắp đi Mã lại nhắc.
Đêm đến Mã hỏi lại quên món mình xin rồi phải không, nàng cười hẹn hôm khác. Qua mấy hôm Mã lại hỏi, nàng cười rút trong tay áo ra hai nén bạc đáng giá năm sáu lượng vàng, ngoài rìa có hoa văn nhỏ nhìn rất thích mắt. Mã mừng rỡ cất kỹ trong rương, nửa năm sau có việc cần dùng lấy đưa người ta xem, họ nói "Đây là chì mà". Đưa lên răng cắn quả gãy ngay, Mã sợ quá nhặt lấy trở về, đến đêm người đàn bà tới, Mã tức tối trách móc, nàng cười nói "Phần số của chàng mỏng manh lắm, không dùng được tiền thật đâu", rồi cùng cười bỏ qua. Mã nói "Nghe nói hồ tiên đều là bậc quốc sắc, nhưng rất là không đúng". Người đàn bà nói "Bọn ta đều tùy theo người mình gặp mà hóa thân hiện hình, chàng đã không có phúc hưởng một đồng vàng thì nhan sắc chim sa cá lặn làm sao hưởng thụ được? Ta xấu xí vấn không đủ để phụng sự bậc quý nhân, nhưng so với bọn chân to lưng gù thì là bậc quốc sắc đấy".
Qua mấy tháng chợt đưa cho Mã ba lượng vàng, nói "Chàng hỏi nhiều lần, ta vì thấy mạng chàng không thể có tiền để dành nên không cho, nay đến dịp cưới hỏi, xin đem số tiền cưới một người vợ để tặng chàng thay cho món quà chia tay". Mã bày tỏ mình không có chuyện mai mối cưới hỏi gì cả, nàng nói "Một hai ngày nữa sẽ có bà mối tới". Mã hỏi theo nàng thì vợ mình sắc đẹp ra sao, nàng đáp "Chàng muốn có bậc quốc sắc thì sẽ được bậc quốc sắc" Mã nói "Ta không dám mong tới đó, nhưng ba lượng vàng làm sao đủ cưới vợ", nàng đáp "Đó là chủ ý của Nguyệt lão, không phải sức người làm được đâu". Mã hỏi sao vội từ giã như thế nàng đáp "Đêm đêm tìm tới, rốt lại cũng không đâu vào đâu, vả lại chàng sẽ có vợ, giữ nhau tới cùng làm gì?". Sáng hôm sau ra đi, đưa Mã một gói thuốc bột, dặn "Sau khi chia tay e chàng lâm bệnh, cứ uống thuốc này là khỏi".
Hôm sau quả có bà mối tới, Mã trước tiên hỏi nhan sắc người con gái, bà ta đáp ở giữa khoảng xấu đẹp, hỏi tiền sính lễ là bao nhiêu, đáp chỉ khoảng bốn năm lượng vàng. Mã không nói giá cao, nhưng muốn nhìn thấy mặt. Bà mối ngại rằng con nhà tử tế không chịu ra mặt, kế hẹn cùng tới đó sẽ tùy cơ tìm cách cho xem mặt. Tới nơi, bà mối vào trước, bảo Mã đứng chờ ngoài thôn, hồi lâu trở ra nói "Được rồi, người họ hàng của ta cũng ở khu nhà ấy, xin chàng giả tới thăm người họ hàng của ta mà đi qua, chỉ cách gang tấc có thể nhìn rõ". Mã theo lời, quả nhiên thấy cô gái ngồi trên sảnh đường, ngã mình xuống giường sai người gãi lưng. Mã đi ngang nhìn lướt vào, thấy mặt mũi nàng quả đúng như bà mối đã nói.
Đến lúc bàn chuyện sính lễ, nhà gái không kèo nài gì cả, chỉ xin được một hai lượng vàng để mua sắm chút tư trang cho cô gái, Mã còn cò kè xin bớt. Kế nộp tiền sính lễ, tạ ơn bà mối và người làm hôn thư xong tính ra vừa hết ba lượng vàng, cũng không tốn thêm đồng nào. Kế chọn được ngày lành giờ tốt đón dâu, vợ vào tới nhà, Mã nhìn thì thấy bụng ỏng lung gù, cổ rụt như cổ rùa, nhìn xuống gấu quần thấy đôi hài dài cả thước mới sực nghĩ ra lời hồ nói là có lý do.
Dị Sử thị nói: Tùy theo người mình gặp mà hóa thân hiện hình, có lẽ là lời hồ nữ đặt ra để đùa cợt, nhưng lời nói về phúc trạch thì quả rất đáng tin. Ta vẫn nói không phải là tổ tiên tu hành mấy đời thì không thể làm quan to, không phải là chính mình tu hành mấy đời thì không thể cưới vợ đẹp. Kẻ nào tin thuyết nhân quả ắt không cho rằng ta nói chuyện hoang đường.
110. Thanh Mai (Thanh Mai)
Trình sinh người Bạch Hạ (thuộc huyện Giang Ninh tỉnh Giang Tô) tính không không chịu câu thúc. Một hôm từ ngoài về cởi đai áo thấy nặng như có vật gì bám vào, nhìn xuống không thấy gì nhưng vừa ngoảnh đi thì có cô gái sau áo hiện ra, vén tóc mỉm cưỡi, xinh đẹp tuyệt trần. Trình ngờ là ma, cô gái nói "Thiếp không phải là ma mà là hồ". Trình nói "Đã được giai nhân thì cho dù là ma cũng không sợ, huống chi là hồ"' bèn cùng nhau giao hoan. Hai năm sau nàng sinh được đứa con gái, đặt tên là Thanh Mai, thường nói với Trình đừng lấy vợ, ta sẽ sinh con trai cho chàng. Trình tin lời không lấy vợ, thân thích bạn bè đều đàm tiếu, Trình xiêu lòng lại lấy con gái nhà họ Vương ở Hồ Đông. Hồ nghe tin tức giận, tới cho con gái bú rồi giao cho Trình nói "Đây là món hàng phải bù tiền của nhà anh, nuôi sống hay giết chết là tùy anh, việc gì ta phải làm vú em cho người khác?", rồi ra của đi thẳng.
Thanh Mai lớn lên thông minh, dáng mạo thanh tú giống mẹ. Kế Trình bệnh chết, Vương thị tái giá gửi Thanh Mai cho người chú họ nuôi. Chú phóng đãng vô hạnh, định đem bán để kiếm lợi. Gặp lúc có Tiến sĩ họ Vương còn chờ bổ quan ở nhà, nghe tiếng nàng thông minh, liền bỏ món tiền lớn mua về sai hầu hạ con gái mình là A Hỷ. Hỷ năm ấy mười bốn tuổi, dung nhan tuyệt thế, thấy Thanh Mai thích lắm, cho ngủ chung phòng. Mai cũng khéo hầu hạ, có thể nhìn mặt biết ý chủ nên cả nhà đều thương mến. Trong huyện có Trương sinh tự Giới Thụ, nhà rất nghèo không có của cải gì, thuê nhà Vương ở, tính rất hiếu thuận, cẩn trọng chăm học. Thanh Mai tình cờ sang nhà, thấy sinh ngồi trên bậc thểm đá ăn cháo tấm, vào nhà nói chuyện với bà mẹ thì thấy trên bàn có cái giò heo. Lúc ấy cha sinh ốm, sinh vào đỡ cha đi tiểu, nước tiểu dây bẩn ra áo sinh, cha thấy lấy làm ân hận, sinh vội che vết bẩn ra ngoài tự gột rửa, chỉ sợ cha biết.
Mai thấy thế lạ lắm, về kể rồi nói với cô chủ "Người khách thuê nhà của nhà ta không phải là kẻ tầm thường, nương tử không muốn lấy người chồng xứng đáng thì thôi, còn muốn lấy được người xứng đáng thì đó chính là Trương sinh đấy". Cô gái sợ cha mẹ chê sinh nghèo, Mai nói "Không phải, việc này là ở nương tử, nếu thấy là được, thiếp sẽ nói riêng để chàng nhờ người làm mối. Phu nhân ắt sẽ gọi nương tử tới hỏi, nương tử chỉ cần vâng dạ là tốt đẹp thôi". Cô gái lại sợ nghèo hèn suốt đời sẽ bị người ta chê cười, Mai nói "Thiếp dám nói là biết xem tướng kẻ sĩ trong thiên hạ, quyết không lầm đâu". Hôm sau Mai qua nói chuyện với bà Trương, bà hoảng sợ cho lời ấy là điềm không lành. Mai nói "Tiểu thư nghe nói tới công tử cho là hiền đức, thiếp đã biết ý nên mới nói thế. Người mối tới, hai người chúng ta nói giúp chêm thì việc có thể xong, mà nếu không được thì công tử cũng có gì nhục?", bà Trương nói "Được rồi", rồi nhờ bà bán hoa họ Hầu tới nói.
Phu nhân nghe nói phì cười, kể lại với Vương, Vương cũng cười lớn, gọi con gái tới kể lại ý Hầu thị. Cô gái chưa trả lời, Thanh Mai đã ra sức tán tụng Trương sinh hiền đức, đoan chắc là sẽ quý hiển. Phu nhân lại hỏi "Đây là việc trăm năm của con, nếu ăn nổi cháo tấm thì ta sẽ gả ngay". Cô gái cúi đầu hồi lâu rồi ngoảnh mặt vào vách nói "Giàu nghèo là số, nếu số tốt thì có nghèo cũng không lâu, mà kẻ không nghèo thì không bao giờ tới bước đường cùng. Còn nếu số không tốt thì những bậc vương tôn gấm vóc trở thành không tấc đất cắm dùi có ít đâu? Việc này xin tùy cha mẹ". Bản ý Vương bàn với con gái là cũng định tìm một trận cười, khi nghe nàng nói thế thì không vui, nói "Ngươi muốn lấy họ Trương sao?"' Cô gái không đáp, hỏi lần nữa vẫn không đáp, Trương tức giận nói "Quân này cốt cách bần tiện không khá được, lại muốn xách bị làm vợ thằng ăn mày, sao không biết nhục mà chết đi cho rồi!". Cô gái đỏ mặt uất ức, rưng rưng nước mắt bước ra, bà mối cũng lủi trốn. Thanh Mai thấy việc không xong, muốn tự làm mối cho mình.
Mấy hôm sau đang đêm qua nhà sinh. Sinh đang đọc sách, giật mình hỏi tới làm gì, thấy nàng ăn nói úp mở liền nghiêm nét mặt từ khước. Mai khóc nói "Thiếp là con nhà tử tế chứ không phải kẻ dâm bôn, thấy chàng hiền đức nên xin theo nương tựa". Sinh nói "Nàng yêu mà bảo ta là người hiền đức, nhưng đang đêm qua lại thì kẻ tự trọng cũng không làm, huống hồ là người hiền đức ư? Phàm trước tư thông mà sau nên vợ chồng, người quân tử còn cho là không được, huống chi nếu không thể nên vợ chồng thì hai bên sẽ tự đặt mình vào đâu?"' Mai hỏi "Vậy nếu vạn nhất mà nên được vợ chồng thì có chịu cưu mang cho nhau không?". Sinh đáp "Được người như nàng thì còn mong gì hơn, nhưng có ba điều không thể làm sao được nên không dám khinh suất nhận lời". Mai hỏi "Ba điều gì?", sinh đáp "Nàng không thể tự chủ thì không thể làm sao được, nếu nàng có thể tự chủ mà cha mẹ ta không bằng lòng thì không thể làm sao được, nếu cha mẹ ta bằng lòng mà thân nàng cao giá, ta nghèo không lo nổi thì càng không biết làm sao được. Thôi nàng về ngay đi, chuyện giàn bầu ruộng dưa* đáng sợ lắm". Mai sắp đi lại dặn "Nếu chàng có lòng, xin cùng lo toan", sinh nhận lời.
* Chuyện giàn bầu ruộng dưa: nguyên văn là "qua lý chi hiềm", lấy ý câu "Qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quan" (Đi ngang ruộng dưa thì đừng xỏ giày, đi ngang giàn bầu thì đừng sửa mũ), thì việc người quân tử thận trọng để tránh bị hiềm nghi.
Mai về, cô gái hỏi đi đâu, bèn quỳ mà tự thú. Cô gái giận là dâm bôn toan đánh đòn, Mai khóc nói không có làm chuyện gì khác nhân kể thật mọi chuyện. Cô gái than "Không đi lại cẩu thả là có lễ phải thưa với cha mẹ là có hiếu, không khinh suất nhận lời là có tín. Có ba đức ấy ắt trời sẽ giúp, không lo gì nghèo đâu". Kế hỏi "Em định thế nào?"' Mai thưa "Làm vợ chàng". Cô gái cười nói "Con nhãi ngây có thể tự chủ sao?". Mai nói "Không được thì chỉ còn chết thôi". Cô gái nói "Ta sẽ làm cho ngươi được như nguyện", Mai dập đầu lạy tạ.
Lại qua vài hôm, Mai nói với cô gái "Hôm trước là nói đùa hay quả có lòng từ bi thật? Nếu quả thế thì còn chút việc mọn xin rủ lòng thương cho trọn". Cô gái hỏi việc gì, Mai đáp "Trương sinh không có nhiều tiền cưới vợ mà tiểu tỳ cũng không có sức tự chuộc mình, nếu đòi nhiều tiền thì có chịu gả thiếp cũng như không gả mà thôi". Cô gái ngẫm nghĩ rồi nói "Việc này thì ta không làm được rồi. Ta nói gả chồng cho ngươi sợ còn chưa được, huống hồ còn nói không đòi tiền chuộc, điều ấy thì đại nhân ắt không nghe, mà ta cũng không dám nói kia". Thanh Mai nghe thế nước mắt ròng ròng, chỉ xin thương xót cứu vớt. Cô gái nghĩ hồi lâu rồi nói "Thôi vậy, ta có để dành riêng được vài lượng vàng, sẽ dốc túi ra giúp".
Mai lạy tạ, nhân lén qua nói với Trương. Mẹ Trương cả mừng tìm đủ cách vay mượn được đủ số cất đó chờ tin mừng. Vừa gặp lúc Vương được bổ làm Huyện lệnh Khúc ốc (tỉnh Sơn Tây), Hỷ nhân dịp nói với mẹ "Thanh Mai đã lớn, nay cha sắp phó nhiệm, chẳng bằng cho nó ra". Phu nhân vốn thấy Thanh Mai khôn ngoan quá, sợ lại rủ rê con gái làm chuyện không hay, thường muốn gả đi mà sợ nàng không bằng lòng, nghe nàng nói thế mừng lắm. Qua hai ngày có người đàn bà làm thuê lên thưa lại ý của họ Trương, Vương cười nói "Nhà ấy chỉ xứng với tỳ nữ nhà ta thôi, lần trước sao càn rỡ thế. Nhưng mua tỳ thiếp nhà quan thì phải trả giá gấp đôi". Cô gái vội bước lên nói "Thanh Mai hầu hạ con đã lâu, nếu đem bán làm thiếp thì thật không nỡ". Vương bèn nhắn nhà họ Trương mang đủ số tiền mua ngày trước qua làm giấy tờ rồi gả Thanh Mai cho sinh.
Về tới nhà chồng, nàng hầu hạ cha mẹ chồng rất hiếu thảo, ân cần chăm sóc còn hơn cả sinh, mà làm lụng lại siêng năng, ăn uống cực khổ vẫn vui vẻ, vì thế cả nhà ai cũng yêu kính Thanh Mai. Mai lại làm thêm việc thêu thùa, hàng bán rất chạy, người mua cứ tới chờ ở cửa chỉ sợ không mua được, có thêm ít tiền nên nhà cũng đỡ túng thiếu. Lại thường khuyên chồng đừng lo việc nhà mà bỏ lỡ việc học, mọi chuyện trong nhà tự xin cáng đáng cả. Nhân chủ cũ lên đường phó nhiệm, nàng qua tiễn A Hỷ. Hỷ thấy nàng khóc nói "Em có nơi có chốn rồi, chứ ta thì không biết sẽ ra sao". Mai đáp "Được thế này là nhờ ai mà dám quên, nhưng xin đừng nói là không bằng tiểu tỳ làm tiểu tỳ giảm thọ", rồi khóc mà chia tay nhau.
Vương tới đất Tấn nửa năm thì phu nhân chết, quan tài quàn ở trong chùa. Lại hai năm sau Vương vì tham tang bị cách chức, phải bồi thường hàng vạn, dần dần nghèo túng không đủ ăn, đầy tớ đều bỏ trốn. Lúc ấy có trận dịch lớn, Vương mắc bệnh rồi chết, chỉ còn một bà già ở với cô gái, không bao lâu bà già cũng chết, cô gái càng lênh đênh khổ cực. Có bà già láng giềng khuyên đi lấy chồng, nàng nói "Ai chôn cất được cha mẹ sẽ xin theo về. Bà già thương xót cho đấu gạo rồi về, nửa tháng sau lại qua nói "Ta đã hết sức giúp nương tử nhưng việc này khó quá! Người nghèo thì không thể chôn cất cha mẹ cô, kẻ giàu thì chê cô là hậu duệ của gia dình sa sút, biết làm thế nào? Còn có một cách nhưng sợ nương tử không theo được thôi". Nàng hỏi "Cách gì?"' bà đáp "Ở đây có Lý lang muốn lấy vợ lẽ, nếu nhìn thấy dung nhan nương tử thì dù đòi tống táng cha mẹ thật linh đình ắt cũng không tiếc tiền".
Nàng khóc òa nói "Thiếp là con quan mà phải đi làm lẽ người ta sao?", bà già im lặng bỏ đi. Kế mỗi ngày nàng chỉ có một bữa cơm, cố sống để chờ người hỏi cưới nhưng được nửa năm thì không sao chi trì được nữa. Một hôm bà già tới, nàng khóc nói "Khốn đốn thế này chỉ muốn tự tử, sở dĩ còn chần chừ sống tạm chỉ vì quan tài cha mẹ còn đó, mình đã phơi xác nơi ngòi rãnh thì ai thu nhặt nắm xương song thân, nên nghĩ lại chăng bằng nghe theo lời bà". Bà già bèn dẫn Lý tới, vừa thoạt thấy nàng đã rất ưa thích, tức thì bỏ tiền ra lo việc tống táng, hai chiếc quan tài hạ huyệt xong thì đón cô gái về. Vào chào vợ cả, vợ cả vốn dữ tợn hay ghen, lúc đầu Lý chưa dám nói là thiếp, chỉ nói thác là tỳ nữ mới mua. Đến khi gặp nàng vợ Lý đùng đùng nổi giận, đánh đập đuổi ra không cho vào nhà. Cô gái tóc tai rũ rượi, nước mắt giàn giụa, không còn nơi lui tới. Có ni cô già đi ngang thấy thế mời về ở cùng, nàng mừng rỡ theo về.
Vào tới trong am, nàng lạy xin xuống tóc cho, ni cô không cho, nói "Ta thấy nương tử không phải là kẻ chịu kiếp phong trần, trong am chén sành gạo xấu cũng tạm đủ sống, cứ tạm ở lại chờ thời, đến thời cô sẽ tự đi mà". Không bao lâu, bọn vô lại trong chợ thấy nàng đẹp, cứ tới đập cửa buông lời cợt nhã làm vui, ni cô không ngăn cấm được, nàng gào khóc định tự tử. Ni cô tới xin ông Mỗ ở bộ Lại ra yết thị nghiêm cấm đám thiếu niên vô lại mới hơi nín tiếng. Sau đang đêm có kẻ khoét tường nhà chùa, ni cô hô hoán mới bỏ đi, vì thế lại báo lên quan bộ Lại, bắt được tên cầm đầu đưa tới quận phạt roi mới dần dần được yên. Lại được hơn năm, có vị công tử nhà quyền quý đi qua am, thấy cô gái vô cùng kinh ngạc, ép ni cô dỗ dành nàng, lại đưa nhiều tiền đến đút lót. Ni cô tìm lời dịu ngọt nói "Nàng ta là con nhà trâm anh, không chịu làm lẽ, công tử cứ về, để thong thả chắc chắn ta sẽ làm được theo lệnh". Lúc công tử đi rồi, cô gái toan uống thuốc độc tự tử, đêm nằm mơ thấy cha tới, buồn thảm nói "Ta không theo ý con khiến con phải tới nông nỗi này, ăn năn đã muộn nhưng con đừng vội chết, ước nguyện cũ vẫn có thể thành mà", nàng lấy làm lạ.
Sáng ra rửa mặt xong, ni cô nhìn thấy giật mình nói "Nhìn mặt em trọc khí đã tiêu hết, bọn càn rỡ không đáng lo nữa. Phúc sẽ tới, đừng quên già này đấy", chưa dứt lời thì nghe tiếng gõ cửa, cô gái thất sắc nghĩ ắt là đầy tớ nhà công tử, ni cô ra mở cửa quả đúng. Bọn chúng xúm vào hỏi tính việc thế nào, ni cô ngọt ngào giả lả xin hoãn ba ngày nữa. Chúng nhắn lại lời chủ "Nếu việc không xong thì mụ vãi liệu hồn", ni cô líu ríu vâng dạ, chúng bèn bỏ đi. Cô gái vô cùng đau xót, lại muốn tự tử, ni cô ngăn lại. Nàng lo ba ngày nữa chúng trở lại không biết trả lời thế nào, ni cô nói "Có lão thân ở đây, chém giết gì cứ để ta chịu cho".
Hôm sau vừa đến buổi trưa thì mưa như trút nước, chợt nghe có mấy người đập cửa réo gọi ầm ĩ, cô gái nghĩ rằng lại có chuyện, khiếp sợ không biết làm sao. Ni cô đội mưa ra mở cổng, thấy có chiếc kiệu thơm dừng lại, mấy người tỳ nữ đỡ một người đẹp bước ra, đám tùy tùng đều oai vệ, mũ lọng rất lộng lẫy. Ni cô ngạc nhiên hỏi thì họ đáp là gia quyến quan Tư lý tạm vào tránh mưa, bèn đưa vào trong điện dời sập mời ngồi. Bọn tỳ nữ tớ gái túa vào thiền phòng tìm chỗ nghỉ, vào trong thấy cô gái đẹp quá liền chạy ra bẩm với phu nhân. Không bao lâu tạnh mưa, phu nhân đứng lên xin đi xem thiền phòng, ni cô liền đưa vào. Phu nhân nhìn thấy cô gái giật nảy mình nhìn không chớp mắt, nàng cũng nhìn lại hồi lâu, thì ra phu nhân không phải ai khác mà chính là Thanh Mai.
Hai người đều khóc lớn, nhân mới cùng kể lại chuyện đã qua, mới biết Trương ông đã ốm chết, Trương sinh mãn tang xong, liên tiếp đỗ thi hương rồi thi hội, được bổ làm Tư lý, đưa mẹ tới nơi phó nhiệm trước còn gia quyến đi sau. Cô gái than "Hôm nay nhìn nhau sao thấy như một trời một vực?". Mai cười đáp "May là nương tử gặp bước gian truân chưa lấy chồng, chính vì trời muốn cho chúng ta sum họp đấy thôi. Nếu không bị mưa cản trở thì làm sao có cuộc gặp gỡ này được, bên trong là có quỷ thần chứ không phải sức người làm được đâu". Bèn lấy mũ ngọc áo gấm ra giục cô gái thay, nàng cúi đầu ngần ngừ, ni cô cũng khuyên nhủ. Cô gái lo cùng ở chung thì danh không được thuận, Mai nói "Danh phận đã có từ trước, tiểu tỳ đâu đám quên ơn lớn, vả lại cứ nghĩ xem Trương lang có phải là kẻ phụ nghĩa đâu?", rồi ép nàng thay quần áo, từ biệt ni cô ra đi.
Tới nơi, mẹ con Trương đều mừng rỡ, cô gái lạy nói "Ngày nay không mặt mũi nào nhìn mẹ!". Mẹ cười an ủi, nhân bàn chọn ngày làm lễ hợp cẩn. Cô gái nói "Nếu trong am chỉ còn một đường sống bằng sợi tơ thì cũng không chịu theo phu nhân tới đây đâu, nếu còn nghĩ đến tình cũ, thì xin cất cho một túp lều để đặt tấm bồ đoàn ngồi niệm phật là đủ. Mai cười không nói gì, đến ngày ôm các thứ trang sức lộng lẫy đến, cô gái hai bề không biết tính sao. Giây lát nghe tiếng đàn sáo rộn rã, nàng càng không tự chủ được Mai sai đám tỳ nữ ép nàng mặc áo rồi kéo dìu ra. Thấy sinh mặc triều phục vái lạy, nàng bất giác cũng vái theo. Mai kéo nàng vào động phòng, nói "Để trống chỗ này chờ chị lâu rồi", kế ngoảnh nhìn sinh nói "Đêm nay được dịp đền ơn phải làm cho tốt đấy", rồi quay người bước ra.
Cô gái nắm ống quần kéo lại, Mai cười nói "Đừng giữ thiếp lại, chuyện này thì không làm thay nhau được đâu", rồi gỡ ngón tay cô gái ra bỏ đi. Thanh Mai thờ phụng cô gái rất kính cẩn, không dám giành riêng phần ân ái, mà nàng vẫn thẹn thùng áy náy. Vì vậy mẹ bảo cùng gọi nhau là phu nhân, nhưng Thanh Mai vẫn giữ lễ tỳ thiếp, không dám bê trễ. Ba năm sau Trương được triệu về kinh, qua am ni cô, đem năm trăm lượng vàng để tạ ơn ni cô không nhận, cố ép mới nhận hai trăm lượng, dựng đền Đại sĩ* lập bia cho Vương phu nhân. Sau Trương làm quan tới chức Thị lang, Trình phu nhân sinh được hai trai một gái, Vương phu nhân sinh được bốn trai một gái. Trương dâng thư trần tình, hai người đều được phong là Phu nhân.
*Đại sĩ: tức Quan âm Đại sĩ, một danh hiệu khác của Quan Thế âm Bồ tát.
Dị Sử thị nói: Trời sinh người đẹp là để đền đáp cho những kẻ tài giỏi, nhưng những bậc vương công trên đời lại đem tặng cho đám con em nhà giàu sang khiến cho tạo vật có chuyện tranh giành. Nhưng lại ly ly kỳ kỳ, làm đủ cách để tác hợp cho người, hóa công cũng khổ làm sao! Chỉ có Thanh phu nhân riêng biết kẻ anh hùng lúc còn hàn vi, quyết tâm theo bằng được, đến chết mới thôi. Những kẻ nghiễm nhiên đội mão mặc áo lại bỏ đức hạnh mà mong sang giàu, sao mà thua trí một người tỳ nữ tới mức như vậy.
111. Điền Thất Lang (Điền Thất Lang)
Vũ Thừa Hưu người huyện Liêu Dương (tỉnh Liêu Ninh), tính thích giao du, bạn bè đều là kẻ sĩ có danh tiếng. Đêm mơ thấy một người nói "Anh kết giao khắp trong nước nhưng đều là bạn thừa, chỉ có một người có thể cùng chia hoạn nạn thì lại không biết". Hỏi đó là ai, người ấy đáp "Điền Thất Lang chứ ai", Vũ tỉnh dậy lấy làm lạ. Sáng ra gặp bạn bè nào cũng hỏi thăm Thất Lang là ai, khách có người biết đó là người thợ săn ở thôn Đông. Vũ kính cẩn tới yết kiến, cầm roi ngựa gõ cửa. Không bao lâu có một người bước ra, thấy khoảng hơn hai mươi tuổi lưng ong mắt báo, đội khăn mềm, vận áo ngắn quần cụt vá nhiều chỗ, chắp tay ngang trán hỏi khách ở đâu tới. Vũ xưng tên họ, nói thác là đi đường mệt mỏi muốn vào nghỉ nhờ. Hỏi Thất Lang, người ấy đáp "Chính là ta đây" rồi mời khách vào nhà. Thấy có mấy gian nhà nát, vách chống bằng cây, vào một phòng nhỏ thấy trên cột treo đầy da cọp da sói mà không có giường ghế gì để ngồi, Thất Lang trải một tấm da cọp dưới đất.
Vũ cùng Thất Lang trò chuyện, thấy lời lẽ thật thà rất thích, liền tặng tiền để làm ăn. Thất Lang không nhận, Vũ cố ép, Thất Lang bèn cầm vào nhà trong thưa lại với mẹ, giây lát trở ra đưa trả không lấy. Vũ ép đôi ba lần, bà mẹ lọm khọm bước ra, nghiêm sắc mặt nói "Già này chỉ có đứa con đó, không muốn sai nó thờ người sang". Vũ thẹn ra về, dọc đường ngẫm nghĩ không hiểu ý bà thế nào, có kẻ tùy tùng lúc nãy đứng sau nhà nghe được lời bà mẹ bèn kể lại cho Vũ. Vốn là khi Thất Lang cầm tiền vào thưa, bà mẹ nói "Ta vừa thấy mặt công tử có sắc mờ tối, ắt sẽ gặp họa lớn. Thường nghe Được người biết thì phải chia sẻ điều lo âu, được người giúp thì phải báo đáp lúc hoạn nạn, kẻ giàu lấy tiền báo đáp, người nghèo lấy nghĩa báo đáp. Nay vô cớ mà được cho nhiều tiền là điềm không lành, e người ta muốn con đem cái chết báo đáp đấy".
Vũ nghe thế rất phục bà mẹ giỏi, nhưng càng dốc lòng hâm mộ Thất Lang. Hôm sau làm tiệc mời nhưng Thất Lang từ chối không tới, Vũ bèn tới nhà đòi uống rượu, Thất Lang tự đi mua rượu, đem khô nai ra đãi khách hết sức niềm nở. Qua hôm sau nữa Vũ mời, Thất Lang mới tới, cùng uống rượu trò chuyện rất vui vẻ nhưng tặng tiền bạc thì không nhận, Vũ nói thác là mua da cọp mới nhận. Thất Lang về nhà xem lại số da cọp để dành thì không đủ so với số tiền, tự nghĩ phải đi săn nữa mới đủ giao nộp. Vào núi liền ba ngày không săn được gì. Gặp lúc vợ bệnh phải ở nhà lo thuốc thang không rảnh đi săn được, qua mười ngày vợ chết phải lo chôn cất, số tiền nhận được đem tiêu gần hết. Vũ tới điếu tang, phúng viếng rất hậu. Chôn cất vợ xong, Thất Lang lại mang nỏ vào núi, càng nóng lòng trả nợ Vũ, nhưng rốt lại vẫn không săn được gì.
Vũ nghe biết chuyện, khuyên đừng gấp, mong Thất Lang tới chơi một lần nhưng Thất Lang vẫn băn khoăn về nỗi còn thiếu nợ nên không chịu tới. Vũ đòi giao số da đã có để Thất Lang tới, Thất Lang kiểm lại những bộ da cũ thấy mối mọt làm hư, lông rụng mất sạch, càng thêm buồn bã. Vũ biết vội tới nhà, hết lời an ủi rồi vào xem những tấm da hư, nói "Thế này lại hay, ý ta là không cần những da có lông". Rồi gỡ xuống đem ra, mời Thất Lang cùng về nhà chơi, Thất Lang không chịu đi, Vũ đành về một mình. Thất Lang vẫn nghĩ ngợi về việc còn thiếu tiền Vũ, lại mang lương khô vào núi, qua vài đêm bắn được một con cọp, mang cả về đưa cho Vũ. Vũ mừng bày tiệc khoản đãi, mời ở lại chơi ba hôm. Thất Lang nhất quyết từ chối, Vũ sai khóa chặt cổng không cho về.
Tân khách thấy Thất Lang quê mùa chất phác, thầm cho rằng công tử chọn bạn sai, nhưng Vũ lo toan cho Thất Lang hơn tất cả khách khứa khác. Vũ mang áo mới cho thay, Thất Lang chối từ không nhận, bèn nhân lúc Thất Lang ngủ lén đánh đổi, Thất Lang bất đắc dĩ phải mặc áo mới. Sau về nhà lại vâng lời mẹ đem trả áo mới đòi áo cũ, Vũ cười nói "Về thưa giùm với lão mẫu rằng đã cắt áo cũ ra may lót giày rồi". Từ đó Thất Lang thường sai mang thịt thỏ thịt hươu tới biếu, nhưng Vũ mời thì không tới nữa. Một hôm Vũ tới nhà Thất Lang, gặp lúc Thất Lang đi săn chưa về bà mẹ ra đứng dựa cửa nói "Từ nay xin đừng rủ rê con ta nữa, cho khỏi mất lòng". Vũ lễ phép chào, ngượng ngùng ra về.
Nửa năm sau, chợt gia nhân vào báo "Thất Lang vì tranh giành con beo săn được mà đánh chết người, hiện đã bắt giải lên quan rồi". Vũ cả kinh, lập tức tới thăm thì Thất Lang đã bị đóng gông hạ ngục, gặp Vũ không nói gì, chỉ dặn "Từ nay phiền ông săn sóc giùm mẹ già". Vũ đau xót trở ra, vội đem nhiều tiền đút lót quan huyện, lại đem trăm lượng vàng nhét cho gia đình người bị giết. Hơn tháng họ không kiện cáo, quan bèn tha Thất Lang về, Bà mẹ cảm khái nói "Mạng sống của con nay là nhờ Vũ công tử mà có, không phải là già này được thương tiếc nữa. Chỉ cầu mong công tử suốt đời không gặp tai họa, thì đó là cái phúc của con". Thất Lang muốn tới tạ ơn Vũ, bà nói "Con tới thì tới, nhưng gặp công tử đừng có tạ ơn, ơn nhỏ còn tạ được chứ ơn lớn không tạ được đâu".
Thất Lang tới nhà Vũ, Vũ dịu ngọt an ủi. Thất Lang chỉ dạ dạ, người nhà có kẻ lấy làm quái lạ vì hời hợt, nhưng Vũ mừng là thật thà, đối xử càng tử tế hơn. Từ đó thường tới chơi nhà công tử hàng hai ba ngày, tặng cho vật gì cũng nhận, không chối từ mà cũng không tặng gì đáp lễ. Gặp ngày sinh nhật của Vũ, khách khứa và bọn tùy tùng đông đúc, tối ngủ lại chật nhà, Vũ tới ngủ chung với Thất Lang trong một phòng nhỏ, ba người đầy tớ trải rơm nằm dưới giường. Qua canh hai chúng đều ngủ say, hai người vẫn nhỏ to trò chuyện.
Thanh bội đao của Thất Lang treo trên vách bỗng tự vọt lên, tuốt ra khỏi vỏ đến mấy tấc, loảng xoảng thành tiếng, lóe sáng như chớp. Vũ giật mình, Thất Lang cũng vùng dậy hỏi ba người nằm dưới giường là những ai, Vũ đáp đều là tôi tớ. Thất Lang nói "Trong bọn này ắt có kẻ ác". Vũ hỏi sao biết, Thất Lang đáp,Thanh đao này mua ở nước ngoài, giết người chưa từng dính máu, dòng họ ta đeo đã ba đời, chặt đầu người có tới hàng ngàn mà vẫn sắc bén như mới mài, gặp kẻ ác thì khua vang tuốt ra, chắc sắp phải giết người rồi. Xin công tử nên thân người quân tử, xa kẻ tiểu nhân thì may ra tránh khỏi tai họa.
Vũ gật đầu, Thất Lang vẫn không vui, trằn trọc mãi trên giường. Vũ nói "Lành dữ có số, sao lại lo lắng quá thế?". Thất Lang đáp "Ta chẳng sợ gì nguy hiểm, chỉ vì còn có mẹ già thôi". Vũ nói "Làm gì mà tai họa tới mau thế được?", Thất Lang đáp "Không tới thì càng hay". Đại khái ba người đầy tớ ngủ dưới giường, một là Lâm Nhi, Vũ rất vừa ý, một là đứa tiểu đồng khoảng mười hai mười ba tuổi, Vũ thường sai phái này nọ, một là Lý ứng tính rất bướng bỉnh, thường vì chuyện nhỏ cãi lại công tử, Vũ đã nhiều lần nổi giận. Đêm ấy Vũ nghĩ thầm chuyện này chắc có dính líu tới nó nên sáng ra gọi tới nói khéo rồi bảo nó đi.
Con trưởng của Vũ là Thân, lấy Vương thị làm vợ. Một hôm công tử đi vắng, sai Lâm Nhi coi phòng sách, trong phòng có cây cúc đang trổ hoa. Vợ Thân nghĩ cha chồng đi vắng, phòng sách chắc vắng vẻ bèn một mình tới hái hoa cúc. Lâm Nhi chợt xông ra níu kéo trêu ghẹo, nàng toan bỏ chạy thì Lâm Nhi bế xốc vào phòng. Nàng kêu gào chống cự xám mặt khản tiếng, Thân chạy vào Lâm Nhi mới buông nàng ra bỏ trốn. Vũ về nghe chuyện, nổi giận tìm Lâm Nhi nhưng không rõ đã trốn đi đâu, qua hai ba hôm mới rõ nó tới xin làm tôi tớ trong nhà quan Ngự sử Mỗ. Mỗ làm quan ở kinh, việc nhà đều giao cho người em, Vũ lấy tình thân gởi thư đòi trả Lâm Nhi, em Mỗ cứ để đó không trả.
Vũ càng tức, thưa lên quan huyện, quan tuy có trát bắt mà lính không bắt, quan cũng không hỏi. Vũ đang tức giận thì gặp lúc Thất Lang tới, Vũ nói "Lời ông nói đã nghiệm rồi". Nhân kể lại mọi chuyện, Thất Lang nghe xong sắc mặt tái xanh không nói câu nào, bỏ về ngay. Vũ sai bọn gia nhân đắc lực theo dõi Lâm Nhi, tối đến Lâm Nhi ra đường bị bọn kia bắt được trói lại mang về nộp Vũ. Vũ lấy gậy đánh, Lâm Nhi gào thét chửi mắng rất hỗn láo. Chú Vũ tên Hằng vốn là bậc trưởng giả sợ cháu nóng giận gây họa, khuyên đưa Lâm Nhi lên để quan trị tội. Vũ nghe theo, giải Lâm Nhi lên công đường, nhưng nhà Ngự sử gởi thư tới quan huyện bèn thả Lâm Nhi ra, cho muốn theo ai tùy ý.
Lâm Nhi càng rông càn, trước chỗ đông người bịa đặt nói vung lên rằng Vũ tư thông với con dâu, Vũ không nhịn được, phẫn uất muốn chết. Hôm sau Vũ tới cổng nhà Ngự sử kêu gào chửi rủa, người chung quanh khuyên giải bảo về. Qua một đêm, chợt gia nhân vào bẩm Lâm Nhi bị người ta giết chết lóc thịt ném xác ngoài đồng trống, Vũ ngạc nhiên mừng rỡ, mới hơi hả dạ. Kế nghe nhà Ngự sử kiện hai chú cháu, Vũ bèn đưa chú tới đối chất, quan huyện không nói năng gì, sai đánh Hằng, Vũ lớn tiếng nói "Đã vu cho tội giết người, lại làm nhục bậc thân sĩ à? Chuyện này cứ hỏi ta, đừng kéo chú ta vào". Quan huyện không thèm nghe, Vũ trợn mắt toan sấn lên, đám nha lại đánh đập ngăn lại. Bọn đánh Hằng đều là chó săn của nhà quan, Hằng lại già yếu, chịu chưa đủ nửa số roi phạt đã tắt hơi chết rồi, quan huyện thấy chú Vũ đã chết cũng không xét xử nữa. Vũ gào thét chửi mắng, quan huyện làm ngơ như không nghe thấy gì đành khiêng xác chú về, căm hờn đau xót không biết làm sao.
Nghĩ muốn bàn với Thất Lang, nhưng không thấy Thất Lang tới điếu tang, tự nghĩ mình đối xử với Thất Lang không tệ, sao lại làm ngơ như kẻ qua đường? Cũng ngờ rằng kẻ giết Lâm Nhi là Thất Lang, nhưng lại nghĩ thế sao không bàn với mình? Bèn sai người tới nhà Thất Lang thăm dò nhưng thấy cửa đóng im ỉm, láng giềng đều không rõ đi đâu. Một hôm em Mỗ đang ngồi trong dinh trò chuyện với quan huyện, gặp ngày nộp củi đuốc, chợt một người tiều phu tới trước mặt, ném gánh củi xuống rút đao sắc sấn vào chém. Em Mỗ hoảng sợ giơ tay lên đỡ, lưỡi đao lướt qua cánh tay rơi xuống, lại thêm nhát nữa rơi đầu. Quan huyện cả sợ bỏ chạy, tiều phu còn nhìn quanh thì dám nha lại vội đóng cổng, cầm gậy gộc la lớn xúm lại, tiều phu liền tự đâm cổ chết. Mọi người nhao nhao xúm lại nhận mặt, biết đó là Điền Thất Lang. Quan huyện hoàn hồn mới trở ra xem xét, thấy Thất Lang nằm cứng đờ giữa vũng máu, tay còn cầm đao. Vừa tới gần nhìn kỹ, xác chết chợt vùng dậy chém bay đầu quan huyện rồi lại ngã xuống. Lính huyện tới bắt bà mẹ Thất Lang thì bà đã bỏ trốn từ mấy hôm trước.
Vũ nghe Thất Lang chết, chạy tới khóc lóc rất đau thương, có người nói là chính Vũ sai Thất Lang làm thế, Vũ bán hết điền sản lo lót mới được vô sự. Xác Thất Lang bị vứt ra đồng trống hơn ba chục ngày, chim muông thay nhau canh giữ, Vũ thu nhặt về tống táng rất hậu. Con trai Thất Lang tới lưu ngụ ở phủ Đăng Châu (tỉnh Sơn Đông) đổi họ là Đồng, lớn lên đi lính, nhờ quân công làm tới chức Đồng tri tướng quân, khi trở về Liêu Dương thì Vũ đã hơn tám mươi tuổi, chỉ cho biết mồ cha.
Dị Sử thị nói: Không khinh suất nhận một đồng tiền, thì đúng là không quên báo ơn một bữa cơm, người mẹ Thất Lang mới hiền làm sao! Còn như Thất Lang chưa phát tiết nỗi hận nhưng chết rồi vẫn trút hờn được, sao mà thiêng như thế. Nếu Kinh Kha* làm được như vậy, thì ngàn năm đâu còn mối hận không đâm được vua Tần. Nếu có được người như thế thì có thể vá những chỗ lưới trời bị lọt**. Thế đạo mênh mang, hận là những kẻ như Thất Lang quá ít, thật đau lòng thay!
*Kinh Kha: kiếm khách nổi tiếng thời Chiến quốc, nhận lệnh Thái tử Đan nước Yên vào đất Tần ám sát Tần Thủy Hoàng nhưng không thành công.
**Vá những chỗ lưới trời bị lọt: lấy ý từ câu "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu" (Lưới trời giăng giăng, thưa mà không lọt), ý nói những kẻ làm điều ác trước sau cũng bị trừng trị. Vá những chỗ lưới trời bị lọt đây ý nói có những kẻ làm ác không bị trừng trị nên phải có những người như Điền Thất Lang để thi hành đạo trời.
112. Chợ Biển La Sát (La Sát Hải Thị)
Mã Tuấn tự Long Môi là con nhà buôn bán, dung mạo đẹp đẽ. Lúc trẻ phóng túng, giỏi ca múa, thường đi theo phường hát, lấy khăn gấm bịt đầu trông xinh xắn như con gái, nhân đó có hiệu là Tuấn Nhân. Năm mười bốn tuổi vào học trường huyện, lập tức có tiếng là học giỏi. Cha già yếu thôi buôn bán về nghỉ ở nhà, bảo sinh rằng "Mấy quyển sách kia đói không thể nấu, rét không thể mặc, con cứ nối nghiệp cha mà đi buôn thôi". Từ đó Mã đi buôn, theo người ta ra buôn ngoài biển, bị bão trôi dạt mấy ngày đêm tới một nơi đô hội. Người ở đó xấu xí lạ lùng, thấy Mã cho là yêu quái, kêu la bỏ chạy. Ban đầu Mã thấy họ xấu xí sợ lắm, đến khi biết người xứ ấy sợ mình lại lấy đó lừa họ, thấy ai đang ăn uống thì chạy xộc tới, người ta sợ chạy thì ăn những thức họ bỏ lại. Lâu ngày vào tới xóm núi, thấy ở đó cũng có kẻ dung mạo giống người nhưng áo quần rách rưới như ăn mày. Mã ngồi nghỉ dưới gốc cây, người làng không dám tới gần, chỉ đứng xa nhìn, hồi lâu thấy Mã không phải là kẻ ăn thịt người mới mon men tới. Mã cười trò chuyện với họ, tuy khác tiếng nhưng cũng hiểu được nửa phần, Mã nói rõ vì sao mình lạc tới đây Người làng mừng rỡ loan báo khắp làng xóm rằng khách không phải là kẻ bắt người ăn thịt, nhưng những kẻ xấu xí chỉ đứng xa nhìn rồi bỏ đi, không dám tới gần.
Những kẻ tới gần thì chỗ mũi miệng cũng giống người Trung Quốc, cùng bày rượu mời Mã. Mã hỏi vì sao lại sợ mình, họ đáp "Thường nghe ông bà nói rằng cách đây hai vạn sáu ngàn dặm về phía tây có nước Trung Quốc, dân ở đó mặt mũi kỳ quái nhưng chỉ nghe đồn, nay mới tin là đúng". Hỏi sao nghèo thế, họ đáp "Điều nước bọn ta quý chuộng không phải văn chương mà là tướng mạo. Những người đẹp nhất làm thượng khanh, kế làm chức dân xã, hạng dưới chót cũng được quý nhân thương yêu nên có lương bổng nuôi vợ con. Còn loại bọn ta lúc mới chào đời thì cha mẹ đều cho là điềm xấu vứt đi không nuôi, những nhà không nỡ bỏ là vì nối dõi tông môn thôi. Mã hỏi nước này tên gì, họ đáp "Đây là nước Đại La Sát, kinh đô cách đây ba mươi dặm về phía Bắc". Mã xin dẫn tới xem một phen, rồi đó gà gáy thức dậy cùng đi.
Trời sáng tới kinh, thấy kinh thành xây bằng đá đen như mực, lầu gác cao gần trăm thước nhưng ít lợp ngói mà lấy đá đỏ úp phía trên, dùng đá vụn trít các khe hở trông không khác gì đan sa. Gặp lúc bãi chầu, các quan đội mão che lọng trong triều ra, người làng chỉ mà nói "Kia là quan Tướng quốc". Mã nhìn thấy ông ta hai tai quặt ra phía sau, mũi có ba lỗ, lông mày che kín mắt như tấm rèm. Lại có mấy người cưỡi ngựa ra, người kia nói "Kia là quan Đại phu", lần lượt theo thứ tự nói rõ quan chức của từng người, Mã thấy dung mạo đều ghê rợn kỳ quái, nhưng quan chức càng thấp thì diện mạo càng bớt xấu xí. Lát sau Mã về, người trên đường phố trông thấy đều bỏ cbạy tán loạn, xô nhau ngã dúi dụi như gặp quái vật. Người cùng đi ra sức phân trần, người trong chợ mới dám đứng xa xa mà nhìn.
Mã về rồi, người trong nước lớn nhỏ đều biết xóm núi có quái nhân, các nhà quyền quý tranh nhau muốn mở rộng kiến văn bèn sai người trong thôn mời Mã. Nhưng Mã tới nhà nào thì người giữ cổng cũng đóng chặt cửa, đàn ông đàn bà lén nhìn qua khe cửa thì thào bàn tán, cả ngày không có một ai dám ra mặt đón tiếp. Người làng nói "Ở đây có quan Chấp kích lang từng phụng mệnh tiên vương đi sứ ngoại quốc, là người từng trải lịch duyệt, may ra không sợ anh chăng?". Bèn tới nhà quan Chấp kích, quả nhiên ông vui mừng tiếp đón Mã như thượng khách.
Mã thấy diện mạo ông như người tám chín mươi tuổi, hai mắt lồi ra, râu ria tua tủa như lông nhím. Ông nói "Ta lúc trẻ từng phụng mệnh vua đi sứ ngoại quốc rất nhiều, chỉ chưa tới Trung Hoa. Nay đã hơn một trăm hai mươi tuổi lại được nhìn thấy nhân vật thượng quốc, không thể không tâu lên cho thiên tử biết. Nhưng ta nương náu nơi rừng núi đã hơn mười năm không đặt chân tới triều đình, sáng mai xin vì ông cố đi một phen". Rồi sai dọn tiệc đãi khách, rượu được vài tuần gọi phường nữ nhạc mười mấy người ra thay phiên múa hát, nàng nào mặt mũi cũng như quỷ dạ xoa, gấm trắng bịt đầu, áo đỏ quét đất, lời hát không nghe rõ là gì mà khúc điệu cũng kỳ quái, nhưng chủ nhân có vẻ vui thích lắm. Hỏi Trung Quốc chắc cũng có thú vui này chứ, Mã đáp có. Chủ nhân xin được nghe, Mã gõ bàn hát một khúc, chủ nhân vui vẻ nói "Lạ thay, tiếng hát như rồng ngâm phụng gáy, ta chưa từng được nghe bao giờ".
Hôm sau ông vào triều tiến cử Mã với quốc vương, nhà vua vui mừng xuống chiếu vời Mã. Nhưng có hai ba vị đại thần nói hình dạng Mã quái gở, e làm kinh hãi thánh thể, vua bèn thôi. Ông Chấp kích lập tức trở về kể cho Mã nghe, tỏ ý rất tiếc. Mã ở đó lâu ngày, có hôm cùng chủ nhân uống rượu say, cầm gươm đứng dậy múa, lấy than bôi mặt đóng vai Trương Phi*. Chủ nhân cho là đẹp, nói "Xin khách đem bộ mặt Trương Phi tới ra mắt Tướng quốc, chắc Tướng quốc sẽ vui vẻ trọng dụng, khó gì không được chức cao lộc hậu". Mã nói "Ôi, bôi mặt đùa giỡn thì còn được, chứ làm sao có thể mang bộ mặt này đi cầu chức tước". Chủ nhân cố ép, Mã bèn theo lời.
*Trương Phi: võ tướng và là em kết nghĩa của Lưu Bị, Tiên chủ nhà Thục Hán thời Tam quốc, tính tình thô mãng, mặt mũi dữ tợn.
Chủ nhân liền mở tiệc mời các quan tới uống rượu, bảo Mã vẽ mặt chờ sẵn. Không bao lâu khách tới, ông gọi Mã ra chào, khách đều ngạc nhiên nói "Lạ quá, sao bữa trưóc xấu xí mà hôm nay xinh đẹp thế kia?", rồi cùng nhau uống rượu hết sức vui vẻ. Mã múa may hát khúc Dặc dương, cả tiệc đều phục lăn. Hôm sau các quan cùng dâng biểu tiến cử Mã, vua mừng rỡ, sai đem cờ tiết đi vời. Mã tới bái kiến, vua hỏi về đạo trị an của Trung Quốc. Mã tâu bày cặn kẽ, vua rất khen ngợi, ban yến ở Ly cung. Rượu ngà ngà, vua hỏi "Nghe nói khanh giỏi múa hát, có thể cho quả nhân nghe được không?". Mã liền đứng dậy múa, cũng bắt chước lấy gấm trắng bịt đầu, hát giọng ồm ồm. Vua thích lắm phong ngay cho Mã chức Hạ Đại phu, thường ban yến riêng, ân sủng khác thường.
Lâu ngày các quan lớn nhỏ trong triều biết diện mạo Mã mang là giả, Mã tới đâu cũng thấy người ta rỉ tai nhau lơ là với mình, từ đó bị cô lập, trong lòng sợ sệt không yên, dâng sớ xin về hưu trí nhưng vua không cho. Mã lại xin nghỉ phép, vua cho nghỉ ba tháng, bèn lấy ngựa trạm chở vàng bạc châu báu trở về xóm núi. Người làng quỳ đón bên đường, Mã lấy vàng bạc chia cấp cho những kẻ đối xử tử tế với mình trước đây, tiếng reo mừng cảm ơn như sấm. Dân làng nói "Bọn ta hèn mọn, được Đại phu cho tiền bạc, ngày mai ra chợ biển, sẽ tìm mua vật quý để đền ơn" Mã hỏi chợ biển ở đâu, họ đáp "Chợ họp giữa biển, hội tụ châu báu hàng hóa của Giao nhân* bốn biển, người ở bốn phương mười hai nước đều tới mua bán, trong đó có nhiều thần nhân dạo chơi, mây ráng rợp trời, ba đào cuồn cuộn. Các bậc quý nhân tự trọng không dám xông pha nguy hiểm đều đưa vàng lụa nhờ bọn ta mua giùm các món quý lạ, nay sắp đến phiên chợ rồi".
*Giao nhân bốn biển: Thuật dị ký chép ở Nam Hải có giống người là Giao nhân sống ớ dưới nước như cá, chuyên việc dệt vải, nếu khóc thì nước mắt hóa thành ngọc châu.
Mã hỏi tại sao biết sắp đến phiên chợ, họ đáp "Mỗi khi thấy chim đỏ bay liệng qua lại trên biển thì bảy hôm sau có phiên chợ". Mã hỏi đi mất bao lâu, muốn cùng đi xem nhưng dân làng can ngăn, khuyên nên tự trọng thân phận, Mã đáp "Ta vốn là khách đi biển, sợ gì ba đào". Không bao lâu quả có nhiều người nối nhau tới gởi tiền nhờ mua hàng giùm, Mã liền mang hành lý xuống thuyền. Thuyền có vài mươi người, đáy phẳng lườn cao, có mười tay chèo, lướt đi như tên bay. Qua ba ngày, trông thấy xa xa giữa chốn mây nước mênh mông có đài gác chập chồng, thuyền buôn đông đặc như kiến. Giây lát tới dưới thành, thấy tường thành xây bằng những tảng đá cao như thân người, chòi canh cao chạm mây xanh. Buộc thuyền vào thành, thấy trong chợ bày đầy các món kỳ trân dị bảo lớng lánh chói mắt, nhiều thứ trần gian không có.
Chợt một thiếu niên cưỡi ngựa đi tới, người trong chợ đều dạt ra tránh đường, nói đó là Tam Thế tử biển Đông. Thế tử đi tới, nhìn Mã nói "Đây hẳn là người xứ lạ", liền có kẻ tùy tùng tới hỏi quê quán. Sinh đứng bên đường chắp tay vái chào, tự nói tên họ quê quán. Thế tử mừng nói "Được ông hạ cố tới đây, thật có duyên phận không ít". Rồi đó đưa ngựa cho sinh cưỡi, mời cùng sóng vai đi ra cửa tây thành, vừa tới bờ cù lao thì con ngựa sinh cưỡi hý vang rồi nhảy xuống nước. Sinh cả sợ kêu thất thanh thì thấy nước biển rẽ ra, hai bên dựng đứng như vách tường. Giây lát thấy có cung điện, đồi mồi làm kèo, vảy cá làm ngói, bốn vách là pha lê lóng lánh chói mắt. Sinh xuống ngựa vào trong ra mắt, ngẩng lên thấy Long quân ngồi trên, Thế tử tâu nói "Thần đi chơi chợ, gặp được bậc hiền sĩ Trung Hoa, xin dẫn kiến với đại vương".
Sinh bước lên vái lạy xong, Long quân nói "Tiên sinh là bậc văn sĩ, ắt văn chương hay lắm, quả nhân muốn phiền viết hộ bài phú Chợ biển, xin đừng tiếc lời châu ngọc". Sinh dập đầu vâng lệnh, Long quân sai đem cho nghiên pha lê, bút râu rồng, giấy sắc trắng tựa tuyết, mực thơm ngát như lan. Sinh lập tức viết xong bài phú hơn ngàn chữ dâng lên trước điện, Long quân khen ngợi nói "Tài lớn của tiên sinh làm thủy quốc vẻ vang thêm nhiều lắm". Rồi hội họp thủy tộc mở tiệc lớn ở cung Thái Hà, rượu được vài tuần, Long quân nâng chén nhìn khách nói "Quả nhân có đứa con gái yêu chưa lấy chồng, muốn gả cho tiên sinh, tiên sinh có bằng lòng không?". Sinh rời tiệc bước ra thẹn thùng lạy tạ, chỉ dạ dạ mà thôi. Long quân bèn quay lại dặn dò tả hữu. Không bao lâu có mấy người cung nhân đỡ một nữ lang ra, vòng ngọc khua vang, nhã nhạc trỗi lớn. Sinh lạy xong liếc nhìn thấy nàng xinh đẹp như tiên, công chúa lạy xong quay trở vào. Giây lát bãi tiệc, có hai a hoàn cầm đèn lồng đưa sinh vào hậu cung.
Công chúa trang điểm lộng lẫy ngồi đợi, trong phòng kê giường san hô khảm bát bảo, rèm kết tú cầu điểm xuyết minh châu to như cái đấu, chăn nệm đều mềm mại thơm tho. Trời vừa rạng sáng thì gái hầu trẻ đẹp đã xúm tới hầu hạ. Sinh trở dậy ra triều đường lạy tạ, Long quân phong sinh làm Phò mã Đô úy, sai đưa bài phú ra các biển. Long quân các biển đều sai sứ tới mừng, tranh nhau mời Phò mã tới uống rượu. Sinh mặc quần áo thêu, cởi rồng xanh, tiền hô hậu ủng ra đi, mấy mươi võ sĩ cưỡi ngựa hộ vệ đều mang cung sơn son, mang giày cựa bạc sáng loáng xúm xít chung quanh, trên ngựa gảy đàn, trong xe gõ phách, trong ba ngày dạo chơi khắp các biển. Từ đó danh tiếng con rể Long quân vang dậy bốn biển.
Trong cung có một cây ngọc thân đầy một ôm, gốc trong suốt như pha lê trắng, trong có lõi màu vàng nhạt nhỏ hơn cánh tay, lá như bích ngọc dày bằng đồng tiền mọc chi chít, sinh thường cùng vợ ngồi dưới bóng cây ngâm thơ thổi sáo. Hoa nở đầy cây như hoa thiềm bồ, cánh hoa rụng xuống thì kêu leng keng, nhặt lên nhìn thấy như mã não đỏ chạm trổ, long lanh rất đẹp. Lúc lúc có chim lạ tới đậu trên cây hót, lông màu vàng ánh, đuôi dài hơn thân, tiếng hót như ngọc khua ai oán làm người ta xót xa. Sinh cứ nghe chim hót lại chạnh niềm cố hương, nhân nói với công chúa "Ta lạc lõng ba năm, bặt tin cha mẹ, cứ nghĩ tới lại đau lòng, nàng có thể theo ta về không?". Nàng nói "Tiên phàm hai lối, không thể theo được. Nhưng thiếp cũng không nỡ vì tình vợ chồng mà khiến chàng lỗi đạo hiếu, xin thong thả sẽ tính". Sinh nghe thế sa nước mắt, nàng cũng than "Tình thế này thật không thể tròn cả hai bề".
Hôm sau sinh đi chơi về, Long quân hỏi "Nghe nói Đô úy nhớ quê muốn về, sáng mai khởi hành được chăng?". Sinh từ tạ nói "Thần bơ vơ đất khách, đội ơn đại vương quá yêu, trong lòng chỉ mong có dịp báo đáp. Nay xin cho tạm về thăm cha mẹ, rồi sẽ trở lại hầu đại vương". Tối đến công chúa đặt tiệc từ giã, sinh hẹn ngày gặp lại, nàng nói "Tình duyên đôi ta đến đây là hết". Sinh vô cùng đau xót, nàng nói "Cứ về phụng dưỡng mẹ cha để tỏ lòng hiếu thảo của chàng, chứ đời người hết hợp rồi tan, trăm năm cũng như sớm tối thôi, cần gì khóc lóc như lối đàn bà? Từ nay về sau nếu thiếp thủ tiết vì chàng, chàng giữ nghĩa với thiếp, hai nơi vẫn một lòng thì là vợ chồng đấy, cần gì phải sớm tối giữ riệt lấy nhau mới gọi là bách niên giai lão? Nếu phụ lời nguyền thì có lấy vợ lấy chồng cũng chẳng tốt lành đâu. Còn nếu trên trần gian thiếu người nội trợ, thì cưới tỳ thiếp cũng được thôi.
Còn có một chuyện muốn nói, là từ ngày kết bạn, hình như thiếp đã có thai, phiền chàng đặt tên trước cho con". Sinh nói "Nếu sinh con gái thì đặt tên là Long Cung, nếu sinh con trai thì đặt tên là Phúc Hải". Công chúa xin để lại một vật làm tin, sinh lúc ở nước La Sát được một đôi hoa sen bằng ngọc đỏ bèn lấy đưa cho nàng. Công chúa nói "Ba năm sau, đúng ngày mùng tám tháng tư, chàng chèo thuyền ra Nam đảo, thiếp sẽ giao con". Rồi lấy da cá làm túi, bỏ đầy châu ngọc vào đưa cho sinh, nói "Chàng giữ cho kỹ, bấy nhiêu thì ăn tiêu mấy đời cũng không hết". Trời mờ sáng, Long vương bày tiệc tiễn hành, tặng cho rất hậu. Sinh lạy tạ ra đi, công chúa ngồi xe dê trắng đưa lên tới tận bờ. Sinh lên bờ xuống ngựa, nàng dặn dò tự bảo trọng rồi quay xe trở về, phút chốc đã xa tít, nước biển khép lại không thấy gì nữa, sinh bèn về nhà.
Từ khi sinh vượt biển, có người cho rằng đã chết, đến khi về tới người nhà đều kinh ngạc. Cũng may là cha mẹ đều còn khỏe mạnh, duy vợ đã đi lấy chồng khác, mới sực hiểu câu nói "giữ nghĩa" của Long nữ là đã biết trước việc ấy. Cha muốn cưới vợ khác cho nhưng sinh không nghe, chỉ mua thiếp. Đúng kỳ hẹn ba năm sinh chèo thuyền ra đảo, thấy hai đứa nhỏ ngồi trên mặt biển vốc nước đùa giỡn, không động cũng không chìm. Sinh tới gần bế, một đứa reo lên nắm tay sinh rồi nhảy vào lòng, đứa kia khóc lớn như giận sinh không dắt mình, sinh cũng bế cả lên. Nhìn kỹ thì là một trai một gái, mặt mũi thanh tú, đội mũ hoa gắn ngọc, tức đôi hoa sen bằng ngọc đỏ. Trên lưng một đứa đeo túi gấm, sinh mở ra xem thấy có bức thư như sau:
"Kính thăm cha mẹ bình an. Thấm thoát ba năm, cách đường bụi đỏ, mênh mông một bể, dứt lối chim xanh. Kết tương tư thành mộng, để nhưng nhớ làm đau, thăm thẳm trời xanh, hận nào sánh được? Nhưng nghĩ Hằng Nga còn lạnh lùng trong cung quế, Chức Nữ phải tê tái cạnh sông Ngân, thì ta là hạng người nào mà mong trăm năm sum họp, thiếp nghĩ tới đó liền gạt nước mắt mà vui cười. Sau khi từ biệt hai tháng thì thiếp sinh được song thai, đến nay đã bi bô đòi bế, hơi biết nói cười, ngó táo giành lê, không có mẹ cũng sống được, nên kính trao lại cho chàng. Đôi hoa sen bằng ngọc đỏ chàng để lại, thiếp gài lên mũ chúng để làm tin, lúc nào ôm con trên gối thì cũng như có thiếp bên cạnh vậy. Biết chàng đã giữ trọn lời nguyền, thiếp được an ủi rất nhiều, thề giữ trọn tình với chàng đến chết, vật trong rương cam thiếu dầu thơm, người trong kính lâu không son phấn. Chàng như chinh nhân thì thiếp làm quả phụ, cho dù không gần gũi cũng vẫn có thể nói là duyên cầm sắt kia mà. Chỉ nghĩ tới cha mẹ chồng đã bế cháu nội mà chưa gặp nàng dâu, kể theo tình lý cũng còn chưa trọn vẹn, nên năm sau tống táng mẹ, thiếp sẽ tớì mộ điếu tang cho trọn đạo dâu con. Từ nay về sau thì Long Cung vô sự, còn nhiều lúc gặp nhau, Phước Hải sống lâu, cũng có đường lui tới. Mong chàng khoẻ mạnh, thư chẳng hết lời".
Sinh đọc đi đọc lại lá thư rơi lệ, hai đứa nhỏ ôm cổ, nói "Về nhà thôi", sinh càng đau xót, vỗ về hai đứa hỏi "Hai con có biết nhà ở đâu không?", hai đứa khóc lóc líu lo đòi về. Sinh nhìn ra thấy biển cả mênh mông, chân trời xa tít, bóng người mờ mịt, mây nước muôn trùng đành bế con quay thuyền ngậm ngùi trở về. Sinh biết mẹ không còn sống lâu nữa nên lo sẵn mọi việc ma chay, trồng hơn trăm cây tùng quanh khu mộ. Năm sau quả nhiên mẹ sinh mất, khi quan tài sắp hạ huyệt thì có cô gái mặc áo tang tới làm lễ.
Mọi người đang ngạc nhiên nhìn chợt gió bão nổi lên, sét nổ ầm ầm, kế mưa như trút nước, trong chớp mắt cô gái biến mất, những tùng bách mới trồng phần nhiều chết khô lúc ấy lại trở nên xanh tốt. Phước Hải hơi lớn thường nhớ nhung mẹ, cứ nhảy xuống biển mấy ngày mới về. Long Cung là con gái không đi được, chỉ biết đóng cửa ngồi khóc. Một hôm đang ban ngày mà trời tối sầm, Long nữ chợt tới bảo con gái nín khóc rồi nói "Con sẽ lấy chồng, khóc lóc làm gì?", rồi cho con gái một cây san hô cao tám thước, một hộp long não hương, một trăm viên ngọc minh châu, một đôi vòng vàng khảm bát bảo làm của hồi môn. Sinh nghe nói vợ tới vội chạy vào nắm tay nàng khóc nức nở. Giây lát trời nổi mua gió, sét đánh vang nhà, nàng biến mất.
Dị Sử thị nói: Vẽ mặt lấy lòng, tình đời thật như ma quỷ, ưa chuyện kỳ quái, thế gian quả chỉ một đường. Thẹn ít thì người thích ít, thẹn nhiều thì người thích nhiều, nhưng nếu công nhiên mang râu tóc phường tuồng dạo chơi ở kinh kỳ thì chắc rất ít người không hoảng sợ bỏ chạy. Chàng ngây Lăng Dương kia định ôm viên ngọc liên thành tới đâu mà khóc vậy*? Than ôi, chuyện hiển vinh phú quý chỉ nên cầu nơi chốn thẩn lâu hải thị** mà thôi.
* Chàng ngây... khóc vậy: Hàn Phi tử chép Biện Hòa người nước Sở dâng viên ngọc chưa đẽo gọt cho Hoài vương, Hoài vương cho là viên đá bèn chặt chân trái của Hòa. Hoài vương chết, Hòa lại dâng cho Bình vương, Bình vương cũng cho là khi quân, sai chặt chân phải của Hòa. Bình vương chết, Kinh vương lên ngôi, Hòa ôm viên ngọc khóc dưới núi. Kinh vương biết chuyện sai thợ khéo gọt giũa, phá lớp đá ngoài thì được một viên ngọc rất đẹp, bèn phong Hòa làm Lăng Dương hầu. Cả câu chỉ kẻ có tài mà không ai biết tới.
** Thẩn lâu hải thị: tức hiện tượng những thành quách chợ búa hiện ra trên mặt biển, là ảo ảnh sinh ra do sự khúc xạ của ánh sáng, người xưa cho rằng do khí của loài ngao sò ở biển thở ra kết thành. Đây dùng chỉ ảo ảnh, ảo tưởng.
113. Công Tôn Cửu Nương (Công Tôn Cửu Nương)
Cái án Vu Thất* phát ra, những kẻ liên lụy bị giết nhiều nhất là người hai huyện Thê Hà, Lai Dương (tỉnh Sơn Đông), mỗi ngày có tới mấy trăm người bị giải ra pháp trường xử chém, máu đen ngập đất, xương trắng ngút trời. Quan trên nhân từ cấp cho quan tài, các hiệu bán quan tài trong thành Tế Nam (tỉnh thành Sơn Đông) hết sạch cả hàng, vì vậy những người bị xử tử phần lớn được chôn ở cánh đồng phía nam thành.
*Cái án Vu Thất: tức vụ khởi binh chống triều đình của Vu Thất ở huyện Thê Hà tỉnh Sơn Đông năm Thuận Trị thứ 18 (1661), bị nhà Thanh đàn áp rất thảm khốc.
Năm Giáp dần có thư sinh người huyện Lai Dương tới chơi Tắc Hạ (cửa nam thành Tế Nam), vì có hai ba người bạn bị xử tử nên nhân đó mua giấy tiền vàng bạc ra cúng ở đám mả hoang, rồi tới thuê một gian phòng trong chùa ở trọ. Hôm sau vào thành lo công việc, xế chiều vẫn chưa về. Chợt có một thiếu niên tới phòng trọ thăm, thấy sinh đi vắng liền bỏ mũ leo lên giường, để nguyên giày nằm ngửa, đầy tớ sinh hỏi chỉ nhắm mắt không trả lời. Lúc sinh về trời đã nhá nhem, không nhìn rõ mặt bèn tới cạnh giường hỏi, khách trợn mắt nói "Ta đang chờ chủ ngươi, sao cứ hạch hỏi lôi thôi, chẳng lẽ ta là trộm cướp à?"' Sinh cười nói "Chủ nhân đây". Thiếu niên vội vùng dậy, đội mũ sửa áo ngồi xuống, vồn vã hỏi thăm.
Sinh nghe tiếng như người quen, vội gọi lấy đèn, thì ra là Chu sinh người cùng huyện, cũng chết trong nạn Vu Thất, cả sợ bỏ chạy. Chu kéo lại nói "Ta với ông là bạn văn chương, sao vô tình với nhau như thế? Ta tuy là ma nhưng vẫn canh cánh nhớ cố nhân, nay có chuyện muốn làm phiền, xin đừng coi là khác loài mà xử tệ". Sinh bèn ngồi xuống xin nghe sai bảo, Chu nói "Cháu gái ông hiện ở một mình không có chồng, ta muốn cưới nàng về lo việc trong nhà, đã mấy lần nhờ mai mối dạm hỏi nhưng nàng cứ lấy cớ là không có lệnh của bậc tôn trưởng để từ chối, xin ông nói giúp cho một câu".
Trước sinh có đứa cháu gái gọi bằng cậu, mồ côi mẹ từ nhỏ nên sinh đem về nuôi, đến năm mười lăm tuổi mới về sống với cha. Nàng bị bắt giải tới Tế Nam, nghe tin cha bị hành hình, gào khóc tắt hơi mà chết. Sinh nói "Có cha nó đó, sao lại cầu ta?". Chu đáp "Cha nàng đã được người cháu bốc mộ mang đi, hiện không có ở đây". Sinh hỏi cháu gái mình đang ở với ai, Chu đáp nàng ở chung với bà láng giềng. Sinh ngại người sống không thể làm mai mối cho ma, Chu nói "Nếu ông chịu giúp thì xin phiền dời gót ngọc", rồi đứng dậy nắm tay sinh kéo đi. Sinh từ chối, hỏi đi tới đâu, Chu nói "Cứ đi sẽ biết", sinh bèn miễn cưỡng đi theo. Đi về phía bắc khoảng một dặm thấy có thôn xóm đông đúc, ước chừng mấy trăm nóc nhà.
Tới một gian nhà, Chu gõ cửa, lập tức có bà già ra mở cả hai cánh cửa, hỏi Chu tới có việc gì. Chu nói "Làm phiền bà nói với nương tử rằng có ông cậu tới," Bà già quay vào, giây lát trở ra mời sinh vào, nhìn Chu nói "Có hai gian nhà tranh chật chội, phiền công tử ngồi đợi ngoài cổng một lúc", sinh theo bà ta vào, thấy bên trong là nửa mẫu vườn hoang, có hai gian phòng nhỏ, đứa cháu gái khóc lóc đứng đón ở cửa, trong phòng đèn lửa lờ mờ. Cô gái dung mạo vẫn xinh xắn như lúc còn sống, gạt lệ hỏi thăm tất cả các dì các mợ. Sinh đáp "Mọi người khỏe cả, duy có vợ ta đã qua đời rồi". Cô gái lại sụt sùi khóc, nói "Cháu lúc nhỏ được cậu mợ nuôi nấng, chưa có chút gì báo đáp mà không ngờ đã vùi xác nơi ngòi rãnh trước, rất đỗi ân hận. Năm trước ông anh lớn con nhà bác tới mang hài cốt cha cháu về nhưng không nghĩ gì tới cháu, bơ vơ ngoài mấy trăm dặm như én thu lạc đàn, cậu lại không bỏ qua hồn ma vất vưởng, lại đốt cho vàng bạc, cháu đã nhận được rồi". Sinh bèn kể lại lời Chu, cô gái cúi mặt im lặng.
Bà già nói "Chu công tử nhờ bà Dương tới dạm hỏi năm ba bận, già nói việc này rất đáng mừng nhưng nương tử không chịu tự lấy chồng kiểu qua quít, nay được ông cậu làm chủ hôn, mới ưng ý như thế đấy". Bà ta vừa dứt lời thì một nữ lang khoảng mười bảy mười tám tuổi, có đứa hầu gái theo sau xăm xăm bước vào, vừa thấy sinh liền quay người toan chạy. Cháu gái sinh nắm vạt áo kéo lại nói "Không cần phải làm thế, đây là cậu ruột ta, không phải người ngoài". Sinh vái chào, nữ lang cũng khép nép đáp lễ. Cháu sinh nói "Đây là Cửu Nương, họ Công Tôn ở huyện Thê Hà. Ông thân sinh là con nhà thế gia cũ nhưng nay cũng sa sút, không thích chơi với ai, sớm tối chỉ qua lại bạn với cháu".
Sinh liếc thấy nàng mỉm cười miệng sáng tựa trăng thu, bẽn lẽn má hồng như ráng sớm, xinh đẹp như tiên bèn nói "Nhìn thì biết ngay là con nhà đại gia, chứ lều tranh vách đất làm sao có người đẹp như vậy được". Cháu sinh nói "Đã thế còn là nữ học sĩ, thơ phú đều hay, trước nay cháu vẫn được nàng chỉ dạy". Cửu Nương cười khẽ nói "Con nhãi bỗng dưng lại bêu xấu người, ông cậu cười cho kìa!". Cháu sinh lại cười nói "Cậu góa vợ chưa tục huyền, thế người như nương tử đây cậu có vừa ý không?". Cửu Nương cười chạy ra, nói "Con nhãi điên rồi", rồi bỏ đi. Câu nói tuy giống như đùa giỡn nhưng sinh rất thích, cháu sinh biết ý bèn nói "Tài mạo Cửu Nương thiên hạ không ai sánh kịp, nếu cậu không chê là ma thì cháu sẽ nói giùm với mẹ nàng". Sinh cả mừng nhưng ngại người với ma khó kết vợ chồng với nhau, cháu sinh nói "Không sao đâu, nàng với cậu vốn có túc duyên với nhau". Sinh ra về, cháu gái tiễn ra, nói "Năm hôm nữa, lúc trăng thanh người vắng, sẽ sai người tới đón cậu".
Sinh ra ngoài cổng không thấy Chu đâu, nhìn về phía tây thấy nửa vành trăng trong ánh sáng mờ mờ còn nhận ra đường cũ. Đi một quãng thấy phía nam có một ngôi nhà, Chu đang ngồi chờ trên bậc thềm ngoài cổng, đứng lên đón, nói "Ta chờ ông lâu rồi, mời ông quá bộ vào tệ xá", rồi cầm tay sinh đưa vào, ân cần cảm tạ. Kế đưa ra một cái chén vàng, trăm hạt ngọc châu nói "Chẳng có gì đáng giá, xin nhận mấy thứ này thay sính lễ". Kế nói "Trong nhà cũng có ít rượu dở, nhưng vật dưới âm ty sợ không mời khách quý được, làm thế nào?". Sinh khiêm tốn từ tạ, Chu tiễn tới nửa đường mới quay về.
Sinh về tới nơi trọ, các sư và đầy tớ xúm lại hỏi han, sinh giấu kín chuyện? nói "Ai nói ta gặp ma là nói bậy, mới rồi ta tới nhà người bạn uống rượu thôi". Sau năm hôm quả thấy Chu tới, sửa giày phẩy quạt có vẻ đắc ý vui mừng lắm, vừa vào tới sân đã vái lạy. Giây lát cười nói "Việc vui mừng của ông đã thu xếp xong, đêm nay làm lễ cưới rồi, xin mời lên đường". Sinh nói "Ta vì không thấy có tin tức gì nên còn chưa nộp sính lễ, làm sao đã thu xếp xong?"' Chu nói "Ta đã nộp thay cả rồi". Sinh hết lời cảm tạ rồi cùng đi tới nơi vào thẳng nhà trong, thấy cháu gái ăn mặc đẹp đẽ tươi cười ra đón. Sinh hỏi làm đám cưới lúc nào, Chu đáp đã ba hôm. Sinh bèn đưa số vàng ngọc Chu tặng hôm trước để thêm vào của hồi môn cho cháu gái, cô gái từ chối hai ba lần mới nhận, rồi nói với sinh "Cháu tỏ ý cậu với Công Tôn phu nhân, phu nhân rất vui mừng, chỉ nói rằng đã già cả không có con cháu nào khác nên không muốn Cửu Nương lấy chồng xa, hẹn đêm nay cậu tới gởi rể tại nhà. Nhà ấy không có đàn ông, để chồng cháu qua làm lễ với cậu cũng được".
Chu liền dẫn sinh đi tới cuối thôn thấy một ngôi nhà mở cổng sẵn, hai người lên thẳng sảnh đường. Giây lát gia nhân báo phu nhân tới, có hai người hầu gái đỡ bà già lên thềm. Sinh định lạy chào, phu nhân nói "Ta già yếu lọm khọm, không thể đáp lễ, xin bớt bớt nghi thức thôi", rồi sai đám hầu gái bày tiệc mừng. Chu cũng gọi gia nhân đem ra một mâm riêng đặt trước mặt sinh, lại lấy ra một bầu rượu riêng để sinh uống. Các món ăn trong tiệc không khác gì với trần gian, chỉ có chủ nhân tự rót uống chứ không mời mọc khách. Kế tan tiệc, Chu ra về, hầu gái đưa sinh vào. Tới phòng trong thấy Cửu Nương ngồi bên đuốc hoa đợi sẵn, duyên may giải cấu, người ngọc đa tình, gặp gỡ nhau vô cùng vui sướng.
Nguyên là trước kia mẹ con Cửu Nương bị giải lên kinh, nhưng tới Tế Nam thì mẹ nàng chết vì không chịu nổi khổ cực, Cửu Nương cũng tự vẫn chết theo. Nay trên gối kể lại chuyện đã qua, nàng thổn thức không sao ngủ được, bèn khẩu chiếm hai bài thơ tứ tuyệt:
I. Tích nhật la thường hóa tác trần,
Không tương nghiêp quả hận tiền thân. .
Thập niên lô lãnh phong lâm nguyệt,
Thủ dạ sơ phùng họa các xuân.
II. Bạch dương phong vũ nhiễu cô phần,
Thùy tưởng Dương đài cánh tác vân.
Hốt khải lũ kim sương lý khán,
Huyết tinh do nhiễm cựu la quần.
(I. Xiêm áo ngày xưa hóa bụi trần
Luống đem nghiệp chướng hận tiền thân
Rừng bàng sương lạnh mười năm nguyệt
Lầu gác đêm nay mới sáng xuân
II. Mưa gió mồ hoang quạnh bạch dương
Đâu ngờ mây lại phủ đài Dương
Chợt mở rương xưa nhìn vật cũ
Máu vấy xiêm y nghĩ đoạn trường)
Trời gần sáng, nàng giục sinh "Chàng nên về sớm, đừng để bọn tôi tớ sợ hãi". Từ đó ngày đi đêm tới hết sức gắn bó. Một đêm sinh hỏi Cửu Nương làng này tên là gì, nàng đáp "Là làng Lai Hà, trong làng phần nhiều là ma mới, vốn là người hai huyện Lai Dương và Thê Hà, nhân đặt tên như thế". Sinh nghe thế bùi ngùi than thở, nàng buồn rầu nói "Cô hồn ngàn dặm trôi nổi không nhà, tình cảnh mẹ con thiếp nói tới thật đau xót. Nếu chàng nghĩ tới ơn nghĩa một đêm, xin thu nhặt giùm hài cốt mẹ con thiếp đem về chôn cất cạnh mồ mả ông bà cho được trăm đời có chỗ nương dựa thì chết cũng còn có tiếng thơm".
Sinh nhận lời, nàng lại nói "Người và ma khác loài, chàng cũng không nên ở lại chốn này lâu", rồi đưa tặng sinh cái khăn lụa, gạt lệ giục lên đường. Sinh buồn rầu đi ra, trong lòng đau đớn, bồi hồi không nỡ ra về, nhân qua gõ cửa nhà Chu. Chu chạy chân không ra đón, cháu sinh cũng trỗi dậy, tóc còn chưa chải, hoảng sợ ra hỏi han cậu. Sinh ngậm ngùi hồi lâu mới thuật lại lời Cửu Nương. Cháu gái sinh nói "Mợ mà không nói thì cháu cũng đã tính toán lâu nay, nơi đây không phải là trần gian, quả thật cậu không nên ở lâu". Rồi đó nhìn sinh rơi lệ, sinh cũng ứa nước mắt từ biệt. Trở về gõ cửa nhà trọ, nằm thao thức đến sáng, trở dậy muốn tìm mộ Cửu Nương thì nhớ ra là quên hỏi dấu tích. Đến tối trở lại nơi đó thì thấy mồ mả ngổn ngang, không tìm ra được đường đi làng xóm đành than thở quay về.
Giơ chiếc khăn nàng tặng ra xem, gặp cơn gió thổi qua lập tức mủn ra, nát vụn như tro, bèn thu xếp hành trang về quê. Liền nửa năm không thể yên lòng, lại tới Tế Nam mong có dịp gặp lại nàng. Tới cánh đồng phía nam thành thì trời đã xế chiều, liền buộc ngựa vào gốc cây trước sân đình rồi đi mau vào bãi tha ma. Chỉ thấy mồ mả trùng trùng, cỏ gai mút mắt, ma trơi lập lòe, chồn kêu ảo não, ghê lòng sởn gáy, sợ hãi đau xót trở về chỗ trọ, chán nản không muốn đi chơi đâu cả, dong ngựa về quê. Đi được khoảng một dặm, nhìn thấy xa xa có một nữ lang thơ thẩn giữa đám mồ mả, lấy làm lạ vì dáng vẻ phong thái rất giống Cửu Nương, liền ra roi thúc ngựa tới gần nhìn thì đúng là nàng. Sinh xuống ngựa định hỏi han, nhưng nàng bỏ chạy như không quen biết. Sinh lại lên ngựa đuổi tới gần, nàng tỏ vẻ giận dữ lấy tay áo che mặt, sinh vội gọi tên Cửu Nương thì nàng biến mất.
Dị Sử thị nói: Khuất Nguyên gieo mình xuống sông, máu đầy gan ruột, Thân Sinh đeo quyết ra trận, lệ đẫm cỏ cây* các bậc tôi trung con hiếu ngàn xưa có kẻ đến lúc chết vẫn không xét lại vua cha của mình. Có lẽ Công Tôn Cửu Nương tuy đem hài cốt chết theo cha mẹ nhưng vẫn không cởi bỏ được mối oán hờn trong lòng chăng? Ý niệm trong lòng không thể vốc ra cho người khác nhìn rõ, mới oan uổng làm sao!
*Khuất Nguyên... cỏ cây: Sử ký chép Khuất Nguyên là trung thần nước Sở thời Chiến quốc, bị các nịnh thần ghen ghét gièm pha khiến Sở Hoài vương không dùng, Nguyên xỏa tóc đi lang thang bên đầm, ngâm thơ để tỏ chí rồi gieo mình xuống sông Mịch La tự tử. Tả truyện chép Thân Sinh là Thái tử của Tấn Hiến công thời Xuân thu, Hiến công yêu vợ lẽ là Ly Cơ, muốn lập con Ly Cơ là Hề Tề nối ngôi nên muốn giết Thân Sinh, sai Thân Sinh đi đánh Cao Lạc thị ở Đông Sơn, đeo cho Thân Sinh cái kim quyết. Đại phu nước Tấn là Hồ Đột than "Đeo cho cái kim quyết thì chúa công có ý muốn phế Thái tử rồi", vì Kim quyết (cái quyết bằng vàng) đồng âm với kim quyết (từ nay vĩnh biệt). Câu này ý nói những kẻ tôi trung con hiếu nhiều khi vẫn bị oan uổng, đây chỉ nhân vật Công Tôn Cửu Nương.
114. Câu Đối Của Hồ (Hồ Liên)
Tiêu sinh là em con chú của Tiên sinh Thạch Hồng ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) đọc sách trong vườn, nửa đêm thấy có hai mỹ nhân tới, đều rất xinh đẹp, một nàng khoảng mười bảy mười tám, một nàng khoảng mười bốn mười lăm tuổi, vỗ vào bàn nhoẻn miệng cười. Tiêu biết là hồ, nghiêm sắc mặt cự tuyệt. Nàng lớn nói "Chàng râu cứng như sắt, sao không có khí sắc đàn ông thế?". Tiêu đáp "Ta bình sinh không dám biết tới người đàn bà thứ hai". Cô gái cười nói "Thật là cổ hủ quá, chàng còn câu nệ chuyện ấy sao! Quỷ thần thời hạ nguyên* cũng đều lấy đen làm trắng, huống chi chuyện nhỏ nhặt trên giường".
*Hạ nguyên: đây chỉ thời loạn lạc, phong tục suy đồi.
Tiêu lại xì khinh bỉ. Cô gái biết là không lay chuyển được, bèn nói "Chàng là bậc danh sĩ, thiếp có một vế đối xin chàng đối giúp, nếu đối được thì bọn ta tự đi: Mậu tuất đồng thể, phúc trung chỉ khiếm nhất điểm (Mậu tuất cùng thể, trong bụng chỉ thiếu một điểm)". Tiêu ngẫm nghĩ hồi lâu không đối được, cô gái cười nói "Danh sĩ mà như thế à? Ta đối thay cho cũng được: Kỷ tỵ liên tung, túc hạ hà bất song khiêu (Kỷ tỵ liền vết, dưới chân sao chẳng hai khều?)"* kế cười rộ bỏ đi. Chuyện này là Tư khấu họ Lý** ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông) kể lại.
*Mậu tuất... hai khều: đôi câu đối này có chỗ chơi chữ: trong Hán tự, chữ mậu và chữ tuất, chữ kỵ và chữ tỵ có tự hình gần như nhau, ngoài ra hai chữ "túc hạ" còn là một đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số ít với ý nghĩa trang trọng. Hai cô gái hồ có ý chế nhạo nhân vật Tiêu sinh không có "phong thái đàn ông" vì không chịu thân mật với họ.
**Tư khấu họ Lý: bản Hương Cảng chú nhân vật này tên Hoa Hy, tự Ngũ Huyền, thi đỗ Tiến sĩ năm Giáp tuất niên hiệu Sùng Trinh thời Minh (1628 -1643), làm quan tới chức Thượng thư bộ Hình, theo đó thì hai chữ "Mậu tuất" và "Kỷ tỵ" của hai cô gái hồ trong truyện này có lẽ không chỉ đơn giản là chơi chữ mà có thể còn dính dáng hay ám chỉ hai sự kiện chính trị nào đó khoảng cuối Minh đầu Thanh.
Quyển VII
115. Phiên Phiên (Phiên Phiên)
La Tử Phù người huyện Phần Châu (tỉnh Sơn Tây), cha mẹ đều mất sớm lúc tám chín tuổi, được chú là Đại Nghiệp nuôi. Nghiệp làm Tả sương Quốc tử giám, giàu mà không có con nên yêu thương La như con ruột. Năm La mười bốn tuổi bị kẻ xấu dụ dỗ đi uống rượu chơi gái, gặp lúc có một kỹ nữ ở Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) tới ngụ ở quận, sinh gặp gỡ rất thích, đâm ra say mê. Khi nàng ta trở về Kim Lăng, sinh bỏ nhà trốn theo, ở kỹ viện nửa năm thì tiền bạc hết sạch, đám chị em đều rẻ rúng lạnh nhạt nhưng chưa thẳng thừng dứt tình. Không bao lâu mắc bệnh lở loét, máu mủ thối tha ướt cả giường chiếu, bị đuổi đi, ra chợ xin ăn, người ở chợ cứ nhìn thấy là tránh xa.
Sinh sợ chết ở quê người bèn lên đường xin ăn trở về Sơn Tây, mỗi ngày đi được ba bốn mươi dặm, dần dần tới địa giới Phần Châu, nhưng lại nghĩ mình rách rưới hôi thối không mặt mũi nào về làng nên cứ quanh quẩn ở huyện bên cạnh. Trời tối, sinh tới chùa trên núi định ngủ nhờ, dọc đường gặp một cô gái dung mạo như tiên, tới gần hỏi đi đâu. Sinh kể thật chuyện mình, nàng nói "Ta là kẻ xuất gia, nơi ở có cái hang núi, có thể cho khách nghỉ lại, không sợ gì cọp sói". Sinh mừng đi theo nàng vào tới giữa núi sâu, thấy một tòa động phủ, vào trong thì thấy trước cửa có khe nước chảy, có chiếc cầu đá bắc qua. Đi thêm vài bước tới hai gian thạch thất, ánh sáng chói lọi không cần đèn đuốc. Cô gái bảo sinh cởi bỏ quần áo ăn mày xuống khe mà tắm, nói "Tắm ở đó sẽ khỏi bệnh". Lại kéo màn quét giường chiếu giục sinh đi ngủ, nói "Xin cứ đi nghỉ, ta sẽ may áo quần cho". Kế lấy lá to như tàu lá chuối cắt may thành áo, sinh nằm nhìn thấy nàng may không bao lâu đã xong, xếp lại đem đặt ở đầu giường mình, nói "Sáng ra lấy mà mặc", rồi lên chiếc giường đối diện nằm ngủ.
Sinh sau khi tắm rửa sạch sẽ thấy những chỗ lở loét không đau đớn nữa, lúc tỉnh dậy sờ tới thì đều đã lên da non. Trời sáng sắp dậy còn ngờ lá chuối không mặc được, cầm lên nhìn kỹ thì là gấm xanh bóng loáng. Lát sau dọn cơm, cô gái lấy lá trên nói là bánh, sinh ăn thấy quả là bánh. Nàng lại cắt lá thành hình gà và cá đem nấu nướng, ăn vào thấy đều như gà và cá thật. Trong góc nhà có một cái vò đựng rượu ngon, cứ đem ra uống, khi nào đã vơi thì múc nước suối đổ thêm vào. Mấy hôm sau sinh lành hẳn, qua giường cô gái xin ngủ chung, nàng nói "Gã khinh bạc vừa được yên thân đã sinh tà niệm". Sinh đáp "Ta muốn đền ơn thôi", bèn cùng ngủ chung, vô cùng đằm thắm.
Một hôm có thiếu phụ bước vào cười nói "Con ranh Phiên Phiên vui sướng quá, chừng nào có bầu đấy?". Cô gái bước ra đón, cười nói "Nương tử Hoa Thành lâu quá không hạ cố tới chơi, hôm nay gió tây nam nổi mạnh mới bị thổi tới, đã được bế cậu bé chưa?"' Hoa Thành đáp "Lại là một con nhãi". Cô gái cười hỏi "Hoa cô mắn con gái thật, thế sao không đưa cháu tới chơi?", Hoa Thành đáp "Vừa khóc rồi ngủ yên đấy". Rồi đó cùng ngồi uống rượu" lại nhìn qua sinh nói "Chàng trẻ này đốt hương thơm đấy", sinh nhìn thấy nàng khoảng hai mươi ba hai mươi bốn tuổi, vẫn còn khá đẹp, trong lòng thích lắm. Lúc gọt trái cây lỡ làm rơi xuống dưới bàn bèn cúi xuống nhặt, lén sờ lên hài nàng, Hoa Thành nhìn qua chỗ khác cười như không hay biết. Sinh đang vui mừng ngây ngất chợt thấy người lạnh ngắt, tự nhìn lại thì quần áo đã biến thành lá cây, vô cùng hoảng sợ, ngồi yên một lúc mới biến thành vải vóc như cũ, mừng thầm là hai nàng không thấy.
Lát sau trong lúc thù tạc lại gãi vào bàn tay Hoa Thành, Hoa Thành thản nhiên cười đùa như không biết gì sinh đang hồi hộp lo sợ thì quần áo đã biến thành lá cây, lát sau mới trở lại như cũ, vì thế hổ thẹn ngồi im không dám nghĩ bậy nữa. Hoa Thành cười nói "Lang quân nhỏ nhà cô thật không đứng đắn, nếu cô không phải là nương tử mang hũ giấm thì e là y đã nhảy lên tới mây xanh rồi". Phiên Phiên cũng mỉm cười đáp "Cứ mặc cho quân bạc bẽo chết rét", hai người cùng vỗ tay cười lớn. Hoa Thành đứng lên nói "Con nhãi thức dậy khát sữa e khóc tới đứt ruột mất". Phiên Phiên cũng đứng lên nói "Ham dụ dỗ chồng người ta, không nhớ gì tới cô Thành con cả". Hoa Thành về rồi, sinh sợ Phiên Phiên trách mắng nhưng nàng vẫn đối xử như trước. Không bao lâu hết thu qua đông, sương sa lá rụng, cô gái bèn nhặt lá rơi để làm lương ăn mùa đông, thấy sinh co ro bèn đem túi ra ngoài cửa động vốc mây trắng làm bông may áo rét cho sinh mặc, thấy ấm áp mềm mại mà nhẹ nhàng như bông mới vậy.
Qua năm sau nàng sinh một con trai rất xinh xắn thông minh, sinh hàng ngày trong động đùa chơi với con làm vui nhưng vẫn nhớ quê, muốn cô gái cùng về. Nàng nói "Thiếp không theo được, thôi chàng cứ đi một mình". Nấn ná hai ba năm, đứa con lớn dần, bèn đính ước thông gia với Hoa Thành. Sinh thường lo nghĩ tới chú đã già, cô gái nói "Chú tuy đã già nhưng may là còn mạnh khỏe, không cần lo lắng, cứ chờ con cưới vợ xong thì đi hay ở tùy chàng". Cô gái ở trong động cứ lấy lá làm giấy viết chữ dạy con học, đứa nhỏ học qua là thuộc lòng, nàng nói "Thằng nhỏ này có phúc tướng, thả vào cỏi trần thì chẳng lo gì không làm nên quan lớn"' Không bao lâu con sinh được mười bốn tuối, Hoa Thành tự đưa con gái tới gả. Cô gái ăn mặc đẹp đẽ, dung nhan lộng lẫy, vợ chồng sinh cả mừng, cả nhà yến tiệc linh đình. Phiên Phiên gõ trâm hát rằng:
Ta có con hiền
Không cần quan sang
Ta có dâu thảo
Không cần bạc vàng
Đêm nay tụ họp
Cả nhà hân hoan
Mời chàng một chén
Chúc chàng an khang
Kế Hoa Thành ra về, hai người cùng vợ chồng con trai ở đối diện nhau trong động phủ. Con dâu hiếu thảo, quấn quýt cạnh mẹ chồng, nàng thương yêu như con ruột. Sinh lại bàn chuyện về quê, nàng nói "Chàng có cốt tục, rốt lại không thành tiên được, con ta cũng là người trong mạch phú quý, chàng nên đưa về để khỏi làm lỡ cuộc đời của nó". Con dâu đang nghĩ việc từ giã mẹ thì Hoa Thành đã tới, hai con lưu luyến, nước mắt lưng tròng, hai bà mẹ an ủi, nói "Các con hãy tạm ra đi, sẽ có dịp trở lại mà". Phiên Phiên cắt lá thành hình lừa, bảo ba người cưỡi về. Đại Nghiệp lúc ấy đã già yếu về hưu, cho rằng cháu đã chết, chợt thấy sinh dắt con trai con dâu về, mừng rỡ như bắt được của báu. Vào tới trong nhà, ba cha con nhìn lại áo quần của mình thấy đều biến thành lá chuối, xé ra thì bông lót bên trong nghi ngút bay lên không, bèn thay quần áo khác. Sau sinh nhớ Phiên Phiên, dắt con vào núi thăm thì lá vàng lấp ngõ, cửa động mây phong, đành sa lệ quay về.
Dị Sử thị nói: Phiên Phiên và Hoa Thành là bậc tiên chết chăng? Ăn lá mặc mây, sao mà kỳ quái như vậy? Nhưng đùa cợt trong phòng, lấy chồng sinh con, cũng có gì khác người trần đâu! Ở trong núi mười lăm năm, tuy lạ lùng ở chỗ không có nhân dân thành quách, nhưng trở lại thì mây mờ cửa động không biết tìm đâu, xem cảnh huống ấy thì thật đúng như lúc Lưu Nguyễn trở lại Thiên Thai* vậy.
* Lưu Nguyễn trở lại Thiên Thai: Thần tiên truyện chép Lưu Thần và Nguyễn Triệu thời Hán vào núi hái thuốc bị lạc đường, gặp hai tiên nữ bèn ở lại đó kết làm vợ chồng với họ nửa năm. Sau hai người nhớ nhà đòi về, tới quê nhà thì đã trải qua mười năm, khi quay lại Thiên Thai tìm hai tiên nữ thì không còn nhận ra lối cũ nữa, đành ngậm ngùi trở về.
116. Dế Chọi (Xúc Chức)
Niên hiệu Tuyên Đức thời Minh (1426-1435) trong cung rất chuộng trò chọi dế, hàng năm bắt dân gian dâng nộp. Vật này không phải sản ở Thiểm Tây nhưng Tri huyện Hoa Âm (tỉnh Thiểm Tây) muốn lấy lòng quan trên đem hiến một con, quan tỉnh cho chọi thử thấy hay bèn đòi đâng nộp thường xuyên. Tri huyện lại đòi lý trưởng phải cung ứng, bọn du thủ du thực ở chợ tìm bắt được con nào hay là nhốt vào lồng nuôi, coi như món hàng quý. Còn bọn lý dịch giảo hoạt lấy lệ dâng nộp dế để sách nhiễu dân chúng, mỗi con nộp lên đủ làm mấy nhà khuynh gia bại sản. Trong huyện có Thành Danh đã dự khoa Đồng tử nhưng lâu không thi đỗ, tính chất phác nên bị bọn lý dịch gian giảo ép làm chức Lý chính, tìm đủ cách chối từ mà không được, chưa đầy một năm thì chút ít gia sản đã cạn kiệt. Gặp kỳ nộp dế, Thành không dám sách nhiễu dân nhưng không có gì để bù, lo buồn chỉ muốn chết.
Vợ nói "Chết thì có ích gì, chẳng bằng cứ tự tìm bắt, biết đâu cũng được một con", Thành cho là phải. Bèn sáng đi tối về, cầm ống trúc lồng tơ bới đất lật đá khắp bãi hoang tường đổ, làm đủ cách mà không được, có bắt được hai ba con thì nhỏ yếu không đủ quy cách. Quan trên theo hạn trách phạt, qua hơn mười ngày Thành đã bị đánh trăm trượng, hai mông máu me bê bết, ngay cả sâu con cũng không sao đi mà bắt nữa, trăn trở trên giường chỉ nghĩ tới việc tự tử. Lúc ấy trong thôn có bà đồng gù lưng tới, bói toán như thần. Vợ Thành đem tiền lễ tới, thấy gái non bà già đứng chật cổng ngõ. Vào trong nhà thì có phòng kín buông rèm, ngoài rèm bày hương án, người tới bói thắp hương trong đỉnh rồi vái lạy, bà đồng đứng bên hướng lên không khấn khứa, môi mấp máy không biết là nói gì, ai cũng kính cẩn đứng chờ. Lát sau trong rèm ném ra tờ giấy ghi rõ về việc người ấy muốn hỏi, không sai chút nào. Vợ Thành đặt tiền lễ lên án rồi thắp hương vái lạy như những người trước, khoảng ăn xong bữa cơm thì tấm rèm lay động, mảnh giấy ném ra. Giở ra xem không phải là chữ mà là bức vẽ, trong vẽ điện gác là chùa chiền, phía sau có hòn núi nhỏ đầy những tảng đá hình thù kỳ quái, gai góc tua tủa, có con dế nằm dưới, bên cạnh có con ếch như sắp nhảy lên, mở xem không hiểu nhưng thấy có con dế ám hợp với việc mình cầu khẩn nên cất vào người đem về đưa Thành xem.
Thành giở đi giở lại, nghĩ "Hay là bức vẽ này chỉ ta chỗ bắt dế chăng?". Nhìn kỹ quang cảnh trong đó thấy rất giống Đại Phật Các ở phía đông thôn, bèn gượng dậy chống gậy cầm bức vẽ tới sau chùa. Ở đó có ngôi mộ cổ, lần quanh thấy đá nằm ngổn ngang đúng như trong bức vẽ bèn dò dẫm trong đám cây cỏ lắng nghe như tìm mũi kim hạt cải, bao nhiêu tâm trí sức mắt sức tai đều dốc ra hết nhưng không thấy gì cả. Đang còn tìm kiếm thì chợt có một con ếch nhảy ra, Thành càng ngạc nhiên vội đuổi theo. Con ếch nhảy vào đám cỏ, Thành theo vết vạch cỏ tìm thì thấy một con dế núp dưới gốc cây gai, vội chụp lấy thì nó chui vào kẽ đá, lấy cọng cỏ chọc vào nó vẫn nằm lỳ, đem ống đổ nước vào mới chịu chui ra, dáng vẻ rất khỏe mạnh, Thành đuổi theo vồ được. Nhìn kỹ thấy nó mình to đuôi đài, cổ xanh cánh vàng, mừng quá nhốt vào lồng mang về. Cả nhà vui mừng, dù là được ngọc báu liên thành cũng không bằng. Rồi thả nó vào chậu nuôi, cho ăn chu đáo, gìn giữ nâng niu chờ tới kỳ hạn nộp quan.
Thành có đứa con trai chín tuổi rình lúc cha không có nhà lén mở chậu ra xem. Con dế thừa cơ nhảy ra, nó đuổi theo mãi không được, đến khi chụp được vào tay thì dế đã gãy cẳng vỡ bụng, lát sau thì chết. Đứa nhỏ sợ quá khóc lóc tới kể với mẹ, mẹ nó nghe thế mặt tái mét, hoảng sợ nói "Đồ oan nghiệt hết sống rồi, cha ngươi về sẽ nói chuyện với ngươi", đứa nhỏ khóc lóc bỏ đi. Lát sau Thành về, nghe vợ kể lại như bị dội băng tuyết lên người, nổi giận đi tìm con nhưng không thấy đâu, kế tìm thấy xác con dưới giếng, đổi giận thành thương gào khóc muốn tắt hơi. Vợ chồng quay mặt vào vách, nhà tranh không khói lửa nấu cơm, im lặng nhìn nhau không còn hy vọng gì nữa. Trời gần tối liệm xác con, tới bế lên thì thấy còn thoi thóp thở, cả mừng bế đặt lên giường, nửa đêm thì đứa nhỏ sống lại. Hai vợ chồng hơi nhẹ lòng, nhưng đứa nhỏ thần thái ngây ngốc như người gỗ, cứ ngủ mê mệt.
Thành nhìn tới lồng dế rỗng không thì đứt hơi nghẹn cổ, cũng không nghĩ gì tới con nữa, từ đêm đến sáng không sao chợp mắt, trời đã sáng rõ vẫn nằm đờ buồn bã. Bỗng nghe tiếng dế gáy ngoài cửa, Thành giật mình vùng dậy nhìn thì dế vẫn còn sờ sờ, mừng rỡ chụp lấy. Con dế kêu to một tiếng nhảy đi, Thành đuổi mau theo lấy bàn tay chụp lên thì thấy trống không như không có gì, giở tay lên thì nó lại nhảy vọt lên. Thành đuổi mau theo tới góc tường thì không thấy đâu, ngơ ngẩn nhìn quanh thấy nó đậu trên vách, nhìn lại thấy vừa nhỏ vừa ngắn mà màu tía, không phải là con trước, cho là loại dở nhưng vẫn quanh quẩn nhìn ngó. Chợt con dế từ vách nhảy xuống tay áo, Thành ngắm kỹ thấy hình dáng như con chó, cánh hoa mai, đầu vuông chân dài, có vẻ như dế hay, bèn mừng giữ lại. Định đem lên nộp quan nhưng thấp thỏm lo quan không vừa ý quan, bèn nghĩ cho chọi thử xem sao. Trong thôn có gã thiếu niên hiếu sự nuôi một con dế, nói là loại "Giải xác thanh" (Xanh vỏ cua), hàng ngày đem chọi với dế của bạn bè đều thắng, muốn giữ để kiếm lợi ai trả giá cao cũng không chịu bán.
Nhân qua thăm Thành thấy con dế Thành nuôi, y bịt miệng ôm bụng cười, đưa dế của mình ra, bỏ vào lồng chọi. Thành nhìn thấy nó to lớn khỏe mạnh càng thêm xấu hổ, không dám cho chọi thử. Thiếu niên cố ép, Thành nghĩ nuôi dế dở rốt lại cũng vô dụng, chi bằng cứ cho chọi thử mua vui, bèn cho dế vào lồng chọi. Con dế nhỏ nằm mọp xuống không động đậy, ngơ ngơ như gà gỗ. Thiếu niên lại cười rộ, lấy lông lọn chọc vào râu, nó vẫn nằm im, thiếu niên lại cười, lại chọc. Con dế nổi giận xông thẳng ra, lúc sắp đánh thì phùng cánh gáy lớn, rồi vềnh râu cong đuôi nhảy xổ tới cắn cổ địch thủ. Thiếu niên cả sợ vội gạt hai con dế ra không cho chọi nữa, con dế hiên ngang gáy vang như báo cho chủ biết nó đã thắng trận. Thành mừng quá, đang cùng nhau ngắm nghía chợt có con gà sấn sổ xông tới mổ luôn một nhát vào dế. Thành kinh hãi bật dậy la hoảng, may là gà mổ không trúng, con dế nhảy ra hơn một thước. Gà sấn theo mổ lia lịa, con dế đã nằm dưới móng gà, Thành thảng thốt không biết làm sao cứu, giẫm chân tái mặt. Nhưng gà lại rướn cổ lăn ra, tới gần nhìn thì thấy dế đã trên mào gà, cắn chặt không buông. Thành càng kinh ngạc mừng rỡ, vội bắt dế bỏ vào lồng.
Hôm sau đem dâng Tri huyện, quan thấy dế nhỏ quát Thành, Thành kể lại chuyện lạ, quan không tin, cho chọi thử với dế của người khác đều thắng, lại đem gà ra thử thì quả như lời Thành nói. Tri huyện bèn thưởng cho Thành, hiến dế cho Tuần phủ. Tuần phủ cả mừng liền cho dế vào lồng vàng hiến vua, dâng sớ tâu rõ cái hay của nó. Vào tới cung cho chọi thử với đủ thứ dế kỳ lạ của các nơi dâng lên như dế bướm, dế bọ ngựa, dế đánh dầu, dế trán tơ xanh thì con nào cũng thua. Mỗi khi nghe tiếng đàn sáo thì nó lại nhảy nhót theo điệu nhạc, mọi người càng lấy làm lạ. Vua rất vừa lòng, ban chiếu thưởng cho Tuần phủ ngựa hay vải quý. Tuần phủ không quên kẻ hiến dế, không bao lâu tâu xin thưởng cho Tri huyện một cấp trác dị. Tri huyện mừng, cho Thành được miễn sai dịch, dặn học quan lấy Thành đỗ Tú tài. Hơn năm sau con Thành bình phục, kể rằng mình hóa thành dế, khoẻ mạnh chọi giỏi nay mới sống lại. Quan tỉnh lại trọng thưởng, không quá vài năm nhà Thành ruộng vườn trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê cả ngàn con, ra khỏi nhà thì mặc áo cừu cưỡi ngựa tốt, giàu sang hơn cả các nhà thế gia.
Dị Sử thị nói: Họ Thành vì sâu mọt mà nghèo, nhờ dế chọi mà giàu, áo cừu ngựa tốt vênh vang, lúc làm Lý chính bị trách phạt chắc không nghĩ rằng mình được thế đâu. Trời đền đáp cho kẻ trưởng giả trọng hậu, tới nỗi Tuần phủ Tri huyện cũng được hưởng phúc ấm nhờ con dế. Thường nghe Một người lên trời, gà chó cũng thành tiên, đúng lắm thay!
117. Hướng Cảo (Hướng Cảo)
Hướng Cảo tự Sơ Đán người Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây), cùng anh là Thạnh rất thương yêu nhau. Thạnh dan díu với một kỹ nữ tên Ba Tư, từng cắt máu ăn thề nhưng bà chủ đòi tiền chuộc quá nặng nên ước nguyện không thành. Gặp lúc bà ta định hoàn lương, muốn bán Ba Tư trước. Có công tử họ Trang vốn thích Ba Tư, xin mua làm thiếp. Ba Tư nói với bà chủ "Đã mong cùng nhau rời nơi nước lửa là muốn ra khỏi địa ngục lên cõi thiên đường, nếu lại làm tỳ thiếp thì có khác nhau bao nhiêu đâu. Nếu mẹ theo ý con thì Hướng lang cũng được mà". Bà ta bằng lòng, bắn tin cho Thạnh. Lúc ấy Thạnh góa vợ chưa tục huyền, được tin mừng lắm, dốc hết của cải cưới Ba Tư về.
Trang nghe tin, giận Thạnh cướp người mình yêu, ngẫu nhiên gặp Thạnh trên đường lớn tiếng chửi mắng. Thạnh cãi lại, Trang quát sai tùy tùng vác gậy đánh chết rồi bỏ đi. Cảo nghe tin chạy tới xem thì anh đã chết, vô cùng đau xót căm phẫn liền kiện lên quận. Trang hối lộ khắp nơi, quan xử Trang chôn cất Thạnh rồi tha. Cảo ôm nỗi phẫn uất không sao phát tiết, nghĩ chỉ còn cách đón đường giết Trang, hàng ngày cứ mang đao sác rình ở bụi rậm trên đường núi. Lâu ngày việc tiết lộ, Trang biết mưu ấy nên ra khỏi nhà là phòng bị nghiêm ngặt, nghe ở Phần Châu (tỉnh Sơn Tây) có Tiêu Đồng dũng mãnh thiện xạ liền đem nhiều vàng tới đón về làm vệ sĩ. Cảo không sao thi hành được kế nhưng hàng ngày vẫn đón rình.
Một hôm Cảo đang nằm rình bỗng mưa rào đổ xuống, cả người ướt đẫm lạnh run cầm cập, kế gió mạnh nổi khắp bốn phía, tiếp theo là mưa đá, toàn thân đau đớn tê dại. Trên núi vốn có miếu thờ Sơn thần, Cảo gượng lần lên, tới nơi thấy vị đạo sĩ quen đang ở đó. Trước đạo sĩ thường vào thôn khuyến hóa, Cảo thường cúng dường nên có biết Cảo. Thấy quần áo Cảo ướt sũng, đạo sĩ đưa cho chiếc áo vải, nói "Cứ tạm thay đi". Cảo thay xong bỗng thấy người cứng đờ phải ngồi chồm hổm, nhìn lại mình thấy mọc đầy lông lá, đã hóa thành cọp mà đạo sĩ thì không còn ở đó nữa. Cảo vừa sợ vừa giận nhưng lại nghĩ nếu vồ được kẻ thù ăn thịt thì cũng hay. Xuống tới chỗ rình lúc nãy thì thấy xác mình nằm trong bụi rậm, mới sực hiểu ra rằng mình đã chết, nhưng vẫn sợ diều quạ rỉa xác nên cứ quanh quẩn cạnh đó canh giữ.
Hôm sau thì gặp Trang đi ngang, cọp vọt ra tát y ngã ngựa, ngoạm đầu nhai nát. Tiêu Đồng quay lại bắn trúng bụng cọp rồi khuỵu chân cũng bị vồ chết. Cảo trong bụi rậm tan hoang chợt như tỉnh mộng, qua một đêm mới đi đứng được, lê bước về nhà. Người nhà thấy Cảo mấy đêm liền không về đang ngờ sợ, thấy Cảo mừng rỡ xúm lại hỏi han, nhưng Cảo chỉ nằm rũ rượi không nói được. Giây lát có tin Trang bị cọp vồ, mọi người tranh nhau tới trước giường báo tin mừng. Cảo bèn nói "Con cọp ấy là ta đấy" rồi kể lại chuyện lạ lùng đã qua, từ đó tin đồn rộng ra. Con Trang đau xót về cái chết của cha, nghe chuyện căm tức đầu đơn kiện Cảo, quan thấy chuyện quái đản lại không có bằng cứ nên không xét tới.
Dị Sử thị nói: Tráng sĩ thề báo ơn ắt không sống mà về, đó là nỗi thương hận của ngàn đời vậy. Giúp cho người ta giết người rồi sống lại, phép thuật nhà tiên sao mà thần diệu vậy. Nhưng trong thiên hạ những chuyện khiến người ta trợn mắt dựng tóc rất nhiều, khiến kẻ căm hận thường hờn không được hóa thành cọp trong chốc lát.
118. Chuyện Lạ Chim Câu (Cáp Dị)
Chim bồ câu rất nhiều giống, đất Tấn (tỉnh Sơn Tây) có Khôn tinh, đất Lỗ (tỉnh Sơn Đông) có Hạch tú, đất Kiềm (vùng Quý Châu) có Dịch diệp, đất Lương (tỉnh Hà Nam) có Phiên khiêu, đất Việt (tỉnh Chiết Giang) có Chư tiêm, đều là những giống lạ. Lại có các loại Hài đầu, Điểm tử, Đại bạch, Hắc thạch, Phu phụ tước, Hoa cẩu nhãn, bấm đốt ngón tay không thể kể hết, chỉ những kẻ ham thích mới biết rõ. Công tử Trương Công Lượng ở huyện Trâu Bình (tỉnh Sơn Đông) nghiện nuôi chim câu, cứ theo sách Cáp tử kinh mà tìm, muốn có đủ hết các giống. Nuôi nấng chim câu thì như chăm chút trẻ thơ, chim lạnh thì chữa bằng cỏ phấn, chim nóng thì cho ăn muối hạt. Chim câu thích ngủ nhưng ngủ nhiều quá thì bị tê bại mà chết, Trương mua ở Quảng Lăng một con giá mười lượng vàng, thân rất nhỏ mà hay chạy, nếu thả xuống đất cứ chạy loanh quanh không ngừng, đến chết mới thôi nên phải có người bắt lại, ban đêm thả vào bầy cho các con khác kinh động để khỏi mắc bệnh tê bại, có tên là Dạ du.
Những nhà nuôi chim câu ở vùng Tề Lỗ đều không sành bằng, công tử cũng lấy việc nuôi chim để kiêu hãnh. Một đêm công tử đang ngồi trong thư phòng, bỗng một thiếu niên áo trắng gõ cửa bước vào, nhìn ra thì chưa từng quen biết. Công tử hỏi, khách đáp "Kẻ phiêu bạt tên họ có gì đáng nói. Ở xa nghe đồn công tư nuôi rất nhiều chim câu, bình sinh ta cũng ưa thích, xin được cho xem". Trương đem hết ra, đủ cả năm sắc, rực rỡ như mây như gấm. Thiếu niên cười nói "Lời đồn quả không ngoa, có thể nói công tử biết hết mọi sự trong nghề nuôi chim câu. Ta cũng có đem theo một hai con, công tử có muốn xem không?", Trương mừng bèn đi theo thiếu niên.
Đêm trăng mờ mờ, đồng không mông quạnh, Trương đang thầm ngờ sợ thì thiếu niên chỉ ra phía trước nói "Xin cố đi thêm một đoạn, nơi ta ngụ không còn xa đâu". Đi thêm mấy chặng thì thấy một khu nhà chỉ có hai gian. Thiếu niên dắt tay Trương vào, thấy trong nhà không có chút đèn lửa. Thiếu niên đứng giữa sân, bắt chước tiếng chim câu gù, chợt có một đôi chim bay ra, vóc dáng như chim thường nhưng lông tuyền màu trắng, bay cao ngang mái hiên, vừa gù vừa chọi, đánh nhau rất hăng. Thiếu niên lấy tay xua, hai con nối cánh bay đi. Thiếu niên lại chúm miệng kêu thành tiếng rất lạ, lại có hai con chim câu ra, con lớn to bằng con le, con nhỏ to bằng nắm tay đỗ xuống thềm múa như chim hạc múa. Con lớn vươn cổ đứng thẳng, xòe cánh làm bình phong, nhún nhảy vừa gù vừa bước như dẫn dắt, con nhỏ vừa kêu vừa bay liệng lên xuống, có lúc đậu lên đầu con lớn, cánh chấp chới như chim én đáp xuống bãi lau, tiếng kêu lắc cắc như tiếng trống bỏi. Con lớn thì vươn cổ đứng yên không động đậy, tiếng kêu càng gấp rút, nghe như tiếng khánh đá, hai giọng hòa vào nhau cũng có tiết tấu. Kế con nhỏ bay vọt lên, con lớn lại lắc lư như chào gọi.
Trương tấm tắc khen ngợi không ngớt lời, tự biết mình kiến thức còn hẹp hòi bèn vái lạy thiếu niên xin được chia sẻ điều ưa thích. Thiếu niên không chìu, Trương nài nỉ mãi, thiếu niên bèn quát đuổi hai con chim câu đang múa đi gọi hai con chim câu trắng ra, bắt lấy đưa Trương, nói "Nếu không ghét bỏ, xin biếu đôi này". Trương nhận lấy ngắm nhìn, thấy mắt chim phản chiếu ánh trăng lấp lánh như hổ phách như không có tròng mắt mà con ngươi tròn đen láy như hạt tiêu kéo cánh lên thấy da thịt trong suốt có thể nhìn rõ tạng phủ. Trương càng lấy làm lạ song vẫn chưa thỏa ý, lại nài xin nữa. Thiếu niên nói "Còn có hai giống nữa chưa đưa ra trình, nhưng giờ không dám mời ông xem nữa". Đang phân bua thì người nhà soi đuốc vào tìm chủ, Trương nhìn lại thì thiếu niên biến thành con chim câu trắng to như con gà bay vút lên trời, còn nhà cửa trước mắt cũng biến mất chỉ còn một ngôi mộ nhỏ trên trồng hai cây bách, bèn cùng gia nhân ôm đôi chim than thở kinh sợ ra về.
Thử bảo bay, chim vẫn thuần lạ như trước, tuy không phải là loại quý nhất nhưng cũng là giống hiếm có trên đời, vì vậy Trương càng yêu quý. Qua hai năm, chim đẻ thêm được ba trống ba mái, dù là thân thích cầu xin Trương cũng không cho. Có ông Mỗ bạn cha là bậc quý quan, một hôm gặp công tử hỏi nuôi chim câu được nhiều không. Công tử dạ dạ cáo lui, nghĩ rằng ông cũng thích, muốn làm vừa lòng nhưng khó nỗi dứt ruột chia sẻ vật mình yêu thích. Nhưng lại nghĩ bậc trưởng thượng đã hỏi tới thì không thể làm ngơ, không dám đưa chim thường bèn chọn hai con chim câu trắng bỏ vào lồng gởi biếu, tự cho rằng ngàn vàng cũng không sánh được.
Ngày khác gặp ông Mỗ, công tử có vẻ đắc ý nhưng không thấy ông nói một câu cảm ơn, không nhịn được bèn hỏi đôi chim hôm trước tốt không, Mỗ đáp cũng béo ngon. Trương phát hoảng hỏi "Đã mổ thịt rồi ạ?", ông đáp "Phải". Trương cả kinh nói "Đó không phải loại chim câu thường, người ta vẫn gọi là giống Thát đát đấy ạ", ông Mỗ nhớ lại rồi nói "Mùi vị cũng không khác chim thường mấy", Trương thương tiếc ôm hận trở về. Đến tối Trương mơ thấy thiếu niên áo trắng đến trách "Ta thấy ông có lòng yêu thương nên mới đem con cháu gởi gắm, sao lại đem ngọc sáng ném cho thằng mù để tới nỗi chúng bị nấu nướng. Nay ta dắt hết lũ con đi đây". Nói xong hóa thành chim câu, các con chim câu trắng Trương nuôi đều bay theo. Sáng ra Trương tới chuồng xem thì quả không còn con nào nữa, vô cùng ân hận bèn đem tất cả chim câu mình nuôi chia tặng bạn bè, vài hôm thì hết sạch.
Dị Sử thị nói: Vật nào cũng quy tụ về chỗ kẻ ưa thích nó, lời ấy đúng lắm. Như Diệp công tử thích rồng thì có rồng thật vào nhà*, huống hồ kẻ học thích bạn tốt, vua sáng thích tôi hiền ư? Nhưng chỉ có tiền bạc là ưa thích càng nhiều thì quy tụ càng ít, cũng cho thấy quỷ thần giận sự tham lam chứ không giận sự si mê vậy.
*Diệp công tử... vào nhà: Thân tử chép công tử Diệp Cao Chi thích rồng, chạm vẽ hình rồng khắp nhà, rồng trên trời nghe biết bèn tới nhà thò đầu vào xem.
119. Giang Thành (Giang Thành)
Cao sinh ở huyện Lâm Giang (tỉnh Cát Lâm) tên Phồn, lúc trẻ thông minh tuấn tú, mười bốn tuổi đã vào học trường huyện, các nhà giàu tranh nhau hứa gả con gái cho. Nhưng sinh kén chọn quá quắt, mấy lần cãi lời cha. Cha là Trọng Hồng sáu mươi tuổi chỉ có sinh là con trai nên rất chiều chuộng, không nỡ làm trái ý con. Trước ở thôn Đông có ông Phàn dạy trẻ ở phố, đưa gia đình tới thuê nhà sinh ở. Phàn có con gái tiểu tự là Giang Thành cùng tuổi với sinh, lúc ấy đều khoảng tám chín tuổi, hai đứa nhỏ hàng ngày vẫn chơi đùa với nhau. Sau Phàn dời đi, bốn năm năm không nghe tin tức. Một hôm sinh đi trong hẻm, thấy một nữ lang vô cùng xinh đẹp, có một a hoàn nhỏ sáu bảy tuổi đi theo, không dám nhìn thẳng chỉ đưa mắt liếc. Cô gái nhìn sững như muốn nói gì đó, nhìn kỹ thì té ra là Giang Thành. Hai bên đều bất ngờ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, không ai nói gì chỉ ngẩn ra hồi lâu rồi rời đi, đôi lòng bịn rịn. Sinh cố ý thả chiếc khăn đỏ xuống đất rồi đi, a hoàn nhỏ nhặt lên mừng rỡ đưa cô gái, nàng cũng lấy khăn của mình giả nói với nó rằng "Cao Tú tài không phải ai lạ, đừng lấy vật của chàng làm rơi, đuổi theo mà trả lại đi", đứa a hoàn nhỏ quả nhiên đuổi theo đưa cho sinh.
Sinh được chiếc khăn cả mừng, về thưa với mẹ xin hỏi cưới Giang Thành. Mẹ nói "Nhà ấy không có được nửa gian phòng, trôi nổi lưu lạc, đâu đáng cưới làm vợ". Sinh nói "Tự con muốn thế, quyết không hối hận". Mẹ do dự không dám quyết, bàn tính với Trọng Hồng, Hồng nhất quyết nói là không nên, sinh nghe thế buồn rầu bỏ cả cơm cháo. Mẹ lo quá bèn nói với Cao "Họ Phàn tuy nghèo nhưng cũng không phải là hạng vô lại gian trá, để ta qua chơi nhà xem, nếu đứa con gái ấy có thể hỏi cưới được thì có hại gì", Cao bằng lòng. Mẹ sinh bèn mượn cớ đi lễ đền Hắc Đế ghé qua, thấy cô gái mắt sáng răng ngà, xinh đẹp tự nhiên thì ưa thích lắm, tặng cho tiền lụa rồi tỏ thật ý mình, bà Phàn khiêm nhượng từ chối nhưng sau cùng cũng nhận lời. Bà về kể lại mọi chuyện, sinh mới tươi cười.
Năm sau chọn ngày tốt cưới Giang Thành về, vợ chồng rất thương yêu nhau. Nhưng nàng hay giận hờn, trở mặt nhìn chồng như người lạ, miệng lưỡi đanh đá thường chao chát bên tai, sinh vì thương yêu nên cũng cố nhịn. Cha mẹ sinh hơi biết chuyện trong lòng bực bội, lén trách mắng con trai, cô gái nghe được ghét lắm, càng chửi mắng chồng nhiều hơn. Sinh dần dần cũng dằn giọng cãi lại, nàng càng giận dữ, vác gậy đánh đuổi ra ngoài phòng đóng cửa lại. Sinh co ro bên ngoài không dám gõ cửa, đành ngồi bó gối ngủ dưới mái hiên. Từ đó cô gái coi chồng như kẻ thù, ban đầu quỳ gối còn có thể phân trần, dần dần quỳ gối hết thiêng, chồng lại càng khổ. Cha mẹ chồng trách mắng vài câu thì nàng cãi lại vô cùng hỗn láo, hai ông bà tức giận bắt sinh bỏ vợ, đuổi nàng về nhà cha mẹ ruột. Phàn vừa thẹn vừa sợ, nhờ người bạn thân của Trọng Hồng tới năn nỉ xin cho Giang Thành trở lại nhưng Trọng Hồng không chịu. Hơn năm sau sinh đi đường gặp cha vợ, ông níu áo kéo mời về nhà, hết lời xin lỗi, bảo con gái ăn mặc đẹp đẽ ra gặp. Vợ chồng gặp nhau bất giác mủi lòng, Phàn bèn mua rượu về đãi con rể, mời mọc rất niềm nở. Không bao lâu trời tối, ông cố giữ sinh ngủ lại, quét dọn phòng riêng bảo hai vợ chồng ngủ chung. Sáng ra sinh về nhà, không dám nói thật với cha mẹ, chỉ tìm lời che đậy thêu dệt cho qua chuyện. Từ đó cứ năm ba ngày sinh lại tới ngủ ở nhà cha vợ một đêm mà cha mẹ không biết.
Một hôm Phàn tự tới nhà Trọng Hồng, lúc đầu Trọng Hồng không tiếp, Phàn năn nĩ mãi mới ra mặt. Phàn quỳ gối cầu xin, Cao không nhận, nói là để con trai mình quyết định. Phàn nói "Đêm qua con rể ngủ lại nhà ta, không nghe nói gì khác cả". Cao giật mình hỏi ngủ lại từ lúc nào, Phàn bèn kể lại, Cao thẹn thùng tạ lỗi, nói "Quả là ta không biết, chứ nếu nó thương yêu thì lẽ nào ta lại một mình căm ghét". Phàn về rồi, Cao gọi con ra chửi mắng, sinh chỉ cúi đầu không nói gì. Đang lúc ấy thì Phàn đưa con gái tới, Cao nói "Ta không thể chịu lỗi thay con, phiền ông làm chứng cho ta chia nhà ra ở riêng". Phàn khuyên lơn nhưng Cao không nghe, dọn nhà riêng cho vợ chồng con, sai một tỳ nữ qua hầu hạ. Hơn một tháng thấy rất yên ổn, cha mẹ sinh cũng mừng thầm. Nhưng không bao lâu cô gái lại dần dần rông càn, mặt sinh thường có vết móng tay cào cấu, cha mẹ biết rõ nhưng còn nhịn để đó không hỏi tới. Một hôm sinh không chịu nổi roi gậy, chạy qua nhà cha mẹ trốn, run rẩy như chim sẻ bị diều ó đuổi. Hai ông bà còn ngạc nhiên hỏi han thì cô gái đã cầm gậy đuổi theo vào, tới ngay cạnh ông túm lấy sinh đánh túi bụi. Ông bà quát tháo ầm ĩ nàng cũng không đếm xỉa gì tới, đánh chồng tới mấy mươi gậy mới hằm hằm bỏ đi. Cao đuổi con ra, nói "Ta muốn tránh ồn ào nên mới ở riêng, còn ngươi thích nó thì trốn đi làm gì?".
Sinh bơ vơ chẳng biết đi đâu, Cao sợ hành hạ quá thì con trai tự tử bèn cho ở riêng một chỗ, nấu cơm cho ăn. Lại gọi Phàn tới, bảo qua mà dạy con gái. Phàn vào nhà nói đủ lời để răn dạy, cô gái đã không nghe lại còn trả treo xách mé. Phàn phủi áo bỏ đi, thề dứt tình cha con. Không bao lâu, Phàn phẫn uất sinh bệnh, cùng vợ nối nhau chết. Cô gái căm hận, cũng không về đưa đám, chỉ hàng ngày cách tường chửi mắng, cố ý cho cha mẹ chồng nghe, Cao để ngoài tai không đếm xỉa gì tới. Sinh từ khi ở một mình thấy như thoát khỏi nước sôi lửa bỏng, nhưng thấy hiu quạnh, lén cho tiền bà mối họ Lý dẫn gái vào phòng sách, toàn chờ lúc đêm tối ra vào. Lâu ngày cô gái nghe phong thanh bèn tới phòng sách mắng chửi, sinh hết sức phân trần là oan, chỉ trời vạch đất mà thề nàng mới về, từ đó hàng ngày rình rập chờ sinh sơ hở.
Một hôm bà Lý từ phòng sách ra thì nàng bắt gặp, gọi ầm lên. Bà ta biến sắc, cô gái càng nghi ngờ nói với bà ta "Nói thật cho ta biết bà làm những gì thì may ra ta còn tha cho, nếu giấu diếm thì ta nhổ không còn một sợi tóc đấy". Bà Lý run rẫy nói "Nửa tháng nay chỉ có kỹ nữ Vân Nương tới đây hai lần thôi. Mới rồi công tử nói đi chơi núi Ngọc Ty gặp vợ họ Đào, thích đôi bàn chân nàng nhỏ nhắn nên dặn ta gọi tới. Nàng ta tuy lẳng lơ nhưng cũng chưa chắc chịu làm như kỹ nữ, thật không rõ có được không". Cô gái thấy bà ta thành thật nên tha cho, bà ta định đi thì nàng giữ lại. Trời sập tối nàng quát bà ta rằng "Tới phòng sách trước, tắt hết đèn đi, nói họ Đào tới rồi". Bà Lý theo lời, cô gái vào theo ngay, sinh mừng quá, kéo tay giục ngồi, tỏ lòng khát khao gặp gỡ, nàng im lặng không nói gì. Sinh mò trong bóng tối cầm bàn chân nàng nói "Từ khi lên núi được thấy dung mạo người tiên một lần, lòng cứ nhớ nhưng cái này thôi", nàng vẫn im lặng. Sinh nói "Mong ước bấy lâu nay mới toại nguyện, sao lại kề mặt mà không nhìn thấy nhau?", rồi đích thân thắp đèn lên, soi tới thì té ra là Giang Thành! Sinh sợ hãi thất sắc, đánh rơi chiếc đèn xuống đất, quỳ xuống run cầm cập như bị gươm kề cổ vậy. Cô gái nắm tai kéo về, lấy kim đâm nát hai đùi rồi bắt nằm dưới giường, lúc nào tỉnh giấc lại chửi rủa kể tội.
Sinh đã sợ nàng như cọp nên cho dù lúc nàng nguôi giận thì lúc chăn gối cũng run rẫy không ra đàn ông, nàng tát vào mặt thét đuổi xuống, càng thêm chán ghét khinh bỉ không coi là con người nữa. Sinh hàng ngày trong chốn hương xông xạ ủ mà như kẻ gian ở tù tôn kính người canh ngục vậy. Cô gái có hai chị đều lấy chồng là Chư sinh. Người chị lớn hiền lành ít nói, vẫn không hòa thuận với nàng. Chị thứ hai lấy họ Cát, là người giảo quyệt khéo nói, ưa trang điểm chải chuốt, dung mạo không bằng Giang Thành nhưng về khoản ghen tuông hung dữ thì cũng xấp xỉ. Hai chị em mà gặp nhau thì không nói sự gì khác, chỉ khoe những việc bắt nạt chồng, lấy làm đắc ý với nhau, vì thế đi lại rất thân thiết. Sinh tới nhà họ hàng nào cô gái cũng giận dữ trách mắng, duy tới nhà Cát thì nàng có biết cũng không ngăn cấm.
Một hôm sinh uống rượu ở nhà Cát, lúc đã say Cát nhạo "Sao chú sợ vợ quá thế?", sinh cười đáp "Thiên hạ có nhiều việc không sao hiểu nổi. Ta sợ vợ ta là sợ sắc đẹp, nhưng có kẻ đẹp thua xa vợ ta mà người ta cũng sợ ngang ta, chẳng phải là quá đáng sao?". Cát thẹn quá không đáp được, đứa tỳ nữ nghe thế vào kể với vợ Cát, vợ Cát nổi giận cầm gậy sấn ra. Sinh thấy dáng vẻ hung dữ vội xỏ giày toan chạy thì gậy đã đập trúng lưng, sinh bị ba gậy ngã quỵ ba lần không dậy nổi, dập cả trán, máu tuôn như xối. Vợ Cát bỏ vào, sinh mới khập khiễng lê chân về nhà. Vợ giật mình hỏi duyên cớ, lúc đầu sinh nghĩ mình chọc giận chị vợ mà bị đòn nên không dám nói, vợ gặng hỏi mấy lần mới kể rõ đầu đuôi. Cô gái lấy lụa băng trán sinh xong, nổi giận nói "Chồng người ta ai mượn nó đánh giùm kia chứ?", liền mặc áo ngắn tay, lận chày gỗ, dắt tỳ nữ theo. Tới nhà Cát, chị hai tươi cười ra đón, cô gái chẳng nói chẳng rằng, rút chày đánh chị ngã gục, áo xống rách nát đau đớn, dập môi gãy răng vãi cả cứt đái. Nàng về rồi chị hai vừa thẹn vừa tức sai chồng tới mách với Cao, sinh ra đón, hết lời an ủi. Cát nói riêng với sinh "Ta tới đây vì bất đắc dĩ thôi, con mụ ấy hung dữ bất nhân, may nhờ có tay dì nó trừng phạt cho, chứ hai chúng ta có thù hiềm gì với nhau đâu". Cô gái nghe thấy lập tức sấn ra chỉ mặt Cát mắng "Quân hèn hạ kia, vợ bị đòn mà lại đi lấy lòng người ngoài à, hạng đàn ông này không đánh cho chết còn để làm gì?", rồi thét đem gậy ra, Cát hoảng sợ tông cửa chạy mất. Sinh từ đó không còn nơi nào lui tới cả.
Có hôm bạn đồng học là Vương Tử Nhã tới chơi, sinh giữ chuyện trong phòng ra đùa nhau, có hơi quá đáng. Gặp lúc cô gái ra nhìn lén khách, núp nghe rõ cả, bèn ngầm bỏ bã đậu vào canh bưng ra cho khách ăn. Giây lát Vương thượng thổ hạ tả dữ dội, thở khò khè như sắp chết. Nàng sai tỳ nữ ra hỏi "Còn dám vô lễ nữa không?", Vương mới hiểu ra là bệnh từ đâu tới bèn rên rỉ xin lỗi. Nàng đưa nước đậu xanh nấu sẵn ra, Vương uống xong thì hết, từ đó bạn bè răn nhau, không ai dám ăn uống gì ở nhà sinh nữa. Vương có quán rượu, trong quán có rất nhiều hồng mai nở, đặt tiệc mời bạn bè tới chơi, sinh lấy cớ họp văn xã trình với vợ xin cho đi dự. Đến tối lúc đã say, Vương nói "Vừa mới có một danh kỹ ở Nam Xương (tỉnh thành Giang Tây) tới lưu ngụ ở đây, có thể gọi tới cùng uống rượu". Mọi người cả mừng, duy sinh rời tiệc lấy cớ đã say xin về. Mọi người kéo áo lại nói "Vợ ông tai mắt dẫu dài cũng không sao nghe thấy được chuyện ở đây", rồi cùng thề giữ kín không nói lộ ra, sinh bèn ngồi xuống.
Giây lát nàng kỹ nữ tới, khoảng mười bảy mười tám tuổi, vòng ngọc leng keng, tóc mây búi cao. Hỏi tên họ, nàng xưng là họ Tạ, tiểu tự Phương Lan, nói năng trò chuyện vô cùng phong nhã, cả tiệc ai cũng say mê. Nhưng Phương Lan chỉ để ý tới sinh, mấy lần để lộ ý tứ, mọi người biết được liền kéo hai người ngồi sánh vai nhau. Phương Lan lấy ngón tay viết vào lòng bàn tay sinh chữ "ngủ", lúc ấy sinh muốn về thì không đành, muốn ở thì không dám, lòng rối như tơ vò không thể tả được. Nhưng cứ cúi đầu nghiêng tai thì thầm trò chuyện, càng say càng lả lơi phóng túng quên cả con sư tử ở nhà. Một lát nghe trống canh một, khách trong quán rượu càng thưa, nhìn ra chỉ còn một thiếu niên đẹp trai ngồi dưới bóng đèn uống rượu một mình, bên cạnh có tiểu đồng cầm khăn đứng hầu, mọi người đều thầm khen là cao nhã. Không bao lâu thiếu niên uống xong, đứng dậy đi ra, tiểu đồng ra theo rồi quay lại nói với sinh "Chủ ta chờ ông để xin thưa một câu". Mọi người đều không biết là ai, duy sinh tái mặt không kịp cáo biệt bạn bè, vội vàng đi ra.
Thì ra thiếu niên là Giang Thành còn tiểu đồng là đứa tỳ nữ ở nhà. Sinh theo về nhà, nằm mà chịu đánh, từ đó càng bị cấm cố chặt chẽ, tuyệt hết việc đi lại với bạn bè thân thích. Quan học sứ xuống khảo thí, sinh thi rớt bị giáng xuống hạng thanh*. Một hôm sinh trò chuyện với đứa tỳ nữ, cô gái nghi là có tư tình liền lấy hũ rượu chụp lên đầu tỳ nữ đánh đòn rồi trói hai người vào nhau, lấy dao cắt thịt bụng hai người, đắp thịt của người này vào bụng người kia rồi cởi trói bảo tự băng bó lấy, hơn tháng sau miếng thịt vá ấy dính luôn vào bụng. Cô gái thường lấy chân đạp lên bánh, kế ném vào chỗ đất cát bụi bặm rồi quát bảo sinh nhặt lên mà ăn, những việc như thế rất nhiều.
*Hạng thanh: thời Thanh có lệ khảo khóa học trò hàng năm, chia làm sáu hạng mà thăng giáng, hạng thứ năm và thứ sáu gọi là thanh và xã, nếu lần sau lại thi rớt thì bị truất về làm dân.
Mẹ sinh vì việc của con ngẫu nhiên ghé qua, thấy con gầy như que củi, trở về khóc lóc muốn chết. Đêm mơ thấy có ông già nói "Không cần phải lo phiền, đó là nhân quả kiếp trước. Giang Thành vốn là con chuột trường sinh của Hòa thượng Tĩnh Nghiệp nuôi, công tử kiếp trước là học trò, một hôm tới chơi chùa vô tình đạp chết nó, nay là quả báo không thể sức người mà làm hồi tâm được đâu. Mỗi sáng cứ thành tâm tụng niệm bài chú của Quan âm một trăm lần, tự nhiên sẽ thấy hiệu nghiệm". Bà tỉnh dậy kể lại cho Trọng Hồng, cùng lấy làm lạ. Vợ chồng theo lời chỉ dạy, hơn hai tháng cô gái vẫn ngang ngược như cũ, lại thêm điên cuồng. Cứ nghe ngoài cửa có tiếng chiêng trống lại xõa tóc chạy ra nhìn dáo dác, hàng ngàn người chỉ trỏ bàn tán cũng mặc kệ. Ông bà thấy con dâu như thế rất hổ thẹn nhưng không sao ngăn cản, chỉ chê bai thầm mà thôi.
Chợt có nhà sư già tới trước cổng thuyết pháp, người ta đứng xem kín như bức tường. Sư thổi vào mặt trống thành tiếng kêu như trâu rống, cô gái chạy ra thấy người ta đứng dày đặc không có kẽ hở bèn gọi tỳ nữ đem ghế ra để đứng lên xem, thiên hạ đổ dồn mắt vào cũng thản nhiên như không hay biết gì. Lát sau sư giảng kinh xong, xin một bát nước trong cầm tới trước mặt cô gái đọc lớn "Chớ giận hờn, Chớ giận hờn? Kiếp trước chẳng phải giả, Kiếp này chẳng phải chân, ồ! Chuột nên co cổ chạy, Đừng để mèo bắt ăn", đọc xong ngậm nước phun vào mặt nàng, son phấn trôi nhễ nhại nhỏ xuống cả áo quần. Mọi người cả sợ, nghĩ rằng cô gái sẽ bừng bừng nổi giận, nhưng nàng im lặng lau mặt rồi vào, sư cũng bỏ đi.
Cô gái vào phòng ngồi ngẩn ra như mất hồn, cả ngày không ăn uống gì, kế dọn giường ngủ sớm. Nửa đêm chợt gọi sinh dậy, sinh ngỡ định sai phái liền bưng chậu tiểu đưa lên. Nàng đẩy chậu ra, ngầm nắm tay sinh kéo vào trong chăn, sinh vâng lệnh mà chân tay run lẩy bẩy như tiếp chiếu chỉ của vua. Cô gái cảm khái nói "Làm cho chàng đến thế này, sao đáng gọi là người?", rồi lấy tay xoa khắp người sinh, cứ tới vết dao gậy thì sụt sùi khóc lóc, lấy móng tay tự cào vào mình, hận không chết ngay tức khắc. Sinh thấy thế bất nhẫn, ra sức an ủi. Cô gái nói "Thiếp nghĩ vị hòa thượng lúc ban ngày ắt là Bồ Tát hóa thân, một chén nước lạnh mà như thay đổi cho cả gan ruột. Giờ nghĩ lại những việc mình đã làm đều như ở kiếp khác, thiếp lúc trước chắc không phải là người chăng? Có vợ chồng mà không biết âu yếm, có cha mẹ mà không biết phụng thờ, lòng dạ gì thế? Sáng mai phải dọn qua ở chung với cha mẹ để thăm nom hầu hạ", vợ chồng nói chuyện suốt đêm như xa cách mười năm mới gặp lại.
Tảng sáng nàng lập tức trỗi dậy gói ghém quần áo vật dùng, sai tỳ nữ cầm giỏ còn mình mang gói, giục sinh đi trước gọi cửa. Mẹ ra hoảng sợ hỏi han, sinh nói ý vợ. Mẹ đang ngần ngại thì cô gái đã dắt tỳ nữ vào nhà. Mẹ vào theo, nàng quỳ mọp xuống đất khóc lóc thảm thiết, chỉ xin tha tội chết. Mẹ thấy là thật lòng cũng khóc nói "Con ta sao thay đổi mau thế?". Sinh kể lại tỉ mỉ chuyện trước, mẹ mới hiểu ra rằng giấc mơ trước kia đã ứng nghiệm, mừng rỡ sai tôi tớ dọn dẹp gian nhà cũ cho hai vợ chồng ở. Cô gái từ đó thờ cha mẹ còn hơn cả con trai có hiếu, gặp ai cũng khép nép như cô dâu mới về nhà chồng, ai đùa nhắc lại chuyện cũ thì thẹn đỏ mặt.
Lại cần kiệm khéo buôn bán, qua ba năm cha mẹ không phải lo tới sinh kế mà nhà đã nổi tiếng giàu có cự vạn. Năm ấy sinh thi đỗ Cử nhân, cô gái thường nói "Ngày trước thiếp gặp Phương Lan một lần, nay vẫn còn nhớ nàng", sinh vì không bị hành hạ đã lấy làm mãn nguyện, không dám mơ tưởng tới chuyện cưới hầu thiếp nên chỉ dạ dạ mà thôi. Kế sinh vào kinh thi hội mấy tháng mới về, vào phòng thấy Phương Lan đang đánh cờ với Giang Thành, ngạc nhiên hỏi han, thì ra cô gái đem mấy trăm đồng vàng chuộc Phương Lan ra. Lúc ta ở vùng Thiệu Hưng Chiết Giang được quen ông Vương Tử Nhã, cả đêm kể cho nghe rất rõ ràng.
Dị Sử thị nói: Nghiệp căn của đời người, một hớp nước một miếng cơm cũng phải chịu báo ứng, nhưng chỉ những kẻ chịu báo ứng chỗ phòng khuê thì như bị ghẻ trong xương, sự thảm độc càng ghê gớm. Thường thấy trong thiên hạ những người vợ hiền chỉ có một phần còn vợ dữ tới chín phần, cũng đủ biết những người tu dưỡng nết tốt trên đời rất ít. Quan Thế âm pháp lực vô biên, sao không đem nước cam lồ trong bình ngọc rưới khắp thế gian?
120. Bát Đại Vương (Bát Đại Vương)
Phùng sinh ở huyện Lâm Thao (tỉnh Cam Túc), người thuật chuyện không nhớ tên, chỉ biết là dòng dõi thế gia đã sa sút. Có người chài lưới thiếu nợ sinh không trả nổi nên cứ bắt được ba ba là đem lại biếu. Có lần biếu con ba ba cực to, trán có đốm trắng, sinh thấy hình dạng lạ lùng liền thả ra sông. Sau sinh đi thăm con rể trở về, tới bờ sông Hằng Hà thì trời vừa tối thấy một người say có hai ba tiểu đồng theo sau ngất ngưởng đi tới, thấy sinh hỏi là ai? Sinh đáp bừa là kẻ đi đường, người say giận nói "Chẳng lẽ không có tên họ à, sao chỉ nói là kẻ đi đường?," Sinh sốt ruột lo về nên không buồn đáp, cứ đi thẳng qua mặt, người say càng giận, nắm lấy áo sinh không cho đi, mùi rượu nồng nặc. Sinh rất khó chịu mà cố sức gỡ ra không được bèn hỏi ngươi tên gì, người say lè nhè đáp "Ta là Lệnh doãn cũ ở Nam Đô, ngươi định làm gì?". Sinh nói "Thế gian có thứ Lệnh doãn như vậy, thật là chửi cả thiên hạ. May là Lệnh doãn cũ đấy, chứ nếu là Lệnh doãn mới chắc giết ráo người đi đường rồi phải không?". Người say giận lắm toan giở võ, sinh lớn tiếng nói "Phùng mỗ ta không phải là kẻ để yên cho người đánh đâu!". Người say nghe thế đổi giận làm vui, lảo đảo lạy rạp xuống nói "Té ra là ân chủ, mới rồi đường đột xin đừng bắt tội", rồi đứng dậy bảo kẻ tùy tùng về trước dọn rượu.
Sinh từ chối không được, người ấy nắm tay dắt đi vài dặm thì tới một xóm nhỏ, vào trong thấy nhà của đẹp đẽ như phủ đệ quý nhân. Người say hơi tỉnh rượu rồi, sinh mới hỏi thăm tên họ là gì, y đáp "Nói ra xin chớ kinh hãi, ta là Bát Đại vương ở sông Thao đây. Mới rồi tiên Thanh Đồng ở Tây Sơn mời đi uống rượu, không ngờ say quá nên xúc phạm tôn nhan, nghĩ rất hổ thẹn". Sinh biết là yêu quái, nhưng thấy tình ý niềm nở nên cũng không sợ sệt gì. Giây lát rượu thịt dọn lên ê hề, giục sinh ngồi vào tiệc. Bát vương uống rất hào, dốc cạn liên tiếp mấy chén, sinh sợ y say lại sinh sự bèn giả say đòi đi nằm. Bát vương hiểu ý cười nói "ông sợ ta bừa bãi sao? Xin chớ lo, phàm kẻ say vô hạnh rồi qua đêm nói rằng không nhớ đã làm những gì là nói dối thôi, bọn bợm rượu mất nết thì mười người có chín người như vậy đấy. Nhưng ta tuy không dám sánh với người tốt song nghĩ lại cũng chưa từng dám làm điều vô lại với bậc trưởng giả sao ông cự tuyệt thẳng thừng như thế?". Sinh bèn ngồi xuống nghiêm sắc mặt can rằng "Ông đã tự biết, sao không sửa đổi?", Bát vương đáp "Lão phu lúc làm Lệnh doãn thì say sưa còn quá ngày nay, từ khi làm Thượng đế tức giận bị đày ra cù lao, cố bỏ thói cũ đã hơn mười năm. Nay sắp chết mà còn lận đận không được vẫy vùng nên thói cũ lại nảy sinh mà không tự biết. Nay xin kính cẩn vâng lời ông".
Đang chuyện trò thì nghe tiếng chuông chùa xa xa, Bát vương đứng lên cầm tay sinh nói "Gặp gỡ không được lâu, nay có một vật xin tặng để đền ơn lớn. Vật này không nên mang lâu, khi nào được như nguyện rồi xin trả lại cho ta". Rồi khạc ra một hình người bé tí dài hơn một tấc, lấy móng tay rạch vào cánh tay sinh, đau như xé ruột, đặt mau hình người lên rồi đè xuống, buông tay ra thì đã chìm hẳn vào trong thịt, vết móng tay vẫn còn mà chỗ đó gồ lên như mụn nhọt. Sinh sợ hãi hỏi, Bát vương cười không đáp, chỉ nói "ông nên đi thôi"' rồi tiễn sinh ra. Bát vương trở vào, sinh ngoảnh nhìn thì xóm làng nhà cửa đều biến mất, chỉ có một con ba ba lớn đang ì ạch bò xuống nước rồi mất tăm. Sinh kinh ngạc sửng ra hồi lâu rồi tự nghĩ vật mình vừa được cho ắt là ngọc ba ba.
Từ đó mắt rất sáng, phàm nhưng nơi có châu báu, dù ở tận suối vàng cũng nhìn thấy được, ngay cả những món chưa từng biết cũng ứng khẩu gọi được đích danh, đào được mấy trăm lượng vàng chôn ngay dưói phòng ngủ, việc chi tiêu cũng đầy đủ. Sau có người bán ngôi nhà cũ, sinh nhìn thấy tiền bạc chôn giấu vô số bèn bỏ nhiểu tiền ra mua, từ đó giàu có ngang bậc vương hầu, các loại ngọc quý hiếm trên đời trong nhà đều có đủ. Lại được một tấm gương, phía sau chạm hình chim phượng đeo vòng, mây nước và Tương Phi, chiếu sáng cả dặm, có thể thấy rõ từng sợi tóc. Người đẹp mà soi vào thì hình bóng sẽ in lại, lau chùi cũng không mất được, nếu thay quần áo khác soi lại hoặc người đẹp khác soi lên thì ảnh trước mới mất đi.
Lúc bấy giờ công chúa thứ ba trong Túc vương phủ* nhan sắc tuyệt đẹp, sinh rất hâm mộ. Gặp lúc công chúa đi chơi núi Không Động, sinh tới rình trong núi chờ khi công chúa trên kiệu bước xuống lấy gương ra soi rồi mang về đặt lên bàn, nhìn kỹ thấy mỹ nhân ở trong cầm khăn mỉm cười, miệng như muốn nói, mắt như muốn liếc, mừng rỡ cất kỹ. Hơn một năm, vì vợ nói lộ ra, Túc vương nghe được cả giận, bắt giam sinh, đòi lấy tấm gương, định xử án chém. Sinh hối lộ rất nhiều cho một quý nhân trong vương phủ, nhờ tâu với Túc vương rằng "Nếu vương tha thì bao nhiêu của báu trên đời muốn có cũng dễ, nếu không thì ta cũng tới chết là cùng, mà vương thì chẳng có lợi gì cả". Vương muốn tịch biên gia sản và đày sinh đi xa, công chúa thứ ba nói "Y đã nhìn con, dù giết mười lần cũng không đủ gột rửa tiếng nhơ, chi bằng gả con cho y". Vương không nghe.
*Túc vương phủ: tức Túc Trang vương, hoàng tử thứ mười bốn của Minh Thái tổ nhà Minh, được phong là Hán vương, năm Hồng Vũ thứ 25 (1392) đổi phong là Túc vương, năm sau ra lập phủ đệ ở Cam Túc.
Công chúa đóng cửa không chịu ăn, Vương phi lo quá, cố nói với vưong, vương bèn thả sinh ra, lại sai vị quý nhân kia ngỏ ý với sinh. Sinh từ chối nói "Người vợ từ lúc hàn vi không thể bỏ, ta thà chết chứ không dám vâng lệnh, nếu vương cho chuộc tội thì dốc hết gia sản ra cũng được", vương giận lại bắt giam sinh. Vương phi triệu vợ sinh vào cung, định hạ độc giết chết. Vợ sinh vào, đem chiếc giá gương san hô làm lễ ra mắt, lời lẽ mềm mỏng dễ thương, Vương phi hài lòng, sai bái kiến công chúa thứ ba, công chúa cũng thích, bèn đính ước làm chị em rồi sai người vào ngục dụ sinh. Sinh nhắn vợ rằng "Con gái nhà vương hầu thì không thể lấy việc cưới trước cưới sau mà bàn lớn bé được đâu". Vợ không nghe cứ về sắp đặt sính lễ đưa tới vương phủ, người đội lễ vật có tới hàng ngàn, nhiều loại châu quý ngọc lạ nhà vương cũng không biết tên.
Vương cả mừng gả công chúa cho sinh, công chúa vu quy cũng đem tấm gương về. Một đêm sinh ngủ một mình, mơ thấy Bát vương nghênh ngang vào, nói "Vật ta đã tặng nay nên trả lại. Mang nó lâu quá thì hao tổn tinh huyết, chiết giảm tuổi thọ". Sinh vâng dạ, giữ lại uống rượu, Bát vương từ chối, nói "Từ lúc nghe ông khuyên, ta bỏ dứt rượu được ba năm rồi". Rồi há miệng cắn vào cánh tay, sinh đau quá tỉnh dậy, nhìn lại thì chỗ mụn nhọt đã tiêu tan, từ đó lại như người thường.
Dị Sử thị nói: Tỉnh thì còn là người mà say rồi thì như con ba ba, những kẻ uống rượu đều như thế cả. Nhưng con ba ba kia tuy hàng ngày quen thói uống rượu bét nhè song không dám quên ơn, không dám vô lễ với bậc trưởng giả, con ba ba chẳng cũng hơn xa con người sao? Lắm kẻ tỉnh thì không bằng người, say thì không bằng con ba ba, người xưa soi gương bói rùa*, chắc là lấy con rùa để soi mình chăng? Vì vậy làm bài phú Người uống rượu. Phú rằng:
*Bói rùa: một cách bói toán thời cổ, lấy cái mai rùa hơ nóng lên rồi theo những vết nứt nẻ mà đoán hay dở xấu tốt.
Có một vật nọ, rong chơi ngon miệng, uống vào thì ngất ngất ngây ngây, tên gọi là rượu. Chủng loại rất nhiều, công lao đã lắm. Dùng để tiếp đãi tân khách, dùng để thù phụng cha anh. Dùng để vui sướng lúc một mình, dùng để hợp cẩn thành đôi lứa. Có khi làm lưỡi câu để câu hứng thơ, có khi làm cái chổi để quét phiền muộn. Cho nên chàng rượu tới thường thì người người kết bạn, làng say vào sâu thì kẻ kẻ quên sầu. Đài hèm bã đã cao, công chĩnh vò bất hủ. Một thạch ấy sức quan Tề*, năm đấu làm tên Học sĩ**. Thế nên rượu nhờ người mà nổi danh, nhưng có khi người vì rượu mà mang tiếng.
*Một thạch... quan Tề: Sử ký, Thuần Vu Khôn truyên chép vua Tề hỏi Khôn uống được bao nhiêu rượu, Khôn đáp cũng tùy nơi tùy lúc, như uống trong các yến tiệc ở triều đình, phải giữ nghi lễ thì một đấu cũng say, còn uống trong những hội lễ chốn đân gian, thả sức vui chơi thì một thạch mới say.
** Năm đấu... Học sĩ: lấy ý câu trong bài Bát tiên ca của Đỗ Phủ thời Đường "Tiêu trục ngũ đẩu phương trác nhiên, Cao đàm hùng biện kinh tứ diên" (Uống cạn năm đấu mới hứng chí, Đàm luận hùng hồn kinh bốn bên).
Kìa như Mạnh Gia rơi mũ*, Lưu Linh vác mai**, Sơn Giản say mèm***, Đào Tiềm lược rượu (4*). Say ngủ bên người đẹp, không ý tư thông (5*), nhúng đầu vào nghiên sâu, có thần giúp sức (6*). Kẻ sĩ cưỡi thuyền rơi nằm đáy giếng (7*), ông quan bộ Lại bị trói bên lò (8*). Thậm chí nếu rụt đầu (9*) mà nghịch ngợm, cũng còn chưa hại vật mà bất nhân. Tới như khi mưa chiều tuyết tối, hoa sớm trăng khuya, gió lặng bụi yên, bạn xưa gái mới, dép giày trộn lẫn, lan xạ thơm lùng, đùa trăng cợt gió, hát nhỏ chuốc vơi, điệu nhạc hay vừa mới trỗi, trên chiếu lặng tựa không người, trò chuyện giống hoa bay sáng miệng, ngâm thơ như lắc ngọc khua vàng, dẫu quá chén mà say khướt, cũng hồn trong mà ngủ yên. Nếu thế thì dù mỗi ngày mỗi uống cũng chẳng hại gì tới danh giáo. Còn như trong dục nhập nhằng, hát ca bậy bạ, đứng ngồi nhớn nhác, cười nói ồn ào, chuyện bé xé ra to, cãi vã nhiếc mắng, rướn cổ nhăn mày như uấng thuốc độc, ngã bầu rơi chén tắt nến đổ đèn, rượu ngon lênh láng, say sưa bét nhè thì phép uống rượu vốn cấm, tình ý như thế chẳng thà đừng uống.
* Mạnh Gia rơi mũ: Tấn thư, Mạnh Gia truyện chép Mạnh Gia làm Tham quân dưới trướng Hoàn ôn, nhân ngày Trùng dương Ôn hội hết các tướng lên núi Long Sơn ăn tiệc, mọi người đều mặc giáp trụ, Ôn say quá gặp cơn gió mạnh thổi rơi cả mũ mà không hay.
** Lưu Linh vác mai: Tấn thư, Lưu Linh truyện chép Lưu Linh là một trong Trúc Lâm thất hiền, tính hay rượu, đi đâu cũng mang bầu rượu theo, sai đầy tớ vác mai đi cùng, nói "Nếu ta chết thì chôn luôn tại chỗ".
*** Sơn Giản say mèm: Thế thuyết chép Sơn Giản trấn thủ Sơn Dương, ở đó có họ Tập có khu vườn đẹp, Giản thường tới uống rượu say khướt.
4* Đào Tiềm lược rượu: Tống thư chép Đào Tiềm thời Tấn ở nhà lấy khăn đội đầu lược rượu, lọc xong lại đội lên đầu. Có người láng giềng mời qua uống rượu, trong rượu có cặn, Tiềm lập tức cởi khăn ra lược.
5* Say ngủ... tư thông: Thế thuyết chép Nguyễn Tịch là một trong Trúc lâm thất hiền, cạnh nhà có người đàn bà rất đẹp mở quán bán rượu, Tịch và Vương An Phong thường cùng nàng uống rượu, có lần say nằm ngủ khoèo bên cạnh nàng. Người chồng lúc đầu rất ngờ vục, sau rình theo dõi thì thấy Tịch không có ý gì khác.
6* Nhúng đầu... giúp sức: Đường quốc sử bổ chép Trương Húc giỏi viết chữ thảo, tính hay rượu, lúc uống say rồi cứ lấy đầu làm bút nhúng vào mực viết chữ, biến hóa nhiều lối như có thần giúp.
7* Kẻ sĩ... đáy giếng: lấy ý câu trong bài Bát tiên ca của Đỗ Phủ "Tri Chương kỵ mã tự hành thuyền, Nhãn hoa lạc tỉnh thủy đê miên" (Tri Chương cưỡi ngựa ngỡ đi thuyền, Mắt hoa rơi giếng ngủ say mèm).
8* ông quan... bên lò: Tấn thư, Tất Trác truyện chép Tất Trác làm Lại bộ lang, cạnh nhà có quán trọ nấu rượu, Trác nhân đêm lẻn qua uống trộm bị người nấu rượu bắt trói, sáng ra mới biết là Tất Lại bộ.
9* Rụt đầu: nguyên văn là "hiệu miết tù" (học lối miết ẩm, tù ẩm). Hoa mạn lục chép bọn Tô Vũ Khâm, Thạch Diên Niên có nhiều lối uống rượu như "quỷ ẩm", "liễu ẩm", "tù ẩm", "miết ẩm", "hạc ẩm", trong đó "tù ẩm" là để lộ đỉnh đầu đứng chung quanh bàn uống rượu như bọn tù, "miết ẩm" là lấy chăn lông quấn quanh người chỉ thò đầu ra, uống xong một chén thì rụt đầu vào trong như con ba ba.
Lại có kẻ rượu vừa nuốt xuống hơi đã bốc lên, lảm nhảm lè nhè chê chủ keo kiệt, đã không biết cư xử lại không biết uống rượu, thứ khách rượu không có phẩm giá ấy thì càng quá lắm. Thậm chí có kẻ vừa uống xong thì thôi khách sáo, trợn mày bứt tóc cởi áo xắn quần, bọt nhểu nhảo đầy mồm miệng, ói òng ọc ra áo quần, cổ rướn dài như chó sủa, tóc rối bời như ăn xin. Bụng chạm đất mà miệng kêu trời, tựa bày gan ruột, tay thì khua còn chân lại rũ, như bị phanh thây. Tài thơ phú không lời để tả, bút đan thanh khôn họa thành tranh. Cha mẹ già bị chửi, vợ con yếu khó dìu, có khi chú bác bạn bè bỗng dưng mà chịu nhục. Dùng lời nhỏ nhẹ can ngăn thì càng thêm u mê dữ tợn, đó gọi là uống rượu mất nết, không thể cứu giúp gì được. Duy có một cách để giã rượu, cách ấy ra sao? Chỉ cần lấy một cái gậy, trói tay chân lại như lối mổ heo, cứ đập vào mông đừng đánh lên dầu, hơn trăm gậy rồi chắc chắn tỉnh lại.
121. Cô Gái Họ Thiệu (Thiệu Nữ)
Sài Đình Tân người huyện Thái Bình (tỉnh An Huy), vợ là Kim thị không sinh nở được mà tính cả ghen. Sài bỏ ra trăm lượng vàng cưới thiếp, Kim đối xử rất tàn ác, qua năm sau thì người thiếp chết. Sài uất ức ngủ riêng, mấy tháng liền không đặt chân tới phòng vợ. Gặp ngày sinh nhật Sài, Kim tới ăn nói ngọt ngào làm lễ chúc thọ chồng, Sài không nỡ cự tuyệt, mới lại chuyện trò cười nói với nhau. Kim bày tiệc trong phòng mời Sài, Sài lấy cớ đã say để từ chối, Kim ăn mặc lộng lẫy tự tới phòng Sài nói "Thiếp đã hết lòng trọn ngày, dù chàng có say cũng xin uống một chén rồi về". Sài bèn vào phòng, uống rượu trò chuyện. Vợ thong thả nói "Trước kia lỡ tay giết đứa tỳ nữ, nay đã hối hận, sao chàng còn để bụng oán hờn, há không còn tình vợ chồng sao? Từ nay về sau xin cứ nạp thiếp, thiếp không dám trách móc gì chàng đâu". Sài càng mừng, từ đó lại yêu thương vợ như trước. Kim bèn gọi người mai mối tới bảo tìm người thiếp đẹp cho chồng, nhưng ngầm dặn cứ lờ đi, còn mình làm ra vẻ thúc giục. Cứ thế hơn năm, Sài không chờ được bèn dặn khắp bạn bè thân thích nhờ tìm hỏi cho mình, được con gái nuôi của nhà họ Lâm, Kim vừa gặp đã tỏ vẻ mừng rỡ, cho cùng ăn cùng ngủ với mình, áo quần nữ trang cho tùy ý lựa dùng.
Nhưng Lâm vốn sinh ở đất Yên (tỉnh Hà Bắc) nên không thạo việc nữ công, ngay việc khâu giày cũng phải có người giúp cho. Kim nói "Nhà ta vốn cần kiệm không phải như nhà vương hầu mà mua người như mua tranh để ngắm", rồi từ đó đưa cho gấm lụa bảo Lâm học cắt may như thầy dạy trò rất nghiêm khắc, ban đầu còn mắng chửi, kế thì đánh đập. Sài trong lòng xót xa không biết làm sao, mà Kim lại càng tỏ vẻ yêu thương Lâm hơn trước, cứ đích thân trang điểm cho Lâm. Nhưng gót giày hơi có vết nhăn là lấy thước sắt đánh vào hai chân, tóc hơi rối là tát vào hai má, Lâm không chịu nổi treo cổ tự tử. Sài đau lòng xốn mắt, trách móc nặng lời. Vợ giận nói "Ta thay anh dạy dỗ nàng ta thì có tội gì?", lúc ấy Sài mới biết sự gian xảo của vợ, dứt hẳn tình vợ chồng, ngầm xây dựng phòng ốc nơi khác, nghĩ cách cưới vợ đẹp ở riêng.
Thấm thoát hơn nửa năm vẫn chưa tìm được người nào, ngẫu nhiên tới dự đám tang ở nhà bạn thấy một nữ lang khoảng mười sáu tuổi đẹp lộng lẫy, cứ sững người ra ngắm nhìn. Cô gái thấy Sài có vẻ sỗ sàng bèn liếc nhìn rồi quay người đi, Sài hỏi người ta thì biết nàng họ Thiệu. Thiệu là học trò nghèo, chỉ có một con gái là nàng. Lúc nhỏ rất thông minh, cha dạy cho học, sách vở chỉ đọc qua là hiểu, lại rất thích đọc sách thuốc và sách xem tướng. Cha rất thương yêu, có ai tới hỏi cưới thì cho nàng quyết định, nhưng kẻ giàu người nghèo gì cũng không giỏi bằng nên mười bảy tuổi vẫn chưa lấy chồng. Sài hỏi rõ được ngọn ngành biết rõ là không thể hỏi cưới được nhưng vẫn bồi hồi, lại nghĩ rằng nhà Thiệu nghèo có thể lấy lợi làm động tâm, bèn bàn với vài bà mối nhưng không ai dám nhận lời, chán nản không còn hy vọng gì nữa.
Chợt có bà mối họ Giả tới bán ngọc cho Sài, Sài tỏ ý mình rồi cho nhiều tiền, nói "Chỉ cần bà nói rõ lòng thành của ta, còn họ có ưng hay không thì ta không trách gì bà. Còn nếu vạn nhất mà việc xong, thì ngàn vàng ta cũng không tiếc đâu". Bà Giả thấy được nhiều tiền bèn vâng dạ, tìm tới chuyện dằng dai với vợ Thiệu, nhìn thấy cô gái ngạc nhiên ca ngợi, nói "Cô nương đẹp quá, nếu tới viện Chiêu Dương thì chị em nhà họ Triệu* có đáng gì!". Lại hỏi đã hứa gả cho ai rồi, vợ Thiệu đáp chưa, bà ta nói "Sợ gì không có bậc vương hầu làm rể quý".
*Chị em nhà họ Triệu: tức chị em Triệu Phi Yến, Triệu Hơp Đức trong nội cung của Đường Minh Hoàng, được cho ở tại viện Chiêu Dương, rất được vua sủng ái.
Vợ Thiệu than "Nhà vương hầu thì không dám mong, chỉ cần tìm được thằng bé nào có học là tốt lắm rồi. Của nợ nhà ta cứ chọn lựa này nọ, cả chục người không ưng được một đám, thật chẳng hiểu nó muốn những gì". Bà Giả nói "Phu nhân không cần phải trách móc, người đẹp như thế chẳng biết kiếp trước tu được bao nhiêu phúc đức mới cưới được kia. Hôm rồi có một chuyện rất buồn cười, là lang quân họ Sài nói thấy nhan sắc cô nương đây ở đám tang nhà ông Mỗ, xin dâng ngàn vàng làm sính lễ, há chẳng phải cú đói mơ sánh đôi với thiên nga sao? Già này đã mắng cho mới chịu thôi đấy!". Vợ Thiệu cười khẽ chưa đáp, bà ta lại nói "Chỉ vì là nhà Tú tài khó mà sánh đôi, chứ nếu nhà khác thì như thế mất ít mà được nhiều, cũng nên ưng thuận". Vợ Thiệu lại cười không đáp, bà ta bèn vỗ tay nói "Phải rồi, đứng về phía già này mà nói thì làm thế là sai đấy. Hàng ngày già được phu nhân yêu thương, lên thềm còn được ngồi xếp bằng cho uống rượu, chứ phu nhân mà được ngàn vàng, ra xe ngựa vào lầu gác thì già tới cổng sẽ bị người gác cổng thét đuổi ra ngay".
Vợ Thiệu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đứng lên vào nói chuyện với chồng, lát sau ra gọi con gái vào, lát sau ba người cùng ra. Vợ Thiệu cười nói "Con nhãi nhà ta lạ thật, bao nhiêu đám tốt đều không chịu mà nghe nói làm vợ lẽ lại ưng, chỉ sợ các bậc văn nhân cười cho". Bà Giả nói "Nếu về đó mà sinh được một tiểu ca, thì đại phu nhân mà bằng được à?". Nói xong kể lại việc Sài định ở riêng, Thiệu càng mừng rỡ bèn gọi con gái nói "Cứ thử trò chuyện với bà Giả đi, việc này là do ngươi tự chủ trương, về sau đừng có hối hận mà oán trách cha mẹ". Cô gái ngượng nghịu nói "Cha mẹ được phụng dưỡng chu đáo thì công nuôi con không uổng. Huống hồ con tự thấy mình phận bạc, nếu làm vợ chính ắt sẽ bị giảm thọ, nếu phải chịu đựng đau khổ chút ít thì cũng chưa chắc không phải là điều may. Hôm trước nhìn thấy chàng Sài, cũng có phúc tướng, con cháu ắt có kẻ làm nên".
Bà mối cả mừng chạy về báo, Sài mừng rỡ vì được quá cả lòng mong ước, lập tức đem ngàn vàng sắp xe kiệu tới cưới cô gái về ở nhà riêng, tôi tớ không ai dám nói một câu. Cô gái nói với Sài rằng "Chàng tính toán có thể nói cũng như chim én làm tổ trên rèm*, không phải là kế lâu dài. Ngậm miệng lựa lời để giữ kín chuyện liệu có được không? Chẳng bằng xin cứ về nhà cho sớm, nói thật ra ngay thì tai họa còn nhỏ". Sài lo là nàng sẽ bị đày đọa, nàng nói "Trên đời không có ai là kẻ không thể cảm hóa được, ta cứ giữ cẩn thận không có lỗi lầm thì bà ta làm sao giận được?". Sài nói "Không phải thế đâu, bà ta hung dữ phi thường, không thể nói tình lý mà cảm hóa được". Cô gái nói "Thân làm lẽ mọn thì bị hành hạ là phải thôi, nếu không chịu thế mà cứ tạm bợ cầu sống thì liệu có được lâu dài không?", Sài cho là đúng nhưng rốt lại vẫn chần chừ không dám quyết.
*Chim én làm tổ trên rèm: lấy ý lời của Quý Trát thời Xuân thu nói với Tôn Văn Tử, chỉ người tính việc trước mắt mà không nghĩ tới tai họa về lâu dài.
Một hôm Sài đi vắng, cô gái mặc áo tỳ nữ ra cửa, sai đầy tớ dắt con ngựa cái già, có một bà già ôm cái bọc đi theo tới nhà Vợ Sài ở, lạy rạp xuống đất tự bày tỏ. Vợ Sài lúc đầu nổi giận, kế nghĩ nàng tự tới thú có thể tha thứ lại thấy ăn mặc khiêm nhường hèn mọn, cũng hơi nguôi giận bèn sai tỳ nữ lấy áo gấm ra cho mặc, nói "Ta bị gả bạc bẽo kia rêu rao nói xấu với mọi người nên chịu tiếng oan, chứ thật ra đều là vì chồng bất nghĩa, bọn tỳ thiếp mất nết có chỗ mà khích bác, ngươi nghĩ xem kẻ giấu vợ cưới thiếp còn có phải là người không kia chứ? Cô gái nói "Xem kỹ thì ông ấy cũng hơi hối hận, chỉ là không chịu xuống nước đó thôi. Lời ngạn nói Người trên không chịu thua người dưới, còn theo lễ mà bàn thì vợ đối với chồng cũng như con đối với cha, vợ thứ đối với vợ cả vậy. Nếu phu nhân chịu tỏ ra vui vẻ niềm nở thì có thể làm cho ông ấy hết hờn oán". Vợ Sài nói "Tự y không chịu tới đây chứ ta có làm gì đâu?", rồi lập tức sai các tỳ nữ dọn phòng cho cô gái ở, tuy không vui lắm nhưng cũng yên lòng.
Sài nghe tin cô gái tới nhà vô cùng hoảng sợ, thầm nghĩ dê vào miệng cọp thì không sao sống nổi, vội chạy mau về thì thấy trong nhà yên ắng, mới được yên lòng. Cô gái ra cửa đón tiếp khuyên lơn, bảo tới phòng vợ cả Sài tỏ vẻ khó khăn, nàng khóc ròng, Sài mới xiêu lòng. Cô gái tới gặp vợ Sài nói "Lang quân vừa về, tự thấy xấu hổ không còn mặt mũi nào tới gặp phu nhân, xin phu nhân tới cười cho một tiếng". Vợ Sài không chịu, nàng nói "Thiếp đã nói rồi, chồng đối với vợ cũng như vợ cả đối với vợ lẽ. Mạnh Quang nâng án ngang mày* mà người ta không cho là nịnh nọt là vì sao? Vì phận sự phải như thế thôi". Vợ Sài theo lời, tới gặp Sài nói "Chàng như con thỏ khôn có ba hang, về đây làm gì?". Sài lừ mắt không đáp, cô gái lấy khuỷu tay huých ra hiệu bèn nhăn nhó cười gượng, vợ mới hơi dịu nét mặt.
*Mạnh Quang nâng án ngang mày: Hậu Hán thư, Lương Hồng truyện chép Lương Hồng lúc hàn vi có vợ là nàng Mạnh Quang, xấu người nhưng hiền đức, mỗi khi dọn cơm cho chồng ăn đều kính cẩn nâng mâm ngang mày (cử án tề mi).
Lúc vợ Sài ra, cô gái đẩy Sài theo, lại dặn nhà bếp làm tiệc, từ đó vợ chồng Sài lại hòa thuận. Cô gái sáng dậy sớm mặc áo xanh tới hầu vợ Sài, bưng nước rửa mặt, hầu hạ khăn lược, giữ lễ tỳ nữ rất cung kính. Sài vào phòng thì hết sức từ chối, hơn mười đêm mới cho ngủ lại một đêm, vợ Sài cũng thấy là hiền nhưng lại xấu hổ vì thấy mình không bằng nàng, thẹn thùng chuyển thành ghen ghét. Song cô gái hầu hạ cẩn thận, không có lỗi lầm nào để bới móc, có khi chửi mắng qua loa thì nàng chỉ vâng dạ. Một đêm vợ chồng có chuyện xích mích, sáng ra vợ Sài dậy trang điểm vẫn còn tức tối, cô gái bưng gương lỡ tay làm rơi vỡ, vợ Sài nắm tóc nàng trừng mắt nhìn. Cô gái sợ quá quỳ xuống cầu khẩn, vợ Sài không nguôi giận đánh luôn vài mươi roi. Sài không nhịn được nổi giận xông vào kéo nàng ra, vợ lu loa giằng lại. Sài nổi giận giật roi đánh vợ rách cả mặt mới bỏ đi, từ đó vợ chồng coi nhau như kẻ thù.
Sài cấm cô gái không được tới phòng vợ nữa nhưng nàng không nghe, sáng ra dậy sớm quỳ ngoài màn, vợ Sài đập giường chửi lớn, quát đuổi đi không cho tới trước mặt, đêm ngày mắm môi nghiến lợi, rắp tâm chờ lúc nào Sài đi vắng sẽ trút hờn lên cô gái. Sài biết ý, gác hết mọi việc, đóng cửa ở nhà không giao du với ai cả. Vợ Sài không biết làm sao, chỉ hàng ngày đánh đập bọn tỳ nữ cho hả giận, tôi tớ trong nhà đều không chịu nổi. Từ khi vợ chồng xích mích, cô gái cũng không dám cho Sài ngủ ở phòng mình, Sài từ đó ngủ một mình, vợ nghe biết cũng hơi yên lòng.
Có đứa tỳ nữ đã lớn vốn giảo hoạt, ngẫu nhiên trò chuyện với Sài, vợ Sài nghi là tư thông với nhau càng hành hạ tàn nhẫn, đứa tỳ nữ cứ lúc vắng người là căm tức chửi rủa. Một đêm tới phiên nó hầu, cô gái dặn Sài không được cho tới, nói "Mặt cô ta có sát cơ, khó lường lắm". Sài theo lời gọi tới, giả vờ hỏi tại sao làm điều ám muội, đứa tỳ nữ khiếp sợ không đáp được, Sài càng nghi ngờ, xét trong áo tìm được con dao sắc, nó không còn lời gì để nói, chỉ quỳ mọp xin tha chết. Sài muốn đánh đòn, cô gái ngăn lại nói "Sợ phu nhân nghe được thì nó không còn cách sống. Tội nó vẫn không thể tha được, nhưng chẳng bằng bán đi cho nó được toàn mạng mà ta còn được tiền". Sài cho là phải, gặp lúc có người mua tỳ thiếp vội bán đi. Vợ Sài thấy không bàn bạc gì với mình bèn trách móc chồng, lại giận lây qua cô gái, chửi mắng càng tàn tệ. Sài uất ức nhìn cô gái nói "Đây là nàng tự chuốc lấy đấy nhé, nếu trước cứ để cho nó giết đi thì làm gì có ngày hôm nay?", nói xong bỏ đi.
Vợ Sài thấy lời nói kỳ quái, hỏi khắp cả người hầu nhưng không ai biết, hỏi cô gái nàng cũng không đáp, càng bực dọc phiền muộn, túm áo nàng chửi té tát. Sài bèn quay vào nói rõ mọi chuyện, vợ Sài cả kinh dịu giọng với cô gái, nhưng lại chuyển sang giận là không nói sớm với mình. Sài cho rằng vợ đã hết hiềm khích nên không đề phòng nữa, một hôm có việc đi xa, vợ Sài bèn gọi cô gái tới hỏi tội, nói "Kẻ giết chủ thì tội không tha được, người tha nó là có ý gì?". Cô gái bị bất ngờ không đáp được, vợ Sài bèn nung đỏ sắt đốt mặt nàng, muốn phá hủy dung mạo. Đám tớ gái đều bất bình thay, nghe tiếng rú người nhà đều khóc lớn xin chịu chết thay nàng. Vợ Sài thấy thế không đốt mặt nữa, lấy kim đâm vào sườn nàng hơn hai mươi nhát mới đuổi đi.
Sài về thấy mặt cô gái bị thương, cả giận muốn qua tìm vợ, nàng nắm áo kéo lại nói "Thiếp đã biết rõ nơi đây là chậu lửa nhưng vẫn dám vào, chứ lúc lấy chàng há cho rằng nhà chàng là thiên đường hay sao? Cũng vì biết mình bạc phận nên làm thế để tạo vật bớt ghét thôi. Yên lòng nhịn nhục chịu khổ thì còn có lúc hết tai họa, chứ nếu lại làm trời tức giận, thì hố thẳm đã lấp bằng lại sụt xuống mất". Rồi lấy thuốc băng bó những chỗ bị đất, vài ngày thì hơi đỡ, chợt cầm gương soi mừng rỡ nói rằng "Hôm nay thì chàng nên chúc mừng thiếp, bà ta nung đất làm đứt hết nhữug nét mờ tối trên mặt thiếp rồi". Rồi lại sớm tới phụng sự vợ cả, chu đáo kính cẩn như xưa.
Kim trước thấy mọi người khóc lóc tự biết mình đã bị cô lập, hơi có ý hối hận, thường gọi cô gái vào cùng làm việc với mình, lời nói sắc mặt đều ôn hòa. Hơn một tháng chợt bị bệnh không ăn uống gì được, Sài giận là không chết ngay, không ngó ngàng gì tới. Vài hôm sau thì bụng Kim trướng lên to như cái trống, ngày đêm nằm rũ liệt, cô gái hầu hạ quên ăn quên ngủ, Kim càng biết ơn nàng. Cô gái nói là mình biết y lý, nhưng Kim nghĩ trước đây mình hành hạ nàng quá tàn ác, ngờ là nàng sẽ báo thù nên cố từ tạ. Kim là người coi sóc việc nhà có khuôn phép, tôi tớ đều răm rắp nghe lệnh nhưng từ khi mắc bệnh thì họ cũng bỏ bê việc nhà. Sài phải đích thân đứng ra coi sóc bận bịu vất vả nhưng gạo muối trong nhà không ăn mà tự hết, vì vậy lại có ý muốn vợ khỏe lại để coi sóc việc nhà, bèn đón thầy về cắt thuốc. Kim nói rằng mình uất ức sinh bệnh nên thầy nào bắt mạch cũng bảo là bị bệnh uất kết, đổi qua mấy thầy mà vẫn không khỏi, ngày càng nguy hơn.
Lại định sắc thuốc, cô gái bước lên nói "Loại thuốc này thì hàng trăm thang cũng vô ích, chỉ làm bệnh nặng thêm thôi". Kim không tin, cô gái ngầm lấy thuốc riêng tráo vào, Kim uống xong, trong khoảng một bữa ăn thì đi ngoài ba lần liên tiếp, bệnh như khỏi hẳn, càng cười là cô gái nói sai, rên rỉ gọi nàng hỏi "Vị nữ Hoa Đà* kia, nay thì thế nào?". Cô gái cùng đám tỳ nữ đều cười, Kim hỏi nguyên do, mọi người mới nói thật. Kim khóc nói "Thiếp hàng ngày vẫn đội ơn như trời che đất chở của nàng mà không biết, từ nay về sau xin tuy vẫn giữ việc gia chính nhưng được nghe nàng dạy bảo".
*Nữ Hoa Đà: Hoa Đà là một vị danh y nổi tiếng ở Trung Hoa thời Tam quốc, đây Kim thị có ý chế nhạo nên gọi cô gái họ Thiệu như vậy.
Không bao lâu Kim khỏi bệnh, Sài mở tiệc ăn mừng, cô gái cầm bầu rượu đứng hầu bên cạnh, Kim đứng dậy giật lấy cái bầu rượu, kéo nàng ngồi sánh vai với mình. Đến khuya cô gái kiếm cớ rời bàn tiệc, Kim sai hai tỳ nữ kéo trở lại ép cùng mình ngủ chung với Sài, từ đó công việc thì cùng bàn ăn uống thì cùng mâm, chị em ruột cũng không hòa thuận bằng. Không bao lâu cô gái sinh được một trai, sinh nở xong hay bị bệnh, Kim đích thân chăm sóc như hầu hạ mẹ ruột. Về sau Kim bị mắc chứng đau tim, mỗi khi lên con đau thì mặt mày tái xanh chỉ muốn chết. Cô gái vội mua mấy mũi châm bạc, khi Kim lên cơn đau như tắt thở, nàng lại theo huyệt châm cứu thì lập tức hết đau. Hơn mười ngày lại phát đau, nàng lại châm, qua sáu bảy ngày lại phát, tuy cô gái châm cứu là theo tay hết đau ngay, không tới nỗi khổ sở lắm, nhưng Kim trong lòng cứ nơm nớp sợ bệnh lại phát.
Một đêm nằm mơ thấy tới một nơi như đền miếu, tượng thần trong điện đều cử động, thần hỏi "Ngươi là Kim thị phải không? Ngươi tội ác đa đoan, lẽ ra đã tận số rồi, nhưng nghĩ ngươi biết sửa lỗi nên chỉ giáng tai họa để trừng phạt qua loa thôi. Trước đây giết hai nàng tỳ thiếp thì đó là chuyện quả báo, chứ Thiệu thị có tội gì mà tàn nhẫn đến thế? Việc ngươi đánh đập nàng thì đã có Sài sinh trừng trị rồi, cũng coi như đã xong, nhưng ngươi còn thiếu một vết nung trên mặt và hai mươi ba nhát kim đâm vào sườn nàng, nay bị đau ba lần chỉ mới đủ số lẻ, lại muốn hết hẳn bệnh kia à? Ngày mai sẽ phát lại đấy?". Kim tỉnh dậy sợ lắm, còn nghĩ rằng mộng mị không thật nhưng ăn sáng xong quả lên cơn đau, còn hơn cả mấy lần trước. Cô gái tới châm cho, cơn đau theo tay giảm ngay nhưng nàng ngờ vực nói "Bệnh này chỉ cần chữa như thế thôi mà sao gốc bệnh không dứt? Xin đốt ngãi để cứu, không thế không được, có điều sợ phu nhân không chịu nổi". Kim nhớ lại giấc mộng nên không tỏ vẻ khó khăn, nhưng lúc cắn răng rên rỉ chịu đau lại nghĩ thầm còn mười chín vết đâm, không biết sẽ biến chứng ra những gì, chẳng bằng cứ chịu khổ luôn một hôm cho hết nợ, về sau khỏi phải chịu khổ nữa nên lúc mồi ngãi cứu cháy tàn rồi lại xin cô gái làm tiếp. Cô gái cười nói "Chuyện châm cứu chẳng lẽ cứ muốn là làm à?", Kim nói "Không cần chọn huyệt đạo gì cả, xin cứ phiền đốt cho mười chín chỗ", cô gái cười bò ra không chịu.
Kim càng nài nỉ, trở dậy quỳ trên giường lạy lục, cô gái vẫn không nỡ. Kim bèn kể thật lại giấc mộng, nàng bèn châm chước theo kinh mạch đốt cho đủ số. Từ đó Kim bình phục, quả nhiên không bị lên cơn đau nữa, tự mình ăn năn, đối xử với người dưới cũng không bao giờ có vẻ giận dữ. Đứa con trai tên là Tuấn, tuấn tú thông minh hơn người, cô gái nói "Đứa nhỏ này có tướng làm quan đây". Năm tám tuổi Tuấn nổi tiếng là thần đồng, năm mười lăm tuổi thi đỗ Tiến sĩ được trao chức Hàn lâm. Năm ấy vợ chồng Sài đều bốn mươi tuổi, Thiệu phu nhân khoảng ba mươi hai, ba mươi ba tuổi mà thôi, đem xe kiệu về thăm cha mẹ, làng xóm đều cho là vinh dự. ông Thiệu sau khi gả con gái thì nhà giàu hẳn lên nhưng các bậc văn nhân đều không muốn giao du, đến lúc ấy mới có người lui tới.
Dị Sử thị nói: Đàn bà ghen tuông xảo quyệt, đó là tính trời, nhưng kẻ làm tỳ thiếp lại khoe đẹp khoe khôn thì chỉ làm vợ cả thêm tức giận. Than ôi, tai họa là từ đó mà tới đấy. Như Thiệu thị chịu yên thân giữ phận, bị đày đọa bao nhiêu cũng không đổi lòng thì làm sao vợ lớn hành hạ thêm được! Còn như Kim thị được cứu sống mấy lần mới ăn năn tỉnh ngộ, than ôi, con người lại như thế ư! Bắt trả đủ số chứ không trị tội thêm, cũng là sự tha thứ của tạo hóa, mà lấy thuật làm nhân để trị kẻ ác, chẳng cũng điên đảo sao! Ta vẫn thấy kẻ ngu phu ngu phụ cứ đau ốm thì lập tức gọi đám đồng cốt ngu si tới mặc cho cắt da đốt thịt mà không dám rên rỉ, rất lấy làm lạ, đến nay mới hiểu.
122. Vị Tiên Họ Củng (Củng Tiên)
Đạo nhân họ Củng, không có tên tự, cũng không rõ quê quán ở đâu. Có lần tới xin ra mắt Lỗ vương nhưng người canh cổng không chịu vào báo, gặp lúc một quý nhân trong vương phủ đi ra, đạo nhân vái chào ngỏ ý. Quý nhân thấy quê mùa bèn đuổi đi, kế lại trở lại, quý nhân nổi giận sai người đuổi đánh. Tới chỗ vắng người, đạo nhân cười đưa ra trăm lượng vàng nhờ kẻ đuổi theo nói lại với quý nhân rằng "Ta cũng không cần gặp vương, chỉ nghe nói cây cỏ lâu đài trong vườn hoa sau vương phủ là danh thắng trên đời, nếu dẫn ta vào xem một phen là mãn nguyện rồi". Kế lại lấy tiền bạc ra đút lót người đuổi theo, người ấy mừng rỡ về thưa, quý nhân cũng mừng liền dẫn đạo nhân vào cửa sau, dạo xem khắp nơi rồi theo lên lầu. Quý nhân đang tựa bên cửa sổ thì đạo nhân xô một cái, chỉ thấy mình rơi ra ngoài lầu, may có sợi dây leo vướng ngang bụng nên còn treo lơ lửng trên không. Nhìn xuống thấy sâu chóng mặt mà sợi dây cứ kêu rắc rắc như sắp đứt, sợ quá la ầm lên.
Không bao lâu mấy tên thái giám chạy tới, vô cùng hoảng sợ vì thấy quý nhân cách mặt đất rất xa, lên lầu cùng xem thì thấy đầu dây buộc vào lầu Muốn cởi ra để cứu nhưng thấy dây nhỏ quá không thể dùng sức, tìm đạo nhân khắp nơi nhưng ông đã biến mất, đành bó tay hết cách về tâu với Lỗ vương. Vương tới nhìn thấy rất lấy làm lạ, sai rải cỏ khô dưới lầu, định chặt đút dây. Chuẩn bị vừa xong thì dây leo tự đứt mà chỉ cách mặt đất không đầy một thước, mọi người đều cười ngất. Vương sai hỏi xem đạo sĩ ở đâu, nghe nói ở nhờ nhà Tú tài họ Thượng bèn tới hỏi thì ông đi chơi chưa về. Kế gặp nhau giữa đường, bèn đưa về ra mắt vương.
Vương cho ngồi ăn tiệc, đòi làm trò vui, đạo sĩ thưa "Thần là người quê mùa, không có tài gì lạ, nay được thương tới xin hiến một ban nữ nhạc để chúc thọ vương gia". Rồi lần trong tay áo lấy ra một mỹ nhân đặt xuống đất, nàng dập đầu lạy vương xong, đạo sĩ bảo diễn vở Dao Trì yến để chúc vương muôn tuổi. Mỹ nhân lên sạp hát mấy câu, đạo sĩ lại lấy ra một người nữa, tự xưng là Tây Vương Mẫu, giây lát lấy ra Đổng Song Thành, Hứa Phi Quỳnh, tất cả tiên nữ trên trời đều lần lượt ra mắt. Sau cùng là Chức Nữ tới yết kiến, dâng vương một bộ áo trời màu vàng lóng lánh chiếu sáng cả nhà. Vương nghĩ là đồ giả đòi xem, đạo sĩ vội nói không nên nhưng vương không nghe cứ giở ra xem, quả thấy áo trời liền lạc không có đường may, không phải sức người làm được. Đạo sĩ tỏ vẻ không vui, nói "Thần hết lòng thờ đại vương nên tạm mượn áo của Thiên Tôn cho xem, nay bị trọc khí nhiễm vào, làm sao trả lại cho chủ cũ?". Vương lại nghĩ những người ca hát ắt đều là tiên nữ, muốn giữ lại vài nàng nhưng nhìn kỹ lại thì đều là con hát thường ngày trong phủ. Lại ngờ khúc hát ấy thì họ chưa từng học qua, hỏi tới thì họ cũng ngơ ngác không tự biết. Đạo sĩ lấy bộ áo trời châm lửa đốt rồi cho vào trong tay áo, khám tới thì không thấy đâu nữa.
Vương vì thế rất trọng đạo sĩ, giữ ở lại trong phủ. Đạo sĩ nói "Tính quê mùa thấy cung điện như chậu lồng, không bằng ở nhà Tú tài được tự do hơn", nên cứ đến khuya lại về nhà Thượng Tú tài. Hôm nào vương cố giữ thì cũng ngủ lại, mỗi lần có yến tiệc lại đảo lộn hoa cỏ bốn mùa làm vui. Vương hỏi "Nghe nói người tiên cũng không thể quên tình, có đúng không?"' đạo sĩ đáp "Có lẽ người tiên thì đúng thế, chứ thần không phải là người tiên nên lòng như cây khô thôi". Một đêm đạo sĩ ngủ lại trong vương phủ, vương sai một ca kỹ tới nhìn. Nàng vào phòng, gọi mấy tiếng không thấy đáp, thắp đèn soi thấy đạo sĩ nhắm mắt ngồi trên giường, lay gọi thì hé mắt một cái rồi nhắm lại, lại lay nữa thì ngáy vang lên. Xô mạnh thì ông ngã lăn ra mà vẫn ngủ say, ngáy vang như sấm. Gõ lên trán thấy cứng ngắt chồn cả ngón tay, có tiếng như gõ vào gang sắt, bèn về bẩm lại với vương. Vương sai lấy kim đâm thì đâm không vào, xô thì thấy nặng không thể lay chuyển, gọi thêm hơn chục người xúm lại khiêng ông ném xuống dưới giường, nghe như tảng đá nặng ngàn cân rơi xuống đất.
Sáng tới thấy ông vẫn ngủ dưới đất, kế tỉnh dậy cười nói "Ngủ một giấc say như chết, rơi cả xuống giường mà không biết". Sau vương sai đám con gái nhân lúc ông nằm ngồi tới cấu véo làm vui, nhưng véo cái đầu thì da thịt còn mềm, qua cái thứ hai đã cứng như sắt đá. Đạo sĩ ở nhà Thượng Tú tài, thường suốt đêm không về, Thượng khóa cửa đi ngủ, đến sáng ra mở của đã thấy đạo sĩ nằm trong phòng. Lúc trước Thượng dan díu với ca kỹ Huệ Ca, đã thể lấy nhau. Huệ phong nhã hát hay, ngón đàn nổi tiếng một thời, Lỗ vương nghe tiếng triệu nàng vào hầu hạ, vì thế đôi bên tuyệt đường đi lại, lòng thường thương nhớ nhưng không sao nhắn gởi gì được. Một đêm Thượng hỏi đạo sĩ có gặp Huệ Ca không, đạo sĩ đáp "Các ca kỹ trong phủ ta đều gặp qua nhưng không rõ là nàng nào". Thượng tả dung mạo tuổi tác, đạo sĩ mới nhớ ra. Thượng xin nhắn giùm một câu, đạo sĩ cười nói "Ta là người tu hành, không thể đưa tin cho ông được".
Thượng năn nỉ không thôi, đạo sĩ đưa tay áo ra nói "Nếu nhất định muốn gặp nàng một lần thì mời vào đây". Thượng nhìn vào thấy to rộng như gian nhà liền khom người chui vào, lạí thấy sáng sủa sạch sẽ, rộng bằng cái phòng khách, bàn ghế vật dùng không thiếu món nào, ở trong không hề thấy khổ cực buồn bã. Đạo sĩ vào phủ đánh cờ với Lỗ vương, chờ lúc Huệ Ca tới gần, giả phất tay áo phủi bụi, Huệ Ca bị hút vào mà chẳng ai thấy. Thượng đang ngồi một mình tơ tưởng chợt thấy có mỹ nhân từ mái hiên rơi xuống, nhìn lại thì là Huệ Ca. Hai người ngạc nhiên mừng rỡ, âu yếm nhau rất mực. Thượng nói "Duyên lạ hôm nay không thể không ghi lại, xin cùng làm thơ liên cú" rồi viết lên vách rằng "Hầu môn tự hải cửu vô tung" (Cửa hầu tựa biển mỏi mòn trông), Huệ nối theo "Thùy thúc Tiêu lang kim hựu phùng" (Ai biết người xưa lại tái phùng). Thượng viết tiếp "Tụ lý càn khôn chân cá đại" (Tay áo bao la trời đất rộng), Huệ viết "Ly nhân tư phụ tận bao dung" (Dung trai xa vợ gái thương chồng). Vừa viết xong chợt có năm người bước vào, đội mũ có góc, mạc áo đỏ nhạt, nhìn ra đều không quen biết, mà họ cũng im lặng không nói chỉ bắt Huệ Ca đi. Thượng kinh hãi không rõ vì sao, đạo sĩ về nhà gọi Thượng ra hỏi chuyện tình tự, Thượng giấu giếm không kể hết. Đạo sĩ mỉm cười cởi áo, lộn tay áo ra cho xem. Thượng nhìn kỹ thấy có tự tích lờ mờ nhỏ như chân kiến, té ra là bài thơ liên cú.
Mười mấy hôm sau lại xin vào phủ, trước sau cả thảy ba lần. Huệ Ca nói với Thượng rằng "Thiếp nghe trong bụng máy động rất lo lắng, vẫn phải lấy lụa thắt lại. Nhưng trong vương phủ tai mắt rất nhiều, thảng hoặc một sớm sinh nở thì biết tìm chỗ nào giấu được trẻ khóc. Phiền chàng bàn tính với tiên ông họ Củng, cứ thấy thiếp xoa bụng ba lần thì nhờ người ra tay cứu vớt". Thượng theo lời, trở về thấy mặt đạo sĩ liền quỳ rạp xuống không chịu đứng lên. Đạo sĩ kéo đứng lên, nói "Hai người nói với nhau những gì ta đã biết rồi, xin đừng lo lắng. Dòng giống nhà ông chỉ nhờ có một chút đó, ta đâu dám không hết lòng giúp đỡ. Nhưng từ nay không cần vào đó nữa, điều ta muốn báo đáp cho ông vốn không phải chỉ ở việc tư tình thôi đâu". Mấy tháng sau đạo sĩ từ ngoài vào cười nói "Ta đã đưa công tử về đây rồi, mau lấy tã lót ra".
Vợ Thượng rất hiền, hơn ba mươi tuổi sinh nở mấy lần mà chỉ nuôi được một trai, vừa sinh con gái đầy tháng thì chết, nghe Thượng nói ngạc nhiên vui mừng đích thân ra đón. Đạo sĩ thò vào tay áo lấy đứa nhỏ ra, nó im lặng như đang ngủ mà rốn còn chưa cắt, vợ Thượng đón lấy bế lên mới khóc oa oa. Đạo sĩ cởi áo nói "Máu đẻ làm dơ áo thế này là đạo môn kỵ nhất, nay vì chuyện của ông mà vật cũ hai mươi năm một sớm phải bỏ đi". Thượng đưa áo khác cho thay, đạo sĩ dặn "Cái áo cũ của ta chớ bỏ, chỉ cần xé một mảnh bằng đồng tiền đốt đi mà uống thì có thể chữa được chứng khó sinh và trụy thai", Thượng vâng lời. Lâu sau đạo sĩ chợt nói với Thượng "Chiếc áo cũ của ta nên giữ lại chút ít mà dùng, sau khi ta chết cũng đừng quên!".
Thượng cho là lời bất tường nhưng đạo sĩ không nói gì mà ra đi, vào gặp vương nói "Thần muốn chết". Vương giật mình hỏi, đạo sĩ đáp "Đó là số trời đã định, còn nói gì được". Vương không tin cố giữ lại, đánh xong một ván cờ đạo sĩ vội đứng lên, vương lại ngăn cản, xin phép ra nhà ngoài vương bèn cho. Đạo sĩ ra đó nằm xuống, nhìn lại thì đã chết rồi. Vương sắm sửa quan tài mai táng tử tế. Thượng tới điếu tang rất đau xót, bấy giờ mới hiểu là đạo sĩ đã báo trước. Cái áo cũ của đạo sĩ để lại làm thuốc thôi sản rất hay, người tới xin nối gót ngoài cổng. Ban đầu còn cho cái tay áo vấy máu, kế cắt tới cổ áo vạt áo chỗ nào cũng hiệu nghiệm. Sau Thượng nhớ lời đạo sĩ dặn, e vợ sẽ gặp nạn khi sinh nở nên cắt một mảnh dính máu to bằng bàn tay cất kỹ. Gặp lúc Lỗ vương có nàng ái phi lâm bồn ba ngày không sinh được, các thầy thuốc đều hết cách, có người kể lại chuyện Thượng, vương lập tức triệu vào, ái phi chỉ uống một chén thuốc là sinh được ngay.
Vương cả mừng, tặng tiền bạc vải vóc rất hậu nhưng Thượng đều từ chối không nhận. Vương hỏi vậy muốn gì, Thượng đáp "Thần không dám nói", gạn hỏi mấy lần Thượng mới dập đầu thưa "Nếu được đội ơn trời thì chỉ xin ban cho nàng ca kỹ cũ Huệ Ca là đủ". Vương triệu nàng tới hỏi tuổi, nàng thưa "Thiếp vào phủ năm mười tám tuổi, qua mười bốn năm rồi"' Vương thấy nàng đã lớn tuổi bèn gọi tất cả các ca kỹ ra cho tùy thích chọn lựa nhưng Thượng không ưng ý một ai. Vương cười nói "Anh học trò này khờ quá, hay mười năm trước có đính ước với nhau rồi?". Thượng kể thật mọi chuyện, vương liền sai đem đủ xe kiệu đưa Huệ Ca về với Thượng, cho luôn nàng những tiền bạc vải vóc đã ban làm của hồi môn.
Đứa con trai Huệ sinh tên Tú Sinh, "Tú" là ẩn nghĩa chữ "Tụ" (tay áo) vậy, năm ấy đã mười một tuổi. Vợ chồng thường nhớ ơn người tiên, năm nào đến tiết Thanh minh cũng đi viếng mộ. Có người đi buôn ở Trung Châu (tỉnh Tứ Xuyên) lâu năm, gặp đạo sĩ trên đường trao cho một quyển sách, nói "Đây là sách trong phủ Lỗ vương, lúc đi vội quá chưa kịp trả lại, nhờ ông trả hộ". Người ấy về nghe tin đạo sĩ đã chết không dám tâu, Thượng bèn cầm sách vào tâu hộ. Lỗ vương mở ra xem thì đúng là sách đã cho đạo sĩ mượn, lấy làm ngờ vực sai quật mộ đạo sĩ lên xem thì chỉ thấy quan tài rỗng không. Sau con trai Thượng chết yểu, may có Tú Sinh nối dõi, càng phục lời tiên tri của tiên ông họ Củng.
Dị Sử thị nói: Càn khôn trong tay áo là lời ngụ ngôn của cổ nhân, há phải là có thật đâu, sao lại lạ lùng đến thế. Trong tay áo có trời đất, có mặt trời mặt trăng, có thể lấy vợ sinh con mà lại không bị cái khổ thúc thuế đòi lương, không bị cái phiền muộn của người đời, thì những rận rệp trong đó cũng khác gì chó gà ở cõi Đào Nguyên* đâu! Trộm mong người thường cũng được tới đó, thì chết già ở nơi ấy cũng được.
*Đào Nguyên: Đào Tiềm thời Tấn có bài Đào hoa nguyên ký kể chuyện một ngư phủ lạc vào rừng, theo dòng suối có hoa đào trôi ra ngược lên tới nguồn thì gặp một nơi có người ở, hỏi ra thì họ nói rằng tổ tiên tránh loạn thời Tần chạy vào sinh sống đã mấy trăm năm rồi, không biết việc đời bên ngoài thay đổi ra sao. Đào Nguyên đây dùng chỉ cõi thanh bình hạnh phúc ở nhân gian.
123. Cô Gái Họ Mai (Mai Nữ)
Phong Vân Đình người Thái Hàng (tỉnh Sơn Tây) tình cờ lên quận, ban ngày nằm ngủ trong nhà trọ. Lúc ấy Phong tuổi trẻ vừa góa vợ, lúc hiu quạnh thường hay tơ tưởng. Đang đăm đăm ngưng thần, thấy trên tường có bóng con gái rõ ràng như vẽ, tự nghĩ vì mơ tưởng nên thấy thế, nhưng hồi lâu không thấy động đậy, cũng không biến đi. Lấy làm lạ vùng dậy nhìn thì là người thật, lại gần nữa thì rõ ràng là một thiếu nữ nhăn mặt thè lưỡi, có một vòng dây thắt quanh cổ. Sinh sợ hãi nhìn không chớp, thấy cô gái động đậy muốn bước xuống, biết là ma thắt cổ nhưng đang ban ngày mà tính cũng gan dạ nên không sợ lắm, nói "Nương tử như có điều oan khuất, tiểu sinh xin hết sức" Cái bóng từ tốn bước xuống nói "Gặp gỡ thoáng qua, đâu dám vội mang việc lớn làm phiền quân tử, nhưng bộ xương khô dưới suối vàng không rút lưỡi vào được, không cắt bỏ dây được, xin chặt thanh xà ngang đốt đi, thì ơn ấy lớn như Thái Sơn".
Sinh nhận lời, cái bóng biến mất. Sinh gọi chủ nhân tới hỏi về chuyện vừa thấy, chủ nhân nói "Mười năm trước nơi đây là nhà họ Mai, đang đêm có tên trộm lẻn vào bị Mai bắt được giải lên quan Điển sử. Điển sử nhận ba trăm bạc của tên trộm, vu cho con gái họ Mai tư thông với y, toan bắt lên tra xét, nàng nghe tin thắt cổ chết. Sau vợ chồng họ Mai nối nhau chết, ngôi nhà này mới về tay ta. Khách trọ vẫn thấy sự quái dị, nhưng không có phép gì làm cho yên". Phong đem lời ma kể lại, chủ nhân tính toán thấy phải dở nhà thay thanh xà ngang, phí tổn không ít nên có vẻ khó khăn. Phong bèn góp tiền giúp thêm, chữa xong lại vào ở. Đêm đến cô gái họ Mai tới cảm tạ, sắc mặt vui vẻ, phong thái yêu kiều, Phong thích lắm muốn cùng giao hoan. Cô gái thẹn thùng nói "Khí âm lạnh lẽo, không những đã làm hại cho chàng mà nếu làm như thế thì tiếng nhơ lúc sinh tiền dẫu nước sông Tây Giang cũng không rửa sạch được. Sẽ có lúc sum họp với nhau, nhưng nay thì chưa". Phong hỏi lúc nào, nàng chỉ cười không đáp. Phong hỏi uống rượu không, cô gái đáp không uống được.
Phong nói "Đối diện với người đẹp mà cứ giơ mắt buồn bã nhìn nhau thì còn ý vị gì?", nàng đáp "Bình sinh thiếp chỉ biét có trò đánh cờ ngựa, nay hai người ngồi buồn bã, đêm khuya lại khổ không có bàn cờ. Canh dài chẳng có gì tiêu khiển, hãy cùng chơi trò giao tuyến". Phong nghe theo ngồi bó gối xòe ngón tay, trao qua chuyền lại hồi lâu, Phong hoa cả mắt không biết manh mối đâu nữa. Cô gái cứ miệng giảng cằm hất ra hiệu, càng chơi càng biến ảo vô cùng tinh diệu, Phong cười nói "Đây là tuyệt kỹ trong khuê phòng đây", nàng đáp "Trò này thiếp tự nghĩ ra, chỉ cần hai sợi dây là có thể chơi được, người ta không chịu để ý đấy thôi"' Về khuya càng mệt mỏi, Phong ép đi ngủ, cô gái nói "Thiếp là người cõi âm không ngủ, xin chàng cứ nghỉ đi Thiếp có biết thuật xoa bóp, xin trổ hết tài giúp chàng ngon giấc" Phong theo lời, cô gái chụm hai tay xoa nhẹ một lượt từ đỉnh đầu tới gót chân, tay lướt tới đâu gân cốt tê mê tới đó. Kế lại nắm tay đấm khẽ như cầm nắm bông thúc, Phong thấy khoan khoái không sao tả được. Nàng đấm tới lưng thì mắt Phong đã ríu lại, đấm tới đùi thì dã ngủ say rồi.
Đến khi tỉnh dậy thì đã gần trưa, cảm thấy xương cốt đều nhẹ nhàng khoan khoái khác hẳn mọi hôm, lòng càng yêu mến bèn đi quanh nhà cất tiếng gọi nhưng không có một tiếng đáp lại. Chiều tối cô gái mới đến, Phong hỏi "Nàng ở chỗ nào làm ta tìm gọi khắp nơi thế?", nàng đáp "Ma thì không có chỗ ở nhất định, chỉ là dưới đất thôi". Phong hỏi dưới đất có chỗ trống ở được à, nàng nói "Ma không có đất cũng như cá không có nước vậy". Phong nắm cổ tay nàng nói "Nếu nàng sống lại thì ta xin dốc hết cơ nghiệp để cưới", cô gái cười nói "Cần gì phải dốc hết cơ nghiệp!". Chơi đến nửa đêm, Phong hết sức nài ép, nàng nói "Chàng đừng ép thiếp, có nàng kỹ nữ ở đất Chiết (tỉnh Chiết Giang) tên Ái Khanh vừa tới trọ ở nhà láng giềng phía bắc, dáng vẻ rất phong nhã, tối mai thiếp sẽ gọi nàng cùng tới tạm thay cho thiếp được không?", Phong bằng lòng.
Tối hôm sau nàng dắt một thiếu phụ đến, tuổi khoảng ba mươi trở lại, mắt liếc mày đưa, có vẻ phóng đãng. Ba người ngồi ngã ngớn đánh cờ ngựa, xong ván cờ cô gái đứng lên nói "Cuộc vui đang nồng, thiếp phải đi đây", Phong định kéo lại thì nàng đã biến mất. Hai người bèn lên giường ôm nhau vui thú, Phong hỏi gia thế thì thiếu phụ cứ ậm ừ không chịu đáp, chỉ nói "Nếu chàng yêu thiếp thì cứ gõ tay lên vách tường phía bắc gọi khẽ "Hồ lô tử" là thiếp tới ngay. Nếu gọi ba lần không thấy là thiếp đang bận, đừng gọi nữa", trời sáng lách qua khe hở trên bức tường phía bắc đi mất. Hôm sau cô gái tới, Phong hỏi Ái Khanh, nàng đáp "Bị công tử họ Cao gọi đi hầu rượu nên không tới đây được". Kế thắp đèn cùng trò chuyện, cô gái như có điều muốn nói nhưng mấp máy môi lại im lặng. Phong gặng hỏi nhưng rốt lại nàng vẫn không chịu nói mà chỉ thở dài. Phong ép nàng cùng chơi đùa, đến canh tư mới đi.
Từ đó hai nàng tới luôn, cười nói rộn rã thâu đêm, phố phường đều biết cả. Có viên Điển sử Mỗ cũng là con nhà thế tộc cũ ở đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), vợ cả gian dâm với đầy tớ bị xuất, cưới tiếp người vợ kế họ Cố, rất thương yêu nhau nhưng được một tháng nàng đã chết yểu vô cùng đau xót. Nghe nói Phong có quen với ma thiêng, muốn nhờ hỏi giùm việc nhân duyên dưới âm ty bèn cưỡi ngựa tới tìm. Phong lúc đầu không nhận lời, Mỗ hết sức nài nỉ không thôi, Phong bèn bày rượu cùng ngồi, nhận lời gọi hộ nàng kỹ nữ ma. Trời sập tối bèn gõ vách gọi, chưa dứt tiếng thứ ba thì Ái Khanh đã tới, ngước nhìn thấy khách biến sắc định chạy, Phong lấy người chặn đường cản lại. Mỗ nhìn kỹ chợt nổi giận ném chén rượu vào Ái Khanh, chớp mắt nàng biến mất. Phong kinh ngạc không hiểu vì sao, đang định hỏi chợt trong góc tối có bà già bước ra mắng "Thằng giặc tham lam bỉ ổi làm hỏng cả cây tiền của ta rồi, đền ngay ba chục quan tiền đây!", rồi cầm gậy đập vào đầu Mỗ.
Mỗ ôm đầu rên rỉ, nói "Đó là Cố thị vợ ta bị chết trẻ, đang còn đau đớn thì ngờ đâu lại làm con ma bất trinh, có dính líu gì tới bà chứ?". Bà già tức giận nói "Ngươi vốn là thằng giặc vô lại ở Giang Chiết, mới mua được sợi dây lưng gắn miếng sừng đen* được đeo thắt lưng gắn miếng sừng màu đen đã hếch mũi lên. Ngươi làm quan có kể gì đen trắng, ai có ba trăm quan thì ngươi coi là cha! Thần giận người oán, sắp tận số rồi, cha mẹ ngươi phải kêu xin dưới âm ty xin đưa nàng dâu quý vào lầu xanh để trả món nợ tham lam thay ngươi mà còn chưa biết à?", nói xong lại đánh. Mỗ lạy lục van xin, Phong sợ hãi không biết làm sao cứu. Chợt cô gái họ Mai trong phòng bưóc ra, trợn mắt lè lưỡi, vẻ mặt trông rất ghê rợn, sấn tói lấy cây trâm dài đâm vào tai Mỗ. Phong hoảng quá lấy người che đỡ cho khách, cô gái vẫn căm tức không nguôi. Phong khuyên nói "Dù y có tội nhưng nếu chết ở đây thì tiểu sinh có lỗi, xin ném chuột đừng để vỡ đến lọ quý". Cô gái bèn kéo bà già nói "Thôi hãy tạm tha cho hắn, xin bà nể mặt ta mà nghĩ tới chàng Phong", Mỗ run sợ lủi đi, về tới công thự sợ hãi phát bệnh đau óc, nửa đêm thì chết.
*Sợi dây lưng gắn miếng sừng đen: theo quan chế triều Thanh, chức Điển sử
Đêm hôm sau cô gái hiện ra cười nói "Khoái thật, bao nhiêu uất ức đã phát tiết được cả rồi". Phong hỏi có thù oán gì với y, nàng đáp "Trước kia thiếp đã nói y ăn của đút rồi vu cho thiếp thông gian, ôm mối căm hờn đã lâu, vẫn thường định nhờ chàng rửa hờn một phen nhưng lại tự thẹn chưa có chút ơn đức gì nên cứ định nói lại thôi. Đêm qua nghe tiếng đánh chửi ầm ĩ, lén tới rình xem, không ngờ lại gặp kẻ thù". Phong ngạc nhiên hỏi "Đó là kẻ vu cáo cho nàng à?", cô gái đáp "Y làm Điển sử ở đây đã mười tám năm, mà thiếp chết oan cũng được mười sáu mùa nóng lạnh rồi". Phong hỏi bà già là ai, nàng đáp là một kỹ nữ già, lại hỏi tới Ái Khanh, nàng đáp rằng đang ốm. Kế nhoẻn miệng cười hỏi "Thiếp từng nói sẽ có lúc sum họp với nhau, nay quả không còn lâu nữa. Chàng vẫn nói xin dốc hết cơ nghiệp để cưới thiếp, còn nhớ không?". Phong đáp "Nay ta vẫn muốn thế mà". Cô gái nói "Nói thật với chàng, hôm thiếp chết đã đầu thai vào nhà Hiếu liêm họ Triển ở Diên An (tỉnh thành Thiểm Tây), chỉ vì thù lớn chưa trả nên còn dùng dằng ở đây. Xin lấy vải mới làm cái túi ma để thiếp đi theo chàng, tới nhà họ Triển cầu hôn chắc xong việc". Phong lo gia thế quá chênh lệch, sợ sẽ không xong, nàng nói "Cứ đi đừng lo gì". Phong theo lời, cô gái dặn "Dọc đường cẩn thận đừng gọi thiếp, đợi đến đêm hợp cẩn thì lấy túi trùm lên đầu cô dâu rồi gọi lớn rằng "Đừng quên! Đừng quên!".
Phong gật đầu, vừa mở túi ra cô gái đã nhảy luôn vào, Phong mang cái túi tới Diên An hỏi thăm quả có Hiếu liêm họ Triển sinh được một con gái dung mạo cực kỳ xinh đẹp nhưng mắc bệnh ngây ngốc, lại hay lè lưỡi ra ngoài miệng như chó lúc trời nóng, mười sáu tuổi vẫn chưa có ai dạm hỏi, cha mẹ rất phiền muộn. Phong tới nhà đưa danh thiếp, kể rõ gia thế, trở về nhờ mai mối tới ngỏ ý. Triển mừng giữ Phong gửi rể trong nhà, cô gái vô cùng ngây ngốc, không biết cả làm lễ, phải sai hai tỳ nữ đỡ vào phòng. Đám tỳ nữ vừa lui thì nàng phanh vạt áo để hở cả vú ra, nhìn Phong cười ngớ ngẩn. Phong trùm túi lên đầu nàng rồi gọi. Cô gái ngó sững Phong như có ý ngờ vực, Phong cười hỏi "Nàng không quen tiểu sinh à?", rồi giơ cái túi cho xem. Cô gái chợt tỉnh ra, vội khép áo lại, mừng rỡ cùng vui vẻ trò chuyện.
Sáng ra Phong vào thăm hỏi cha vợ, Triển an ủi nói "Con nhỏ ngây ngốc không biết gì, may được thương tới, nếu ông có lòng thì trong nhà không thiếu bọn tỳ nữ lanh lợi, ta xin tặng không tiếc". Phong ra sức phân trần rằng nàng không ngây ngốc, Triển rất ngờ vực. Không bao lâu cô gái tới, cử chỉ đều nết na khuôn phép, Triển vô cùng lạ lùng, nàng chỉ ngượng nghịu mỉm cười. Triển gạn hỏi, nàng thẹn thùng không nói được, Phong bèn kể qua đầu đuôi, Triển cả mừng, yêu thương nàng còn hơn lúc trước. Bèn cho Phong cùng học với con trai là Đại Thành, chu cấp rất đầy đủ. Được hơn một năm, Đại Thành dần dần đâm coi thường Phong, vì em rể anh vợ không hợp nhau nên đám gia nhân cũng bới lông tìm vết. Triển bị nói ra nói vào cũng ngấm, dần lạt lẽo với Phong. Cô gái biết chuyện, nói "Nhà cha vợ không thể ở lâu, phàm những người ở nhà cha vợ lâu đều là hạng hèn hạ. Nay chưa tới lúc quá căng thẳng, nên đi ngay". Phong cho là phải, thưa với Triển, Triển muốn giữ con gái lại, nàng không nghe. Cha và anh đều tức giận, không cho xe ngựa đưa về, cô gái bỏ tiền riêng ra mua ngựa mà về. Sau đó Triển gọi về thăm nhà nhưng cô gái từ chối, đến khi Phong thi đỗ Hiếu liêm mới qua lại với nhau.
Dị Sử thị nói: Quan càng nhỏ thì càng tham, đó cũng là chuyện thường tình chăng? Nhưng nhận ba trăm đồng mà vu cho người ta tội thông gian, thì quả không còn sợ hãi gì hình phạt tàn khốc chốn dạ đài rồi. Cho nên mới bị cướp vợ yêu bỏ vào lầu xanh, sau cùng lại làm cho chết thảm, ôi đáng sợ thay!
124. Tú Tài Họ Quách (Quách Tú Tài)
Người học trò ở Quảng Đông là Quách Mỗ, chiều tối từ nhà bạn về, vào núi lạc đường tới một chỗ cây cối gai góc um tùm. Khoảng quá canh một nghe trên núi có tiếng cười, vội vàng lần tới, gặp hơn mười người đang ngồi dưới đất uống rượu, từ xa nhìn thấy Quách cùng ồ lên nói "Trong mâm đang thiếu một người khách, hay quá, hay quá". Quách ngồi xuống rồi, thấy một nửa trong bọn đội khăn nhà nho, bèn xin chỉ đường về. Một người cười nói "Ông thật lẩm cẩm, trăng sáng thế này không ngắm lại hỏi đường sá gì?", rồi rót ngay một chén đưa qua.
Quách uống thấy thơm ngát, bèn dốc cạn một hơi, lại một người nghiêng bầu rót tiếp, Quách vốn hay rượu, lại vì lặn lội khát khô miệng, lại uống một hơi cạn chén, mọi người đều khen ngợi "Hào lắm, thật đáng là bạn của bọn ta". Quách vốn phóng khoáng giỏi đùa giỡn, học được tiếng các loài chim rất giống, bèn đứng lên đi tiểu, giả tiếng chim én kêu, mọi người ngờ vực nói "Nửa đêm sao lại có chim én kêu?". Quách lại giả tiếng chim cuốc, mọi người lại càng ngờ vực. Quách trở vào ngồi xuống, chỉ cười không nói gì. Mọi người đang nhao nhao bàn tán, Quách ngoảnh ra ngoài giả tiếng chim vẹt, nói "Tú tài họ Quách say rồi, đưa y về thôi!". Mọi người kinh ngạc lắng tai thì im bặt không nghe thấy gì nữa, giây lát Quách lại làm tiếp. Đến lúc biết là Quách làm, mọi người mới cùng cười ồ, đều chúm miệng bắt chước nhưng chẳng ai làm được. Một người nói "Tiếc là Thanh Nga tử chưa tới", lại một người nói "Trung thu lại họp mặt ở đây, Quách tiên sinh thế nào cũng phải tới đấy", Quách kính cẩn vâng dạ.
Một người đứng lên nói "Khách đã có tuyệt kỹ như thế, bọn ta cũng hiến trò chồng người cho vui, được không?". Rồi đó mọi người ồn ào đứng lên, người đầu tiên đứng thẳng, lập tức có một người nhảy lên vai, cũng đứng thẳng. Cứ thế được bốn người thì cao không thể nhảy lên được nữa. Người tiếp theo vịn vào vai, đạp lên tay những người dưới như leo thang mà lên, trong giây lát hơn mười người đã chồng lên hết, nhìn thấy như sắp chạm vào mây, Quách còn đang ngạc nhiên nhìn ngó, thì cột người đổ vật xuống đất biến thành một con đường dài. Quách kinh hãi đứng ngẩn ra hồi lâu rồi theo đường ra về. Hôm sau bụng đau buốt, nôn ra nước màu xanh như rỉ đồng có thể nhuộm vải mà hôi hám không sao chịu nổi, ba ngày mới hết. Tìm tới chỗ cũ thì thấy rượu thịt vương vãi, bốn bề gai góc chẳng có đường sá gì. Đến Trung thu Quách định tới chỗ hẹn, nhưng bạn bè can ngăn nên thôi.
125. A Anh (A Anh)
Cam Ngọc tự Bích Nhân là người huyện Lô Lăng (tỉnh Giang Tây). Cha mẹ mất sớm, để lại em trai tên Giác tự Song Bích mới năm tuổi, nhờ anh nuôi nấng. Ngọc tính hữu ái, chăm nom em như con ruột, sau Giác dần dần lớn lên, diện mạo thanh tú lại thông minh học giỏi nên Ngọc càng yêu thương, thường nói "Em ta đường đường thế này không thể lấy vợ tầm thường", nhưng kén chọn quá nên rốt lại không được đám nào. Gặp lúc lên chùa núi Khuông Sơn học, gần khuya đi nằm nghe ngoài cửa sổ có tiếng con gái trò chuyện, nhìn ra thấy ba bốn nữ lang trải chiếu ngồi trên mặt đất, có mấy tỳ nữ bày rượu và thức ăn, người nào cũng xinh đẹp. Một nàng hỏi "Tần nương tử! Tần nương tử! Sao A Anh không tới?", nàng ngồi dưới đáp "Hôm qua nó từ cửa ải Hàm Cốc (tỉnh Thiểm Tây) tới bị kẻ ác làm bị thương tay phải nên không thể cùng tới chơi, thật đáng hận". Một nàng nói "Đêm trước mơ thấy một chuyện sợ quá, hôm nay còn toát mồ hôi", nàng ngồi dưới xua tay nói "Chớ nói ra, chớ nói ra! Đêm nay chị em tụ họp vui vẻ, nói tới chuyện đáng sợ sẽ mất vui". Nàng kia cười nói "Con nhãi này nhát gan quá, chẳng lẽ có cọp sói tới vồ đi à! Nếu muốn ta đừng nói thì hát một bài chuốc rượu cho chị đi", cô gái bèn ngâm khẽ:
Trước cửa hoa đào nở tốt tươi
Lời hẹn đi chơi Thanh minh hôm qua chớ nên sai
Nhắn cô bạn láng giềng, chờ nhau một chút thôi
Mang xong giày cánh phụng sẽ lập tức tới nơi
Cô gái ngâm xong, mọi người đều khen hay. Đang lúc vui cười chợt có một người đàn ông to lớn từ ngoài đi vào, mắt trợn xanh lè, diện mạo xấu xí hung tợn. Mọi người cùng la hoảng "Yêu tinh tới đây" rồi nhao nhao chạy tứ tán như chim vỡ tổ. Duy có nàng vừa hát yếu ớt không chạy kịp nên bị bắt, kêu la thảm thiết cố gượng chống cự. Người đàn ông giận dữ gầm lên, cắn đứt lìa một ngón tay nàng nhai luôn tại chỗ, cô gái lập tức ngã nhào xuống đất như chết rồi. Ngọc thương xót không sao nhịn được liền tuốt kiếm đạp cửa xông ra chém trúng đùi người kia, bắp đùi đứt lìa, y mang vết thương bỏ chạy. Ngọc đỡ cô gái vào nhà, thấy mặt nàng xám ngoét, máu ướt sũng tay áo, xem lại thì bị đứt ngón tay cái bên phải bèn xé vải băng bó cho. Lúc ấy nàng mới rên rỉ nói "Cái ơn cứu mạng, biết lấy gì đền đáp?". Ngọc từ lúc thấy nàng đã ngầm nghĩ tới việc của em trai bèn ngỏ ý, cô gái nói "Kẻ tật nguyền không thể lo việc nội trợ được, xin sẽ làm mai người khác cho lệnh đệ". Ngọc hỏi tên họ, nàng đáp là họ Tần. Ngọc bèn lấy chăn đắp cho nàng nằm nghỉ còn mình đem chăn chiếu qua chỗ khác ngủ. Sáng ra vào thăm thì trên giường trống không, nghĩ rằng cô gái đã tự ra về, nhưng tìm hỏi các thôn xóm gần đó thì không có ai họ ấy, nhờ các bạn bè thân thích tìm khắp nơi cũng không có tin tức gì, trở về kể lại với em, hối tiếc như mất của.
Một hôm Giác tình cờ đi chơi ngoài đổng, gặp một nữ lang khoảng mười sáu tuổi, dung mạo xinh đẹp cứ nhìn mình mỉm cười như định nói gì, kế liếc quanh bốn phía rồi hỏi "Chàng có phải là Nhị lang họ Cam không?", Giác đáp "Phải", nàng nói "Lệnh tôn từng đính ước hôn nhân cho chàng với thiếp, sao nay lại bỏ lời ước cũ mà đính ước với họ Tần?". Giác nói "Tiểu sinh mồ côi từ nhỏ nên chuyện dạm hỏi thế nào không từng hay biết, xin nàng nói rõ tên họ để về hỏi lại gia huynh". Cô gái nói "Không cần phải nói rõ, chỉ cần chàng nói một câu ưng thuận thì thiếp sẽ tự tới"' Giác lấy cớ chưa có lệnh anh để từ chối, cô gái cười nói "Anh chàng ngây thơ lại sợ ông anh đến thế kia à? Đã thế thì thiếp họ Lục ở thôn Sơn Vọng tỉnh Sơn Đông, trong ba ngày nữa xin chờ tin chàng", rồi từ giã đi.
Giác về kể lại với anh chị, anh nói "Toàn là bịa đặt, lúc cha mất thì ta đã hơn hai mươi tuổi, nếu có chuyện ấy thì làm gì mà ta không biết", lại vì nàng đã đi một mình ngoài đồng mà còn bắt chuyện với đàn ông nên càng khinh bỉ. Nhân hỏi dung mạo nàng ra sao, Giác đỏ mặt không nói gì, chị dâu cười nói "Chắc là đẹp lắm". Ngọc nói "Trẻ con thì biết gì xấu đẹp mà cho dù cô ta có đẹp cũng không thể bằng họ Tần, đợi xem nếu chuyện họ Tần không xong thì tính đám này cũng chưa muộn", Giác im lặng đi ra. Qua vài hôm Ngọc đi đường thấy một cô gái thiếu nữ vừa đi vừa khóc phía trước bèn kìm ngựa liếc nhìn, thấy xinh đẹp tuyệt trần liền sai đầy tớ tới hỏi han. Cô gái nói "Ta trước kia đã đính hôn với Nhị lang nhà họ Cam, vì nhà nghèo dời đi xa, đứt tuyệt tin tức. Gần đây mới về nghe nhà họ Cam thay lòng đổi dạ bỏ lời ước cũ nên tới hỏi ông anh là Cam Bích Nhân xem tính toán cho thiếp thế nào". Ngọc vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, nói "Ta chính là Cam Bích Nhân đây. Gia phụ trước kia hẹn ước thế nào, thật ta không biết. Đây cách nhà ta không xa, mời cùng về bàn tính". Bèn xuống ngựa nhường cho cô gái cưỡi, đi bộ cầm dây cương dắt ngựa đưa nàng về nhà.
Cô gái tự nói tiểu tự là A Anh, không có anh em nào khác, chỉ có người chị bên ngoại là họ Tần ở chung, lúc ấy Ngọc mới hiểu ra người cô gái họ Tần nói tới chính là nàng. Ngọc muốn sai người báo tin cho nhà nàng biết nhưng nàng nhất định cản lại, cũng mừng thầm là em mình lấy được vợ đẹp nhưng sợ nàng lẳng lơ sẽ bị chê cười. Lâu ngày thấy cô gái rất đoan trang, lại mềm mỏng khéo nói, hầu hạ chị dâu như mẹ, chị dâu cũng rất yêu thương. Gặp tiết Trung thu, vợ chồng đang ăn uống thân mật, chị dâu sai gọi mãi, Giác còn phân vân thì cô gái bảo người đi gọi cứ về trước nàng sẽ tới sau, nhưng kế cứ ngồi ở nhà hồi lâu vẫn không có ý ra đi. Giác sợ chị dâu chờ, giục đi ngay nhưng nàng chỉ cười, rốt lại cũng không đi. Sáng ra nàng vừa trang điểm xong thì chị dâu tới thăm, hỏi sao đêm qua ngồi đối diện với mình mà có vẻ không vui, nàng mỉm cười. Giác thấy lạ gặng hỏi, căn vặn ồn ào. Chị dâu cả kinh nghĩ nếu nàng không phải là yêu ma thì làm sao có phép phân thân? Ngọc cũng sợ, đứng ngoài rèm nói "Nhà ta đời đời tu nhân tích đức, vốn không có oán thù gì với nhau, nếu là yêu ma thì xin đi mau, chớ giết em ta".
Nàng thẹn thùng nói "Thiếp vốn không phải là người, chỉ vì ngày xưa cha có lời đính ước nên chị Tần cứ khuyên bảo tới đây, tự biết không sinh đẻ gì được nên vẫn muốn từ biệt ra đi, sở dĩ còn bịn rịn chỉ vì anh chị đối xử tử tế mà thôi. Nay đã ngờ vực thì xin vĩnh biệt", rồi chớp mắt biến thành chim anh vũ bay mất. Trước kia khi Cam ông còn sống có nuôi một con anh vũ rất khôn, thường tự tay cho ăn. Lúc ấy Giác mới bốn năm tuổi, hỏi cho chim ăn làm gì, cha đùa nói "Để nó làm vợ ngươi", có khi sợ chim ăn chưa no lại gọi Giác "Không đem thức ăn ra đây thì con dâu ta chết đói mất", gia nhân cũng đều lấy đó đùa Giác, sau chim tuột dây bay mất, đến lúc ấy mới sực nghĩ ra cô gái nói lời đính ước cũ là chuyện đó. Nhưng Giác tuy biết rõ nàng không phải là người vẫn thương nhớ không khuây, chị dâu cũng nhớ nhưng cứ sớm chiều sa lệ.
Ngọc hối hận mà không biết làm sao, hai năm sau hỏi cưới con gái nhà họ Khương cho em nhưng rốt lại trong lòng vẫn áy náy. Có người anh họ làm quan Tư lý ở đất Việt (tỉnh Quảng Đông), Ngọc tới thăm khá lâu không về. Gặp lúc giặc cướp dấy loạn, xóm làng chung quanh quá nửa thành đất hoang. Giác cả sợ đưa gia đình vào lánh nạn trong hang núi, thấy trai gái lẫn lộn, không biết là những ai. Chợt nghe tiếng con gái nói nhỏ, giọng rất giống A Anh, chị dâu giục Giác tới gần xem thì quả là nàng, Giác mừng quá nắm chặt cánh tay nàng không buông ra. Cô gái nói với người cùng đi rằng "Chị cứ đi trước, ta còn đợi chị dâu". Kế chị dâu tới thấy A Anh nghẹn ngào khóc lóc nàng an ủi mấy chặp rồi nói đây không phải là nơi yên ổn, khuyên nên về nhà. Mọi người sợ giặc tới, nàng quả quyết là không sao, bèn dắt díu nhau về. Cô gái lấy đất xoa lên cửa, dặn cứ ở bên trong không được ra ngoài, ngồi nói năm ba câu rồi quay người định đi, chị dâu vội nắm chặt cánh tay, lại sai hai tỳ nữ giữ chặt hai chân, nàng bất đắc dĩ phải ở lại. Nhưng không chịu về phòng riêng, Giác hẹn ba bốn phen nàng mới tới một lần.
Chị dâu cứ nói Khương thị không thể làm vừa lòng thúc thúc, cô gái bèn dậy sớm trang điểm cho Khương, chải tóc đánh phấn xong mọi người đều thấy xinh đẹp hẳn lên, cứ thế ba ngày thì nghiễm nhiên trở thành một mỹ nhân. Chị dâu lấy làm lạ, nhân nói "Ta không có con, vẫn muốn mua một người thiếp nhưng chưa có dịp, chẳng biết đám tỳ nữ có thể trang điểm như thế được không?". Nàng nói "Ai cũng có thể làm cho đẹp lên được, chỉ là kẻ tư chất tốt thì dễ làm hơn thôi". Bèn xem tướng tất cả tỳ nữ trong nhà, chỉ có một người vừa đen vừa xấu là có tướng sinh con trai, liền gọi vào tắm rửa rồi lấy phấn trộn với thuốc thoa cho, như thế ba ngày thì sắc mặt dần đổi ra màu vàng, sau hai mươi tám ngày thì phấn thuốc thấm vào da thịt, trở thành dễ coi. Hàng ngày nàng chỉ đóng cửa vui cười, không nhắc gì tới việc binh lửa. Một đêm tiếng la thét nổi lên bốn bên, cả nhà không biết tính sao, kế nghe ngoài cửa có tiếng người ngựa rầm rập kéo đi. Sáng ra mới biết cả thôn bị cướp phá tan nát, bọn cướp túa ra lục soát khắp nơi, những người trốn núp trong hang hốc đều bị giết bị bắt, cả nhà càng thêm biết ơn cô gái, coi nàng như thần.
Cô gái chợt nói với chị dâu rằng "Lần này thiếp tới đây vì cảm ơn nghĩa của chị không thể quên, nên muốn chia sẻ nỗi lo ly loạn. Anh sắp về tới, thiếp ở đây cũng như lời ngạn vẫn nói 'Nửa dơi nửa chuột, con người đáng cười'. Thiếp đi đây, lúc nào rảnh sẽ ghé thăm chị". Chị dâu hỏi người đang đi đường liệu có yên ổn không, nàng đáp "Trên đường có nạn lớn nhưng đây không phải như chuyện người ngoài, chị Tần mang ơn nhiều ắt sẽ đền đáp, chẳng bị gì đâu". Chị dâu giữ lại qua đêm, trời chưa sáng nàng đã ra đi. Ngọc từ Quảng Đông về, nghe tin quê nhà loạn lạc, gấp rút đi mau. Giữa đuùng gặp giặc, thầy trò bỏ ngựa, buộc tiền bạc vào lưng núp vào bụi gai rậm. Một con Tần Các Liễu bay tới đậu trên bụi gai, xòe cánh ra che, Ngọc nhìn chân thấy mất một ngón thầm lấy làm lạ. Lát sau bọn giặc bổ vây bốn phía, lùng sục khắp chốn, hai thầy trò Ngọc nín hơi không dám thở mạnh, lúc bọn giặc đã rút con chim mới bay đi. Về tới cùng vợ kể chuyện đã qua, mới biết Tần Các Liễu chính là mỹ nhân mình cứu mạng trước kia.
Về sau cứ gặp lúc Ngọc đi vắng thì tối đến A Anh lại tới ngủ lại, tính khi Ngọc sắp về thì ra đi. Giác có khi gặp nàng ở chỗ chị dâu, mời tới chỗ mình thì nàng hứa nhưng không bao giờ tới. Một đêm Ngọc đi vắng, Giác đoán rằng A Anh sẽ tới bèn núp chờ, không bao lâu quả nhiên nàng tới, Giác nhảy ra lôi kéo vào phòng mình. Nàng nói "Thiếp với chàng duyên phận đã hết, nếu cố sum họp e sẽ bị trời ghen ghét, nên giữ lại chút tình đó để thỉnh thoảng còn gặp nhau"' Giác không nghe, rốt lại cùng nhau giao hoan. Sáng qua chỗ chị dâu, chị dâu lấy làm lạ, nàng cười nói "Giữa đường bị cường khấu bắt cóc, khiến chị phải nhọc lòng chờ đợi", kế trò chuyện vài câu rồi vội vàng ra đi. Không bao lâu có con mèo lớn ngậm con chim anh vũ đi ngang cửa phòng ngủ, chị dâu sợ quá, ngờ đó là A Anh, lúc ấy đang tắm cứ tạt nước gào lớn. Mọi người đổ ra đánh con mèo cướp được chim anh vũ lại, thấy cánh bên trái bết máu, hơi thở thoi thóp. Chị dâu đặt trên gối vuốt ve hồi lâu chim mới tỉnh lại, lấy mỏ rỉa cánh, giây lát bay lên vòng vòng trong phòng, gọi chị dâu nói "Xin vĩnh biệt chị, em oán Giác lắm", rồi vỗ cánh bay thẳng, không thấy trở lại nữa.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com