Chương 1: Truyền thuyết miếu cấm
Ở xứ Nam Kỳ này, đất rộng sông dài, chỗ nào mà chẳng có vài câu chuyện thâm u, vài chuyện ma quái rợn sống lưng. Người ta thường bảo, đất có thổ công, sông có hà bá, còn chốn rừng sâu núi thẳm thì ắt phải có những cái uy linh, quyền phép mà thiên hạ gọi là "miếu", là "am", không dám xúc phạm. Giữa vùng Sơn Nam, dưới chân ngọn núi dài như con trăn khổng lồ phủ phục, xanh rì, như một dải lụa mềm mại mà hùng vĩ, ôm trọn lấy mấy xóm làng nhỏ ven con sông Cái hiền hòa. Ban ngày, cảnh vật nơi đây yên bình đến lạ: rừng cây xào xạc, khe nước róc rách, vượn hú chim kêu vang động cả một vùng. Nhưng khi màn đêm buông xuống, mọi thứ bỗng chốc đổi khác. Núi rừng chìm vào thứ bóng tối đặc quánh, tiếng gió luồn qua kẽ lá nghe như tiếng thở dài ai oán, khiến người đi đường vội vã, chân bước mau hơn.
Người già trong xóm thường nhắc nhở con cháu bằng mấy câu ví von đầy ám ảnh: "Vô rừng mần ăn thì được, chớ có dại dột dòm ngó chốn ấy. Nghe tiếng thì tránh, thấy bóng thì chạy, đừng để "nó" dính theo mà mang họa." "Chốn ấy" chính là cái miếu cấm nằm sâu trong lõi rừng già. Chẳng ai biết nó có từ bao giờ, do ai dựng lên. Chỉ biết rằng, từ thời ông cố, bà sơ đã có lời truyền miệng: đó là nơi trú ngụ của những oan hồn, những uông linh không siêu thoát. Kẻ nào tọc mạch xâm phạm, nhẹ thì ốm đau, nặng thì... không biết chừng.
Ấy vậy mà lũ trẻ con trong xóm, đứa nào đứa nấy nghe đồn lại càng tò mò, thích thú. Sự cấm đoán càng làm trí tưởng tượng non nớt của chúng thêm phần sống động, vẽ nên những viễn cảnh vừa hãi hùng vừa kỳ thú. Vào một buổi chiều nắng xiên vàng vọt, bọn nhóc tụ tập ở sân nhà thằng Mía, đứa thì chơi đá cầu, đứa thì rượt bắt, cười nói vang trời.
Đang lúc mồ hôi nhễ nhại, chúng kéo nhau ngồi thụp dưới hiên nhà hóng mát. Bà Hai – bà nội thằng Mía – bưng ra một thau nước mưa mát lạnh, thấy đám nhỏ huyên náo thì bật cười: "Cái bọn nhỏ này, ồn ào dữ vậy? Hay là muốn bà kể chuyện ngày xưa nghe chơi?"
Thằng Mía mắt sáng lên, nhanh nhảu: "Nội kể chuyện cái miếu trên núi đi nội! Tụi con nghe nói hoài mà chưa biết sao hết! Chuyện thật đó, không phải chuyện đùa đâu nha nội!"
Bà Hai đặt thau nước xuống, ánh mắt đượm vẻ trầm ngâm, xa xôi. Giọng bà trầm xuống: "Ờ... chuyện đó hả con? Thì ra bây giờ tụi bây cũng đã biết tới rồi. Thôi được, ngồi im bà kể cho mà nghe..."
Tụi nhỏ nghe vậy nhốn nháo cả lên, đứa nào đứa nấy vội vội vàng vàng mà tranh nhau chỗ để ngồi gần cạnh bà Hai nghe cho rõ, coi bộ háo hức lắm. Thằng Sói là đứa lớn nhất nên tay chân nhanh nhẹn mà giành được chỗ ngồi sát bên hông bà Hai, thằng Chuột là đứa nhỏ nhất, chân ngắn lại chậm chạp, không tranh kịp ai nên cứ đứng ngơ ngơ nhìn anh chị. Thấy mình bị bỏ rơi, mặt mày nó nhăn lại, môi dưới trề ra, rồi bất thình lình nó oà lên khóc tu tu.
"Cái thằng này sợ ma mà cứ nhào vào nghe miết, về mày khóc ngủ không được để má mày chửi tụi tao là coi chừng." Giọng thằng Sói oang oang, mặt nó nhăn lại, miệng thì nói vậy nhưng là đứa đứng dậy đầu tiên kéo thằng Chuột đang thút thít, mắt mũi lem nhem vào chỗ nó vừa ngồi. Thằng Sói tuy miệng lưỡi hơi bị hư, hay chọc quê đứa nọ đứa kia, nhưng trong bọn, nó luôn là đứa biết nhường nhịn em nhỏ. Hễ đứa nào bị má rầy la, nó liền đứng ra nói đỡ dùm, chịu chửi thay. Bởi vậy, tụi nhỏ trong xóm quý nó lắm, đi đâu cũng bám riết lấy nó.
"Nhưng... em muốn ngồi chung với anh Sói à..." - Thằng Chuột nghèn nghẹn, vừa nói vừa túm chặt lấy vạt áo cũ của thằng Sói "Em ngồi một mình lỡ đâu con ma nó ra... nó kéo em đi mà anh Sói hổng hay biết thì sao..."
"Mày thì đủ thứ chuyện hết!" - Thằng Sói càu nhàu, nhưng vẫn ngồi xuống, kéo thằng Chuột ngồi vô lòng - "Ngồi yên đó, đừng có khóc nữa nghe chưa!"
Cả đám ồn ào một hồi rồi cũng yên vị. Bầu không khí bỗng trở nên im ắng, chỉ còn tiếng dế kêu ri rả ngoài bờ ruộng. Tất cả ánh mắt đều đổ dồn về phía bà Hai, chờ đợi.
Bà Hai năm nay cũng ngoài 80 tuổi, dáng người nhỏ nhắn, gương mặt in hằn dấu vết của thời gian. Bà ở một mình nuôi thằng Mía do cha má nó đều đi làm ăn xa tận bên Nam Vang, mấy năm về làng được có một hai lần. Có lần bà bệnh rồi ngất đi mà không ai hay, thằng Mía vừa đi chơi về thấy bà nó nằm im lìm trong bếp mà mặt mày tái mét, vừa chạy vừa khóc mà kêu người lớn trong làng qua coi dùm nội nó. Tội thằng nhỏ, từ bữa đó là nó ít khi đi chơi chỗ khác, toàn quanh quẩn ở nhà để dễ trông coi bà, nó nói: "Giờ tao chỉ còn bà nội, nội mà chết thì tao mồ côi"
Mỗi lần nghe nó nói vậy, thằng Sói lại chửi: "Mày ăn nói hồ đồ! Cha má mày nghe vậy buồn thúi ruột!".
Thằng Mía liền trả lời: "Ổng bả đi xa quá, có về đâu mà nghe. Nội em mà chết thì em côi cút một mình, chả mồ côi là gì?".
Con Mùi, đứa con gái duy nhất trong nhóm, lanh lẹ nói ngay: "Sao mày lại một mình? Mày còn tụi tao mà! Tụi tao qua chơi với mày, cùng chăm bà với mày, mày đừng khóc nữa!".
Thằng Sói gật gù: "Con Mùi nói đúng đó. Giờ mày không đi đâu được thì tụi tao sang nhà mày chơi, sẵn tiện coi chừng bà Hai với mày".
Nghe vậy thằng Mía nó mừng lắm, nó gật gật rồi cùng cả bọn về nhà nó chơi. Từ đó, nhà bà Hai trở thành cái "căn cứ" của cả lũ. Sáng nào chúng nó cũng kéo đến, chơi đủ thứ trò, từ nhảy lò cò đến bắn bi, làm cả cái sân nhà bà lúc nào cũng rộn rã tiếng cười, chơi từ sáng sớm tới chiều tối, tới khi nào mà cha má tụi nó cầm cây roi mây tới tận nhà bà Hai gọi về mới thôi. Bà Hai thương lũ trẻ lắm, có gì ngon cũng đem cho chúng nó ăn. Mỗi khi người khỏe, bà lại kể chuyện ma cho cả bọn nghe. Đứa nào cũng sợ mặt mày tái xanh, nhiều khi muốn bỏ về mà không dám đi, cứ núc ních vào nhau. Sợ vậy mà lúc nào cũng đòi nghe, vì cái sự rùng rợn ấy nó vừa đáng sợ lại vừa... cuốn hút lạ kỳ.
Nhưng trong tất cả những câu chuyện bà kể, chưa bao giờ bà chủ động nhắc đến truyền thuyết về cái miếu cấm trong núi. Hôm nay, vì thằng Mía năn nỉ mãi, bà mới chịu kể. Bà Hai nói: "Cái miếu cấm đó bà Hai cũng được ông bà xưa kể lại, có người tin kẻ không, bây giờ ai mà gan thì đi vào trỏng vẫn sẽ nhìn thấy, nhưng có ai dại mà làm vậy đâu".
Cả đám im phăng phắc, không một tiếng động. Ngay cả thằng Sói cũng trở nên nghiêm trang, nét mặt không còn vẻ đùa cợt như mọi khi. Bà Hai hạ giọng, kể như thầm thì, nhưng mỗi lời mỗi tiếng đều rõ ràng, thấm sâu vào tâm trí lũ trẻ.
Bà Hai nhìn xa xăm như nhớ về ngày xưa cũ, ánh mắt bà như xuyên qua lớp không gian và thời gian, trở về với quá khứ đầy bí ẩn. Câu chuyện về cái miếu cấm đó dân ở xứ Sơn Nam ai mà không biết, nhất là những người lớn tuổi thì càng biết rõ hơn nữa. Họ truyền miệng từ đời này sang đời khác về câu chuyện rùng rợn này không phải để hù dọa, mà thật ra là để cảnh báo cho con cháu đừng có dại dột mà vào trong đó, dù tin hay không nhưng cũng chẳng có ai đủ can đảm mà vào tận sâu lòng núi chỉ để biết truyền thuyết là thật hay giả, người không tin thì dùng câu chuyện đó để dọa con nít không được la cà lung tung vào rừng, hay dọa "nếu không chịu ăn cơm, không chịu về nhà sớm thì bị oán hồn xà nữ bắt ăn thịt". Thật hay giả thì chỉ có những người đã sống ở thời đó mới biết được.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com