3
Xoá bỏ nguyên tắc lí tưởng hoá trong quan điểm tiếp cận con người.
Hướng sang phương Tây, Thạch Lam không mấy tâm đắc với tiểu thuyết Pháp, Ý. Quay về phương Đông, Thạch Lam hoàn toàn không ưa tiểu thuyết luân lí, loại tiểu thuyết mà theo ông từng tồn tại một thời gian rất dài trong văn chương Việt Nam. Thạch Lam không tâm đắc với tiểu thuyết Pháp, Ý, vì kết cấu của chúng thường được tổ chức theo lô gíc hình thức, đọc tác phẩm của họ, người ta chỉ thấy sự sắp xếp khéo léo, chứ không bắt gặp sự sống đang vận động, phập phồng, biến hoá. Ông không ưa tiểu thuyết luân lí, vì theo ông, cách thức tiếp cận đời sống, nguyên tắc miêu tả nhân vật của nó xuất phát từ một quan niệm "sai lầm".
Thạch Lam nhận xét: "Quan niệm tiểu thuyết của chúng ta hồi trước là cái quan niệm một vai chính hoàn toàn (...). Tiểu thuyết bấy giờ chỉ có giá trị luân lí. Một quyển tiểu thuyết là một tấm gương luân lí gọt giũa khéo hay vụng để cho mọi người soi chung"(tr. 282, 283). Ông quả quyết: "Cái quan niệm "vai chính hoàn toàn" của thiểu thuyết là sai lầm"(tr. 288). "Sai lầm" trước hết là ở chỗ, quan niệm ấy đã biến thiểu thuyết thành truyện "anh hùng hay liệt nữ", chuyên viết về nhân vật chính diện. Với ý nghĩa như thế, tiểu thuyết luân lí thuộc loại hình văn học miêu tả nhân vật, tiếp cận đời sống theo nguyên tắc lí tưởng hoá. Cho nên, truyện nào cũng có một đôi trai tài gái sắc, hợp tan, rồi tan hợp, kết cục bao giờ cũng là cảnh đoàn viên, trai gái kết thành phu phụ, hưởng lộc dài lâu, cháu con đời đời vinh hiển. Thế là "quan niệm "vai chính hoàn toàn" đã khiến mọi cuốn tiểu thuyết luân lí phải lặp đi lặp lại một chủ đề muôn thủa, nội dung tác phẩm vì thế trở nên đơn điệu. Thạch Lam phàn nàn: "Tiểu thuyết luân lí phải là cái nhạt nhẽo, vô vị. Cứ nhắc đi, nhắc lại một cái đề, tác giả làm cho người đọc buồn ngủ và chán nản"(tr. 283). Lại nữa, để biến tác phẩm thành tấm gương luân lí, quan niệm "vai chính hoàn toàn" đòi hỏi tiểu thuyết phải miêu tả nhân vật như những con người tận thiện, tận mĩ: trai thì trung hiếu, "nhân", "trí", "dũng" đủ cả mọi đức, gái thì tiết trinh, "công", "dung", "ngôn", "hạnh" chẳng thiếu đức gì. Thế là con người được biến thành thánh nhân, vì "chỉ có thánh nhân mới hoàn toàn". Thạch Lam viết: "Trong một tiểu thuyết, các nhân - vật - hoàn - toàn không lấy được cảm tình của người đọc, chúng ta có lẽ phục, nhưng mà chúng ta không yêu. Chính vì một nhân - vật - hoàn toàn là một nhân vật không thực, một nhân vật bịa đặt bởi tác giả và vì thế không linh động chút nào"(tr. 295). Cuối cùng, để "vai chính hoàn toàn" bộc lộ các phẩm chất tốt đẹp, tiểu thuyết luân lí thường đặt các nhân vật trai tài gái sắc vào những cảnh ngộ khác thường, đầy những khó khăn thử thách, nhiều khi rất phi lí. Nhưng dẫu khó khăn thử thách thế nào thì tác giả vẫn không dám để cho nhân vật thất bại và tác phẩm bao giờ cũng kết thúc có hậu. Cho nên, đọc tiểu thuyết luân lí, độc giả có cảm giác, con người bị tách ra khỏi môi trường sống bình thường, cuộc sống của nhân vật là một thế giới khép kín, rất xa lạ và không có bất kì một ngõ ngách nào ăn thông sang cuộc sống bình thường của chúng ta. Trong bài Cái "hoàn toàn" lạnh lẽo, Thạch Lam đưa ra nhận xét khái quát: "Những tiểu thuyết luân lí ngày xưa khiến chúng ta lãnh đạm và không làm chúng ta cảm động, chính vì các nhân vật trong truyện hoàn toàn quá. Những nhân vật ấy hình như ở một thế giới riêng, không có những hèn yếu và băn khuăn của người đời và chúng ta không thấy hình ảnh mình ở những nhân vật ấy. Sự bịa đặt, dù hoàn toàn, không bao giờ bằng sự thực"(tr.296).
Thạch Lam cho rằng, tiểu thuyết luân lí đã kết thúc vai trò lịch sử của nó. Theo ông, "cái khuynh hướng của tiểu thuyết bây giờ là hết sức gần sự sống, để được linh hoạt và thật như cuộc đời"(tr. 287). Ông thấy, ngay cả trong phê bình, "khi chê một tác phẩm, người ta có những tiếng: không tự nhiên, không thật, vân vân, và trái lại, khi khen ngợi lại có những tiếng: thật, linh động, giống người"(tr. 288). Thạch Lam chỉ ra, để tiểu thuyết "linh động như cuộc đời", nhà văn cần xoá bỏ nguyên tắc lí tưởng hoá trong quan điểm tiếp cận con người và nguyên tắc miêu tả nhân vật.
Trước hết, nhân vật tiểu thuyết phải được miêu tả như những con người bình thường. Đã là con người bình thường thì ai "cũng có cái dở, cái khuyết điểm, bên cạnh cái hay". "Chính vì những khuyết điểm, hèn yếu ấy mà con người dễ mến, dễ thương". Thạch Lam nói: "Cái hoàn toàn lạnh lẽo lắm". Cho nên, phải miêu tả con người với tất cả những hay dở của nó thì nhân vật tiểu thuyết mới "thật", mới "linh động" và mới gợi được cảm tình của độc giả. Nhưng con người còn là một bản thể đầy bí ẩn. Thạch Lam thường dùng chữ "phiền phức" để nói về sự phức tạp đầy bí ẩn ấy. Ông viết: "Người ta là một động vật rất phiền phức"(tr. 288). "Phiền phức" vì "tâm hồn người ta bao giờ cũng có một phần bí mật", hành vi, lời nói, cử chỉ hay nét mặt bộc lộ ra phía bên ngoài nhiều khi chẳng ăn nhập gì với những suy nghĩ, toan tính hay rung động thầm kín của nó. "Phiền phức" vì con người đầy thất thường, không phải bao giờ nó cũng đồng nhất với bản thân: "một người rất tốt có thể có những lúc giận dữ, tàn ác, như một người rất ác có thể có những lúc hiền hậu nhân từ". Đã thế, hành vi của người ta không phải lúc nào cũng do "lẽ phải" và "tri thức" chi phối, mà thường bị xui khiến bởi muôn vàn động cơ tâm lí hết sức phức tạp. Thạch Lam tin rằng, nhà tiểu thuyết không thể không biết tới vai trò của "vô giác". Ông đánh giá cao những phát hiện của Freud: "Nhà tâm lí học Freud, khi giảng rõ cái quan trọng của phần "vô giác" trong sự sống của người đã mở một cách gián tiếp, một cái bờ cõi không ngờ cho văn chương"(tr. 288). Theo Thạch Lam: "Nhà nghệ sĩ giỏi là nhà nghệ sĩ tạo ra những nhân vật thật và hoạt động, ngoài những tính cách và đặc điểm của cái địa vị xã hội, tìm đến được cái không tả được ở trong mỗi con người"(tr. 288).
Thạch Lam cho rằng, người ta không sống một mình, ai cũng có liên lạc mật thiết với xã hội và những người khác, nên "nhà nghệ sĩ chỉ có thể diễn tả đúng tâm lí một người khi quan sát cả đến hoàn cảnh xung quanh". Theo ông, nhà văn phải biết "làm sống lại trong tiểu thuyết cái không khí bao bọc lấy vai chính". Quan trọng hơn, người viết tiểu thuyết phải để tâm lí và tính cách nhân vật tự bộc lộ qua hành vi của chính nó. Trong quan niệm của ông, tiểu thuyết luận đề "ít có giá trị", vì ở đây, các tác giả thường "cố ý bắt buộc các việc xẩy ra và tâm lí các nhân vật phải theo ý định của mình". Muốn miêu tả tinh tế hoàn cảnh và hành vi của nhân vật, nhà văn cần có tài quan sát. Ông viết: "Sự quan sát, bởi thế rất cần: quan sát đúng, tìm những hành vi chính, đó là cái tài của nghệ sĩ"(tr. 288). Thạch Lam khuyên các nhà văn không nên gán cho nhân vật những hành động theo kiểu "tuồng", càng không nên bịa ra những cảnh tượng "thơ mộng" một cách giả tạo. Ông kể đã đọc một thiên truyện ngắn trong đó tác giả tả cảnh bến đò Tân Đệ một đêm trăng: "bên bờ ngàn liễu rủ mình trong sương lạnh". Ông nói, bến đò Tân Đệ chưa bao giờ có liễu, "có lẽ tác giả trong một cơn cao hứng đã trông nhầm cái cột giây thép ra cây liễu chăng?". Ông chế giễu những nhà văn "lúc nào cũng nói đến các thứ hoa, không bỏ lỡ mất dịp nào và ấn đầy hoa, đầy màu lạ, đầy liễu rủ trong câu văn của họ". Theo Thạch Lam, chính "những điều nho nhỏ, một nét mặt, một cử chỉ, một giọng nói, cho chúng ta biết rõ tâm lí một người hơn những công việc và quyết định hệ trọng". Ông cho rằng: "Những cái mà người ta thường coi là nhỏ nhặt, vụn vặt hay tỉ mỉ, chính lại là những cốt yếu cuả tiểu thuyết hay". Ông đánh giá cao tiểu thuyết Anh, Nga, vì các tác giả "rất khéo làm linh động cái không khí bao bọc quanh nhân vật bằng những việc nho nhỏ như thế"(tr. 289).
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com