CHƯƠNG 95: MONG MUỐN CỦA PHỤ THÂN
A Diệu khom người hành lễ với Dương Huyền Chi và Tư Mã Quýnh: “Tề Vương điện hạ, Dương thị lang, mặc dù cả đêm chiến đấu gian khổ, nhưng cuối cùng chúng ta cũng đã thành công. Nhân lúc trời còn chưa sáng, ta sẽ lập tức mang Hiến Dung đi.” Chàng đi về phía Hiến Dung, kéo lấy tay nàng, “Chúng ta đi thôi!”
Hiến Dung còn đang mơ hồ, theo phản xạ bị A Diệu dẫn đi vài bước. Đột nhiên, phía sau truyền đến một tiếng quát to: “Buông hoàng hậu ra!”
A Diệu kinh ngạc quay đầu lại, thấy Dương Huyền Chi chặn trước cửa, lưỡi kiếm sắc bén chỉa thẳng vào ngực mình. A Diệu lắc đầu không thể tin nổi: “Không phải các người đã hứa sẽ để ta đưa Hiến Dung đi sao? Các người sẽ tuyên bố với mọi người rằng nàng đã chết trong tay quân phản loạn, sau đó có thể lập một hoàng hậu khác mà.”
Trong mắt Dương Huyền Chi hiện lên một tia áy náy, nhưng rồi nhanh chóng trở nên cương quyết: “Lưu Diệu, Hiến Dung là hoàng hậu, phải có trách nhiệm của một hoàng hậu, tuyệt đối không thể đi theo ngươi.”
Tư Mã Quýnh đứng bên cạnh Dương Huyền Chi cũng lặng lẽ nâng kiếm lên. A Lạc thấy thế lập tức giơ đao lên, Hiến Dung bị kẹp giữa bốn người, bầu không khí hết sức căng thẳng, có nguy cơ bùng nổ. Chỉ có Cổ Li không nói một lời, đứng ở một bên quan sát.
A Diệu đã hiểu, Dương Huyền Chi vốn dĩ chưa từng có ý định để Hiến Dung đi cùng chàng, chỉ là mượn sức của chàng giúp họ một tay rồi mới trở mặt. Chàng giận dữ đến tột độ, đau đớn phẫn uất: “Một người là Vương gia, một người xuất thân danh môn thế gia, vậy mà lại nuốt lời, thất tín bội nghĩa!”
Dương Huyền Chi thần sắc không thay đổi, vững chãi như núi: “Tùy ngươi muốn nói thế nào thì nói, Hiến Dung nhất định phải ở lại, ngươi mang theo thủ hạ của ngươi nhanh chóng rời đi đi.”
Một luồng khí lạnh bốc lên từ mặt đất, xuyên thẳng vào tim chàng. A Diệu trừng mắt giận dữ nhìn Dương Huyền Chi rồi cười lạnh, chàng siết chặt tay Hiến Dung hơn nữa: “Người xứng đáng làm cha nàng sao? Đây là cái hố lửa ăn thịt người, người không biết sao? Người bắt nàng ở lại, là vì nhà họ Dương, vì vinh hoa phú quý của người, căn bản không hề quan tâm đến sống chết của nàng!”
Ánh mắt Dương Huyền Chi u ám, giơ kiếm lên, giọng nói lạnh như băng: “Ta không cần giải thích với ngươi, nếu ngươi không chịu đi thì đừng trách ta không khách khí!”
Tư Mã Quýnh cho tới lúc này mới lên tiếng, khẽ thở dài: “Đừng làm chuyện vô nghĩa nữa, chỉ cần ngươi buông hoàng hậu ra, bổn vương bảo đảm an toàn cho ngươi.”
Trái tim A Diệu đau âm ỉ, giống như bị một cái giũa cắt tới cắt lui một cách chậm rãi. Chàng vốn tưởng rằng đã thu phục được hai mươi thủ hạ kia, nhưng rốt cuộc vẫn có một nửa làm phản ngay tại trận, rút đao chống lại chàng. Chàng vốn tưởng rằng đã đạt được thỏa thuận cùng với Dương Huyền Chi, không ngờ Dương Huyền Chi đã sớm có ý định thất tín. A Diệu chưa bao giờ căm hận bản thân mình quá nhỏ yếu đến thế, chính vì vậy mới bị bọn họ tùy tiện lợi dụng, mới không có chút khả năng xoay chuyển khi bị phản bội.
Nhưng chàng thật sự không cam lòng mà uất ức rời đi như vậy, chàng liền nhìn về phía Tư Mã Quýnh, cố gắng lần cuối cùng: “Tề Vương điện hạ, hiện giờ toàn bộ triều đường đều là của người. Ta không cầu quyền, không cầu tiền, chỉ cầu xin được mang nàng đi. Từ nay về sau sống mai danh ẩn tích, sẽ không bao giờ xuất hiện nữa, xin các người buông tha cho chúng ta, được không!”
Lời nói đến cuối đã biến thành tiếng cầu xin đầy khẩn thiết, đường đường là bậc nam nhi cao lớn mà gần như muốn quỳ xuống van xin. Hiến Dung đau đớn như đứt từng đoạn ruột, tim gan như vỡ vụn, nàng dốc hết sức giật tay mình ra khỏi tay chàng, sải bước lớn tiến về phía cha mình: “Thả A Diệu đi đi!” Sắc mặt nàng trắng bệch như tờ giấy, nhưng giọng nói lại vô cùng rõ ràng: “Con sẽ ở lại.”
A Diệu nhìn nàng lại một lần nữa rời đi, ánh mặt trời vĩnh viễn không chạm tới được ánh trăng, ngày và đêm vĩnh viễn chỉ có thể luân phiên xuất hiện, lời nguyền của số mệnh như vắt ngang giữa họ. Chàng nghe thấy dòng máu trong lồng ngực mình cuộn trào dữ dội, rồi đau đớn đến xé ruột xé gan mà hét lên: “Hiến Dung!”
Nàng đứng bên cạnh Dương Huyền Chi, quay đầu lại nhìn A Diệu. Trong giọng nói của nàng vang lên nỗi cay đắng và thê lương, như linh hồn đã tan vỡ trong cõi mộng, vang vọng trong cung điện trống trải: “Ta là hoàng hậu, cả đời cũng không thể thay đổi được thân phận này.”
Nhìn khuôn mặt nàng đầy vẻ đau buồn cùng cam chịu, A Diệu chỉ cảm thấy một luồng khí âm ỉ, lúc tỏ lúc mờ, nghẹn lại nơi lồng ngực, không thể nuốt xuống, cũng chẳng thể thở ra. Chàng cố gắng hít thật sâu vào tận tim phổi, nhưng cuối cùng lại ho ra một ngụm máu tươi. Tuyệt vọng và oán hận như những cây kim nhọn đâm nát trái tim chàng thành trăm ngàn lỗ thủng, chẳng còn chút hơi ấm nào nữa.
“Các ngươi qua cầu rút ván, còn là nam nhân sao!” A Lạc giận dữ tột độ, mặc kệ đối phương là hoàng thân quốc thích ăn trên ngồi trước, hắn giơ đao định xông lên: “Ta liều mạng với các ngươi!”
“Đừng có kích động!”
Một người dang tay chắn trước hai người, chính là Cổ Li, người nãy giờ vẫn đứng một bên quan sát. Với đôi mắt mở to, nàng trừng trừng nhìn A Lạc và A Diệu, trong ánh mắt đầy ẩn ý: “Chúng ta phải đi thôi!”
Tiếng quát của Cổ Li khiến hai người họ bình tĩnh lại đôi chút. Dù cho trong sảnh phụ này chỉ có Dương Huyền Chi và Tư Mã Quýnh, nhưng A Diệu và A Lạc đều hiểu rõ, lúc này không thể dùng vũ lực để giải quyết vấn đề. Đó là cha của Hiến Dung, nếu ngay trước mặt nàng mà rút đao đối đầu với Dương Huyền Chi, nàng sẽ đau lòng biết nhường nào. Huống hồ, bên ngoài đại điện đều là cấm quân vừa được Tề Vương thu phục, bọn họ thực sự có khả năng đưa Hiến Dung rời đi sao?
Cổ Li mỗi tay kéo một người bước nhanh ra khỏi điện. Dù trong lòng hai người có bao nhiêu không cam tâm, thì cũng chỉ có thể cắn răng nuốt hận vào trong. Vừa bước ra khỏi cung điện, A Diệu ngoảnh đầu lại nhìn. Gương mặt trong trẻo và thanh khiết ấy giờ đây bình thản đến mức gần như tê dại, như hòa vào trời đất trong ánh sáng ban mai. Một tia nắng chiếu qua khung cửa sổ, tạo thành một luồng sáng trước mặt nàng. Những đám bụi lơ lửng bay lên rồi rơi xuống trong luồng sáng ấy, hệt như cuộc đời của nàng vậy, bấp bênh và trôi nổi.
*****
Vào giữa trưa ngày hôm đó, dưới ánh mặt trời, áo giáp rực rỡ lấp lánh như vảy, những lá cờ như che phủ cả bầu trời. Ba đạo quân của Thành Đô Vương Tư Mã Dĩnh cùng Trường Sa Vương Tư Mã Nghệ, Hà Gian Vương Tư Mã Ngung xếp thành một hàng dài trải dài tít tắp đến tận chân trời tại ba cổng thành ở phía đông Lạc Dương.
Tư Mã Dĩnh mặc bộ giáp vàng chói lóa rục rỡ, cưỡi trên lưng một con Hãn huyết bảo mã do Tây Vực tiến cống, hắn đứng trước cổng thành, há miệng ngẩng đầu nhìn lên. Trên lầu cổng thành, một hàng giáo dài cắm thẳng đứng, đầu mũi giáo đều cắm những chiếc đầu người đã được tẩm vôi trắng. Tư Mã Dĩnh nhận ra ngay chiếc đầu tóc hoa râm ở chính giữa là của Tư Mã Luân, bên cạnh là Tôn Tú, phía còn lại là thái tử Tư Mã Phức, cùng với một loạt con cháu và tùy tùng trung thành của ông ta, tổng cộng có hơn hai mươi chiếc đầu.
Tư Mã Dĩnh phải gắng sức hồi lâu mới khép lại được cái miệng đang há hốc của mình, trong lòng thì rủa xả một lượt mười tám đời tổ tông nhà Tư Mã Quýnh, mà quên khuấy mất rằng tổ tông của Tư Mã Quýnh cũng chính là tổ tông của hắn. Khi Tư Mã Luân cướp ngôi, hắn là người đầu tiên khởi binh, giao chiến ác liệt với Tư Mã Luân trên mặt trận chính diện. Trận chiến ở Triều Ca tuy đã tiêu diệt được phần lớn chủ lực của Tư Mã Luân, nhưng binh lực của hắn cũng đã bị tổn thất quá nửa. May mà có sự gia nhập của Tư Mã Nghệ và Tư Mã Ngung, cuối cùng cũng tập hợp đủ mười lăm vạn binh mã, hùng dũng tiến thẳng về Lạc Dương.
Hắn mơ tưởng mình sẽ giống như một vị thần giáng lâm xuống Lạc Dương, đám tàn quân bại tướng khi nghe được tên của hắn sẽ liền chạy trối chết, người dân hai bên đường sẽ chen chúc chào đón, vô số thiếu nữ trẻ trung cũng sẽ ngất xỉu vì hạnh phúc khi nhìn thấy hắn. Hắn mơ mình sẽ oai phong lẫm liệt tiến vào hoàng cung, đưa người ca ca ngốc nghếch của mình trở lại ngai vàng, từ đó nắm giữ triều chính, hô phong hoán vũ. Vài năm sau, khi thế cục đã ổn định, hắn sẽ để người ca ca khờ sắc phong hắn làm Hoàng thái đệ, thuận lợi tiếp nhận vương quyền. Còn về phần hoàng tẩu xinh đẹp kia, đến lúc đó cũng sẽ chủ động nhào vào lòng hắn, ngoan ngoãn thừa nhận rằng ngày xưa nàng ta đã bị mù.
Nhưng ngàn vạn lần không ngờ tới, hắn mang đầy khí thế hào hứng tiến vào Lạc Dương như vậy thì đã thấy cổng thành rộng mở, trật tự ngay ngắn, Tư Mã Quýnh mặc triều phục cung kính ra nghênh đón, hai tay dâng lên thánh chỉ chính là của người ca ca ngốc của hắn. Dân chúng thành Lạc Dương thì vô cùng vui mừng trước việc hoàng đế được phục vị, khắp phố phường vang vọng tiếng “Vạn tuế” như sóng trào biển động. Cuối cùng cũng có thể tránh khỏi cảnh binh đao cướp bóc, chính biến hay binh biến thì cứ xảy ra trong hoàng cung là được, điều dân chúng mong muốn chẳng qua chỉ là một cuộc sống yên ổn.
Ba vị Vương gia Tư Mã đưa mắt nhìn nhau, đâm lao thì phải theo lao. Đã mang danh xả thân vì triều đình thì sao có thể không tuân theo chiếu chỉ? Mặt mũi bọn họ xám xịt, chỉ còn con đường xuống ngựa và quỳ gối tiếp chỉ.
Trong chiếu thư, ba vị vương gia được ca ngợi hết lời vì đã khởi binh tận trung với hoàng thượng và được mời vào triều để nhận thưởng. Ba người buộc phải vào cung yết kiến hoàng đế nhưng nhất quyết không chịu rời vũ khí và mang theo hàng trăm binh lính tinh nhuệ cùng tiến cung. Thực ra, ba người họ đã quá lo xa, quân của họ có tới mười lăm vạn đang đóng phía dưới thành Lạc Dương, Tư Mã Quýnh căn bản không có thực lực để đối đầu. Con bài duy nhất trong tay y chỉ có hoàng đế mà thôi.
Bên trong triều, Tư Mã Trung mập mạp đang ngồi vững trên ngai vàng, tuy lời nói cử chỉ còn non yếu, nhưng ít ra vẫn mạch lạc, không mắc lỗi lớn nào, xem ra Tư Mã Quýnh đứng sau đã dạy dỗ cho không ít.
Tàn dư đảng phái của Tư Mã Luân đều đã bị thanh trừng, dĩ nhiên cũng không thể thiếu phần ban thưởng cho các công thần. Hoàng đế lệnh cho Kê Thiệu đọc chiếu thư, phong cho ba vị Vương gia có công là Tư Mã Dĩnh, Tư Mã Nghệ và Tư Mã Ngung đồng loạt giữ chức Đại Tư Mã, Đại tướng quân, còn ban thêm “Cửu Tích” là chín món biểu trưng cho quyền lực và đức hạnh. Những khí vật, chế độ, sắc lệnh và nghi lễ mà họ được hưởng đều giống hệt như tổ tiên của họ là Tư Mã Ý, Tư Mã Sư, Tư Mã Chiêu, Tư Mã Viêm từng được ban dưới thời Tào Ngụy. Đặc biệt là: Khi họ vào triều không cần phải bước nhanh vội vã, được mang kiếm và đi giày lên điện.
Khi Kê Thiệu đọc đến câu “Vào triều không cần phải bước nhanh vội vã, được mang kiếm và đi giày lên điện” thì tất cả quan viên trong triều đều lộ vẻ kinh ngạc khác thường. Vào thời đó, các quan chức phải tháo bỏ đao kiếm, cởi giày và bước nhanh vào triều đình để tỏ lòng tôn kính. Nếu được ban đặc ân này, thì bọn họ có thể mang gươm, đi giày, nghênh ngang bước vào điện rồi. Những người được hưởng chế độ đãi ngộ như trên đều là những quan đại thần có quyền lực như Đổng Trác, Tào Tháo và ba thế hệ nhà họ Tư Mã. Nhưng xưa nay, các quyền thần đó đều chỉ có một người duy nhất trong triều đình được ban đặc ân như vậy. Còn bây giờ, làm sao có thể để ba người trong triều đều được hưởng đặc quyền này cùng một lúc?
Tư Mã Nghệ cùng Tư Mã Ngung đều bình tĩnh bước lên nhận phong thưởng, hai người bọn họ vốn cho rằng chắc chắn sẽ ít hơn Tư Mã Dĩnh mấy cấp bậc, không nghĩ tới lại được nhận đãi ngộ giống nhau như đúc, quả thực là niềm vui ngoài ý muốn. Tư Mã Dĩnh thì nghẹn một bụng uất ức, không nhận thì chẳng lẽ để hai tên Tư Mã kia được hưởng vinh dự cao hơn mình? Hắn sao có thể chịu được điều đó?
Cuối cùng, Tư Mã Dĩnh đành miễn cưỡng hành đại lễ: “Thần tạ ơn thánh thượng ban ân.” Vừa đưa tay định nhận dải lụa, hắn chợt đổi ý, liền quay sang nói với Tư Mã Trung: “Chinh chiến mấy ngày liên tiếp, thần đệ có phần mỏi mệt, muốn sớm hồi phủ nghỉ ngơi, ngày mai sẽ đến nhận thưởng. Xin bệ hạ ân chuẩn.”
*****
Đầu hạ lúc chạng vạng, trăng nhạt mờ ảo như tấm lụa mỏng phủ trời.
Trong Vương phủ Thành Đô, đám người hầu lặng lẽ thắp sáng những chiếc đèn đồng ở nhiều nơi trong thư phòng. Lưu Uyên mang dáng vẻ điềm tĩnh, hai tay chắp sau lưng. Đôi đồng tử đen như sói của ông ta lóe sáng, khuôn mặt dài gầy gò tràn đầy vẻ châm biếm: “Trong triều đình, sao có thể để ba người ‘vào triều không cần phải bước nhanh vội vã, được mang kiếm và đi giày lên điện’? Đây là để ba người các ngươi đấu đá lẫn nhau, để hắn ngồi không mà hưởng lợi.”
Tư Mã Dĩnh cảm thấy có lý, nhưng vẫn tức giận bất bình, một tay hắn chống lên chiếc bàn cao, một tay đỡ đầu tạo dáng: “Chẳng lẽ bổn vương lại phải từ chối những phần thưởng này? Như vậy chẳng phải khiến bổn vương kém hơn Tư Mã Nghệ và Tư Mã Ngung ư?”
“Vậy không phải vừa hay sao? Thành Đô Vương lấy lùi làm tiến, để hai vị kia tranh giành ngươi chết ta sống.”
Tư Mã Dĩnh từ tức giận chuyển sang vui mừng, vỗ tay mạnh một cái: “Đúng rồi, đợi hai tên đó phân thắng bại xong, triều đình chỉ còn lại mình ta là Đại Tư Mã, Đại tướng quân, lúc đó chẳng phải muốn một tay che trời cũng được sao!”
“Chẳng phải còn có Tư Mã Quýnh à?” Lưu Uyên đột nhiên nhớ ra, “Hắn được ban thưởng gì vậy?”
Tư Mã Dĩnh hừ một tiếng đầy khó chịu: “Chẳng được gì cả, vẫn làm Tề Vương như cũ.”
Lưu Uyên ngạc nhiên: “Chỉ hơn hai mươi tuổi, vậy mà có thể giữ được bình tĩnh như thế, không bị danh vị quyền thế mê hoặc, đúng là khiến người ta phải nhìn bằng con mắt khác.”
“Người đứng sau lưng hắn chính là Dương Huyền Chi.” Tư Mã Dĩnh nhìn Lưu Uyên với nụ cười nửa miệng: “Nếu ta nhớ không nhầm thì Dương Huyền Chi đã từng qua lại với Đại Thiền Vu hơn mười năm trước rồi, đúng không?”
“Đúng thế. Là bằng hữu cũ thôi mà.” Lưu Uyên cười lạnh, trong mắt lóe lên tia lạnh lẽo: “Có thể gặp được đối thủ ngang tài như ông ta, ngược lại khiến người khác phải mong đợi.”
“Ngày mai bổn vương sẽ từ chối phong thưởng, vậy sau đó thì sao? Chẳng lẽ ta phải quay về Nghiệp Thành?”
Lưu Uyên hơi nheo mắt, đôi mắt như sói càng không thấy rõ nông sâu: “Tất nhiên phải về, nhưng không phải bây giờ. Thành Đô Vương đã đến Lạc Dương một chuyến rồi thì dù sao cũng phải làm chút chuyện khiến cho dân chúng Lạc Dương vui vẻ, nhưng cũng phải để Tư Mã Quýnh đau đầu, người hãy quấy nồi cháo này một chút rồi hẵng đi.”
*****
Trong khoảng mười ngày tiếp theo, Tư Mã Dĩnh thật sự bận tối mặt tối mày. Hắn vận chuyển lương thực vào thành, phát cháo cho người dân nghèo, an ủi gia quyến các tướng sĩ tử trận, đồng thời còn an táng tử tế cả binh lính bên phía Tư Mã Luân chết trận: những hành động này rõ ràng là nhằm mục đích chiếm được lòng dân, và thực sự hắn đã giành được sự ca ngợi của thần dân Lạc Dương. Hơn nữa, hắn còn từ chối phong thưởng, không kết bè kết cánh với các Tư Mã khác, khiến ngay cả triều thần cũng phải nhìn hắn bằng con mắt khác.
“Từ trước đến nay Tư Mã Dĩnh vẫn luôn là người kiêu ngạo, nhưng mưu trí lại bình thường, có thể lập được kế hoạch đâu vào đấy như vậy, bên người hắn nhất định có quân sư lợi hại.” Trong điện Hiển Dương, Dương Huyền Chi rời khỏi sạp, hai tay chắp sau lưng chậm rãi đi tới, cười lạnh nói: “Hắn còn dâng tấu chương thỉnh cầu phong tước cho những chiến sĩ tử trận, đây chính là dùng tiền của triều đình để làm lợi cho mình, nhưng chúng ta lại không thể bác bỏ.”
Tư Mã Quýnh hơi nhíu mày: “Theo như mật thám phát hiện, có một nam nhân khoảng bốn mươi tuổi luôn ở bên cạnh Tư Mã Dĩnh, nhưng lại sống ẩn dật, chưa từng giao lưu với người ngoài, không ai biết lai lịch của ông ta.”
Hiến Dung ngồi chính giữa sạp, lo lắng nhìn cha: “Vậy bây giờ phải làm sao? Đại quân của Tư Mã Dĩnh vẫn còn đóng ở bờ sông Lạc ngoài thành, lúc này chúng ta không thể trở mặt với hắn.”
“Nhưng chúng ta cũng không thể để hắn tiếp tục thu phục lòng người.” Dương Huyền Chi vuốt vuốt chòm râu, trầm ngâm nói: “Hãy để hắn trở về thái ấp đi, như vậy chúng ta mới rảnh tay đối phó với Tư Mã Nghệ và Tư Mã Ngung trước. Hai người này không có quân sư lợi hại, binh lực cũng ít hơn hắn.”
Tư Mã Quýnh ngồi trước cửa sổ, vẻ mặt tao nhã: “Tháng sau ta thành hôn, đã trao thiếp mời tới hắn rồi. Chờ hôn lễ xong, ta sẽ xin bệ hạ phát chiếu thư cho hắn trở về thái ấp.”
Hiến Dung băn khoăn nói: “Tiên đế đã từng hạ lệnh, mỗi lãnh địa nhiều nhất chỉ có thể có năm ngàn quân, các phiên vương không được tùy ý chiêu mộ binh lính. Nhưng hắn mà quay về rồi, chắc chắn sẽ chiêu binh mãi mã. Lãnh địa của hắn rộng lớn, lại chiếm vị trí trọng yếu, sau này ắt sẽ là một đại họa ngầm.”
Dương Huyền Chi bất đắc dĩ thở dài: “Sao ta lại không biết. Mai sau Tư Mã Dĩnh nhất định sẽ trở thành khối u độc trong triều đình, nếu không cắt bỏ thì sẽ thối rửa.”
Hiến Dung nhíu mày nói: “Hay là xin bệ hạ ban chiếu chỉ để chúng ta phái người đến tiếp quản binh quyền của hắn?”
“Hiện giờ phiên vương nào mà không tự mình thu thuế, tự lập quân đội, mạnh ai nấy làm theo ý mình chứ? Dựa vào một tờ chiếu chỉ rỗng tuếch thì có thể ràng buộc được ai?” Dương Huyền Chi lắc đầu, khuôn mặt mang theo vài phần mệt mỏi phong sương, “Muốn làm việc cho triều đình, nhất định phải dùng tiền. Nhưng quốc khố đã bị Tư Mã Luân làm hao hết, ngay cả hoàng cung bị hư hại cũng không có tiền tu sửa. Huống chi sau đại chiến các nơi đều hoang tàn, dân chúng cũng ly tán trôi dạt. So với việc phải trói buộc các phiên vương, thì trấn an những người dân lưu lạc càng bức thiết hơn.”
Tư Mã Quýnh gật đầu tán đồng: “Trước tiên phải làm cho bản thân mạnh lên, đó mới là việc cấp thiết nhất hiện nay.”
Mỗi ngày sau khi hạ triều, Tư Mã Quýnh cùng Dương Huyền Chi sẽ đến điện Hiển Dương của Hiến Dung để cùng nàng trao đổi việc triều chính. Dương Huyền Chi hy vọng Hiến Dung có thể sớm ngày quen thuộc với chính vụ triều đình để sau này có thể một mình đảm đương một phía. Tư Mã Quýnh từng đề nghị Hiến Dung cũng lên triều nghe chính sự, nhưng lại bị Dương Huyền Chi phản đối. Hiến Dung còn trẻ, lúc này vào triều sẽ gây nên chỉ trích. Mọi người vẫn còn sợ hãi chuyện của Giả hậu, bọn họ sẽ nhìn Hiến Dung như một “Giả hậu thứ hai”. Còn Dương Huyền Chi chắc chắn cũng sẽ bị cho là muốn trở thành “Giả Sung thứ hai”.
Việc triều chính hôm nay đã thương lượng xong, Dương Huyền Chi nhắc tới một chuyện: “Lương nhân tên Nhụy Nhi kia xử lý xong chưa?”
Hiến Dung do dự một lát, vẫn muốn giải vây cho Nhụy Nhi: “Đêm diệt trừ Tư Mã Luân, nàng ta cũng có công, không bằng tha cho nàng ta một con đường sống đi cha.”
Dương Huyền Chi lắc đầu: “Mọi người trong cung đều biết, Nhụy Nhi là do Tư Mã Luân cài ở bên cạnh bệ hạ. Nhất định phải xử lý nàng ta để răn đe những kẻ khác, nếu không hậu hoạ sẽ khôn lường.”
Trong lòng Hiến Dung không đành lòng: “Nhưng mà, nàng ta đã——”
“Đừng để lòng dạ nữ nhân làm hỏng việc nữa!” Giọng điệu của Dương Huyền Chi đã bắt đầu không vui, vẻ mặt ông nghiêm khắc đến đáng sợ, “Ở hậu cung, khi xuống tay giết người con phải quyết đoán nhanh nhẹn thì mới có thể giữ mình ở thế bất bại.”
Hiến Dung hé miệng định nói, nhưng khi thấy vẻ mặt không cho phép phản bác của Dương Huyền Chi, nàng đành nuốt lời vào trong. Dương Huyền Chi trầm giọng nói: “Việc này con không cần can dự vào nữa, ta sẽ dặn dò Cung ma ma.”
Lông mi nàng khẽ run, im lặng một lúc rồi gật đầu.
Cung ma ma mới vào cung hầu hạ Hiến Dung mấy ngày trước. Bà là nha hoàn hồi môn mà Tôn phu nhân mang theo từ nhà mẹ đẻ ở Sơn Đông. Tôn phu nhân lúc trước là thê tử chính thức thực sự của Dương Huyền Chi. Cung ma ma cùng lớn lên với Tôn phu nhân nên thân thiết như tỷ muội. Sau khi Tôn phu nhân sinh ra Hiến Dung và mất trong lúc sinh nở, Cung ma ma đã ở lại với Thẩm Cẩm Tú và đối xử với Thẩm CẩmTú như Tôn phu nhân ngày trước. Cả đời bà không thành thân, tuy mang thân phận là nô tỳ, nhưng bà lại có địa vị rất cao trong gia tộc họ Dương. Cung ma ma là người nghiêm túc và cứng nhắc, rất ít khi cười. Lúc nhỏ khi Hiến Dung phạm lỗi, nàng có thể nũng nịu trước mặt Thẩm Cẩm Tú và được tha, nhưng lại không thể vượt qua được Cung ma ma, việc đáng phạt hay đáng đánh là bà nhất quyết không nương tay.
Thế nên Hiến Dung đối với bà vừa kính vừa sợ.
Khi Hiến Dung nhập cung chỉ mang theo một người thân cận là Xuân Nhi, rất nhiều việc nàng đều phải tự mình quyết định. Dương Huyền Chi luôn muốn đưa thêm người vào giúp nàng, nhưng mãi đến khi Tư Mã Luân bị tiêu diệt ông mới có cơ hội làm việc này. Cung ma ma là người từng trải và có nhiều kinh nghiệm sâu sắc, chắc chắn có thể giúp đỡ được Hiến Dung. Cho nên, ngày thứ hai sau khi Hiến Dung khôi phục lại địa vị hoàng hậu, Dương Huyền Chi đã đưa bà vào cung.
Đặc biệt là những việc không tiện ra mặt, Dương Huyền Chi hiểu rõ Hiến Dung giống Thẩm Cẩm Tú, đều mang tấm lòng nhân hậu của người làm thầy thuốc, sẽ không nỡ ra tay. Những lúc như vậy, Cung ma ma chính là người có thể giúp ích rất nhiều.
Dương Huyền Chi thấy Hiến Dung không còn khăng khăng gì nữa, ông xoay người khom người hành lễ với Tư Mã Quýnh: “Tề Vương điện hạ, hạ quan cùng hoàng hậu còn có mấy lời muốn nói.”
Tư Mã Quýnh biết Dương Huyền Chi muốn nói chuyện riêng với Hiến Dung, liền lễ phép cáo từ. Đến khi trong điện chỉ còn lại hai cha con ngồi đối diện nhau, sắc mặt Dương Huyền Chi liền trở nên nghiêm trọng, ngữ khí cũng nghiêm nghị: “Thái tôn đã chết, Hoàng thượng đã không còn huyết mạch nào để kế thừa. Ngày nào không có người kế vị thì ngày đó triều đình sẽ không an bình. Con phải mau chóng sinh hạ long nhi để nối dõi huyết mạch hoàng gia.”
Hiến Dung đã mơ hồ đoán được cha muốn nói chuyện riêng với nàng chính là chuyện này, trong lòng nàng dâng lên muôn vàn sự không cam lòng, nàng cúi đầu xoắn chặt vạt áo: “Phụ thân, con......”
Dương Huyền Chi làm sao lại không biết nữ nhi nhà mình đang suy nghĩ cái gì: “Ta biết con không muốn. Nếu không phải bất đắc dĩ, cha làm sao lại nguyện ý gả bảo bối của mình cho người như vậy......” Ông dừng một chút, không nói tiếp, thở dài để ổn định cảm xúc, “Con đã hành lễ, tế tổ, tuyên cáo với thiên hạ rằng bệ hạ chính là trượng phu của con. Phu thê của một gia đình bình thường nếu không hòa thuận thì còn có thể chia tay trong hòa bình, nhưng thân phận của con lại là cả đời không thể thay đổi. Đã mang danh là người của bệ hạ cho đến tận lúc chết, thì sau khi chết con cũng phải hợp táng một chỗ cùng người, vậy thì sao con không thử tiếp nhận bệ hạ để chính mình cũng dễ sống hơn một chút.”
Hiến Dung đầy uất ức, nước mắt lưng tròng: “Phụ thân nói những đạo lý này, Hiến Dung làm sao không rõ, nhưng khúc mắc trong lòng con khiến con thật sự không thể vượt qua được……”
“Đời người ở thế gian, mười việc thì đến tám, chín phần không như ý, con không có quyền sống theo ý mình!” Dương Huyền Chi thở dài, trong mắt lộ ra vẻ lạnh lẽo. “Ngày hôm đó Lưu Diệu đã nói, ta muốn con ở lại hoàng cung là vì Dương gia, vì vinh hoa phú quý của ta. Hắn sai rồi. Ta muốn con ở lại không phải vì Dương gia, mà là vì muôn dân trăm họ trong thiên hạ!”
Hiến Dung kinh ngạc ngẩng đầu nhìn lên, thấy trên trán cha đã có vài sợi tóc trắng xen lẫn với tóc đen.
“Cuộc khởi nghĩa của Tư Mã Luân vừa mới bị dập tắt, giờ đây sẽ có bao nhiêu phiên vương cùng người có dã tâm rục rịch ngóc đầu dậy? Nếu chúng ta không cố gắng hết sức để vá lại lỗ thủng này, thì thảm kịch mà chúng ta phải đối mặt sẽ còn tệ hơn cả sự hỗn loạn vào cuối thời nhà Hán!” Vẻ mặt của Dương Huyền Chi vô cùng nghiêm túc, trong mắt ông tràn đầy vẻ lo lắng và đau buồn. “Lưu Diệu đã nghĩ quá đơn giản, nếu các con rời đi, lẽ nào có thể mai danh ẩn tích, sống cuộc sống an nhàn hạnh phúc ư? Nếu như thiên hạ đại loạn, làm sao có thể bảo toàn được trứng trong tổ chứ? Đến lúc đó, con sẽ thấy hối hận vì không làm tròn trách nhiệm của một bậc mẫu nghi thiên hạ!”
Toàn thân Hiến Dung run rẩy, tim như bị ai đó giáng mạnh một cú, nỗi đau thương cuồn cuộn, trào dâng mãnh liệt. Người cha già vì triều chính mà lao tâm khổ tứ, chỉ trong vài tháng đã già đi nhiều đến thế, còn bản thân nàng thì vẫn mãi đắm chìm trong chuyện nhi nữ tình trường mà không thể thoát ra. Ngay khoảnh khắc này, nàng bắt đầu thấy hối hận.
“Nếu không thể trông cậy vào bệ hạ, thì thiên hạ này chỉ còn có thể trông cậy vào con. Gánh nặng trên vai con quá lớn, không còn thời gian để lãng phí nữa!” Vừa nói, ông vừa bước đến trước mặt Hiến Dung, nghiêm trang quỳ xuống, dập đầu thật mạnh.
Hiến Dung kinh ngạc, vội vàng nhảy dựng lên, tránh né việc cúi lạy: “Phụ thân, người đang làm gì vậy?! Con gái sao dám nhận nổi!”
Dương Huyền Chi nghiêm chỉnh thực hiện đầy đủ đại lễ ba lần quỳ, chín lần dập đầu, không sai sót một động tác nào, ông nhất quyết phủ phục dưới đất không chịu đứng dậy: “Đây là tâm nguyện lớn nhất của vi thần, mong hoàng hậu thành toàn!”
Hiến Dung nắm chặt hai tay, mím chặt đôi môi mỏng, nước mắt đã vô thức dâng đầy trong khóe mắt. Một cơn gió mùa hạ nóng bức thổi vào từ cửa sổ, làm lay động những tấm rèm mỏng và những chuỗi ngọc trên áo phát ra tiếng leng keng khe khẽ. Nàng hơi ngẩng đầu lên, cố để nước mắt chảy ngược trở lại. Nhưng nước mắt của nàng giờ đây giống như một dòng suối, dù gió có thổi mạnh đến thế nào cũng không thể cuốn trôi đi hết được.
Nàng chưa bao giờ dám nói ra, nhưng sâu thẳm trong lòng nàng luôn có một sự mong đợi mơ hồ. Mong rằng có một ngày nàng có thể thoát khỏi cái lồng giam ngột ngạt này, thoát khỏi chốn địa ngục nuốt người này. Mùa xuân có thể cuốc đất gieo mạ, mùa hạ thì chèo thuyền trên hồ, mùa thu hái cúc dưới núi Nam, mùa đông dẫm tuyết tìm mai, nàng sẽ sống một cuộc đời giản dị nhưng yên bình như thế. Có lẽ... có lẽ bên cạnh nàng vẫn còn có một người tỏa sáng như ánh mặt trời rực rỡ kia. Cùng nhau buông bỏ hết thảy thù hận, quên đi mọi muộn phiền, sống trọn vẹn một đời tràn đầy ý nghĩa, chứ không phải cuộc sống vỡ vụn khuyết thiếu như hiện tại.
Thế nhưng, khi nhìn người cha vẫn quỳ trước mặt mình không chịu đứng dậy, nàng không khỏi nở nụ cười bi ai trong im lặng. Tất cả những điều nàng vừa mơ tưởng, rốt cuộc cũng chỉ là một giấc mộng xa vời. Thân thể này của nàng, từ lâu đã không còn thuộc về riêng nàng nữa. Nàng hít mũi một cái, quay đầu đi dùng mu bàn tay lau vội nước mắt. Khi quay lại đối diện với Dương Huyền Chi, nàng cúi người thật sâu trước cha mình. Cái cúi chào này, không chỉ là một lời chấp thuận, mà còn là lời tiễn đưa giấc mộng viển vông trong đáy lòng nàng chấm dứt triệt để.
“Phụ thân yên tâm, tối nay......” Nàng dừng một chút, hít sâu một hơi, nở nụ cười bi thương, “Bắt đầu từ tối nay, bệ hạ sẽ ngủ ở điện Hiển Dương.”
*****
Chú thích:
九锡: Cửu Tích: "Cửu" (九) là số chín, "Tích" (锡) nghĩa là ban tặng, phong thưởng. Cửu Tích là chín món lễ vật đặc biệt mà hoàng đế ban cho một đại thần có công lớn hoặc có uy quyền cực cao, như một biểu tượng của sự vinh sủng, thường chỉ dưới một bậc so với hoàng đế. Theo ghi chép từ các điển chế nhà Hán và Tấn, Cửu Tích bao gồm chín món biểu trưng cho quyền lực và đức hạnh:
1. Xe ngựa có lọng che (车马) – tượng trưng cho sự vinh hiển.
2. Y phục quý tộc (衣服) – tượng trưng cho địa vị cao quý.
3. Nhạc khí (乐器) – tượng trưng cho sự hài hòa và văn trị.
4. Cung tên (弓矢) – tượng trưng cho năng lực bảo vệ đất nước.
5. Ấn tín (印) – tượng trưng cho quyền hành chính trị.
6. Búa rìu (斧钺) – tượng trưng cho quyền sinh sát.
7. Ruộng đất (田土) – tượng trưng cho tài sản và sản xuất.
8. Tiền bạc châu báu (金帛) – tượng trưng cho phú quý.
9. Lễ vật hiến tế (祭器) – tượng trưng cho thiên mệnh và lòng trung thành.
*****
☆Truyện chỉ được chính chủ đăng ở hai nơi:
• Wattpad: @NhuocVu1911
• WordPress.
*Những nơi khác mà đăng truyện này đều là hàng trộm.*
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com