Khởi đầu mới
Đêm Sài Gòn mưa như trút giận xuống khắp nẻo, thành phố toàn tiếng bê tông, thép và còi xe. Trên tầng 27 của một công trình cao tầng ở Thủ Thiêm, dàn cẩu rung bần bật, dây cáp kêu rít, mặt sàn thở phì phì như có ai mắc kẹt phía dưới.
-“Dừng hết! Xuống đi!” Quản đốc gào, nhưng tiếng mưa nuốt lời. Một anh thợ đứng tuổi kéo tay thằng em:
-“Đêm thứ ba rồi. Động dầm hoài, có đinh sống.”
Hai chữ ấy lạnh hơn gió mưa. Đinh sống đinh Lỗ Ban, người ta tin nó có “mắt”, đâm vào đâu chỗ đó sẽ “rên”. Mấy tháng nay, công trình gặp tai nạn lặt vặt như trượt chân, rách tay, sập giàn nho nhỏ… Không ai chết, nhưng nỗi sợ rải đều như mưa. Đúng lúc ấy, điện tắt phụt. Tầng 27 chìm vào một thứ tối xanh ẩm. Trong bóng tối, ai đó bật đèn pin. Chùm sáng lướt qua dừng lại ở một người mặc áo đen, mũ trùm, đứng nơi dầm thép nứt bụi trắng. Không bùa bay, không chuông lắc. Chỉ là một người gầy, bàn tay trái có vết ấn mờ gần cổ tay.
-“Ông là ai?” Quản đốc quát.
Người kia không đáp. Anh đặt đầu ngón tay lên dầm, nhắm mắt. Mưa rơi chậm lại hay thời gian chậm? Từ dầm thép, một tiếng rên rất khẽ bốc lên như gió luồn qua cổ họng sắt. Rồi một tiếng thứ hai, rồi một chuỗi. Anh gõ ba nhịp ngón tay lên thép. Cốc...cốc...cốc. Âm vang chạy dọc dầm, rơi xuống tầng dưới dội trở lên như tiếng gọi.
-“Ê, làm gì đó!” Một bảo vệ lao tới. Nhưng quản đốc chụp vai hắn, thì thào:
-“Khoan. Nghe coi.”
Người áo đen nói rất nhỏ, như kể chuyện cho chính thép nghe:
-“Đừng rên nữa. Ta đến trả đinh.”
Anh thở chậm, nhịp thở đều và ấm. Mưa tạt qua mặt, mắt anh không chớp. Rồi anh rút trong túi áo ra một cây đinh gỉ đầu đinh buộc sợi chỉ bùn. Anh đặt nhẹ nó lên dầm, không đóng. Anh đặt Ấn Từ ngón cái điểm vào đinh, ngón trỏ đặt lên dầm.
Nhịp tim anh lặng, nhịp tim dầm lặng. Tiếng rên ngừng. Ở góc tối, một anh thợ bỗng bật khóc.
-“Em thấy… có tiếng người dưới dầm. Nó nói 'không cho em ra’. Giờ hết rồi.”
Người áo đen mở mắt. Ánh mắt nâu, sâu và yên như đất sau mưa. Anh lầm rầm:
-“Bảy đinh trả bảy lời thề. Bảy thở trả bảy vía.”
Rồi anh quay sang quản đốc:
-“Ai đó đã đặt đinh sống vào dầm này để ‘giữ công trình’, ép thợ không bỏ việc. Đinh giữ được người, nhưng nuốt mất vía. Hôm nay ta đã thả.”
-“Ông… là thầy à?”
-“Không. Tôi trả nợ cho đất thôi.”
-“Ông tên gì để tụi tui gửi ơn?”
Người áo đen mỉm cười rất nhẹ.
-“Gọi tôi là Khải.”
Gió đổi hướng. Mưa hắt qua dầm bật ra bảy cái đinh khác nằm ẩn trong rãnh thép lăn lóc như vừa tỉnh dậy. Mặt sàn thôi rung, một ánh chớp vạch ngang trời điện sáng trở lại. Tin đồn sáng hôm sau lan khắp khu:
-“Có ông thầy áo đen, không bùa, chỉ gõ thép mà cắt được đinh sống.”
-“Ổng đặt tay lên thép, thép biết im.”
Buổi chiều, sau khi dự tang lễ của một người bạn thân thời sinh viên Khải quay lại công trình. Đứng dưới chân cầu công trình, nhìn mưa mịn như bụi.
Mùi đinh gỉ vẫn lẫn trong gió, cùng mùi mồ hôi và cơm nguội mùi thành phố lao lực.
Miha?—Anh không gọi.
Trong tim, im ắng hiền như ru.
Một chiếc xe bán tải dừng lại. Một gã trung niên vest xám xuống xe, giày không bẩn một hạt bụi. Gã nhìn nhanh sàn công trình, rồi nhìn Khải.
-“Ông là người ‘trả đinh’?” Giọng lạnh, cười mỏng.
-“Tôi tên Trần Phủ. Người ta gọi tôi là Kiến sư Lỗ Ban.”
Khải không đáp. Gã rút từ túi vest một thước gỗ cổ khắc chữ lạ, lia qua lia lại như đo không khí. Mắt gã lấp loáng:
-“Ông làm đứt mạch đinh sống của tôi. Không khéo, công trình sụp lịch (vận).”
Gã nhón thước, gõ nhẹ vào cọc tiêu. Tạch không âm. Khải nói bình thản:
-“Đừng đóng đinh vào người sợ hãi. Đừng đóng thước vào miệng người nghèo. Nếu cần kỷ luật, hãy trả đủ lương và an toàn cho họ. Bùa không phải roi.”
Trần Phủ cười, giọng dịu như dao mỏng:
-“Luật của công trình là làm việc không phải khóc. Bùa chỉ làm điều luật không bị bỏ sót.”
Gã bước sát, nghiêng đầu:
-“Rồi ông sẽ thấy bùa là quyền lực.”
Gió đi ngang làm áo đen bay phần phật. Khải nhìn thẳng:
-“Nếu bùa là quyền lực, thì người cầm bùa là nỗi sợ. Tôi không cầm bùa, tôi cầm lòng thương.”
Trần Phủ ngửa mặt cười khẽ.
-“Thương không đổ bê tông được, ông thầy ạ.”
Gã lên xe, cửa đóng “cạch”. Kính hạ xuống đúng một khe:
-“Đừng xía vào nghề của tôi. Ông không chịu nổi… bảy cây thước đâu.”
Xe lướt đi. Trên kính sau, phù hiệu Lỗ Ban lóe nhạt như mắt mèo. Khải đứng yên, nghe tiếng mưa gõ lên dầm thép đã yên tĩnh. Anh đặt Ấn Từ lên trán—một thói quen "tự nhớ hiền hoà". Trong lồng ngực, nhịp tim anh đều, không đỏ không đen vô bùa vô sát. Đêm đó, đội thợ ngủ không mơ không giật mình. Và ở một nơi nào đó dưới kênh đen, chợ bùa rì rầm như tổ kiến cái tên “ông thầy áo đen” nhập sổ, đặt cạnh dòng chữ: “Cản trở vận hạn phải dạy.”
Một cơn gió lướt qua má Khải. Thoảng, mùi đất sau mưa giống như hơi ấm của Miha. Anh không quay lại. Anh chỉ nói rất khẽ, như kể với thành phố:
“Cũng đã hơn 10 năm trôi qua ta mới trở lại thành phố này. Ngày mai, chúng ta độ linh trước rồi hãy độ người.”
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com