Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Lời nói đầu


Bạch Tiên Dũng là đại diện tiêu biểu của văn học Đài Loan, được nhận định là tác gia có thành tựu và danh vọng cao nhất trong số những văn nhân người Hoa hiện còn tại thế. Bên cạnh đó, ông cũng là một tác gia rất đặc biệt.

Thế như, cũng giống như phong cách văn chương của ông, đó là một sự đặc biệt ẩn sâu tựa sóng ngầm dưới bề ngoài bình lặng. Nếu chưa biết về ông, rất khó nhận ra, vị giáo sư khả kính, ôn hòa, điềm đạm của Đại học California Santa Barbara, một chuyên gia đầy tâm huyết về nghệ thuật Côn khúc, thường được ca ngợi là "người quân tử cuối cùng" bởi phong thái đường hoàng dung dị ấy, lại có một cuộc đời khác thường đến vậy.

Bạch Tiên Dũng xuất thân trong gia đình danh tướng. Ông là con trai thứ tám của Bạch Sùng Hy, viên đại tướng tài trí mưu lược bậc nhất của Trung Hoa đương thời. Nổi lên vào thời kỳ quân phiệt, Bạch Sùng Hy ủng hộ cách mạng Tân Hợi của Tôn Trung Sơn từ rất sớm, nửa đời chinh chiến, hơn ba mươi tuổi đã thống lĩnh vùng Quảng Tây rộng lớn, sau đó trở thành bộ trưởng bộ Quốc phòng đầu tiên của Trung Hoa dân quốc.

Là đại tướng của Quốc Dân đảng, nhưng mối quan hệ giữa Bạch Sùng Hy và Tưởng Giới Thạch lại thường xuyên căng thẳng, thậm chí còn đối kháng với Tưởng Giới Thạch nhiều năm, cho đến tận kháng chiến chống Nhật mới chịu bắt tay hợp tác. Về điểm này, Bạch Tiên Dũng nhận định, đó là bởi huyết thống "phản nghịch" đi truyền trong gia tộc. Tổ tiên họ Bạch đến từ Tây Á, theo Hồi giáo, Bạch Tiên Dũng tự nhận dòng họ của ông là người ngoại tộc "bên ngoài Trung Nguyên", không phải người Hán, không phải Nho gia Khổng môn, nằm ngoài lễ giáo quy củ. Chính huyết thống đó đã di truyền lại tính cách phóng khoáng, khoát đạt, không chịu trói buộc, và cũng quyết định vận mệnh của cha con ông. Mặc dù văn chương đã mài giũa tâm hồn, nhu hóa tính cách của ông, nhưng những đặc điểm này, không khó để nhận ra trong tác phẩm của Bạch Tiên Dũng.

Nhìn bề ngoài, có vẻ Bạch Tiên Dũng đã đi theo một con đường khác hẳn cha mình. Ông sinh ra khi kháng chiến chống Nhật bắt đầu bùng nổ, và đó cũng là những tháng năm cha ông trận mạc triền miên. Ảnh hưởng rõ rệt nhất từ người cha, có lẽ chính là đã mang lại cho ông một tuổi thơ phiêu bạt. Bạch Tiên Dũng sinh ra ở Quảng Tây, sau đó theo gia đình lần lượt di cư đến Trùng Khánh, Thượng Hải, Kim Lăng, Hong Kong, đến năm 1952 mới sang Đài Loan đoàn tụ cùng cha mẹ.

Đài Loan, hòn đảo trẻ trung mà hoang dã, chính là nơi đánh dấu những thành tựu đầu tiên của Bạch Tiên Dũng trong sự nghiệp văn chương, cũng là nơi ông phải đối mặt với những mất mát lớn trong đời. Đầu tiên là cái chết của người mẹ khi ông 25 tuổi. Là một tiểu thư vọng tộc trong danh môn Hồi giáo, có học thức và rất kiên cường, mẹ ông đã ủng hộ ông khi bị cha phản đối vì muốn theo đuổi nghiệp văn chương. Ông nói "mẹ là một phần của cuộc đời tôi", mất mẹ, với ông, là một cú sốc lớn, thậm chí khiến cho sự nghiệp sáng tác, vốn dĩ đang sôi nổi, trở nên đứt quãng.

Sau cái chết của người mẹ, ông rời Đài Loan, sang Mỹ du học. Cha tiễn ông lên đường, và cuộc tiễn đưa cũng là lần gặp mặt cuối cùng giữa hai cha con. Tướng Bạch Sùng Hy mất vài năm sau đó, trong vòng giám sát và giam lỏng đầy nghi kỵ của Tưởng Giới Thạch, mà theo lời Bạch Tiên Dũng, đó là sự bất công lớn đối với một người như cha mình. Những cuộc chia ly - vĩnh biệt và những năm tháng tha hương để lại trong tâm hồn nhạy cảm của ông những vết hằn khó phai, cũng đưa phong cách văn học của ông rẽ ngoặt sang một chiều hướng khác, đánh dấu cho giai đoạn chín muồi trong sáng tác. Chúng ta có thể gặp lại những nỗi đau buồn này trong Nghiệt tử. Cái chết của người mẹ và cuộc chia ly đoạn tuyệt với người cha chính là những vết thương nhức buốt cắt sâu trong lòng nhân vật Vương Quỳ Long, hằn là cũng chở theo một phần nỗi đau của Bạch Tiên Dũng trong đó.

Bạch Tiên Dũng có một người bạn tri kỷ, và giao tình giữa họ từ lâu đã trở thành giai thoại. Ông quen Vương Quốc Tường một cách tình cờ năm 17 tuổi, khi hai người học chung trường trung học, và "chạm mặt thành tri kỷ". Kể từ đó, họ luôn theo sát nhau trong mọi cung bậc nhân sinh.

Bạch Tiên Dũng hoạt động văn chương khá sớm. Năm 1960, mới 23 tuổi, ông đã cùng các bạn đồng môn sáng lập tạp chí Văn học hiện đại, một tạp chí văn học có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tại Đài Loan thập kỷ 70. Thế nhưng văn nhân làm báo, khó tránh áp lực kinh tế, tạp chí thường xuyên lao đao vì thiếu vốn. Vương Quốc Tường đã trích phần lớn học bổng du học đều đặn chu cấp cho ông. Không ồn ào phô trương, họ âm thầm ủng hộ nhau, làm chỗ dựa tinh thần cho nhau suốt 38 năm trường không suy chuyển. Cho đến khi Vương Quốc Tường mất vì bạo bệnh năm 1992. Sáu năm sau, Bạch Tiên Dũng công bố tác phẩm Cây vẫn như xưa để tưởng niệm người tri kỷ quá cố. Những cảm xúc chân thành, da diết, sâu sắc và máu thịt của một mối tình tri giao từ độ hồn nhiên tuổi mười bảy cho đến cái nắm tay cuối cuộc đời đã khiến độc giả phải rung động, khâm phục và kính trọng.

Trung Quốc đại lục đã để lại cho tuổi thơ Bạch Tiên Dũng những ký ức chấn động về cuộc ly loạn lớn của dân tộc. Có thể nói, hầu hết những sáng tác thời kỳ đầu của Bạch Tiên Dũng đều thấp thoáng nỗi buồn phiêu linh của những con người biệt xứ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, tập truyện ngắn Người Đài Bắc, gồm 14 câu chuyện đủ mọi sắc thái về những con người di cư cừ đại lục đến Đài Loan. Gọi chung là "người Đài Bắc", nhưng họ lại là những cư dân ngoại lai phiêu bạt tới đây từ một miền đất khác, bỏ lại bờ biển bên kia một nửa cuộc đời, và chật vật bắt rễ nửa phần đời còn lại trên vùng đất mới. Sóng gió ly loạn xé đôi những kiếp người, cũng nối liền những bi kịch vừa giống vừa khác. Mỗi câu chuyện dồn nén nhiều kiếp nhân sinh, nên tuy là truyện ngắn, nhưng nhiều tác phẩm đã được cải biên thành phim điện ảnh, thậm chí phim truyền hình dài tập, như Cô luyến hoa, Đêm cuối cùng của Kim Đại Ban, Thiếu phụ Ngọc Khanh, Quý tộc cuối cùng, Vinh Ký cầu Hoa ...

Như một sợi dây ký ức mong manh mà bền chặt nối liền những tang thương giữa hai bờ eo biển, Người Đài Bắc cũng rất được độc giả Trung Quốc yêu thích. Vượt qua những định kiến chia cắt, các truyện ngắn trong Người Đài Bắc chính là tác phẩm đầu tiên của một nhà văn Đài Loan được đăng tải tại Trung Quốc. Hơn thế nữa, tập truyện còn được Tuần báo Á Châu đưa vào danh mục 100 tác phẩm kinh điển nhất của văn học Hoa ngữ thế kỷ 20 với vị trí thứ 7. Sáu tác phẩm đứng đầu lần lượt là Gào thét (Lỗ Tấn), Biên thành (Thẩm Tùng Văn), Tường Lạc Đà (Lão Xá), Truyền kỳ (Trương Ái Linh), Vòng đời vây bủa (Tiền Chung Thư), Nửa đêm (Mao Thuẫn).

Nghiệt tử là tiểu thuyết dài duy nhất của Bạch Tiên Dũng, bắt đầu được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Văn học hiện đại từ năm 1977, và xuất bản thành sách năm 1983. Tác phẩm viết về một đề tài khác hẳn trước đó - những thanh thiếu niên đồng tính bị đẩy khỏi gia đình, cùng quãng đời đầy lưu lạc và bất trắc của họ.

Kể từ sau Hồng lâu mộng, Nghiệt tử là tác phẩm đầu tiên nhắc đến đề tài đồng tính trong văn học Trung Hoa, và cũng là tác phẩm đáng chú ý nhất so với những trước tác cùng đề tài sau này. Những bộ phim chuyển thể từ Nghiệt tử, cũng là sản phẩm điện ảnh đầu tiên về người đồng tính được phát sóng công khai trên truyền hình, kể cả ở Trung Quốc đại lục, nơi vẫn còn nhiều dè dặt và hạn chế. Sở dĩ làm được như vậy, chính là nhờ vào câu từ tài hoa của Bạch Tiên Dũng. Là một nhà văn đồng tính, viết về đề tài đồng tính, nhưng Nghiệt tử không phải là một tác phẩm chỉ dành cho người đồng tính. Nó nói về những đứa trẻ "lạc loài" lớn lên trong những gia đình truyền thống, cùng quan hệ cha con trong xã hội phụ quyền. Những người cha sẵn sàng đẩy con mình khỏi nhà, đoạn tuyệt cho đến chết, chỉ vì thất vọng. Những người mẹ dằn vặt đau đớn cho đến chết, thấp thoáng đâu đó một cách tuyệt vọng phía sau những màn bi kịch cha - con... Đó không đơn thuần là chuyện của "người trong cuộc", đó là những tấn bi kịch gia đình - những gia đình vỡ nát theo nhiều cách. Người "trong cuộc" đọc Nghiệt tử sẽ thấy ngột ngạt và đớn đau, nhưng người "ngoài cuộc" lại dễ thấy xót thương và bừng tỉnh. Thật khó tưởng tượng, một tác phẩm đầy bóng tối, u uất và trầm nặng, lại có thể khơi gợi trong người ta những niềm đồng cảm lạ kỳ đến vậy.

Dưới ngòi bút tài tình của Bạch Tiên Dũng, rất nhiều cảnh tượng đã để lại cho người đọc những ám ảnh khó quên. Bóng tối, bóng tối tuyệt đối khiến người ta quên mất ký ức về bình minh. Vầng trăng đỏ bầm phì nộn lơ lửng trên những tán cau vua rách nát. Những bóng người trôi lập lờ xung quanh hồ hoa súng. Và sắc đỏ rực rỡ của những đóa hoa chỉ nở trong ký ức... Tất cả đều mang tính biểu tượng cao độ, như những dấu mốc mơ hồ nhưng rành rọt của một thứ tiểu văn hóa (subculture) nằm ngoài văn hóa chính thống.

Thế nhưng phía sau những đen tối trụi trần, những cuộc đời ngắn ngủi không lối thoát, không phải là một đôi mắt quan sát khắc nghiệt lạnh lùng, mà lại là niềm đồng cảm nhu hòa và đôn hậu. Bằng những câu từ tự nhiên và sắc sảo, ông tả thực không chút e dè về cuộc đời của những con người không được xã hội thừa nhận, những nam nữ sống chui rúc trong bóng tối nhà thổ hay ngõ hẻm tồi tàn. Sống qua ngày bằng những yêu đương tạm bợ, tình cảm bán mua, nhưng sự đồng cảm đã kết nối những con người gai góc bởi tổn thương, sưởi ấm cho nhau bằng những dịu dàng thô ráp. Tình bạn chân chất đơn sơ giữa những đứa trẻ bị ruồng bỏ đã cứu rỗi ta khỏi sự ngột ngạt trầm uất và vô vọng của thực tại.

Tất cả những đớn đau, tan vỡ, cho đến cuối truyện, đều không cho người ta một cái kết vẹn toàn. Nhưng hy vọng, không tắt, vì còn đau đớn là còn lưu luyến, yêu thương. Niềm hy vọng le lói của những nhân vật nhỏ bé, vẫn thắp lên trong lòng ta ít nhiều ánh sáng sau lê thê bóng tối. Không phải là sự lạc quan khiên cưỡng. Đó là ánh sáng của nhân tính.

Nghiệt tử, chính là một tác phẩmgiống như Bạch Tiên Dũng đã nói, "tôi sáng tác để biểu lộ những đớn đau câm níntrong đáy tim con người."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com