Trong vương quốc của chúng tôi (16)
"Bọn họ đều nói tôi đã giết người đó, đúng không?"
Trong bóng tối, giọng nói của Long Tử giống như một cõi u linh đã chôn vùi dưới đáy đất sâu từ lâu lắm, giờ mới ri rỉ trào lên.
"Người mà tôi giết không phải là Phượng đâu, Thanh ạ, tôi đã giết chết chính tôi. Nhát dao đó, đâm thẳng vào ngay chính trái tim tôi, và thế là, tôi đã chết, chết một mạch từng ấy năm trời..."
Hai chúng tôi, vai kề vai, cùng nằm trên chiếc giường sofa trải chiếu mây mát lạnh. Ở tận cùng một con ngõ trên đường Nam Kinh Đông đoạn 3, trong căn biệt thự cổ kính từ thời Nhật Bản chiếm đóng của ông bố Vương Quỳ Long, chúng tôi nằm bên nhau trong gian phòng ngủ kề sát vườn sau của Long Tử hồi trước. Dưới chân giường châm một bánh hương muỗi nồng nồng, khói hương bảng lảng, bên ngoài khung cửa sổ lưới đầu giường, mấy tàu lá chuối rộng bản chao bóng nhấp nhô, lúc tách ra, lúc chập vào, chập chờn quét qua quét lại. Ngoài vườn rỉ rả tiếng côn trùng mùa hạ, run rẩy, réo rắt, chợt ngắn chợt dài.
"Bao nhiêu năm qua, tôi lẩn trốn ở Manhattan, New York, trong căn gác xép chật hẹp của tòa chung cư cao lớn trên phố số 72 đối diện chéo với công viên Trung Tâm, biến thành một hồn ma không dám lộ diện dưới ánh mặt trời. Ban ngày, tôi ẩn mình trong một quán bar sâu dưới tầng hầm trên đường Broadway, làm công nhật, kiếm chút tiền tiêu. Đến đêm khuya, đến tận nửa đêm khuya khoắt, tôi mới ló mặt ra, bắt đầu lang thang trên những con phố vắng tanh vắng ngắt rực rỡ ánh đèn của Manhattan, từ phố số 42 đi tới tận phố số 8, đi cho đến khi hai chân rời rã không nhấc lên nổi, tôi bèn ngồi xuống bên cạnh vòi phun nước trên quảng trường Washington, ngồi ở đó, cho đến tận sáng. Đôi khi, tôi lên tàu điện ngầm, loanh quanh vô định dưới lòng đất New York, đổi hết tuyến này đến tuyến khác, cho đến khi mất phương hướng hoàn toàn, mới từ dưới lòng đất leo lên, chui vào một vùng tăm tối xa lạ tuyệt đối, giữa những bóng cao ốc tua tủa đen ngòm, lại tiếp tục lang thang vô định. Có một lần, giữa đêm khuya khoắt, tôi đi lạc vào khu người da đen Harlem, mùa hè năm đó, người da đen bạo động, đêm nào cũng xảy ra ẩu đả giữa cảnh sát và người da đen, đêm đó, tôi lạc vào giữa một đám đông đen kịt, cũng bị cảnh sát đấm đá túi bụi đẩy lên xe cảnh vụ, bắt về đồn tạm giam. Thế nhưng khi đó, tôi chẳng bao giờ thấy sợ, bởi vì tôi chẳng còn lấy một chút cảm giác...
"Trong một đêm mưa gió dữ dội, tôi đứng dưới gốc cây du cổ thụ trong công viên Riverside, nước mưa xối xuống qua lá cây cành cây, toàn thân tôi ướt sũng, hai chân tôi ngập sâu trong bùn lầy, cứ lún xuống mãi, bùn lỏng tràn vào trong giày, khiến hai chân lạnh đến tê dại, tôi cứ đờ đẫn nhìn về phía ánh đèn nhấp nháy trên cầu Washington đằng xa trong màn mưa gió, hoàn toàn quên bẵng mất còn có một kẻ đang quỳ bên chân tôi, ngấu nghiến thân thể tôi. Lại có một đêm đông tuyết rơi mù mịt, tôi bước vào một rạp chiếu phim thông đêm chuyên chiếu phim đồng tính nam trên quảng trường Thời Đại, đổ vật xuống dãy ghế sau cùng, mê mệt ngủ thiếp đi. Khi tỉnh lại, có lẽ đã sáng bảnh, cả một phòng chiếu phim rộng thênh thang tối đen như mực, từ trên xuống dưới chỉ trơ khấc mình tôi ngồi đó, trên màn hình lớn là những xác thân nhảy nhót cuồng loạn, nhưng tôi hoàn toàn không nhìn thấy gì, chỉ đến khi tôi cúi xuống xem đồng hồ, thì cái đồng hồ Rolex cha tôi tặng cho làm kỷ niệm hồi tôi thi đỗ đại học tại Đài Loan đã không cánh mà bay, bị ai đó tiện tay lột mất. Trong những năm đó, tôi lang thang trên đường phố New York, phải ăn đến mấy trăm cái bánh kẹp thịt bò cả thảy. Thế nhưng tôi chưa bao giờ biết được mùi vị của nó ra sao, tôi đã đánh mất vị giác, nhai cái gì cũng chẳng khác nào mạt gỗ. Có lần, tôi mua một cái bánh kẹp thịt bò tại làng Greenwich, ngoạm một miếng, cắn đứt luôn một mẩu lưỡi, một miệng máu, mà tôi cũng chẳng hề hay biết, cứ thế tống cái bánh thịt bò trộn lẫn máu thịt của chính mình xuống bụng. Thế rồi bỗng một hôm, tri giác của tôi thình lình hồi phục...
"Đó là một đêm Giáng sinh, những cây thông Noel dọc phố lớn New York giăng đầy đèn màu xanh xanh đỏ đỏ, đâu đâu cũng nghe hát bài Đêm thánh vô cùng, đêm đó tuyết rơi sớm, chừng năm sáu giờ, cả Manhattan đã trắng xoá, người ta ai cũng quần tụ trong nhà với gia đình, cùng ăn tiệc Giáng sinh. Tôi cũng theo một đám người, đi ăn tiệc Giáng sinh. Chúng tôi cả thảy hơn trăm người, có những lão già sáu bảy chục tuổi người ngợm nhão nhoét như cái túi da rỗng, có những thằng bé mười mấy tuổi đầu chân tay mới bắt đầu phồng căng, có người da trắng, người da đen, người da vàng, người da nâu, trong cái đêm Giáng sinh ấy, chúng tôi từ mọi ngóc ngách chạy trốn về phố số 22, lủi vào một tòa cao ốc đen ngòm cũ kỹ, trong những gian phòng kín bưng ngùn ngụt hơi nước, chúng tôi trần trùi trụi, túm tụm với nhau trong bữa ăn, tất cả câm lặng, cuồng nhiệt cắn xé nhai nuốt xác thịt của nhau. Rời khỏi khu nhà tắm hơi Thổ Nhĩ Kỳ ba tầng hệt như một mê cung, tôi bước ra ngoài phố, ngoài trời đã tờ mờ sáng, trên không trung, những bông tuyết bay tơi tả trong gió lạnh, khắp nơi trắng toát một màu. Tôi lên tàu điện ngầm về nhà, ngang qua trước cổng công viên Trung Tâm, đột nhiên, từ trong bụi cây phía trong bỗng vọt ra một cái bóng đen trũi, bám sát theo sau tôi. Thường thì những đêm hè, dưới bóng đổ âm u của trảng cây trong công viên Trung Tâm lúc nào cũng chập chờn những bóng người bám đuổi theo nhau. Kể cả mùa đông, đôi khi vẫn sót lại một vài bóng cô hồn, dật dờ trong gió rét, cho đến tận sáng bạch. Hôm ấy, tôi đã mệt rời rã, thân xác tê dại, nên vội rảo bước thật nhanh, đi về chỗ trọ ở phố số 72. Về tới trước cổng khu chung cư, cái kẻ bám theo tôi liền đuổi kịp, cất giọng run rẩy: 'Thưa ngài, ngài có tiền lẻ không? Tôi đói quá' Tôi ngoảnh đầu nhìn, thấy đó là một thằng bé mới mười mấy tuổi đầu. Người nó quấn trong cái áo khoác nỉ to sụ có mũ trùm đầu, mũ sụp đến tận lông mày, che khuất nửa khuôn mặt, nó cúi lom khom, cả người run lên lẩy bẩy. Tôi nói với nó, trên nhà tôi có cacao nóng, nó liền theo tôi lên. Vào trong phòng, nó cởi áo khoác ra, bên trong chỉ mặc độc cái áo bó chui đầu màu đỏ sậm cũ rích, phơi ra thân hình còm nhom. Mái tóc nó đen nhức và xoăn tít, xù lên lồng phồng trên trán, đôi mắt đen to đến lạ lùng, khảm sâu hoắm trên khuôn mặt gầy rộc trắng xanh, sáng lên lấp loé. Trông nó tầm mười sáu, mười bảy tuổi, giống một thằng nhóc Puerto Rico. Tôi pha một cốc cacao nóng đưa cho nó, nó đón lấy, hai tay nâng cốc, bất kể còn nóng bỏng, ừng ực một lèo hết nhẵn, khuôn mặt tái xanh vì lạnh lúc này mới từ từ hồng lên chút ít. Nó ngồi bên mép giường tôi, đôi mắt rất to nhìn vào tôi, như chờ đợi. Tôi biết, thằng bé muốn cái gì, hai mươi đồng, ba mươi đồng, một tuần tiền ăn, một tuần tiền thuê nhà. Tôi tiến lại gần, đưa tay lột áo nó ra, tôi muốn nhanh chóng tống khứ nó đi, để tôi còn ngủ. Khi ngón tay tôi chọc vào trước ngực nó, nó bỗng 'á' lên một tiếng hãi hùng, tôi vội vã rụt tay về, thằng nhóc ngẩng đầu lên, nở một nụ cười biết lỗi, nhưng đôi mày nó chau tít lại, đôi mắt to giật lên tán loạn như đang đau đớn lắm. Rồi nó chậm chạp tự cởi áo ra, để lộ nửa người trần trụi. Trên lồng ngực gầy guộc trơ xương, hằn sâu những vết thương chồng chéo, vết nào cũng to bằng cả ngón tay, chỗ tím bầm, chỗ đỏ loét, tại nơi vết rạch giao nhau, nguyên một vết thương to bằng miệng chén nằm ngay giữa ngực, vết thương đã vỡ, viêm tấy, sưng vù, đỏ loét, ri rỉ nước mủ vàng quạch. Thằng bé nói với tôi, buổi tối mấy hôm trước, nó đang ở trong công viên thì gặp một thằng cha bạo dâm, mặc áo jacket da, đi xe motor, thắt lưng treo đầy khóa niken rổn rảng, lôi tuột nó về nhà, dùng một sợi xích sắt dài trói nghiến nó lại, quất nó bò lê bò lết dưới đất như một con chó. 'Trói chặt quá, nên trầy trụa...' thằng nhóc chỉ vào vết thương to như miệng chén trên ngực nói, bên khoé miệng vẫn giữ nguyên nụ cười hối lỗi, khoảnh khắc đấy, chính vào khoảnh khắc đấy, đột nhiên, từ trên vết thương đỏ loét trên ngực thằng bé, tôi nhìn thấy lưỡi dao ấy, lưỡi dao đã đâm thẳng vào giữa lồng ngực Phượng. Phượng ngã gục xuống đất, toàn thân đẫm máu, và nhìn tôi cũng với ánh mắt đó, đôi mắt to giật lên tán loạn vì đau đớn, thế nhưng trên khoé môi run rẩy của Phượng, cũng đọng lại một nụ cười hối lỗi và bất lực, giống hệt. Bao nhiêu năm hay, tôi đã mất sạch ký ức và tri giác. Thế nhưng khoảnh khắc đó, chính vào khoảnh khắc đó, tôi như thể chạm phải dòng điện cao áp, thình lình giật bắn, trong tim dội lên một cơn đau đớn khủng khiếp, đau đến trước mắt tối sầm, loé hoa cà hoa cải. Tôi chụp lấy đôi bàn tay lạnh ngắt của thằng bé, nắm chặt trong tay, cuống cuồng xoa nắn. Tôi quỳ sụp xuống trước mặt nó, tháo đôi giày cao cổ bẩn thỉu, ướt nhép, dính đầy bùn tuyết ra khỏi chân nó, nâng đôi bàn chân nhem nhuốc lạnh cóng của nó lên, ủ vào trong lòng, áp chặt má mình vào mu bàn chân nó, xoa nắn luôn tay, cứ mãi ôm ấp vuốt ve cho đến tận khi đôi bàn chân cóng buốt ấm sực lên mới thôi. Thấy tôi làm vậy, thằng bé đâm ra luống cuống, tôi cũng mặc kệ nó có phản đối hay không, bế luôn nó lên trên giường, giúp nó cởi quần áo ra, tìm lấy một chai oxy già, chấm tăm bông vào, khẽ khàng lau rửa vết thương trên ngực cho nó, rồi đắp lên người nó một tấm chăn lông dày ấm áp. Tôi ngồi bệt xuống nền nhà bên cạnh mái đầu của nó, ngắm nhìn nó, cho đến tận khi thằng bé khép mắt lại, mệt mỏi ngủ thiếp đi. Tôi đứng dậy bước tới bên cửa sổ, trong công viên Trung Tâm chênh chếch phía trước, trên tán cây, trên mặt đất, khắp nơi phủ dày tuyết trắng, mặt trời mới rạng, chiếu xuống sáng trắng một vùng, chói chang đến lóa mắt. Tôi đứng bất động trước cửa sổ, máu huyết toàn thân cuộn trào, sôi sục, trên mặt tôi nóng rát từng cơn, như bị kim châm. Những chuyện quá khứ, từng mảnh từng mảnh, ghép lại trước mặt tôi như kính vạn hoa. Thình lình, tôi nhìn thấy trên kính cửa sổ phản chiếu một bóng người như bộ xương khô, suốt từng ấy năm nay, đó là lần đầu tiên, tôi nhìn thấy chính mình...
"Thằng bé ở lại chỗ tôi hơn ba tháng. Tên nó là Cross, Cross là người Puerto Rico, đến từ San Juan, tiếng Anh lõm bõm, chêm toàn tiếng Tây Ban Nha. Nó kể với tôi, ba năm trước, cả nhà nó di dân đến New York, bố nó vì không muốn chèo chống gánh nặng gia đình nên đã bỏ đi, thế là mẹ nó hóa điên, bị đưa vào bệnh viện tâm thần thành phố. Có một hôm, chúng tôi đi ngang qua bờ sông Đông, Cross chỉ cho tôi thấy một bán đảo nhô ra phía bờ sông đối diện, trên mỏm nhọn của bán đảo, có một tòa nhà cao tầng ốp gạch đỏ, xung quanh giăng lưới thép cao ngất. 'Mẹ em bị nhốt ở trong đó.' Cross bảo tôi, nó nói rằng nó đã lang thang trên đường phố New York hơn một năm rồi, gặp phải không ít kẻ dị hợm, cũng lây nhiễm bệnh tật, bộ phận sinh dục của nó rộp lên từng mảng đỏ loét, tôi dẫn nó đi khám bác sĩ, nó bị giang mai giai đoạn hai, phải tiêm rất nhiều thuốc. Quần áo lót của nó lúc nào cũng loang lổ vết mủ vàng khè, tối đến thay ra, tôi bèn giặt sạch bằng thuốc khử trùng cho nó. Tôi chỉ có cái giường đơn chật hẹp, đêm đến chúng tôi cùng nằm, hễ tôi trở mình, cùi chỏ lại chọc phải vết thương trên ngực nó, lần nào cũng khiến nó đau đớn choàng tỉnh, thế là tôi nhường lại cái giường cho nó ngủ, còn tôi nằm dưới nền nhà cạnh chân giường, trong bóng đêm, tôi lắng nghe hơi thở đều đều của nó. Hơn ba tháng, ngày nào tôi cũng cho nó ăn trứng gà, sữa bò, và kem dâu tây - người Puerto Rico dáng gầy, nhưng sức ăn thì khoẻ vô cùng, mỗi ngày có thể ăn hết cả thùng kem nhỏ. Mặt nó dần dần có da có thịt, những vết sứt sát do xích sắt khoét sâu trên ngực cũng từ từ bình phục, liền thành những vết sẹo đỏ tươi. Một hôm, Cross nói với tôi nó muốn đi thăm mẹ, nhưng sau khi đi rồi, nó không bao giờ còn quay lại nữa...
"Thế là, Thanh ạ, Cross đã mất tích, thế nhưng trên những con phố như bàn cờ của Manhattan New York, vẫn còn hàng ngàn hàng vạn những Cross khác, hết ngày lại đêm, hết đêm lại ngày, đang lang thang, đang lẩn trốn, đang nhiễm bệnh, đang bị người ta xẻ xác trong công viên. Nhiều lắm, nhiều lắm, đi rồi lại đến, từ khắp các thành thị lớn nhỏ trên đất Mỹ. Thi thoảng, tôi lại thình lình nhìn thấy một đôi mắt to lấp láy, khi thì sau lùm cây trong công viên Trung Tâm, khi thì trong nhà vệ sinh dưới ga tàu điện ngầm, khi thì dưới ánh đèn neon trên phố số 42, chính là đôi mắt của Phượng, đôi mắt to giật lên tán loạn vì đau đớn. Thế là tôi lại không thể kìm lòng, bèn đưa tay vuốt ve khuôn mặt những thằng bé đó, hỏi chúng: 'Em có đói không?' Có lần, tôi dẫn một thằng bé Do Thái chừng mười ba mười bốn tuổi về nhà lúc nửa đêm - nó nằm cuộn tròn trên băng ghế tựa bên vỉa hè ngoài công viên, đang ngủ. Tôi nhường chiếc giường của mình cho nó, thế nhưng trời còn chưa sáng, nó đã mò dậy, lục lọi khắp nhà tôi. Tôi không lên tiếng, nhìn nó rút chiếc ví da ra khỏi túi quần tôi, còn tiện tay khoắng luôn cặp kính râm. Một lần khác, tôi đưa về một thằng bé người Ý run rẩy vì đói khát, tôi nấu mì ống cho nó ăn, vừa ăn xong, nó thình lình rút phắt con dao lò xo, bắt tôi đưa tiền, hôm đó vừa hay tôi lại hết nhẵn tiền mặt. Nó nghĩ tôi nói đối, liền phát khùng, một dao thọc thẳng vào ngực tôi, nhưng đâm chệch, chưa trúng vào chỗ hiểm. Tôi đổ vật xuống đất, cũng không hô hoán, máu trào giàn giụa ra ngoài áo jacket. Tôi nghe thấy tiếng máu mình giọt giọt nhỏ xuống sàn nhà, rồi từ từ lịm đi. Ngày hôm sau, bà chủ nhà gọi xe cứu thương tới chở tôi vào bệnh viện, nằm một tuần trời, truyền hai nghìn cc máu. Cơ thể tôi tuy yếu ớt rời rã, nhưng giác quan lại trở nên mẫn cảm đến lạ lùng, mẫn cảm đến khủng khiếp, như thể tất cả các mút thần kinh đều đã nở bung, khẽ chạm là đau đớn. Hôm ra viện, là một chiều chủ nhật, bước ra ngoài bệnh viện, trên phố số 83 gần công viên, có một lão già da đen đang ngồi dựa tường, một lão ăn mày mù tóc tai bạc trắng, hấp háy đôi mắt glôcôm, đang kéo cây accordion cũ tướp. Ánh nắng chiều đông hắt đỏ lựng khuôn mặt nhăn nheo đến mờ nhòa đường nét của lão. Lão da đen đang kéo một điệu dân ca của dân da màu, Going Home. Tiếng accordion của lão run lẩy bẩy trong gió chiều lạnh buốt. Tôi quay lưng về phía tà dương, giẫm lên cái bóng của chính mình, đi mãi, đi mãi, bỗng nhiên, tận đáy lòng tôi trào lên một khát khao dữ dội: tôi cũng muốn về nhà, trở về Đài Bắc, trở về công viên Mới, quay trở lại bên hồ hoa súng. Thế nhưng, tôi vẫn phải đợi thêm hai năm nữa, hai năm sau, cha tôi mới qua đời..."
Lời kể của Long Tử đang đều đều rỉ rả, bỗng nhiên dừng bặt như đã chảy cạn. Vầng trăng đỏ bầm ngoài cửa sổ, chậm chạp chìm xuống trên những tàu lá chuối phì nộn, côn trùng ngoài vườn vẫn nỉ non run rẩy, tiếng ngắn tiếng dài. Mắt tôi đã cay sè đến không mở nổi nữa, tôi thiếp đi, đến khi tỉnh lại, ngoài song cửa lưới đã lờ mờ ánh bình minh xám trắng. Tôi thấy tức thở, trên ngực như thể bị cây cột sắt đè xuống nặng trịch, là cánh tay như bồ cào của Vương Quỳ Long đang vắt ngang ngực tôi.
"Em thích áo màu gì? Hả Thanh?" Khi dẫn tôi về, Vương Quỳ Long đã hỏi tôi như vậy.
"Màu xanh lam." tôi đáp.
"Mai chúng ta đi Tây Môn Đinh, sẽ mua cho em một chiếc." hắn treo chiếc áo tôi vừa cởi ra lên phía sau cánh cửa, chiếc áo đã bị thủng một lỗ to tướng nơi khuỷu tay phải.
Vương Quỳ Long muốn tôi dọn đến căn biệt thự cổ kính trên đường Nam Kinh Đông của cha hắn, ở cùng hắn.
"Hãy cho tôi một cơ hội nữa, để tôi chăm lo cho em."
Hắn khe khẽ khẩn cầu tôi trong bóng tối, hắn nói, do đâu mà tôi cũng có một đôi mắt y hệt như vậy, một đôi mắt đau đớn đến tán loạn, ngay tối đầu tiên trong công viên hắn đã nhận ra, hắn vươn đôi bàn tay to lớn xương xẩu, lùa vào tóc tôi chải vuốt mải miết. Hơn ba tháng bỏ nhà ra đi, sống đời lang bạt bữa đói bữa no, ngày đêm đảo lộn, đã mấy lần, nửa đêm khuya thình lình choàng tỉnh, lúc thì trong gian nhà nghỉ tồi tàn tại Ga Sau, lúc thì trên chiếc giường xa lạ trong căn gác hôi hám ngột ngạt của khu Vạn Hoa, còn có một lần, ngã vật trên bậc đá trước viện bảo tàng công viên, vào phút giây hồi tỉnh, trong lòng tôi cồn cào khao khát một chốn nương thân yên ổn, thế nhưng hễ có người ngỏ ý tiếp nhận tôi, tôi lại kiếm cớ thoái thác. Ngay tuần đầu tiên khi mới bắt đầu cuộc đời công viên, tôi đã gặp được một người tốt, một người đàn ông trung niên họ Nghiêm, giám đốc nhà hàng Xe Ngựa Bạc tại Tây Môn Đinh. Ông giới thiệu tôi tới Xe Ngựa Bạc làm bồi bàn, còn đưa tôi về ở trong căn chung cư của ông trên phố Kim Hoa. Ông nói với tôi, mới vào nghề còn có cơ cứu vãn, chứ đã sa lầy thì tàn đời mạt kiếp. Tôi khoác lên người bộ đồng phục trắng tinh của Xe Ngựa Bạc, tay bưng cà phê, hồng trà, nước mơ, kem xoài, chạy không ngơi chân suốt mười tiếng đồng hồ quanh những vị khách đến Tây Môn Đinh xem phim, mua sắm. Đến buổi tối ngày thứ tư, tôi âm thầm vào nhà vệ sinh trút bỏ bộ đồng phục, mặc lại lên người bộ quần áo của tôi, nhân lúc không ai chú ý, lẻn ra qua cửa sau. Từ đường Trung Hoa, tôi cắm đầu chạy thục mạng về phía Tiểu Nam Môn, càng chạy càng nhanh, chạy thẳng một mạch về tận công viên, nhảy lên bậc thềm bên hồ hoa súng. Ý nghĩ chạy trốn đột nhiên trỗi dậy trong tôi - chạy trốn khỏi căn biệt thự già cỗi của ông bố Vương Quỳ Long. Trước kia, tôi có xem một bộ phim cao bồi Mỹ tại Tân Nam Dương có tên là Song hùng hẻm núi Đen, nói về hai anh em theo nghề cướp bóc tại hẻm nủi Đen, người anh do Henry Fonda đóng vai. Hai người gây ra rất nhiều vụ cướp bóc, nên bị chính quyền truy đuổi, người anh rơi xuống giếng cát chảy, người em đưa tay kéo, cũng bị người anh lôi tuột xuống vùng cát lỏng. Hai kẻ giãy giụa vật lộn, từ từ chìm xuống, cuối cùng, chỉ còn bốn cánh tay nhô cao trên mặt cát, điên cuồng quờ quạng. Tôi khẽ khàng dịch cánh tay Long Tử ra khỏi ngực mình, cánh tay như bồ cào của hắn đè xuống ngực tôi, nặng khủng khiếp, cứ chìm mãi xuống, tôi cảm giác nó giống hệt như cánh tay cuống cuồng điên dại của người anh trong bộ phim kia, đang tìm cách kéo tuột tôi xuống giếng cát chảy. Tôi lẳng lặng xuống giường, mặc lại tấm áo rách của mình, bước ra ngoài. Cổng sắt bên ngoài đã khóa, cánh cổng rất cao, bên trên tua tủa chông sắt đen trũi dài đến ba thước. Tôi phải vất vả lắm mới trèo được ra ngoài, bắp chân bị đâm toạc máu.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com