Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Trong vương quốc của chúng tôi (2)


Hôm qua, nhiệt độ của thành phố Đài Bắc lại leo lên đến bốn mươi độ C. Báo nói rằng, đây là mùa hè nóng nực nhất, khô hạn nhất trong vòng hai mươi năm trở lại đây. Suốt tháng Tám không có lấy một giọt mưa. Cây cối trong công viên bị hun đến bốc khói. Những cọ, những giao, những cau vua, từng bụi từng khóm hầm hập rung rinh, hơi nóng mờ mịt úp chụp quanh ngọn. Những bậc cấp xi măng bao quanh hồ hoa súng giữa công viên, những lan can đá dựng men bậc cấp, bị ánh mặt trời thiêu đốt gay gắt suốt cả ngày trời, đêm xuống liền nhả ra hơi nóng hầm hập. Đứng trên bậc thềm, hứng phải luồng hơi nóng ấy, khắp người bức bối, ngứa rần. Bầu trời đen trĩu, mây sà sát sạt như sắp sập xuống mặt đất đến nơi. Tại một góc trời đêm, vầng trăng phì nộn nổi là là sát ngọn cau, sắc đỏ lờ nhờ, hệt như một cục thịt lớn chằng chịt tia máu đang lên cơn sốt phát ban. Xung quanh không một mảy gió, trảng cây đen kịt, từng gốc cây lặng phắc im lìm. Bầu không khí đặc quánh, nồng nực và ngột ngạt, như thể sắp keo lại thành hồ.

Vì là tối cuối tuần nên chúng tôi có mặt đông đủ, đứng san sát nhau trên bậc thềm bên hồ hoa súng, dựa vào lan can, ken kín bên hồ, xung quanh hồ, đầu người trập trùng, trong bóng tối, từng khối dật dờ qua lại, lượn quanh hồ hết vòng này đến vòng khác. Trong màn đêm thâm u, chúng tôi chỉ nhìn thấy, chỗ này nhấp nhô một cái đầu trọc hếu, chỗ kia lượn lờ một nhúm tóc trắng nhờ, từng cặp mắt mở ra thô lố, lập loè dục vọng, sáng loé như thể rọi ra từ đồng tử của lũ mèo đêm. Những lời nhỏ to thì thào, xì xầm, thậm thụt không ngừng râm ran trong từng ngóc ngách. Thi thoảng, một tiếng cười như sóng dồn thình lình lao thẳng vào giữa màn đêm đặc quánh, rồn rảng lăn khắp bốn phía. Đương nhiên, tràng cười phóng túng ấy được phát ra từ sư phụ Dương giáo đầu của chúng tôi. Dương giáo đầu mặc tấm áo chui đầu bó chẽn màu đỏ sẫm, cái bụng phệ bị bó thít đến tròn xoe, thồi lồi phía trước, quần vải Orlon đen bóng lưỡng bó chẽn lấy bộ mông núc ních phía sau, trước mặt sau lưng cứ như lủng lẳng hai quả bóng cỡ bự. Dương giáo đầu xông xáo khắp nơi, lượn qua lượn lại như đi tuần trên bậc cấp, bận rộn chào hỏi mọi người. Trên tay là cây quạt giấy cỡ lớn dài chừng hai thước, xoè cái phạch, tám con chữ lớn rồng bay phượng múa lập tức lộ ra, mặt trước "gió mát hiu hiu", mặt sau "mộng lành êm ả". Dương giáo đầu phì phò réo gọi, cười cợt, vừa bước đi, hai quả bóng thịt trước mặt sau lưng liền rung lên bần bật, lên xuống núng nính, trông thật khoa trương, thật bệ vệ. Dương giáo đầu tự phong mình là tổng giáo đầu của công viên. Ông nói, trong cái tổ của chúng tôi, dưới đất có bao nhiêu cọng cỏ ông cũng thuộc nằm lòng. Số đệ tử đồ tôn qua tay ông đào tạo, kể khiêm tốn hẳn cũng không dưới dăm ba chục. Ông thường múa may cây quạt xếp dài hai thước trên tay như cây gậy chỉ huy, thình lình chọc thẳng đến trước mặt chúng tôi, quát tháo ầm ĩ:

"Lũ chết toi kia, hồi sư phụ tung hoành ở công viên này, lũ chúng bay vẫn còn nằm trong bụng mẹ! Dám vênh vang trước mặt sư phụ hả? Một lũ ranh con ăn cứt không biết thơm thối!"

Có lần, Tiểu Ngọc mặc cái sơ mi cổ bẻ đỏ chót, quần ống loe xanh dương, chân đi đôi boot thấp cổ nện cồm cộp trên bậc thềm, lượn qua lượn lại, cực bảnh, cực nổi, cực oách. Chẳng hiểu sao lại khiến sư phụ ngứa mắt, ông vung tay một chiêu cầm nã khóa xương, bẻ quặt ngay cánh tay Tiểu Ngọc ra sau lưng, cười nhạt nói:

"Mày thì mấy rẻ xương còm, khoe cho ai xem hả? Muốn khoe mẽ trước mặt sư phụ mày? Mày nên nhớ hồi sư phụ bằng tuổi mày ấy, đóng kịch còn diễn Dương Tông* Bảo kia! Nhúm xương của mày được mấy cân, để tao cân thử xem nào."

* Dương Tông Bảo, nhân vật trong tích truyện Dương gia tướng, là một vị tướng trẻ tuấn tú, có tài, chồng của Mục Quế Anh.

Nói rồi, tay còn lại siết chặt lấy cổ Tiểu Ngọc, Tiểu Ngọc đau quá kêu la oai oái, rối rít xin tha đến cả hai chục lần. Sư phụ chúng tôi, tổng giáo đầu Dương Kim Hải, đích xác là một nhân vật lai lịch bất phàm, rất có uy thế trong cái công viên này. Ông là nguyên lão khai quốc của chúng tôi, người trong công viên, ông rành rẽ quá nửa, tính khí, sở thích của mỗi người, ông đều hiểu rõ như lòng bàn tay. Dương giáo đầu, cư xử khôn khéo, ứng biến linh hoạt chu toàn, phía sau có đến mấy nhân vật có máu mặt chống lưng, nên rất có uy quyền trong công viên. Hồi trước, Dương giáo đầu từng làm giám đốc, tổ trưởng của mấy khách sạn, tửu lầu tại Lục Điều Thông* đường Trung Sơn Bắc, giao tiếp với đủ hạng người, nghe nhiều biết rộng, lắm chiêu nhiều trò, có tai mắt trong rất nhiều nhà hàng khách sạn. Hế lô hế lô, tiếng Anh bồi tuôn như nước chảy, doo desu ka, tiếng Nhật cũng võ vẽ được dăm câu, nên người ta mới gọi Dương giáo đầu là "sáu điều thông", điều gì cũng thông.

* Tên một con phố thuộc khu Đại Chính Đình (Taishoko), Đài Bắc, vào thời Nhật chiếm đóng, đây là khu vực phồn hoa, tập trung nhiều nhà hàng, khách sạn. "Điều thông" trong tiếng Nhật là Jodori, có nghĩa là đường, ngõ ngách. Lục Điều Thông là ngõ số 6.

Nghe nói sư phụ chúng tôi Dương giáo đầu trước kia cũng là con nhà tử tế. Bố của ông hồi còn ở đại lục từng làm quan chức địa phương tại Yên Đài, Sơn Đông, sau khi chạy sang Đài Loan, có mở một quán nhỏ bán đồ ăn khuya tên gọi Đào Nguyên Xuân tại Lục Điều Thông, Đài Bắc, Dương giáo đầu làm quản lý nhà hàng cho ông bố. Thời gian đó, người của công viên đêm nào cũng tới Đào Nguyên Xuân ủng hộ, một dạo kinh doanh khấm khá ra trò. Về sau, đám côn đồ trong công viên cũng theo chân vào, kiếm chuyện gây gổ, khiến cảnh sát tìm tới, nhiều người sợ rắc rối nên không dám tới nữa. Hàng quán ế ẩm, đóng cửa cho xong chuyện. Về sau, những người khác cũng theo nhau mở Tiêu Tương, Hương Tân, Lục Phúc Đường, nhưng chẳng có nơi nào nhộn nhịp. Người của công viên đến nay vẫn hoài nhớ quán Đào Nguyên Xuân của Dương giáo đầu. Họ nói, vào mùa đông, công viên rét mướt, cả đám rúc vào trong Đào Nguyên Xuân, hâm một chai Thiệu Hưng, gọi hai đĩa lủ mì. Đứa nào cũng ngật ngà ngật ngưỡng, có bát chạm bát, có đĩa chạm đĩa, ôm vai bá cổ, cùng nghêu ngao dăm bài hát thịnh hành, bầu không khí đó mới tuyệt diệu làm sao. Mỗi khi nhắc đến Đào Nguyên Xuân, Dương giáo đầu vẫn hết sức tự hào:

"Đào Nguyên Xuân của tao ấy à, đúng là chốn thế ngoại đào viên! Lũ chim non rúc vào trong đó, mưa gió bên ngoài chẳng dính tới mình, tha hồ sung sướng an toàn. Còn tao, chính là Quan Âm nghìn tay, không biết đã phổ độ cho bao nhiêu con chim non bạc mệnh!"

Về sau, Dương giáo đầu cãi vã kịch liệt với ông bố, bỏ nhà ra đi. Nguyên nhân là cuốn sổ tiết kiệm ngân hàng của ông già đã bị Dương giáo đầu thẳng tay rút ruột một khoản bự. Nghe nói toàn bộ khoản tiền ấy đều đổ cho thằng con nuôi vàng ngọc của Dương sư phụ, thằng Hùng mọi rợ. Thằng Hùng là người miền núi, mắc chứng động kinh, đang đi đứng bình thường tự dưng ngã vật xuống đất, miệng sùi đầy bọt trắng. Hôm đó, nó ngã lăn giữa đường cái, bị xe hơi cán gãy cả hai chân, nằm liệt trong bệnh viện Đài Loan suốt nửa năm trời, tiêu tốn hết mấy trăm nghìn đồng, tất tật đều do Dương giáo đầu cáng đáng. Thằng Hùng cao đến mét chín, toàn thân đen bóng, ngực nổi từng múi cơ rắn đanh như thép. Hai bàn tay to lớn dị thường, chẳng khác gì tay gấu. Đôi khi nó đùa chúng tôi, ngây ngô vươn hai bàn tay ngoại cỡ, ôm chầm lấy chúng tôi, siết mạnh. Tay nó khỏe kinh người, bị nó ghì cho một cái, xương cốt toàn thân kêu lên răng rắc như muốn vỡ vụn, chúng tôi phải gào lên oai oái vì đau. Thằng Hùng rất háu ăn, chúng tôi hay trêu nó bằng cách cầm que kem huơ qua huơ lại trước mặt nó, bảo: "Gọi anh đi!" Nó liền giơ tay ra cướp, ngoác miệng cười ngô nghê, lúng búng như ngậm hạt thị: "Âng, âng!" Kỳ thực nó lớn hơn chúng tôi những mười mấy tuổi, chắc cũng phải ba chục rồi. Lần nào xuất hiện, nó cũng lẽo đẽo theo sau Dương giáo đầu, trong tay bao giờ cũng lỉnh kỉnh túi lớn bọc nhỏ, nào mơ trần bì, nào mứt mận, nào kẹo lạc, vừa đi vừa nhặt lia lịa bỏ vào miệng, nhìn thấy chúng tôi thì giơ cao mớ quà bánh trong tay, gọi ầm lên: "Ăn không?" Rồi chia khắp cả đám chúng tôi mỗi đứa một ít. Đôi khi Dương giáo đầu nhìn mà phát cáu, vung quạt giấy đập cho nó một nhát vào đầu, chửi:

"Mày kiết xác mà còn hoang, chốc nữa sạch bách rồi, tao mua cái dái chó cho mày ăn nhé!"

"Này các con, còn đứng đần ra đấy làm gì nữa?" Sư phụ Dương giáo đầu lượn vào trong đám chúng tôi, xỉa quạt giấy chỉ mặt khắp lượt cả bọn, quát tướng lên: "Bầy cá sộp sắp bị đám lỏi con phố Tam Thủy từng con từng con câu hết sạch rồi, chỉ thừa lại mấy cái quẩy ỉu qua đêm thôi, để tao xem chúng mày có cảm hứng mà xơi không?"

Dứt lời, Dương giáo đầu phạch một cái xòe cây quạt giấy to tướng ra, "gió mát hiu hiu", "mộng lành êm ả" vùn vụt chao qua chao lại. Thằng Hùng mọi rợ đứng thừng thững sau lưng Dương giáo đầu, lù lù một đống, y như con gấu chó trong gánh xiếc rong. Nó bận tấm áo thể thao vải nilon màu tím bóng lưỡng, mới tinh, thít vào trước ngực căng lên từng cuộn cơ bắp.

"Chà chà, Hùng này, cái áo mới của mày bảnh thật đấy, lão rùa già tặng cho mày chứ gì?"

Tiểu Ngọc giơ tay đấm vào ngực thằng Hùng, chúng tôi cùng cười rộ lên. Chúng tôi muốn trêu chọc sư phụ đều lôi thằng Hùng ra làm ngòi nổ, lão rùa già là một lão dê già đã ngoài sáu chục, cổ sùi đầy vảy nến. Người trong công viên chẳng ai thèm đếm xỉa tới lão, lão chỉ biết rình nấp trong xó tối, lừa lúc chúng tôi không để ý, thình lình thọc tay ra chụp trộm chúng tôi một cái. Có lần, lão cầm một túi lạc luộc nhử thằng Hùng đi theo. Sau khi biết chuyện, sư phụ chúng tôi tức điên người, túm đầu lão rùa già đập cho một trận thừa sống thiếu chết.

"Mẹ kiếp thằng chó đẻ, mấy thứ tròng khắp người mày mới là của lão rùa già tặng ấy!" Dương giáo đầu gí thẳng cây quạt vào trán Tiểu Ngọc, chửi. "Chứ bộ quần áo của thằng Hùng, mày hỏi nó xem, là ai mua cho nó?"

"Ba ba mua cho tao đấy," thằng Hùng lộng phộng đáp, cười ngô nghê.

"Thằng đần, mua ở đâu?"

"Bách hóa Ngày Nay."

"Bao nhiêu tiền?"

"Một trăm..."

"Mẹ cha mày, một trăm tám!" Dương giáo đầu phát đánh bốp vào tấm lưng dày u của thằng Hùng, rồi bỗng cười hềnh hệch, "Ái chà, cái thằng kẻ cắp này, té ra là trốn ở đây!"

Dương giáo đầu phát hiện ra thằng Chuột đang cóm ra cóm róm nép sau lưng Tiểu Ngọc, lập tức xông tới, túm ngay lấy tai thằng Chuột, lôi xềnh xệch lại gần, rồi bóp cứng lẩy cổ tay nó, quát tướng lên:

"Chúng mày mau lấy cho tao con dao, để tao chặt phăng hai cái vuốt trộm này đi! Cái tay trộm cắp này giữ lại để làm gì? Từ sáng chí tối chỉ biết trộm gà bắt chó! Muốn chết cũng không biết chọn ngày mà chết, tao tìm khách cho mày, bảo mày đi thông nòng, chứ ai cho phép mày đi trộm cắp của người ta hả? Mày làm sư phụ mày mất mặt không biết để vào đâu! Không cần đợi người ta báo cảnh sát, tao phải lôi cổ cái thằng chết toi này vào khám luôn mới được, cho mày một bài học nên thân, ngày mai tao sẽ đi nói với thằng Quạ, cho nó treo mày lên mà nện!"

"Sư phụ!" Thằng Chuột giãy giụa, hốt hoảng kêu lên, bộ mặt tam giác gầy quắt vàng bệch méo xẹo đi, trông đến quái đản.

"Ồ!" Dương giáo đầu cười nhạt, "mày mà cũng biết sợ cơ đấy? Lần trước không nhờ tao nói giúp, thằng Quạ đã đập mày chết tươi rồi, chắc mày vẫn còn nhớ món roi dây thép chứ?"

Dương giáo đầu vung tay cho thằng Chuột liền hai cái tát, khiến đầu nó ngoẹo qua rồi ngoẹo lại, tiếp đó lại xỉa thêm hai quạt vào trán, rồi mới dẫn thằng Hùng khệnh khạng bỏ đi. Toàn thân thịt mỡ núng nính rung rẩy trông rất nhịp nhàng.

"Mày lại trộm cắp gì của người ta thế?" Tiểu Ngọc hỏi.

"Thì tao chỉ lấy có nhõn một cây bút máy thôi mà, báu bở cái đếch gì đâu?" Chuột trề môi, nhổ phì một bãi, "cái thằng chết toi, đã nói rõ là ba trăm, mà chỉ cho bố mày có hai trăm."

"Ồ, mày lên giá từ bao giờ thế? Ba trăm?" Tiểu Ngọc ngạc nhiên.

Chuột ngượng nghịu toét miệng cười, lừng khừng mãi mới ấp úng: "Tay ấy muốn chơi kiểu này."

Nó chìa cánh tay khẳng khiu ra, vén ống tay áo lên, để lộ bắp tay. Chúng tôi xúm lại nhìn, nhờ ánh đèn huỳnh quang từ phía con đường rải đá dăm hắt sang, chúng tôi trông thấy trên cánh tay gầy nhẳng của thằng Chuột nổi phồng lên ba vết rộp đen thui.

"Cha mẹ ơi, cái của khi gì thế?" Tiểu Ngọc đưa tay sờ.

"Á!" Thẳng Chuột nhảy cẫng lên như điện giật, "đừng động vào, đau quá, bỏng lửa đấy... Thằng cha lấy đầu thuốc lá châm tao."

"Cái thằng khốn chết toi, mày còn chơi cái trò ấy nữa à," Tiểu Ngọc xỉa tay vào mũi Chuột mà chửi, "mày cứ đi đêm lắm rồi có ngày gặp ma, nó vằm mày thành thịt băm xơi tái!"

Chuột ngây ngô bật cười rinh rích, phô ra hàm răng vàng xỉn.

"Tiểu Ngọc," Chuột hạ giọng năn ni, "mày đi xin sư phụ giúp tao với, dứt khoát đừng có mách với anh Quạ, nhé?"

"Tao đi xin xỏ giúp mày, mày định cảm ơn tao thế nào? Mời tao đi xem Cây treo người ở Tân Nam Dương nhé?" Tiểu Ngọc véo tai Chuột, "cái thằng đầu trộm đuôi cướp, về sau chôm được thứ gì, nhớ chia phần cho bố mày nghe chưa?"

"Không thành vấn đề," thằng Chuột toét miệng cười, rồi cúi đầu xuống, giơ cánh tay lên, nhìn lom lom vào mấy vết rộp đen sì, cứ như thích thú lắm.

Tiểu Ngọc đi một lát rồi quay lại nói với Chuột:

"Sư phụ nói, tạm tha cho cái mạng chó của mày một lần, sau còn tái phạm, kiểu gì cũng trị mày đến nơi đến chốn! Nhìn cái bộ dạng của mày kìa, vừa nhắc đến lão Quạ đã sợ tè cả ra quần! Tao hỏi mày, mày sợ lão cái nỗi gì nào? Hay là lão có cái của quý ngoại cỡ, làm mày hồn bay phách tán rồi phỏng?"

Chúng tôi phá lên cười ầm ĩ, Chuột cũng rinh rích cười theo. Quạ là anh cả của thằng Chuột, Chuột kể, từ nhỏ nó đã không cha không mẹ, lớn lên trong nhà lão Quạ. Lão Quạ làm bảo kê tại Vãn Hương Ngọc lầu Giang Sơn, tính khí cục cằn hung dữ kinh khủng. Chuột sống trong nhà lão Quạ, ngày nào cũng bị lão đấm đá tàn tệ, chẳng khác gì thằng nô lệ. Chúng tôi hỏi thằng Chuột sao không bỏ đi. Nó nhún vai, cũng chẳng giải thích tại sao, chỉ bảo nó ở với lão Quạ mãi quen rồi. Có lần, Chuột lấy trộm cái đồng hồ đeo tay của khách, cảnh sát tìm đến tận nhà lão Quạ. Lão Quạ liền treo toòng teng thằng Chuột lên, vớ cây roi thép dài ba thước quất cho một trận tơi bời, báo hại thằng Chuột suốt một thời gian dài không tài nào duỗi thẳng được cái lưng, nhìn thấy chúng tôi, lưng cúi lòm khòm, mặt mũi méo xệch, cười mà trông phát gớm.


"Thanh!"

Tiểu Ngọc gọi khẽ bên tai tôi, rồi kín đáo giật áo tôi một cái. Tôi đi theo nó, bước xuống bậc thềm, chui vào trong vạt long não rậm rì.

"Giúp tao nhé! Giúp tao nhé!" Ngọc nắm lấy cánh tay tôi, hào hứng năn nỉ.

"Sao thế? Lại bắt tao nói dối giúp mày à? Định đền đáp thế nào?"

"Thế mới là anh em tốt chứ, ngày mai tao sẽ mang hai quả xoài thật to về cho mày ăn," Tiểu Ngọc cười nói, "chốc nữa lão Chu đến tìm tao, mày cứ bảo mẹ tao ốm, tao về Tam Trùng rồi nhé!"

"Thôi đi," tôi xua tay cười nói, "lần trước cũng nói mẹ mày ốm, lần này lão ấy có chịu tin không?"

"Tin hay không cũng mặc xác lão!" Tiểu Ngọc cười khẩy, "có phải tao bán thân cho lão ấy đâu. Thèm vào đôi co với lão."

Lão Chu là ông bố nuôi của Tiểu Ngọc, hai người lúc hợp lúc tan cũng được hơn năm rồi. Lão Chu mở xưởng nhuộm ở xã Trung Hòa, cũng khá dư dả, suốt ngày sắm sanh cho Tiểu Ngọc. Tuần trước, lão Chu mới tặng cho Tiểu Ngọc một chiếc đồng hồ Seiko, Tiểu Ngọc đeo đồng hồ trên tay, đến đâu cũng khoe rối rít:

"Ông Chu mua cho tao đấy!"

Tôi hỏi Tiểu Ngọc, có phải theo hẳn lão Chu không đấy, Tiểu Ngọc bèn thở hắt ra một hơi, than vãn:

"Lão già tốt với tao thật đấy, nhưng mà quản tao ngặt quá, chịu không nổi!"

Lão Chu bắt Tiểu Ngọc dọn đến xã Trung Hòà ở cùng mình, nhưng Tiểu Ngọc không chịu, chỉ đồng ý mỗi tuần đến đó ba bốn ngày. Tiểu Ngọc là con ngựa hoang, lão Chu không thuần phục nổi nó. Vì chuyện này mà hai người cãi vã luôn.

"Lại có con cái sộp mới nào thế?" Tôi hỏi.

"Cho mày biết, nhưng phải giữ bí mật tuyệt đối cho tao đấy nhé! Hoa kiều!"

"Ồ, nhận bố nuôi Hoa kiều cơ đấy!"

"Sư phụ nói với tao, là từ Tokyo đến, người nội tỉnh*, nghe kể cũng oách lắm, tao đang chuẩn bị đến khách sạn Lục Phúc để gặp ông ấy đây." Dứt lời, Tiểu Ngọc tung tăng chân sáo chạy ra khỏi trảng cây, vừa chạy vừa ngoái đầu dặn với lại tôi: "Chỗ lão Chu, nhờ mày cả đấy!"

* Ở Đài Loan, khái niệm người nội tỉnh là chỉ những nhóm người đã định cư tại Đài Loan trước khi Thế chiến thứ 2 kết thúc (1945), gồm người thiểu số, người Việt Đông, người Phúc Kiến, đối lập với người ngoại tỉnh, tức là những di dân từ Trung Quốc đại lục theo chân Quốc Dân đảng đến Đài Loan sau Thế chiến thứ 2, đặc biệt là trước sau năm 1949, khi Quốc Dân đảng thất bại tại Trung Quốc đại lục.

Trong trảng cây đặc muỗi độc, mới đứng đó chốc lát, cánh tay tôi đã bị đốt sưng vù mấy chỗ. Tôi vừa gãi vừa quay trở ra ngoài. Đột nhiên, từ phía sau có một bàn tay đặt lên vai tôi.

"Ai?"

Tôi giật bắn mình, quay ngoắt đầu lại, và nhìn thấy khuôn mặt của Ngô Mẫn, trong bóng tối, trông hệt như một tờ giấy trắng bệch đang lơ lửng giữa không trung.

"Là cậu đấy à? Ra viện bao giờ thế?"

"Chiều nay." Giọng Ngô Mẫn yếu ớt, run rẩy.

"Thẳng ranh, ra viện cũng chẳng chịu nói với ai một tiếng!"

"Thì tớ đến tìm các cậu đây còn gì, lúc nãy Chuột bảo tớ, cậu và Tiểu Ngọc đi vào đây."

Tôi bước về phía hồ hoa súng, nhưng Ngô Mẫn bỗng chụp lấy cánh tay tôi níu lại, khẩn khoản:

"Đừng tới chỗ đó được không? Đông người quá."

Tôi xoay người lại, đi về phía viện bảo tàng bên cổng chính công viên, đèn huỳnh quang hai bên con đường nhỏ hắt xuống thứ ánh sáng tim tím, rọi lên mặt Ngô Mẫn, cứ như phủ lên một lớp sáp, trắng bợt bạt, không chút sắc máu. Khuôn mặt ấy vốn dĩ rất thanh tú ưa nhìn, nhưng giờ hai má gầy lõm, đôi mắt to đen nhánh lộ sáng cũng trũng xuống sâu hoắm. Ngô Mẫn đưa tay lên, quẹt dòng mồ hôi trên trán, tôi nhận ra trên cổ tay trái của nó vẫn quấn một vòng bông băng, như thể đang đeo cái còng tay trắng toát. Hôm đó Ngô Mẫn nằm trong phòng cấp cứu bệnh viện Đại học Đài Bắc, ngang cổ tay trái là một vết dao cứa dài đến bảy phân, gân thịt phơi ra đỏ loè, toàn thân sũng máu. Ngô Mẫn không có tiền để nộp phí đặt cọc, bệnh viện không chịu truyền máu cho nó. May mà ba thằng tôi, Tiểu Ngọc, Chuột chạy đến kịp, mỗi thằng truyền cho 500cc máu mới giữ lại được cái mạng cho nó. Ngô Mẫn nhìn thấy chúng tôi, đôi mắt to đờ đẫn chớp chớp vài cái, miệng há ra hồi lâu mà không nói nổi một lời. Tiểu Ngọc giận điên người, chửi toáng lên:

"Mẹ mày, cái thằng khốn kiếp, sao mày không đi nhảy lầu hả? Ngã chết luôn đi cho rảnh nợ? Còn bắt bố mày đến truyền máu!"

Một ngày trước hôm Ngô Mẫn cắt tay, nó còn đến công viên, gặp chúng tôi bèn nói:

"Thanh ơi, tớ không muốn sống nữa."

Khi nói câu ấy, nó cười cười, chúng tôi cứ ngỡ nó đùa. Tiểu Ngọc bèn đốp ngay:

"Mày chết đi, mày chết đi, chết rồi tao sẽ đốt tiền mã cho mày!"

Ai ngờ nó làm thật, bằng cái cách đẫm máu là cầm dao cứa cổ tay.


"Thanh!" Ngô Mẫn ấp úng gọi, lúc này chúng tôi đang đứng trên bậc đá của viện bảo tàng, ngồi xuống tựa lưng vào cột đá.

"Gì thế?" Tôi nhìn sang Ngô Mẫn.

"Cậu cho tớ mượn ít tiền, được không?" Ngô Mẫn vẫn cúi gằm mặt nãy giờ, "tớ chưa ăn tối."

Tôi thò tay vào túi quần móc một hồi mới vét được ba tờ giấy bạc mười đồng nhàu nhĩ nồng mùi mồ hôi, đưa cho nó:

"Chỉ còn chừng này thôi."

"Hai ngày nữa trả cho cậu." Ngô Mẫn lúng búng đáp.

"Không cần đâu," tôi xua tay, "cậu hết tiền, sao không đi xin sư phụ?"

"Tớ ngại phiền đến sư phụ nữa," Ngô Mẫn cười buồn, "tiền viện phí đều là sư phụ ứng ra hết, những mười mấy nghìn đồng."

"Chà chà, lần này sư phụ hào phóng quá nhỉ!" Tôi kêu lên, "đúng là đệ tử cưng của sư phụ có khác!"

"Tớ đã hứa với sư phụ, sau này kiểu gì cũng phải tìm cách trả cho ông ấy."

"Từng ấy tiền, cả đời cậu cũng chẳng trả nổi đâu. Tớ khuyên cậu tốt nhất hãy mau mau kiếm lấy một ông bố nuôi giàu có để trả nợ giúp cậu." Tôi cười nói.

Ngô Mẫn vẫn cúi gục đầu, cánh tay quấn băng trắng toát vạch vẽ vu vơ trên mặt đất, hồi lâu, mới khe khẽ hỏi:

"Thanh này, hôm đó cậu đến nhà anh Trương, rốt cục có gặp anh Trương không thế? Anh ấy đã nói với cậu những gì?"

Vào buổi chiều hôm Ngô Mẫn cắt cổ tay, tôi đã đến khu đô thị mới Quang Vũ đường Đôn Hoa Nam để tìm ông Trương. Trước kia, khi Ngô Mẫn còn ở chung nhà với ông Trương, tôi đã đến đó tìm nó một lần, thấy Ngô Mẫn bò rạp dưới sàn, tay cầm tấm giẻ to sụ đang hì hục lau nhà. Nó cởi trần, đi chân trần, mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Thấy tôi đến, nó vui lắm, lấy từ trong tủ lạnh ra một chai nước táo ép mời tôi uống. Nó quỳ dưới sàn nhà, vừa ra sức lau chùi vừa trò chuyện với tôi. Căn hộ của ông Trương bài trí cực kỳ hào nhoáng. Một bộ sofa da đen nhánh, bề thế với lưng tựa vươn cao, bàn và kỷ trà đều là loại mặt kính khung crôm sáng loáng. Sát bức tường chính giữa phòng khách là một tủ rượu cao ngất, bên trong bày la liệt những chai rượu Tây đủ loại.

"Nhà anh Trương thật quá tuyệt vời, nếu tớ được ở đây suốt đời thì thích quá." Ngô Mẫn ngước nhìn tôi cười nói, mặt nó đỏ lựng, mồ hôi ròng ròng.

Hôm ấy tôi tìm đến nhà ông Trương, ông ta đang ngồi ngả lưng trên ghế sofa trong phòng khách vắt chân chữ ngũ xem ti vi, phòng khách bật điều hoà mát lạnh. Ông Trương chỉ mặc độc chiếc quần ngủ bằng nhiễu xám, dưới chân vắt vẻo đôi dép lê gấm màu xanh lam. Ra mở cửa là Tiêu Cần Khoái - chúng tôi đều gọi nó là tiểu tinh quái. Tiểu tinh quái mày rậm mắt to, vạm vỡ như con trâu mộng, song mồm miệng lại dẻo quẹo như mạch nha, sư phụ Dương giáo đầu có lần nói với nó:

"Tiểu tinh quái, mồm miệng mày khéo léo thật đấy, mày đi dụ con sáo mỏ ngà trên cây xuống cho tao xem nào!"

"Anh Trương," vừa bước chân vào phòng khách, tôi đã nói luôn, "Ngô Mẫn tự sát!"

Ông Trương thoạt tiên giật nảy mình:

"Nó sao rồi? Chết rồi ư?"

"Đang trong bệnh viện Đại học Đài Bắc, cắt cổ tay, phải truyền máu."

"Ờ..."

Ông Trương thở hắt ra một hơi, rồi quay mặt đi xem ti vi tiếp. Trên màn hình màu đang phát chương trình Đêm hội ngôi sao*, Thanh Sơn và Uyển Khúc sắm vai tình nhân, đang cao giọng song ca:

* Tên một chương trình ca nhạc của Đài Truyền hình Đài Loan trước đây.


Quả dứa ngọt như mật,

Quả dứa giống như em...


Tiêu Cần Khoái cũng lượn lại gần, ngồi phịch xuống ngay cạnh ông Trương, một cẳng chân thượng luôn lên mặt sofa, tay hí hoáy móc kẽ chân, cả hai kẻ giống như cùng bị giọng hát của Thanh Sơn và Uyển Khúc hút mất hồn, mắt dán vào ti vi không chớp lấy một cái. Thanh Sơn ôm eo Uyển Khúc, bước tới bước lui, đến khi bài hát sắp kết thúc, ông Trương mới như sực nhớ ra, ngoảnh sang hỏi tôi:

"Ngô Mẫn tự sát, cậu tới tìm tôi để làm gì?"

Ông Trương chừng bốn chục tuổi, mở công ty thương mại, chuyên xuất khẩu đồ chơi bằng nhựa. Đó là một người đàn ông điển trai, sống mũi cao và thẳng, tóc vuốt keo không một sợi rối, chân tóc mai loáng thoáng hoa râm. Nhưng ông ta có đôi môi mỏng dính, chạy xéo qua khoé miệng bên phải là một nếp nhăn hằn sâu đến tối thẫm, cứ như lúc nào cũng đeo bên miệng một nụ cười lạnh lẽo. Khi Ngô Mẫn nằm trong phòng cấp cứu truyền máu, đã thì thào bên tai tôi năn nỉ, nhờ tôi đi mời ông Trương đến bệnh viện một chốc. Nhưng khi nhìn thấy vệt cười gần như tàn khốc bên khoé miệng ông ta, tôi bỗng chốc cứng họng, không nói nổi một lời.

"Cậu đến cũng đúng lúc lắm, Ngô Mẫn vẫn còn một túi quần áo cũ đang để ở đây, nhân tiện cậu mang cho nó đi." Rồi ông Trương quay sang sai Tiêu Cần Khoái, "đi lấy túi quần áo ra đây."

Tiêu Cần Khoái vội vã nhảy phắt xuống khỏi sofa, chạy vào phòng trong, xách ra một túi quần áo cũ. Bên trong là vài cái quần lót áo lót ố vàng nhàu nhĩ và hai chiếc sơ mi hoa cũ sờn. Tiêu Cần Khoái ấn thẳng túi đồ cũ vào tay tôi, cặp mắt ốc nhồi trợn ngược lên vài cái, trông vênh váo không thể tả. Tôi quay về bệnh viện, nhưng không mang túi quần áo cũ theo vào, tôi nói với Ngô Mẫn, ông Trương không có nhà.

"Thanh này, cậu biết đấy, tớ ở nhà anh Trương hơn một năm rồi. Lúc nào cũng ngoan ngoãn ở yên trong nhà, chưa một lần nào dám tự tiện ra ngoài đi rong. Anh Trương nóng tính lắm, nhưng tớ luôn chiều theo ý anh ấy. Anh ấy ưa sạch sẽ, ngày nào tớ cũng cặm cụi lau nhà. Đầu tiên tớ không biết nấu nướng, thường bị ăn mắng. Về sau, tớ xem sách dạy nấu ăn rồi học được, có lần anh Trương còn cười bảo tớ, Mẫn này, món cá chép sốt tương hột em nấu ngon chẳng kém nhà hàng Nga My là bao. Tớ nghe mà sung sướng quá đỗi, cứ ngỡ anh Trương thích lắm. Nào ngờ hôm đó, đang yên đang lành tự dưng anh ấy nổi khùng lên, rồi quát tháo bắt tớ dọn ngay ra khỏi nhà, không cho phép ở thêm dù chỉ một ngày. Tớ không ngờ anh Trương lại cạn tàu ráo máng đến vậy. Thanh, hôm ấy cậu có gặp được anh Trương không thế? Anh ấy còn giận nữa không?"

Giọng của Ngô Mẫn vẳng lại từ trong bóng tối, run lẩy bẩy, nghe mà bứt rứt khó chịu. Bất chợt, tôi lại như nhìn thấy cái vệt cười sâu hoắm, tàn khốc đeo bên khoé miệng ông Trương, tôi bèn cắt ngang lời thở than của Ngô Mẫn:

"Tớ có gặp ông ta, ông ta và Tiêu Cần Khoái cùng ngồi trên ghế sofa xem ti vi, xem Đêm hội ngôi sao."

"Ôi!" Ngô Mẫn thở dài một tiếng, không rõ thái độ gì, chốc sau, nó đứng dậy.

"Tớ đi trước đây, tớ đi mua chút gì ăn đã."

Ngô Mẫn bước xuống bậc thềm, khuôn mặt bợt bạt như tờ giấy trắng trôi lờ đờ trong bóng tối.

Quay lại bên hồ hoa súng, đã là nửa đêm. Loa phát thanh bên đài tiếng nói đã câm bặt, người dạo bộ trong công viên đã về cả. Thế là vương quốc của chúng tôi vụt hiện thân từ trong bóng tối. Trên bậc thềm bên hồ hoa súng, bóng đen lố nhố. Lũ ranh con phố Tam Thủy túm năm tụm ba, gỗ guốc gõ lốc ca lốc cốc, nhâng nháo hết sức. Chỗ đình hóng mát, vị nguyên lão tuổi cao vọng trọng của chúng tôi, ông Thịnh, đang kéo lê những bước chân chệnh choạng tiến về phía sư phụ Dương giáo đầu, phều phào hỏi thăm: "Có thằng bé nào mới không?"

Ông Thịnh già cả lắm rồi, hơn nữa, cột sống còn bị phong thấp nghiêm trọng. Ông tìm đến bọn trẻ, chỉ là muốn có người bầu bạn cùng ăn bữa khuya, cùng uống vài ly Soju. Ông Thịnh thường mất ngủ về đêm, ông nói chỉ cần được nhìn ngắm một khuôn mặt trẻ trung, trái tim không chịu nổi cô đơn của ông sẽ như được chuốc một liều thuốc ngủ, mới chịu nghỉ ngơi. Ông Thịnh là chủ tịch hội đồng quản trị của công ty điện ảnh Vạn Niên Thanh, từng sản xuất khá nhiều bộ phim chick flick đình đám một thời, kiếm bộn tiền. Nghe đồn trước kia, hồi còn ở Thượng Hải, ông Thịnh từng là diễn viên có tiếng, đóng cặp với rất nhiều nữ minh tinh danh giá lúc bấy giờ, nhưng ông lại thường xuyên than thở với chúng tôi:

"Vinh hoa phú quý nào có ích gì? Con cái, tuổi trẻ mới là quý báu nhất trên đời!"

Cái kẻ cứ bám nhằng nhẵng sau lưng thằng Chuột, phì phò gọi "thằng chuột ranh" kia, là đầu bếp nổi tiếng chuyên món Giang Chiết của nhà hàng Tụ Bảo Bồn, bếp Lư. Bếp Lư cân nặng hai trăm lẻ năm pound*, lúc cười trông hệt như Phật Di Lặc. Lão chết mê chết mệt thằng Chuột, "Chuột ấy à, tao mê tít mấy rẻ xương sườn của nó, cứ như gặm cánh gà ấy, càng gặm càng thấy ngon!" Tít trong vạt cây phía xa, thậm thà thậm thụt không dám ló mặt ra ngoài, là đám sinh viên con nhà tử tế; mấy đứa chưa kịp thay đồng phục kia là lính nghĩa vụ mới từ ngoài đảo trở về Đài Bắc nghỉ phép; còn có mấy thằng du côn đầy tiền án tiền sự từ thị trấn Tam Trùng mò tới công viên kiếm chác; và đám thợ việc choai choai trong tiệm bán đấu giá, hiệu may, hiệu giày da. Cũng có cả bác sĩ nổi danh của khoa tim mạch, một viên thẩm phán tòa án quân sự, và một diễn viên phim tiếng Đài** vang bóng một thời nay đầu đã hói lúc nào cũng sùm sụp chiếc mũ bê rê; còn có một nghệ sĩ bậc thầy với khuôn mặt nhàu nhĩ khe rãnh chẳng chịt luôn cuồng nhiệt theo đuổi cái đẹp, nghệ sĩ bậc thầy thường có những phát ngôn khiến chúng tôi nghe mà ù ù cạc cạc: "Thân xác, thân xác đâu có thể bền lâu? Chỉ có nghệ thuật, chỉ có nghệ thuật mới trường tồn vĩnh viễn!" Bởi vậy, những cậu trẻ bảnh trai trong vương quốc chúng tôi đều được ông vẽ chân dung cho. Tất nhiên, còn có ông thợ làm vườn của chúng tôi, người thâm niên nhất, dãi dầu đủ sóng gió cuộc đời, lão Quách. Lão Quách đứng một mình dưới bụi giao xanh ngắt ở tít phía xa, tóc và lông mày bạc trắng, mở to đôi mắt già nua chứa chan trìu mến ngắm nhìn bầy chim non trong công viên đang chập choạng bay tan tác một cách mù quáng và đầy nguy hiểm trong bóng tối nửa đêm. Lão Quách mở hiệu chụp ảnh trên đường Trường Xuân, có tên là Thanh Xuân Nghệ Uyển. Lão thu thập ảnh chân dung của chúng tôi, làm thành một tập album dày cộp, đặt tên là "Bầy chim thanh xuân". Tôi được lão đánh số 87, và đặt biệt hiệu là Chim Ưng.

* Pound: Đơn vị đo trọng lượng của Anh, Mỹ và nhiều nước khác, 1 pound tương đương 0,4536kg.

** Tiếng Đài, hay tiếng Đài Loan, tiếng Mân Nam, tức phương ngữ của người Đài Loan, có nguồn gốc từ phía nam tỉnh Phúc Kiến (Mân Nam). Do người Hán di dân đến Đài Loan chủ yếu đến từ phía nam Phúc Kiến, nên tiếng Đài đã từng là ngôn ngữ được nhiều người sử dụng nhất tại Đài Loan.

Trong vương quốc chúng tôi, không phân giàu nghèo, không phân sang hèn, không phân già trẻ, không phân mạnh yếu. Thứ mà tất cả chúng tôi đều có, là những tấm thân bị dục vọng thiêu đốt đến tột cùng đau đớn, là những trái tim cô đơn đến cuồng dại. Những trái tim cô đơn đến cuồng dại ấy, cứ đến lúc nửa đêm, lại như một bầy mãnh thú phá toang tù ngục giam cầm, nhe nanh múa vuốt, gầm gừ bắt đầu cuộc sục sạo săn tìm. Dưới bóng hắt của vầng trăng đỏ bầm, chúng tôi như lũ con bệnh mộng du, mỗi kẻ giẫm lên một chiếc bóng, bắt đầu cuộc truy tìm cuồng nhiệt vòng quanh hồ hoa súng, không ngừng không nghỉ, luân hồi bất tận, theo đuổi cơn ác mộng khổng lồ ngập ngụa yêu đương và dục vọng.

Trong bóng đêm tăm tối, tôi bước lên bậc thềm quanh hồ hoa súng, nhập vào trong hàng ngũ, như thể bị thôi miên, không còn điều khiển nổi thân mình, cứ thế đi vòng vòng quanh hồ hoa súng, hết vòng này đến vòng khác không ngừng nghỉ. Trong tăm tối, tôi nhìn thấy từng đôi mắt bị khao khát, khẩn cầu, ngờ vực, sợ hãi thiêu đốt rực lửa, len lét như đom đóm, đuổi bắt lẫn nhau. Dẫu là trong bóng đêm đặc quánh và đen thẳm, tôi vẫn bén nhạy nhận ra, trong đó có một đôi mắt, cứ mỗi khi đối diện với tôi, lại rực lên như hai đốm lửa, hắt lên mặt tôi bỏng rát. Tôi thấy bất an, tôi thấy thắc thỏm, nhưng tôi lại không thể nào tránh né đôi mắt ấy. Một đôi mắt rừng rực, cố chấp đến thế, khẩn thiết đến thế, như thể đang cực lực thăm dò tôi, khẩn cầu tôi một điều gì. Đó là một người đàn ông cao gầy lạ mặt, mà tôi chưa thấy xuất hiện trong công viên bao giờ.

"Đi đi, không sao đâu," sư phụ Dương giáo đầu từ phía sau ghé sát bên tai tôi, thì thầm chỉ đạo, "tao thấy hắn theo mày cả đêm rồi đấy."

Vị khách lạ mặt đã bước xuống bậc thềm, đứng lại dưới một gốc cau vua phía con đường rải đá dăm, quay mặt về phía tôi, dáng lêu nghêu thẳng tắp, đứng yên chờ đợi, lặng phắc, nhưng đầy bức bách đe doạ. Với khách lạ mặt, bình thường chúng tôi luôn cố gắng tránh né, đề phòng bắt nhầm mối, chuốc vạ vào thân. Kiểu gì chúng tôi cũng phải đợi đến khi sư phụ giám định thông qua mới dám đi theo, bởi vì con mắt nhìn người của Dương giáo đầu chưa bao giờ nhầm lẫn. Tôi bước xuống khỏi bậc thềm, tiến về phía con đường rải đá dăm dẫn đến cổng phía đường Công Viên. Tôi băng ngang qua trước mặt người khách lạ, vờ như không nhìn thấy hắn, cứ thế đi thẳng ra cổng, tôi nghe thấy tiếng bước chân của hắn bám theo tôi, lạo xạo trên mặt đường đá vụn. Tôi ra khỏi cổng công viên, đi một mạch về phía trước, đến tận bệnh viện Đại học Đài Loan, dừng bước dưới ngọn đèn đường bên con ngõ nhỏ vắng tanh, đợi hắn.

Dưới ánh đèn đường, giờ tôi mới nhìn rõ, người khách lạ mặt đứng lại bên cạnh tôi, cao hơn tôi hơn nửa cái đầu, phải đến hơn mét tám, khắp người lởm chởm mấu xương, lồi hẳn ra ngoài khấp khểnh. Tấm áo sơ mi màu lam thẫm trên người hắn cứ như thể được căng trên một khung xương cao lớn. Hắn có khuôn mặt chữ nhật, lưỡng quyền nhô cao, hai má hõm sâu như gọt, nhưng sống mũi lại vươn cao thẳng tắp, cặp lông mày thanh dài hất xéo, mái tóc dày rậm đen nhức phồng lên bồng bềnh. Trông hắn tầm ngoài ba chục, khuôn mặt hẳn cũng sắc nét lắm, thế nhưng hắn lại khô gầy quá thể, cứ như toàn bộ cơ thịt trên người đều đã teo quắt cả lại. Chỉ còn đôi mắt trũng xuống sâu hoắm hết sức lạ lùng kia, lúc nào cũng giống như hai đốm lửa hoang hừng hực thiêu đốt trong rừng rậm nguyên sinh, nhảy nhót lập lòe trong bóng tối, như thể đang ráo riết săn tìm gì đó. Khi hắn nhìn tôi, hơi hé một nét cười, tôi liền đề nghị:

"Chúng ta đến Vòng Xoay* nhé"

* Tức Vòng Xoay Đài Bắc, vốn là khoảnh đất hình tròn nằm ở điểm giao cắt của bốn con đường Trùng Khánh Bắc, Nam Kinh Tây, Ninh Hạ, Thiên Thủy, trước kia là một công viên nhỏ, đến năm 1945 sau khi kết thúc thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng, nơi đây trở thành khu chợ đêm nhộn nhịp.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com