Trong vương quốc của chúng tôi (3)
Cửa sổ phòng số 25 trên tầng hai nhà nghỉ Dao Đài nhìn về phía chợ đêm Vòng Xoay phía xa xa. Tiếng người cười nói nhộn nhạo văng vẳng từng đợt như sóng dồn, thi thoảng lại ré lên một tiếng kèn trumpet lê thê, khàn rè và chói gắt, là người trong chợ đêm đang rao bán thuốc hải cẩu hoàn*. Biển hiệu đèn màu từ Văn Hương Ngọc, Tiểu Bồng Lai đối diện nhấp nháy ánh đỏ ánh xanh, hắt vào qua cửa sổ. Trong phòng nóng nực kinh người, cây quạt cũ kỹ đầu giường rè rè lắc qua lắc lại. Gió, thổi vào người, cũng nóng hầm hập.
* Hải cẩu hoàn, một loại thuốc viên với thành phần chủ yếu chiết xuất từ tinh hoàn hải cẩu, được cho là có tác dụng bổ thận tráng dương.
Trong bóng tối, chúng tôi trần trụi nằm bên nhau, vai kề vai. Trong bóng tối, tôi vẫn cảm nhận thấy đôi mắt rừng rực sáng loè của hắn, hệt như hai quả cầu rực lửa, lăn đi lăn lại trên cơ thể tôi, ráo riết sục sạo, ráo riết kiếm tìm. Hắn nằm ngửa bên cạnh tôi, khắp người lởm chởm mấu xương, khi hắn trở mình, khuỷu tay nhọn hoắt vô tình va trúng người tôi, khiến tôi đau điếng, buột kêu lên một tiếng.
"Làm em đau à, em trai?" Hắn hỏi.
"Không sao!" Tôi lúng búng đáp.
"Em xem, tôi quên khuấy mất," hắn giơ đôi tay dài nghêu gầy guộc lên giữa không trung, mười ngón tay xoè rộng, trông như hai cái bồ cào, "hai cánh tay giờ chỉ còn trơ lại hai khúc xương cứng ngắc, có lúc chọc phải người mình còn thấy đau... Hồi trước không như thế này đâu, trước kia, cánh tay tôi cũng to y như em ấy, có tin không, em trai?"
"Tin."
"Em bao nhiêu tuổi?"
"Mười tám."
"Vậy thì đúng rồi, trước kia khi bằng tuổi em bây giờ, tôi cũng ngang ngửa với em. Thế nhưng chỉ một mùa hè, vỏn vẹn có ba tháng thôi, bao nhiêu thịt trên người, vụt một cái đã tiêu hao hết sạch, chỉ còn trơ lại một lớp da, và một mớ xương. Một mùa hè, chỉ một mùa hè thôi ..."
Giọng hắn vẳng lại từ trong bóng tối, xa xăm, dật dờ, như thể đang chờn vờn dội lên từ dưới hầm sâu hun hút.
Thường xuyên vào những nửa khuya, trong bóng tối âm u, trong gian gác xép nhà nghỉ ẩn khuất, trên chiếc giường cũ kỹ tồi tàn, chúng tôi trần trụi thân mình, hai con người lạ lẫm cùng giấu giếm nhau tên tuổi, vai kề vai nằm sát cạnh nhau, rồi bỗng nhiên, trước sự thôi thúc của cơn sám hối, chúng tôi sẽ thổ lộ cho nhau nghe những câu chuyện bí mật nhất, riêng tư nhất giấu kín tận đáy lòng. Chúng tôi không nhìn rõ mặt nhau, không biết gì về lai lịch của nhau, chúng tôi có thể tạm quên đi mọi điếm nhục kiêng dè, phơi bày trái tim trần trụi của chính mình, nâng trên lòng tay để cùng nhau ngắm nghía chốc lát. Người đầu tiên cùng tôi đến nhà nghỉ Dao Đài là một thầy giáo dạy thể dục trong trường trung học, người phương Bắc, hai múi cơ bụng rắn đanh như thép tấm, tối hôm đó, anh ta đã uống kha khá rượu cao lương, lè nhè suốt một đêm những lời say xỉn. Anh kể vợ anh người Bắc Bình (Tên gọi cũ của Bắc Kinh dưới thời Dân Quốc, tồn tại từ năm 1928 đến 1949), một người phụ nữ tốt đẹp, rất quan tâm chăm chút cho anh, thế nhưng anh lại không tài nào yêu chị ta được. Anh thầm yêu trộm nhớ cậu bé đội trưởng đội bóng rổ trong trường anh dạy. Cậu bé đội trưởng ấy do một tay anh bồi dưỡng thành tài, đã theo anh ba năm rồi, tình cảm thắm thiết như cha con. Thế nhưng anh lại không thể thổ lộ tình cảm của mình với cậu bé. Tình yêu thầm vụng khiến anh muốn hóa điên. Anh xách giày cho cậu, giữ áo thể thao cho cậu, cầm khăn bông lau mồ hôi cho cậu. Thế nhưng anh không dám lại gần cậu. Cứ thế cho tới tận khi tốt nghiệp, trong trận thi đấu cuối cùng giữa trường anh và trường bạn, một trận đấu cực kỳ gay cấn, ai cũng căng như dây dàn. Cậu bé đội trưởng lại kiếm chuyện tranh cãi với anh. Trong cơn nóng giận, một cái tát của anh đã đánh cậu bé ngã ngồi xuống đất. Suốt từng ấy năm qua, lúc nào anh cũng khát khao được vỗ về, được ôm ấp cậu bé dù chỉ chốc lát. Thế mà, anh cũng không hiểu tại sao mình lại thiếu kiềm chế, đánh cậu bé khuôn mặt đỏ lằn năm vệt ngón tay. Năm vệt ngón tay như năm vết bỏng sắt nung, cứa sâu trong trái tim anh mãi mãi, thi thoảng lại nhói lên đau đớn. Ông thầy thể dục cứ kể, kể mãi, thế rồi người đàn ông miền Bắc cao lớn vạm vỡ ấy cuối cùng lại bật khóc hu hu, khóc đến nỗi tôi nghe mà phát hoảng. Đêm ấy mưa to, nước mưa chảy ngoằn ngoèo trên cửa kính. Bóng đèn màu nhấp nháy bên Văn Hương Ngọc đối diện, xanh đỏ loè nhoè vụn vỡ.
"Năm hôm trước, cha tôi mới chôn."
"Hả?" Tôi ngơ ngác không hiểu.
"Năm hôm trước, cha tôi mới chôn trong nghĩa trang Cực Lạc ở Lục Trương Lê*, hắn đang hút thuốc, điếu thuốc rực lên một đốm lửa đỏ loè trong bóng tối, "nghe nói tang lễ long trọng lắm, tôi đọc trong sổ tang, thấy tên tuổi của rất nhiều nhân vật tầm cỡ trong chính phủ. Thế nhưng tôi lại chẳng biết Lục Trương Lê ở đâu cả, tôi chưa bao giờ đến đó. Em có biết không, em trai?"
* Lục Trương Lê, một địa danh tại ngoại ô Đài Bắc trước kia, nay thuộc thành phố Đài Bắc.
"Anh cứ đi thẳng theo đường Tín Nghĩa là tới, nghĩa trang Cực Lạc nằm trên núi Lục Trương Lê."
"Đường Tín Nghĩa đoạn 4 đi tiếp phải không? Đường sá Đài Bắc đổi tên nhiều quá, chẳng thể nào nhận ra được nữa, đã mười năm rồi tôi không trở lại đây..." Hắn rít một hơi thuốc, thở hắt ra một hơi thật dài, "tối hôm kia, tôi mới từ Mỹ trở về, tìm đến khu nhà cũ của chúng tôi hồi trước, ngõ số 122 đường Nam Kinh Đông, trước sau phải trái tua tủa cao ốc, tôi còn chẳng thể nhận ra đâu là nhà mình. Trước kia, phía sau nhà tôi là cánh đồng lúa. Em đoán thử xem, dưới đồng có gì?"
"Lúa."
"Đương nhiên, đương nhiên" hắn lúc lắc khúc cẳng tay lởm chởm những xương, bật cười thành tiếng, "tôi muốn nói cò trắng ấy, em trai ạ. Hồi trước, trong những thửa ruộng ven đường phố Đài Bắc nhiều cò trắng lắm, người đi qua, ào ào bay lên trắng rợp. Những năm sống ở bên Mỹ, tôi chưa bao giờ nhìn thấy một con cò trắng. Ở đó có chim ưng, hải âu, vịt trời, đủ loại, thế nhưng không có cò trắng. Em trai, có một bài đồng dao Đài Loan tên là Cò trắng, em có biết hát không?"
"Em có nghe, không biết hát."
Con cò trắng,
kéo xe bò,
kéo đến bờ khe...
Bất chợt, hắn hát lên khe khẽ bằng tiếng Đài Loan, Cò trắng là một khúc hát thơ ngây nhưng buồn thảm, giọng của hắn bỗng trở nên thơ trẻ dịu dàng hơn nhiều.
"Sao anh còn nhớ được?" Tôi buột miệng cười.
"Tôi quên từ lâu rồi, vừa về đến Đài Bắc, chẳng hiểu tại sao lại nhớ ra. Trước kia một người bạn đã dạy cho tôi, đó là một cậu bé người Đài Loan. Hai chúng tôi thường chạy ra cánh đồng lúa bên đường Tùng Giang phía sau nhà, ở đó có hàng trăm con cò. Từ xa nhìn lại, trông cứ như hoa loa kèn trắng nở đầy dưới ruộng. Cậu bé Đài Loan ấy luôn miệng hát bài đồng dao này, tôi nghe mãi rồi thuộc. Thế nhưng lần này trở lại, Đài Bắc đã không còn cò trắng nữa."
"Anh là du học sinh Mỹ à?" Tôi hỏi.
"Không phải tôi đi du học, mà là đi trốn..." Giọng hắn bỗng chốc trở nên trầm nặng, "mười năm về trước, cha tôi mua từ Hong Kong cho tôi một cuốn hộ chiếu Anh quốc, rồi đưa tôi đến Cao Hùng, lên một con tàu bưu chính Nhật Bản, tên là Hakutsuru Maru, tôi còn nhớ, ở trên tàu, ăn liền một tháng dưa chuột muối."
Hắn rít mạnh hai hơi thuốc, im lặng hồi lâu, mới nghiêm túc nói:
"Trước khi lên đường, cha tôi nói với tôi: 'Mày đi lần này, tao còn sống trên đời một ngày, mày đừng có quay về!' Thế cho nên, tôi phải đợi đến khi cha tôi qua đời, mới quay về Đài Loan, tôi ở Mỹ, đợi suốt mười năm đằng đẵng..."
"Em trai, em biết không? Hộ chiếu của tôi mang cái tên rất dị hợm: Stephen Ng. Người Quảng Đông đọc chữ 'Ngô' là 'Ưn', nên người Mỹ đều gọi tôi bằng mũi, Ưn, Ưn, Ưn..."
Nói đến đây, hắn phá lên cười một mình, tôi nghe thấy hài hước, cũng cười theo.
"Thực ra tôi họ Vương," hắn thở hắt ra một hơi, "Vương Quỳ Long mới là họ tên thật của tôi, chữ Quỳ thật khó viết, hồi nhỏ lần nào tôi cũng viết sai. Nghe nói quỳ long là một loài rồng dữ thời cổ, hễ xuất hiện là sinh thiên tai lũ lụt. Chẳng hiểu tại sao bố tôi lại đặt cho tôi cái tên chẳng lành như thế. Còn em, em tên gì, em trai?"
Tôi ngần ngừ một lát, với khách lạ, tôi chưa bao giờ chịu tiết lộ họ tên thật của mình.
"Đừng sợ, em trai," hắn vỗ khẽ vào vai tôi, "tôi và em, đều là người cùng cảnh. Trước kia, hồi ở bên Mỹ, tôi cũng chẳng bao giờ chịu nói với người khác họ tên thật của mình. Nhưng giờ thì chẳng sao hết, giờ đã trở về Đài Bắc, tôi lại biến thành Vương Quỳ Long, Stephen Ng, cái tên mới nực cười làm sao? Stephen Ng chết rồi, Vương Quỳ Long đã sống lại!"
"Em họ Lý," cuối cùng tôi cũng chịu thú thực, "mọi người gọi em là Thanh."
"Vậy thì, tôi cũng gọi em là Thanh nhé!"
"Bên Mỹ anh ở San Francisco à?" Tôi thăm dò, trong công viên của chúng tôi có một tay phụ bếp của nhà hàng Ngũ Phúc Lâu, được mời ra nước ngoài làm việc, làm đầu bếp chính trong một nhà hàng ở khu phố Tàu tại San Francisco. Anh ta viết thư về kể rằng, đường phố San Francisco đâu đâu cũng đầy người giống như chúng tôi.
"San Francisco? Tôi không ở San Francisco." Hắn rít mạnh một hơi thuốc, ngồi dậy, ném đầu mẩu thuốc vào cái ống nhổ trước giường, sau đó gối hai tay sau gáy, nằm ngửa xuống giường.
"Ở New York, tôi cập cảng ở New York," giọng hắn bỗng trở nên xa xăm, bị gió quạt thổi vào âm âm tản mát, "New York rặt những tòa nhà chọc trời cao đến mấy chục tầng, ẩn mình phía dưới, không thấy mặt trời, chẳng ai tìm ra anh hết. Tôi ẩn nấp dưới bóng che của các tòa cao ốc suốt mười năm, tôi thường giấu mình tại một nơi tối tăm nhất New York, công viên Trung Tâm, em đã nghe đến bao giờ chưa?"
"New York cũng có công viên sao?"
"Sao lại không? Công viên Trung Tâm ở đó rộng lớn gấp mấy chục lần, tối tăm gấp mấy chục lần công viên Mới của chúng ta, ở ngay trung tâm thành phố, đen ngòm như một vực nước sâu không đáy. Trong công viên có rất nhiều rừng cây tối om, hết vạt này đến vạt khác, bước vào trong đó, cứ như vào mê cung, cả ngày trời cũng chưa chui ra được. Tối đến, người New York còn chẳng dám bước chân qua cổng công viên. Trong đó từng xảy ra vô số vụ án giết người. Có một kẻ bị chém phăng đầu, xác treo lủng lẳng trên cây. Còn có người, một thằng bé trẻ măng, bị đâm ba mươi mấy nhát dao..."
Kể đến đây, hắn bỗng thở dài, than:
"Nước Mỹ đâu cũng rặt một lũ điên rồ!"
"Trong công viên Trung Tâm cũng có người cùng hội với chúng ta à?" Tôi khẽ hỏi.
"Ồ, nhiều lắm, tôi vừa cập cảng, ngay đêm thứ ba đã chui vào công viên Trung Tâm. Ở ngay trảng cây phía sau sân khấu âm nhạc, cả một lũ lôi tôi vào trong đó, tôi không đếm nổi, đại khái cũng phải bảy tám thằng. Có mấy thằng da đen, tôi sờ thấy đầu chúng nó, tóc tai như một đùm dây thép xoắn rối nùi. Tiếng chúng thở phì phì trong đêm tối, nghe như một bầy sói đói lông lá xồm xoàm đang gặm xé khúc xương. Trong đêm tối, tôi vẫn nhìn thấy những bộ răng trắng ởn. Cứ thế đến tận sáng, cứ thế đến tận khi ánh mặt trời lách xuống qua ngọn cây, chúng mới đột nhiên trở nên cảnh giác, từng thằng theo nhau cúp đuôi chạy biến, chỉ còn lại một thằng da đen già khọm, xấu xí, quỳ mọp dưới đất, lẩy bẩy giơ tay ra, chụp lấy gấu quần tôi. Tôi đi ra khỏi trảng cây, ánh nắng sớm chói lòa khiến tôi không mở nổi mắt..." Hắn vươn hai cánh tay gầy đét như hai cái bồ cào lên không trung, nắm duỗi mấy cái. "Chỉ một đêm, tôi cảm giác bao nhiêu thịt trên tay đã bị bọn chúng gặm sạch, tím ngắt, đỏ bầm từng mảng. Mùa hè năm đó, tôi giống như đám người Mỹ, cũng phát điên phát rồ, điên rồ cùng cực. Tôi thấy những miếng thịt trên cơ thể mình, giống như vảy gầu trên đầu, rụng xuống lả tả, từng mảng từng mảng, cứ như người hủi, mà tôi hoàn toàn không có cảm giác gì. Có một hôm, tôi ngồi trên phố lớn, cầm lưỡi dao lam, cứa vào bắp chân mình, hết nhát này đến nhát khác, máu dầm dề..."
"A, tại sao kia?" Tôi hỏi, hắn kể nhẹ tênh như không, cứ như chặt gà chặt vịt.
"Tôi muốn thử, xem tôi có còn cảm giác hay không."
"Không đau sao?"
"Hoàn toàn không, tôi chỉ ngửi thấy mùi tanh của máu."
"Ồ!" Tôi bật lên một tiếng hàm hồ, cảm thấy gió quạt phả lên người rờn rợn gai ốc.
"Mấy người đàn bà trông thấy, kinh hãi kêu rú lên. Cảnh sát chạy đến, tống tôi vào bệnh viện tâm thần. Em đã bao giờ đến bệnh viện tâm thần chưa, Thanh?"
"Chưa."
"Bệnh viện tâm thần cũng thú vị ra trò"
"Sao lại thế được?"
"Bệnh viện tâm thần có nhiều y tá nam rất kháu."
"Thế à?" Tôi cười, bắt đầu thấy tò mò.
"Tôi bị đưa vào bệnh viện tâm thần bên bờ sông Hudson, trên sông có rất nhiều thuyền buồm trắng, ngày nào tôi cũng ngồi bên cửa sổ đếm thuyền buồm. Tôi còn nhớ rõ, có một y tá nam tên là David, đẹp đến kinh động, mái tóc vàng kim óng ánh, đôi mắt xanh thăm thẳm như mặt biển. Anh ta chí ít phải cao đến hai mét, y tá nam trong viện tâm thần ai cũng cao to cả. Anh cầm hai viên thuốc an thần, tươi cười dỗ dành tôi uống, tôi thình lình chụp lấy bàn tay anh, áp lên lồng ngực mình, kêu lên: 'Trái tim của tôi, trái tim của tôi đâu? Trái tim tôi đã biến mất rồi!' Anh ta cứ ngỡ tôi muốn đánh mình, giở võ vật ngã tôi đè nghiến xuống đất. Em đoán xem tại sao? Vì tôi nói tiếng Hoa, anh ta không hiểu."
Hai chúng tôi cùng phá lên cười.
"Họ thả tôi ra, mùa hè đã qua lâu rồi, trong công viên Trung Tâm, lá cây đã rụng sạch trơn. Tôi mua một túi bánh mì khô, ngồi trong công viên cho chim bồ câu ăn suốt một ngày trời..."
Hắn chợt im bặt, tôi nghiêng đầu sang nhìn, đôi mắt hắn sáng xanh nổi dật dờ trong bóng tối. Cây quạt đầu giường rè rè hắt lại từng luồng gió nóng rẫy, lưng tôi ướt đẫm ngập trong mồ hôi. Ngoài cửa sổ, phía chợ đêm Vòng Xoay, tiếng người tiếng xe lại ầm ào dội lại. Tiếng loa rè chỗ bán hải cẩu hoàn thổi hăng hái lạ lùng, thế nhưng không hiểu tại sao, một cái loa khàn đặc như thế lại cứ liên tục thổi đi thổi lại bài Hoa nhài tháng Sáu, một khúc dân ca Đài Loan rất êm đềm, hồi nhỏ tôi vẫn thường nghe, bây giờ bị cái loa rách thổi ra rè đặc nghẹn ngào, nghe vừa tức cười, lại pha lẫn một nỗi chua chát khó tả.
"Hoa súng đâu rồi, Thanh?"
"Gì cơ?" Tôi giật nảy mình, sau một hồi lâu im lặng, giọng hắn bỗng bật lên đột ngột.
"Tôi muốn hỏi đám hoa súng trong công viên ấy, đâu hết cả rồi?"
"Ồ, hoa súng ấy à? Nghe nói chính quyền thành phố cho người xuống nhổ hết rồi."
"Chà, tiếc thật."
"Mọi người đều nói hoa súng hồi đó đẹp lắm."
"Công viên Mới là cái công viên xấu xí nhất thế giới," hắn cười nói, "chỉ có hoa súng ở đó là đẹp thôi."
"Nghe nói là hoa súng đỏ, có phải không?"
"Phải, đỏ rực rỡ. Hồi trước, khi hoa súng nở, tôi liền tới đếm. Lúc nhiều nhất có chín mươi chín bông. Có một lần, tôi hái một bông, đặt vào trong tay một người, người đó nâng đóa hoa súng đỏ trên tay, trông như đang nâng ngọn lửa cháy rực. Hồi ấy, người đó cũng tầm tuổi em bây giờ, mười tám tuổi..." Tôi cảm nhận thấy bàn tay như bồ cào của hắn, những ngón tay cứng nhọn của hắn, luồn vào trong tóc tôi, khẽ khàng chải chuốt, ánh mắt rừng rực như đốm lửa hoang dại lại bắt đầu lăn tròn trên khắp người tôi, với một vẻ khẩn cầu gấp gáp và dữ dội, bỗng dưng, trong tôi dấy lên một cơn sợ hãi khó tả.
"Anh Vương, em phải đi rồi." Tôi ngồi dậy.
"Không ở lại qua đêm được à?" Hắn thấy tôi mặc quần áo, thì thất vọng hỏi.
"Em phải về."
"Ngày mai gặp em được không, Thanh?"
"Xin lỗi, anh Vương, ngày mai em có hẹn."
Tôi khom lưng buộc dây giày, tôi không hiểu tại sao mình lại nói dối. Tôi chẳng có hẹn gì, thế nhưng ngày mai, chí ít là ngày mai, tôi không thể gặp hắn. Tôi sợ hãi phải nhìn thấy đôi mắt hắn, đôi mắt hắn, cứ như ráo riết đòi hỏi một thứ gì đó ở tôi, đòi hỏi một cách hung hãn và đau đớn.
"Vậy thì, bao giờ mới được gặp lại em?"
"Chúng ta ở trong công viên, kiểu gì cũng sẽ gặp thôi."
Tôi đã bước ra đến cửa phòng, ngoảnh đầu lại đáp. Rồi một mạch, tôi chạy ào xuống cầu thang gỗ kẽo kẹt đen hun hút của khách sạn Dao Đài, băng ra khỏi con ngõ hẹp ướt lép nhép hôi hám, lao mình vào trong chợ đêm Vòng Xoay ồn ào chen chúc, khắp nơi lủng lẳng cá mực, bạch tuộc và thịt thủ lợn nhầy mỡ. Tôi đứng lại trước cửa một quán ăn nhỏ tên gọi Tuý Tiên, nhìn dãy vịt sốt dầu mè vàng ươm bóng mỡ treo ngược trên móc, bỗng nhiên, tôi cảm thấy cơn đói trào lên cồn cào. Tôi bảo bà chủ cho tôi nửa con vịt sốt dầu mè thật lớn, thật béo, lại gọi thêm một tô canh gà hầm đương quy nghi ngút hơi nóng. Ừng ực ừng ực, chỉ một loáng, tôi đã dốc tuột cả tô canh nóng bỏng nồng mùi thuốc Bắc vào trong miệng, lưỡi tôi bỏng rát đến tê dại, mồ hôi đổ xuống ròng ròng trên trán, tôi cũng chẳng buồn lau, rồi hai tay, một tay rứt cái đùi béo mẫm, một tay cầm cái cánh vịt, phải trái thay nhau gặm xé hùng hục, chốc lát, nửa con vịt béo chỉ còn lại đống xương, óc vịt cũng hút sạch sẽ. Bụng tôi đã căng phình, nhưng dạ dày vẫn như cái hang sâu không đáy, không tài nào lấp được cho đầy. Tôi lại gọi bà chủ cho thêm đĩa mì xào, lùa xì xụp như gió cuốn lá khô, quét sạch nhãn không sót một sợi. Đến khi tính tiền, tổng cộng một trăm tám mươi bảy đồng. Tôi móc cuộn giấy bạc trong túi ngực ra, năm tờ một trăm, chưa bao giờ có người nào cho tôi nhiều tiền đến vậy. Lúc nãy hắn đã vét toàn bộ tiền mặt trong ví cho tôi, còn áy náy nói rằng, vừa trở về, chưa đổi được nhiều Đài tệ.
Rời khỏi Vòng Xoay, tôi chậm chạp trở về chỗ trọ trên phố Cẩm Châu. Đường Trung Sơn Bắc chẳng còn mấy người qua lại, ánh đèn huỳnh quang tím nhợt lặng lẽ chiếu dọc đường dài. Một mình tôi, đơn độc bước trên làn đường đi bộ, đôi giày da đế đinh dưới chân gõ xuống nắp cống cộp, cộp, cộp, đội lên những tiếng vang trống rỗng. Tôi nới rộng thắt lưng, kéo vạt áo sơ mi ướt đẫm ra ngoài quần, mở phanh cúc áo. Trên đường cuối cùng cũng phả tới một cơn gió sớm mai mát mẻ, thổi tung vạt áo ẩm ướt. Toàn bộ lỗ chân lông trên người râm ran giãn nở, truyền tới một cơn sảng khoái nặng nề, và sau cơn sảng khoái quá độ là một đợt tê rần chạy khắp.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com