Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Trong vương quốc của chúng tôi (5)


Nhà của chúng tôi ở phố Long Giang, tận cùng con hẻm số 28 phố Long Giang. Giống hệt như cái xứ Hắc Long Giang hoang vu cằn cỗi nằm sát biên giới Siberia của Trung Quốc đại lục, phố Long Giang cũng là vùng biên cương của hoang mạc Đài Bắc. Bị sung quân đến đây, đều là những gia đình nhỏ bé nghèo xơ nghèo xác. Con hẻm của chúng tôi phần lớn là chỗ ở của những viên chức quèn chẳng có vai vế gì trong các đơn vị nhà nước. Hai dãy nhà một tầng dựng bằng ván gỗ, nhà nào cũng cũ kỹ sạm đen, ván gỗ rêu mốc loang lổ, cửa rả, mái ngói tróc lở xập xệ, trông như một lũ ăn mày áo quần tơi tả, so vai rụt cổ rúm ró vào nhau. Căn nhà đầu tiên bên trái là của tham mưu Tần, một bên cánh cổng bị bão quật đổ, mãi vẫn chưa dựng lại, trông như sứt môi, gãy răng cửa. Tham mưu Tần thích ngồi trên chiếc ghế đẩu kê ở chỗ hổng trên cánh cổng, tay ôm cây đàn nhị, tự kéo tự hát một mình, theo lời của tham mưu Tần, ông hát theo lối phái Kỳ của Kỳ Lân Đồng*, giọng hát khàn đặc như bị trúng gió nặng. Năm ngoái ông bị trúng gió, mặt mũi biến dạng, miệng cũng méo xẹo. Thế nhưng ông vẫn ra sức hát khúc Bến Tiêu Dao, gào lên thê thiết: "Khinh quả nhân..." Mỗi khi ông há to miệng, hàm dưới cứ như rớt xuống, sắc mặt thống khổ đến cùng cực. Căn nhà đầu tiên bên phải là của đội trưởng Tiêu và đội phó Hoàng, bà Tiêu và bà Hoàng cãi vã suốt mười mấy năm trời, bởi vì hai nhà dùng chung một căn bếp. Thường xuyên vào giữa đêm khuya, từ gian bếp của nhà họ lại vọng ra tiếng nguyền chém thớt** chát chúa. Tiếng dao chém chan chát kèm theo những lời nguyền rủa ngoa ngoắt, vẳng trong gió lạnh, nghe mà rợn tóc gáy. Bà Tiêu vóc người to cao, giọng nói oang oang nên lúc nào cũng chiếm thế thượng phong. Bà Hoàng thì gầy teo tóp như quả dưa chuột kiệt nước, miệng móm tụt, mắt nhoèn nước, vẻ mặt héo hon, như thể đã bị bà Tiêu nguyền rủa tới mức muôn kiếp không thể siêu sinh. Có lẽ cuộc sống của nhà nào cũng cùng cực quá độ, nên nhà nào cũng chỉ vọng ra những tiếng oán than. Tôi còn nhớ, những năm tháng ấy, con ngõ của chúng tôi chẳng bao giờ được êm ả. Bên này vừa nguôi tiếng khóc, bên kia lại ồn lên tiếng chửi mắng quát tháo. Thế nhưng ngõ số 28 nơi chúng tôi sống vẫn cứ là một con ngõ cụt khiến người ta không dễ lãng quên, nó mang một thứ mùi mục nát đặc trưng, một vẻ xơ xác và hoang tàn đặc trưng. Rãnh nước lộ thiên ở hai bên con ngõ quanh năm nghẽn ứ những rau cỏ rữa nát, giẻ rách, que tre, lon sắt gỉ sét, dưới rãnh tù đọng nước bẩn đen quánh, cứ nắng chiếu xuống, lại nồng nặc bốc lên mùi hôi thối khủng khiếp, lẩn quất xoay vòng trong ngõ. Chính giữa con ngõ là cái thùng rác mở hoác miệng, nội dung lại càng phức tạp hơn nữa. Bên trên đống chất thải ngồn ngộn như núi thường xuyên vắt nghễu nghện một cái xác mèo bụng trương phềnh, con mắt lòi phè, răng nhe ra trắng ởn; không biết là nhà nào đánh bả, quăng ra đấy, cho nó từ từ thối rữa; bên trên xúm xít một bầy nhặng xanh mắt đỏ con nào con nấy to như đầu ngón tay, có người đi qua, lại vè vè bay túa đi, thế là trên cái xác xám ngoét của con mèo liền lộ ra cả ổ giòi nhung nhúc trắng hếu. Nền ngõ là đất vàng, chỉ một cơn mưa lớn, lập tức nhão nhoét và trơn nhẫy nhụa, chúng tôi bỏ chân trần, đi trên đó lép nha lép nhép, bàn chân bọc kín những bùn, sau đó lại tha theo đám bùn vàng quạch vào nhà. Nếu trời nắng lâu không mưa, gió thổi qua, bụi bay mù mịt khắp ngõ. Và trên những cây sào chĩa ra tua tủa qua đầu tường xói lở của mỗi hộ, những tã lót, quần lót, khăn trải giường, áo gối rách bươm xơ mướp cũng nhào lộn sôi nổi đến lạ trong gió bụi vàng khè.

* Kỳ Lân Đồng là nghệ danh của nghệ sĩ Kinh kịch Chu Tín Phương, ông là người sáng lập ra phái Kỳ trong nghệ thuật Kinh kịch.

** Nguyền chém thớt là một kiểu nguyền rủa độc địa thường thấy ở nông thôn thời xưa. Khi căm hận người nào đó mà không thể phát tiết, sẽ chuẩn bị một cái thớt và một con dao, vào sáng sớm hoặc ban đêm, khi cả xóm đều có nhà, cầm dao chém thật mạnh vào thớt, chém một câu chửi một câu, để nguyền rủa đối phương và phát tiết cơn giận dữ.

Nằm ở tận cùng ngõ cụt, căn nhà thấp lè tè xập xệ nhất, cũ kỹ nhất, tối tăm nhất chính là nhà của chúng tôi. Cơn bão Daisy đổ bộ năm kia đã tốc mất một góc mái nhà. Tôi và cha trải lên trên lỗ hổng một tấm vải dầu lớn màu đen để che chắn lại, rồi chặn lên rất nhiều gạch đỏ. Lúc mưa to, trong nhà vẫn bị dột, và thế là xô thiếc, chậu rửa mặt, đôi khi cả ống nhổ cũng bị trưng dụng, hứng nước khắp nơi. Nếu mưa suốt đêm không ngớt, trong nhà cũng lỏng tỏng tí tách đến tận sáng mai. Nhà của chúng tôi quá thấp, ánh nắng không chiếu vào nổi, nền xi măng trong nhà ướt nhẹp, giống như lúc nào cũng nhễ nhại mồ hôi, meo mốc cứ âm thầm lan khắp nhà quanh năm suốt tháng. Chỗ xanh, chỗ vàng, chỗ đen, loang lổ từng mảng, từ dưới chân tường lún phún leo lên, cứ thế tới tận trần nhà. Quần áo của chúng tôi lúc nào cũng sặc mùi mốc meo nhức mũi, giặt kiểu gì cũng không hết được.

Thế nhưng cha tôi lại nói, chúng tôi có được căn nhà này đã là may mắn lắm lắm. Năm Dân Quốc thứ 38 (Tức năm 1949), trung đoàn của cha tôi giao chiến với Bát lộ quân tại núi Đại Biệt, bị bao vây hơn một tuần lễ, viện binh không tới kịp, cha tôi bị bắt làm tù binh. Sau đó ông trốn thoát, chạy đến Đài Loan, bị cắt biên chế quân đội. May sao một chiến hữu năm xưa của cha tôi là giám đốc sở Hoàng Tử Vĩ đã nhờ cậy người quen, nên cha tôi mới được tạm thời cư ngụ tại căn hộ lụp xụp, rách nát này. Gần như chủ nhật nào, cha tôi cũng sang nhà chú Hoàng Tử Vĩ ở ngay con ngõ số 26 kế bên, lần nào đi cũng xách theo một chai rượu Hồng Lộ, một gói lạc rang muối; sau đó cùng chú Hoàng ngồi đối diện nhau, rót rượu ra bát, cứ anh một bát tôi một bát tì tì, miệng nhai lạc rang rôm rốp. Cha tôi vốn dĩ là người cục mịch vụng về, không khéo ăn nói, uống rượu vào, lại càng chẳng hé một lời. Ông lầm lì ngồi đó, mặt tím bầm, hai mắt đỏ ngầu, cứ thế tới tận khi mặt trời xế bóng, nhà cửa tối om, cha tôi mới đứng dậy, đặng hắng một tiếng, nói:

"Ồ, muộn quá rồi!"

"Ở lại ăn cơm nhé," chú Hoàng cũng đứng dậy.

"Hôm khác tôi lại đến."

Rồi chẳng đợi chú Hoàng đáp lời, cha tôi đã cất những bước chân quân nhân đã trải qua huấn luyện nghiêm ngặt, hiên ngang ra về. Ngực ông ưỡn ra một cách khoa trương, đầu ngẩng cao đến tức cười, đôi giày da cũ rích đã há cả mõm giậm trên nền đất, vọng lên những tiếng cồm cộp trống rỗng.

Nghe nói trước kia, cha tôi đã lập được chiến công khi đánh nhau với người Nhật Bản - chuyện này do chính ông kể cho chúng tôi nghe. Cứ nhắc đến trận Trường Sa* là đột nhiên ông lại thành ra thao thao bất tuyệt, bằng chất giọng đặc sệt thổ âm Tứ Xuyên, ông trọ trẹ tuôn ra hàng tràng những lời líu nhíu mà chúng tôi chỉ hiểu bập bõm câu được câu chăng. Trên khuôn mặt đen đúa chằng chịt nếp nhăn, phờ phạc chán chường của ông, vào khoảnh khắc ấy, bỗng bừng lên một niềm kiêu hãnh bất tận. Cha tôi kể, sau trận chiến đó, con sông ở ngoại ô Trường Sa nước nhuộm đỏ ngầu, thanh mã tấu của ông chém đầu người Nhật nhiều đến nỗi quắn cả lưỡi. Trên nóc tủ trong phòng ông còn bày bức ảnh ông đóng bộ quân phục, đeo chéo dây da, đi đôi ủng cao cổ, trên tay nâng cái mũ sắt của lính Nhật lỗ chỗ vết đạn, nét mặt toát lên vẻ ngạo nghễ của người chiến thắng. Bức ảnh được chụp ngay trên chiến trường tại ngoại ô Trường Sa, mặt đất còn ngổn ngang xác lính. Lúc ấy, cha tôi mới thăng chức trung đoàn trưởng, vẫn chưa được nhận huân chương. Trên đầu giường cha tôi có một cái hộp nhỏ xíu bằng gỗ hồng điều, khóa chặt bởi một ổ khóa đồng, trong đó cất giữ tấm huân chương Bảo Đỉnh hạng hai của cha tôi. Cái năm tôi thi đỗ vào trường trung học Dục Đức, một hôm, cha tôi gọi tôi vào phòng, hết sức trịnh trọng nâng hộp gỗ hồng điều từ đầu giường lên mặt bàn, cẩn thận mở ra, bên trong là tấm huân chương hình ngôi sao năm cánh bằng đồng đỏ mạ vàng, chính giữa khảm hình chiếc đỉnh bằng men sứ hai màu xanh trắng. Lớp mạ vàng đã xỉn đen, trong những rãnh khắc hoa văn nơi lớp mạ vàng tróc lở, đã sủi lên gỉ đồng xanh lấm tấm. Sợi dây lụa ba màu đỏ, lam, trắng thắt ở phía trên cũng đã ố vàng. Cha tôi chỉ vào tấm huân chương, nói với tôi:

* Trận Trường Sa, tức trận Trường Sa lần ba, một chiến dịch quan trọng trong thời kỳ chiến tranh kháng Nhật của Trung Quốc, diễn ra từ 24/12/1941 đến 16/1/1942 tại thành phố Trường Sa thủ phủ tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, bắt nguồn từ việc quân Nhật Bản tấn công Trường Sa. Quân Quốc Dân đảng đã kiên cường phòng ngự phản công, cuối cùng quân Nhật thảm bại, phải rút khỏi Trường Sa.

"Thanh này, cha muốn con nhớ cho thật kỹ, cha của con đã từng được nhận huân chương."

Tôi thấy tấm huân chương thật đẹp, bèn đưa tay định cầm, nhưng cha tôi lập tức chặn tay tôi lại, chau mày nói:

"Đứng nghiêm! Đứng nghiêm!"

Đợi tôi đứng nghiêm trang, hai tay ép sát vào hai đường may bên quần, cha tôi mới nhấc tấm huân chương lên, cài vào ngực áo đồng phục học sinh của tôi, sau đó ông cũng đứng nghiêm, hô vang khẩu lệnh:

"Chào!"

Tôi vô thức giơ vội bàn tay lên trước trán, làm động tác chào kiểu nhà binh với cha tôi. Suýt chút nữa thì tôi đã phì cười thành tiếng, nhưng nhìn thấy sắc mặt cha tôi nghiêm nghị quá, trông rất trịnh trọng, đành phải cố nhịn. Cha tôi nói, đợi đến khi tôi tốt nghiệp trung học, sẽ chính thức trao lại tấm huân chương Bảo Đỉnh cho tôi. Ông một lòng hy vọng, đến khi tôi tốt nghiệp, sẽ được tuyển thẳng vào trường Sĩ quan Lục quân Phượng Sơn, tiếp nối chí nguyện của ông.

Cha tôi cả đời theo nghiệp quân nhân, ngoài xung phong ra trận, ông chẳng biết làm gì khác, nên tìm việc hết sức khó khăn. Vẫn là nhờ chú Hoàng ra mặt, mới chen chân được vào một hợp tác xã tín dụng liên doanh, đeo cái mác cố vấn hão, lương tháng ba nghìn Đài tệ. Trong cơ quan, ông không có nổi một cái bàn làm việc, thực ra cũng không cần thiết phải ngày ngày đi làm. Thế nhưng hằng ngày, cha tôi vẫn mặc bộ đồ Tôn Trung Sơn duy nhất trông còn tàm tạm bằng vải Serge màu xanh chàm, nách kẹp chiếc ca táp đen đã cũ sờn bạc phếch mà khóá chỉ kéo được một nửa, hết ra lại vào, cất những bước chân quân nhân cứng nhắc, vội vã chạy đi bắt xe bus. Cha tôi đã đoạn tuyệt quan hệ với toàn bộ các đồng đội cũ. Một lần, có hai người là cấp dưới của cha tôi năm xưa tìm đến nhà thăm ông, cha tôi đang mặc quần đùi, nấp trong nhà vệ sinh, thì thào ra lệnh cho tôi qua cánh cửa:

"Mau ra nói với họ, cha không có nhà!"

Chính trong gian phòng khách ẩm thấp, nồng nực, quanh năm sặc sụa mùi ẩm mốc của nhà chúng tôi, cha tôi ngồi lì trên cái ghế tựa bằng trúc đã lên nước bóng loáng, cởi trần, mồ hôi ròng ròng, đeo cặp kính lão, dưới ánh đèn tù mù trong phòng khách, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, lật giở một cuốn Tam Quốc diễn nghĩa do thư cục Quảng Ích Thượng Hải xuất bản đã sờn giấy đứt chỉ từ lâu. Có năm Đài Bắc động đất, gạch ngói trên nóc nhà rơi xuống lả tả, chúng tôi sợ hãi chạy lao ra ngõ. Đến khi chúng tôi quay trở về nhà, thấy cha tôi vẫn ngồi thừng thững trên cái ghế trúc trong phòng khách, trong tay cầm khư khư cuốn Tam Quốc diễn nghĩa của ông, ngọn đèn treo trên đầu chao đảo dữ dội y như con lắc đồng hồ.

Trong lúc cha tôi ngồi lì trong phòng khách nghiền ngẫm chân lý "phân lâu ắt hợp, hợp lâu ắt phân" của cục thế thiên hạ, thì mẹ tôi một mình trong khoảnh sân bên ngoài phòng khách, ngồi xổm dưới đất, khom lưng cắm cúi vò giũ cả núi quần áo, khăn trải giường chất cao ngồn ngộn như không bao giờ hết. Để thêm thắt chút thu nhập, ngày nào mẹ tôi cũng đi gom nhặt cả đống khăn trải giường và quần áo nhà người ta mang về giặt. Mẹ tôi quanh năm suốt tháng vùi mặt trong đống quần áo bẩn, lưng cúi rạp, cật lực vò, hì hục giũ, hai bàn tay ngâm trong nước xà phòng lúc nào cũng đỏ tấy. Mẹ tôi ngồi xổm dưới đất, vén cao váy, để lộ cặp đùi nhỏ bé trắng xanh, mái tóc dài đen nhánh buộc thành một bím dày nặng, vắt vẻo sau lưng. Đôi lúc, mẹ vừa vò giũ, vừa say sưa ngâm nga những khúc dân ca Đài Loan, giặt được một hồi, mẹ bỗng ngửa mặt, nhíu chặt đôi mày, bật lên tiếng hát cao vút:


Á... a... thành phố nhỏ bị lãng quên...

Đêm trăng quạnh quẽ ...


Tiếng hát của mẹ tôi cất lên thật cao, lảnh lót, run rẩy, nghe mà sởn gai ốc, còn buồn thảm hơn cả giọng hát của cô đào bi Bạch Oanh trong phim Thành phố buồn*.

* Tức A City of Sadness, bộ phim điện ảnh của Đài Loan công chiếu năm 1989, nói về một chủ đề cấm kỵ thời bấy giờ là cuộc trấn áp và tàn sát của chính quyền Tưởng Giới Thạch đối với người dân bản xứ Đài Loan ngày 28 tháng 2, là bộ phim Hoa ngữ đầu tiên đạt giải Sư tử vàng tại liên hoan phim Venica năm 1989.

Xuất thân và lý lịch của mẹ tôi hết sức mập mờ. Nghe nói bà là con gái nuôi của một nhà chăn vịt ở vùng quê Đào Viên, bố nuôi là một tay nát rượu, hành hạ đủ điều, may mà mẹ nuôi còn thương nên cũng bớt được bao nhiêu cực nhục. Thế nhưng có một ngày, một lưỡi liềm bay ra từ tay ông bố nuôi đã hớt mất mảng da trên trán mẹ tôi, thế là mẹ tôi bỏ nhà ra đi, chạy đến Trung Lịch, vào làm tiếp viên trong một phòng trà mạt hạng gần doanh trại của quân đoàn 1. Trong khoảng thời gian đấy, tư cách của mẹ tôi hẳn cũng không đoan chính gì cho cam, thường xuyên có chuyện nhập nhằng với mấy ông quân nhân trong quân đoàn 1. Có lần, hai ông thiếu uý vì mẹ tôi mà tranh giành ghen tuông, rồi thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau, suýt nữa thì gây án mạng. Sự việc thành ra ầm ĩ, mẹ tôi không trụ được ở Trung Lịch nữa, mới đến Đài Bắc đi ở cho nhà người ta. Khi cô Hoàng mang thai, đã mướn mẹ tôi đến giúp việc một thời gian, và thế là quen biết với cha tôi. Năm đó cha tôi bốn mươi lăm tuổi, mẹ tôi mới mười chín. Mỗi lần nhắc đến chuyện này, cô Hoàng đều bụm miệng cười:

"Cô bảo mẹ chúng mày mang trứng đỏ* sang biếu, nào ngờ cha chúng mày lấy trứng đã đành, còn lấy luôn cả người!"

* Phong tục của người Hoa ở Đài Loan, khi con đầy tháng sẽ mang trứng luộc nhuộm đỏ đi tặng người thân, bạn bè để chia vui.

Mẹ tôi hồi trẻ chắc hắn cũng là một cô gái mặn mà quyến rũ. Vóc dáng mẹ mảnh mai uyển chuyển, vòng eo thon thả, mái tóc dài dày mướt, óng ả như tấm nhiễu đen chảy dài trên lưng. Khuôn mặt mẹ tôi nhỏ nhắn bầu bĩnh với làn da trắng muốt, miệng nhỏ chúm chím, khoé môi cong lên, đầy vẻ thơ trẻ, giống như một thiếu nữ không bao giờ lớn nổi. Thế nhưng trong đôi mắt rất to và trũng sâu của bà, đôi con ngươi đen lay láy lúc nào cũng hớt hải như hai con nai tơ kinh hãi, cuống quýt trốn chạy, tràn đầy hoang mang và hoảng hốt. Thi thoảng, mẹ tôi đột nhiên chau tít đôi mày, cặp mắt to bỗng rực lên như hai ngọn lửa đen nhánh, như thể một bầu oán hận chất chứa trong lòng bất chợt cháy bùng.

Mẹ đứng bên cha tôi, chỉ cao đến vai ông, hai người đi trên phố, cha tôi ngẩng đầu ưỡn ngực, cứ như đang duyệt binh, sải từng bước thật dài, mẹ tôi đi sau ông, bước líu ríu đuổi theo, liên tục ngoảnh nhìn sang hai phía. Một người đàn ông đứng tuổi, già nua phờ phạc với mớ tóc bạc dựng đứng trên đầu, bám theo sau lại là một cô gái trẻ măng với khuôn mặt bầu bĩnh, điệu bộ hoang mang hớt hải - hai người họ là đôi chồng già vợ trẻ cộc lệch nhất trong con ngõ của chúng tôi, đi bên cạnh nhau trông hết sức tức cười.

Và cha tôi có lẽ cũng đã từng say đắm mẹ tôi, có điều cách thể hiện của ông lại quá ư bạo liệt. Có một lần, mẹ tôi đứng trước cửa cười đùa với một gã bán rau, bà cầm cây củ cải đập vào bộ ngực phanh trần của gã trai trẻ, gã bèn thừa cơ véo vào tay mẹ tôi một cái. Vừa hay cha tôi nhìn thấy, sau khi vào nhà, ông chẳng nói chẳng rằng, lập tức rút phắt cây roi mây dựng sau cánh cửa, rồi "vút, vút, vút", quật thẳng cánh lên lưng mẹ tôi liền ba cái. Mẹ tôi ngã nhào xuống đất, tấm thân mảnh dẻ co rúm lại, đôi vai giật lên bần bật, hai cẳng chân nhỏ trắng xanh đạp giãy lia lịa. Cái dáng vẻ của mẹ tôi lúc nằm dưới đất khiến tôi liên tưởng tới con gà mái tơ bị giết hồi Tết, cổ họng bị cứa ngang, nằm ệp dưới đất, đôi chân co giật đành đạch trong cơn giãy giụa hấp hối, bộ lông trắng muốt lấm tấm những chấm máu đỏ tươi. Mẹ tôi nằm dưới đất, không khóc lóc, cũng chẳng kêu gào, khuôn mặt tái xanh tái mét, đôi môi nhỏ mím thật chặt. Đôi mắt to của bà nhìn trân trân vào cha tôi, cứ như sắp nhảy ra ngoài.

Ngày hôm sau, mẹ tôi nằm lì không dậy. Cha tôi về nhà, mang theo một cái hộp bọc giấy hoa, đặt nhanh xuống đầu giường mẹ tôi rồi vội vã quay người đi ra luôn. Trong hộp là một chiếc váy mới tinh bằng vải linen mịn, nền xanh vỏ đỗ in những đóa thược dược lớn đỏ rực. Mẹ tôi trở dậy, thay váy mới, đứng trước gương ngắm trước ngắm sau. Thế nhưng trên phần gáy và lưng lộ ra ngoài lại vắt chéo hai vết roi to bằng ngón tay, sưng tấy và tím bầm, hệt như hai con rắn đang bò vắt vẻo trên tấm lưng trắng muốt.

Vào năm tôi tám tuổi, một ngày, mẹ bỗng dưng mất tích. Mẹ mang theo toàn bộ quần áo, cả bộ váy hoa cha tôi đã mua cho. Mẹ chạy theo một tay kèn trumpet trong đoàn ca vũ kịch Tiểu Đông Bảo, bỏ nhà theo trai. Mẹ tôi cũng tham gia vào đoàn ca vũ kịch của họ, lưu diễn khắp Đài Loan. Ký túc xá của đoàn ca vũ kịch Tiểu Đông Bảo vốn đặt ở đường Trường Xuân, mẹ tôi thường tới đó nhận trang phục của diễn viên về giặt. Có một lần, tôi đi ngang qua ký túc xá của họ, nhìn thấy mẹ tôi đang vui vẻ ca hát cùng đám diễn viên ở đấy. Tay kèn trumpet là một gã thanh niên chừng hai chục tuổi, mặc bộ đồng phục đỏ thẫm từ đầu đến chân, trước ngực có hai dãy khuy đồng vàng choé, cửa tay áo viền hai đường nẹp vàng kim rộng bản, đầu đội lệch chiếc mũ trắng viền vàng, để lộ hai mai tóc đen nhức bóng mượt. Hai tay gã nâng cây kèn trumpet bằng đồng sáng choang, người ngửa về sau, thổi một cách hết sức khoa trương. Mẹ tôi bị vây giữa một đám đông nữ diễn viên, cười ríu rít cùng hát bài Ngóng gió xuân. Trên đầu mẹ cũng đội lệch một chiếc mũ đàn ông màu trắng viền vàng, tôi chưa bao giờ thấy mẹ cười vui vẻ đến thế.

Cái đêm hôm mẹ tôi bỏ nhà ra đi, cha tôi nắm trong tay khẩu súng lục tự vệ mà ông đã dùng hồi còn làm trung đoàn trưởng ở đại lục, vung vẩy doạ dẫm, chạy ra khỏi nhà, nói rằng sẽ đi bắn chết đôi gian phu dâm phụ. Thế nhưng nửa đêm ông về nhà, say bí tỉ đến nỗi đi không vững, ông gọi tôi và Nhóc Em lại, ấm ớ giáo huấn chúng tôi một tràng giang đại hải những lời mà chúng tôi chẳng mấy hiểu, rồi đến cuối cùng, ông bỗng bật khóc thất thanh, nước mắt trào ra giàn giụa trên khuôn mặt già nua phờ phạc chằng chịt nếp nhăn - đó là khuôn mặt khủng khiếp nhất, đớn đau nhất mà tôi từng nhìn thấy. Nhóc Em sợ quá khóc ầm lên, còn tôi cảm thấy khắp người chân lông dựng ngược, rùng mình lạnh toát.

Mẹ bỏ đi, dường như tôi không thấy quá buồn. Có lẽ vì từ nhỏ mẹ đã ghét bỏ tôi, nên đối với mẹ, tôi chỉ thấy sợ hãi chứ không gần gũi. Khi mẹ sinh tôi, con so nên đẻ khó, tử cung băng huyết, suýt nữa thì mất mạng. Bởi vậy, mẹ đổ riệt cho tôi là oan gia kiếp trước, kiếp này đến đầu thai để đòi mạng mình. Mẹ thường đưa ngón tay cái di trên trán tôi, nói:

"Bé Đen, đừng có chau mày, trẻ con mà có nếp nhăn trên trán không hay đâu, xui lắm."

Mẹ tôi gọi tôi là Bé Đen, gọi Nhóc Em là Bé Trắng. Tôi giống cha, cao lớn ngăm đen, còn Nhóc Em giống mẹ tôi như lột. Người nó trắng bóc, khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt to đen lay láy, cứ như đi mượn của mẹ tôi vậy, chỉ có điều không mang vẻ ai oán như trong mắt mẹ tôi, cứ chớp chớp liên hồi như đang nở nụ cười thơ ngây. Mẹ kể, khi mẹ mang thai Nhóc Em, nằm mơ thấy Tống Tử Quan Âm, Nhóc Em là do Quan Âm tận tay ban cho mẹ, nên mới giống mẹ đến vậy. Mẹ tôi tự tay may cho Nhóc Em bộ quần áo bằng lụa đỏ rực, đeo lên cổ nó cái kiềng bằng đồng niken mạ bạc treo mười hai chiếc lục lạc nhỏ xíu hình mười hai con giáp, Nhóc Em bò khắp nhà, lục lạc rồng rắn hổ gà đua nhau reo lanh canh, mẹ tôi thích lắm, bế bổng Nhóc Em lên ôm ghì vào lòng, hôn hít từ đỉnh đầu cho tới tận hai bắp chân mập mạp tròn lẳn, khiến Nhóc Em tay huơ chân giãy cười khanh khách mãi không thôi.

Có một hôm, mẹ tôi tắm cho Nhóc Em trong sân, mẹ cầm bánh xà phòng thơm đàn hương của mình xoa bọt trắng lên khắp người Nhóc Em, mẹ ngồi bên chậu gỗ, lưng cúi lom khom, mái tóc dài đen mướt chảy tràn xuống tận đầu gối, vừa khum hai tay vốc nước xối lên cơ thể mũm mĩm trắng bóc của Nhóc Em, vừa dịu dàng hát khẽ bài Hoa nhài tháng Sáu. Nhóc Em cười, mẹ tôi cũng cười, tiếng cười vui vẻ giòn tan của hai mẹ con ngân vang trong nắng vàng rực rỡ. Đợi mẹ đi vào nhà lấy khăn bông, tôi bèn tiến lại gần, đứng bên chậu gỗ, đúng lúc Nhóc Em cười tít mắt vươn hai tay về phía tôi, tôi liền túm ngay lấy tay nó, hậm hực cắn thẳng xuống thịt da non nớt trắng phau của nó tám vệt răng tím đỏ. Mẹ tôi chạy ra, vung cái kìm gắp than quật thẳng vào đầu gối tôi bầm đen, sưng tấy, mấy ngày sau vẫn phải đi cà nhắc. Tôi nhìn xuống đầu gối tím bầm sưng húp, rỉ máu đặc quánh, trong lòng chỉ thấy hả hê vì đã trả được thù, tôi không khóc, cũng không van xin. Sau lần đó, mẹ tôi lại càng ghét tôi hơn, nói rằng tôi dứt khoát là Ngũ Quỷ đầu thai.

Thế nhưng mẹ tôi bỏ đi rồi, tôi và Nhóc Em lại trở nên vô cùng thân thiết. Nhóc Em trước nay luôn ngủ cùng mẹ, cái hôm mẹ tôi bỏ đi, đêm đến, Nhóc Em chạy sang phòng tôi, leo lên giường tôi, rúc thật sâu vào trong lòng tôi, có lẽ nó thấy sợ hãi. Đêm đó, tôi cũng rất mệt mỏi, bèn ôm lấy nó, bắt chước mẹ tôi, vỗ khe khẽ lên lưng nó, rồi cùng ngủ thiếp đi.

Sau khi mẹ bỏ đi, tôi chỉ gặp lại mẹ đúng một lần. Đó là khi mẹ bỏ đi đã bốn năm rồi, tôi vừa mới vào cấp hai. Đoàn ca vũ kịch Tiểu Đông Bảo quay lại Đài Bắc, biểu diễn ở rạp hát Mỹ Lệ Hoa tại thị trấn Tam Trùng. Tôi lén lút dẫn theo Nhóc Em đi xe bus qua cầu Đài Bắc đến thị trấn Tam Trùng. Rạp hát Mỹ Lệ Hoa vốn dĩ chuyên biểu diễn hý kịch Đài Loan, nằm trong một con ngõ trên đường Trùng Tân, rạp hát chỉ là một căn lều lớn quây bằng gỗ ép, cửa ra vào buông rủ hai tấm rèm bằng vải hoa, trên vách tường dán chi chít những tờ quảng cáo màu mè "màn khiêu vũ sôi động của đoàn ca vũ kịch Tiểu Đông Bảo", in hình những cô vũ nữ đùi vếu hở hang. Một người đàn ông đội mũ giấy hoa hoè đứng trước cửa vào, tay cầm loa, hô lên ông ổng: "Diễn viên xinh tươi! Tiết mục hấp dẫn!" Tôi dẫn Nhóc Em đi mua hai tấm vé, chen vào trong rạp, bên trong đen đặc những người, gần như đã kín chỗ, ồn ào như chợ vỡ. Nền rạp hát được láng xi măng, ngập ngụa vỏ hoa quả, vỏ hạt dưa, đầu mẩu thuốc, vỏ lon nước ngọt. Chỗ ngồi là những dãy ghế băng dài không có lưng tựa, người ken chật ních. Khán giả hầu hết đều là đàn ông, nhiều người cởi trần trùng trục, phơi nửa thân người nhễ nhại mồ hôi. Phần lớn người xem đều mang guốc mộc, vừa ngồi xuống liền hất luôn guốc đi, gác bàn chân trần lên mặt ghế. Không khí trong rạp ngầu đục, hầm hập mùi mồ hôi chua loét và mùi chân thối hoắc. Tôi và Nhóc Em chen được vào một chiếc ghế băng kê ở ngoài cùng bên cánh trái, ngồi xuống đó. Trên sân khấu treo tấm phông màu nâu đỏ cũ rích, một dãy đèn chiếu từ dưới sàn hắt ngược lên khiến cả sân khấu sáng choang. Ngồi bên cánh phải sân khấu là đội nhạc của đoàn ca vũ kịch, có năm người, đều mặc bộ đồng phục áo quần đỏ sẫm khuy đồng nẹp vàng của họ, miệt mài kẻ gõ người thổi, ồn ã như tiếng trống tây kèn tây trong những phiên đấu giá trong chợ Vạn Hoa. Tôi nhận ra tay kèn trumpet đã đưa mẹ tôi bỏ trốn khỏi nhà trước kia đang ngồi ở vị trí thứ hai hàng đầu tiên trong đội nhạc. Gã ngửa cổ, phồng mang, mắt trợn trừng, thổi trông có vẻ hãnh diện lắm, cây kèn trumpet trong tay bắt ánh đèn lấp lánh. Hắn không đội mũ, mái tóc chải bốc lên trông rất ngạo nghễ, đen nhầy nhẫy. Người chủ trò cầm micro bước ra chào hỏi mở màn, cợt nhả mấy câu chọc cười, dưới khán đài liền rộ lên một tràng huýt sáo, rồi đột ngột, từ sau cánh gà chạy vụt ra sáu cô vũ nữ. Họ đều mặc váy hồng ngắn cũn cỡn, đùi vếu trắng nõn phơi hết ra ngoài, trên đầu ai cũng mang chuỗi hạt vòng màu vàng kim lóng lánh, hai cổ tay đeo đầy vòng xuyến rực rỡ. Sau khi ra sân khấu, họ đứng sánh vai nhau thành một hàng ngang, đợi đội nhạc đổi sang điệu khác, họ mới bất chợt vung một cánh tay, chỉ xuống khán đài, đồng thanh cất giọng hát lảnh lót:


Thiếu nữ đảo ngọc xinh đẹp quá...


Khán giả bên dưới lại càng thêm phấn khích, đua nhau hét toáng lên: "Nhảy! Nhảy! Nhảy đi!" Đội nhạc thổi gõ càng thêm sôi động, thế là các vũ nữ trên sân khấu liền khoác vai nhau, dàn ngang đội hình, bắt đầu đá chân thật cao, mở màn cho điệu vũ. Họ vừa đá chân vừa hát, vòng tay va vào nhau lanh canh. Đám đàn ông dưới sân khấu, kẻ thì vỗ tay, kẻ thì reo hò. Tay chủ trò lăm lăm micro, cũng hét lên ầm ĩ: "Hầy! Hầy! Hầy!" Giống như đang cổ động cho đám vũ nữ.

Chỗ ngồi của tôi và Nhóc Em ở tận ngoài rìa, nhìn không được rõ. Tôi đứng dậy, ngó nghiêng mãi hồi lâu, mới thình linh nhận ra, vũ nữ đầu tiên bên tay trái chính là mẹ tôi. Cả sáu người họ đều trát lên mặt những mảng son lớn đỏ rực, mắt và lông mày chỗ tím chỗ xanh, mặt mũi tô vẽ giống hệt như nhau, rất khó phân biệt. Mẹ tôi giờ đã ngoài ba mươi, nhưng vì thân hình nhỏ nhắn, lại ăn vận tô vẽ thế này, nên trông cứ như thiếu nữ mười tám mười chín. Mẹ còn nhỏ bé hơn tất cả những vũ nữ còn lại, mỗi nhịp đá chân đều chậm hơn họ chút xíu. Mẹ luôn hé mở đôi môi tô son đỏ chót, để lộ hàm răng trắng muốt, làm ra vẻ tươi cười. Thế nhưng đôi mắt to của mẹ vẫn cứ hớt hải chớp liên hồi, trông hết sức hoang mang và khổ sở. Tôi bảo Nhóc Em, mẹ đang nhảy trên kia kìa, Nhóc Em cuống quýt trèo hẳn lên ghế, tìm kiếm chốc lát, rồi đột nhiên, nó hét lên thật lớn: "Mẹ ơi!"

Rồi cứ thế đứng trên ghế băng khóc oà.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com