Cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế trong thơ Tràng Giang - Huy Cận.
Câu 4. Cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận.
Đến với tác phẩm Tràng giang, Huy Cận đã cho người đọc cảm nhận được một khung cảnh thiên nhiên mênh mông, thiếu vắng bóng người cũng như tâm trạng đượm buồn của tác giả. Một trong những đặc điểm nổi bật của thơ Huy Cận trước Cách mạng là cảm hứng thiên nhiên vũ trụ và nỗi sầu nhân thế. Hai đặc điểm này được thể hiện một cách đặc sắc trong bài thơ Tràng Giang. Có thể nói, Huy Cận đã rất thành công khi khơi gợi nỗi cô đơn, cảm giác lạc lõng chơi vơi của con người giữa dòng đời rộng lớn.
Bài thơ được sáng tác năm 1939, in lần đầu tiên trên báo "ngày nay", sau đó in trong tập "Lửa thiêng" – tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ mới thời kì đầu.
Ngay ở câu đề từ của tác phẩm, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ.
"Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi mội cành khô lạc mấy dòng."
Đứng trước cảnh mênh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên. Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Qua các từ gợn, "buồn điệp điệp", "nước song song", "sầu trăm ngả", "lạc mấy dòng", nỗi buồn càng trải sài, lan rộng ra khắp mặt sông. ở đây tuy có sự vật nhưng mọi thứ lại chẳng hề gắn kết. Thuyền và nước vốn là hai thứ không tác rời, vậy mà ở đây thuyền lại về, nước lại khiến nỗi sầu, nỗi buồn như chia ra thành trăm ngả. Tuy nhiên điểm nhấn rõ nét nhất của khổ thơ chính là hình ảnh "củi một cành khô". Sự vật vốn đã chẳng còn sức sống, lại nổi trôi vô định trên dòng sông, đây chính là nét hiện đại giúp khắc họa nỗi buồn của khổ thơ. Mà hơn đó, cảnh củi khô lạc mấy dòng không chỉ dừng lại ở nỗi buồn, ở nó còn hiện hữu cả nỗi cô đơn. Phải chẳng đó là sự hiện thân cho kiếp người nhỏ bé, lênh đênh, bất định giữa dòng đời chính tác giả?
Đến khổ thơ thứ hai, điểm nhìn của nhân vật trữ tình đã xa hơn, khung cảnh trên sông được hướng vào chiếc cồn nhỏ, vào bầu trời và khắp cả dòng sông.
Lơ thơ cồn nhỏ gióp đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu
Lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh "cồn, gió, làng, chợ, bến" để giãi bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vậy trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được.
"Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều"
Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan của mình đến một điểm mới.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu
Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vô tận.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bèo trôi không biết dạt về đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thoát được nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ "đùn" cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là "núi bạc". Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nổi buồn của ông, giống như nổi buồn của ông tích tụ như núi cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tác giả đã dùng tự láy "dợn dợn" để diễn tã những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra tích tắt cho thấy nổi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi.
Dễ nhận thấy trong Tràng giang là một thiên nhiên cổ kính, hoang sơ mở ra đến vô tận theo khắp các chiều không gian: "Nắng xuống, trời lên sâu chót vót – Sông dài, trời rộng, bến cô liêu". Ở đó vừa có những hình ảnh bao la, hùng vĩ với "mây cao đùn núi bạc", "bóng chiều sa" lại vừa có những hình ảnh nhỏ bé, lẻ loi, bơ vơ trước tạo vật vô cùng hoặc mất hút giữa thiên nhiên vô tận "lơ thơ cồn nhỏ", "bèo dạt về đâu", "chim nghiêng cánh nhỏ", "củi một cành khô",... Vũ trụ trong Tràng giang không chỉ mở ra theo chiều kích không gian mà còn in đậm dấu ấn thời gian – một dòng tràng giang như chảy về từ quá khứ, một cảnh sắc thiên nhiên hoang dại như gợi nhắc về một thời tiền sử với "Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng – Mênh mông không một chuyến đò ngang – Không cầu gợi chút niềm thân mật – Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng", trống vắng đến vô cùng.
Bài thơ bộc lộ nỗi buồn, sự cô đơn của những thân kiếp nhỏ nhoi giữa dòng đời, trước cái mênh mông của không gian vũ trụ. Nỗi niềm ấy gửi vào hình ảnh cành củi khô, cánh bèo, bến cô liêu, cánh chim chiều bé nhỏ,... giữa mênh mang trời đất. Ẩn sâu trong nỗi bơ vơ của một thân phận trước trời nước mênh mông, hiu quạnh có tâm trạng bơ vơ của một người dân vong quốc và niềm thiết tha đối với thiên nhiên tạo vật cũng là niềm thiết tha với giang sơn, Tổ quốc. Đó cũng là tâm trạng chung của cả một thế hệ trí thức, văn nghệ sĩ thời bấy giờ.
Cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế tạo nên một dấu ấn riêng độc đáo của thơ Huy Cận trước Cách mạng, thể hiện qua những sáng tạo nghệ thuật vừa gợi về âm vang của Đường thi, lại vừa gửi gắm những tâm tư của một thế hệ mới trong một thời đại mới. Không gian nghệ thuật thơ Huy Cận là cả một thế giới bên trong sâu lắng, bàng bạc mông mênh cảm xúc. Lấy cảm hứng từ vũ trụ thiên nhiên, thơ Huy Cận là cõi bao la trong nỗi buồn mênh mang, là sự cảm nhận thân phận bé nhỏ cô độc của con người trước vũ trụ, là cái hữu hạn đời người trước vô tận của đất trời.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com