Từ 201 Đến 210
Chương 201: Kẻ Ác Rục Rịch
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
"Oanh Nhi... Dù sao đi chăng nữa thì vẫn là thê tử của mình, nàng ta sẽ không phá dỡ bệ đứng của mình. Hoắc ngũ thúc túc trí đa mưu, biết cái gì thì nên nói cái gì thì không nên nói. Nhưng mấy cái tên thẳng như ruột ngựa này thì phải xử lí thế nào đây? Bảo bọn chúng giúp mình lừa gạt người khác à? Những lời như vậy biết mở miệng nói như thế nào đây?"
Dương Hổ lặng lẽ bước đi, ngước nhìn những ngôi sao lạnh lẽo trên bầu trời xa xa, đầu óc xoay vần mấy bận, vẻ âm u trong mắt dần ngưng lại thành một đường. Hắn siết chặt nắm đấm, ý nghĩ từng thoáng qua trong đầu nay lại trở về, cắn lấy tim hắn như một con rắn độc, từng chút từng chút một tiết nọc độc vào lòng hắn: "Kẻ làm nên đại sự không được câu nệ tiểu tiết! Bậc đại trượng phu không thể không nhẫn tâm!"
Nghe xong một hồi đối đáp giữa y và viên thị vệ nọ, đám người Dương Nhất Thanh chấn động toàn thân, hết nhìn bà lão có dung mạo tầm thường nọ lại nhìn sang Dương Lăng, đầy vẻ kinh ngạc lẫn nghi ngờ khó tin.
Bà lão nghe thị vệ nọ chuyển lời xong, khinh miệt lầm bầm mấy câu bằng tiếng Mông Cổ, nhưng liền tỉnh ngộ đã lỡ lời, bèn trừng to cặp mắt già nua nhìn Dương Lăng chằm chằm.
Khi thấy viên thị vệ nọ quay đầu nói với viên tướng lĩnh trẻ tuổi có khí chất trầm tĩnh đó mấy câu tiếng Hán, rồi trên khuôn mặt y hiện lên nụ cười đắc ý và rạng rỡ thì Mãn Đô Hải liền hiểu rằng mình nhất thời không cẩn thận suy xét kỹ nên đã bị y khéo dùng lời lừa gạt mà vạch trần được lai lịch thật sự của mình rôi.
Bà lão ngồi bệt xuống giường như một quả bóng xì hơi, liền đó lại ngước đầu lên nói to mấy câu, thị vệ quay đầu lại báo với Dương Lăng:
- Đại nhân! Bà ta nói đại nhân đừng uổng phí tâm cơ nữa, chúng ta không thể dùng bà ta để uy hiếp được ai đâu. Sinh mạng là do Phật Tổ ban cho, bà ta tuy quý nó, nhưng vì thảo nguyên đại mạc, bà ta có thể hy sinh bản thân bất cứ lúc nào.
Dương Lăng mỉm cười, trịnh trọng nói với Mãn Đô Hải:
- Đứng về phương diện cá nhân, ta rất khâm phục Hoàng hậu bệ hạ vì đại mạc mà sẵn sàng trả mọi giá. Bệ hạ yêu quý tính mạng người Mông Cổ, nhưng tính mạng người Hán cũng trân quý như vậy! Chúng ta tuyệt không phải là dê bò gà chim trong mắt các vị!
Thị vệ quay người dịch lại, trong lúc đó Dương Lăng quay sang bảo với thủ lĩnh thị vệ:
- Trông chừng bà ta! Bà lão này là một nhân vật hết sức quan trọngcác người không được rời mắt khỏi bà ta!
Tuy viên thủ lĩnh thị vệ không biết Dương Lăng là khâm sa, nhưng thấy Dương Lăng ra lệnh thẳng cho mình mà đại tướng quân tổng chế tam quan vẫn đứng một bên mà không nói gì, liền biết ngay rằng người này ắt hẳn là một vị quan lớn có phẩm hàm cao lắm. Hắn bèn vội khép na khép nép dạ một tiếng, rồi gọi mấy tay thị vệ vào trong phòng trông chừng mọi cử động của bà lão.
Dương Lăng cùng đám người Dương Nhất Thanh đi xuống lầu. Vừa xuống dưới lầu, Dương Nhất Thanh liền không nhịn được, hỏi ngay:
- Dương xưởng đốc! Bà lão này chính là... chính là Mãn Đô Hải hoàng hậu của Bá Nhan Khả Hãn ư? Không phải trên thảo nguyên có truyền thuyết nói rằng bà ấy đã bị bệnh qua đời rồi sao?
Dương Lăng cười đáp:
- Bà ta không phải là nhân vật trong truyền thuyết, thì việc sống hay chết của bà ta cần gì phải liên quan đến truyền thuyết? Đã là truyền thuyết thì ắt không phải là chuyện thật rồi.
Đỗ Nhân Quốc vỗ trán kinh ngạc thốt:
- Dương khâm sai thực lợi hại! Ti chức bị Khả Đôn này đến Khả Đôn nọ đôn đến lùng bùng cả tai, mất cả phương hướng, nghĩ đến tét đầu cũng không nghĩ ra bà ta là Mãn Đô Hải hiển hách một thời.
Người phụ nữ này thực là lợi hại, năm xưa dẫn thằng nhóc Khả Hãn mới tám tuổi chinh phạt Ngoã Thích, đánh Ngoã Thích đại bại tại Tháp Bác Nhĩ Đồ, ra lệnh Ngoã Thích từ đó trở đi không được gọi nhà cửa là cung điện, mũ đội đầu không được quá bốn sợi dây tua, ở nhà phải quỳ chứ không được ngồi, ăn thịt chỉ được dùng răng xé mà không cho dùng dao xắt, còn đổi tên thánh địa Ô Tô Khắc thành... cái tên gì mà giống tên loài cá vậy. Thực không thể tưởng tượng nữ anh hùng bá đạo như thế lại là một bà lão bình thường không chút bắt mắt này.
Dương Nhất Thanh khẽ thở dài:
- Phượng hoàng rụng cánh không bằng gà mái, danh oai một cõi là nhờ có quyền lực, mà bà ta... bất luận là tự nguyện hay bị bức bách đều hiển nhiễn đã rời xa quyền bính.
Làm sao mà Dương đại nhân lại nhận ra được bà ta vậy?
Dương Lăng đáp:
- Xưa nay tiến hành chiến tranh không chỉ đơn thuần là đánh giết. Năm xưa Lưu Bang bị vây trên núi Bạch Đăng, thiên quân vạn mã đều không thể đánh lui, nhờ Trần Bình hiến diệu kế, chỉ dựa vào một bức tranh mỹ nữ mà đã khiến bốn mươi vạn đại quân Hung Nô ngoan ngoãn lui chân (1). Những chuyện có khả năng ảnh hưởng đến chiến cuộc thật sự là rất nhiều, cho nên khi thám tử Nội xưởng thâm nhập vào đại mạc, bản quan đã hạ lệnh bất luận là tin tức gì đều phải ghi chép cẩn thận tỉ mỉ rồi đưa về.
Vì vậy bản quan mới hiểu rõ hơn về những ân oán tình thù giữa các bộ lạc Thát Đát, chuyện nhà chuyện cửa của các tù trưởng quý tộc. Do đó, bản quan đã biết chút ít bí mật về Mãn Đô Hải, lại cộng thêm tình tiết khi Miêu công công và Hứa tướng quân bắt người trở về, bản quan nối kết lại, suy đoán và đối chiếu lẫn nhau mới đoán ra được mấy phần.
Cả bọn cùng trở về bàn ngồi. Nghĩ tới người mà mình tự tay bắt được là phu nhân của Bá Nhan Khả Hãn, là Mãn Đô Hải Tư Cầm oai danh hiển hách trên thảo nguyên, chẳng khác nào lại có thêm kỳ công bên trên kỳ công, Miêu công công không khỏi tươi cười rạng rỡ:
- Bà lão này là hoàng hậu của Bá Nhan sao? Ha ha ha! Thật không ngờ! Thật không ngờ! Đúng là nhặt được quả trứng vàng trong đống củi. Vừa rồi Dương đại nhân đã nói với bà ta những gì mà khiến bà ta phải mở miệng thừa nhận vậy?
Dương Lăng cười đáp:
- Hỏa Sư từ lâu đã mang lòng không thần phục, chỉ là thế cô sức yếu nên không dám công khai phản kháng. Người mà Hỏa Sư cưới là con gái của Mãn Đô Hải, công chúa Y Khắc Tích, cho nên nhất định Mãn Đô Hải thấu hiểu phần nào dã tâm của hắn. Khi nãy tôi gạt bà ta, bảo rằng bà hãy cứ yên tâm ở lại nơi đây, Hỏa Sư đã liên thủ cùng chúng ta, cho nên chúng ta tịnh không có ác ý với bà; đợi khi Hỏa Sư tập kích giết chết được Bá Nhan, Đại Minh cùng Thát Đát giao hảo rồi, sẽ đưa bà ta trở về.
Trong cơn giận dữ, giọng điệu phản bác của bà ta rất oai nghiêm, khí thế bức nhân, như thể còn đứng trên cả Hỏa Sư và Bá Nhan vậy. Trong số các phụ nữ vương công quý tộc của Thát Đát, ngoại trừ Mãn Đô Hải, còn ai là người có tư cách này? Tôi lại tiếp tục vạch rõ lai lịch bà ấy, trông thấy vẻ mặt của bà ấy thì tôi liền không nghi ngờ gì nữa.
Trương Vĩnh nghi hoặc hỏi:
- Chuyện về Mãn Đô Hải, sau khi đến Đại Đồng ta cũng biết sơ được một ít. Bà ta là tiểu cáp đồn (phu nhân) của Khả Hãn Mãn Đô Lỗ. Mãn Đô Lỗ chết đi, bà ta được gả cho đứa cháu trai Bá Nhan của hắn, vẫn luôn nắm giữ quyền cao của Thát Đát. Gần năm sáu năm trở lại đây, quyền bính Bá Nhan mỗi lúc một tăng, vị phu nhân này lại dần dần biến mất tăm mất tích, trông tình hình này, chắc là bị Bá Nhan giam lỏng đây. Nay Bá Nhan đã gần như thống nhất các bộ lạc Mông Cổ, thanh danh như mặt trời ban trưa, một bà lão sắp chết như bà ta thì có thể có tác dụng gì?
Dương Lăng lục lọc trong trí nhớ những tài liệu về vị hoàng hậu này do Hàn Lâm đưa đến, sau đó bảo:
- Mãn Đô Hải là người thuộc bộ lạc Sách Cổ Uông Cổ, cha là quý tộc Mông Cổ, từng nhậm chức Thừa tướng. Bà ta được gả làm tiểu cáp đồn (phu nhân) của Mãn Đô Lỗ, hạ sinh hai người con gái. Trưởng nữ là công chúa Bác La Khắc Sấm, gả cho Thái sư Gia Tư Lan; thứ nữ là công chúa Y Khắc Tích, gả cho Hỏa Sư. Hai người con rể này đều là thủ lĩnh những nhóm bộ lạc lớn của Mông Cổ.
Sau khi thành thân cùng với Bá Nhan khi ấy mới bảy tuổi, Mãn Đô Hải từng nắm quyền triều chính hơn mười năm, chinh phạt Ngoã Thích, đánh bại thủ lĩnh quyền thần quý tộc khác họ của Mông Cổ khi ấy là Diệc Tư Mã Nhân. Có thể nói phần lớn mãnh tướng dưới trướng Bá Nhan đều nghe theo lệnh bà ấy. Đồng thời bà ta còn sinh cho Bá Nhan bảy nam một nữ, cho nên bất luận là đối với vương tộc Thát Đát hay quý tộc của các bộ lạc, bà ta đều có sức hiệu triệu và ảnh hưởng to lớn vô cùng.
Dương Nhất Thanh lo lắng:
- Chỉ e không được lạc quan như vậy! Theo tình hình mà Hứa Thái trông thấy, có lẽ sau khi Bá Nhan trưởng thành, hắn bắt đầu e ngại quyền lực và sức ảnh hưởng của hoàng hậu hơn xa mình cho nên mới giam lỏng bà ta lại. Có điều sức ảnh hưởng của bà ta thật sự quá lớn, Bá Nhan cũng không dám xem nhẹ mà giết chết bà ta; nên hắn ta đành phải phao tin đồn trước, thử thăm dò phản ứng của các bộ lạc.
Bà ta nằm trong tay Bá Nhan, hắn giết cũng không được mà giữ cũng không xong. Nay bà ta rơi vào tay chúng ta rồi, chỉ sợ ngược lại Bá Nhan sẽ vỗ trán kêu may đây. Đại nhân cũng đã thấy đấy, bà lão này hết lòng hết dạ với bộ tộc Mông Cổ mình, vốn không hề để tâm đến tư oán tình thù riêng giữa bà ta và Bá Nhân. Chắc chắn bà ta sẽ không bao giờ đích thân đứng ra lợi dụng sức hiệu triệu của mình để đối kháng với Bá Nhan đâu!
Hơn nữa bà ta xa rời bộ lạc Mông Cổ, càng có lợi cho Bá Nhan thu gom đại quyền vào trong tay mình. Nếu hắn thông minh, tạo dư luận rộng rãi nói rằng phu nhân bị chúng ta bắt đi, khiến cho tất cả bọn chúng cùng chung thù địch... Ti chức lại thấy... lần này chúng ta đã giúp cho Bá Nhan rất nhiều rồi.
Miêu Quỳ và Hứa Thái nghe vậy thì đều thấp thỏm trong lòng. Dương Lăng lắc đầu cười bảo:
- Tiếc là hắn không nên phao tin đồn rằng Mãn Đô Hải đã chết quá sớm, càng không nên cầm tù bà ta bên ngoài bộ lạc một mình. Nay hắn làm vậy chẳng phải là tự vả miệng mình ư? Trước khi biết rõ Mãn Đô Hải sống hay chết, Bá Nhan ắt phải ngồi im quan sát tình hình, thậm chí che giấu tin tức. Có điều không biết hiện tại hắn đã biết được bao nhiêu?
Hứa Thái thoáng chần chừ, gian nan nuốt ngụm nước bọt, đành thú thật:
- Đại nhân! Doanh trại mà chúng tôi tập kích... tuyệt đối không còn nhân chứng sống. Hơn nữa, lúc hành quân trong đại mạc, chúng tôi đều cải trang thành người Mông Cổ nên cho dù Bá Nhan có hoài nghi cũng chưa chắc dám kết luận là do chúng ta làm.
Dương Lăng nghe xong, thoạt tiên hơi ngẩn ra, liền đó sực hiểu những người Thát Đát phụ trách giam lỏng Mãn Đô Hải đều đã bị giết sạch. Thị nữ nọ e rằng trong loạn quân đã.... Hứa Thái vì biết chuyện này hệ trọng, nên sau khi cân nhắc kỹ lưỡng hắn mới đành thú thật.
Y thầm thở dài, đành làm ra vẻ như không biết gì, chỉ nói:
- Hắn nắm bắt tình huống không chuẩn, vậy chi bằng chúng ta cứ lấy tĩnh chế động. Bảo mật nghiêm ngặt tin tức Mãn Đô Hải Khả Đôn rơi vào trong tay chúng ta.
Về phần Mãn Đô Hải có chịu phối hợp với chúng ta hay không thì thực ra cũng không cần. Loài sói có dã tâm trên thảo nguyên không chỉ có một hai con, không cần Mãn Đô Hải phải làm gì cả, kẻ có dã tâm chỉ cần biết tình cảnh của bà ta, tự nhiên sẽ lợi dụng bà ta để gây loạn.
Y nhìn mọi người chung quanh, nhón lấy một miếng thịt thả vào trong nồi nước sôi, mỉm cười nói tiếp:
- Thành bởi Tiêu Hà, mà bại cũng bởi Tiêu Hà(2). Bà ta đã thúc đẩy nên sự cường đại của Thát Đát, sự suy bại cũng sẽ bởi bà ấy mà bắt đầu. Mặt hàng này đáng đầu cơ à nha!
Dương tổng chế! Chuyện này nên bẩm cho Đại vương hay, tìm một chỗ trọ trong thành Đại Đồng, bố trí hết sức ổn thỏa cho bà ta, tuyệt đối phải giữ tin tức bí mật. Bà ta nặng lòng với thảo nguyên, chỉ cần không ép bà ta làm bất cứ chuyện gì, bà ta sẽ tiếp tục sống tốt. Đợi đến khi con mãnh hổ nào đó mọc đủ nanh rồi, nóng lòng muốn thử với Bá Nhan, chúng ta sẽ lại giao bà ấy ra, chắp thêm cho con mãnh hổ đó một đôi cánh.
Tuy Dương Lăng nói với ngữ khí bình thản, nhưng với mọi người có mặt tại đây, bất luận là văn hay võ, đều có thể cảm nhận được mùi vị máu tanh trong đó. Trương Vĩnh và Miêu Quỳ không khỏi trộm ngó y, thầm nhủ: "Tên này, cũng khá là ác độc đây!"
Đỗ Nhân Quốc lại cười lớn một cách hào sảng, tán tụng:
- Hay! Kế này hay lắm! Mẹ nó! Mỗi năm không biết bao nhiêu dân chúng mất nhà, bao nhiêu phụ nữ thắt cổ, bao nhiêu người xa vợ mất con thê thảm vô cùng! Đối với bọn giặc Thát này thì không thể có lòng dạ đàn bà được!
Khâm sai đại nhân thực có bản lĩnh! Bản tướng giết người phải động đao mới thấy máu, ngài chỉ khua chút môi mép, số người bị giết e rằng còn nhiều hơn bản tướng nữa. Ừm... Những kẻ đọc sách đúng là không tầm thường, đây gọi là cái gì ấy nhỉ? Đúng rồi, "trong sách tự có lưỡi đao to"!
*****
Sơn trại Tiêu gia không hề nhỏ, chỗ mà Dương Hổ nói đến chẳng qua chỉ là một thôn núi nhỏ thuộc Tiêu gia trại mà thôi. Trại này nằm trên lưng chừng núi, về phía đông của núi Tuyết Phong, dân chúng rất ít khi ra khỏi núi, thi thoảng khi có thân thích đến thăm thì hàng xóm láng giềng đều thấy rõ cả, vì vậy Dương Hổ đợi đến khi bóng đêm chìm sâu mới lặng lẽ vào núi.
Khi buôn lậu tuấn mã ở quan ngoại để gom góp tiền tài hắn từng qua lại nơi này nhiều lần nên quen thuộc đường đi nước bước. Đi đến trước một căn nhà, hắn đưa tay gõ cửa, giữa tiếng chó sủa inh ỏi, Tiêu lão tứ khoác áo bông dày cộm, tay cầm chiếc đèn lồng ra mở cửa. Trông thấy đám người Dương Hổ, lão hoảng sợ giật nảy cả người, liền vội kêu bọn họ đi vào.
Tiêu lão tứ chỉ làm mã tặc được chưa tới hai năm thì đùi đã bị chém lúc quan binh truy quét, nên mới rời khỏi Bá Châu trở về quê nhà. Lúc còn buôn lậu ngựa, Dương Hổ thường hay đến chỗ này nghỉ qua đêm.
Tiêu lão tứ lặng lẽ đưa mọi người đến hậu viện để ở, rồi mới kéo tay Dương Hổ lo lắng bảo:
- Dương lão đại, anh điên rồi sao? Lúc này đang là lúc nào? Hơn mười vạn đại quân đang đánh nhau cả trong lẫn ngoài quan ải, thời buổi này ai dám bán ngựa cho anh chứ?! Ngộ nhỡ bị quan quân coi là gian tế, lúc đó có chạy cũng không kịp đâu.
Vì Tiêu lão tứ đã rút chân ra khỏi chốn giang hồ nên Dương Hổ không dám kể với lão chuyện lớn như mưu hành thích Hoàng đế, hắn chỉ cười bảo:
- Tiêu tứ ca nói đúng lắm! Ta cũng vì không hiểu tình hình, tưởng rằng có cơ hội kiếm ăn nào ngờ đến giờ ngay cả một thớt ngựa cũng không thu mua được. Định rời khỏi đây nhưng dọc đường trạm gác trùng trùng, hết cách mới đành đến chỗ anh đây tránh chút gió(*), đợi hơi bớt gió rồi lại đi.
(*) tiếng lóng của dân giang hồ, ý đợi qua cơn nguy hiểm.
Nói đoạn Dương Hổ móc từ trong người ra mấy viên vàng như hạt đậu, tròn nhẵn, vàng óng, nhét vào trong tay lão Tứ, cười bảo:
- Tứ ca sống giữa nơi núi hoang này cũng không dễ thở gì. Nuôi người, nuôi ngựa không thể dùng tiền của anh được, đây, hãy cầm tạm lấy mấy cục vàng này.
Tiêu lão tứ biết mấy viên vàng này chả phải có nguồn gốc tốt đẹp gì, thế là liền không khách sáo mà nhận luôn, rồi nói nhỏ:
- Trú lại nơi đây cũng không sao. Tôi đang kiêm nhiệm chức bảo trưởng, trong thôn đều là người miền núi hiền lành nhút nhát, cả đời chưa từng vào huyện lị, biết có khách đến nhà cũng sẽ không nói năng gì đâu. Khi nào bớt gió rồi thì hãy tranh thủ đi đi, lúc nay buôn bán không dễ đâu.
Phía sau là một dãy gian nhà thềm đá tường đất mái rơm, gian giữa trông còn tốt một chút, là chỗ trọ của vợ chồng Dương Hổ. Sau khi thu xếp cho mấy người bọn họ vào ở trong hậu viện ổn thỏa xong, Tiêu lão tứ tự thân đem ít thức ăn đơn giản tới.
Dương Hổ lếch thếch tiễn Tiêu lão tứ ra khỏi hậu viện. Khi trở lại dưới mái hiên để quay về phòng, hắn chợt loáng thoáng nghe thấy giữa câu chuyện trò của gian phòng bên trái dường như có nhắc đến tên mình, bước chân bất giác thoáng dừng lại, lặng lẽ bước qua.
Căn phòng này đã lâu không có người trú ngụ, cửa sổ đã rách, giấy chắn cửa sổ bay phần phật để lộ ra mấy khe hở. Dương Hổ ghé mắt nhìn vào bên trong, thấy rõ Phùng Phúc Chí và Lang lão nhị biệt hiệu là "Đại Vĩ Ba Lang" (sói đuôi lớn - ND), cùng Hồ Đại Chùy đang trú trong gian phòng này.
Phùng Phúc Chí vừa nhét thêm củi vào trong hốc lò sưởi giữa giường vừa lải nhải: \
- Hôm nay chúng ta cũng thấy sự dũng mãnh của quan quân rồi đó. Cái tên thiên tổng được gọi là Quỷ vương đó, ông trời ạ, đáng là hảo hán ngồi ghế trại chủ trong giới lục lâm chúng ta à nha!Ta thấy Hổ ca cũng chưa chắc đã là đối thủ của hắn. Một đao chém đôi con ngựa, rõ thực oai phong, chậc chậc chậc!
Hồ Đại Chùy mặt mày ủ ê, tiếp lời:
- Lúc còn ở Bá Châu, thấy bộ dạng nhút nhát, hèn yếu của bọn quan binh đó ta còn tưởng là quan binh trên đời đều như vậy. Ôi, rốt cuộc hai trăm hán tử võ công cao cường bị người ta một phát nuốt sạch, chân mày cũng không thèm nhíu lấy một cái.
Không cần nhắc đến oai phong của quan binh hôm nay, chỉ nói nếu không phải may mắn được đám giặc Thát đó kéo đến, chúng ta trúng phải kế của Dương Lăng, gần trăm cân thịt này đã chôn hết ở đó rồi. Giết hoàng đế? Đến lúc này ngay cả cái bóng của Hoàng đế cũng còn chưa thấy nữa là!
Đại Vĩ Ba Lang nhếch miệng xoa chân, cười hắc hắc bảo: - Sẵn tiện nói luôn, các ngươi có để ý đến Khoá Hổ tẩu tử không? Hình như là chị ấy đối xử với tên đại quan họ Dương nọ không bình thường đâu nha!
Từ lúc đến sơn trại chúng ta, các ngươi có thấy tẩu tử nhỏ nhẹ mềm mỏng với ai bao giờ không? Vậy mà lúc trò chuyện với tên khâm sai họ Dương đó thì lại nhu hoà cứ như khuê nữ ấy; ngoan ngoãn nghe lời, ngượng ngùng bẽn lẽn, chậc chậc chậc...!
Này, Đại Chùy! Lúc ở kinh sư có phải Hổ tẩu đã bắt giữ tên họ Dương đó hai ngày không? Có phải do ở chung lâu ngày nên nảy sinh tình cảm không? Nghe nói những kẻ đọc sách đều cùng một giuộc như nhau, bụng dạ gian xảo, rất giỏi lừa gạt người khác. Bằng không thì Hồng Phất Nữ làm sao mà một lòng một dạ đi theo Lý Tịnh, kiên quyết không thích Cầu Nhiêm Khách (2)? Hổ tẩu của chúng ta lớn lên trong giới lục lâm, chưa từng gặp phải một vị thầy biết chữ nào, không chừng...
Dương Hổ nghe vậy giận bừng cả mặt. Khi nàng vừa thoát ra khỏi hang, ánh mắt lẩn tránh đó của Hồng Nương Tử đã khiến hắn sinh lòng nghi ngờ, chỉ là nhớ lại tính tình xưa nay của nương tử nên mới dẹp tan lo nghĩ trong lòng. Không ngờ đám huynh đệ này cũng nhận biết được, còn túm nhau nói bậy nói bạ sau lưng, làm sao mình ra mặt dẹp yên chuyện này đây?
Càng nghĩ càng giận, đang định dứt người rời đi, chợt hắn thấy Phùng Phúc Chí lại vứt vài thanh củi vào lò, phủi tay rồi leo lên giường, uể oải mắng:
- Tránh cái chân thối của mày ra xa chút đi!
Đoạn hắn nằm soãi ra trên đầu giường, hai tay gối đầu, thở dài:
- Đừng nói đến mấy chuyện tào lao đó nữa, tẩu tử là người như thế nào chứ? Ta lại cảm thấy lời mà tẩu tử nói là sự thật. Chúng ta ở Bá Châu làm đại vương một núi, tiêu dao tự tại biết dường nào? Từ lúc xông vào kinh chạm mặt với vị Dương Lăng đó, là bắt đầu hao binh tổn tướng, đến cả sơn môn ở Bá Châu cũng bị quan binh quét sạch.
Lưu thần tiên! Hừ! Cái con mẹ nó, là người của Di Lặc giáo mà, đám yêu nhân đó nói năng có thể tin được hay sao? Nếu Hổ ca không phải là người được tiên đoán sẽ cai trị giang sơn thì khó rồi! Các huynh đệ phái chúng ta thì thôi không nói làm gì, nhưng nếu để các lộ hảo hán trên Ngoạ Hổ sơn đã quy thuận về chúng ta biết được, liệu bọn họ sẽ còn một lòng một dạ ủng hộ Hổ ca làm lão đại không?
Nghe đến dây thì Dương Hổ giận đến hai tay run lên bần bật. Lúc bắt đầu tụ tập đồng đảng ở sơn lâm, hắn tịnh không có dã tâm gì quá lớn. Nhưng khi bị Lưu thần tiên gạt gẫm, đưa lời tâng bốc hắn lại tin là thật, thế là lòng tham đâm chồi mọc rễ trong lòng, hiện đã bỏ vào biết bao tâm huyết đến thế, cứ lo suy tính suy nghĩ thiệt hơn nên hắn cũng không còn giữ được vẻ thoải mái như xưa nữa.
Sau ngày nghe được lời của Phùng Phúc Chí, ngoài mặt hắn điềm nhiên như không để tâm, kỳ thực trong lòng lại rất để ý. Những lời lừa gạt của Lưu thần tiên coi hắn là chân long thiên tử, sao Tử Vi thế từng là một món vũ khí sắc bén tạo nên thanh danh cho hắn, khích lệ hùng tâm của hắn, nay lại trở thành tâm bệnh của hắn, trở thành cái vảy ngược không cho ai chạm vào của hắn.
Nghe xong lời này của Phùng Phúc Chí, hắn chỉ cảm thấy huynh đệ mình đang phá dỡ bệ đứng của hắn. Thứ mà hắn càng cảm thấy lo sợ trong lòng thì lại càng bị Phùng Phúc Chí nói toạt ra hết, mà lại nói rất thật tình, khiến hắn nghe mà lửa giận bốc lên ngùn ngụt trong lòng. Nhưng hắn lại chột dạ nên không thể ra mặt, loại tâm tình phức tạp ấy thực khó diễn tả nên lời.
Dương Hổ thầm nghiến răng, một ý nghĩ ác độc dần hình thành từ sự tủi thẹn trong lòng: "Mình đã bỏ ra biết bao tâm huyết, bỏ ra biết bao nỗ lực. Nay mình đang mang danh vị đệ nhất hảo hán lục lâm phương bắc là do bọn họ tin mình có vận mệnh chân long thiên tử. Sau khi trở về, một khi bọn chúng để lộ tin tức, công lao mình há sẽ chẳng đổ sông đổ biển?"
"Oanh Nhi... Dù sao đi chăng nữa thì vẫn là thê tử của mình, nàng ta sẽ không phá dỡ bệ đứng của mình. Hoắc ngũ thúc túc trí đa mưu, biết cái gì thì nên nói cái gì thì không nên nói. Nhưng mấy cái tên thẳng như ruột ngựa này thì phải xử lí thế nào? Bảo bọn chúng giúp mình lừa gạt người khác à? Những lời như vậy biết mở miệng nói như thế nào đây?"
Dương Hổ lặng lẽ bước đi, ngước nhìn những ngôi sao lạnh lẽo trên bầu trời xa xa, đầu óc xoay vần mấy bận, vẻ âm u trong mắt dần ngưng lại thành một đường. Hắn siết chặt nắm đấm, ý nghĩ từng thoáng qua trong đầu nay lại trở về, cắn lấy tim hắn như một con rắn độc, từng chút từng chút một tiết nọc độc vào lòng hắn: "Kẻ làm nên đại sự không được câu nệ tiểu tiết! Bậc đại trượng phu không thể không nhẫn tâm!"
Chú thích:
(1) Theo kế của Trần Bình, Hán Đế cho người mang một bức tranh thiếu nữ trung nguyên rất đẹp đưa cho Yên Chi, vợ của Thiền vu Mặc Đốn của Hung Nô, nói với bà ta nếu Mặc Đốn thắng được Hán đế thì sẽ mê luyến gái Trung nguyên. Yên Chi ghen nên thuyết phục Mặc Đốn cho rút quân. Sau này, Lưu Bang từ bỏ ý định chinh phục đại mạc bằng quân sự, chuyển qua hòa hiếu bằng cách kết thân gia và cống phẩm cho các tù trưởng Hung Nô.
(2) nguyên văn "thành dã Tiêu Hà, bại dã Tiêu Hà". Tiêu Hà vốn là người huyện Bái (vùng Giang Tô ngày nay), là Thừa tướng nhà Hán. Tiêu Hà cùng với Trương Lương, Hàn Tín là "tam kiệt nhà Hán" ("phi Tam kiệt tất vô Hán thất" nghĩa là không có tam kiệt trợ giúp thì không có triều Hán). Ông có nhiều đóng góp cho thành công của Lưu Bang trong thời Hán Sở tranh hùng. Ông cũng là người có công giúp Hàn Tín đến với Lưu Bang nhưng đồng thời cũng có phần nào trách nhiệm trong cái chết của Hàn Tín, việc này đã trở thành một ngạn ngữ của Trung Quốc (成也蕭何,敗也蕭何, "thành dã Tiêu Hà, bại dã Tiêu Hà").
(3): Cầu Nhiêm Khách, Lý Tịnh, Hồng Phất nữ được gọi là Phong Trần Tam hiệp. Mời xem truyện Kẻ Râu Xồm
http://www.truyenviet.com/truyen-ngan/61-e-g/3609-ga-rau-xom
Chương 202: Ngươi Giết Ta , Ta Giết Hắn
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Nghe được lời này của Dương Hổ, Thôi Oanh Nhi liền như trút được gánh nặng trong lòng: "Nếu như chỉ cần tạo hiện trạng giả hành thích khâm sai thì không khó gì. Chi bằng mình tương kế tựu kế, vừa có thể gạt đưa trượng phu về sơn trại, lại không cần phải thật sự gây hại đến tính mạng Dương Lăng."
Đảo mắt nhìn thấy sự quan tâm lo lắng trong mắt Dương Hổ, gò má nàng bất giác nóng lên, thầm cảm thấy hổ thẹn: "Vì một kẻ không liên can, sao mình lại có thể để chàng khó xử như vậy? Thôi đi! Mình còn vọng tưởng làm hiệp đạo(*) gì chứ? Nếu ông trời cho mình cơ hội ra tay, thì... đó sẽ là ý trời vậy. Ôi, Dương Lăng ngươi hãy tự thu xếp cho tốt đi..."
Thôi Oanh Nhi lưu lạc bên ngoài một thân một mình, đã chưa tắm mấy ngày rồi, nên vừa thu xếp ổn thoả xong nàng liền xách vài thùng nước giếng về đun để tắm rửa. Các hộ sống trong núi đã đốn sẵn rất nhiều củi, khi nàng đun nước xong, nhiệt độ trong phòng tăng lên, cả căn phòng trở nên ấm áp.
Thôi Oanh Nhi đổ nước vào trong chiếc thùng tắm đơn sơ, bên trong trơn nhẵn, bên ngoài được bọc bằng vỏ cây tùng, rồi thử độ ấm thấy đã vừa. Nàng đi ra mở cửa phòng, trông thấy Dương Hổ vẫn đang đăm chiêu đi đi lại lại trong sân, hai tay chắp sau lưng như đang có rất nhiều tâm sự. Tuyết đọng dưới chân bị hắn giẫm lên nghe rồn rột.
Tưởng hắn vẫn đang còn nghĩ cách hành thích Hoàng đế, Thôi Oanh Nhi không khỏi tức giận hỏi:
- Đêm khuya quá rồi còn không chịu vào phòng? Có muốn ăn gì hay không?
Dương Hổ nghe vậy mới sải bước đi vào trong phòng. Thôi Oanh Nhi đợi hắn vào xong, đóng cửa lại, khuôn mặt xinh xắn tức thì đanh lại, lạnh lùng liếc Dương Hổ :
- Huynh còn chưa từ bỏ ý định hay sao? Ở kinh sư vì huynh khăng khăng làm theo ý mình mà đã chôn vùi tính mạng hơn hai trăm huynh đệ; hôm nay ở Lý Gia tập nếu không may mắn gặp giặc Thát đến cướp thôn, chúng ta cũng đã chết sạch ở đó rồi! Huynh còn chưa chịu từ bỏ giấc mơ làm Hoàng đế sao?
Dương Hổ bực bội đáp:
- Nàng đừng xía miệng vào mấy chuyện này! Tất cả hảo hán ở tam sơn ngũ nhạc đều vì việc này mới tụ tập dưới cờ của ta, nay muốn quay đầu nào có dễ như vậy? Tuy rằng Di Lặc giáo đã gạt ta, nhưng chẳng lẽ chúng ta cũng sẽ nhất định không thể chiếm được thiên hạ hay sao? Hừ, chẳng phải bọn chúng cũng đang âm mưu tạo phản đó sao? Chẳng lẽ chúng ta còn không bằng đám yêu đạo đó?
Thôi Oanh Nhi giận lắm, đáp trả:
- Vậy huynh cứ ôm cái giấc mộng viển vông đó của huynh đi!
Dứt lời nàng liền xoay người đi vào phòng trong.
Dương Hổ hỏi:
- Nàng không ăn chút gì à?
Thôi Oanh Nhi cười nhạt:
- Huynh ăn gì thì tự ăn đi, ta không có hứng. Đi tắm đây!
Dương Hổ hừ một tiếng rồi ngồi xuống ghế. Đôi mắt lấp loé dưới ánh đèn, hắn tiếp tục suy tính phương cách giải quyết mối lo của mình.
Thôi Oanh Nhi cởi áo quần vắt lên trên ghế, trầm cả mình xuống nước, cặp mày thanh tú khẽ nhíu lại rồi mệt mỏi thở ra một hơi dài.
Hơi nóng ngấm vào trong da dẻ mịn màng, hơi nước bốc lên khiến cho mọi thứ dưới ánh đèn đều trở nên mờ mờ ảo ảo.
Da thịt trong suốt óng ánh ngâm trong nước nóng ửng lên màu hồng đào, sóng nước vỗ dập dờn, mái tóc đen dài xinh đẹp xoã ra trên mặt nước như một đám mây che khuất dáng người xinh đẹp động lòng người giữa làn nước trong vắt.
Vóc người của nàng hãy còn rất đáng tự hào, da dẻ trắng phau mềm nhẵn, cặp vú cao vút, chắc nịch mà nền nã. Đôi nhũ hoa hồng xinh vênh vểnh mê người, cặp vú săn mẩy và trơn láng run run ngâm trong làn nước trong vắt, ở giữa là một khe ngực sâu hút đến say lòng, bờ eo thon thon và thậm chí cả cái rún tròn xoay như ẩn như hiện dưới mái tóc mây đen như mực đang dập dờn theo gợn sóng nước...
Dương Hổ vừa vén rèm cửa bước vào, trông thấy dáng tắm đẹp đến say lòng của thê tử, ánh mắt bất giác ngưng lại. Ý tưởng vừa sực nảy ra khi nãy chợt lại không nỡ thốt ra.
Tuy rằng Thôi Oanh Nhi võ nghệ tinh thông, nhưng dẫu sao chốn đó vẫn là đầm rồng hang hổ, vì muốn tách rời khỏi nàng mình mới khích nàng đi đến nơi đó. Ngộ nhỡ có gì bất trắc xảy ra?!
Nghĩ đến đây Dương Hổ không khỏi trở nên do dự. Thôi Oanh Nhi thấy hắn ngơ ngẩn nhìn mình, nhất thời hiểu lầm bèn tức giận nói:
- Ăn rồi thì đi ngủ đi! Ta không muốn thấy mặt huynh. Đêm nay ta ngủ riêng.
Dương Hổ vừa nghe liền bừng lửa giận, trợn trừng cặp mắt cọp:
- Đừng quên nàng là vợ ta đó!
Thôi Oanh Nhi đanh mặt lại chẳng nói chẳng rằng, cặp mắt như làn thu thủy chăm chăm nhìn hắn một cách lạnh lùng.
Dưới ánh mắt đăm đăm của nàng, dũng khí của Dương Hổ dần tan biến. Hắn lẫn tránh đôi mắt như có thể thiêu đốt người ta đó, song bất chợt nổi nóng mà giễu lại:
- Lúc ở kinh sư nàng đã bắt được Dương Lăng, song lại tha mà không giết. Trước nay nàng chưa từng nương tay với quan binh, nay Di Lặc giáo trù trừ không chịu lộ diện, kế sách tọa quan sơn hổ đấu của nàng đã thất bại, lúc ngãsơn động trên núi Bạch Đăng sao nàng không thừa cơ giết chết y đi? Ai đoán được là y ngã chết hay bị nàng thủ tiêu chứ, tại sao nàng lại cứu y lên?
Thôi Oanh Nhi hừ một tiếng khinh thường, hất mũi:
- Huynh cũng đừng quên nếu không nhờ Dương Lăng giữ lời, chỉ cần y hạ lệnh một tiếng thì mấy người chúng ta hôm nay đã bị thiên quân vạn mã giẫm thành thịt nhão rồi. Chẳng lẽ chúng ta còn không biết giữ chữ tín bằng quan binh sao? Chúng ta xông pha giang hồ phải quang minh lỗi lạc, ân oán phân minh. Chỉ riêng trước đó ở quán rượu y đã hạ thủ lưu tình rồi, ta không nên cứu y ư?
Dương Hổ cất tiếng cười quái gở:
- Phải à! Vạn tiễn cùng bắn, còn có hỏa súng nữa! Ta cũng nghĩ rằng ắt chết không phải nghi ngờ rồi, không ngờ y lại hạ thủ lưu tình.
Hắn vừa nói vừa nhìn sang Thôi Oanh Nhi, thoáng do dự, song lời của Đại Vĩ Ba Lang nọ như mũi kim độc đâm vào tim hắn, như có thứ gì chèn ngang cổ không nhổ ra rất khó chịu. Rốt cuộc hắn vẫn cắn răng nói tiếp:
- Có điều lúc y hại chết hai trăm huynh đệ ta đã ra tay rất ác độc, không chút lưu tình. Nay nàng mềm lòng nhẹ dạ, thực không biết là lưu tình cho ai?
Thôi Oanh Nhi nhướng mày giận dữ quát:
- Ngươi... ngươi nói xằng gì đó?
Dương Hổ cũng nổi giận quát trả:
- Chẳng lẽ ta nói sai ư? Lúc cô ra khỏi hang ngay cả đám người Lang nhị cũng đều nhìn thấy vẻ mặt kỳ lạ của cô, cô tưởng là hai mắt ta đều mù cả rồi sao?
- Ta...,
Thôi Oanh Nhi vừa thẹn vừa giận, nhớ lại tình cảnh trong hang, nhớ đến điều bí mật mà nàng không thể kể với trượng phu, hai má vụt ửng lên hai đóa hoa đào, nhất thời nghẹn lời không biết nói gì. Lúc ra khỏi hang sắc mặt nàng ngượng ngùng là bởi nàng đã cùng Dương Lăng ôm nhau trong hang, còn sơ ý hôn phải môi y, những chuyện này biết giải thích với trượng phu như thế nào đây?
Vốn Dương Hổ chỉ hơi nghi ngờ, song trông thấy bộ dạng nàng như vậy thì lòng nghi ngờ càng tăng cao, thế là hắn bèn đùng đùng xông tới trước mặt nàng cười khẩy:
- Hà hà! Cô nam quả nữ, lại còn là một quan một cướp, thế mà chẳng những không có vẻ gì là kẻ thù sinh tử, lại giở trò chàng có tình thiếp có ý, biến hang núi thành động phòng rồi chứ gì?
Ha ha, thảng như có một ngày quan binh bắt cướp xông đến tận giường bắt ta, thực sẽ trở thành trò cười lớn cho cả lục lâm Bá Châu. Dương Hổ ta thực có mặt mũi lắm!!!
- Ngươi câm miệng...!
Thôi Oanh Nhi nổi cơn tam bành, vụt đứng bật dậy.
Nước ấm cuộn trào, hơi nóng mịt mù, cảnh xuân chợt hiện.
Dòng nước men theo thân thể nảy nở của nàng uốn lượn chảy xuống, qua khe rãnh mê người. Ngực cao eo nhỏ, cặp vú chắc nịch như hai gò tuyết nhô cao trên bộ ngực trắng phau, trơn nhẵn và sáng óng như ngọc thoa mỡ dê. Bầu vú co lại tới đỉnh một cách hoàn mỹ, kết ra hai quả xinh đỏ thắm.
Thân thể yêu kiều ngạo nghễ hoàn toàn lộ ra những chốn diệu kỳ. Hai bắp đùi thẳng tắp trắng phau không chút tì vết như đang toả ra hơi nóng, chiếc eo thon nhỏ chưa đầy nửa vòng tay làm nền cho bờ mông tròn lẳng, chắc nịch mà cao ngất, như một vầng trăng tỏ, được điểm xuyết bởi những giọt nước long lanh.
Nàng kéo một chiếc khăn khoác lên người đánh soạt, giọng oán hận:
- Ngươi đã bị quyền lực khiến cho quá mê muội rồi, đã không còn là vị đại ca giang hồ trọng nghĩa khinh tài trên một sơn trại nho nhỏ khi xưa nữa. Cả ngày chỉ nghĩ làm sao để làm Hoàng đế, bày đặt học người ta âm mưu quỷ kế! Chí cả tài hèn! Cho dù có khoác long bào vào người, ngươi cũng không giống Hoàng đế chút nào. Ta thấy hai mắt ngươi đã bị quyền lợi bịt kín rồi, nói mù cũng không sai đâu!
Bị nàng vừa mắng vừa giễu khiến cho lửa giận bốc cao ba trượng, tức thì Dương Hổ quên mất nàng ta uy phong hơn xa mình, hắn vung tay vả mạnh!
Thôi Oanh Nhi cười nhạt, chụm tay vót ngang, hai tay vừa chạm lập tức nàng biến chém thành quấn, thuận thế kéo mạnh, "rào" một tiếng, nước bắn đầy trời, bóng trắng chợt loé lên trong làn nước. Dương Hổ chỉ cảm thấy vai mình trĩu xuống, một cái bắp chân thon dài, trơn nhẵn, săn chắc đã đè trên vai, ấn hắn áp mặt bên trên thùng tắm, chiếc khăn trượt xuống.
Dương Hổ giận quá hoá cười:
- Ta võ nghệ không bằng ngươi! Ngươi cứ giết ta rồi xách đầu đi tới triều đình mà lĩnh thưởng, nói không chừng cũng sẽ được phong làm Cáo Mệnh phu nhân đó.
Thôi Oanh Nhi giận đến run người, nàng rút chân ngồi trở lại trong thùng nước, mái tóc ướt sượt làm tôn lên nét mặt xinh đạp trắng trong pha ánh hồng của nàng, trên má lệ đã nhỏ thành dòng.
Nàng ngẩng đầu lên, nhắm hai mắt lại nói:
- Thôi Oanh Nhi ta từ khi gả cho ngươi đã bao giờ làm chuyện gì có lỗi với ngươi chưa? Được, nếu ngươi đã thấy ta quá quắt như thế, ngươi cứ giết ta đi rồi yên tâm mà thực hiện giấc mơ làm Hoàng đế của mình.
Dương Hổ nào từng thấy nàng uất ức đến rơi lệ như vậy? Thế là hắn luống cuống tay chân, cơn lửa giận tức thì tan như bọt nước. Hắn luống cuống không biết làm thế nào, ấp úng:
- Nàng... nàng đừng khóc mà, ta... ta... ái chà...!
Dương Hổ đi lòng vòng trong phòng như con thú bị nhốt trong chuồng, tay quẹt nước trên mặt, rồi đấm vào đầu giường một quyền, căm hận nói:
- Oanh Nhi! Ta đường đường là lão đại lục lâm Bá Châu, nay hao binh tổn tướng, sơn trại bị hủy, thanh danh rơi xuống nghìn trượng. Thảng như tin tức Lưu lão đạo là người trong Di Lặc giáo truyền về sơn trại, ta sẽ thật là họa vô đơn chí. Nàng cho rằng chỉ dựa vào võ nghệ là đã có thể khống chế đám hảo hán ương ngạnh bất kham đó ư? Ta... nỗi khổ tâm của ta nàng có hiểu được không?
Thôi Oanh Nhi từ từ mở mắt, trông thấy vẻ mặt thống khổ của trượng phu, lòng nàng không khỏi chùng xuống bèn nhẹ giọng khuyên bảo:
- Hổ ca! Nếu không làm được lão đại giang hồ thì thôi, để mặc bọn họ tranh với nhau đi. Trại cũ chúng ta ở sâu trong rừng thẳm, chưa từng bị quan binh lùng thấy, chi bằng... chúng ta hãy trở về trại cũ mà yên phận sống qua ngày đi.
Dương Hổ quắc mắt:
- Trở về trại cũ của Thôi gia? Dương Hổ ta đường đường là một thằng đàn ông thân dài vai rộng, chẳng lẽ nay lại đi nấp dưới đáy quần phụ nữ để kiếm sống? Nhục nhã mà chết thôi! Khi xưa nhạc phụ gả nàng cho ta do ta là nhân vật có tiếng tăm vang dội trong lục lâm. Nay cứ như vậy mà quay về, sau này ta sẽ lăn lộn trên giang hồ thế nào? Món nợ máu của hơn hai trăm huynh đệ chưa trả, ta làm sao giải thích với cô nhi quả phụ của bọn họ đây?
Nàng nói không hề có tư tình gì với Dương Lăng, ta cũng tin tưởng con người nàng, nhưng lần trước nàng đã tha cho hắn, nay lại cứu hắn là sự thật. Hôm nay trên Bạch Đăng sơn nói các người đầu mày cuối mắt liệu có quá phận không? Những huynh đệ đó của ta đều đã thấy cả, trở về bọn họ bẻm mép nói bậy nói bạ một hồi, bảo ta làm sao mà nhìn mặt người khác?
Thôi Oanh Nhi nghe xong thì tức khí đáp:
- Hồng Nương Tử muội nói một là một nói hai là hai, nói không vụng trộm với ai là không vụng trộm với ai cả! Huynh còn muốn ta làm thế nào mới chịu tin ta đây? Chẳng lẽ muốn ta vác đầu của Dương Lăng về huynh mới chịu tin sao?
Hai mắt sáng rỡ, Dương Hổ chồm tới nắm chặt lấy tay nàng:
- Ý tưởng hay đó! Giết được Dương Lăng thực sẽ nhất cử lưỡng tiện. Oanh Nhi, nàng thử nghĩ đi! Tuy Di Lặc giáo dùng kế dụ ta vào kinh, nhưng ra tay giết người của chúng ta dẫu sao cũng là nhân mã của Dương Lăng, giết y rồi cũng sẽ coi như là đã ăn nói được với toàn thể sơn trại. Hơn nữa nhờ việc này mà sẽ tự đánh tan mọi lời đồn, tự sẽ trả lại thanh bạch cho nàng, ai còn dám nói xằng nói bậy ta liền chém đầu hắn ngay!
Thôi Oanh Nhi cả kinh, ấp úng:
- Dương Lăng... là tên quan tốt, hôm nay lại tha mạng cho chúng ta. Lấy oán tả ơn, chuyện này ta... sao ta làm được?
Dương Hổ thuyết phục:
- Quan tốt quan xấu gì cũng đều là kẻ thù của chúng ta. Chẳng phải hai trăm huynh đệ của chùng ta bị y giết đó sao? Chẳng phải sơn trại bị hủy trong tay binh lính của y ư? Nàng tha cho y một lần, y tha nàng một lần, ơn huệ gì cũng đã trả hết rồi.
Hắn lại bước sấn tới, vẫn nắm chặt tay Oanh Nhi, thành khẩn van nài:
- Nương tử! Nếu cứ ỉu xìu như vậy mà cúp đuôi chạy về sơn trại thì Dương Hổ ta sẽ không còn mặt mũi nào đâu! Lời nói như đao kiếm, chuyện khác ta có thể không thèm để ý, nhưng nếu có người ô nhục sự trong trắng của nàng, ta làm sao mà nhịn được? Chẳng lẽ vờ điếc không nghe thấy những lời đồn đại đó? Vì ta, vì nàng, nay chỉ còn biện pháp dễ hơn cả: giết chết Dương Lăng!
Thôi Oanh Nhi cảm thấy lòng rối như tơ vò. Trượng phu đã thẳng thắn nói hết ra như vậy, những nỗi khổ đó cũng là sự thật. Cho dù phải vì hắn mà lên núi đao xuống biển lửa, Hồng Nương Tử há sẽ nhăn mặt nhíu mày? Nhưng mà giết Dương Lăng...
Dương Hổ thấy nàng do dự, bèn nghiến răng nói:
- Oanh Nhi! Dù Dương Lăng là thứ gì đi nữa thì có quan hệ gì với chúng ta? Chúng ta là mã tặc, là đại đạo lục lâm đó! Chẳng lẽ còn con mẹ nó đi giảng nhân nghĩa với quan binh? Nàng không đi thì để mai ta sẽ dẫn các huynh đệ đánh về Đại Đồng, tìm không được Hoàng đế thì đánh vào hành dinh khâm sai! Ta đường đường là người đầu đội trời, chân đạp đất, thà chết quang minh lỗi lạc ở đây chứ không về Bá Châu để cho người ta nói xấu sau lưng!
Dứt lời hắn liền buông tay nàng, thẳng người dậy. Thôi Oanh Nhi chộp lấy cổ tay hắn, giọng run rẩy:
- Đừng!... Nếu... nếu Dương Lăng chết rồi, huynh thật sự sẽ chịu cùng muội trở về sơn trại, từ đây sống dựa vào nhau, từ bỏ dã tâm mưu cầu thiên hạ chứ?
Dương Hổ mừng rỡ đáp:
- Đương nhiên! Có bao giờ ta gạt nàng đâu. Nương tử, nàng đồng ý chứ?
Thôi Oanh Nhi hạ quyết tâm, cắn răng:
- Được! Vậy muội sẽ thất tín bội nghĩa một lần, lấy đầu Dương Lăng về gẰ huynh. Sáng sớm mai muội sẽ nghĩ cách trà trộn vào thành.
Trong mắt Dương Hổ thoáng hiện lên tia đắc ý, hắn vội nói:
- Lúc này nhất định Đại Đồng đang được canh phòng hết sức nghiêm ngặt. Thế này đi, để Ngũ thúc và nàng hoá trang thành phụ nữ, vừa có thể che giấu lai lịch, lại có thể chăm sóc cho nhau. Sáng sớm mai ta sẽ bảo Tiêu lão tứ lợi dụng chức vụ Bảo trưởng tìm cách giúp hai người trà trộn vào thành. Ta sẽ dẫn các huynh đệ di chuyển đến gần đấy hoạt động, lôi kéo sự chú ý của quan binh. Sau khi thành công sẽ tụ họp tại Tụ Long khách sạn ở thôn Hình.
Trong lòng Thôi Oanh Nhi đang xảy ra một cuộc đấu tranh dữ dội. Vừa mở miệng đồng ý với hắn là sẽ giết Dương Lăng, song chẳng những nàng không cảm thấy nhẹ nhõm, mà đầu nàng lại rối bời bời. Nàng lặng lẽ gật đầu, không ngừng thầm tự an ủi mình: "Huynh ấy là trượng phu của mình, mình không thể nhìn huynh ấy bước vào con đường cùng, bị chúng bạn xa lánh được. Xin lỗi, Dương Lăng, thật sự xin lỗi..."
Dương Hổ tìm được cái cớ đẩy nàng ra xa, nghĩ lại nơi đó cũng hung hiểm vạn phần nên hắn không khỏi lo lắng căn dặn:
- Nương tử nhớ kỹ: thảng như sự không thể thành công thì chỉ cần để tin tức khâm sai bị hành thích truyền ra ngoài là được rồi, chúng ta cũng xem như có thể ăn nói với sơn trại. Cho nên... nàng vạn lần đừng lỗ mãng, ta... ta lo nàng sẽ xảy ra chuyện bất trắc.
Nghe được lời này của Dương Hổ, Thôi Oanh Nhi liền như trút được gánh nặng trong lòng: "Nếu như chỉ cần tạo hiện trạng giả hành thích khâm sai thì không khó gì. Chi bằng mình tương kế tựu kế, vừa có thể gạt đưa trượng phu về sơn trại, lại không cần phải thật sự gây hại đến tính mạng Dương Lăng."
Đảo mắt nhìn thấy sự quan tâm lo lắng trong ánh mắt Dương Hổ, gò má nàng bất giác nóng lên, thầm cảm thấy hổ thẹn: "Vì một kẻ không liên can, sao mình lại có thể để chàng khó xử như vậy? Thôi đi! Mình còn vọng tưởng làm hiệp đạo(*) gì chứ? Nếu ông trời cho mình cơ hội ra tay, thì... đó sẽ là ý trời vậy. Ôi, Dương Lăng ngươi hãy tự thu xếp cho tốt đi..."
(*: kẻ cướp nghĩa hiệp; như Robin Hood)
* * *
Dương Lăng tìm được mộtc xe bò, cho chở vị hoàng hậu Mãn Đô Hải vào thành, đến thẳng phủ Đại vương. Nghe nói bà lão tướng mạo tầm thường này chính là Mãn Đô Hải uy danh hiển hách trên thảo nguyên, Đại vương liền vội gọi quản gia dọn riêng một căn biệt viện, điều bốn tên tiểu thái giám, bốn cung nữ hầu hạ ăn uống ngủ nghĩ của bà ta. Đồng thời lão ta dặn đi dặn lại phải tuyệt đối giữ bí mật, vạn lần chớ để lộ chút tin tức gì.
Thu xếp thỏa đáng xong xuôi, Dương Lăng bèn trở về dịch quán. Y nghĩ cũng nên bẩm báo với Chính Đức những chuyện xảy ra mấy ngày nay, có điều không biết hiện tại hắn có còn làm cái đuôi của Đường Nhất Tiên hay không.
Dương Lăng cởi áo choàng đưa cho thân binh thị vệ, rồi nói nhỏ với Trương Vĩnh:
- Công công hãy trở về nghỉ ngơi trước, khi nào thích hợp thì gọi ta một tiếng! Chúng ta phải bẩm báo chuyện quan trọng này với Hoàng thượng.
Trương Vĩnh khẽ gật đầu, mỉm cười đáp:
- Ta biết rồi, đại nhân yên tâm.
Lão cũng biết mấy ngày nay Hoàng thượng cứ bám theo tiểu nha đầu họ Đường chạy khắp nơi. Trước nay chưa từng thấy hoàng thượng để tâm tới một người con gái nào như vậy nên lão biết rõ rằng vị cô nương này có địa vị không nhỏ trong lòng hắn. Do đó Trương Vĩnh cũng không dám thất lễ với Đường Nhất Tiên.
Hơn nữa, nhờ thế mà Chính Đức không còn nhao nhao đòi ra ngoài đường dạo chơi nữa, đây xem như là niềm vui bất ngờ rồi, khiến cho Trương Vĩnh cũng bớt lo. Lão chỉ mong sao Hoàng thượng cứ ở trong dịch quán cả ngày như thế này.
Đợi khi Trương Vĩnh trở về hậu viện, viên thị vệ mới thấp giọng bẩm:
- Đại nhân! Liễu thiên hộ đã trở về rồi, đang chờ ngài trong thư phòng ạ.
Từ khi đến Đại Đồng, Liễu Bưu liền ẩn vào trong bóng tối, chuyên phụ trách tin tức thám mã các nơi, bình thường không trú đóng trong dịch quán. Hắn đến xin gặp ắt có đại sự, Dương Lăng liền vội trở lại thư phòng. Thấy y trở về, Liễu Bưu lập tức đứng dậy chào, Dương Lăng bảo:
- Ngồi xuống đi, không cần giữ lễ! Sao rồi, có tin tức gì không?
Liễu Bưu cảm ơn rồi ngồi xuống, chống hai tay xuống gối báo cáo:
- Đại nhân! Bọn ti chức vẫn đang điều tra những chuyện mà ngài dặn dò. Hiện có một nhân vật cực kỳ khả nghi, có điều hắn rất có ảnh hưởng ở Đại Đồng này, vai vế rất đặc biệt. Do đó, trừ phi phải dùng đến chiêu bài Nội xưởng của chúng ta, bằng không sẽ không thể điều tra tiếp được nữa, cho nên ti chức phải đến xin chỉ thị của đại nhân.
Dương Lăng kích động hỏi:
- Hắn là người khả nghi ư? Là người nào? Là người trên chốn quan trường sao?
Liễu Bưu đáp:
- Đại nhân! Người này họ Vương tên Long, trong nhà hắn kinh doanh đủ thứ từ ngựa trâu da cỏ, cho đến ngọc ngà châu báu, trà muối thuốc thang, là đệ nhất phú hào ở Đại Đồng. Toàn bộ dãy trái con phố Hoa Lỗi đều là sản nghiệp của hắn, cho nên ban đầu được gọi là "Vương bán nhai"(*); hiện tại thế lực hắn càng lúc càng lớn, phủ đệ của hắn đã được dân chúng gọi vui là "Vương phủ"."
(*: bán nhai là nửa con phố)
Dương Lăng biết ắt còn phần sau, nên chỉ im lặng lắng nghe. Liễu Bưu nói tiếp:
- Khách mua mớ gia súc tập trung ở Lý Gia tập vừa rồi là người từ đất liền, là... quản gia của phủ Thọ Ninh hầu. Cuối năm ngoái phủ hầu đặt mua hai trăm khoảnh đất, cho nên mới sai quản gia đến phương bắc thu mua trâu ngựa. Thương nhân cung cấp hàng hoá chính là Vương Long, bởi nguồn hàng của hắn tập trung ở ngoài thành cho nên mới hẹn giao dịch tại Lý Gia tập. Kẻ biết việc này chỉ có hai nhà bọn họ.
Không lý nào phủ của Thọ Ninh hầu lại tư thông giặc Thát, cho nên cái tên Vương Long chỉ trong hơn mười năm nhảy vọt lên thành đệ nhất phú hào bản địa là kẻ đáng ngờ nhất. Thêm vào đó, những thứ quân giới như kiên giáp nhà binh, yên ngựa, móng sắt, mũ sắt, thậm chí cả binh khí nữa; mặc dù không có ai công khai hỏi mua nhưng Vương Long lại thu mua một lượng lớn số quân giới bán thành phẩm có giá rẻ này. Hơn nữa hắn buôn bán với quan ngoại, đa phần xe lừa xe ngựa của hắn chuyên thồ hàng ra ngoài quan ải, cũng chỉ có hắn mới có khả năng lén chở những thứ này ra. Đương nhiên... hiện nay Hàn lão gia tử cũng đã có thực lực này.
Liễu Bưu nói đoạn mỉm cười, Dương Lăng nghe xong cũng bật cười ha hả, rồi bảo:
- Kể tiếp đi!
- Dạ!
Liễu Bưu nói tiếp:
- Hiện nay chiến sự căng thẳng, đại nhân ngài đã đến tiền phương tuần thị, đương nhiên tì tướng thủ thành đều phải phòng ngừa quan khâm sai đến nghiệm xét bất ngờ, cho nên những kẻ tầm thường không thể ra ngoài quan ải được nữa. Nhưng ti chức đã điều tra được trong mấy ngày nay lại có một vị thương nhân buôn ngọc họ Bao từng ra khỏi cổng thành.
Vị thương nhân họ Bao này có quan hệ mật thiết với Vương Long. Kinh doanh ngọc thạch nơi đây chẳng kiếm lãi được bao nhiêu mà hắn có thể đứng vững không đổ, có thể nói hầu như đều nhờ có Vương Long chống lưng. Hơn nữa tên bảo vệ cận thân như hình với bóng của hắn lại là một người Mông Cổ tên A-Man.
Dương Lăng nhíu mày:
- Tiền phương có hai đội quân giao chiến vậy mà hắn vẫn có cách xuất quan? Bản lĩnh lớn thật!
Liễu Bưu cười khan một tiếng, rồi thấp giọng báo:
- Đại nhân! Ngài biết tướng lĩnh biên quân khi vừa nhậm chức thì có hai nhiệm vụ quan trọng gì không? Một là phòng bị giặc Thát lên ải, hai là phòng bị binh sĩ xuống ải. Nếu thật sự muốn ra ngoài thành thì thực tế lại không khó khăn gì.
Dương Lăng lấy làm lạ hỏi:
- Phòng bị giặc Thát lên ải thì ta hiểu, còn phòng bị binh sĩ xuống ải nghĩa là sao?
Liễu Bưu đáp:
- Đại nhân! Giao dịch cùng người Mông Cổ luôn luôn có thể kiếm được món lợi kếch sù. Một cái nồi sắt bình thường, một bao muối ăn nho nhỏ hoặc một bánh trà loại kém nhất, ở ngay nơi đây thì không đáng mấy văn tiền, nhưng lại có thể đổi được rất nhiều bạc từ chỗ người Mông Cổ, hoặc là được người Thát mang da thú đắt tiền, dược liệu trân quý ra trao đổi.
Cho nên không chỉ thương nhân lén lút qua ải, mà thậm chí là binh sĩ thủ thành cũng thường xuyên giấu bao muối trên người, đầu đội nồi sắt buộc bằng dây thừng chạy ra ngoài thành giao dịch với người Mông Cổ. Hai năm trước binh sĩ nổi loạn giết chết quan tổng binh, mặc dù bảo nguyên nhân là do tổng binh cắt xén tiền lương nhưng biên quân không thể chỉ sống dựa vào chút bạc đó. Nếu không phải vì hắn cai quản quá nghiêm, không cho binh sĩ...
Dương Lăng hiểu ý, lẳng lặng gật đầu:
- Chắn lấp không bằng khơi thông, điểm này bản quan cũng biết. Cũng giống như ngư dân vùng duyên hải vậy, có biết bao người không thể chống lại lệnh cấm mở cửa biển thông thương, giao dịch với người nước ngoài, cuối cùng bị ép phải ra biển làm cướp. Ôi! Chờ Hoa Đáng đến rồi, ai mà thật lòng buôn bán thì rộng rãi một chút, kẻ nào rắp tâm cướp bóc thì khiến chúng nếm chút đau khổ. Hà khắc như vậy sẽ chỉ tự khiến mình rơi vào hoàn cảnh khốn khó mà thôi.
Liễu Bưu nói tiếp:
- Do đó việc tên họ Bao này có thể ra khỏi thành cũng chẳng có gì là lạ. Vấn đề là hiện tại ngoài quan ải thiết kỵ tung hoành, khắp chốn là quân, hắn kiếm đâu ra người mua hay người bán ngọc? Việc này hết sức khả nghi! Hơn nữa con đường y đi là do Vương Long vẽ ra, tì tướng canh giữ cổng tây là huynh đệ của Vương Long, cho nên hết thảy mọi điểm đáng ngờ đều chỉa về phía Vương Long.
Nhưng Vương Long giao du rất rộng ở nơi đây. Trong quân, phủ nha, vương phủ đều có một đám người tay nắm quyền cao xưng huynh gọi đệ với hắn. Nếu không có bằng chứng thì đám thuộc hạ thực khó mà tiếp tục điều tra. Thật ra... Trước trận đại chiến này, Vương Long mới vừa mua một lượng lớn da thuộc và sắt ròng. Những món hàng này quá lớn, cho nên nếu hắn quả thực có giao dịch cùng giặc Thát thì nhất định vẫn chưa kịp vận chuyển ra ngoài hết.
Nhưng bề ngoài hắn là lái buôn trâu ngựa, nên nếu hắn nói mớ vật dụng này được dùng để chế tạo yên ngựa và móng sắt cũng sẽ hữu lý, không thể lấy đó làm chứng cứ buộc tội hắn ta. Nhưng nhà họ Vương đó có xưởng riêng, nếu như những thứ này vẫn chưa được vận chuyển ra ngoài, ắt hẳn vẫn còn đang được chế tạo thành chiến giáp, đầu giáo, các loại quân giới. Nếu chung ta cho người xông vào phủ lục tìm, tịch thu thì sẽ có chứng cứ ngay.
Vấn đề lại nằm ở địa vị của hắn. Ngộ nhỡ kiểm tra không thấy tang vật, vậy tiếng xấu bức hại người địa phương sẽ rơi lên người chúng ta, cực kỳ bất lợi cho đại nhân ở bản địa. Biên cảnh trọng địa, ngộ nhỡ gây nên hỗn loạn thì thực sẽ...
Dương Lăng chắp tay đi đi lại lại trong phòng một hồi rồi bảo:
- Nếu hắn đã có thế lực trong quân đội và ở địa phương lớn như vậy rồi, mà hắn lại đúng là gian tế thì nhất định sẽ nắm được không ít tin tình báo. Hoa Đáng đã sắp đến, chúng ta thật sự không có thời gian để từ từ điều tra, nhất định phải giải quyết dứt khoát, mau chóng gạt bỏ hết tai mắt của giặc Thát.
Ngươi hãy thuật lại tỉ mỉ tình hình của hắn đi! Xưởng vệ chúng ta giỏi nhất là gài tội cho kẻ vô tội, bản quan không tin chúng ta không có cách nào bắt được cái tên phản tặc đáng ngờ này.
- Dạ!
Liễu Bưu bèn đem tính tình, sở thích, thói quen và những mối quan hệ của Vương Long kể ra một lượt như thể đã nắm rõ trong lòng bàn tay. Lúc còn trong Cẩm Y Vệ hắn từng là một hiệu úy khăn đỏ(*) cực kỳ tinh minh, lại được Ngô Kiệt chỉ điểm thêm nên đã trở thành một nhân viên tình báo đạt chuẩn. (*: nguyên văn đề khởi, một loại khăn các võ sĩ ngày xưa hay quàng)
Dương Lăng lại từng nói với hắn rằng, khi điều tra một người nào đó đều cần phải nắm rõ thêm về tính tình, sở thích, đặc điểm thói quen, quan hệ bạn bè thân hữu, thậm chí là một ít sở thích không muốn cho người ta biết của kẻ đó. Bởi thông thường có khi một cái thói quen nhỏ, một chi tiết nhỏ không ai chú ý lại chính là lỗ hổng có thể khoét vào, cho nên Liễu Bưu kể mọi thứ một cách hết sức tường tận. Thật khó để y có thể nắm bắt được hết bấy nhiêu chi tiết trong vòng một ngày. Song chúng ta nên biết rằng Vương Long là một nhân vật hết sức có vai vế ở Đại Đồng, thế nên chuyện này cũng không có gì là lạ.
Nghe xong, Dương Lăng ngửa mặt lên trời suy nghĩ một chốc, rồi cười ha hả bảo:
- Phố Hoa Lỗi, Thập nhị cẩm bình! Ha ha! Được lắm, đối diện con phố đó có "Hâm Thịnh lâu" phải không? Hãy bao hết nó lại, đổi toàn bộ tửu khách thành người của ngươi...
À không! Báo nhạc phụ của bản quan thu xếp cho vài người bản xứ trên tầng hai, nhưng phải là thám tử đã bí mật gia nhập Nội xưởng và người nhà của bọn họ, nhất định phải đáng tin cậy mới được. Hà hà! Ngày mai chúng ta sẽ diễn một vở lão gia hống hách diễu võ dương oai, ức hiếp "bá tánh"...
Liễu Bưu nghe xong bèn chắp tay cười thưa:
- Kế của đại nhân rất hay! Trừ phi hắn không bị gạt, bằng không chúng ta sẽ đóng vai khâm sai phụng chỉ vì dân trừ hại. Ha ha, lại nhờ có vị kia đứng ở sau lưng(*) nên không cần đại nhân ra mặt, các vị Đại vương, Hồ tuần phủ và Dương tổng chế cũng sẽ chủ động áp chế nhân mã các nơi, không ai làm bậy được. Vậy ti chức đi thu xếp đây.
(*:ý chỉ Chính Đức)
Dương Lăng mỉm cười nhìn theo bóng Liễu Bưu khép cửa rời đi, lẩm bẩm một mình:
- Vương Long! Nếu như ngươi chỉ háo sắc vô hạnh thì coi như là ta trừng phạt ngươi nhè nhẹ một tí rồi thôi. Nhưng nếu ngươi thật sự tư thông với giặc Thát... thì ngươi hãy tự lo thân của mình đi!
Chương 203: Muốn Đổ Tội Cho Người
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Chính Đức sáp đến cạnh Đường Nhất Tiên, thấp giọng cười nói:
- Con ong mật đã bị đại tiểu thư cô thu hút đến đây rồi. Hãy xem chốc nữa tôi sẽ đập hắn một phát chết như thế nào nhé!
Đường Nhất Tiên hừ mũi, giọng xem thường:
- Với ngươi hả? Có thấy vóc người của hắn chưa? Cẩn thận người ta đập cho ngươi một phát dính vào tường. Thật tội nghiệp, ta còn phải tốn sức bóc ngươi xuống đấy!
Chính Đức nhìn vẻ nửa hờn nửa giận cực kỳ xinh đẹp của nàng, nao nao trong lòng bèn trêu:
- Lạ nhỉ, tôi là người thế nào của cô mà phải khiến cô giúp tôi dọn xác thế nhỉ? Hề hề hề...
Đường Nhất Tiên "ngây thơ" đáp:
- Việc đó hả? Bình thường khi thấy con mèo, con chó, con gà nè, mấy con vật nho nhỏ mà bị chết ta cũng đều có lòng tốt đem chôn chúng hết mà!
Phố Hoa Lỗi nằm ở phía tây nam của cổ lầu(*), là con đường nối liền nam bắc Đại Đồng. Trên phố lầu cao nhà thấp được xây san sát trật tự ngăn nắp. Rất nhiều hộ giàu có tập trung tại nơi này, giữa phố có vài khách sạn và tửu lầu. Bên trái con phố trông xa hoa và sang trọng hơn, nhưng hầu như suốt cả dãy phố đều là sản nghiệp của Vương phủ.
(*: lầu canh có đặt trống lớn dùng để báo động)
Vương Long tiền nhiều thế mạnh, phòng ốc trong nhà rất rộng. Tổng diện tích phủ viện của hắn gần như không thua gì phủ ở của Đại vương đặt ở khu hoàng thành, cho nên cũng được lắm kẻ nhiều chuyện gọi là "vương phủ".
Vương Long kiêu căng dâm dật xa hoa, thê thiếp rước về vô số. Nơi này kế liền tái ngoại, nếp sống phóng khoáng mà Vương Long cũng không hề có phong thái thân sĩ phú gia. Thường ngày hắn hay đưa đám vợ đẹp thiếp xinh lên gác tía nằm sát ven đường, cho trang điểm làm dáng rồi ra đứng dựa vào lan can, thu hút cánh đàn ông khắp thành đổ xô đến chen nhau xem người đẹp.
Trong số mỹ thiếp của hắn có mười hai người có nhan sắc đẹp nhất, bèn có kẻ giỏi vuốt đuôi ngựa thừa dịp tâng bốc gọi thê thiếp của Vương Long là "Thập nhị cẩm bình"(*), ý là khi mười hai vị mỹ nữ này đứng xuất hiện trên gác tía liền như mười hai bức bình phong tinh mỹ tuyệt luân khiến người ta mê mẩn không rời.
(*: mười hai bức bình phong mỹ lệ)
Vương Long sớm đã rao tin hôm nay sẽ đưa đám mỹ thiếp lên lầu khoe dáng, việc này đã lan truyền khắp cả thành. Đường Nhất Tiên nghe đám gia đinh trong vương phủ to nhỏ thì thầm, nàng không biết rõ nội tình nên tưởng rằng nhà giàu nào đó sẽ cho trưng bày đồ báu quý hiếm.
Hôm nay "Hâm Thịnh lâu" đã bị Liễu Bưu bao hết. Nếu như muốn "đào hố" để dụ Vương Long sập bẫy thì hiển nhiên hắn không thể làm gì lộ liễu, chỉ là toàn bộ tòa tửu lầu hai tầng này thì trên dưới, trong ngoài đều đã có tửu khách ngồi đầy từ rất sớm. Nếu có người khách nào muốn vào thì đương nhiên sẽ đành phải tìm một quán khác.
Dương Lăng vận bộ thiên mã bì bào(2), đầu đội mũ da chồn, chân mang đôi giày da màu đen lợp gấm, trang phục tuy sang trọng song lại không quá phô trương. Thêm vẻ tuấn tú anh tài, khí phách y như một vị công tử tiêu sái thời loạn thế. Đứng sau lưng y là một thư đồng nho nhỏ áo xanh mũ dưa tuấn tú; chính là Hoàng đế Chính Đức.
Dương Lăng muốn dụ cho tên Vương Long háo sắc mắc câu, trong tay y đã có sẵn Đường Nhất Tiên xinh đẹp như hoa làm mồi nhử. Đường Nhất Tiên nghe xong mưu kế của Dương Lăng thì thích thú đến độ cứ cười khanh khách mãi. Cô bé này tính vốn nghịch ngợm, lại có cơ hội giúp đỡ biểu ca thân nhất của mình nên đương nhiên đồng ý ngay.
Vốn Dương Lăng định giấu Chính Đức, nào ngờ hắn nghe được tin này từ miệng Đường Nhất Tiên, thế là nằng nặc sống chết gì cũng đòi đi theo. Dương Lăng định bắt hắn cải trang thành thư đồng để làm khó, ai dè vị tiểu Hoàng đế không bao giờ hành động theo lẽ thường này vừa nghe liền mừng như cầu còn không được. Thế là không đợi Dương Lăng nói xong, hắn liền đã chạy vụt đi sai Trương Vĩnh kiếm về một bộ đồ xanh mũ dưa hí hửng mặc vào.
Dương Lăng hết cách, đành phải dẫn theo "ông tổ sống" này đến lầu Hâm Thịnh. Tửu khách trong quán đều là đại nội thị vệ vận áo quần đủ kiểu; xen lẫn trong đám du khách, lính nhàn, bán rong và đám đầy tớ chen nhau chờ ngắm mỹ nhân trên phố cũng có không ít người là phiên tử của Nội xưởng.
Trong "Thái Bạch cư" bên cạnh "Hâm Thịnh lâu", cửa sổ của một căn phòng trang nhã đối diện với cửa sổ tầng hai cũng được mở ra, lửa trong lò than trong phòng cháy hừng hực. Một người tóc hoa râm vận áo bào xanh, trên búi cài một cây trâm ngọc khẽ nhíu mày nói:
- Vương Long thực làm càn quá! Khi không lại bày ra cái hội "Thập nhị cẩm bình" gì đó. Lão Du à, ông nên khuyên hắn bớt phóng túng chút đi.
Ngồi ở đối diện là Du viên ngoại vận áo gấm hoa văn hình tiền đồng, khuôn mặt tròn trịa bẩm sinh luôn mang theo một nụ cười trên mặt như Phật Di Lặc. Hắn lấy khăn tay lau mồ hôi hai bên thái dương, cười hà hà đáp:
- Chính vì phô trương như vậy mới sẽ không có ai nghi ngờ nhân thân của hắn. Tôi lại thấy Vương Long cải trang làm thân hào vô lại rất thành công. Mọi người đều biết hắn trầm mê tửu sắc, đám quan lớn địa phương cáo già như Hồ Toản và Dương Nhất Thanh còn nghi ngờ tên đại thương nhân bên ngoài đầy tiếng xấu, khắp người nồng mặc mùi tiền đó là người của chúng ta sao?
Người áo xanh hừ nhạt một tiếng, nói:
- Vấn đề là không phải Vương Long giả vờ làm vậy, mà là bản tính đã thế. Cẩn thận chứ chơi với lửa có ngày bỏng tay đó!
Du hộ pháp cười hà hà, không hề lựa lời giải thích tiếp. Trong Di Lặc giáo cũng chia bè phái, ba vị thiếu giáo chủ dần dần trưởng thành, cả ba đều bỏ công lôi kéo những trưởng lão đang nắm thực quyền trong giáo. Vương Long là người của Lý Đại Nghĩa, lão áo xanh lại là một vị nghiệp sư (thầy dạy) của Lý Đại Nhân, cho nên đương nhiên lão không có thiện cảm với Vương Long.
Đứng ngoài cửa là một thanh niên dáng vóc cao to, ánh mắt sắc bén, tuy ăn mặc như nô bộc song lại ẩn chứa khí thế lạnh lùng uy dũng, như ẩn như hiện, có khí thế khiến cho lòng người khiếp sợ. Thấy lão áo xanh khoát tay, hắn biết hai người muốn bàn luận về vấn đề cơ mật hơn, bèn khẽ gật đầu rồi lặng lẽ lui ra ngoài đợi.
Người áo xanh cầm đũa gắp một miếng thịt dê trụng vào trong nồi lẩu sôi, rồi chấm vào chén gia vị cho vào miệng, vừa nhai vừa hỏi:
- Đám người Hoa Đáng đã đến rồi, phỏng chừng mấy ngày nữa sẽ liên lạc với họ Dương. Sự nghiệp đồ long cấp bách vô cùng, con ưng đó hiện thế nào rồi?
Du viên ngoại mỉm cười đáp:
- Yên tâm, gần đây hắn vẫn luôn hoạt động trong vùng Bình Thuận; nhưng một khi nhận được tin tức, đội khoái mã khinh kỵ chỉ trong nháy mắt sẽ có thể tới ngay. Ha ha! Bọn chúng cũng rất quan tâm, chắc chắn chúng sẽ tới! Không cần lo lắng!
- Ừ!
Người áo xanh gật đầu hài lòng, rồi nói tiếp:
- Quan trọng nhất là người mở ải không để xảy ra chuyện, phải bảo đảm cho con ưng đó vào thẳng trong cung, thăm rồng đen được ngọc châu(3). Nếu lỡ bị cầm chân thì sẽ không dễ tiến hành được nữa.
Du viên ngoại sờ chiếc cằm ba ngấn, nói khẽ:
- Thảng như hai quân giằng co, đội kỳ binh nọ của giáo chủ...,
Nói đoạn hắn chém mạnh bàn tay núc ních của mình xuống.
Người áo xanh khẽ lắc đầu, cười nhạt:
- Nói xằng! Thời gian ít ỏi, ngươi cho rằng giáo chủ có thể khống chế hơn vạn nhân mã đó ư? Cùng lắm tới lúc nguy cấp sẽ giết tướng xông vào, nhiễu loạn bố trí của chúng. Lai lịch của giáo chủ vẫn chưa thể bại lộ, binh quyền cũng vậy!
Du viên ngoại cung kính đáp:
- Dạ, tôi đã hiểu rồi.
*****
Cửa sổ lầu gác đối diện lần lượt được mở ra. Từng người đẹp vận lụa hoa đính ngọc, trang điểm lộng lẫy, vuốt tóc làm dáng xuất hiện sau cửa sổ. Trên con đường phía ngoài cửa sổ tức thì vang ầm những tiếng reo hò hoan hô, trông còn náo nhiệt hơn cả hội chùa.
Trông những mỹ nhân này, dáng điệu quyến rũ, dung nhan mỹ miều, nhưng hành động như vậy thực giống như tuyển chọn hoa khôi trong nhà thổ vậy. Đường đường là hào phú thế gia giàu nhất Đại Đồng mà lại bắt nữ quyến của mình xuất đầu lộ diện(4) như thế này, lấy việc người qua đường bình phẩm đủ điều làm thú vui thực là khó bề tưởng tượng. Ngay cả Dương Lăng cũng không khỏi nhìn thấy mà lắc đầu.
Một gã đàn ông lực lưỡng vóc người cao to vạm vỡ, vận áo lông cáo trắng như tuyết vừa cười lớn vừa bước lên lầu gác, vênh vang đắc ý. Những người con gái cực kỳ quyến rũ nọ lần lượt ngồi xuống trước cửa sổ, hoặc đánh đàn tỳ bà hoặc khảy cầm thổi sáo, mỗi người tự biểu diễn tài riêng của mình.
Dương Lăng còn tưởng rằng vị Vương Long này ắt là tay phú ông đã bị tửu sắc gạn đãi hết tinh lực, không ngờ hắn ta lại là một gã đàn ông lực lưỡng tráng kiện như vậy. Thân cao bảy thước ngang tàng, mặt vuông mày rậm đường hoàng oai phong, thực rất có khí chất uy vũ. Đúng là không thể nhìn mặt mà bắt hình dong.
Tài nghệ của những cô gái ấy đích thực bất phàm, chỉ tiếc là đám đàn ông dưới phố chỉ biết thưởng thức cái đẹp bên ngoài. Bọn họ đã nhìn ngắm thỏa thích lúc các cô đứng trên cao nhìn xuống, ngực nhô eo thắt, da trắng thịt mềm; người thì lả lơi đến tận xương, người lại xinh đẹp động lòng người, kẻ lại thanh lệ thoát tục, muôn vẻ phong tình không chỉ có một, quả thực no mắt. Lúc này ngoại trừ những đại gia lắm tiền ngồi trên tửu lầu đối diện, đám đàn ông ít tiền chỉ nghe thấy tiếng mà không nhìn thấy người cho nên đương nhiên bọn họ cũng muốn đánh trống reo hò một phen. Thế là dưới đường chợt vang lên những tiếng trống chiêng inh ỏi lấn át cả âm thanh thánh thót.
Dương Lăng nháy mắt với Liễu Bưu đang đeo một túi vuông sau lưng cải trang làm người bán dạo, Liễu Bưu hiểu ý bèn lặng lẽ đi xuống lầu. Dương Lăng không hề liếc mắt đến những món ăn thịnh soạn bày ra khắp bàn, y khép hờ hai mắt nghĩ về lời Liễu Bưu nói với mình hôm qua: "Vương Long này cực kỳ háo sắc, lấy việc thu thập mỹ nữ làm thú vui. Mỗi khi gặp được con gái nhan sắc thật đẹp, ắt là hắn vung nhiều vàng ra dụ dỗ, hoặc hứa hẹn lợi danh nhằm lừa gạt cưỡng chiếm, nạp vào trong nhà hưởng lạc thú."
Dương Lăng khẽ mỉm cười. Vừa rồi y đã nhìn thấy những mỹ nữ nọ, bọn họ quả thực đều là những mỹ nhân vô cùng xinh đẹp, mỗi người lại mang một vẻ phong tình riêng. Tuy nhiên cả bọn lại không có được một người con gái nào xinh đẹp lanh lợi đáng yêu, hờn vui đều đẹp như Đường Nhất Tiên. Nếu như Vương Long đã đam mê thu thập các loại mỹ nữ, vậy khi gặp được cô nàng, không lo hắn sẽ không động lòng.
Chỉ một chốc sau, Liễu Bưu đã dẫn Đường Nhất Tiên thong dong bước lên lầu gác. Phiên tử khắp lầu tức thì lặng im phăng phắc, như thể ngừng thở. Dương Lăng cũng không khỏi nhìn nàng chăm chăm.
Y chỉ căn dặn Đường Nhất Tiên ăn vận chỉnh chu sao cho vừa thanh nhã thoát tục khiến người ta vừa gặp liền sẽ khó quên, lại vừa phù hợp với thân phận tỳ nữ.
Còn về phần ăn vận thế nào thì Đường Nhất Tiên dù sao cũng từng là nha đầu vì hy sinh cho cái đẹp mà uống thạch tín, tuy rằng đã quên hết chuyện cũ, song cũng sẽ không mất đi ý thức thẩm mỹ. Dương Lăng lại không thông thạo thứ này cho nên cũng không đưa ra thêm ý kiến gì, thế nên đây cũng là lần đầu tiên y trông thấy Đường Nhất Tiên hoá trang.
Vốn tưởng rằng nàng sẽ trang điểm đơn sơ, áo đỏ váy xanh; không ngờ nàng lại ăn vận hết sức mộc mạc, không chút màu mè. Ngay cả bộ váy lụa đơm nhiều màu nhí nhảnh đáng yêu nọ cũng đã được thay.
Áo đen, váy đen, eo thon thít chặt
Tay áo khe khẽ đong đưa, mái tóc dài đen nhánh thắt thành hai bím thả dài xuống quá lưng, khuôn mặt láng mịn như trứng gà bóc, da trắng như tuyết, mắt như chấm mực, cả người như ngọc tuyết đẽo thành, thanh nhã thuần khiết rất mực.
Người ta thường nói "gái muốn xinh, mặc đồ trắng", không ngờ nàng vận bộ đồ đen ấy lại càng toát nên vẻ đẹp lạ thường khiến người ta chỉ nhìn một lần đã khó quên.
Đường Nhất Tiên ôm một chiếc đàn tranh, trên dây lưng giắt chéo một cây sáo bằng trúc tía, thong thả bước lên trên lầu. Trông thấy ánh mắt như bị hớp hồn của Dương Lăng, cô nàng không khỏi đắc ý mỉm cười tinh nghịch, liền đó lại trừng đôi mắt hạnh lườm Chính Đức đang đứng sau lưng biểu ca trương bộ mặt Bát Giới ra nhìn đăm đăm.
Chính Đức thấy vậy liền vội rất "hợp tác" mà đưa tay lên chùi miệng vờ như mới vừa rỏ dãi, khiến Đường Nhất Tiên trông thấy phải bật cười phì. Nàng vén tay áo đặt ngang chiếc đàn tranh lên bàn, rồi hấp háy mắt, liếc sang Dương Lăng dò hỏi.
Vị tiểu thư đồng sau lưng Dương Lăng chỉ là "đồ trang trí", Dương Lăng cũng không hề hy vọng hắn sẽ làm tốt bổn phận thư đồng của mình, cho nên y tự cầm bình rượu rót một chén rồi khẽ gật đầu với Đường Nhất Tiên.
Đường Nhất Tiên mỉm cười, cúi đầu điều chỉnh dây đàn rồi lướt khẽ mười ngón tay thon, một khúc nhạc đinh đang êm tai như dòng suối chảy phát ra từ những phím đàn. Đường Nhất Tiên tấu một khúc nhạc xưa, làn điệu chất phác, giai điệu tao nhã. So sánh với làn điệu mang nhiều phần lả lơi của "Thập nhị cẩm bình" bên lầu đối diện thì như sen nở trong bùn, trong trẻo mà không lẳng lơ.
Dương Lăng nhón tay nâng chén rượu, mỉm cười. Đây chính là "ý nghĩ khác thường", "cờ riêng một cõi". Nếu đặt nàng vào trong các buổi tranh tài ở thời hiện đại, một tuyển thủ thú vị và đặc biệt như vậy nhất định sẽ do dụng tâm khéo léo mở cho mình một con đường riêng biệt mà được giám khảo cho thêm điểm.
Điệu nhạc được cất lên, tiếng ca trong vắt êm tai từ trên lầu thong thả vọng ra ngoài.
"Xưa làm chim khách hồng trần, nay độ duyên tiên giới. Sương mát rửa đầu trần, mây khôn xanh rìa cánh. Tiếng đầu chim vỗ cánh, tiếng hai xây cầu kiều, tiếng ba Chức NỠlại, sóng gợn sâu trong mây... Có ai đang chạy đến, gió nổi giữa cầu mây, võ vàng trông tiều tụy, mắt đẫm lệ nhìn nhau... Tương phùng như giấc mộng, nguyện say trong giấc mơ, cùng anh chung giấc mộng, tỉnh lại đã sang năm."
(*: bài hát này kể về sự tích Ngưu-lang Chức-nữ)
Làn điệu cổ xưa kết hợp với lời thơ tao nhã, lại được cất lên bởi giọng hát lay động lòng người của nàng nên nghe càng thêm hay. Bài hát vừa xong, không chỉ toàn bộ mỹ nữ ở đối diện đứng dậy đưa mắt nhìn sang bên này, mà ngay cả vị Vương đại lão gia vóc dáng cao to nọ cũng chạy đến bên cửa sổ vịn song nhìn sang.
Người dưới lầu chỉ nghe thấy tiếng mà không trông thấy người, nhưng cũng đoán ra có người đang chèn ép thói kiêu ngạo của Vương Long. Bọn họ cảm thấy sẽ có kịch hay để xem, chi bằng mình châm thêm dầu vào lửa thế là lập tức reo hò khen hay. Thanh thế ấy tức thì áp đảo hoàn toàn "Thập nhị cẩm bình" bên lầu đối diện.
Nhắm mắt thưởng thức giai điệu xong, Dương Lăng mở mắt ra, mỉm cười:
- Xưa làm chim khách hồng trần, nay độ duyên tiên giới... Tiểu Tiên à! Giọng hát của em, tướng mạo và dáng người của em đều đáng yêu như chim hỉ thước trong mây vậy! Tuy không có cái oai khi phượng hoàng múa, vẻ đẹp của chim công khi xoè đuôi, nhưng thực hiếm có ở đây.
Đoạn y liếc nhìn sang mười hai "bức gấm" đẹp như mận như đào ở phía đối diện rồi khẽ thở dài:
- Thế giới ngày hôm nay thực sự hơi lắm phượng hoàng.
Đường Nhất Tiên bị ngữ khí tròng ghẹo của y trêu bật cười phì, vội đưa tay lên che miệng song vẫn cười duyên dáng:
- Biểu ca thật không có khẩu đức gì cả! Bao nhiêu đại mỹ nữ bị anh nhìn, còn bị anh nói lời độc địa.
Chính Đức cũng thở dài bảo:
- Đó mà là phượng hoàng gì chứ, chỉ là một đám gà kiểng...
- Hừ!
Đường Nhất Tiên liền sầm mặt trừng mắt với hắn, mắng:
- Tiểu tử ngươi càng không có khẩu đức!
Hoàng đế Chính Đức đảo mắt đáp lời:
- Nhưng mà tôi có chính đức(*).
(*: cũng có nghĩa là phẩm chất chính trực)
- Cái gì?
Đường Nhất Tiên nghe không hiểu, liền hỏi dồn.
Chính Đức bèn vội chuyển đề tài, cười nhỏ bảo:
- Nhất Tiên cô nương! Nếu cho tôi nói thì theo tôi, cô là cô, không cần phải bắt chước làm phượng hoàng, càng không cần giống như chim công gì cả.
Rồi hắn nhìn Đường Nhất Tiên thật sâu, buông từng chữ:
- Cho dù là một con hỉ thước nho nhỏ trong mây, cô vẫn sẽ áp đảo phượng hoàng, khiến muôn chim quy phục như thường!
Câu này từ miệng Chính Đức thốt ra tất nhiên đầy ngụ ý sâu xa. Đang ngồi mé ngoài cùng của tửu lâu, Trương Vĩnh nghe xong liền rúng động toàn thân. Đám thị vệ chung quanh cũng đều xuất thân từ đại nội, hiển nhiên hiểu rõ ý trong lời của Chính Đức. Nhất là Chính Đức xưa nay vẫn hi hi ha ha không chút nghiêm chỉnh nhưng lúc này ngữ khí lại nghiêm túc vô cùng. Ánh mắt bọn họ nhìn về phía Đường Nhất Tiên lập tức khác xưa.
Đường Nhất Tiên lại không hiểu ẩn ý trong lời của hắn, còn tưởng tên tiểu thân binh này lại đang vuốt đuôi mình, nịnh bợ Dương Lăng, thế là không khỏi chun mũi, làm mặt xấu với hắn. Rồi nàng uyển chuyển đứng dậy, rút cây sáo trúc được thít chặt từ bên chiếc eo thon thon đặt lên môi thổi.
Được nghe luật vần ưu nhã của khúc nhạc xưa, lắng nghe âm điệu tuyệt vời réo rắt của tự nhiên, một thư sinh anh tuấn nho nhã, một tiểu thư đồng áo xanh mũ dưa thanh tú, một tiểu tỳ áo váy đen tuyền dung nhan mỹ lệ, một cửa sổ một bầu rượu, trông như một bức tranh. Những mỹ nữ bên lầu đối diện không kiềm được mà đều nhìn đến ngây dại, ánh mắt ái mộ lưu luyến trên khuôn mặt của Dương Lăng và Chính Đức khôn thôi.
Cổ họng của vị Vương đại tài chủ Vương Long giần giật, chợt hắn chụp lấy chiếc chén vàng dốc rượu uống ực, rồi chùi chòm râu xồm, ánh mắt nhìn chằm chằm sang bên ấy.
Đường Nhất Tiên phùng má thổi tiêu, đôi mắt to biết nói dần lộ ra vẻ ranh mãnh. Nàng liếc Dương Lăng rồi lại đắc ý liếc sang Chính Đức, xoay trọn một vòng trên lầu. Trong lòng Dương Lăng máy động, y chợt nghĩ đến điều gì đó.
Quả nhiên, Đường Nhất Tiên đặt sáo thổi ngang, lúc này hai tay dần dần tách sáo ra khỏi môi nhưng môi vẫn hơi chúm lại, tiếng sáo vẫn du dương không dứt. Thanh sắc, âm điệu vẫn giống y như trước. Nàng dùng khẩu kỹ giả tiếng sáo khiến người nghe không thể nào phát hiện ra sơ hở, càng khó chính là ngay khi sáo tía rời môi, khẩu kỹ thế vào mà tiếng sáo vẫn liên tục và trôi chảy như vậy.
Thị vệ quanh lầu suýt nữa thì đã buột miệng khen hay, thế nhưng người con gái này nào để dành cho bọn họ biểu thị sự tán thưởng? Thế là lời ra đến bên miệng lại bị nuốt trở vào, có điều ai nấy đều phấn khích đến độ mặt mũi đỏ bừng. Chính Đức đang ngắm đến ngẩn ngơ, nếu không ắt đã dẫn đầu đám thị vệ mà hò hét om xòm rồi. Chỉ có Dương Lăng sớm đã đoán ra, không kiềm được mà khẽ vỗ tay, mỉm cười gật đầu với nàng.
Lúc còn ở "Thì Hoa quán", mỗi khi Đường Nhất Tiên biểu diễn đến tuyệt kỹ này, đám tửu khách đều reo hò khen giỏi, reo to nhất đương nhiên là những nam bộc được xếp trà trộn vào đám khách để hâm nóng bầu không khí. Lúc này tuy không có tú ông phụ hoạ, nhưng Vương Long đứng bên lầu đối diện trông thấy màn này liền khiếp sợ như thấy người trời, hắn đã vỗ mạnh vào thành cửa sổ kêu lớn:
- Hay! Thực là kỹ xảo diệu kỳ!
Màn này càng khiến hắn muốn thu nạp nàng hơn. Phải biết vị tiểu cô nương này chẳng những cực kỳ xinh đẹp, tài sắc vẹn toàn, mà hiếm ở chỗ là không ngờ nàng ta lại có khẩu kỹ cao minh như vậy. Di Lặc giáo giả thần giả quỷ lừa gạt dân quê, trong các loại ảo thuật ấy có một đạo cụ quan trọng không thể thiếu ấy là khẩu kỹ. Thảng như hắn thu nạp được nàng vào dưới trướng, há chẳng càng làm tăng thêm thực lực phe mình?
Đường Nhất Tiên nghe thấy đối tượng mình định dùng sắc để dụ dỗ nay cật lực phối hợp như vậy, làn thu ba liền đưa về phía hắn cười xinh rồi giắt sáo vào bên hông, ôm cây đàn tranh như muốn lui xuống lầu. Vương Long thấy vậy liền gọi:
- Cô nương khoan đã! Chờ chút! Chờ chút!
Hắn gấp đến độ không thể chờ xuống lầu vòng ra cửa hông để đi ra ngoài, mà giục quản gia mang thang lại, rồi leo thang xuống bờ tường sau, dẫn hai tên hộ vệ thân hình cường tráng đi về phía căn lầu nọ.
Chính Đức sáp đến cạnh Đường Nhất Tiên, thấp giọng cười nói:
- Con ong mật đã bị đại tiểu thư cô thu hút đến đây rồi. Hãy xem chốc nữa tôi sẽ đập hắn một phát chết như thế nào nhé!
Đường Nhất Tiên hừ mũi, giọng xem thường:
- Với ngươi hả? Có thấy vóc người của hắn chưa? Cẩn thận người ta đập cho ngươi một phát dính vào tường. Thật tội nghiệp, ta còn phải tốn sức bóc ngươi xuống đấy!
Chính Đức nhìn vẻ nửa hờn nửa giận cực kỳ xinh đẹp của nàng, nao nao trong lòng bèn trêu:
- Lạ nhỉ, tôi là người thế nào của cô mà phải khiến cô giúp tôi dọn xác thế nhỉ? Hề hề hề...
Đường Nhất Tiên "ngây thơ" đáp:
- Việc đó hả? Bình thường khi thấy con mèo, con chó, con gà nè, mấy con vật nho nhỏ mà bị chết ta cũng đều có lòng tốt đem chôn chúng hết mà!
- Cô...,
Chính Đức tức giận, hậm hực:
- Nếu tôi mà là Hoàng đế thì sẽ nạp cô vào cung rồi vứt vào lãnh cung, để cô làm bạn với bốn bức tường, ngồi đó ngóng trời. Ha ha ha...
Đường Nhất Tiên liền trả đũa:
- Nếu ta mà làm nữ Hoàng đế, ta sẽ không mất nhân tính như ngươi đâu. Ta nhất định sẽ nạp ngươi vào cung, hơn nữa còn sẽ cho ngươi theo cạnh ta suốt ngày.
Chính Đức mừng rỡ hỏi:
- Sao vậy? Muốn tôi làm Hoàng hậu của cô hả? Ha ha!
Đường Nhất Tiên nửa như cười nửa như không, đáp:
- Ta muốn ngươi làm tiểu thái giám bên cạnh ta đó, thấy đã đủ tốt với ngươi chưa? Ha ha ha...
Thấy bọn họ trêu nhau đưa tình, Dương Lăng cũng cao hứng thay cho cả hai.
Được tiên đế tán thưởng và gửi gắm con thơ, hơn nữa vị vua trẻ này lại không hề ra vẻ ta đây, đối đãi với y chân tình thân thiết, trong lòng Dương Lăng cũng đã mang máng coi hắn là anh em tốt của mình. Đường Nhất Tiên là bạn tốt của hai vị ái thê, lại nỗ lực hết mình vì y, hiện tại không chỉ Dương Lăng cáng đáng một danh hiệu biểu ca, mà y thật sự cảm nhận được tình cảm máu mủ tình thâm, nên đương nhiên mong nàng có hạnh phúc.
Tuổi tác Chính Đức xấp xỉ với nàng, tình đầu ý hợp. Nay Đường Nhất Tiên có địa vị là biểu muội của xưởng đốc đại nhân thế mà lại có hảo cảm với một hiệu úy nho nhỏ như vậy, rất có ý muốn được sánh duyên cùng hắn; điều này càng khiến y thật lòng cao hứng cho bọn họ.
Loáng thoáng nghe tiếng bước chân lên cầu thang, Dương Lăng vội ho khan một tiếng rồi bảo:
- Hắn đến rồi, cẩn thận một chút!
Chính Đức vội vụt lách ra sau lưng y. Đường Nhất Tiên cũng ôm đàn tránh ra sau lưng Dương Lăng. Vương Lăng bước huỳnh huỵch lên lầu, vừa thấy Dương Lăng liền hai tay ôm quyền, cười ha hả chào:
- Vị công tử đây khí độ bất phàm, không biết cao danh quý tính là gì? Hình như không phải là người Đại Đồng thì phải?
Dương Lăng mỉm cười đứng dậy, chắp tay đáp:
- Tiểu đệ là Ngô Thứ Nhân ở Tô Châu. Nghe đại danh Vương viên ngoại đã lâu, nghe báo hôm nay trên Hoa Lỗi nhai có hội "Thập nhị cẩm bình", tiểu đệ nhất thời nổi hứng bèn mang gia nhân cùng đến thưởng thức. Lại nhất thời ngứa nghề nên đã bảo tiểu tỳ cũng tấu một khúc nhạc trợ hứng. Nếu lỡ quấy rầy nhã hứng của Vương viên ngoại, cũng mong viên ngoại chớ trách.
Vương Long vừa trò chuyện vừa lia cặp mắt gian ra sau lưng Dương Lăng, nghe y giới thiệu xong liền ngẩn ra hỏi lại:
- Họ Ngô ở Tô Châu?
Đoạn hắn quan sát thấy Dương Lăng ăn mặc giản dị mà không dung tục, lại thấy nhân phẩm của thư đồng và tiểu tỳ sau lưng y, không khỏi kích động hỏi:
- Không biết công tử có quen biết Ngô viên ngoại Ngô Tế Uyên, người giàu nhất Tô Châu không?
Dương Lăng vội cung kính đáp:
- Chính là bá phụ của tiểu đệ. Vương viên ngoại cũng quen với bá phụ tiểu đệ ư?
Vương Long cười lớn đáp:
- Không quen, nhưng mà đại danh của Ngô lão thái gia giàu nhất Tô Châu thì ta lại đã nghe từ lâu.
Vương Long là phú hộ giàu nhất Đại Đồng, không khởi nghiệp từ đất đai mà phất lên từ buôn bán trong chiến tranh. Thâm tâm hắn thật sự không cho rằng tài sản của mình kém hơn Giang Nam Ngô Tế Uyên, chẳng qua hai nơi xa cách nên không cách nào đo đấu. Nhưng nhà họ Ngô là hào phú mấy đời, nếu luận thanh danh thì thực hơn xa một người phú hộ mới phất như hắn.
Nghe Dương Lăng xưng là con cháu của phú hộ giàu nhất Tô Châu, hắn không tiện ngang nhiên cướp người nữa, bèn cười hắc hắc nói:
- Ngô công tử! Giang Nam thế gia quả nhiên bất phàm à. Không ngờ tiểu tỳ trong nhà lại có đẳng cấp như vậy, ái thiếp trong phủ Vương mỗ cũng thua xa.
Công tử đến phương bắc để buôn bán phải không? Vương mỗ là kẻ sảng khoái, muốn thương lượng cùng công tử một việc. Đó là muốn xin công tử nhượng lại cặp người ngọc sau lưng cho ta, không biết công tử thấy thế nào? Vương mỗ nguyện lấy nhiều vàng báo đáp. Hơn nữa mọi ngành mọi nghề ở phương bắc Vương mỗ đều nhúng tay vào, chúng ta đã kết giao bằng hữu thì sau này có chuyện gì công tử cứ việc mở miệng; ta bảo đảm việc buôn bán của công tử sẽ hưng thịnh, tài nguyên tuôn vào cuồn cuộn, trở thành người con cháu được Ngô lão thái gia ưu ái nhất. Ha! Ha!
Thời ấy đừng nói là gia bộc thị tỳ mà cho dù là thiếp thất cũng có thể coi là hàng hoá mà tùy ý bán cho người khác; còn con cháu thế gia phú hào thì chỉ những ai biết phát huy tài năng lớn mới có thể được gia tộc trọng dụng. Vương Long tưởng rằng mình đưa ra lời hứa hẹn hấp dẫn như vậy thì vị công tử thế gia này nhất định sẽ vui vẻ đồng ý, cho nên nói xong liền vuốt râu cười tủm tỉm nhìn ra sau lưng Dương Lăng, như thể đã là gia chủ của cặp tiểu tỳ, thư đồng trước mặt rồi vậy.
Dương Lăng nghe vậy thì cười thầm. Tên này rõ ràng thèm thuồng Tiên Nhi, còn muốn "mua cơm tặng chén" mà cho thêm Chính Đức vào, như thể muốn mua một cặp gia nhân về trưng trước cửa vậy. Có điều không biết nếu như mình không chịu đáp ứng thì vị đệ nhất vô lại Đại Đồng này sẽ ra tay cưỡng đoạt như thế nào đây?
Dương Lăng vờ tỏ ra vẻ con cháu thế gia cao ngạo, trả lời bằng giọng không vui:
- Đa tạ nhã ý của Vương huynh. Thật ra muốn tìm được một thị tỳ vừa ý để coi sóc ăn uống ngủ nghỉ, khảy đàn cho đời thêm hương vị cũng không dễ. Thảng như Ngô mỗ nhượng lại vì tiền, há chẳng khiến người ta chê cười? Chẳng lẽ Ngô gia còn thiếu bạc hay sao?
Còn về phần buôn bán...
Y thoáng trầm ngâm, rồi tự phụ nói tiếp:
- Thiên hạ rộn ràng, ai nấy đều vì lợi. Chỉ cần giá cả phải chăng, có thể kiếm được lợi, ai mà không thể buôn bán cùng?
Hai tên hộ vệ tướng như cột sắt đứng sau lưng Vương Long liền nhướng mày, đạp mạnh chân đánh sầm, bước tới trước một bước. Dương Lăng hoảng sợ lui ra sau, biến sắc:
- Các... các ngươi muốn làm gì? Thông phán Đại Đồng Vạn đại nhân đã kết thông gia với Ngô gia ta đó!
Vương Long ngăn hai gã hộ vệ lại, ngắm nghía thư đồng tuấn tú và tiểu tỳ xinh xắn đứng sau Dương Lăng. Vị tiểu tỳ nọ mặt như tranh vẽ lại kiêm kỹ nghệ vô cùng cao minh, nếu như thu nạp được cô nàng thì thật sự sẽ trợ ích cho mình rất lớn. Nhưng vị thư đồng đó xinh như ngọc sáng, lại hiếm thấy ở chỗ là trong vẻ thông tuệ toát ra khí khái anh hùng bừng bừng; nếu mang anh bạn tuấn tú khó tìm này lên giường làm luyến đồng bầu bạn, không biết sẽ tiêu hồn cỡ nào?
Ngắm nhìn dáng vẻ của thư đồng anh tuấn cùng tiểu tỳ xinh đẹp này, Vương Long chỉ cảm thấy dưới bụng nóng rần, miệng lưỡi khô khốc. Hắn đắn đo chọn lựa hồi lâu mới hạ quyết tâm: mỹ nữ dễ tìm, còn một tiểu luyến đồng tuấn tú vừa ý như thế thực khó kiếm, bỏ tiểu nha đầu đó vậy!
Thế là hắn cười lớn rồi nói với Dương Lăng đang "sợ chết khiếp":
- Ngô công tử chớ hoảng sợ! Hai cái tên đần này là người thô lỗ, không hiểu phép tắc gì cả.
Đoạn hắn quay sang bọn chúng mắng:
- Cút sang một bên đi, đừng làm Ngô công tử sợ!
Rồi quay đầu lại tươi cười:
- Nếu đã như vậy thì quân tử không chiếm lợi kẻ khác. Tiểu nha hoàn này Vương mỗ cũng không tiện mở miệng. Có điều...
Ánh mắt dâm tà của hắn quét lên quét xuống Chính Đức trong bộ trang phục áo xanh mũ dưa, rồi cười ha hả nói thẳng:
- Nếu như Ngô công tử yêu quý thị nữ xinh đẹp này như vậy, vậy ắt là không thích nam phong rồi. Điều kiện của Vương mỗ không đổi, công tử nhượng lại tiểu thư đồng này cho tại hạ, thế nào?
"Thích nam phong?" Dương Lăng choáng người một lúc rồi mới hơi định thần lại. Y vô thức quay đầu nhìn về sau lưng, chỉ thấy Chính Đức mặt đỏ bầm như sung huyết, Đường Nhất Tiên thì đang cúi đầu cười khúc khích. Dương Lăng quay đầu lại nhìn Vương Long không biết nên khóc hay nên cười, nhất thời ấp úng không biết đáp trả thế nào.
Vốn dĩ mình định dùng Đường Nhất Tiên mê hoặc Vương Long, sao tên Vương Long này lại bị Chu Hậu Chiếu lôi cuốn thế này? Vốn mình dự tính ép cho Vương Long phải giở trò cưỡng đoạt, sau đó tìm cớ lục soát phủ đệ của hắn. Tìm được chứng cứ thì thôi, không tìm được chứng cứ thì với tội danh xúc phạm khâm sai cũng sẽ không sợ có người dám xúi giục quan viên hặc tội mình. Ai dè...
Mặc dù thời đại này thích nam phong là chuyện thời thượng, người làm luyến đồng sau này cưới vợ sinh con cũng vẫn sẽ không bị người khác kỳ thị, nhưng đó là người dân bình thường à. Đương kim Hoàng thượng giả làm thư đồng thì còn có thể nghe được, chứ bảo hắn cải trang làm luyến đồng gì đó thì... Sống trong yên ổn phải biết suy nghĩ đến ngày nguy nan à nha! Cái tội danh nhục mạ Thánh thượng này, vạn lần mình gánh không nổi đâu.
Luồng suy nghĩ của Dương Lăng diễn ra nhanh chư chớp. Y đang định trở mặt, lộ chân tướng khâm sai rồi sử dụng khẩu cung của người mà y bố trí sẵn để lục soát phủ đệ của Vương Long thì ở bàn bên, Trương Vĩnh đã nổi giận đùng đùng đập bàn đứng dậy, mắng to:
- Hỗn láo! To gan! Láo xược! Ơ... Vô sỉ! Đúng là phong hóa suy đồi, lòng người thua xưa!
Vốn lão mắng được nửa chừng thì trông thấy Chính Đức đưa mắt ra hiệu cho mình, mới giật mình sực nhớ danh phận đức vạn tuế không thể để lộ ra ngoài thế là lão bèn đổi lời, vờ như hủ nho đang đau lòng xót dạ cho luân thường đạo lý đang sa sút.
Đối với vị đại thiếu gia của thế gia Giang Nam thì Vương Long còn hơi úy kị, chứ còn lão già ăn vận như thương nhân bình thường như thế này thì hắn có gì phải kiêng kị? Hắn cười gằn sải bước xông tới trước mặt Trương Vĩnh, chọc ngón tay vào ngực lão, cất giọng ngạo mạn:
- Cái con thỏ già không râu này, đánh cái rắm gì thế?! Ông đây muốn chơi gái thì chơi gái, muốn chơi luyến đồng thì chơi luyến đồng, bởi vì ông đây có quyền, ông đây có tiền! Còn như mày, như nó, như mấy đứa nghèo kiết này, hãy ngoan ngoãn cúp đuôi về nhà mà tự chơi một mình đi!
Nói đoạn hắn thuận tay đẩy mạnh. Tuy Trương Vĩnh từng luyện qua võ nghệ, song thứ nhất là lão không kịp đề phòng, thứ hai phía sau khuỷu chân chính là chiếc ghế dài, lão chưa kịp nghĩ tới việc đứng tấn mã bộ thì đã loạng choạng lùi ra đằng sau, vấp phải băng ghế giáng mông xuống đất.
Vương Long cười ha hả, rồi vừa giả giọng vừa cong tay múa, hát một khúc dân ca:
- Ngã là ngã cái chỏng vó, đứng không được thì bò đi,
Chi bằng ngươi hãy cải trang làm con rùa nhỏ, ò dưới đũng quần Vương gia gia ta thôi.
Đã bao giờ Trương Vĩnh chịu phải nỗi sỉ nhục như thế này? Lão hiện là thống lĩnh mấy vạn đại quân Kinh doanh, là nhân vật thân cận của Hoàng thượng, thế mà...! Tiếc là tuy lão tím ruột bầm gan nhưng đã quen nghe theo mệnh lệnh của Chính Đức nên đành vẫn ráng nhịn, không dám ra oai đúng với chức vị của mình.
Vương Long dương dương tự đắc quay trở lại bên cạnh Dương Lăng, vừa nghĩ nếu như tên thiếu gia này vẫn không chịu nhượng luyến đồng thì mình sẽ lấy ngọc bội tùy thân vờ tặng cho thư đồng của y. Cái tên Ngô công tử không biết điều này ắt sẽ ra mặt ngăn cản, mình sẽ thuận tay vất đi rồi ép y phải bồi thường; đến lúc đó mình hét giá trên trời, còn lo gì y sẽ không buông tên tiểu đồng tuấn tú ấy ra?
Hắn nào ngờ Dương Lăng không dám để cho Chính Đức ra ngoài lại bị kẻ khác bỡn cợt. Không tra xét phủ của Vương Long cũng không sao, nhưng nếu bị hặc tội danh báng bổ quân vương là điếm đực thì thực không ai có thể vin cớ cải trang vi hành mà giải thích cho xuôi tai được. E rằng ngay cả Hoàng thái hậu cũng sẽ nhảy ra lấy đầu y mất thôi.
Nên vừa trông thấy tình cảnh như vậy, Dương Lăng lập tức quay đầu nói nhỏ với Đường Nhất Tiên mấy câu, rồi quay người lại quát:
- Dám xúc phạm khâm sai! Bắt hắn lại cho ta!
Ngũ Hán Siêu đang cải trang làm tửu khách lập tức lẻn nhanh đến trước mặt Vương Long như một con báo. Vương Long cả kinh, nhưng hắn vừa mới vung tay, Ngũ Hán Siêu đã vặn khớp tay hắn, nghe "rắc" một tiếng, khớp tay hắn đã bị tháo rời. Liễu Bưu đứng phía sau xông tới đá vào khuỷu gối hắn, mũi giày của Liễu Bưu được bọc sắt nên Vương Long lãnh cú đá này đau đớn vô cùng, hắn khuỵu gối "cộp" xuống đất.
Với võ công của mình, tối thiểu hắn cũng có thể đấu hơn hai mươi hiệp với Ngũ Hán Siêu; chẳng dè bị đánh bất ngờ không kịp đề phòng nên chỉ một chiêu đã bị chế ngự. Cánh tay đã bị Liễu Bưu đè quặt ra sau lưng, trừ phi giãy mạnh cho gãy luôn thì còn có thể sử dụng tay trái, bằng không hắn đừng hòng đứng dậy.
Thấy vậy hai tên bảo vệ của hắn cả kinh. Chúng vừa định xông lên, một "cây cột sắt" còn to cao hơn bọn chúng đã chắn ngang. Bộ râu Trương Phi xòe ra như cỏ bồng, Vương Đại Bổng Chùy nhếch to miệng cười nói:
- Không có đầu óc! Còn không chịu quỳ xuống!
Bọn chúng vừa thoáng sững người, lập tức "rèn rẹt" một loạt âm thanh ma sát ê răng do đao rút ra khỏi vỏ vang lên khiến người ta sởn da gà, sáu bảy thanh đơn đao mũi hẹp đã gác chéo lên cổ chúng.
Đường Nhất Tiên sáp lại gần Chính Đức, mày xinh mắt sáng tươi cười, che miệng nói nhỏ với hắn:
- Thực mất mặt chết thôi!
Người ta khéo trang điểm ăn mặc cho đẹp, hao tâm tốn sức khoe khoang bản lĩnh mà lại không khiến cho hắn ta thèm muốn bằng áo xanh mũ dưa của ngươi, hi hi!
Vương gia là kẻ giàu nhất Đại Đồng. Được hắn rước về sẽ có mấy chục chị em bạn dâu tốt bụng trang điểm lộng lẫy tiếp đón ngươi rồi. Nếu như ngươi muốn lấy chồng, ta sẽ xin biểu ca giúp cho ngươi.
Thâm tâm Chính Đức luôn mong mình là một bậc trượng phu anh hùng uy vũ, nay hắn lại bị Vương Long ngắm nghía một cách dâm dật trước mặt người con gái mình ngưỡng mộ nhất trong lòng, lại bị gã ta coi mình là luyến đồng trước biết bao thị vệ như vậy, quả thực hắn đang xấu hổ và phẫn nộ vô cùng. Nhưng sau khi nghe Đường Nhất Tiên trêu chọc, hắn lại chỉ cảm thấy tức cười, thế là một bụng nộ khí bèn tan theo mây khói.
Hắn lấy dũng khí khẽ thổ lộ:
- Mấy chục chị lớn xinh đẹp không bằng một Tiên Nhi nho nhỏ đáng yêu. Tôi thà nguyện ở lại nhà họ Dương làm hiệu úy, chỉ mong có thể thấy được dáng vẻ xinh xắn của nàng.
Đường Nhất Tiên bĩu môi, khẽ "xí" một tiếng. Đoạn ngẫm nghĩ không ngờ một người yêu chuộng vẻ đẹp hết mực như mình lại không bằng một đứa con trai; thế là nàng nỗi lòng oán hận, giơ chiếc giày cong lên đạp vào chân Chính Đức một cái, rủa:
- Ai bảo ngươi đẹp hơn ta, đạp cho chết ngươi nè!
Chính Đức cắn răng nhếch mép, chân thì đau mà lòng thì ngọt ngào.
Đám mỹ nữ bên cửa sổ lầu đối diện đang háo hức nhìn sang bên này, trông ngóng Vương Long dẫn về cho bọn họ một "tỷ muội" dễ thương tuấn tú. Tuy cách xa không nghe biết bên đó nói gì, nhưng vừa trông thấy cảnh đao thương cùng vung lên thì không khỏi kêu ré lên.
"Mười hai bức bình phong" đồng thanh ré lên, khí thế ấy thật như dời non lấp bể, vang dội núi sông. Dân chúng trong ngõ chỉ nghe bọn họ thét to "có ăn cướp", "bắt lấy cướp" song lại không biết đã xảy ra chuyện gì, có mấy kẻ nhiều chuyện định xông lên lầu nhìn. Lúc đó, "tửu khách" dưới lầu vừa nghe thấy tiếng động liền biết trên lầu đã ra tay, lập tức ai nấy đều rút đao, lắp nỏ, sát khí đằng đằng xông vọt ra. Đám người định xông vào tửu lầu thấy vậy vội phóng ngược trở ra, tốc độ còn nhanh hơn lúc xông vào gấp bội.
Vương Long sững sờ, la lớn:
- Ngươi... ngươi chính là khâm sai Dương đại nhân? Làm sao mà ta biết đại nhân cải trang đến đây, kẻ không biết không có tội. Thảo dân lỡ xúc phạm đại nhân, thiết nghĩ rót rượu bồi tội cũng được rồi, ngài lấy cớ gì để bắt ta? Thảo dân không phục!
Dương Lăng cười nhạt bảo:
- Ngươi xúc phạm khâm sai, đó là tội thứ nhất; tự xưng là vương gia, vượt quá khuôn phép, đó là tội thứ hai. Bản quan không được bắt ngươi sao?
Vương Long ngạc nhiên, biện bạch:
- Xúc phạm khâm sai, việc đó... thì cũng được đi. Nhưng thảo dân tự xưng vương gia lúc nào chứ?
Dương Lăng hơi nhếch miệng cười hiểm ác, bảo Đường Nhất Tiên:
- Tiên Nhi, em nói đi!
- Dạ, thưa đại nhân!
Đường Nhất Tiên mỉm cười khoe má lúm đồng tiền dạ một tiếng, rồi tay trái chống nạnh, tay phải chụm thành hình hoa lan, ánh mắt đong đưa, mặt tươi như hoa, cất tiếng hát:
- Ngã là ngã cái chỏng vó, đứng không được thì bò đi,
Chi bằng ngươi hãy cải trang làm con rùa nhỏ, bò dưới đũng quần bản vương gia thôi...
Dương Lăng cười nhạt nói:
- Nếu như ngươi là con hát, lời hát là về tiền triều thì cho dù là cải trang làm Hoàng đế đi nữa, bản quan cũng sẽ không trách ngươi. Thế nhưng ca từ là do ngươi sáng tác, ngươi lại là thân hào một phương, cả gan tự xưng vương gia, đó còn không phải là đại nghịch bất đạo ư?
Đoạn y vuốt cằm, nham hiểm cười nói:
- Cho dù là con hát hoá trang lên đài cũng không dám sắm vai vương tộc bản triều. Người ta nói no cơm ấm cật dậm dật khắp nơi, phải chăng Vương viên ngoại đang dậm dật mơ tưởng quyền bính?!
Vương Long há hốc miệng, một lúc lâu sau mới hét lớn một tiếng nhào người tới phía trước nhưng lập tức bị Liễu Bưu đè xuống. Mắt trợn tròn như sắp lồi ra, hắn quát:
- Ta và ngươi không thù không oán, vì sao ngươi hại ta? Ta nói là Vương gia gia, có nói là bản vương gia bao giờ? Ai có thể làm chứng đây? Quan binh của ngươi ư? Ha ha ha...
Tiếng cười của Vương Long chưa dứt, khắp tầng hai tửu lầu chợt có bảy tám chục người đồng loạt đứng dậy, có nam có nữ, có già có trẻ, tất cả đồng thanh:
- Chúng ta làm chứng!
Chú thích:
(1) trích từ thành ngữ "dục gia chi tội, hà hoạn vô từ" (có nơi nói gốc nó là "dục gia chi tội, kỳ vô từ hồ") nghĩa là nếu muốn đổ tội cho người thì lo gì không kiếm được cớ.
(2) kiểu dáng tương tự như hình, khác màu và hoa văn (http://zlk.sssc.cn/w/%E6%98%8E%E9%BB%84%E8%89%B2%E7%BC%89%E7%BA%BF%E7%B B%A3%E4%BA%91%E9%BE%99%E5%A4%A9%E9%A9%AC%E7%9A%AE% E9%BE%99%E8%A2%8D)
(3) nguyên văn "thám li đắc châu", con rồng đen nó có hạt châu dưới cằm, ai lấy được sẽ rất may mắn. Ban đầu cụm từ này dùng để chỉ việc nguy hiểm lớn được lợi to; sau thường dùng để chỉ văn chương hàm ý sâu sắc, ngắn gọn nhưng diễn đạt được vấn đề mấu chốt.
(4) người xưa coi việc người phụ nữ xuất hiện trước đám đông là việc làm mất thể diện
Chương 204: Gõ Cửa Cầu Kiến
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Ánh mắt Dương Lăng lướt qua đám đông, vừa định quay trở vào trong phòng, y chợt cảm thấy dường như trong đám đông có một ánh mắt quen thuộc vừa mới thoáng qua. Y chăm chú nhìn lại để tìm thì đã không thấy gì khác thường.
Y hơi nhíu mày lại, cố quan sát kỹ một lần nữa rồi mới tuyệt vọng chắp tay vái vài cái rồi lui trở vào bên cạnh bàn, hạ lệnh:
- Giải Vương Long xuống! Dẹp đường đến nha môn tuần phủ!
Hồng Nương Tử cải trang làm một thiếu nữ thôn quê mặc áo vải thô, quấn khăn vải bố, lấy nước gừng thoa cho vàng da, trông như một người bệnh dưới quê lên vậy. Hoắc Ngũ Thúc đứng bên cạnh nàng, cải trang làm một ông cụ già bán rong, gánh một gánh cải phơi khô để dùng trong mùa đông.
Khi nãy, ánh mắt của Dương Lăng thoáng chạm với ánh mắt nàng như thể thực chất khiến Thôi Oanh Nhị sợ đến run rẩy trong lòng, vội vã cúi đầu xuống, tim đập thình thịch. Nàng cảm giác được ánh mắt của Dương Lăng vẫn đang tìm kiếm nàng trong đám đông, quýnh quáng đến độ lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi, trong lòng thầm rủa: "Gặp ma rồi. Mình cải trang tầm thường như vậy, ai thấy cũng lười nhìn mình lấy một cái, sao lại giống như y đã phát hiện được mình vậy chứ? Không nhìn thấy! Đông người như vậy, y nhất định sẽ không nhìn thấy mình."
Thôi Oanh Nhi cúi gằm mặt, cằm đụng sát ngực, bắp chân căng cứng, gót chân nhấp nhổm, cũng không biết là đang chuẩn bị co cẳng bỏ chạy hay muốn búng người nhảy lên. May mà chung quanh đầy người, tư thế cổ quái của nàng chưa khiến kẻ khác chú ý.
Đến khi Dương Lăng trở lui vào phòng, Thôi Oanh Nhi mới thở dài một hơi nhẹ nhõm, cảm thấy sau lưng nhơm nhớp, không ngờ đã sợ đến độ toát mồ hôi lạnh. Nàng hơi định thần lại, chợt cảm thấy buồn nản khôn thôi
Vương Long bị trói gô bằng gân bò ngâm nước siết rất chặt, chỉ cần hắn hơi vận sức là có thể bị siết cho rách áo tróc thịt. Hắn tại chỗ, ánh mắt dại hẳn đi, nhìn đại công tử của Ngô phủ Tô Châu lắc người một cái liền hoá thành khâm sai đại lão gia, thật khóc không ra nước mắt.
Trong khi đó, Trương Vĩnh – kẻ bị hắn nhạo báng là "con thỏ già không râu", giờ trông thật như một con thỏ: khom người ngồi trên ghế, cặp mắt đỏ kè nhìn hắn chằm chằm.
Trương Vĩnh đã cởi áo ngoài, khoe bộ mãng bào đai ngọc chỉ vàng màu xanh thẳm. Gần trăm tửu khách trên lầu cũng như làm ảo thuật, đã hoá thành các vị quan lão gia giắt kiếm đeo đao, còn một số người không "hoá thân" khác hiển nhiên là đóng vai "nhân chứng" và "khổ chủ", chỉ trong nháy mắt "Hâm Thịnh lâu" đã biến thành công đường bộ Hình.
Nếu mà lúc này lại có thêm tiếng trống chiêng inh ỏi thì thực sẽ là một vở hài kịch hoang đường.
Người được giao sắm vai "con gái nhà lành" bị Vương Long cướp đoạt đem về phủ rồi về sau lại bị hắn vứt bỏ thật sự đã đạt đến cái tuổi U40, khiến cho ngay cả Dương Lăng cũng nhìn không nổi. Y thở dài, thầm nghĩ: "Sớm biết vậy chi bằng để Trình Tiểu Vân chuyên sắm vai hoa đán của gánh hát rong nọ giả trang làm khổ chủ cho rồi. Hai bà bác này thật sự là... chà!"
Dương Lăng loay hoay không yên trên ghế, hỏi nhỏ:
- Liễu Bưu! Ngươi kiếm hai người này ở đâu ra vậy? Có được không đó?
Liễu Bưu thiểu não đáp:
- Đại nhân, con gái nhà lành không chịu đóng vai này, hơn nữa nếu dùng người địa phương lại sợ bị người ta phát hiện, cho nên ti chức mới đi thâu đêm mời hai bà nương (phụ nữ có đã chồng) chuyên lo cơm nước cho gánh hát Mao gia ở Hoài Nhơn. Xong việc cho tiền rồi lặng lẽ đưa đi, an toàn lắm. Đại nhân cảm thấy không thích hợp sao?
Dương Lăng cười khổ bảo:
- Thôi được! Dùng tạm vậy!
Thứ Dương Lăng cần chỉ là một cái cớ, một cái cớ để có thể lục soát Vương phủ mà sau đó, cho dù không tìm thấy chứng cứ gì thì bọn y cũng không rơi vào thế bị động, mọi việc sẽ trở nên đơn giản. Hai bà bác diễn rất đạt, khóc lóc kể lể đã bị cái tên Vương Long mặt người dạ thú này bội tình bạc nghĩa như thế nào, tình tiết rất cường điệu. Họ lại đồng thanh báo rằng trong phủ hắn còn giấu nhốt dân nữ bị cướp về, xin thanh thiên đại lão gia tra rõ.
Đã là "Thanh Thiên đại lão gia", đương nhiên Dương Lăng phải "tra cho rõ". Y nghe xong thì cười nhạt:
- Vương Long! Bản quan phụng chỉ tuần sát dân tình và quân sự biên quan, nay đã nhận cáo trạng đương nhiên sẽ phải tra rõ ngọn ngành. Bây giờ ta sẽ phái người mang hai vị khổ chủ này đến phủ đệ của ngươi tra khám. Nhược bằng có chứng cứ, hai tội của ngươi sẽ cùng bị xử phạt, muốn chạy cũng chạy không thoát. Thảng như không có chuyện đó, bản quan sẽ trị bọn họ tội vu cáo, chỉ xét phạt ngươi tội xúc phạm khâm sai mà thôi. Ngươi thấy bản quan quyết định như vậy là đã công bằng hay chưa?
Vương Long cười thảm một tiếng rồi nhắm mắt lại không nói gì.
Hắn đâu có ngu, sao không nhìn ra Dương Lăng đang kiếm bừa tội trạng, rõ ràng là có dụng tâm khác!
Cho dù trong phủ vàng bạc chất thành núi, mỹ nữ nhiều như mây, hắn cũng không sợ Dương Lăng tra khám. Duy chỉ có số quân giới bán thành phẩm được giấu trong đại viện phía tây nọ, nếu bị lục xét thấy thì tội danh thông đồng với địch này đủ để bị tịch biên gia sản, chém đầu cả họ.
Còn tế đàn Di Lặc giáo trong mật thất ngầm bên dưới sân sau nữa! Nếu cũng bị khui ra, hắn sẽ lại vướng thêm một tội lớn là âm mưu tạo phản. Hắn biết rất rõ sự thảm khốc của luật hình triều đình đối với kẻ âm mưu tạo phản. Những thứ như điểm thiên đăng (quấn vải dầu, trói vào cột rồi đốt sống), ngũ mã phanh thây, lăng trì, móc ruột, lột da, ... đều cực kỳ thê thảm, khiến người ta hận không thể chết ngay. Nay không biết mình đã để lộ sơ hở ở chỗ nào, nếu như Dương Lăng đã chuẩn bị sẵn mà tới đây thì dựa vào những phiên tử Nội xưởng này, lẽ nào bọn chúng lại khám xét không ra?
Hỏi xong câu ấy, Dương Lăng cũng không khỏi cảm thấy xấu hổ. Thấy Vương Long nhắm mắt không đáp, y bèn khoát tay ra lệnh; Liễu Bưu ôm quyền hành lễ, xoay người đi ngay. "Con thỏ già mắt đỏ" nọ chợt búng người nhảy ra khỏi ghế, nghiến răng:
- Ta đi theo ngươi!
Sức bật kinh người của lão khiến cho Dương Lăng giật nảy mình, xem ra thái giám quả thật quá đàn bà, thù dai quá đi. Chẳng phải chỉ bị người ta đẩy ngã, chửi là "con thỏ già" thôi sao? Tôi còn bị Hồng Nương Tử mắng cho là phế vật, bắt nhốt trong hang mấy ngày đây này mà có nổi khùng như vậy đâu?
Trương Vĩnh đã xung phong đảm nhận, y cũng không tiện ngăn cản bèn để mặc Trương Vĩnh đi theo Liễu Bưu điểm danh đám binh mã đã chờ sẵn trong một con hẻm khác, hùng hổ xông tới Vương phủ.
Bụng đầy lo lắng, Dương Lăng thong thả bước từng bước trên lầu, chỉ lo không tra xét được gì. Cho dù là trong quan trường hay ở địa phương, Vương Long đều là nhân vật nổi tiếng của Đại Đồng, tuy rằng Nội xưởng đã thêu dệt tội danh cho hắn nhưng chung quy vẫn là đuối lý.
Đường Nhất Tiên không rõ thiệt hơn trong đó, tiểu Chính Đức thì lại không sợ lợi hại trong đó. Hai đứa nhóc không biết mùi vị sầu lo đang ngồi một bên to nhỏ thì thầm, như một cặp người ngọc ngồi dựa vào nhau khiến người ta tha hồ mà tưởng tượng.
Dương Lăng lắng tai nghe, hoá ra hai người đang thảo luận về âm nhạc.
Chính Đức khoe với Đường Nhất Tiên:
- Cô khảy đàn thổi tiêu đều hay, song trình độ âm nhạc của tôi cũng không kém. Lần này đến biên quan được chứng kiến khung cảnh mâu thương giáp ngựa, đại mạc sông dài, lòng tôi rất cảm xúc. Tôi muốn sáng tác một bài hát, tên cũng đã nghĩ ra rồi, đó là "Sát biên nhạc", nhằm cổ vũ lòng quân, giết sạch bọn giặc cướp xâm lăng biên giới!
Đường Nhất Tiên chống hai tay trên ghế dài, đôi chân đong đưa, tò mò hỏi:
- Giai điệu như thế nào, ngươi hát thử cho ta nghe coi.
Chính Đức cười gượng gạo đáp:
- Giai điệu hả... Tôi vẫn chưa nghĩ ra, đợi tôi nghĩ ra rồi sẽ hát cho cô nghe.
Đường Nhất Tiên bật cười, phê phán:
- Cóc nuốt ông trời rồi!
Chính Đức ngạc nhiên hỏi:
- Ýô là sao?
Đường Nhất Tiên nghiêng đầu cười tinh nghịch đáp:
- Huênh hoang khoác lác!
* * *
Lúc này trong Vương phủ tiếng khóc rung trời, gà bay chó sủa; từng nhóm quan binh xông vào trong phủ, tựa như đổ nước lạnh vào nồi nước đang sôi, tức thì nồi vỡ! Trăm họ tranh nhau chạy ra đầu phố, vây quanh nhà họ Vương chật như nêm, phố Hoa Lỗi đã nghìn nghịt đầy người, náo nhiệt vô cùng.
Trong lúc hỗn loạn, hai gã đàn ông trung niên vận áo da vội vã tiến vào trong Thái Bạch cư, đi thẳng lên phía ngoài căn nhã phòng đối diện cửa sổ trên lầu hai. Thanh niên đứng canh ngoài cửa nghe xong lời tường thuật của hai người liền vội bảo một người đứng canh cửa, còn mình thì dẫn người còn lại lách vào.
Du viên ngoại cùng người áo xanh ngồi trước cửa sổ, đang căng thẳng quan sát tình hình bên phía đối diện. Nghe tiếng gõ cửa, quay đầu lại trông thấy người vận áo da thì Du viên ngoại vội hỏi ngay:
- Tiểu Sở đã nghe ngóng được gì rõ ràng chưa? Bên nhà họ Vương đã xảy ra chuyện gì vậy?
Tiểu Sở đưa tay áo lên lau mồ hôi trán, lo lắng đáp:
- Bẩm hộ pháp! Vừa rồi có người trên "Hâm Thịnh lâu" so đấu nhạc kỹ với "Thập nhị cẩm bình" của Vương viên ngoại. Cô gái trên lầu nọ tài sắc song toàn, Vương viên ngoại nhất thời động lòng bèn bắc thang xuống phố, chạy vào trong lầu Hâm Thịnh định dùng nhiều vàng mua cô nữ ca nọ, song không biết sao giờ lại bị người ta bắt giữ rồi.
Nghe nói trên lầu đó là khâm sai Dương Lăng và Trương Vĩnh cải trang vi hành. Bọn họ nói Vương viên ngoại xúc phạm khâm sai, lại có người tố cáo hắn cưỡng đoạt dân nữ, nên hiện đã cho người đến phủ lục soát rồi.
- Láo toét! - Khuôn mặt tươi cười như Phật Di Lặc của Du hộ pháp tím lại, - Vương Long sưu tầm mỹ nữ chưa hề cưỡng đoạt đưa người vào phủ. Hắn là nhân vật có danh có tiếng ở Đại Đồng, cho dù xúc phạm khâm sai đi nữa, tội đó cũng không đến nỗi bị xét nhà.
Người áo xanh bó tay vào trong ống cười nhạt nói:
- Khâm sai cải trang vi hành?! Sao khéo đến như vậy? Bên này Vương Long vừa xúc phạm khâm sai thì lập tức liền có người biết tin mà chạy đến dâng cáo trạng chứ? Thậm chí ngay cả quan binh vào phủ lục soát cũng đến nhanh như thế? Nhất định là Vương Long đã để lộ sơ hở ở chỗ nào rồi! Dứt khoát phải lập tức ứng biến, con đường Vương Long này ta phải chặt đứt ngay.
Du hộ pháp hơi định thần lại, bàn:
- Cũng may! Những người có liên hệ với hắn không nhiều, tôi sẽ lập tức thông tri Vương Hổ và Bao Quân đi ngay, cả tôi cũng phải lập tức rời khỏi đây.
Người áo xanh ngăn hắn lại:
- Khoan đã, ông đừng đi! Phái ai đó khôn khéo đi xem thử đi! Có cơ hội thì hãy thông báo cho bọn họ, còn nếu như tình hình không ổn thì đành thôi. Dương Lăng có thể lần ra ngọn nguồn mà lục soát bên nhà Vương Long, khó đảm bảo y sẽ không phái người nhìn chằm chằm vào bọn họ.
Du hộ pháp gật gù, rồi giậm chân tiếc rẻ:
- Chỉ uổng cho phần cơ nghiệp mà chúng ta đã khổ tâm kinh doanh bao năm lập nên.
Đại pháp sư cũng mau chóng rời thành đi! Cho dù Vương Long ngậm kín miệng đi nữa, chỉ cần mớ quân nhu khí giới hoặc thậm chí là tế đàn của bản giáo bị lục xét thấy thì quan quân sẽ lập tức giới nghiêm toàn thành. Đến lúc đó muốn đi cũng không đi được nữa.
Người áo xanh gật nhẹ đầu, rồi ngửa mặt lên trời thở dài:
- Vương Long cũng đành thôi, nhưng Vương Hổ ở thành tây là một nhân tố quan trọng trong nước cờ của bản giáo. Chỉ tiếc là... kế hoạch giờ đây đã không thể không thay đổi. Than ôi! Trời không giúp bản giáo rồi.
Hắn giậm mạnh chân một cái rồi dẫn gã áo xanh vội vã rời khỏi Thái Bạch cư, cưỡi ngựa phi thẳng đến cổng thành.
* * *
Mấy viên Bách hộ dẫn đám thị vệ như cọp như sói chia làm hai ngả, không khám từng bước từ nhà trước vào nhà sau mà men theo cổng nguyệt lượng hai bên sân trước, xông vào trong hai bên nhà ngang, xuyên qua hoa viên, phòng khách, phòng nô bộc, ùa thẳng đến công xưởng riêng của nhà họ Vương phá cửa nhà kho, tuôn vào trong lục soát.
Trông thấy tình cảnh này, một đám gia bộc gan to bắt đầu lấy cắp một ít món giá trị đem về giấu trong phòng mình. Còn đám tiểu thiếp lung linh xinh đẹp sau hậu viện nọ vừa gân cổ kêu gào khóc cha gọi mẹ vừa không ngừng vơ vét đồ vàng của bạc giấu vào trong người. Chỉ một chốc sau, những chiếc eo thon nhỏ đã phình ra như đã mang thai sáu bảy tháng.
Khi quan binh tuôn lên trên lầu gác Vương phủ, đám mỹ nữ "Thập nhị cẩm bình" và nha hoàn hoảng sợ túm tụm lại kêu ré, tưởng rằng cũng sẽ bị đưa ra quan phủ truy xét, không ngờ quan binh lại mặc kệ bọn họ, xông thẳng đến cửa sổ rồi lớn tiếng bẩm báo vọng qua bên kia đường:
- Bẩm khâm sai đại nhân! Trong nhà họ Vương lục ra được mười rương lang nha tiễn, một nghìn bộ giáp da người Thát Đát hay sử dụng, hơn năm trăm yên ngựa, còn có bàn đạp, móng ngựa vân vân, đều là quân nhu khí giới bị cấm.
Dân chúng hóng xem náo nhiệt dưới ngõ vỡ oà. Chuyện Vương Long lừa gạt cưỡng đoạt tài vật là chuyện không giả, có điều hắn không phải là địa chủ, việc buôn bán thì phần lớn đều là buôn lậu cho nên chưa hề nảy sinh xung đột gì với dân chúng quanh vùng. Khi Vương phủ bị xông vào khám xét, phần đông dân chúng còn mang tư tưởng "chẳng thân cũng khách quê ta"(1) mà cảm thấy đồng tình với Vương Long, thầm thoá mạ khâm sai.
Lúc này vừa nghe báo hắn tư thông Thát Đát mua bán quân nhu khí giới, trăm họ tức thì nổi bùng lửa giận. Hán gian nối giáo cho giặc chính là loại cặn bã mà người Hán căm ghét nhất, thậm chí còn ghét hơn cả chính con cọp dữ Thát Đát. Dân chúng Đại Đồng vốn chịu nhiều bức hiếp của giặc Thát càng hận không thể ăn xương uống máu thứ người này. Tiếng mắng chửi và tiếng la hét căm hờn tức thì dấy lên rền trời, không ít người bắt đầu kêu gào đòi khâm sai đại nhân đem Vương Long đi ngũ mã phanh thây ngay lập tức.
Nghe báo xong, Dương Lăng thở phào nhẹ nhõm. Nhìn sang thấy Vương Long mặt vàng như nghệ, y bèn đi đến trước cửa sổ cao giọng ra lệnh:
- Canh giữ mọi thứ y nguyên, không được tùy ý đụng vào bất cứ vật gì! Ngoài ra, hãy phái người cấp tốc trình báo cho phủ Đại vương, mời Vương gia và nha môn tuần phủ phái người tra xét tịch biên toàn bộ nhà họ Vương!
Đoạn y quay xuống phía dân chúng ngoài cửa sổ, chắp tay lại, tuyên bố:
- Còn như loại cặn bã hại nước hại dân này, triều đình nhất định sẽ nghiêm khắc trừng trị không tha. Thế nhưng, quốc có quốc pháp, gia có gia quy, triều đình vẫn cần phải tra rõ chứng cứ, thông báo đến trăm họ mới có thể trừng phạt loại cặn bã này một cách thích đáng. Đại vương điện hạ, Hồ tuần phủ và bản quan nhất định sẽ có câu trả lời thỏa đáng cho mọi người. Các vị hương thân phụ lão hãy yên tâm, chớ nên nóng nảy!
Lời của Dương Lăng lôi kéo được một tràng tiếng reo hò lẫn hoan hô vang dội. Ánh mắt Dương Lăng lướt qua đám đông, vừa định quay trở vào trong phòng, y chợt cảm thấy dường như trong đám đông có một ánh mắt quen thuộc vừa mới thoáng qua. Y chăm chú nhìn lại để tìm thì đã không thấy gì khác thường.
Y hơi nhíu mày lại, cố quan sát kỹ một lần nữa rồi mới tuyệt vọng chắp tay vái vài cái rồi lui trở vào bên cạnh bàn, hạ lệnh:
- Giải Vương Long xuống! Dẹp đường đến nha môn tuần phủ!
Hồng Nương Tử cải trang làm một thiếu nữ thôn quê mặc áo vải thô, quấn khăn vải bố, lấy nước gừng thoa cho vàng da, trông như một người bệnh dưới quê lên vậy. Hoắc Ngũ Thúc đứng bên cạnh nàng, cải trang làm một ông cụ già bán rong, gánh một gánh cải phơi khô để dùng trong mùa đông.
Khi nãy, ánh mắt của Dương Lăng thoáng chạm với ánh mắt nàng như thể thực chất khiến Thôi Oanh Nhị sợ đến run rẩy trong lòng, vội vã cúi đầu xuống, tim đập thình thịch. Nàng cảm giác được ánh mắt của Dương Lăng vẫn đang tìm kiếm nàng trong đám đông, quýnh quáng đến độ lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi, trong lòng thầm rủa: "Gặp ma rồi. Mình cải trang tầm thường như vậy, ai thấy cũng lười nhìn mình lấy một cái, sao lại giống như y đã phát hiện được mình vậy chứ? Không nhìn thấy! Đông người như vậy, y nhất định sẽ không nhìn thấy mình."
Thôi Oanh Nhi cúi gằm mặt, cằm đụng sát ngực, bắp chân căng cứng, gót chân nhấp nhổm, cũng không biết là đang chuẩn bị co cẳng bỏ chạy hay muốn búng người nhảy lên. May mà chung quanh đầy người, tư thế cổ quái của nàng chưa khiến kẻ khác chú ý.
Đến khi Dương Lăng trở lui vào phòng, Thôi Oanh Nhi mới thở dài một hơi nhẹ nhõm, cảm thấy sau lưng nhơm nhớp, không ngờ đã sợ đến độ toát mồ hôi lạnh. Nàng hơi định thần lại, chợt cảm thấy buồn nản khôn thôi: "Khi nãy có cơ hội thật tốt, mình chỉ cần phóng một thanh phi tiêu từ trong đám đông, lập tức tin khâm sai bị ám sát nhất định sẽ lan truyền khắp thiên hạ, mình liền có thể thừa cơ ly khai. Mình sợ y cái gì vậy? Y là một thư sinh yếu đuối, chỉ cần một ngón tay là mình đã có thể đẩy ngã y. Lúc đánh với bọn cướp ở Thái Hành đông như vậy, Hồng Nương Tử mình đơn thương độc mã ra vào như chốn không người, có thèm đặt ai vào trong mắt? Một thư sinh thối như y, mình... mình làm gì phải sợ y chứ?"
Lúc này thị vệ đại nội trong tửu lầu đã đi ra, bắt đầu mở đường dọn lối mời khâm sai đại nhân lên kiệu khởi hành. Dân chúng chen chúc lui về phía sau, bị bắt rời xa tửu lầu năm sáu chục trượng. Hơn trăm thị vệ đứng thành ba hàng chắn trước mặt đám bá tánh vây xem, Dương Lăng và Trương Vĩnh vội vã bước ra lên kiệu. Đường Nhất Tiên cũng ôm cây đàn tranh lên một chiếc kiệu nhỏ riêng. Đoàn người trảy thẳng về phía nha môn tuần phủ.
Hoắc Ngũ Khúc ho một tiếng, gọi:
- Con gái! Con gái! Con gái à!
Giọng Hoắc Ngũ Thúc càng lúc càng to, Thôi Oanh Nhi như mới chợt tỉnh dậy từ trong mộng, ngẩng phắt đầu lên, kinh hoảng hỏi:
- Hả? Sao ạ?
Hoắc Ngũ Thúc nhìn nàng vẻ khó hiểu, rồi thấp giọng nói:
- Đi thôi con gái, chúng ta còn phải đến chợ bán rau đấy!
- Dạ, được!
Thôi Oanh Nhi chỉ đợi có câu này, liền vội theo lão đi về phía đầu ngõ. Khi đến chỗ vắng người, Hoắc Ngũ Thúc mới thấp giọng hỏi:
- Vừa nãy ngay lúc y thò đầu ra ngoài cửa sổ, cơ hội thật tốt, sao con không ra tay?
Môn võ Hoắc Ngũ Thúc luyện là ưng trảo công, lão không giỏi sử dụng binh khí lắm, ám khí lại càng không thạo. Hơn nữa Hồng Nương Tử vốn không định giết chết Dương Lăng cho nên nàng xung phong lĩnh nhiệm vụ, quyết định tìm cơ hội rồi chính mình ra tay, Hoắc Ngũ Thúc giúp nàng chạy trốn.
Lúc quan binh bao vây nhà họ Vương, tin tức lan ra khắp nơi, bọn họ ở cổ lầu nghe được tin lập tức chạy sang bên đây, vừa may gặp dịp. Khi nãy thấy Thôi Oanh Nhi chần chừ không ra tay, cơ hội thoáng qua liền mất, Hoắc Ngũ Thúc muốn giục cũng đã muộn.
Thôi Oanh Nhi hơi chột dạ, may mà khuôn mặt được thoa gừng nên không thấy rõ sắc mặt, nàng đáp lấy lệ:
- Khi nãy... con sợ một đòn không trúng sẽ không còn cơ hội nữa, vốn con tính đợi y lộ cả thân người... Thôi, tìm cơ hội khác vậy.
Hoắc Ngũ Thúc không nghi ngờ gì, gật đầu đồng ý:
- Ừm! Thấy y hôm qua lên Bạch Đăng sơn, nay lại tới lầu Hâm Thịnh, cũng là kẻ không yên phận. Chỉ cần chúng ta chăm chú theo dõi y, nhất định sẽ tìm được cơ hội. Y đến nha môn tuần phủ, nhất định là để thương lượng chia chác của hôi rồi. Khà! Khà! Vương Long buôn bán hàng lậu, vận chuyển quân nhu khí giới, trong nhà vàng bạc như núi, vợ đẹp thiếp xinh, ... Chuyến này vị khâm sai này sẽ vớ bẫm rồi!
Không suy nghĩ, Thôi Oanh Nhi buột miệng phản bác ngay:
- Không thể nào! Y không phải là hạng người như vậy!
Hoắc Ngũ Thúc thoáng sững người. Thôi Oanh Nhi cắn đầu lưỡi (do nuốt lời không kịp -Ba_Van), ngượng ngập giải thích:
- Người này tuy là đối thủ của chúng ta, nhưng hành vi và phẩm đức thật tốt hơn rất nhiều quan viên khác. Ngũ thúc hãy xem, y đồng lòng chống giặc dưới núi Bạch Đăng, giữ lời thả người trên núi Bạch Đăng, những quan binh mà chúng ta từng gặp trước đây đã có người nào xuất chúng như vậy chưa?
Hoắc Ngũ Thúc không nói gì, chỉ lặng lẽ gật đầu, trong lòng thầm tính toán riêng: "Con bé này, thật... Sao lại đi tin người của quan phủ kia chứ? Mình từng nhìn nó lớn lên, con bé tuy chưa từng đọc qua sách vở nhưng phẩm hạnh đoan chính vô cùng, quyết sẽ không làm chuyện có lỗi với trượng phu nó. Nhưng cháu Hổ sắp khởi sự, nó lại động lòng nhu nhược kiểu đàn bà với người trong triều đình, khó trách sẽ nảy sinh bất hòa với cháu Hổ. Chậc! Xem lúc nào có cơ hội mình vẫn phải tự tay diệt trừ Dương Lăng thôi, tránh để con bé làm lỡ đại sự."
Hoắc Ngũ Thúc vào thành mang theo gánh rau khô, nếu mang nguyên gánh trở về hoặc tìm chỗ nào đó đổ bỏ đi thì sẽ khiến kẻ khác nghi ngờ. Vì thế hai người vội vã chạy lên chợ thanh lý giá rẻ, xong xuôi mới dọn gánh ra ngoài thành. Không ngờ khi đến cổng thành thì cả hai đã thấy cổng thành đóng chặt, một vài bá tánh đang tụ tập trước cổng thành bàn tán ồn ào.
Thôi Oanh Nhi không biết đã xảy ra chuyện gì, bèn dò hỏi một ông lão bên cạnh:
- Đại thúc, có chuyện gì vậy?
Ông lão trông thấy nàng là một cô gái nhà nông ốm yếu, bèn đáp:
- Có phải con gái muốn ra ngoài thành không? Hãy mau đi nương nhờ thân bằng quyến thuộc đi, hôm nay không rời thành được đâu. Vừa rồi khâm sai đại nhân phong tỏa nhà cửa Vương Long; Đại vương gia và nha môn tuần phủ bèn phái người đi tra xét kỹ lưỡng, lại tìm thấy một gian mật thất dưới phật đường ở sân trong, bên trong không ngờ lại là hương đường của Di Lặc giáo. Em trai hắn là Vương Hổ, tướng quân trấn giữ cửa thành tây, hay tin định trốn ra khỏi thành nhưng bị phục binh của khâm sai đại nhân mai phục bắt về. Hiện tại Đại vương gia hạ lệnh đóng kín bốn cổng để truy bắt dư nghiệt tà giáo đó.
- Hả!
Thôi Oanh Nhi và Hoắc ngũ gia trao đổi nhanh ánh mắt với nhau. Té ra Vương viên ngoại Vương Long giao du rộng rãi giàu nhất Đại Đồng lại là người của Di Lặc giáo?
Thấy rằng không thể ra khỏi thành được nữa, hai người đành quay trở lại. Hoắc Ngũ Gia cảm thấy khó tin, nói:
- Vương Long là đại tài chủ giàu nhất một phương, không ngờ lại là yêu nhân của Di Lặc giáo. Hắn giao du rộng rãi, lần này số người bị liên đới nhất định không ít. Chúng ta phải làm gì đây? Đến chỗ nào để lánh một chút bây giờ?
Thôi Oanh Nhi thở ra một hơi trút hết buồn bực trong người, lòng cảm thấy hết sức thoải mái. Nghe xong lời lão, nàng suy nghĩ một chốc rồi cười đáp:
- Không vội! Chúng ta cứ quay về phố nam Cổ lầu trước, xem tình hình nhà họ Vương thế nào đã. Đợi khi trời sập tối, chúng ta sẽ lại nghĩ cách tìm nơi an ổn mà náu thân.
Dân chúng bu xem náo nhiệt vẫn đang đứng đầy trước phủ của Vương Long. Cổng phủ mở rộng, quan sai ra vào như thoi đưa, lo kiểm kê tài sản, bắt giam phạm nhân. Bởi vụ án liên quan đến hai tội lớn là cấu kết với kẻ địch và mưu phản nên tất cả mọi người trong phủ đều bị bắt nhốt vào ngục. Sau khi thẩm xét r từng người mới có thể quyết định là thả hay buộc tội là đồng lõa.
Bởi chứng cứ rành rành, trên người mang hai đại tội đáng chém đầu, cho nên không cần niêm phong nhà cửa chờ xin thánh chỉ, Đại vương hạ lệnh tịch biên ngay. Đáng thương cho nhà họ Vương hiển hách một thời nay như lầu cao sụp đổ, khắp phủ u ám hoang tàn như đèn dầu sắp cạn, đàn đã sẩy rồi mà nghé cũng chạy không xong, nam cùm nữ xích kín cả ngục giam, gia tài của họ Vương bị tịch biên không còn gì cả.
Thê thiếp thị tỳ, người hầu kẻ hạ, tất cả đều bị tống vào trong ngục; nữ trang tài vật, châu báu thư họa cũng bị đóng rương chở về nha môn; còn lại ít đồ vật cồng kềnh thì ghi hết vào trong sổ, thứ nào có thể di dời thì đưa vào trong kho rồi niêm phong lại. Cuối cùng cánh cổng sơn son đóng rầm một cái, hai con ấn to đùng của phủ Đại vương và nha môn tuần phủ được đóng lên dải giấy niêm phong dán chéo trên cổng. Căn nhà rộng lớn vốn đông đúc nô bộc tức thì biến thành căn nhà hoang.
Ánh mắt Thôi Oanh Nhi thoáng loé lên, nàng thấp giọng nói:
- Ngũ thúc, đêm nay chúng ta hãy trú trong căn nhà này đi.
Ánh mắt Hoắc Ngũ Thúc cũng sáng lên, lão khen:
- Hay! Quả nhiên là một nơi rất an toàn! Trước cổng có quan binh canh gác, chúng ta nên thừa lúc tối trời lẻn vào từ bên hông. Có chỗ tốt như thế này, có ở lại Đại Đồng mười ngày nửa tháng cũng sẽ không bị người ta phát hiện. Có điều đám cháu Hổ chờ lâu không thấy chúng ta về nhất định sẽ sốt ruột lắm đây!
Thôi Oanh Nhi lắc đầu đáp:
- Không đâu! Nội ngày mai tin nhà Vương Long bị tịch biên sẽ lan truyền khắp các trấn, Hổ ca nhận được tin sẽ đoán được quan binh cho phong tỏa thành trì...,
Nói đến đây, nàng chợt thấy mấy tuần bộ cầm đao đang đi đi lại lại quan sát hai bên đường, hể trông thấy có người khả nghi liền chặn lại gặng hỏi, bèn vội dìu Hoắc Ngũ Thúc:
- Chúng ta đi!
Một thiếu nữ quê mùa tướng mạo tầm thường dìu một ông lão mang quang gánh rỗng bước vội trên đường phố Đại Đồng trong màn đêm mờ mịt. Cảnh ấy quá đỗi bình thường, không ai thèm mắt để ý thêm.
*****
Đại vương, khâm sai và tuần phủ tam đường hội thẩm, án tử của Vương Long được phán quyết một cách gọn gàng.
Vương Long tự làm quân nhu khí giới bán cho kẻ địch, tham dự âm mưu tạo phản cùng tà giáo, chứng cứ rành rành. Em hắn là tì tướng tây thành Vương Hổ, thương nhân buôn ngọc thạch là Bao Quân cũng tham dự vào trong đó. Đại vương gia đích thân chủ thẩm, nghe nói trên công đường Vương Long vùng vẫy thoát khỏi dây trói, liều mạng xông tới định hành thích vương gia. Đại vương cả giận, lập tức hạ lệnh đem Vương Long, Vương Hổ, Bao Quân và nô bộc gia tướng liên can, tổng cộng sáu mươi hai người, giải lên trên pháp trường ngoài cổ lầu xử trảm.
Khi bọn họ bị áp giải lên pháp trường, toàn thân đã bị đánh đập tra khảo đến bong da tróc thịt, không còn trông ra hình dạng con người. Lúc đại đao của đao phủ vung lên, bọn họ chỉ quỳ bệt trên đó ngoan ngoãn chịu chém, không một ai cất giọng ca vang "đầu rơi máu chảy không sờn chí", "hai mươi năm sau lại là hảo hán" gì gì đó. Đã là tử tù mà không chuyên nghiệp đến như vậy khiến quần chúng chuẩn bị tinh thần sức lực để reo hò khen ngợi thất vọng vô cùng, thế là bèn mắng chửi bọn họ như tát nước.
Đầu người rơi hàng loạt dưới cổ lầu. Vương Long tội ác tày trời, lại ngang tàng quá đỗi tự xưng là vương gia, nhà gọi là vương phủ, Đại vương bèn hạ lệnh cho đao phủ là Lưu tiểu đao lột da hắn làm trống, đặt trên cổ lầu. Mỗi ngày nghe tiếng trống đó vang lên, thật khiến dân chúng phổ thông từng tin thờ Di Lặc giáo nghe mà run rẩy cả thần hồn.
Đại vương lại cho người nạy đá xanh dưới cổ lầu lên, đào sâu ba thước, chôn quan tài của Vương Long ở dưới đó để mọi người đi qua giẫm đạp cho xứng tội Vương Long; đổi tên Hoa Lỗi nhai thành Hoan Lạc nhai. Dân chúng Đại Đồng hô vang vạn tuế, quả là vui sướng như đón mừng ngày tết vậy.
Vụ án Vương Long đã liên lụy đến rất nhiều quan viên. Bởi có tiền lệ là Vương Hổ, cho nên bất luận có chứng cứ hay không, những tướng lĩnh trong quân cứ hễ từng qua lại thân mật cùng nhà họ Vương đều bị thuyên chuyển để đề phòng bất trắc. Một làn sóng ngầm chảy mạnh trong thành Đại Đồng, e rằng sẽ phải mất đến dăm ba tháng thì cuộc thanh trừng quy mô lớn này mới yên ắng trở lại.
Địa lao trong phủ Đại vương chỉ là nhà tù riêng dùng để giam giữ trộm cướp và gia bộc vương phủ phạm tội cho nên vốn đơn giản hơn đại lao ở chỗ quan phủ nhiều. Nhưng lúc này cánh cửa địa lao đã được thay bằng cửa sắt nặng trình trịch, trong ngoài đều có hơn mười viên phiên tử Nội xưởng cầm đao giắt cung trông giữ nghiêm ngặt. Cả khu vực sân quanh địa lao được canh phòng cẩn mật, nghiêm cấm ra vào mọi kẻ chưa có lệnh dụ.
Trên giá tra tấn trong địa lao đang treo một gã đàn ông khỏe mạnh máu me đầm đìa, tóc tai bù xù, đầu cúi gục, đã bất tỉnh. Dương Lăng ngồi trên chiếc ghế trước mặt hắn, quan sát một lượt rồi nhíu mày hỏi:
- Không khai gì cả à?
Liễu Bưu nhìn gã tù phạm hốc hác đó một lúc rồi đáp:
- Dạ đúng rồi! Cực hình nào có thể dùng được ti chức đều đã dùng cả rồi. Vương Long ôm lòng chết chắc, thủy chung không nói tiếng nào.
Dương Lăng nhìn đùi tên tù phạm lộ ra bên dưới chiếc quần rách bươm, trên đó có một vết thương sâu hoắm ghê mắt, máu mủ vẫn liên tục rỉ ra. Mới mấy ngày ngắn ngủi, gã đàn ông cường tráng này đã bị hành hạ không còn hình dáng con người, cũng không biết hắn đã phải chịu những cực hình nào nữa.
Dương Lăng khiếp sợ:
- Từ đời Tống-Nguyên tới nay, dù trong triều đại nào Bạch Liên giáo cũng đều bị triều đình đuổi giết, nhưng trải qua mấy trăm năm lại vẫn luôn đứng vững không ngã, quả nhiên là có phương pháp độc đáo của nó. Dưới cực hình như vậy cho dù là người mình đồng da sắt cũng chịu không nổi, vậy mà Vương Long sống trong nhung lụa gần chục năm, đắm chìm trong tửu sắc tài vận lại vẫn cứng đầu. Thảng như tất cả các nhân vật cao cấp của Di Lặc giáo ai nấy cũng đều khó chơi như vậy, thực sẽ không dễ đối phó đây!
Liễu Bưu cười gượng gạo:
- Người này đích thực là kẻ cứng đầu, có điều ti chức lăn lộn trong Cẩm Y Vệ lâu năm, ít nhiều cũng đã gặp mấy tên như vậy. Điều khiến người ta bất lực nhất chính là vừa mới sử dụng cực hình thì cái tên Vương Long này liền ngất xỉu; lúc không sử dụng cực hình mà hắn muốn ngất xỉu vẫn có thể ngất xỉu. Thế nên ti chức không có cách nào xử trí được hắn cả!
- Ồ! Ngất xỉu!? Ngất xỉu như thế nào?
Dương Lăng thấy lạ, liền vội hỏi dồn.
Liễu Bưu cười khổ đáp:
- Chỉ cần ti chức vừa cho sử dụng cực hình, lập tức Vương Long liền tự ngất xỉu. Tù phạm bị tra khảo phải cung khai là do phần lớn khi bị tra tấn, sự đau đớn về thể xác vượt quá mức cực hạn mà bọn họ có thể chịu đựng. Thế nhưng Vương Long vừa bị tra tấn liền đã ngất đi, đến khi hắn tỉnh lại thì cơn đau cực điểm khiến tinh thần người ta sụp đổ trong khi bị tra khảo đã trôi qua rồi. Hơn nữa chỉ cần hắn muốn, ví dụ khi bình thường không bị tra tấn nhưng chỗ bị thương đau quá chịu không nổi, thì hắn cũng có thể tự làm cho mình ngất đi. Công phu bàng môn tả đạo của Bạch Liên giáo quả thực không ít.
Dương Lăng nghe xong thì lờ mờ đoán đây hẳn là một loại công phu tương tự như tự thôi miên. Mấy trăm năm nay Bạch Liên giáo thông qua tín ngưỡng thu nạp giáo chúng, thật sự bọn họ rất sở trường trong việc sử dụng những trò ảo thuật như phù thủy, khẩu kỹ, thôi miên để mê hoặc lòng người. Nếu Vương Long là nhân vật quan trọng được Di Lặc giáo bố trí ở Đại Đồng để thu gom của cải, thì nhất định hắn cũng phải có sở trường đặc biệt.
Tiếc là, kỹ thuật này nếu không bị coi là yêu thuật thì nhất định cũng sẽ bị coi là bàng môn tả đạo, người trong chính giáo không thèm học tập, cho dù có hiểu biết ít nhiều cũng sẽ không dám tiết lộ, quan phủ biết đi đâu tìm được những người có khả năng này? Nếu Cao Văn Tâm ở đây thì tốt rồi, ước chừng bản lĩnh của nàng ta sẽ có thể khiến Vương Long phải ngoan ngoãn phun mọi tin tức y cần biết. Đáng tiếc... Nay chỉ đành phải đem Vương Long về kinh, sau đó để Văn Tâm nghĩ cách vậy.
Dương Lăng thở dài tiếc nuối rồi đứng dậy bảo:
- Nếu đã vậy thì đừng bức cung quá mức nữa! Trị thương qua cho hắn, tạm thời giam lại. Sau khi Vương Long bị bắt, những tay đầu sỏ Di Lặc giáo ở bản địa hay tin nhất định sẽ cuống quýt lẩn trốn, nhưng bọn chúng sẽ không nỡ vứt bỏ hoàn toàn thế lực đã được phát triển ở đây mà gầy dựng lại từ đầu đâu!
Bọn chúng có thể không tin Vương Long bị giết trong mười ngày, trong một tháng, nhưng nửa năm sau cũng sẽ phải tin chứ, phải không? Qua một thời gian gió yên biển lặng, bọn họ cũng sẽ ngóc đầu trở dậy, đến lúc đó bản quan nhất định đã có thể lấy được thứ gì đó trong lòng Vương Long, và cũng sẽ phất cờ trở lại!
Rời khỏi địa lao, bốn tay thị vệ đi theo y ra ngoài viện. Vương An, một trong tứ đại quản gia của vương phủ, đang đứng chờ bên ngoài vội bước lên nghênh đón:
- Đại nhân phải quay về rồi sao?
Dương Lăng nhẹ mỉm cười đáp:
- Đúng vậy! Đã làm phiền Vương quản gia rồi.
Vương An cười ha hả:
- Khâm sai đại nhân khách sáo như vậy thực làm lão nô tổn thọ rồi! Đại nhân không đi gặp vương gia một chút sao?
Dương Lăng từ chối:
- Vương gia mới cưới yên vui, hạ quan không thể làm phiền.
Nói đoạn y cung tay mời Vương An đi trước rồi theo sau Vương An đến cổng Thừa Vận. Rời khỏi vương phủ, vòng qua khỏi bức bình phong chín rồng, Dương Lăng vừa định vịn yên lên ngựa thì đằng xa chợt có hai thớt khoái mã phóng lại. Ngũ Hán Siêu lập tức dằn kiếm ngăn trước mặt y.
Dương Lăng nheo mắt nhìn, qua trang phục thấy chẳng qua là một tướng một binh mà thôi. Ngựa phi đến gần, vị tướng quân nọ phi thân xuống ngựa, lúc này Dương Lăng mới thấy rõ hắn là nghĩa tử của Tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc - tham tướng Kinh Phật Nhi.
Trông hắn có vẻ mệt mỏi, người đầy bụi bặm, rõ là chạy thẳng một hơi từ ngoài thành tới đây. Vừa trông thấy Dương Lăng, hắn liền vội bước lên chắp tay thực hiện quân lễ:
- Mạt tướng Kinh Phật Nhi, tham kiến khâm sai đại nhân!
Dương Lăng vội khoát tay:
- Xin tướng quân hãy bớt lễ tiết! Tướng quân đến đây vội vã như vậy, phải chăng là có chuyện quan trọng cần bẩm báo với vương gia?
Kinh Phật Nhi cười đáp:
- Không phải! Mạt tướng tới hành dinh khâm sai trước, nghe nói l đại nhân đang ở đây cho nên mới chạy vội đến.
Dương Lăng giật mình hỏi:
- Đã xảy ra chuyện gì sao?
Kinh Phật Nhi liếc nhanh hai bên, rồi sải bước tới gần, thấp giọng thưa:
- Hoa Đáng dẫn theo thủ lĩnh của các bộ lạc Ngột Lương Cáp, Ông Ngưu Đặc, Ô Tề Hiệp Đặc và ba bộ lạc Nữ Chân là Kiến Châu, Hải Tây, Dã Nhân đã đến rồi. Sứ giả của những thủ lĩnh các liên minh bộ lạc đang dựng lều ngoài cửa Đắc Thắng, gõ cửa xin gặp đặc sứ Đại Minh. Dương tổng chế hạ lệnh riêng cho mạt tướng cấp báo với đại nhân.
Dương Lăng vừa nghe xong liền chấn động tinh thần, buột miệng thốt:
- Rốt cuộc bọn họ đã đến!
Đoá Nhan Tam Vệ và Nữ Chân Tam Bộ đã đi từ đông sang tây, khi bước vào phạm vi thế lực Thát Đát liền trở nên cẩn trọng. Năm nghìn nhân mã đã đi nhanh được mấy trăm dặm rồi chợt chậm chạp rì rì như trâu già kéo xe nát, khiến người ta khó lòng nắm được hành tung chính xác, hơn nữa dọc đường còn tung thám mã dò thám chung quanh.
Dương Lăng cân nhắc thấy Hoa Đáng dẫn theo mấy nghìn người cưỡi ngựa rời xa khỏi căn cứ của mình nên nhất định sẽ hết sức cẩn thận. Vả lại hắn vốn đến là để gặp mặt Hoàng đế Đại Minh, nếu y phái thám mã theo dõi dấu tích dọc đường sẽ hoàn toàn vô nghĩa; nếu bị bọn hắn phát hiện sẽ thành ra khéo quá hóa vụng. Vì vậy ngay khi Hoa Đáng vừa bước vào phạm vi thế lực của Thát Đát, y bèn rút thám mã của mình về, cho nên không thể nào ước lượng chính xác được thời điểm Hoa Đáng sẽ tới.
Kinh Phật Nhi mỉm cười đáp:
- Phải ạ! Phụng quân lệnh của Dương tổng chế, mạt tướng và Hứa tham tướng Hứa Thái sẽ hộ vệ đại nhân tới đó.
Dương Lăng đấm nắm tay phải vào lòng bàn tay trái, cười lớn:
- Được! Có hai vị tướng quân dũng mãnh như các vị, đầm rồng hang hổ cũng đều đi được. Nay ngoài quan ải chỉ có Bá Nhan, Hỏa Sư và Hoa Đáng xưng hùng; để bản quan đi gặp qua vị đại thủ lĩnh của Đoá Nhan Tam Vệ này vậy.
Chú thích:
(1) nguyên văn "mỹ bất mỹ, hương trung thủy; thân bất thân, cố hương nhân", (chẳng trong cũng nước ao nhà, chẳng thân cũng khách quê ta đó mà); trỏ tầm quan trọng của quê hương xóm làng.
Chương 205: Miệng Lưỡi Sắc Bén
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Vừa nói y vừa nghĩ thầm trong bụng: "Thực ra mang cái hư danh này, trên thực tế thế lực triều đình Đại Minh lại không thể nào động chạm, khống chế được các ngươi; các người thì có được cái ô lớn như vậy, mà triều đình thì lại không thể dụng binh với các người. Có vùng đất khó nhằn như Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang rồi, chẳng lẽ còn phải giữ nuôi người Nữ Chân thành một con cọp lớn hay sao?
Thà rằng cứ cho ngươi một cái hư danh, vỗ về một phần dã tâm của các ngươi. Bất luận thế nào các người cũng sẽ không thể đối phó được với Thát Đát, quân chúng ta chỉ cần xuất quan, lập tức các ngươi sẽ giúp đỡ hỗ trợ dẫn đường. Dần dần chúng ta sẽ quen với tình hình quan ngoại. Đến khi Thát Đát sụp đổ rồi, quân của chúng ta cũng đã hoá thành mãnh hổ. Sau đó lại tìm cớ khởi binh với đám dân một nghìn tự hao tám trăm các ngươi, hơn nữa không chỉ đơn thuần là chinh phạt phiên thuộc ngỗ ngược như trước đây, mà là cướp đoạt lấy hoàn toàn. Các ngươi không muốn làm phiên thuộc, vậy ta sẽ nấu các ngươi thành khoai luộc!"
Mặt trời vừa nhú, sương sớm chưa tan. Đêm qua trời vừa đổ tuyết, tiết xuân se sắt, những tia nắng mỏng tanh vương rắc lên người không hề đem lại cảm giác ấm áp; vẫn là cái lạnh buốt xương.
Ngoài cổng Đắc Thắng, trên một dãy núi non trùng điệp, một trăm kỵ sĩ oai phong lẫm liệt đang trèo đèo vượt núi, chậm rãi đi trên con đường quanh co khúc khuỷu. Liễu Bưu, Kinh Phật Nhi, Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy, bốn người cải trang làm thị vệ cận thân, Hứa Thái cải trang làm thủ lĩnh thị vệ, cả nhóm đi ngay sau ngựa Dương Lăng.
Đằng trước hiện ra một ãi đất trống,nằm ngay bên dưới gò núi đầy cây cối um tùm, những tia nắng đầu tiên vừa rọi tới nơi này, ba chiếc lều lẻ loi sắp thành hình tam giác được dựng trên mặt tuyết.
Vài gã Mông Cổ đang cưỡi ngựa lững thững quay về, bọn họ nhảy xuống khỏi lưng ngựa trơn nhẵn, dắt ngựa tới trước lều bạt, gã thì trùm yên lên lưng ngựa, gã thì lau binh khí. Cả ba đều có bộ dạng kiêu ngạo, như thể không thèm đặt hơn trăm quan binh Đại Minh hàng ngũ chỉnh tề, khí thế oai nghiêm này vào trong mắt.
Ánh mắt Dương Lăng quét qua khuôn mặt lười nhác của mấy gã Mông Cổ nọ, cánh tay khẽ giơ lên, một trăm viên kỵ sĩ lập tức ghìm cương ngựa. Hơn trăm kỵ sĩ dừng ngoài một tầm tên, không chút tiếng động, tất cả đều im phăng phắc.
Chính Đức, Hồ Toản và Dương Nhất Thanh không yên tâm khi Dương Lăng chỉ mang theo một trăm thị vệ, vốn định phái hai nghìn binh mã hộ giá, nhưng Dương Lăng chỉ đáp một câu: "Hoa Đáng mang theo năm nghìn binh mã nghìn dặm xa xôi mạo hiểm băng qua địa bàn của Thát Đát không phải để tập kích giết chết một khâm sai đại thần tôi đâu", rồi cự tuyệt luôn.
Đàm phán chính yếu là khí thế. Đoá Nhan Tam Vệ chỉ xuất binh tổng cộng năm nghìn, sứ giả tiên phong chỉ có ba lều trại vào khoảng năm mươi người. Nếu xua đại quân trùng trùng điệp điệp mà đi thì vừa nâng cao khí thế đối phương lại dễ khiến cho bọn họ khinh thường.
Tuy nhiên, Đoá Nhan Tam Vệ là thuộc quốc của Đại Minh, thủ lĩnh tối cao của Tam Vệ được ban cho chức Chỉ huy đồng tri, là quan tòng tam phẩm, tuy nay đã chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, nhưng dẫu sao Đoá Nhan Tam Vệ vẫn chưa công khai tuyên bố phản lại Đại Minh.
Dương Lăng là thủ lĩnh Ngự tiền thân quân, là võ tướng chánh tam phẩm, lại mang thân phận khâm sai, cho dù là đối diện với Hoa Đáng thì vai vế cũng chỉ có cao hơn chứ không thấp hơn, huống hồ chỉ là mấy sứ giả của Hoa Đáng? Lúc Dương Lăng ra khỏi ải đã phái thị vệ đi trước báo tin, như vậy rõ ràng những đặc sứ này đã biết tin cả rồi thế mà lại co chân gác gối không thèm ra đón, mấy tên thân quân cũng ra vẻ ngạo mạn khinh đời, rõ ràng là bọn họ không đặt triều đình nhà Minh vào mắt.
Hứa Thái thấy vậy tức thì sôi máu, thúc ngựa đi đến cạnh Dương Lăng dựng xếch cặp mày kiếm thưa:
- Đại nhân, Đoá Nhan Tam Vệ thực to gan! Rõ là đã biết khâm sai triều đình đến rồi thế mà lại vô lễ như vậy! Chi bằng chúng ta hãy về đi! Không thể để oai phong Đại Minh bị tổn hại được!
Kinh Phật Nhi liếm cái môi mỏng lét của mình, vẻ khát máu hiện trên khuôn mặt, hùa theo:
- Đại nhân, bất kính với sứ thần thiên triều là tội lớn không tha. Đại nhân hãy hạ lệnh cho mạt tướng lóc hết ruột gan phèo phổi của đám này đi, để tên tiểu tử Hoa Đáng đó phái mấy đứa biết điều hơn ra nói chuyện.
Dương Lăng cười cười, nhẹ nhàng đáp:
- Chẳng qua là Đoá Nhan Tam Vệ đang thử dò xét quyết tâm liên kết đồng minh của triều đình mà thôi! Dẫu sao thì bọn họ cũng đã từng ăn quá nhiều quả đắng, không cần phải so đo với những kẻ thô lỗ này. Bản quan nói cho các ngươi hay, đàm phán cũng giống như là bán buôn vậy, kẻ cười trước chưa chắc đã là kẻ thắng lợi sau cùng. Hôm nay ta cúi đầu ba lần với hắn, đổi lấy việc hắn phải dập đầu ba mươi cái thì mới quay về. Đi, bảo sứ giả của Đoá Nhan Tam Vệ ra đón!
Kinh Phật Nhi nghi hoặc nhìn Dương Lăng, rồi thúc ngựa vung roi phi đến trước lều hô to thông báo đặc sứ Hoàng đế Đại Minh đã tới, lệnh cho sứ giả Hoa Đáng ra đón. Sau một chốc, ba chiếc lều lớn lần lượt được mở ra, mấy chục sứ giả Mông Cổ mặc áo chéo vai, ống tay rộng bước ra nghênh đón.
Lưu Đại Bổng Chùy ngạc nhiên hỏi:
- Đại nhân, sao ngài biết sứ giả bọn chúng đã sớm chuẩn bị xong rồi?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Hữu dũng vô mưu! Hãy nhìn phía trước lều kìa!
Mấy viên thị vệ bên cạnh nghe vậy thì nhìn kỹ về phía trước, song nhìn mãi mà vẫn mù mờ không biết nên nhìn cái gì, chỉ có Hứa Thái và Ngũ Hán Siêu đồng loạt "a" lên, liền đó nhìn nhau cả cười.
Đêm qua tuyết tuy không lớn nhưng đã phủ khắp mặt đất. Mặt tuyết trước mắt lại bằng phẳng như gương, lóng lánh trong ánh nắng, chỉ có hai hàng vết vó ngựa, đương nhiên là do sứ giả Đại Minh thông báo chuyên sứ đã tới để lại. Trong khi đó, đằng trước ba chiếc lều trại tuy vẫn là một mảng trắng phau, nhưng ánh sáng phản chiếu lại lờ mờ ảm đạm, mặt tuyết bừa bãi lộn xộn, rõ ràng từ sáng sớm đã từng có mấy chục người tới lui giẫm đạp lên, quyết không thể do bốn năm tên cận vệ ở trước lều gây ra được.
Thấy bọn sứ thần đã túm tụm trước lều, Dương Lăng mới thúc bụng ngựa, dẫn thị vệ chậm rãi đi tới. Khi đã đến trước lều trại Lưu Đại Bổng Chùy liền vặn người nhảy xuống, đi tới bên ngựa Dương Lăng rồi quỳ một gối xuống. Dương Lăng xoay người vịn yên, chân điểm nhẹ trên lưng hắn rồi nhảy xuống đất.
Đám người Mông Cổ chen nhau đi tới, mặt mày tươi cười. Một gã đàn ông cao lớn đi đầu đặt một tay lên ngực, mỉm cười và chào bằng tiếng Hán hết sức lưu loát và đúng mực:
- Hoan nghênh ngài, sứ thần của thiên triều! Ta là sứ giả Nặc Mộc Đồ của bộ lạc Ngột Lương Cáp. Vị này là sứ giả Cách Nhật Lặc Đài của bộ lặc Ông Ngưu Đặc, sứ giả A Khất Mãi của bộ lạc Ô Tề Diệp Đặc, sứ giả Đậu Lý của Nữ Chân Kiến Châu, sứ giả Hồ Xích của Nữ Chân Hải Tây...
Hắn vừa giới thiệu vừa đưa mắt đánh giá Dương Lăng, thấy vị võ tướng nắm giữ thân quân lẫn Nội xưởng của Hoàng đế và là đại thần được Hoàng đế Đại Minh tín nhiệm nhất này mặc áo da cừu, đầu đội nón da chồn, chân mang giày da lợp nhung đen; vóc người như ngọc, khí chất phong lưu, cao quý mà không phô trương. Nếu không phải vì áo chưa thắt đai lụa nên vẫn có thể thấy được mãng bào thêu rồng nằm vàng óng lấp ló bên trong, thì y sẽ giống hệt như một công tử tôn quý.
Dương Lăng cũng quan sát vị sứ thần bộ lạc Ngột Lương Cáp có thế lực lớn nhất Đoá Nhan Tam Vệ này: thân thể cao lớn, tướng mạo hiên ngang, bước chân vững vàng, mặc dù trông cao lớn lực lưỡng nhưng cặp mắt lại lộ ra vẻ cơ trí và điềm tĩnh, khác xa vẻ chất phác thật thà của dân du mục Mông Cổ.
Bề ngoài y vẫn ung dung thản nhiên, trong lòng lại thầm nhủ: "Ai cũng nói người Mông Cổ kiêu dũng thiện chiến, thân thể lẫn khí phách tráng kiện mà lại thiếu mưu trí; nhưng trông vị sứ thần Nặc Mộc Đồ này thực không giống vậy. Tuy rằng hôm nay chỉ là cuộc tiếp xúc mang tính thăm dò, hiểu rõ mấu chốt điều kiện kết minh của đối phương, song xem ra cũng cần phải tập trung tinh thần, không thể sơ ý được."
Dương Lăng mỉm cười vòng tay vái chào một vòng, đôi bên khách sáo mấy câu, Nặc Mộc Đồ đưa tay làm động tác mời vào lều, nói:
- Dương đại nhân, mời! Chúng ta cùng vào lều nói chuyện.
Dương Lăng giũ giũ chiếc áo da rồi cũng không ngoái đầu mà ngang nhiên dẫn đầu bước vào, bỏ lại đám thị vệ bên ngoài. Nặc Mộc Đồ cùng đám sứ thần Cách Nhật Lặc Đài thấy vị sứ giả thiên triều này không mang thị vệ theo, đơn thương độc mã đi vào lều thì đều đưa mắt nhìn nhau, nét cười trên khuôn mặt vừa hiện lên lại lập tức giấu đi.
Bộ tộc Kiến Châu của Nữ Chân nằm sát cương thổ Đại Minh nhất, nhận được rất nhiều lợi ích thông qua việc giao dịch cùng Đại Minh - vừa chăn nuôi vừa cày cấy, còn biết một vài công nghệ đơn giản - là khu vực giàu có nhất trong số ba bộ tộc Nữ Chân. Tùy theo sự tiếp giáp xa gần với biên giới Đại Minh mà Nữ Chân Hải Tây ở cách xa một chút thì nghèo hơn một chút, Nữ Chân Dã Nhân ở xa hơn nữa thì hoàn toàn dựa vào săn bắn để mưu sinh, sống một cuộc sống gần như hoang dã.
Thế lực của ba bộ lạc này yếu ớt, cho nên ngoan ngoãn, kính cẩn với Đại Minh nhất. Từ năm Vĩnh Lạc tới nay, ba bộ lạc này chưa từng ngừng triều cống. Tuy triều đình nhà Minh không chính thức định giá để bán buôn công khai nhưng vẫn cho phép bọn họ giao dịch chợ đen những hàng hoá mang theo.
Người Nữ Chân đổi ngựa, lông chồn, ưng bắc và các loại lâm sản như cao dán, nhân sâm, nấm mèo, nấm ăn, hạt thông để lấy những công cụ sản xuất bằng sắt và các vật phẩm như gạo, muối, vải, lụa, nồi niêu, áo quần. Có thể nói bọn họ lệ thuộc vào người Hán rất nhiều.
Hàng hóa bọn họ giao dịch nhiều nhất với Đại Minh là nhân sâm. Nhưng phương pháp gia công của bọn họ lại hết sức đơn giản: nhân sâm đào được từ trong núi ra được ngâm vào trong nước để tránh hư thối làm giảm chất; song nhân sâm ngâm nước cũng khó giữ được lâu, thương nhân nhà Minh chỉ cần hơi lần lữa là người Nữ Chân do sợ nhân sâm bị hỏng nát sẽ đành phải bán với giá rẻ mạt.
Bọn họ lại không nghĩ ra được cách nào tốt hơn để kéo dài thời gian tồn trữ, vì vậy chịu rất nhiều thiệt thòi. Cho nên bọn họ sốt sắng với việc kết minh với Đại Minh nhất, chỉ mong ký kết hiệp ước xong triều đình Đại Minh có thể định ra giá cả công bằng, bọn họ khỏi bị thương nhân bóc lột.
Thông qua mật thám Dương Lăng cũng đã hiểu được những chuyện này. Do đó khi thấy trong các bộ lạc có sứ thần của Nữ Chân Tam bộ, đoán rằng trong lều sẽ không có gì hung hiểm nên y không hề lo sợ gì mà bước vào, khiến đám người Nặc Mộc Đồ có phần bất ngờ.
Bước vào trong lều, Dương Lăng thấy có hai chiếc bàn dài đặt ở hai bên, trên bàn bày vài thứ trông giống như sữa đặc và trà sữa, y bước sang ngồi vào bàn bên phải. Sứ giả các bộ lạc bước vào lều trông thấy Dương Lăng đang mỉm cười ngồi ở đó, đưa tay sang phía bàn đối diện:
- Mời các vị ngồi.
Thấy y phản khách vi chủ, như thể y mới là chủ nhân của căn lều này, đám người Nặc Mộc Đồ không khỏi đưa mắt nhìn nhau cười khổ. Sáu người bọn họ đành phải ngồi vào bàn đối diện, Nặc Mộc Đồ ngồi giữa. Khách và chủ vừa ổn định chỗ ngồi, chủ đề chính cũng chính thức được bắt đầu.
Nặc Mộc Đồ lên tiếng trước:
- Đại thủ lĩnh Hoa Đáng nghe nói Hoàng đế Đại Minh vì tỏ rõ thành tâm đã đích thân đến Đại Đồng, cảm thấy sợ hãi vô cùng, cho nên đã dẫn các vị thủ lĩnh của Đoá Nhan Tam Vệ và Nữ Chân Tam Bộ vượt nghìn dặm xa xăm chạy đến ra mắt.
Thuở Hoàng đế Vĩnh Lạc dẹp yên biến loạn(1) đến nay, Đoá Nhan Tam Vệ vẫn luôn giao hảo cùng Đại Minh, nhưng quan binh Đại Minh lại coi chúng tôi là mọi rợ, chèn ép ức hiếp, giao dịch bất công. Ngày trước tổng binh Đại Minh lại coi dân chúng Tam Vệ tay không tấc sắt chạy đến buôn bán của chúng tôi là quân lính Thát Đát đến xâm phạm biên giới mà bắn giết lĩnh công, bêu đầu hơn ba trăm người ngoài thành, khiến cho các bộ lạc Tam Vệ chúng tôi đau đớn không thôi.
Đại nhân, Đoá Nhan Tam Vệ xưa nay vẫn luôn tự cho mình là phiên thuộc của Đại Minh. Nhưng khi Ngõa Lạt xâm phạm chúng tôi, chúng tôi quay sang cầu viện thì triều đình Đại Minh lại nhắm mắt làm ngơ, trái lại Bá Nhan Khả Hãn lại dẫn quân đến cứu. Tông chủ không thể cậy nhờ, trăm họ Tam Vệ vì vậy mà run rẩy.
Lại nói, tuy Nữ Chân Tam Bộ triều cống mỗi năm, nhưng chính sách an ủi biên dân của vệ Liêu Đông lại không có gì đáng khen ngợi, khiến cho dân chúng ngả lòng thoái chí. Nay đại thủ lĩnh Hoa Đáng và tù trưởng các bộ lạc tuy có lòng kết giao hữu nghị cùng Đại Minh, song chỉ e lòng người khó phục, không biết Dương đại nhân lấy gì để chỉ bảo cho tôi?
Nặc Mộc Đồ nói ngay vào điểm chính, không chút kiêng dè mà hạ thấp uy tín triều đình nhà Minh, rồi thầm quan sát sắc mặt Dương Lăng. Dương Lăng híp mắt cười, vừa lắng nghe vừa cầm bát trà sữa uống một hớp, rồi đặt nó xuống bàn nhón lấy một miếng phó mát, cắn từng miếng một nhấm nháp mùi vị của nó, ra vẻ điềm nhiên như không.
Nặc Mộc Đồ vốn tưởng rằng nói xong mấy câu nghe không lọt lỗ tai thì vị cao quan Đại Minh dáng vẻ kiêu ngạo ngất trời này nhất định sẽ nổi giận, khi ấy hắn sẽ có thể thừa dịp tuôn ra những câu chữ đã chuẩn bị sẵn. Nào ngờ Dương Lăng lại ra vẻ điềm nhiên như vậy khiến Nặc Mộc Đồ thầm thấy lạnh người. Ban đầu hắn kể lể đến độ xúc động không thôi, đau lòng tột độ, đến lúc sau lại khô khan nhạt nhẽo, mất đi khí thế.
Dương Lăng nghe hắn kể xong mấy chuyện cũ rích này, rồi cười lớn nói:
- Thảng như Đoá Nhan Tam Vệ và triều đình nhà Minh trước nay không hề có hiềm khích gì, vậy thì hôm nay chúng ta hẳn sẽ có thể nói chuyện trên trời dưới đất, cùng nhau nâng chén cười đùa rồi, cần chi nhọc công Hoàng đế bệ hạ và thủ lĩnh Hoa Đáng phải gặp mặt?
Thấy Nặc Mộc Đồ vừa mở miệng liền hùng hổ chỉ trích triều đình nhà Minh bao lần thất tín, Dương Lăng liền biết bọn họ làm vậy là để những bước tiếp theo có thể tăng thêm lợi thế trong việc kết minh, cho nên y tin tưởng Hoa Đáng thật sự thành tâm ký kết hiệp ước.
Y buông miếng pho mát xuống, phủi phủi tay, thong dong bình tĩnh nói tiếp:
- Biên quân của triều đình nhà Minh vốn có sẵn thù oán xung đột cùng Đoá Nhan Tam Vệ và Nữ Chân Tam Bộ, nhưng nếu nói là triều đình Đại Minh không tốt với các người, thì thật là bất công rồi.
Y thu lại nụ cười trên khuôn mặt, nghiêm túc:
- Từ thời Hồng Vũ đến nay, Đại Minh đối đãi với người Mông Cổ có ý cậy nhờ triều đình hết sức rộng lượng và nhân ái, việc này có chứng cứ chép lại. Năm Hồng Vũ thứ mười lăm, khi Tốc Ca Thiếp Mộc Nhi, Hoàn Giả Thiếp Mộc Nhi quy thuận, năm Vĩnh Lạc thứ mười sáu, lúc Hỉ Lạc Ôn Hà, Khâm Chân Hà đến chầu, Đại Minh chẳng những an bài nơi ở, mà còn cung cấp cơm áo và dê bò, tiền bạc cùng vải lụa, có thể nói là muốn gì được nấy.
Bất cứ cuộc chiến nào người Hán ta cũng đều phải tham gia, thế nhưng đối với thổ quân (người Mông Cổ, Triều Tiên và Nữ Chân) xuôi nam định cư, một người đi lính thì những huynh đệ con cháu khác đều được miễn quân dịch, giảm nhẹ thuế khoá, điều đó khó mà tin được. Đoá Nhan Tam Vệ ở Liêu Đông càng không phải làm sai dịch, không phải nộp thóc thuế, không phải phục dịch, những chuyện này sứ giả Nặc Mộc Đồ ngài hẳn không thể không biết?
Đại Minh thiết lập buôn bán với các vị, cũng không phải vì triều đình không có ngựa trâu, đại để là vì mọi vật dụng của các bộ lạc ngoài quan ngoại đều từ Đại Minh ta, triều đình cho phép buôn bán cũng là vì nhân ái vỗ về dân chúng nơi biên tái. Năm Vĩnh Lạc thứ mười lăm, Ngột Lương Cáp gặp phải đại hạn, chỉ dùng nghìn thớt ngựa đổi tới ba trăm xe gạo của Đại Minh ta, đã cứu sống được vô số người.
Thế nhưng các người đã làm gì?
Trong sự biến Thổ Mộc Bảo, các ngươi thất tín bội nghĩa quay sang thờ Ngoã Lạt. Mới hơi gặp thiên tai nhân họa liền coi Đại Minh là kho lúa đương nhiên, quấy nhiễu biên quan, giết hại bá tánh, ba lòng hai ý với Đại Minh và Thát Đát, bắt cá hai tay!
Tục ngữ có câu: một thăng (bằng 1/10 đấu) gạo ơn hơn đấu gạo thù. Khi một người sắp chết đói, cho hắn một thăng gạo hắn sẽ coi ngài là ân nhân; nhưng nếu ngài cho hắn một đấu gạo, hắn sẽ nghĩ rằng nếu ngươi đã có thể lấy ra một đấu gạo, vậy sẽ có thể cho ta nhiều hơn, nếu ngươi không cho ta, thì ngươi chính là kẻ thù của ta, ta sẽ tự tay cướp lấy. Chẳng phải Đoá Nhan Tam Vệ cũng đối xử với Đại Minh như vậy à? Lòng tham không đáy, vong ơn phụ nghĩa!
Thử hỏi nếu như không có những việc đã qua, thì sao có thể tạo ra cái cớ cho những quan binh hám lợi đen lòng, tham tiếc công lao nhận xằng ban thưởng? Và triều đình sao sẽ nhắm mắt làm ngơ khi Ngoã Lạt tấn công Đoá Nhan Tam Vệ?
Lời của Dương Lăng khiến Nặc Mộc Đồ nghe mà tím tái mặt mày, đám sứ giả nhấp nhổm như ngồi trên lửa, thân thể xoay đi vặn lại rất không thoải mái.
Dương Lăng dịu giọng nói tiếp:
- Đương nhiên, những việc này phần lớn đều là chuyện cũ. Vệ sở biên quân ta bởi những hiềm khích này mà quả thật cũng từng khiến cho dân chúng bình thường của Đoá Nhan Tam Vệ bị giết hại, đôi bên vì vậy mỗi lúc một tách xa nhau, mất lòng tin cậy. Chính bởi vì vậy, Hoàng đế bệ hạ của Đại Minh ta mới đích thân đến Đại Đồng, muốn cùng đại thủ lĩnh Hoa Đáng đích thân ký kết minh ước, giúp đỡ lẫn nhau, mãi mãi là đồng minh.
Nặc Mộc Đồ hít vào một hơi rồi cười xảo quyệt nói:
- Chắc không chỉ có vậy, đúng không? Đại Minh muốn kết minh cùng chúng tôi, ngoài giao dịch buôn bán, không phải còn yêu cầu chúng tôi trở mặt với Ngoã Lạt, ngăn chận vó ngựa của thiết kỵ Thát Đát, hưởng ứng hỗ trợ lẫn nhau sao?
Dương Lăng nén giận đáp:
- Không sai! Có con cọp dữ Thát Đát này, Đại Minh chịu rất nhiều thiệt hại. Đóa Nhan Tam Vệ cũng bị bọn chúng ức hiếp không ít phải không? Nay bảy vạn đại quân Thát Đát đang hao binh tổn tướng ngoài thành Đại Đồng mà lại chẳng được ích lợi gì. Một khi bầy cọp khổ sói đói cúp đuôi chạy về đại mạc, Đóa Nhan Tam Vệ sẽ là kẻ đứng đầu sóng ngọn gió.
Đoàn kết thì cả hai cùng có lợi, mà chia rẽ thì cả hai đều có hại. Tin rằng đại thủ lĩnh Hoa Đáng nhìn xa trông rộng đã thấy được điểm này, nên mới vui vẻ đồng ý ký kết hiệp ước cùng Đại Minh, giúp nhau công thủ, cùng đối phó với mối họa này chứ nhỉ?
Nặc Mộc Đồ mỉm cười lắc đầu nói:
- Dương đại nhân! Đại thủ lĩnh Hoa Đáng cảm động thành tâm của Hoàng đế bệ hạ Đại Minh cho nên mới chạy đến triều bái. Hẳn ngài cũng biết, nếu một ngày nào đó trở mặt với Thát Đát, Đoá Nhan Tam Vệ của chúng tôi sẽ là kẻ đứng mũi chịu sào, sẽ chịu phải áp lực to lớn vô cùng, mà nếu như triều đình Đại Minh bỏ mặc không để ý, khi ấy Đoá Nhan Tam Vệ một cây xây chẳng nên nhà, thực khó mà là đối thủ của Thát Đát được.
Tương tự, nếu như chúng tôi nhắm mắt làm ngơ trước sự tranh đấu giữa Đại Minh và Thát Đát, thì cho dù thiết kỵ Thát Đát ngoài thành Đại Đồng có tổn thương nặng nề hơn đi nữa, một khi trở về thảo nguyên nghỉ ngơi lấy sức, không tới hai năm, nanh nhọn vuốt bén liền sẽ mọc lại.
Chúng tôi và Thát Đát cùng là hậu duệ của Đại Nguyên, cho dù bọn họ có lúc cướp bóc chúng tôi, song cũng sẽ không đuổi tận giết tuyệt. Rốt cuộc bất luận là vì giang sơn Đại Minh màu mỡ hay là vì báo thù, bọn họ vẫn sẽ tìm đến các vị, biên giới Đại Minh sẽ vì vậy mà mãi mãi không ngày yên bình.
Cho nên e rằng Đại Minh còn phải cấp bách đối phó với Thát Đát hơn Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi nhiều, đúng không? Không biết Hoàng đế bệ hạ sẽ đưa ra điều kiện gì để có được sự tín nhiệm của chúng tôi đây?
Ánh mắt Dương Lăng thoáng loé lên, y mỉm cười nói:
- Không sai! Trước mặt người ngay không nói lời giả dối, chúng ta đích thực có ý muốn làm suy yếu thế lực của Bá Nhan. Giống chim dữ này mà không trừ, vùng cửu biên đích thật không được ngày bình yên, mà khiến cho Thát Đát suy yếu đối với Đoá Nhan Tam Vệ chỉ có trăm lợi mà không hại.
Nói rồi y cầm bát trà sữa lên, mặc kệ mùi vị khó chịu hớp một ngụm nhỏ, rồi cúi đầu ngẫm nghĩ: "Tay Nặc Mộc Đồ này tuyệt không phải là sứ giả tầm thường. Sứ giả các bộ lạc khác chỉ biết làm theo hắn, nhất định hắn là người được Hoa Đáng tin tưởng nhất. Xem ra hôm nay nếu muốn nắm rõ được điểm mấu chốt để hợp tác với Đoá Nhan Tam Vệ, chuẩn bị để Hoàng đế ra mặt đàm phán, thì sẽ phải trông cậy vào hắn đây."
Nghĩ đến đây, Dương Lăng đặt bát trà sữa xuống, khẽ mỉm cười nói:
- Giang sơn chúng ta rộng lớn vô cùng, đồng thời cũng không giỏi việc du mục và cưỡi ngựa săn bắn. Đại Minh không hề có dã tâm gì với tái ngoại, chỉ hy vọng làm sao biên cảnh nước ta có thể được yên ổn, dân chúng có thể an cư lạc nghiệp mà thôi. Như nay Ngõa Lạt đã yếu thế, nếu như Thát Đát dưới sự hợp lực tấn công của Đại Minh và Đoá Nhan Tam Vệ mà biến thành cát vụn thì vị trí ông vua của sa mạc thảo nguyên này sẽ do ai đảm nhiệm?
Thần sắc Nặc Mộc Đồ thoáng biến đổi, liền đó bình tĩnh lại, hắn điềm nhiên cười nói:
- Bá Nhan là con cháu của Thành Cát Tư Hãn! Trên thảo nguyên hắn có một sức hiệu triệu không gì sánh bằng, nếu hắn không thể làm vua của sa mạc, tin rằng cũng sẽ không có ai có thể thay thế hắn.
Dương Lăng đẩy bàn cười lớn, đoạn đứng dậy nói:
- Thành Cát Tư Hãn? Thử hỏi trước thời Thành Cát Tư Hãn, ai là vua của sa mạc? Sau thời Thành Cát Tư Hãn thì sẽ không còn anh hùng nào có thể thống trị mảnh đất này nữa hay sao? Uy thế còn lại của hắn kéo dài xuống cho con cháu đến mấy trăm năm cũng là hết mức rồi. Trung nguyên chúng ta có câu ngạn ngữ: "vương hầu quan tướng, chẳng lẽ sinh ra đã vậy"? Sao biết đại thủ lĩnh Hoa Đáng sẽ chẳng có một ngày trở thành Hoa Đáng Khả Hãn?
Trong mắt Nặc Mộc Đồ lờ mờ hiện lên h ngọn lửa, cặp mắt nóng rực nhìn Dương Lăng chằm chằm rồi hỏi:
- Dương đại nhân nói vậy... là có ý gì? Đoá Nhan Tam Vệ là ba vệ phiên thuộc Hoàng đế bệ hạ. Phải chăng Hoàng đế bệ hạ có ý... có ý cho phép chúng tôi tự lập, không còn mang thân phận là vệ phụ thuộc nữa?
Dương Lăng cười ha hả đáp:
- Đương kim thiên tử Đại Minh sáng suốt anh minh, nhìn xa trông rộng. Đoá Nhan Tam Vệ ngoại trừ một cái hư danh thì đã sớm đã có hình thể một nước, đã bao giờ làm hết bổn phận chư hầu với Đại Minh? Thay vì vậy, thà rằng giao hảo bình đẳng còn hơn. Hoàng thượng nguyện phò trợ đại thủ lĩnh Hoa Đáng ngồi trên ngôi báu của quan ngoại, đời đời kiếp kiếp, mãi là láng giềng hoà thuận của Đại Minh.
Nặc Mộc Đồ chợt đứng bật dậy, nhìn Dương Lăng chằm chằm với vẻ khó tin, giọng run rẩy:
- Lời này thật chứ?
Dương Lăng đáp:
- Đương nhiên! Bằng không, chỉ với cương vị Chỉ huy đồng tri một vệ phụ thuộc Đại Minh của đại thủ lĩnh Hoa Đáng mà Hoàng thượng đích thân đến gặp, há chẳng phải là trò cười lớn ư?
Vừa nói y vừa nghĩ thầm trong bụng: "Thực ra mang cái hư danh này, trên thực tế thế lực triều đình Đại Minh lại không thể nào động chạm, khống chế được các ngươi; các người thì có được cái ô lớn như vậy, mà triều đình thì lại không thể dụng binh với các người. Có vùng đất khó nhằn như Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang rồi, chẳng lẽ còn phải giữ nuôi người Nữ Chân thành một con cọp lớn hay sao?
Thà rằng cứ cho ngươi một cái hư danh, vỗ về một phần dã tâm của các ngươi. Bất luận thế nào các người cũng sẽ không thể đối phó được với Thát Đát, quân chúng ta chỉ cần xuất quan, lập tức các ngươi sẽ giúp đỡ hỗ trợ dẫn đường. Dần dần chúng ta sẽ quen với tình hình quan ngoại, đến khi Thát Đát sụp đổ rồi, quân của chúng ta cũng đã hoá thành mãnh hổ. Sau đó lại tìm cớ khởi binh với đám dân một nghìn tự hao tám trăm các ngươi, hơn nữa không chỉ đơn thuần là chinh phạt phiên thuộc ngỗ ngược như trước đây, mà là cướp đoạt lấy hoàn toàn. Các ngươi không muốn làm phiên thuộc, vậy ta sẽ nấu các ngươi thành khoai luộc*!" (*: phiên thuộc (fānshǔ) đọc na ná như khoai lang (fānshǔ))
Sứ giả của các vệ ngồi bên cạnh ngơ ngác nhìn nhau. Hiển nhiên điều kiện mà Đại Minh đề ra thật sự nằm ngoài dự liệu của bọn họ, nói trắng ra thì đây chỉ là một tấm séc khống không có bất kỳ lợi ích thực tế nào.
Nhưng Đại Minh xưa nay vốn chỉ coi trọng hư danh, không xem trọng lợi ích, chỉ cần một câu phiên thuộc về mặt danh nghĩa, thì cho dù không thể thu về một đồng bạc thuế hay thi hành chút quyền lực hành chính nào với bọn họ, Đại Minh cũng vẫn nguyện ý mang vàng kim bạc trắng ra đổi. Trong mắt những đứa con thảo nguyên luôn chống chọi với đất trời, giãy giụa trong những điều kiện khắc nghiệt để tìm cách sinh tồn này, bọn họ không thể nào hiểu được thứ tư duy trái khoáy này của Đại Minh.
Nay đột nhiên nghe được sự cho phép động trời này, nhất thời khiến bọn họ giật nẩy mình. Sự cho phép này quả thật là quá hấp dẫn, giống như một tên ăn mày vốn định gõ cửa nhà anh xin một chiếc bánh bao chay lót dạ, nhưng anh lại đưa chìa khoá nguyên căn nhà cho hắn, nói rằng từ hôm nay căn nhà này sẽ thuộc về hắn. Bọn họ rúng động xong thì cảm thấy như đang mơ vậy, nhất thời không dám tin đó là thật.
Khuôn mặt đỏ bừng của Nặc Mộc Đồ càng trở nên đỏ rực, hắn chợt xoay người bước chậm rãi trong lều, ánh mắt lập loè, dường như trong lòng tranh đấu không thôi. Có đáng tin không? Đại Minh thật sự chịu đưa ra điều kiện hậu hĩ đến như vậy ư? Từ thủ lĩnh, vọt một cái liền trở thành Khả Hãn!
Đoá Nhan Tam Vệ không có thực lực này, nhưng nếu có binh lực và tài lực của Đại Minh chống đỡ thì sao? Khi ấy sẽ có thể hay không? Khả Hãn! Vua của thảo nguyên! Nhưng mà... rốt cuộc thì Đại Minh thành tâm cỡ nào đây?
Nghĩ đến đây, chợt nảy ra một kế, tức thì Nặc Mộc Đồ xoay người lại nói:
- Chuyện này thật sự quá trọng đại, tôi cần phải bẩm báo lại với Đại thủ lĩnh rồi mới có thể trả lời với đại nhân được.
Đoạn hắn ranh mãnh nói tiếp:
- Nếu cứ vậy mà quay về bẩm báo, chỉ sợ đại thủ lĩnh Hoa Đáng của tệ bộ cũng khó mà tin được. Bởi trước nay quốc sách của Đại Minh đối với Đoá Nhan Tam Vệ luôn luôn thay đổi, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí là đối với chuyện liên minh với Đại Minh lần này, cũng có rất nhiều quý tộc trong bộ lạc mang lòng nghi hoặc.
Vì vậy lúc bản sứ giả phụng mệnh đến gặp đại nhân, các vị thủ lĩnh có đề ra hai điều kiện. Nếu có thể tin rằng các vị cho phép Đoá Nhan Tam Vệ tự lập, đồng thời phò trợ chúng tôi đối phó với Thát Đát thì sẽ đề xuất hai điều kiện này. Bản sứ giả không ngại đề xuất điều kiện hợp tác ra trước, sau đó quay về bẩm báo với Đại thủ lĩnh; cũng xin đại nhân đem báo cáo lại điều kiện của chúng tôi cho Hoàng đế bệ hạ Đại Minh.
Chú thích:
(1) nhắc đến Minh Thành Tổ phát động chiến dịch lớn tiêu diệt các đạo quân Mông Cổ quấy phá ở sa mạc Gobi.
Chương 206: Quyết Theo Đại Soái
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Hoa Đáng cười xảo quyệt, đáp:
- Nếu Bá Nhan thật sự dễ đối phó như vậy thì liệu nhà Minh sẽ đưa ra điều kiện ưu đãi như vậy ư? Đừng thấy Bá Nhan đang ăn phải trái đắng ngoài thành Đại Đồng mà tưởng bở; một khi con chim ưng này trở về thảo nguyên, nó sẽ rất mau chóng liếm lành vết thương thôi.
Có tấm chiêu bài chữ vàng là hậu duệ trực hệ hoàng gia, hắn sẽ nhanh chóng bổ sung đội ngũ và chiến sĩ thôi. Trừ phi... thật sự như vị Dương đại nhân này nói Thát Đát sẽ xảy ra nội loạn. Nhưng mà danh vọng của Bá Nhan như mặt trời ban trưa, trong nội bộ của Thát Đát thật sự sẽ có kẻ dám đối đầu với hắn sao?
Đừng vội tự cột mình vào cái gốc cây là nhà Minh này. Lúc trời nắng nóng hầm, ta có thể mượn nó để trú mát; khi nó không thể che mưa chắn gió cho chúng ta nữa thì chúng ta sẽ cưỡi ngựa cao chạy xa bay. Ha ha ha...
Dương Lăng trở về chỗ ngồi, trầm ngâm một lúc rồi hỏi:
- Hai điều kiện thế nào? Ha ha! Mời sứ giả Nặc Mộc Đồ nói rõ!
Nặc Mộc Đồ khẽ mỉm cười, ánh mắt lập loè:
- Đoá Nhan Tam Vệ đội ân sủng của Hoàng đế bệ hạ cho phép lập Hãn xưng vương. Đương nhiên, cho dù đại thủ lĩnh của chúng tôi được xưng là Hãn cũng không dám đứng ngang hàng ngang vế cùng Hoàng đế bệ hạ Đại Minh, mà vẫn giữ vai vế theo lệ là chư hầu phiên vương của Đại Minh.
Dương Lăng cười nói:
- Ấy là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên đến khi đó Hoa Đáng Khả Hãn nắm giữ thảo nguyên rộng lớn, cả đất đai lẫn dê bò, lại chỉ phải triều cống mà không phải nộp thuế, sưu dịch. Làm sao phiên vương Đại Minh ta có thể so bì?
Động lòng bởi viễn cảnh tươi đẹp do Dương Lăng vẽ ra, khoé mắt Nặc Mộc Đồ thoáng hiện vẻ mừng rỡ. Hắn cố trấn tĩnh lại rồi mới ra vẻ dè dặt nói tiếp:
- Chỉ có điều, Ngoã Lạt và Đại Hãn Thát Đát đều từng nhận được chỉ sắc phong của chính Hoàng đế bệ hạ, cho nên chúng tôi hy vọng cũng có thể nhận được sắc chỉ của Hoàng đế bệ hạ, cùng được ban kim ấn, phù tiết.
Dương Lăng sực tỉnh, thì ra vị đặc sứ này lo ngại Đại Minh chỉ chấp thuận ngoài miệng. Giữa ba bộ lạc Ngoã Lạt, Thát Đát và Ngột Lương Cáp của Mông Cổ thì bọn họ có sức ảnh hưởng bé nhất. Nếu như không được triều đình nhà Minh ủng hộ công khai, bọn họ sẽ không thể nào có được danh xưng Đại Hãn một cách danh chính ngôn thuận, ít nhất là trước khi bọn họ có đủ thế lực để áp chế hai bộ lạc kia.
Dương Lăng thoáng trầm ngâm, rồi gật đầu đồng ý:
- Lo nghĩ của ngài cũng có lý, ta sẽ tự bẩm báo chuyện này với Hoàng thượng. Chuyện thứ hai là gì?
Thấy Dương Lăng đồng ý, Nặc Mộc Đồ mừng rỡ ra mặt. Hắn trở về chỗ ngồi, suy nghĩ một chút rồi mới cẩn thận nói tiếp:
- Năm xưa do Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi theo phò dẹp loạn có công, hoàng đế Vĩnh Lạc đã ban thưởng cho chúng tôi Đại Ninh vệ (nay chính là Thừa Đức Thị, huyện Bình Tuyền, huyện Kiến Xương và lưu vực sông Lão Cáp).
Nhưng mà... chắc hẳn Dương đại nhân cũng biết, Tam Vệ chúng tôi sống bằng nghề du mục; dê bò là tất cả những gì chúng tôi có, song hoàng đế Vĩnh Lạc lại không cho phép chúng tôi nuôi thả ở địa khu Đại Ninh. Uổng cho mảng thảo nguyên rộng lớn mà lại không được chăn thả dê bò, cho nên hy vọng Hoàng thượng cho phép chúng tôi chăn thả ở khu vực Đại Ninh vệ.
Dương Lăng vừa nghe xong tim liền nhảy đánh thịch. Lúc suy đoán điều kiện mà Đoá Nhan Tam Vệ có khả năng sẽ đưa ra y liền nghĩ Đoá Nhan Tam Vệ có thể sẽ đưa điều kiện này ra, quả nhiên là vậy. Thật ra mấy chục năm trước Đoá Nhan Tam Vệ dưới sự hỗ trợ của bộ lạc Khoa Nhĩ Thấm có quan hệ thông gia với bọn họ đã đem quân tiến vào thành Đại Ninh, còn vượt Hội Châu (nay là huyện Bình Tuyền tỉnh Hà Bắc) thẳng tiến Khoan Hà (nay là xã Bộc Hà tỉnh Hà Bắc), không ngừng lấn đẩy xuống phía nam.
Nay, Đoá Nhan Tam Vệ trải dài từ thành Đại Ninh thẳng đến Hỉ Phong khẩu, cách Tuyên Hoá Hà Bắc một ngọn núi; thế lực của Thái Ninh vệ từ Cẩm Châu, Nghĩa Châu qua Quảng Ninh vệ đến tận Liêu Hà, thế lực của Phúc Dư vệ từ Hoàng Nê Oa qua Thẩm Dương, Thiết Lĩnh thẳng đến Khai Nguyên vệ. Trên thực tế dải đất rộng lớn lấy nam và đông dòng Tây Lạp Mộc Luân và Liêu Hà làm nơi khởi nguồn, tây kề Tuyên Phủ, đã nằm trong tay Đoá Nhan Tam Vệ.
Để Đoá Nhan Tam Vệ cùng Đại Minh liên binh đối phó Thát Đát mà chỉ cần triều đình Đại Minh công khai sắc phong một chức vị và thừa nhận quyền sở hữu một khu vực mà trên thực tế đã nằm dưới sự khống chế của bọn họ! Thoạt trông dường như Đại Minh không hề chịu phải tổn thất nào, thế nhưng Dương Lăng lại không khỏi do dự.
Đại Minh không cách nào khống chế những nơi này, trên thực tế bảo chúng đã rơi vào tay Đoá Nhan Tam Vệ cũng không sai. Thế nhưng công khai thừa nhận quyền sở hữu của bọn họ lại là cắt nhường quốc thổ, điều này thật sự sẽ để lại mối nguy hại vô cùng cho đời sau.
Năm xưa đại đế Vĩnh Lạc ban thưởng đất đai cho Đoá Nhan Tam Vệ là đã phạm phải một sai lầm trí mạng. Vệ sở Đại Minh nằm ngoài quan ngoại gắn liền một thể, giữa các vệ sở đã có sự tương hỗ cho nhau, vừa mất một mảng vào tay Đoá Nhan Tam Vệ thì cả hệ thống chiến lược này lập tức sụp đổ, giữa các vệ sở đã mất đi sự gắn kết hữu hiệu. Thậm chí một mình vệ sở Liêu Đông sẽ không đủ sức ngăn chặn sự tiến công của một bộ lạc nhỏ.
Những địa khu này đều là những yếu địa chiến lược quan trọng. Dương Lăng đang mưu tính châm ngòi nội loạn Thát Đát, rồi kéo Đoá Nhan Tam Vệ vào trong vũng bùn, sau đó tăng quân cho Liêu Đông, củng cố sự khống chế địa khu ny thì sao y sẽ chịu tạo danh chính ngôn thuận cho người ta?
Thế là y bèn lắc đầu quả quyết:
- Sứ giả Nặc Mộc Đồ, ông phải biết rằng tuy các ông gặp phải nguy hiểm to lớn, nhưng lợi ích đạt được lại lớn hơn. Một khi khiến được Thát Đát thần phục các vị, các vị sẽ có thể chọn ra đồng cỏ và nguồn nước tươi đẹp nhất để chăn thả dê bò. Cho dù có thất bại, các vị lui về cố thủ Đoá Nhan Tam Vệ, có Đại Minh kiềm chế Thát Đát, bọn chúng cũng sẽ không làm gì được các vị. Liêu Đông là hàng rào chắn của kinh sư Đại Minh, chúng ta không thể bỏ nó.
Nặc Mộc Đồ vừa mới mở miệng định thuyết phục, Dương Lăng đã đưa tay lên ngăn:
- Sứ giả Nặc Mộc Đồ, chuyện này ta không cần phải xin ý chỉ của Hoàng đế bệ hạ, tuyệt đối không cần phải thương lượng. Liêu Đông, không thể được dùng để mặc cả!
Nặc Mộc Đồ cầm chén trà sữa lên uống một ngụm, rồi vuốt chòm râu dày đen như sắt nghĩ ngợi, một chốc sau hắn mới nói:
- Nếu công khai quyết liệt với Thát Đát, chúng tôi phải đương đầu với nguy hiểm rất lớn. Nếu như không có gì bảo đảm, toàn thể bộ lạc làm sao có thể yên tâm đây? Nếu đại nhân đã nói như vậy..., không biêt có thể bẩm với Hoàng đế bệ hạ rằng, để tỏ thành ý, Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi muốn cùng triều đình hoà thân(1) được không?
Dương Lăng thoáng sững người, y không ngờ Nặc Mộc Đồ lại dám yêu cầu hoà thân, lẽ nào là thực! Hoa Đáng còn chưa làm Đại Hãn, Đoá Nhan Tam Vệ đã cho rằng mình là triều đình Bắc Nguyên năm xưa dưới trướng có tứ đại Hãn quốc (vương quốc của Khan - ND) ư? Lại dám đòi hoà hiếu kết giao với triều đình nhà Minh!
Nặc Mộc Đồ thấy sắc mặt y sầm xuống, liền vội đính chính:
- Đại thủ lĩnh Hoa Đáng có một vị ái nữ tên Ngân Kỳ cô nương, là đoá hoa mỹ lệ nhất trên thảo nguyên Khoa Lâm Thấm,năm nay mới được 15 xuân xanh. Nếu như Hoàng đế bệ hạ không ghét bỏ, thủ lĩnh Hoa Đáng nguyện ý dâng cho Chính Đức hoàng đế bệ hạ làm phi...
Mặt Dương Lăng liền hết vẻ giận: thì ra là muốn tiến dâng mỹ nữ, hề hề, như vậy cũng tốt. Dù sao cũng là thông gia chính trị, xấu chút cũng không sao, dâng vào trong cung là được rồi. Dù sao thì ng cả Hoàng hậu và hai vị quý phi hiện giờ đều là vật trang trí, Tử Cấm Thành còn ngại thêm một miệng cơm nữa sao? Hơn nữa... Khoa Lâm Thấm? Đệ nhất mỹ nữ Đại Ngọc Nhi của Mãn Châu hình như là một cô nương vùng thảo nguyên Khoa Lâm Thấm thì phải, tướng mạo vị tiểu thư Ngân Kỳ này chắc cũng không kém.
Nghĩ đến đây, Dương Lăng bèn mỉm cười định đồng ý rồi quay về bẩm báo với Chính Đức, nào ngờ Nặc Mộc Đồ lại thay đổi ngữ điệu, nói tiếp:
- Được biết Hoàng đế bệ hạ có hai vị ngự muội là Vĩnh Phúc công chúa và Vĩnh Thuần công chúa, thủ lĩnh Hoa Đáng nguyện ý nghênh cưới một vị trong đó, cũng đưa lên làm chánh thất phu nhân, cùng Đại Minh kết làm Tần Tấn, nhất định hợp tác khắng khít với nhau.
Dương Lăng vừa nghe xong liền thoáng chau mày, liền đó thầm rủa: "Ngươi gả con thì cứ gả con đi, sao còn đòi chúng ta bù thêm một người nữa?... Không đúng à, con gái Hoa Đáng gả cho Chính Đức, vậy Chính Đức là con rể hắn, hắn lại muốn cưới em gái của con rể mình... vậy sẽ loạn thành một đống gì đây?"
"Nghe nói Hoa Đáng đã có năm trai ba gái, chắc là một lão già râu xồm gần năm chục rồi thì phải? Bảo tiểu công chúa Vĩnh Phúc thùy mị đáng yêu gả cho lão già Hoa Đáng đó?" Vừa nghĩ đến đây, trong lòng Dương Lăng chợt cảm thấy không thoải mái.
Bằng không thì đổi thành tiểu nha đầu Vĩnh Thuần đó vậy? Ý nghĩ này vừa mới nhen nhóm trong đầu, Dương Lăng liền đã rùng mình, cả người rét lạnh. Y mà dám đồng ý, khi trở về bảo đảm Chính Đức sẽ xách bảo kiếm truy sát y khắp Đại Đồng giống như năm đó hắn truy sát cậu em vợ của ông già hắn vậy.
Dương Lăng hít vào một hơi, rồi thầm cảnh tỉnh mình: "Mình đến là để hoà đàm, là đàm phán về việc ký kết đồng minh, cho dù không đồng ý cũng có thể từ chối khéo một chút, như thế mới có thể đạt được mục đích. Vạn lần đừng học ông Quan Công mà phán câu 'Con gái ta anh thư lỗi lạc há có thể gả cho thằng con yếu hèn nhà ngươi sao?'"
Thế là y bèn dằn lửa giận trong lòng, làm ra vẻ phản đối mà bật cười to. Nạc Mộc Đồ ngạc nhiên hỏi:
- Cớ sao Dương đại nhân lại cười?
Dương Lăng phất tay áo, cả cười bảo:
- Sứ Nặc Mộc Đồ tin là đại sự liên can đến vận mệnh mấy chục vạn người, liên can đến sự sống còn của một bộ tộc lại thật sự có thể gắn liền với một người con gái ư? Đại Minh cùng Đoá Nhan Tam Vệ liên kết đồng minh, giao dịch thông thương, cùng liên minh chống ngoại xâm mới là thành tâm cao nhất.
Tự lâu đã nghe đại thủ lĩnh Hoa Đáng là một trong ba đại anh hùng tái ngoại, hùng tài đại lược, tầm mắt cao xa, không thua kém Bá Nhan, Hỏa Sư, sao có thể ký thác việc liên minh vào việc hoà thân? Chẳng lẽ là sứ giả Nặc Mộc Đồ tự ý làm chủ? Ha ha... khi về đến nơi sứ giả Nặc Mộc Đồ chớ mà nhắc tới việc này với thủ lĩnh Hoa Đáng, nếu không sẽ khiến thủ lĩnh Hoa Đáng hổ thẹn đó.
Khuôn mặt Nặc Mộc Đồ đỏ bừng, trông thành ra hơi sẫm hơn. Hắn hậm hực bảo:
- Hoà thân là chuyện từ xưa đã có. Đời Hán, Đường đều có công chúa gả ra tái ngoại, trở thành câu chuyện được mọi người ca tụng nghìn đời. Nếu như việc hoà thân còn không thể biểu
thị được sự thành tâm, vậy Dương đại nhân sẽ lấy gì để chứng minh lòng thành hợp tác đây?
Dương Lăng đáp ngay không chút do dự:
- Lợi ích! Chỉ có lợi ích chung mới có thể khiến đôi bên hợp tác khắng khít cùng nhau.
Đoạn y vung tay áo đứng lên, bước đến trước mặt sứ giả của Hải Tây Nữ Chân là Hồ Xích nói:
- Mấy năm gần đây Đại Minh cùng Nữ Chân giao dịch ngày càng phồn thịnh. Bản quan lấy một ví dụ, chỉ với một món là nhân sâm. Do nhân sâm ngâm nước không giữ được lâu nên thương nhân người Hán mặc sức ép giá, mỗi năm các người tổn thất phải đến mấy chục vạn lạng bạc đúng không?
Vừa nhắc đến chuyện này, bụng Hồ Xích liền đầy lửa giận. Bọn họ tuyệt không sản xuất thứ gì, hoàn toàn dựa vào việc lên núi đào sâm và săn bắn để đổi lấy muối, lấy trà, lấy vải vóc nồi sắt với người Hán. Mà chỉ có người Hán mới biết dùng thứ nhân sâm này, đem đến những chỗ khác bán không được giá và cũng không có mấy ai mua. Nhưng thương nhân người Hán ép giá quá đáng quả thật đã hại bọn họ đến khổ. Hồ Xích vội đứng dậy cung kính đáp:
- Đại nhân minh giám, tệ bộ lạc lần này đến đây nguyện ý gia nhập đồng minh, chỉ hy vọng triều đình có thể đối xử công bằng với người Nữ Chân.
Dương Lăng gật đầu bảo:
- Bản quan đã biết! Chỉ với một thứ là nhân sâm của một bộ lạc Hải Tây Nữ Chân các vị, mỗi năm đã phải thông qua chợ buôn ngựa(2) mà chuyển vận hơn năm vạn cân nhân sâm. Mấy năm trước đôi bên xích mích, triều đình ta từng ra lệnh cấm, không cho giao dịch suốt hai năm; số nhân sâm bị vữa nát của các vị hẳn phải hơn mười vạn cân, đúng không? Do đó dân lành Nữ Chân nghèo khốn mà chết nhiều vô số kể. Nếu cùng bản triều liên minh, chúng ta sẽ không cấm chợ, hơn nữa còn tình nguyện định giá chính thức, giảm bớt thuế khoá hỗ trợ thương nhân người Hán. Đây có thể xem là điều biểu lộ thành tâm lớn nhất chưa?
Hồ Xích mừng như bắt được vàng, gật đầu lia lịa như gà mổ thóc, luôn miệng đáp:
- Đương nhiên, đương nhiên! Đa tạ Dương đại nhân, đa tạ Hoàng thượng! Chúng tôi bằng lòng... bằng lòng cùng Đại Minh kết minh trọn đời.
Dương Lăng gật đầu, mỉm cười bước đến trước mặt sứ giả Kiến Châu Nữ Chân là Lý Đậu Lý, nói:
- Kiến Châu Nữ Chân vốn lấy chuyên nghề chăn nuôi súc vật, lấy thịt ăn lấy da mặc, còn Đại Minh ta thì chuyên cày ruộng ăn gạo mà sống.
Nhưng mấy năm gần đây, các vị dần dần khai thác đất ruộng, thu mua trâu cày, lưỡi cày từ Đại Minh, mời người Hán dạy cách cày bừa trồng trọt. Các vị ăn mặc giống như người Hán, giàu có sung túc nhất trong Nữ Chân Tam Bộ. Trong hai năm cấm chợ, bộ lạc các vị nam thì không xẻng liềm, nữ thì không kim kéo, nấu thì không có nồi, ăn thì không có muối. Thiết nghĩ Lý Đậu Lý sứ giả là người nhận thức rõ sự việc đó nhất đúng không?
Giả như chúng ta mở thêm chợ buôn ngựa, đổi chợ phiên chỉ giao dịch buôn bán vào mồng một và mười lăm mỗi tháng thành giao dịch buôn bán hằng ngày, mở rộng phạm vi vật phẩm buôn bán thì ngài cho rằng đây mới tỏ rõ lòng thành của Đại Minh, hay đưa một vị công chúa đi hoà thân mang theo mười vạn lạng bạc trắng mới là có lòng thành?
Lý Đậu Lý nghe vậy liền sáng rỡ hai mắt. Chỉ cần Đại Minh chịu đổi từ chợ phiên mỗi tháng hai lần thành chợ thường xuyên, mở rộng vật phẩm giao dịch đối với ba khu chợ lúc trước thì đã đủ khiến bọn họ có đang nằm mơ cũng phải bật cười tỉnh dậy rồi, chứ đừng nói gì đến mở thêm chợ? Chuyện này thật nằm ngoài dự liệu của bọn họ, Lý Đậu Lý không hề nghĩ ngợi gì lập tức "trở giáo" đáp ngay:
- Đương nhiên là mở chợ buôn bán là tỏ rõ lòng thành rồi! Chúng tôi không cần gì nhiều, chỉ cần triều đình Đại Minh chịu buôn bán cùng chúng tôi, Kiến Châu Nữ Chân sẽ là phiên thuộc và bằng hữu vĩnh viễn của Đại Minh!
Bọn sứ giả của các bộ lạc Đoá Nhan kích động vô cùng, đã có mấy kẻ đứng ngồi không yên. Nhưng rất có lẽ vì Nặc Mộc Đồ của Đoá Nhan Vệ là thủ lĩnh sứ giả của Đoá Nhan Tam Vệ, cho nên bọn họ đều hướng ánh mắt về phía Nặc Mộc Đồ. Trông thấy tình hình như vậy, Nặc Mộc Đồ không khỏi trầm ngâm nói:
- Lời ấy của Đại Nhân rất phải. Nhưng nếu như vậy, chúng tôi làm thế nào để tin vào thành tâm của triều đình Đại Minh đây?
Dương Lăng giơ từng ngón tay lên đếm:
- Thứ nhất cũng là công khai giao dịch, tin rằng quý bộ sẽ được lợi không ít từ trong đó.
Thứ nhì là hợp tác quân sự; một khi dụng binh, Đại Minh sẽ xuất binh từ hai lộ là Tuyên Hoá Đại Đồng và Liêu Đông, tạo thành thế tam giác, giữa là trung lộ. Nếu như không thành tâm hợp tác, trọng binh của chúng ta ở Liêu Đông sẽ nguy khốn trùng trùng, như vậy hẳn đã có thể bày tỏ lòng thành của chúng ta rồi chứ?
Thứ ba, tựa như năm đó Dã Tiên thái sư của Ngõa Lạt tiến đánh Yến Kinh bị ngăn trở, lần này Bá Nhan tấn công bị đánh bại; sau khi hắn trở về ắt Thát Đát sẽ xảy ra nội loạn. Chúng ta không cần các vị xuất binh ngay bây giờ, song phương có thể khai trương chợ, buôn bán trước, chờ khi quân giỏi lương đủ, Thát Đát đại loạn rồi mới thừa thế tóm gọn bọn chúng. Các vị có thể lựa xem tình thế mà hành động, nắm quyền chủ động. Tất cả những thứ vừa nêu trên đã đủ để tỏ rõ lòng thành của chúng ta chưa, thưa sứ giả Nặc Mộc Đồ?
Nặc Mộc Đồ nghe nói đến đây thì lông mày nhướng cao, bèn đứng dậy nắm tay đặt lên ngực, trịnh trọng đáp:
- Chúng tôi tin vào thành tâm của Hoàng đế bệ hạ, tin lời của Dương đại nhân. Tôi sẽ mau chóng bẩm báo cho đại thủ lĩnh Hoa Đáng được hay.
Dương Lăng mỉm cười vui vẻ, đáp:
- Tốt, vậy ta sẽ ở trong thành Đại Đồng chờ tin tốt của các vị.
Đoạn y bước trở về bàn mình bưng bát trà sữa lên uống cạn một hơi, rồi cười sang sảng nói:
- Lần tới sẽ do bản quan chiêu đãi các vị sứ giả ở Đại Đồng, hy vọng đến lúc đó các vị sẽ có thể mang đến tin tốt từ đại thủ lĩnh Hoa Đáng. Các vị, xin cáo từ!
Sứ thần của các bộ vẫn đứng ngoài khe núi mà dõi mắt trông theo hơn trăm khinh kỵ khuất dần trong khe núi. Sứ giả của bộ lạc Ông Ngưu Đặc là Cách Nhật Lặc Đài bước tới bên cạnh Nặc Mộc Đồ đang trầm tư suy nghĩ cung kính thưa:
- Hoa Đáng đại nhân, ngài thấy lời của vị sứ thần nhà Minh này có đáng tin không?
Cặp mắt mang hơi hướm con buôn của Hoa Đáng đang giả danh là Nặc Mộc Đồ nhoáng cái đã biến thành cặp mắt sắc bén lanh lợi như chim ưng. Hắn vuốt râu cười nhẹ rồi bảo:
- Nếu như bọn họ chỉ muốn lợi dụng chúng ta, ắt sẽ không quan tâm đến việc hứa hẹn. Do đó chúng ta có hét giá trên trời, bọn họ cũng sẽ đáp ứng hoàn toàn. Nếu như ký kết liên minh là giả, vậy thì còn để ý đến việc giả kết thân và giả cắt đất sao? Vị sứ thần Đại Minh này thận trọng như vậy, xem ra đích thực là bọn họ thành tâm rồi.
Các Nhật Lặc Đài thở phào nhẹ nhõm, rồi nhoẻn miệng cười nói:
- Thành tâm là tốt rồi. Nói thật, khi đối địch với Thát Đát bộ lạc chúng ta sẽ chết rất nhiều, nhưng đối địch với nhà Minh không những chết chóc mà còn bần cùng; so với cái chết càng đáng sợ hơn nhiều.
Nếu như Hoàng đế nhà Minh thật sự không phải là một ông vua nhu nhược mà cũng vĩ đại như Hồng Vũ Thiên Khả Hãn hay Vĩnh Lạc Thiên Khả Hãn năm xưa, thì đối với chúng ta, có lẽ thuận theo ý chí của vị Chính Đức Thiên Khả Hãn này cũng sẽ là một sự lựa chọn hết sức chính xác.
Hoa Đáng cười xảo quyệt, đáp:
- Nếu Bá Nhan thật sự dễ đối phó như vậy thì liệu nhà Minh sẽ đưa ra điều kiện ưu đãi như vậy ư? Đừng thấy Bá Nhan đang ăn phải trái đắng ngoài thành Đại Đồng mà tưởng bở; một khi con chim ưng này trở về thảo nguyên, nó sẽ rất mau chóng liếm lành vết thương thôi.
Có tấm chiêu bài chữ vàng là hậu duệ trực hệ hoàng gia, hắn sẽ nhanh chóng bổ sung đội ngũ và chiến sĩ thôi. Trừ phi... thật sự như vị Dương đại nhân này nói Thát Đát sẽ xảy ra nội loạn. Nhưng mà danh vọng của Bá Nhan như mặt trời ban trưa, trong nội bộ của Thát Đát thật sự sẽ có kẻ dám đối đầu với hắn sao?
Đừng vội tự cột mình vào cái gốc cây là nhà Minh này. Lúc trời nắng nóng hầm, ta có thể mượn nó để trú mát; khi nó không thể che mưa chắn gió cho chúng ta nữa thì chúng ta sẽ cưỡi ngựa cao chạy xa bay. Ha ha ha...
Một cặp mắt sáng như sao Mai trừng hắn, đó là của một "đứa con trai" anh tuấn khôi ngô. Nhưng lạ là con trai trên thảo nguyên, cho dù tuổi có nhỏ đi nữa, mà hắn vẫn trông có vẻ hơi yếu đuối quá, ngũ quan cũng xinh xắn và tao nhã qúa.
Một chiếc áo da gấu ngắn lưng, đôi giày da cổ cao, cặp mày đen như mực dưới chiếc mũ da màu nâu nhạt, cánh môi xinh xắn mà đầy đặn dưới cánh mũi hếch cao, khuôn mặt trái xoan sáng sủa không tì vết. "Hắn" hừ một tiếng, nói với vẻ không vui:
- Nếu đã vậy, cớ sao phụ thân còn muốn gả con cho Hoàng đế nhà Minh? Ngộ nhỡ lúc nãy cái tên đại thần nhà Minh đó đồng ý thì làm sao?
Đó là một trong số tám tay thị vệ ở trong lều, khi nãy "hắn" đứng trong bóng khuất nên không ai để ý đến, lúc này nghe "hắn" mở miệng nói chuyện mới nhận ra là con gái. Hoa Đáng hơi ngẩn người, rồi bật cười ha hả ôm lấy vai cô nàng nói:
- Ngân Kỳ, gả con cho triều đình nhà Minh không tốt hay sao? Căn nhà của một tên Bách phu trưởng của bọn bọn còn hoa lệ và rộng rãi hơn đại trướng của chúng ta, tiền bạc của một tên tài chủ bình thường cũng có thể mua hết toàn bộ dê bò của chúng ta. Nếu là Hoàng phi, con thật sự sẽ có một cuộc sống như trên chốn thiên đường đó!
Thiếu nữ hừ một tiếng ra vẻ xem thường rồi đáp:
- Con vẫn không thèm! Chồng của con phải cưỡi được khoái mã, bắn được lợi tiễn, phải là anh hùng tài ba nhất trên thảo nguyên; cho dù phải theo hắn đến tận chân trời góc biển, cực khổ bao nhiêu con cũng không sợ.Nghe nói Hoàng đế nhà Minh muốn đi từ một căn phòng này sang căn phòng khác cũng cần phải có một đám người khiêng đi. Trời ạ, mới chỉ tưởng tượng một chút mà con đã muốn phát điên rồi!
Hoa Đáng và đám người Cách Nhật Lặc Đài, A Khất Mãi nghe thế thì đều cùng cười phá lên...
*****
- Lúc nãy nghe thấy đại nhân phát ra tiếng cười lớn mạt tướng mới yên tâm. Bằng không thì phải chờ lâu như vậy mà không có động tĩnh gì, mạt tướng đã nhịn không được định mang người xông vào rồi.
Hứa Thái vừa vụt roi lên mông ngựa vừa cười ha hả nói.
- Đại nhân, có phải là đã đạt được hiệp nghị với sứ giả của Đoá Nhan Tam Vệ không?
Liễu Bưu cũng phi ngựa lại gần, hào hứng hỏi.
Chiến mã mới vừa vượt qua một triền núi nhỏ. Dương Lăng ghìm ngựa dừng cương, đưa mắt nhìn núi tuyết chói lòa bạc trắng dưới ánh mặt trời sáng rực ở xa xa, rồi đáp:
- Vẫn khó nói! Những kẻ này đều mang tâm lý đầu cơ rất nặng. Mặc dù chúng đã động lòng với những điều kiện do chúng ta hứa hẹn, nhưng nếu muốn bọn chúng dốc lòng làm việc cho chúng ta, e rằng sẽ không dễ dàng như vậy.
Chợt y bật cười nói tiếp:
- Cũng may, mục đích của chúng ta chỉ là muốn bọn chúng trói chân Ngoã Lạt, lại lấy giao dịch buôn bán mà trói chân chúng. Quyết định thắng thua trên chiến trường không thể đặt vào mấy kẻ trở cờ theo gió này, ha ha ha... Khi nãy bản quan bật cười, là bởi vì sứ giả của Hoa Đáng đề nghị hoán thân(3) cùng Đại Minh ta, muốn gả con gái của Hoa Đáng cho Hoàng thượng, sau đó đòi gả ngự muội của đương kim hoàng đế cho Hoa Đáng. Hừ! Đoá Nhan Tam Vệ càng lúc càng không coi ai ra gì rồi!
Đoạn y quay đầu lại, dõi mắt nhìn dãy núi trùng trùng điệp điệp xa xa, ánh mắt loé lên, nghĩ bụng: "Đoá Nhan Tam Vệ sớm đã ôm lòng bất kính, xem ra dụ bọn chúng dính vào vũng nước đục này với Thát Đát là việc làm chính xác. Theo thái độ của Nữ Chân Tam Bộ, xem chừng ra vẫn có thể lợi dụng bọn họ một chút. Nếu mà trận đấu quyền anh không cân sức thì phải giúp bên yếu thế hơn một tay, lúc đó trận đấu mới đặc sắc."
Hứa Thái nghe xong cũng không nén được giận mà mắng to:
- Hừ! Hoa Đáng là thứ gì mà cũng đòi cưới công chúa Đại Minh ta. Nếu là cung nữ như Vương Chiêu Quân hoặc một người con gái hoàng tộc tầm thường thì còn được. Đại nhân ắt hẳn đã cự tuyệt rồi phải không?
Dương Lăng quay đầu lại, nghiêm mặt răn:
- Hứa Thái, ngươi sai rồi! Đừng nói là công chúa dòng dõi hoàng tộc, cho dù là một dân nữ người Hán hèn mọn nhất, thậm chí là nha hoàn, hầu gái, chúng ta cũng không thể lấy bọn họ ra để mà hoà thân, làm chuyện xỉ nhục quốc thể như vậy được.
Y thúc ngựa, đi tới mấy bước trên triền núi, đón lấy cơn gió núi rít gào cuốn theo bông tuyết lùa tới, hét lớn:
- Hòa thân! Hòa thân! Đó là chuyện xấu hổ nhất trên đời! Cho dù từ xưa đến nay dị tộc có hòa thân, có giao hảo cùng dân Hán ta, thật ra cũng bởi vì thực lực người Hán ta không thể khinh nhờn. Bọn chúng há sẽ vì một nữ nhân mà từ bỏ lòng tham của chính mình?
Tự lừa mình dối người mà đem sự an nguy của giang sơn xã tắc đặt lên trên sự hy sinh hạnh phúc của một người con gái, mặc cho người ta bị phiên bang dị tộc chà đạp, thậm chí làm những việc trái với phong tục Trung Nguyên ta, để cha con anh em luân phiên chà đạp, anh em con cái khác giống đối đãi như súc sinh, còn khéo gọi bằng cái tên mỹ miều là "hoà thân", ăn thì không bằng heo chó, quả thực là nhu nhược đớn hèn chỉ biết nhịn nhục!
Đoạn y quay người, nghiêm mặt lẫm liệt nói với bọn Hứa Thái, Kinh Phật Nhi, Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu rằng:
- Nam nhân nào không biết bảo vệ tôn nghiêm của người phụ nữ của mình là kẻ không có tiền đồ, dân tộc nào không biết bảo vệ tôn nghiêm của phụ nữ mình đó là dân tộc không có tương lai.
Chúng ta không chỉ không chấp thuận hoà thân, mà có một ngày sẽ còn đánh vào đại mạc, cướp lại những người phụ nữ ngườiHán đã bị chúng cướp đi, khiến cho những kẻ rợ tác oai tác quái ức hiếp người Hán đó phải thần phục dưới chân chúng ta! Các ngươi đều là nam nhi anh hùng của người Hán ta, phải biết bảo vệ tôn nghiêm của đàn ông người Hán chúng ta. Các người có làm được không?
Bọn Ngũ Hán Siêu nghe vậy thì sắc mặt tức thì trở nên nghiêm nghị. Hứa Thái nghiêm mặt ngồi thẳng lưng lên, vừa định mở miệng đáp lời ai dè Lưu Đại Bổng Chùy ở bên cạnh nghe xong máu nóng dâng trào, lập tức vung tay rống lên bằng giọng Lai Dương:
- Đại soại, chụng tôi làm được! Chúng tôi sẹ theo đại soại đạnh giắc Thát, cượp đàn bà, chợi mụ nội nọ! Cạc anh em, cạc người nọi có phại không?
Hơn trăm viên hiệu úy nghe vậy nhất tề vung tay soàn soạt, sát khí đằng đằng hô lớn:
- Đúng! Theo đại soái, đánh giặc Thát, cướp đàn bà, chơi mụ nội nó!
Rặng núi rú gào, tiếng vang ầm ầm vọng lại, tuyết đọng đang tan trên đỉnh đổ xuống ào ào, đập vào trong sơn cốc ùn ùn như tuyết lở.
Dương Lăng nghe xong thiếu chút nữa thì thổ huyết ngã ngựa: "Mụ nội nó, câu này từ miệng Lưu Đại Bổng Chùy thốt ra sao nghe khác quá vậy?"
*****
Hai vạn đại quân của Thái Nguyên trung vệ và Thái Nguyên tả vệ cờ quạt tung bay, chiến mã hí vang, đang cuồn cuộn tiến vào ranh giới huyện Sơn Âm. Lúc này sắc trời đã tối, đương lúc đại quân đang chọn nơi trú đóng, chôn nồi nấu cơm, thì hai viên tiểu hiệu lưng đeo cờ hiệu tín sứ (lính đưa tin - ND) của quân dịch chạy vội chạy vàng vào trong đại trướng (lều lớn) trong quân.
Chỉ huy sứ vệ Thái Nguyên là Trương Dần mỉm cười ôn tồn bảo:
- Hai vị tín sứ đi đường cực khổ, hãy uống tạm chén trà nóng trước đã.
Hai viên tiểu hiệu cung kính thưa:
- Quân vụ trên người, ti chức không dám trì hoãn! Đây là thư hàm về quân tình của Tam quan tổng chế Dương đại nhân, xin chỉ huy sứ đại nhân ký nhận.
Trương Dần trở về trong lều, bóc thư hàm ra xem dưới ánh đèn. Chính là Dương Nhất Thanh muốn đại quân của hắn dời trại đến đóng ở Quảng Vũ bảo cũ, ở đó đợi lệnh. Trương Dần búng ngón tay lên thư mấy cái, rồi khẽ mỉm cười, căn dặn quan thư ký ghi chép sắp xếp thư hàm lại, sau đó gọi quan trung quân lại bảo:
- Truyền lệnh đêm nay đóng trại ở đây, sáng sớm ngày mai khởi hành đến Quảng Vũ bảo cũ.
Quảng Vũ bảo trong huyện Sơn Âm chia làm hai thành mới và cũ. Thành mới được xây vào năm Hồng Vũ thứ bảy, nằm sát Trường Thành, do một vệ binh mã trú đóng. Quảng Vũ bảo cũ nằm về mé tây thành mới, nằm bên trong Trường Thành, vốn là nơi đóng quân. Quan trung quân nghe xong liền vội lui xuống truyền lệnh, Trương Dần khoát tay cho thân binh lui ra hết, rồi nhón lấy chén trà nhíu mày trầm tư.
Màn sau của lều được vén lên, một viên quan trung quân lặng lẽ bước vào. Trương Dần không hề quay đầu lại, chỉ trầm ngâm thật lâu rồi mới khẽ thở dài nói:
- Bao năm khổ tâm tổ chức, thành bại ở ngay trước mắt, trong lòng ta lại bồn chồn.
Gã quan trung quân nọ ngước đầu lên, không ngờ hắn chính là người áo xanh từng ngồi đối diện uống rượu với Du hộ pháp trên "Thái Bạch cư" ngày đó. Hắn cung kính thưa:
- Giáo chủ! Bản giáo hồng phúc ngang trời, nay Chính Đức thân rơi vào tuyệt cảnh mà không tự biết. Đệ tử thấy lần này hắn có lắp cánh cũng khó mà thoát được.
Trương Dần khẽ lắc đầu, đáp:
- Nghe nói hắn muốn dời đến Báo phòng, lão phu mới kêu người dụ đại đạo Dương Hổ vào kinh, ai ngờ lại uổng mạng Lưu hộ pháp, hai trăm tên đạo tặc cũng bị Dương Lăng hốt trọn một mẻ, Chính Đức lại chẳng hao tổn cọng lông sợi tóc nào. Lúc đến Đại Đồng, Vương Long lại bị y tra ra, hại cho Vương Hổ cùng bị chém đầu...
Hắn mệt mỏi nằm nửa người ra ghế, cười khẽ nói:
- Ngay cả bản giáo chủ cũng đã hơi tin mấy lời hoang đường nọ rồi, chẳng lẽ Dương Lăng này là khắc tinh của bản giáo hay sao? Trong kế hoạch lần này, Vương Hổ có tác dụng cực kỳ quan trọng, hắn mà chết thì sẽ không xong việc. Không có hắn, sợ rằng Chính Đức sẽ an toàn hồi kinh thôi. Ôi!
Ta đã phải trải qua bao trắc trở, tốn biết bao tiền bạc mới đưa hắn lên vị trí tham tướng thủ thành của thành tây, nhằm trông mong có ngày có thể trọng dụng. Nếu như có hắn làm nội ứng ở thành tây, chúng ta dẫn Bá Nhan bất ngờ tập kích nơi hội họp kết minh là núi Bạch Đăng, lại dụ Hỏa Sư đánh vào Đại Đồng, hai bút cùng vẽ, khiến Dương Nhất Thanh giữ chỗ này thì mất chỗ kia, không thể cứu viện kịp thời, ít nhất sẽ có bảy thành thắng lợi. Nay Đại Đồng vững như thành đồng, vậy chỉ có...
Đoạn hắn cười giảo quyệt nói tiếp:
- Cho dù thất bại đi nữa thì hao binh tổn tướng cũng không phải là nhân mã của bản giáo. Chỉ có điều cơ hội tốt đến như vậy mà cứ lãng phí thì thật là đáng tiếc.
Hắn chợt ngước mắt lên, ánh mắt như điện xẹt, bắn thẳng về phía gã quan trung quân nọ, hỏi:
- Con cờ bí mật đó vẫn chưa hấp dẫn sự chú ý của bọn chúng chứ?
Quan trung quân sợ hãi đáp:
- Dạ chưa! Giáo chủ yên tâm, vì để giữ bí mật, ngoài thuộc hạ ra, người của bản giáo ở Đại Đồng không ai biết được thân phận của hắn cả.
Đan mười ngón tay vào nhau, Trương Dần hài lòng nói:
- Ừ! Dương Nhất Thanh ra lệnh cho ta đóng quân tại chỗ, hẳn là vì Chính Đức đã liên hệ được với Hoa Đáng. Theo kế hôm nay, chỉ có thể lặng lẽ mà quan sát tình hình. Khi nào hai bên gặp mặt ký kết minh ước, vị Dương tổng chế này nhất định sẽ lập tức đưa tin đến cho ta ngay. Trăm sự đủ cả, chỉ thiếu gió Đông mà thôi(4)...
Chú thích:
(1) lệ xưa quân chủ phong kiến Trung Quốc muốn tránh chiến tranh xung đột nên gả con gái cho kẻ cầm đầu các bộ tộc ngoài biên giới để thông hôn hoà hiếu, gọi là "hoà thân".
(2) gọi chung nơi giao dịch với của dân Hán với dân các bộ lạc khác ở biên giới
(3) hai họ cưới con gái nhau làm dâu gọi là "hoán thân".
(4) nguyên văn là "mười tám cái lạy cũng đã lạy cả rồi, giờ chỉ còn thiếu mỗi cái vái sau cùng này thôi". Đây là ngạn ngữ dân gian Trung Quốc.
Chương 207: Dưới Chân Núi Bạch Đăng
Dịch: Ba_Van
Biên dịch: TheJoker
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Chính Đức gật gật đầu, thầm nghĩ: "Nếu không phải Dương thị độc dẫn ta ra khỏi cung, làm sao ta có thể gặp được cô? Nói như vậy, đúng ra ta nên cảm kích Dương Lăng mới đúng. Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lại, nếu không phải ta xông vào 'Hoa quán', thì làm sao Dương khanh có thể gặp được hai cô ái thiếp, còn được ta chuộc ra ban cho hắn? Chẳng lẽ đúng là một miếng ăn, một chén nước đều do tiền định cả sao? Lần này gặp lại được cô thực là khó khăn trăm bề, ta nhất định phải rất quý trọng, cả đời này ta sẽ không để cho cô rời khỏi tầm mắt của ta."
Trở lại hành dinh khâm sai, Dương Lăng kể lại quá trình thương thảo cùng sứ thần Hoa Đáng cho Chính Đức nghe. Nghe kể xong, Chính Đức khẽ nhướng cao đôi lông mày lưỡi kiếm, cười lạnh:
- Hoa Đáng rốt cuộc vẫn là hậu duệ của Bắc Nguyên, tuy nghèo rớt mồng tơi nhưng dã tâm vẫn không nhỏ. Lâu nay bị kẹp giữa Đại Minh, Thát Đát, NgõaThứ thì hắn vẫn an phận, bây giờ vừa mới nghe nói có thể áp đảo hai bộ còn lại đã lập tức muốn xây dựng lại đế quốc Mông Cổ trong mộng.
Hắn rũ áo đứng dậy, nói tiếp:
- Hôm nay ngươi cùng Đóa Nhan Tam Vệ thương thảo rất tốt! Những yêu cầu vô lễ phải cự tuyệt ngay, Đại Minh ta há để cho người áp chế? Từ xưa, Đại Minh ta là nước có thế lực lớn nhất, chế ngự Bắc Lỗ, xua đuổi Tây phiên; không dùng thói tệ hòa thân nhằm hòa hiếu kết giao của Hán Đường, không như Đại Tống xưng thần cắt đất, cũng không lấy lễ nghi huynh đệ đối đãi với nước địch. Hoa Đáng nho nhỏ mà muốn kết hôn với ngự muội...... Hừ!
Cùng chung giường chung gối với người mình không thích thật là những ngày tháng cực kỳ khổ sở! Trẫm đã cảm nhận sâu sắc cái nạn này rồi, há lại chịu để cho chính bản thân ngự muội cũng phải gánh chịu nỗi khổ này sao? Trẫm là đàn ông nên còn có thể tìm được cô gái mình thật lòng thật dạ yêu thích, còn Vĩnh Phúc thì không thể làm chủ chính mình, nàng sẽ phải làm sao?
Tuy trẫm là một vị hoàng đế ẩu tả nhưng cũng biết thương yêu em gái. Nếu như chính Vĩnh Phúc muốn lấy chồng, chỉ cần hai người tình đồng ý hợp là tốt rồi, trẫm bất kể hắn là vương hầu công khanh hay là dân thường áo vải. Còn nếu như nàng không muốn xuất giá, cho dù Hoa Đáng chắp tay dâng đất đai cả ba vệ, trẫm cũng không mang em gái đi đổi!
Dương Lăng mỉm cười tâu:
- Hoàng Thượng! Dã tâm của con người luôn luôn không ngừng tăng trưởng theo sự lớn mạnh của quyền lực. Ban đầu Hoa Đáng chỉ có tham vọng là một góc Liêu Đông, bây giờ nghe nói có thể thống nhất được thảo nguyên, khi đã có thể đứng trên cao, tự nhiên ánh mắt tham lam của hắn cũng nhìn ra xa hơn.
Về dã tâm của người Man, Hoàng Thượng nói rất đúng. Mặc dù bọn họ không phải dân tộc du mục, đã xoay sang học tập người Hán làm ruộng dệt vải nhưng cũng không thay đổi được bản tính thích xâm chiếm đất đai của bọn họ. Bọn họ ở lệch một bên thảo nguyên, trên có các nước La Sát, còn ba mặt trái, dưới, phải lại bị các vệ Đại Minh ta bao vây. Một khi thống nhất thảo nguyên sẽ không có cách nào cung cấp đủ nhu yếu phẩm cho dân số gia tăng, lúc đó nhất định họ phải xâm chiếm bên ngoài. Cho nên thần mới khuyên Hoàng Thượng thừa dịp ba liên minh bộ lạc đang lục đục, hãy mau chóng bình định biên giới phía Bắc, thâu tóm toàn bộ thảo nguyên vào lãnh thổ quốc gia Đại Minh, lưu lại cho con cháu đời sau một giang sơn vững chắc như sắt thép.
Hào khí nổi lên bừng bừng, Chính Đức gật gù tán thưởng, cười nói:
- Đúng lắm! Trẫm muốn lưu lại cho thế hệ mai sau một giang sơn vững chắc như sắt thép...
Chợt nhớ đến chuyện khác, hắn không nén nổi nói bằng giọng hâm mộ:
- Được rồi, Dương thị độc! Nghe nói Ấu Nương tỷ tỷ đã có mang, không biết tháng mấy sẽ sinh?
Nghe nhắc tới việc này Dương Lăng cũng đầy vẻ vui mừng, y mỉm cười đáp:
- Ước chừng giữa tháng tám, vào lúc hoa quế tỏa hương.
Chính Đức ha ha cười to, nháy nháy mắt, vỗ đùi nói:
- Tốt! Nếu như là bé trai ta sẽ nhận làm nghĩa tử, nếu như là con gái ta sẽ nhận làm nghĩa nữ. Chuyện này phải theo lệ ai dành trước là được, không cho người nào được phép tranh cướp với trẫm!
Hắn vỗ tay cười nói tiếp:
- Thật muốn biết khi nghe tiểu hài tử kêu bằng phụ thân sẽ có cảm giác gì nhỉ? Nhất định phải rất vui vẻ!
Dương Lăng giật mình, Hoàng Thượng muốn đích thân làm cha nuôi đứa bé? Ngẫm nghĩ lại, y thấy dường như cũng không có gì xấu, hơn nữa Chính Đức đã mở miệng, ai lại dám xem nhẹ mặt mũi của hắn?
Dương Lăng khẽ cười đáp:
- Trẻ em chưa được tròn trèm một tuổi thì làm sao mở miệng gọi cha được? Hoàng Thượng thân thể cường tráng, tuổi lại như mặt trời mới mọc ở phương đông, tương lai nhất định cũng sẽ con cháu đầy đàn.
Chính Đức mặt mày hớn hở:
- Ha ha! Chỉ hy vọng như thế.
Hắn khoát tay nói tiếp:
- Tạm không nói chuyện này nữa! Đến đây, chúng ta bàn bạc qua chuyện ký kết hiệp ước với Hoa Đáng. Ngươi nghĩ rằng Hoa Đáng có thể đồng ý với những điều kiện do chúng ta đưa ra hay không?
Dương Lăng đáp ngay không chút do dự:
- Nhất định sẽ chấp thuận! Trước tiên, vốn Hoa Đáng và Bá Nhan đã phân tranh không ngừng. Bá Nhan đánh nhau với chúng ta ở nơi này đã gánh chịu tổn thất, nhất định hắn có thể sẽ cướp đoạt lương thực Hoa Đáng để bổ sung cho mình. Thêm nữa, ba bộ Nữ Chân rất phụ thuộcvào Đại Minh, bọn họ thành tâm nương nhờ vào Đại Minh. Lực khống chế của Hoa Đáng bên trong Đóa Nhan Tam Vệ cũng không bằng lực khống chế của Bá Nhan đối với các bộ lạc Thát Đát. Những điều kiện hậu hỉ của chúng ta nhất định khiến cho thủ lĩnh các bộ lạc động tâm, Hoa Đáng không thể không suy nghĩ đến những thực tế này.
Miêu Quỳ cũng đã đến dịch quán. Cũng như Trương Vĩnh, lão cũng thuộc nhóm những người biết rõ chiến sự, lại từng thâm nhập đại mạc, có kiến thức rộng về ba bộ của Mông Cổ. Nghe vậy, lão bèn tham gia:
- Hoàng Thượng! Theo nô tài biết, ngày xưa đế quốc nhà Nguyên phân chia thành ba bộ. Thát Đát là trực hệ hoàng gia, thời gian qua không xem hai bộ khác ra gì. Ngõa Thứ là đại thế lực gần gũi với hoàng tộc vào hàng thứ hai, với lại lúc trước cũng từng nhận chức Thái Sư, từng hùng cứ Thát Đát, dã tâm thực ra cũng không nhỏ.
Mãn Đô Hải từng chinh phạt Ngõa Thứ. Sau khi đánh bại bọn họ, bà ta bèn ra lệnh tòa nhà của thủ lĩnh bọn hắn không được xưng là cung điện, ở trong nhà chỉ được quỳ chứ không được phép ngồi, các quý tộc ăn thịt đều chỉ cho lấy tay xé, không cho phép sử dụng dao nhỏ. Loại sỉ nhục này khiến cho bọn hắn thù hận tộc Thát Đát còn hơn xa việc thù địch Đại Minh.
Cho nên theo ý nô tài, đợi đến khi Bá Nhan, Hỏa Sư xảy ra nội loạn ta liền tụ tập trọng binh từ vệ Ha Mi (thuộc Tân Cương, Trung Quốc) công kích Ngõa Thứ, xua con hổ nhọc mệt này vào thảo nguyên Thát Đát. Vì bãi chăn nuôi và trâu dê, bọn họ sẽ không bỏ qua cơ hội tốt Thát Đát đang nội loạn này, nhất định sẽ không chút do dự tham gia vào cuộc chiến đó. Có thể bọn họ tạo thành thế chân vạc vững chắc, có thể gia nhập vào một phe tấn công phe kia. Theo nô tài phỏng đoán, rất có khả năng bọn họ sẽ chọn Hỏa Sư làm đồng minh. Nếu thế thì sẽ có thể giảm nhẹ áp lực phía đông rất nhiều, giúp cho quân ta ung dung bố trí. Dựa theo kế hoạch của Dương đại nhân, chúng ta sẽ xuất binh thu dọn tàn cuộc, lại thuận thế chiếm hết Đóa Nhan Tam Vệ.
Chính Đức sáng mắt lên, hào hứng hỏi:
- Dương khanh nghĩ như thế nào?
Dương Lăng nhìn lướt qua Miêu Quỳ với vẻ khâm phục, cung tay khen:
- Thực là diệu kế! Chỉ là không biết Ngõa Thứ có còn thực lực đánh với Thát Đát một trận hay không?
Miêu Quỳ vui vẻ tâu với Chính Đức:
- Khi nô tài thâm nhập đại mạc, từng theo hướng tây tiến vào địa bàn Ngõa Thứ. Đội quân của nô tài đã từng giao chiến một trận nhỏ với bọn chúng, ngay lúc đó đã phát hiện bên trong bộ lạc của bọn hắn còn tráng đinh rất nhiều. Hiển nhiên lần này Bá Nhan triệu tập các bộ lạc tấn công Đại Đồng, nhưng người Ngõa Thứ chỉ phái tới những kẻ già yếu, căn bản là chỉ nhằm phất cờ hò reo cho Bá Nhan. Thực lực của bọn hắn mặc dù hãy còn không đủ để đối phó với Bá Nhan, nhưng nếu như Hỏa Sư làm phản, vệ Ha Mi lại gia tăng áp lực, khi đó tình hình chiến sự liền không tránh khỏi triển khai theo hướng chúng ta dự đoán.
Chính Đức cười to, vỗ án bảo:
- Hay lắm! Các khanh mưu lược không hẳn sâu sắc hơn lớp đại thần trong triều, nhưng mà bọn họ chỉ biết gìn giữ cái đã có, không biết sự quan trọng của việc đi ra ngoài. Chỉ cần nhìn điểm này, các khanh đã cao minh hơn bọn họ nhiều lắm đấy.
***
Đàm phán thật sự chính là tiến hành ở bên ngoài, còn đến khi bưng lên mặt bàn cho hai bên thủ lãnh gặp mặt thì cả hai chỉ thực hiện nghi thức ký tên vào văn kiện thôi. Công cuộc đàm phán bí mật giữa Đại Minh cùng Đóa Nhan Tam Vệ đang tiến hành cấp tập, sứ giả hai bên qua lại cửa Đắc Thắng như thoi đưa.
Vào thời Tần Hán Tùy Đường, nơi sản sinh tuấn mã là vùng Hà Sáo, Kỳ Liên, Trương Gia Khẩu, Hô Luân Bối Nhĩ (nay là thị trấn ở Nội Mông). Bây giờ chỉ có Trương Gia Khẩu vẫn còn luôn luôn ở trong tay khống chế của Đại Minh. Đất đai nơi đây rất thích hợp để nuôi dưỡng ngựa tốt, nhưng do Thát Đát thường xuyên đến cướp bóc cho nên mã chính (chính sách dân nuôi ngựa cho quân binh) đã bỏ phế nhiều năm.
Trong thời buổi chiến tranh bằng vũ khí lạnh như hiện nay, ngựa có tác dụng cực kỳ quan trọng, tuyệt đối không thể thay thế được. Tốc độ và sức tấn công của bộ binh khó mà bằng được của kỵ binh. Nếu như hai bên có thực lực tương đương, bên kỵ binh không đợi bộ binh tập kết thành đội hình chiến đấu mà ngay khi đối phương chưa hình thành sức phòng ngự đã tung chiến mã thọc sâu vào đội hình kẻ địch thì chỉ cần một lần xung kích là đã đánh bộ binh tan tác.
Còn nếu như bên bộ binh người đông thế mạnh, bên kỵ binh có thể ngày ẩn nấp đêm xuất hiện tập kích quấy rối, kéo dãn đội hình của đối phương khiến đường tiếp tế của phe bộ binh bị kéo dài, sau đó ung dung cắt đường vận chuyển lương thảo của địch. Khi bộ binh đối phương đã suy sụp trầm trọng vì lương thảo bị cắt đứt thì kỵ binh sẽ chia cắt, bao vây tiêu diệt. Cho dù bộ binh phòng thủ phản kích giành thắng lợi đi chăng nữa, kỵ binh cũng có thể tùy ý chạy xa bất kỳ lúc nào, bộ binh hoàn toàn không có cách nào truy kích.
Cho nên bộ binh đấu với kỵ binh, nếu thắng thì chỉ có thể thắng nhỏ mà bại thì nhất định toàn quân bị diệt; quả thực ở vùng đồng bằng khó mà cùng kỵ binh giáp chiến. Thông thường quân đội Trung Nguyên thiện về xa chiến, phiền một nỗi tuy sức xung kích của chiến xa rất mạnh nhưng nếu phải hành quân cấp tốc trên một quãng đường dài thì lại dễ bị hư hao. Với lại đoàn xe đông đúc ở trên chiến trường khó mà chuyển hướng lẫn quay đầu thoải mái nên tính linh hoạt thua xa kỵ binh. Do đó chiến xa chỉ có thể được sử dụng trong những trận tấn công quyết chiến và dùng để tạo chiến lũy phòng thủ khi địch phản công.
Bây giờ vũ khí nóng vẫn chưa thể hoàn toàn thay thế vị trí của vũ khí lạnh. Dương Lăng ước tính thời gian cần thiết để kiểu súng mới của Nội xưởng đạt tới hiệu quả hoàn mỹ, được sản xuất hàng loạt, rồi trang bị tương đới đầy đủ cho quân đội và huấn luyện sĩ tốt sử dụng thuần thục thì ít nhất cũng phải tốn năm năm. Những việc này có nóng ruột cũng chẳng thể làm được gì. Cho dù bây giờ lập tức có đủ binh khí hiện đại nhất đi chăng nữa thì thời gian bỏ ra để đào tạo sĩ quan huấn luyện, sau đó bọn họ lại huấn luyện đại trà cho binh sĩ không mất đứt một năm rưỡi không xong.
Ngay bây giờ, khi chưa có hàng loạt hỏa pháo tiên tiến, nhẹ nhàng trang bị cho quân đội, khi chưa có thiết bị vận chuyển hiện đại xuất hiện, nếu muốn chiến đấu với dân phương bắc, nhất là khi muốn chủ động tấn công, thì ngựa có tác dụng quyết định. Dương Lăng biết rõ điều này cho nên tiêu điểm đàm phán của Đại Minh đã một mực tập trung vào hạng mục này.
Ngoài da và lông thú thì vật phẩm Đóa Nhan Tam Vệ có thể cung cấp chủ yếu chính là chiến mã, nên không cần phải lo lắng bọn họ sẽ để ý tới điểm đặc biệt này. Nhưng sứ giả Đóa Nhan lại đề xuất người khá giả của tam vệ chỉ chiếm một, hai phần mười, dân thường chiếm hơn bảy tám phần nên yêu cầu phía Đại Minh xuất cảng nhiều gạo cùng mì muối trà hơn, giảm bớt những món xa xỉ phẩm như đồ sứ, lụa là.
Dương Lăng đồng ý. Nhân cơ hội y đưa đề nghị Đại Minh có thể xuất khẩu lương thảo, muối ăn thậm chí tiền đồng cùng dụng cụ bằng sắt và lưu huỳnh diêm tiêu, nhưng bên Đại Minh muốn mua ngựa tốt, lại do Đóa Nhan Tam Vệ phái người dạy cách nuôi dưỡng ngựa và mở thêm khu vực chăn nuôi cho ba vệ tại vùng đất của Đại Minh.
Thông qua buôn bán thu được ngựa cùng các loại vật tư quân sự, hơn nữa mở khu chăn thả trên đất Hán thì càng thuận tiện, vả lại chi phí thực tế sẽ càng tiết giảm. Ở địa bàn Đóa Nhan Tam Vệ xác định vài khu vực nuôi dưỡng ngựa, vừa có thể dùng để bồi dưỡng dân chăn nuôi xuất sắc người Hán, vừa đề phòng một khi Đóa Nhan Tam Vệ bỏ không cung cấp nữa, việc cung ứng ngựa cũng sẽ không đến mức phát sinh vấn đề quá lớn. Đóa Nhan Tam Vệ nhịn không được điều kiện hậu đãi của triều đình nhà Minh dành cho, cuối cùng cũng đồng ý giúp đỡ việc này.
Lượng xuất khẩu lưu huỳnh và diêm tiêu có hạn, với lại chúng chính là vật phẩm tiêu hao, hễ dùng là hết. Người Mông Cổ đã không có bao nhiêu vũ khí tương ứng, cũng không có phương cách phối chế thuốc nổ tối ưu. Xuất khẩu một ít đạn dược cho Đóa Nhan Tam Vệ nhằm một mặt biểu hiện Đại Minh thành tâm liên kết, mặt khác là trên thực tế, triều đình nhà Minh cũng nắm trọn công cụ điều tiết sức phát triển quân sự của Đóa Nhan Tam Vệ vào trong tay. Những vấn đề như thế này đã bày ra ngay trước mắt những thủ lãnh Đóa Nhan Tam Vệ, nhưng hiển nhiên ngay bây giờ bọn họ khó mà phát hiện được mối họa trong đó.
Triều Minh nhập khẩu lông lạc đà, da chồn, nhân sâm, ngựa; xuất khẩu lưỡi cày, xẻng, trâu cày, hạt giống, gạo muối, vải vóc, chảo sắt... Sau một hồi cò kè mặc cả, bớt một thêm hai, rốt cuộc hai bên cũng đạt được thỏa thuận song phương đều vừa lòng. Sau cùng, hai bên bắt đầu thảo luận địa điểm mở những chợ ngựa.
Lần này, triều đình nhà Minh lại vô cùng hào hiệp. Ngoài ba chợ ngựa được mở từ thời Vĩnh Lạc ở ba vệ Nam Quan, Đông Quan, Quảng Ninh, bọn họ lại tăng thêm ở năm cửa quan Phủ Thuận, Bạch Thổ Hán, Khoan Điện, Ái Dương, Thanh Hà. Thời gian họp chợ là hằng ngày thay vì là chợ phiên; nhà Minh sẽ phái binh trú đóng, ấn định giá cả, thu thuế giao thương.
Việc đàm phán đều lấy bàn bạc thảo luận mà quyết, đã kéo dài hết bảy ngày. Lúc này quân của Hỏa Sư vẫn quấy rối ở quan ngoại, nhưng thế công càng lúc càng yếu, đã không hề có chiến ý. Đại quân Bá Nhan đã từ vùng Bắc Bình Thuận trở về nhưng không tụ họp cùng lực lượng của Hỏa Sư, hình như có ý định cuốn cờ xếp trống trở về đại mạc.
Ngày mai chính là ngày thiên tử Đại Minh gặp mặt Đóa Nhan Tam Vệ, đích thân ký kết hiệp ước đồng minh, cả hai bên cùng công cùng thủ. Mặc dù quân Thát ở quan ngoại không có hoạt động gì lạ nhưng Dương Nhất Thanh vẫn như gặp đại địch, tự mình trấn giữ Đắc Thắng bảo, đồng thời ra lệnh dọc tuyến Sơn Tây hơn hai trăm quan ải, phong hỏa đài, vệ sở đề phòng toàn diện, tụ tập tinh binh. Vương Thủ Nhân tự mình dẫn hai vị du kích tướng quân canh giữ ở quan ngoại, cơ động chiến đấu, theo dõi hoạt động của lực lượng Hỏa Sư.
Hai vạn binh mã của Thái Nguyên vệ Trương Dần được giữ làm quân dự bị, cố thủ ở Quảng Vũ bảo huyện Âm Sơn, sẵn sàng nhận mệnh lệnh bất kỳ lúc nào. Đỗ Nhân Quốc trấn giữ thành Đại Đồng; còn Hứa Thái dẫn bảy ngàn kỵ binh phục ở bên trong Đại Đồng, một khi núi Bạch Đăng báo động thì lập tức phóng ngựa gấp rút tiếp viện.
Trên núi Bạch Đăng đã xây xong đình đón khách, lều lớn để tổ chức hội nghị, khắp bốn mặt sườn núi đã ẩn giấu bảy mươi khẩu độc hỏa pháo.
Những độc hỏa pháo này có thể bắn lựu đạn cũng có thể bắn đạn ria. Một phát có thể bắn ra hơn trăm miếng sắt nhỏ, tầm bắn không xa nhưng khi phát xạ, cả trăm viên đạn lớn nhỏ cùng bay ra ngoài. Ầm một tiếng như sấm, lực sát thương với phạm vi sát thương đều rất lớn, thích hợp sử dụng ở trận địa trống trải nhằm oanh kích đội hình chiến đấu dày đặt của đối phương. Loại pháo này áp chế thế công điên cuồng của địch rất hiệu quả.
Đại quân Bá Nhan vẫn ở ngoài Trường Thành, ở giữa còn có vài vạn đại quân ngăn cản, do chính Dương Nhất Thanh thống lĩnh. Do đó Dương Lăng không lo lắng Thát Đát hợp sức cùng tiến công mà chỉ lo Di Lặc giáo thần thông quảng đại. Ngay trong thành Bắc Kinh mà bọn họ đã có thể tập trung hơn hai trăm tay tội phạm tập kích Cao Lão trang vào ban đêm nên bây giờ Dương Lăng cũng không biết bọn họ có thể tụ tập mấy ngàn giáo đồ cuồng tín bất ngờ tập kích núi Bạch Đăng hay không. Bởi vậy ở đồng ruộng chung quanh chốn ký kết hiệp ước y đã cho chôn hơn năm trăm quả địa lôi có thể chủ động kích hoạt được. Trước đó những địa điểm chôn địa lôi đều đã được đánh dấu, một khi không sử dụng tới, những quả mìn này phải được lấy ra nguyên vẹn, tránh vào đầu xuân gây rủi ro khiến dân lành đi làm ruộng bị dính thương vong.
Theo ước định trước, đội ngũ Hoa Đáng sẽ được nghênh đón tại cửa khẩu Phi Hồ độ. Đây là một quan ải nhỏ, từ ngoài vào trong khá nguy hiểm khó vượt qua, nhưng từ bên trong xông ra bên ngoài lại không có gì khó khăn, một khi xông ra sẽ phá được đội hình quân ngăn trở nên rất dễ thoát thân. Y lựa chọn nơi này cho sứ giả Đóa Nhan Tam Vệ nhập quan là đã xóa bỏ được lòng nghi ngại của Hoa Đáng.
Hai bên quan ải Phi Hồ độ là những rặng núi cao hiểm trở, chim bay khó lọt, phía trên là vách đá trơ trụi khó mai phục binh sĩ. Dãy núi kéo dài như rồng, cùng Đại Đồng phía tây ngăn cách thảo nguyên, trở thành rãnh trời cắt đứt khả năng đại quân Bá Nhan trèo đèo lội suối từ nơi đó nhập quan. Còn nếu như bọn chúng vòng qua hơn mười dặm từ phần cuối dãy núi đánh giết vào, những phong hỏa đài thiết lập tại phương xa liền có thể báo động ngay lập tức, quân Minh sẽ đóng kín quan ải. Nhưng để cho an toàn, tuy ở quan ải này đã có sẵn quan binh cơ sở trú đóng, Dương Lăng vẫn điều thêm Kinh Phật Nhi cùng một ngàn binh mã đến tăng cường.
Đã chuẩn bị kỹ lưỡng đến như thế, quả thực có thể nói là không còn sơ hở gì, nhưng Dương Lăng cùng Hồ Toản, Dương Nhất Thanh, Trương Vĩnh, Miêu Quỳ vẫn lo lắng không yên. Đã rất khuya mà bọn họ vẫn tụ tập trong thư phòng cân lui nhắc tới, suy diễn tất cả các cạm bẫy có thể xuất hiện.
Hồ Toản nói:
- Quan ải, Đại Đồng, núi Bạch Đăng cách nhau không xa, chỉ trong phút chốc có thể kéo quân đến ngay lập tức. Quanh chỗ đó trên mười dặm đều là đồng bằng không có gì nguy hiểm, không chỗ có thể ẩn nấp để thực sự gây bất lợi cho Hoàng Thượng. Bọn họ chỉ có thể dùng sức tấn công mà thôi, nhưng mà trừ phi Di Lặc giáo có bản lĩnh rải đậu thành binh, bằng không những binh mã này từ đâu mà xuất hiện? Theo ý bản quan, nên đề phòng chăng là khi địch đến thì tên bay đạn lạc lỡ làm tổn thương Hoàng Thượng.
Dương Lăng cười cười, tiết lộ:
- Tuần phủ đại nhân yên tâm! Trên núi có một cái hang động sâu đến hơn bốn mươi trượng. Ta đã phái người san bằng đỉnh núi, sau đó chỉnh sửa, xén phẳng hang núi kia, cũng đào rộng bề ngang, đẽo thêm bậc thang đá. Lều lớn để hội họp đã được dựng ngay trên cửa động, một khi có chuyện, lập tức có thể mời Hoàng Thượng tạm lánh vào trong động.
Trương Vĩnh bàn:
- Di Lặc giáo dẫn một đám dân làng đến hại được Hoàng Thượng ư? Không thể tưởng tượng được! Bọn họ đã không có đại quân, một đám dân lành không biết gì thì không thể làm nên việc lớn được. Theo cha gia thấy, khả năng bọn chúng sử dụng thích khách còn lớn hơn nữa. Liệu trong quân, thậm chí trong nhóm Đóa Nhan Tam Vệ, có thể có người bị chúng mua chuộc trở thành thích khách liều chết hay không? Ít ra Hoàng Thượng phải mặc hai lớp giáp mềm, còn phải chọn lựa những người võ nghệ giỏi nhất trong thị vệ đại nội theo hầu chung quanh, không rời người nửa bước.
Thấy những thần tử này vì an toàn của mình mà như gặp đại địch, thảo luận không ngừng, Chính Đức không nén nổi lắc lắc đầu, đột nhiên xen vào chế nhạo:
- Không biết Hoa Đáng bây giờ đang làm cái gì nhỉ? Phải chăng các thủ lĩnh bộ lạc của Đóa Nhan Tam Vệ cũng đang trắng đêm không ngủ cân nhắc làm như thế nào để bảo vệ được tính mạng của Hoa Đáng?!
Mọi người nghe xong đang ngẩn người, Chính Đức đã đứng dậy bảo:
- Các vị ái khanh cứ tiếp tục! Ta đây là người bằng gốm sứ nên phải về phòng nghỉ ngơi đã.
Các quan chức còn chưa kịp quỳ xuống thi lễ, Chính Đức đã vén màn cửa, thản nhiên bước thẳng ra ngoài.
Đêm đen như mực, sao trời lấp lánh. Hai hàng thị vệ ngoài cửa nhìn thấy Hoàng Thượng bước ra lập tức có hai gã thị vệ vội vã tháo đèn lồng xuống định đưa nhà vua trở về. Đúng lúc đó, một bóng người yểu điệu chợt tiến vào sân nhỏ trước thư phòng. Mắt sáng lên, Chính Đức vội lén ra hiệu với thị vệ rồi lập tức bước ra nghênh đón.
Hắn vẫn mặc bộ đồ hiệu úy nên Đường Nhất Tiên cứ ngỡ hắn đang làm thị vệ canh cửa. Nàng khẽ nhón chân nhìn vào thư phòng, ánh đèn qua song cửa sổ chiếu ra vài bóng người còn đang huơ tay nói chuyện với nhau.
Đường Nhất Tiên khẽ nhíu mày:
- Hai ngày này biểu ca quá bận rộn, không rảnh để gặp mặt ta. Trong phòng dường như có thật nhiều người, bọn họ đang bận rộn cái gì vậy?
Chính Đức nhẹ nhàng khẽ giật ống tay áo Đường Nhất Tiên, đánh mắt ra phía trước rồi im lặng bước ra ngoài. Đường Nhất Tiên kinh ngạc bước theo ra hắn khỏi sân. Nàng thấy Chính Đức hai tay thu vào tay áo, ngửa mặt nhìn sao trên trời lẩm bẩm:
- Mỗi một vị quân vương đều có thể hóa thành một ngôi sao trên bầu trời. Sao dày dặc khắp trời, ngôi sao sáng nhất chắc chắn là vị quân vương xứng đáng nhất.
Đường Nhất Tiên bĩu môi:
- Ngươi đừng xạo nữa, gọi ta ra đây làm gì?
Chính Đức liếc mắt nhìn nàng, mỉm cười nói:
- Ngày mai Hoàng đế sẽ cùng thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ của quan ngoại ký kết hiệp ước. Mấy ngày nay đại nhân có rất nhiều chuyện nên rất bận rộn, cô khoan vào đã.
Đường Nhất Tiên gật gật đầu, chợt nói:
- Ôi! Ta thấy lạ lạ, hóa ra là Hoàng đế..., - nàng đột nhiên mở to mắt, thất thanh - Hoàng đế? Hoàng đế ở Đại Đồng?
Chính Đức đưa một ngón tay lên miệng, khẽ "suỵt" rồi cười nhẹ:
- Nói nhỏ một tí! Ngày mai ký kết hiệp ước thì tất nhiên cả thiên hạ phải biết, nhưng mà tối nay lại chưa thể tung tin ra được.
Đường Nhất Tiên trợn mắt nhìn hắn, nhưng vẫn hạ giọng hỏi:
- Vậy ngươi nói cho ta biết làm gì?
Nàng ngẫm nghĩ một lúc, lại hỏi:
- Ký kết hiệp ước hẳn là không có gì nguy hiểm. Ngươi cũng phải đi hay sao?
Thấy Chính Đức gật đầu, nàng bước đến gần rồi như một người chị lớn nghiêm trang giúp hắn sửa sang lại y phục, dặn dò:
- Đi theo Hoàng Đế ra ngoài nhất định là rất vinh dự. Nhưng mà ngươi tuổi còn nhỏ, không thông suốt việc thế sự, phải hiểu cách tự chăm sóc mình, chớ để thất lễ trước mắt quân vương. Không những như thế là đã đánh mất mặt mũi anh của ta mà cũng ảnh hưởng đến tương lai chính mình.
Chính Đức gật gật đầu, bỗng nhiên cười nói:
- Bản thân cô tuổi không lớn lắm mà lại rành rẽ cách chăm sóc người khác. Trước kia cũng giống như vậy, đến bây giờ ta vẫn còn nhớ rõ ánh mắt ân cần, đồng tình của cô lần nọ.
Mắt sáng rỡ, Đường Nhất Tiên hứng thú bừng bừng hỏi:
- Chuyện trước kia của ta? Ta chẳng nhớ chuyện gì cả. Biểu ca lại bận quá nhiều việc nên, ta cũng không tiện hỏi anh ấy. Ta đã ân cần đồng tình với ngươi như thế nào? Kể cho ta nghe với!
Chính Đức thầm hối hận mình đã lỡ lời. Nhưng chỉ trong chốc lát, hắn ta đành phải kiên trì nói dối đến cùng:
- Có...... Có một lần, cô và...... Nhị phu nhân, Tam phu nhân của Đại nhân đang đi trên đường phố, bị một tên vô lại quấy rối. Ta bắt gặp được nên tiến lên ngăn cản, nhưng bất ngờ không kịp đề phòng bị tên du côn kia tống một quyền trúng mũi chảy máu không ngừng. Cô đã đưa một cái khăn tay cho ta...
Đường Nhất Tiên phì cười, nheo mũi:
- Ngươi thật là ngốc! Điều đó mà coi như ân cần đồng tình cái gì? Cho dù người qua đường trọng nghĩa nói giúp vài câu, ta cũng vẫn cảm kích người ta vài phần đấy nha. Ngươi thật! Người khác giúp đỡ ngươi thì nên nhớ ở trong lòng, nhưng mà cũng không cần tự cam lòng nhỏ bé, tự cảm thấy mình thân phận thấp kém, làm cho người khác cái gì cũng đều là điều cần phải làm.
Chính Đức gật gật đầu, thầm nghĩ: "Nếu không phải Dương thị độc dẫn ta ra khỏi cung, làm sao ta có thể gặp được cô? Nói như vậy, đúng ra ta nên cảm kích Dương Lăng mới đúng. Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lại, nếu không phải ta xông vào 'Hoa quán', thì làm sao Dương khanh có thể gặp được hai cô ái thiếp, còn được ta chuộc ra ban cho hắn? Chẳng lẽ đúng là một miếng ăn, một chén nước đều do tiền định cả sao? Lần này gặp lại được cô thực là khó khăn trăm bề, ta nhất định phải rất quý trọng, cả đời này ta sẽ không để cho cô rời khỏi tầm mắt của ta."
***
Mấy ngàn thiết kỵ trùng trùng điệp điệp trên đường. Hôm nay là ngày chính thức ký kết hiệp ước đồng minh, không cần che giấu việc Hoàng đế đã vào tới Đại Đồng nữa. Không lý nào quân vương một đại quốc tổ chức ký kết hiệp ước cùng một tiểu bộ lạc ngay trên quốc thổ của mình mà lại còn phải giấu giấu giếm giếm! Cho nên Dương Lăng mượn của phủ Đại Vương nguyên bộ nghi trượng, rồi lại bố trí thêm cờ quạt lọng tán mới tinh.
Đại Vương và Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản ruổi ngựa đi trước, tiễn vua ra khỏi thành. Trên đường cái năm bước một chòi gác, mười bước một trạm canh, những đường phố loan giá đi qua đều được phong bế chặt chẽ. Đứng ở bên ngoài lằn ranh do quan binh thiết lập cảnh giới, dân chúng ngạc nhiên trố mắt nhìn nghi trượng Hoàng đế mà có lẽ suốt đời chỉ có cơ hội này họ mới được nhìn thấy.
Ở góc đường, Thôi Oanh Nhi bình tĩnh đánh giá đại đội nhân mã đi qua không dứt. Chiếc ngự kiệu che lụa vàng tươi vừa tiến đến. Trước sau, trái phải, mỗi bên có ba mươi hai thị vệ đại nội mặc áo thêu hình cá chuồn, đeo đao tú xuân vây kín chung quanh chiếc đại kiệu tới mưa gió không lọt, chỉ còn có thể thấy được cờ quạt lọng tán trên đỉnh kiệu từ từ lướt qua.
Hoắc Ngũ thúc lặng lẽ chen đến gần ra hiệu cho nàng lui lại về phía sau mấy bước, nói nhỏ:
- Vừa mới thấy có cả chục cờ mặt trời, cờ mặt trăng, cờ phi hổ trong đoàn nghi trượng, chính là Dương Lăng và Đại Vương, Hồ Tuần phủ. Thị vệ trùng trùng điệp điệp, hoàn toàn không có cách nào ra tay.
Thôi Oanh Nhi ngẩn người, hỏi ngược lại:
- Ngũ thúc, không phải thúc vừa mới nói đi tiểu tiện một chút hay sao? Sao mà thúc lại đi theo nghi trượng được một lúc rồi?
Thầm hối hận mình lỡ lời, Hoắc Ngũ thúc vội vàng giải thích:
- Vừa mới đi ngoài trở về là đã nhìn thấy nghi trượng đi qua, ta không kịp tìm con bèn đi theo một đoạn. Nhìn tình hình thế này, một khi bọn họ ra khỏi thành bọn ta càng không có cách nào ra tay. Sau khi ký kết hiệp ước xong, Hoàng Đế sẽ trở về kinh, có thể bọn ta cũng lại không có cơ hội rồi.
Thôi Oanh Nhi hồ nghi nhìn lão, ngần ngừ:
- Đã là chuyện không thể làm, chúng ta...... Lúc đó dừng tay thì sao? Hoàng Đế cùng Đóa Nhan Tam Vệ ký kết hiệp ước, giao thương buôn bán cả hai đều lợi. Dân chúng biên ải hiện đang rất cao hứng, nếu như chúng ta quấy rối việc này thì không biết phải chịu đựng sự chửi rủa của biết bao nhiêu người.
Hoắc Ngũ thúc nhìn lướt chung quanh, đáp:
- Không vội! Hoàng Đế thân chinh đến Đại Đồng tất nhiên rất coi trọng lần ký kết đồng minh này. Việc này vừa xong, quan chức Đại Đồng nhất định bày rượu thiết yến chúc mừng Hoàng Đế thành công. Việc thù tạc của Dương Lăng cũng nhất định không ít, chúng ta vẫn còn cơ hội.
Thôi Oanh Nhi thầm than nhẹ trong lòng, lông mày vương chút sầu muộn. Hoắc Ngũ thúc tận tình như thế, nàng còn có thể nói được gì?
Bộ dạng mệt mỏi, nàng lười biếng:
- Ừm! Chúng ta về chỗ ẩn thân trước đi. Hôm nay trong thành phong tỏa càng nghiêm ngặt hơn, Hoàng Đế từ ngoài thành trở về cũng phải có cả ngàn quân binh bảo vệ. Dương Lăng lại ở bên cạnh của hắn. Hôm nay cho dù có bản lĩnh tày trời cũng không thể đến gần cận thần của Hoàng đế được!
Dưới sự bảo vệ của năm nghìn tinh binh, đoàn nghi trượng của Hoàng đế chậm rãi tiến lên núi Bạch Đăng. Thám mã đi lại không ngừng như đèn kéo quân. Cứ theo báo cáo hành trình Hoa Đáng nhập quan, Dương Lăng lại điều chỉnh tốc độ của đoàn quân.
Hoàng Đế không thể tới trước Hoa Đáng, nhất định phải để cho Hoa Đáng kính cẩn chờ đợi rồi Hoàng đế mới tới. Nhưng Đại Minh là chủ, Đóa Nhan Tam Vệ là khách nên không thể để cho bọn họ phản khách vi chủ (biến bị động thành chủ động) ở chân núi Bạch Đăng đợi quá lâu. Lúc này việc đắn đo, cân nhắc thời gian rất quan trọng.
Trên núi Bạch Đăng cắm đầy cờ quạt lộng lẫy, hai hàng quan binh xếp từ chân đến đỉnh núi. Các thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ và các bộ Nữ Chân vừa mới bày xong đội ngũ chỉnh tề ở chân núi thì đoàn quân Dương Lăng cũng vừa đến nơi.
Đại quân Đóa Nhan Tam Vệ không thống nhất trang phục lẫn cờ hiệu, ngay cả vũ khí cũng là đủ loại, nhưng mà cái khí phách hiên ngang ngút trời của cả bọn lại biểu lộ hết sự dũng cảm oai hùng. Từ xa, ngồi trong kiệu lớn nhìn thấy sắc diện bọn họ, Chính Đức không khỏi tán thưởng:
- Năm xưa Đóa Nhan Tam Vệ theo hoàng đế Vĩnh Lạc tấn công Kim Lăng, mỗi khi gặp nam quân đều lấy ba vệ binh ngựa làm tiên phong. Ba nghìn người ngựa đấu với ba vạn người ngựa nhưng chỉ cần xung kích một lần là đánh bại kẻ địch. Bây giờ chiến lực bọn họ còn thua xa năm xưa nhưng mà nhìn khí phách bây giờ đã như vậy, các ngươi có thể tưởng tượng được lúc trước các binh sĩ Đóa Nhan Tam Vệ oai phong như thế nào!
Trương Vĩnh cùng cười nói:
- Hoàng Thượng! Quân uy Đại Minh của ta cũng không kém đâu. Lúc trước thần đã lấy làm lạ khi Dương đại nhân chọn lựa lính khỏe từ mười hai đoàn doanh gồm hơn mười vạn đại quân, tại sao đại nhân lại bỏ qua không tuyển một ít binh lính võ nghệ tinh thông có tướng mạo xinh đẹp, lại chuyên chọn những người lực lưỡng võ nghệ cao cường mà tướng mạo nhất định phải rắn rỏi. Bây giờ thần mới hiểu được dụng ý trong đó.
Nghe xong, Chính Đức chỉ cười không đáp.
Quân Đại Minh quả nhiên cũng không kém Đóa Nhan Tam Vệ. Năm nghìn kỵ binh, người nào cũng cao lớn vạm vỡ, tuấn mã oai phong, giáp trụ lóng lánh chói mắt, thương kích uy nghiêm hướng lên trời như rừng, quả nhiên phong cách đội quân này cũng khá dọa người.
Tiếng ngựa hí cùng tiếng bội đao va chạm lách cách vang lên. Sấp sỉ chừng một nén hương, đại kiệu của Chính Đức mới coi như đã đến hẻm núi Bạch Đăng. Đại thủ lĩnh Hoa Đáng đã dẫn đầu những quý tộc thủ lĩnh Tam vệ và tù trưởng ba bộ Nữ Chân kính cẩn chờ đợi ở đầu hẻm núi.
Nghi trượng Hoàng đế tách ra hai bên, Dương Lăng ghìm cương ngựa, ngẩng đầu đưa mắt nhìn thẳng về phía trước. Dẫn đầu đoàn sứ giả chính một người đàn ông lực lưỡng, trên gương mặt chữ điền đỏ thẫm lộ rõ một khí thế uy mãnh khó cưỡng.
Ánh mắt Dương Lăng giống như tia chớp tập trung ở trên người của hắn, "Tại sao lại là Nhạ Mộc Đồ? Hoa Đáng đâu?" Dương Lăng giật mình kinh hãi, bất giác nắm chặt thanh kiếm đeo bên hông. Y đang định lớn tiếng quát hỏi, Nhạ Mộc Đồ đã cởi thanh bội đao xuống ném cho một người hầu đứng phía sau, tay không tấc sắt ngang nhiên tiến đến giữa hai hàng đao thương uy nghiêm đáng sợ của thị vệ đại nội.
Hắn đi nhanh như bay, tiến thẳng đến trước đại kiệu mới dừng lại. Hắn chợt đảo người sụp xuống lạy, từ bên trong cổ họng bắn ra những âm thanh to như sấm:
- Chỉ huy Đóa Nhan Tam Vệ, Đồng tri Hoa Đáng, khấu kiến Đại Minh hoàng đế vạn tuế, vạn vạn tuế!
Chương 208: Điều Quân Khiển Tướng Như Chơi
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Chính Đức che miệng ho khan một tiếng, rồi hơi nhíu mày, ra vẻ "bất đắc dĩ":
- Nếu đã như vậy... Dương khanh, vậy cứ theo ý tốt của Thuận Minh vương! Năm nghìn binh mã này, khanh sẽ chỉ huy luôn vậy!
Nói xong hắn bèn quay sang Hoa Đáng, cười nói:
- Năm xưa Đoá Nhan Tam Vệ phò vua dẹp loạn, lập được công trạng lẫy lừng. Hôm nay vua tôi chúng ta một lần nữa lại tay nắm tay, cũng có thể xem là một giai thoại đó. Ha! Ha! Ha!...
Mùi máu tanh tràn ngập không khí. Tuy trời đang rét lạnh song mùi tanh vẫn nồng nặc không tan.
Bá Nhan đứng sừng sững trước lều lớn của Khả Hãn, trợn trừng cặp mắt đỏ lừ màu máu như một con thú dữ. Mấy trăm thớt chiến mã bị giết trải đầy trên cánh đồng tuyết, máu tươi xổ ra ồng ộc, nhuộm đỏ cả mặt đất.
Của cải cướp bọc được trong lần xuất binh này đã hao tổn không còn gì, vốn nên sớm kịp thời rút lui nhưng vì đợi Hoàng đế nhà Minh rời thành để đánh một đòn chí mạng mà mấy vạn đại quân Thát Đát vẫn trù trừ không đi. Nay quân nhu lương thực đã dùng hết sạch, sĩ tốt chỉ có thể dựa vào cây cỏ đào bới trên đồng tuyết cùng chuột, sói, thỏ hoang mà duy trì sự sống.
Mấy vạn đại quân xới tung núi đồi sơn dã lùng bắt hết những chú chuột đồng vừa to vừa béo, lấy dao lóc thịt, lấy nước rửa sạch, triển khai cuộc vận động "toàn dân diệt chuột gây hại" hết sức oanh liệt. Chuột đồng thảo nguyên đào hang sống thành đàn, sau mùa đông một con chuột cỡ lớn phải tích trữ đến mấy chục cân cỏ khô. Những nơi bị nạn chuột phá hoại, đất đai bị chúng cày bới khắp nơi để đào hang nên đất màu bị trôi xói nghiêm trọng. Có nơi thậm chí còn hình thành cái gọi là "đất hoang của chuột": không còn một cành cây, một ngọn cỏ. Xem tình hình hiện nay, nạn chuột gây hại sẽ vì thế mà bị quét sạch, sang xuân mảnh thảo nguyên ngoài thành Đại Đồng này nhất định sẽ xanh mởn cỏ cây
Nay binh sĩ đều áo quần rách rưới, ăn không đủ no. Nếu như tù trưởng các bộ lạc không biết cách một dãy Trường Thành là Hoàng đế Đại Minh mà nghiêm khắc quản thúc bộ hạ của mình thì chỉ e sớm đã có người nổi loạn.
Tái Lý Mộc Trác Nhĩ, mày đen như núi xa, mắt trong như thu thủy, khẽ khàng đi đến trước mặt Bá Nhan, lo lắng gọi:
- Đại hãn...
Hơi thở nặng nề lập tức ổn định lại, Bá Nhan nhìn cô nàng mỉm cười, cặp mắt khôi phục lại vẻ bình tĩnh và sắc sảo thông minh khi trước. Hắn hiên ngang cả tiếng nói với các thủ lĩnh và bọn sĩ tốt trước mặt:
- Chúng ta ở ngoài thành Đại Đồng khổ chiến gần sáu mươi ngày, quân mệt ngựa mỏi, lương thảo thiếu hụt. Thế thì tại sao không trở về thảo nguyên của chúng ta?
Ánh mắt sắc bén quét khắp một lượt, rồi hắn chỉ tay về phía Đại Đồng, cười to nói tiếp:
- Bởi vì Hoàng đế của Đại Minh đang ở ngay sau ngọn núi này. Trường thành trên núi này là bức tường vững chắc che chở cho người Hán, mà Hoàng đế Đại Minh lại là một bức Trường Thành trong lòng người Hán. Hoàng đế mà chết, thiên hạ tất đại loạn.
Nay cơ hội đã đến! Nội ứng của chúng ta sẽ mở cổng Cự Lỗ khẩu, ta sẽ đích thân dẫn binh mã đại quân không ngừng nghỉ mà tập kích núi Bạch Đăng, còn tướng quân Hỏa Sư anh hùng thì tấn công Đại Đồng. Thành lũy Đại Đồng không gì phá nổi cũng có người của chúng ta, bọn họ sẽ mở cổng thành tây nghênh tiếp đại quân chúng ta tiến vào. Rượu mạnh ngon nhất, đàn bà da thịt mịn màng xinh đẹp nhất, tất cả đều sẽ ở đó đón chờ chúng ta hưởng thụ!
Hỡi các chiến sĩ thảo nguyên! Chiếm được toà thành lớn này rồi, nam đánh Thái Nguyên, bắc dẹp Tuyên Hoá, một nửa giang sơn sẽ nằm trong tầm tay chúng ta. Đại Đô sẽ lại trở về trong vòng tay của chúng ta; Trung Nguyên sẽ lại hoá thành bãi cỏ của chúng ta. Hãy tiến lên! Mỗi một thằng đàn ông người Hán đều sẽ trở thành nô lệ gác bên lều ngủ của các ngươi. Mỗi một con đàn bà người Hán sẽ cung kính hiến dâng cái đêm đầu tiên của mình cho các ngươi. Tất cả tài sản và đàn bà của người Hán đều sẽ mặc cho các người sử dụng!
Được Bá Nhan kích động, những tiếng hú gào như sói tru nối nhau hết đợt này đến đợt khác, dục vọng chinh phục và cướp đoạt lại một lần nữa nổi lên trong lòng mỗi một chiến sĩ Thát Đát. Hài lòng nhìn những chiến sĩ đã lấy lại sát khí đằng đằng, ý chí chiến đấu sôi sục, Bá Nhan vung tay quát lớn:
- Uống nước tuyết, ăn thịt ngựa, tất cả các chiến sĩ hãy ăn no một bữa! Lúc mặt trời lên đến đỉnh, chúng ta sẽ đánh vào quan ải!
Đám chiến sĩ khát máu đã phấn chấn hùng tâm, cả cánh đồng tuyết vì một trận chiến cuối cùng này mà đã sôi trào, từng miếng thịt ngựa to đùng vẫn còn hồng hồng đã liền bị bọn binh sĩ vớt ra khỏi nồi mà nhai nuốt như cọp đói. Tù trưởng các bộ lạc khua chiêng gióng trống chuẩn bị chiến tranh. Lều bạt và một ít xe ngựa thì giao cho đám lính già yếu bệnh tật trông coi, chỉ tập trung khinh kỵ và khoái mã chuẩn bị tập kích quan ải.
Ý chí chiến đấu tràn ngập doanh trại. Ngay cả những tên Thát Đát bị thương, bị bệnh, già yếu tàn tật cũng đều đến trước mặt thủ lĩnh của mình cố gắng tranh giành cơ hội xông lên quan ải, chém giết, cướp bóc, chiếm đoạt đàn bà. Không cần phải động viên gì thêm, mỗi một tên đều biết giang sơn người Hán giàu có và sung túc như thế nào, đàn bà con gái người Hán xinh đẹp ra làm sao. Sự tham lam đã khiến cho những binh sĩ yếu đuối nhất cũng hoá thành những con mãnh hổ.
Một người ăn mặc theo lối người Mông Cổ được dẫn nhanh vào lều Khả Hãn của Bá Nhan. Nghe gã nọ báo tin tức từ quan ải do Di Lặc giáo đưa tới xong thì Bá Nhan không khỏi biến sắc. Hắn trầm ngâm một lúc lâu rồi mới nhoẻn miệng cười, bảo với kẻ đưa tin:
- Tốt lắm, ta biết rồi. Ngươi hãy trở về sơn khẩu tiếp tục chờ tin tức kế tiếp.
Kẻ nọ đưa tay lên ngực làm lễ:
- Tuân lệnh! Bây giờ tôi sẽ trở về Cự Lỗ khẩu ngay.
Song gã ta vừa mới quay lưng, Bá Nhan liền rút nhanh thanh loan đao bóng loáng như tuyết đâm vào giữa sống lưng hắn. Kẻ nọ kinh ngạc quay đầu, sợ hãi nhìn chằm chằm vào Bá Nhan.
Bá Nhan mỉm cười ác độc. Đao rời thân, máu phun ra, kẻ nọ ngã sấp xuống mặt đất. Trác Nhĩ kinh hãi bụm miệng, đến khi kẻ nọ tắt thở, cô nàng mới hoảng sợ hỏi:
- Đại Hãn, sao ngài lại giết hắn?
Sắc mặt Bá Nhan xám xịt. Thấy trong lều không có người ngoài, hắn mới trầm giọng đáp:
- Mới vừa nhận được tin nội ứng tại thành tây Đại Đồng của Di Lặc giáo đã bị khâm sai nhà Minh chém chết rồi. Vốn định tiến thẳng đoạt lấy Đại Đồng, bắc ngăn quân Minh về ải tiếp viện, nam chặn đường lui của Chính Đức, sau đó...
Trác Nhĩ lo lắng hỏi:
- Vậy giờ phải làm sao?
Bá Nhan lắc đầu bảo:
- Không còn đường lui nữa rồi. Không thể để lộ tin này được. Tên thám tử này là người của Thổ Mặc Đặc thuộc bộ lạc Quách Lặc Tân, là người trong tộc của Hỏa Sư. Không thể để bộ lạc của Hỏa Sư biết ta đã nhận được tin tức này. - Đoạn hắn liếc cái xác nằm trên mặt đất rồi thờ ơ nói tiếp, - Để Hỏa Sư tiếp tục đi gặp cục xương cứng đó đi, chúng ta giết Hoàng đế trước, sau đó lại quay về cùng chiếm lấy Đại Đồng!
*****
Cự Lỗ khẩu chỉ là một thành lũy bằng đất . Do nó bị kẹp giữa hai quả núi , địa thế hiểm trở , trước mặt là một lòng chảo chật hẹp , Thát Đạt lại không có vũ khí công thành quá lợi hại nên không thể đánh chiếm thành nhanh chóng . Vì vậy , một khi phát hiện bị địch tiến công thì nơi đây bèn nổi lửa khói phong hỏa đài , các quan ải chung quanh liền có thể mau chóng thông qua Trường Thành mà điều quân đến tiếp viện , cho nên bình thường nơi đây chỉ có binh lực của hai bách hộ trú đóng , do một vị Phó thiên tổng cai quản , kiêm quản một Bách hộ sở (gồm 112 người - xem chú thích chương 43): Sau khi đại quân của Bá Nhan Khả Hãn tiến vào trong ranh giới Sơn Tây, nơi này được điều động thêm một trăm tăng binh (quân đội hoà thượng - ND) từ Ngũ Đài Sơn. Thời đó nghĩa dũng và tăng binh thường được điều động tham gia chiến đấu mỗi khi có chiến sự, sau chiến tranh lại trở về địa phương cũ.
Vị Phó thiên tổng này tuổi hơn hai mươi, họ Lý tên Nghĩa, mới vừa nhậm chức được hơn một năm. Người này anh tuấn bất phàm nhưng võ nghệ rất cao siêu, tính tình lại điềm đạm. Hắn không hề truy cứu chuyện sĩ tốt thỉnh thoảng lén mua bán nồi sắt, lọ sành với dân du mục Thát Đát, cho nên rất được bọn tướng sĩ ủng hộ và yêu mến.
Hôm nay, bình minh vừa ló dạng hắn đã ồn chồn leo lên trạm quan sát liên tục ngóng nhìn về phía khe núi ngoài quan ải. Sĩ tốt gác trạm trông thấy Phó thiên tổng đại nhân mặt mày căng thẳng liền cười nói:
- Đại nhân, tuy Dương tổng chế đã hạ lệnh trong những ngày này toàn bộ quan ải, vệ sở, phong hỏa đài phải cảnh giới toàn diện, nhưng nghe nói rằng đại quân Bá Nhan thiếu thốn lương thảo, không phải đã chuẩn bị trở về đại mạc rồi sao? Đại nhân hà tất phải lo lắng như vậy! Hơn nữa từ lúc nổ ra chiến sự đến nay, quan ải này của chúng ta vẫn chỉ bị vài tốp giặc Thát tới quấy phá, lúc này càng sẽ không có đại quân đến tập kích đâu.
Lý Nghĩa cười lớn bảo:
- Nói đúng lắm! Có điều quân lệnh của Tổng chế đại nhân nghiêm minh, cái gì nên kiểm tra thì vẫn phải kiểm tra thôi.
Đoạn hắn đảo tròng mắt, nhìn ngó chung quanh, sau đó thân thiết vỗ vai sĩ tốt nọ, nhỏ giọng nói tiếp:
- Biết cuộc sống nhà ngươi hơi vất vả, bản quan sẽ không để ý đến việc ngươi mua bán vài cái nồi niêu chậu chảo đâu. Có điều mấy ngày nay bên trên tra xét ngặt nghèo, đừng để xảy ra chuyện gì đó nhé.
Tiểu binh nọ cảm kích thưa:
- Đa tạ đại nhân! Tiểu nhân biết chừng ạ! Sẽ không mang phiền phức đến cho ngài đâu. Hề hề, đợi mấy ngày nữa đại quân Bá Nhan rút đi rồi hẵng tiếp vậy.
Lý Nghĩa gật gù, cười nói:
- Đứng suốt buổi sáng, các ngươi cũng đã mệt rồi, lui xuống nghỉ ngơi cả đi. Ta sẽ điều đám tăng binh nọ lên thủ thành. Chúng ta lăn lộn mưa gió quanh năm suốt tháng, bọn chúng tên nào tên nấy được nuôi dưỡng kỹ trong chùa thành ra tai to mặt lớn, phương phi tốt tướng; đến lúc bọn chúng phải bỏ ra chút sức rồi.
Binh lính thủ thành cả mừng, mấy người bọn họ liền khúm núm lấy lòng:
- Đa tạ đại nhân quan tâm! Để tiểu nhân đi gọi bọn chúng lên đây.
Chỉ một chốc sau, bốn mươi gã tăng binh đã trèo lên lầu thành, mấy chục quan binh thủ thành cùng chen nhau đi xuống. Lý Nghĩa trông thấy vị tăng quan (chỉ huy tăng binh - ND) tuổi gần ũ tuần bước đi có phần chậm chạp, ánh mắt không khỏi ngưng tụ. Đợi lão đến gần, hắn mới nhỏ giọng hỏi:
- Sao vậy, vết thương vẫn chưa lành à?
Tăng quan nọ múa cây thuyền trượng "lẻng xẻng" vài đường, rồi cười đáp:
- Nhị thiếu chủ, thủ hạ đã khỏi nhiều rồi. Lần này không dám động tay động chân nhiều cho nên thân thể được tịnh dưỡng đến mức béo núc. Khà! Phải nói cái con lừa trọc trên Ngũ Đài Sơn đó thật là lợi hại, cái xẻng nọ suýt nữa đã xén đùi thủ hạ làm đôi rồi. Khôi phục được đến như thế này đã là may mắn lắm rồi.
Đoạn hắn nhìn ra ngoài quan ải nói tiếp:
- Vừa nãy thiếu chủ sai người của Phương bách hộ đi chuyển cây lăn và dầu tung. Cớ này có phần khiên cưỡng, tại hạ trông thấy Phương bách hộ có vẻ ấm ức lắm, chốc nữa không chừng hắn sẽ bẩm báo với cấp trên là Tề tham tướng đây. Thiếu chủ nên cẩn thận một chút.
Lý Nghĩa cười nhạt, vỗ vỗ lên lỗ châu mai đáp:
- Cha đã bí mật đưa ta vào trong quân đội, vốn là muốn nắm vững binh quyền trước rồi mới từ từ mà tính kế. Nay Hoàng đế đến Đại Đồng là cơ hội nghìn năm khó gặp, chức quan này ta cũng không thể tiếp tục làm nữa rồi. Chốc nửa cửa ải mở ra, Lý tham tướng này cũng sẽ biến mất khỏi thế gian, mặc hắn có thích thì cứ đi mà hặc tội. Không giữ hắn lại đây chờ chết là đã tận tình tận nghĩa với hắn lắm rồi. Ha ha ha!!!
Vừa dứt tiếng cười, hắn lại hỏi:
- Dưới thành đã chuẩn bị xong hết chưa?
Gã tăng quan đầu tròn tai béo, mặt mũi hồng hào gật đầu đáp:
- Thiếu chủ yên tâm, chúng tôi là tăng nhân, không ngồi chung mâm cùng quan binh. Vừa nãy đã sai người bỏ thuốc vào trong đồ ăn của chúng rồi, chốc nữa sẽ có thể giết chúng như giết heo thôi...
Hắn vừa nói đến đây, dưới lầu thành đã vọng lại tiếng rú thảm thiết. Hai người không khỏi đưa mắt nhìn nhau cả cười.
Từ xa, tên rít xuyên mây, âm thanh chói tai từ trong hẻm núi rì rầm vọng lại; tên bay xé gió, vó ngựa như sấm. Một đội kỵ mã đông nghìn nghịt như kiến ùn ùn kéo tới, trông như một tấm thảm đen kịt được trải dài, trong chớp mắt đã bao phủ khắp mặt đất.
Chỉ trong khoảng một nén nhang, ngoài quan ải đã đầy đặc người la ngựa hí, phủ kín cả mặt đất...
*****
Đến dưới chân núi, Dương Lăng mới biết rằng vị sứ giả Nặc Mộc Đồ nọ chính là Hoa Đáng. Người Hán có thói quen hai quân giao chiến không chém sứ giả. Ngoại tộc biết rõ điểm này nên từ xưa thường có Khả Hãn đích thân cải trang làm sứ thần đến viếng đất Hán, tận mắt ngắm nhìn giang sơn người Hán. Sự tình trọng đại như vậy khó trách Hoa Đáng muốn tự thân xuất mã đàm phán cùng triều đình nhà Minh.
Lúc này, trong căn lều lớn trên đỉnh núi Bạch Đăng, khách và chủ đều đang vui vẻ. Chính Đức tự tay viết quốc thư, đóng thêm ngự ấn, chấp thuận việc hợp tác và buôn bán song phương, đồng thời phong Hoa Đáng làm Thuận Minh vương, nhảy một bước từ một viên quan chỉ huy quân sự của Đại Minh có chức Đồng tri thành Khả Hãn Thuận Minh. Cương vị phiên quốc và thuộc quốc đương nhiên khác biệt, Hoa Đáng cảm thấy lưng mình đã thẳng lên không ít.
Dương Lăng mỉm cười bước ra cửa lều, hô to:
- Người đâu, dâng bữa!
Hai nhóm tiểu thái giám đến từ phủ Đại vương nối đuôi nhau tiến vào, những mâm đĩa tinh mỹ óng ánh như ngọc chứa đầy những món ăn tinh xảo lần lượt được mang đặt trên bàn Chính Đức và thủ lĩnh các bộ lạc.
Mặc dù trên núi điều kiện sơ sài, nhưng màu sắc và hương vị các loại món ăn được các vị ngự trù và đầu bếp vương phủ do Dương Lăng đưa tới chuyên tâm chế biến đều rất tuyệt vời, thể hiện rõ khí phách quốc gia, khiến cho thủ lĩnh các bộ lạc nọ khen ngợi không thôi. Bọn họ tròn mắt cầm dao mà thấy lúng túng, dùng tay bốc lấy thì lại ngượng ngùng, chỉ biết thở dài tán thưởng mà thôi.
Cha được phong làm Khả Hãn, thân phận của Ngân Kỳ cô nương đã là công chúa, tuy nhiên lúc này cô nàng vẫn vận nam trang. Trong lều phần lớn đều là những nhân vật hét ra lửa hùng cứ một phương, không ai để ý đến một tiểu thị vệ đứng sau lưng Hoa Đáng như cô nàng.
Thấy Dương Lăng gọi người dâng món, Ngân Kỳ bèn liếc xéo y rồi cũng bước ra ngoài lều, vỗ tay ba cái. Bốn gã Mông Cổ cao to khiêng vào trong lều một chiếc bàn sơn son, trên đặt một con dê béo nướng sẵn quấn bằng lụa đỏ. Bọn chúng quay về phía Chính Đức quỳ một gối xuống đất, đặt nắm tay lên ngực làm lễ rồi mới lặng lẽ lui ra.
Con dê thiến hai tuổi béo ục, da vàng óng ánh, da giòn thịt thơm, được quay nguyên khối nên thịt rất thơm ngon, trong lều tức thì tỏa ra mùi thịt dê nướng thơm lừng. Hoa Đáng đứng dậy đi đến trước chiếc bàn sơn son, rút từ trong thắt lưng ra thanh loan đao nhỏ bằng bạc, thoăn thoắt xẻ phần xương vai, cắm trên đầu mũi dao.
Nữ Chân Tam Bộ thì đề cử thủ lĩnh Chúc Khổng Cách của Hải Tây Nữ Chân tiến lên. Trên chiếc bàn son bày sẵn một cái chén bằng bạc, một cái bình bằng bạc. Chúc Khổng Cách lấy đao cẩn thận rọc bụng dê, đổ nước canh dê thơm phức từ trong bụng ra nửa chén, rồi lại rót thứ nước trong vắt từ trong chiếc bình bạc ra nửa chén, khuấy đều. Sau đó hai người cùng bước đến trước mặt Chính Đức.
Tức thì thị vệ đứng sau lưng Chính Đức đứng bật dậy, tay dằn bội đao. Ngũ Hán Siêu đứng bên cạnh sải tới một bước, ngón tay kẹp chặt hai chiếc phi tiêu kim tiền. Dù biết hai vị thủ lĩnh này không thể hành thích Hoàng đế vào lúc này nhưng bọn họ vẫn không dám lơ là chút nào.
Cũng may Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách cũng biết rõ lễ nghi. Hai người bước tới trước mặt Chính Đức cách ba bước thì dừng lại, khuỵu một gối xuống đất. Hoa Đáng mở miệng hát:
- Thiên Khả Hãn tôn quý trên cao, xin hãy cho phép thần dâng trọn con dê béo mềm này. Sống lưng của nó to lớn như vòm trời rộng khoát, bốn chân của nó to béo như đất đai phì nhiêu, cái đầu của nó ngẩng cao như núi cao hùng vĩ, ống xương của nó chắc khoẻ như cây đàn hương trên núi. Thiên Khả Hãn được ban nhiều lộc phước, xin ngài hãy hưởng dụng nó...
Một đại hán to cao vạm vỡ như vậy lại quỳ ở đó hát một cách hết sức nghiêm túc khiến Chính Đức vừa thấy lạ vừa thấy buồn cười. Trương Vĩnh và Miêu Quỳ đứng ở hai bên bước lên định nhận lấy lễ vật do hai vị thủ lĩnh cung phụng. Dựa theo nghi thức thì phải do Chính Đức tự tay nhận lấy nên Hoa Đáng chỉ liếc xéo bọn họ mà không chịu buông tay. Không khí trong lều ngay lập tức hơi căng thẳng.
Chính Đức cười ha hả bảo:
- Các ngươi lui xuống đi! Mời Thuận Minh vương và thủ lĩnh Chúc Khổng Cách tiến lên!
Hai người Trương Vĩnh đành phải lui về. Hai người Hoa Đáng bước đến trước bàn của Chính Đức, khom lưng dâng đặt lễ vật lên bàn. Tuy Hoa Đáng cố tình chĩa mũi cây đao bạc nọ về phía mình, nhưng nếu thuận tay đâm tới, góc độ này có thể vừa vặn đâm ngay vào cổ họng Chính Đức. Thế nhưng Chính Đức mặt không đổi sắc thản nhiên cầm lấy cây đao bạc cắm miếng thịt dê béo nọ từ tay Hoa Đáng rồi đặt xuống bàn, gật đầu mỉm cười với hắn, rồi lại đón lấy chiếc bát bạc từ trong tay Chúc Khổng Cách, đặt sang một bên.
Trong mắt Hoa Đáng thoáng hiện lên vẻ khâm phục, hắn lại quỳ xuống trước bàn Chính Đức, cầm lấy bình ngọc trên bàn, rót đầy một chén, dâng hai tay lên cho Chính Đức. Chính Đức đón lấy rồi uống cạn một hơi. Thân là Thiên Khả Hãn, Chính Đức chịu uống cạn rượu mời của bọn họ không chừa một giọt là biểu hiện rất tôn trọng bọn họ. Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách và thậm chí là tất cả thủ lĩnh các bộ lạc thấy vậy đều lộ vẻ mừng rỡ.
Chính Đức cũng tự tay cầm lấy bình rượu, rót một chén cho Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách, sau đó lại rót cho mình một chén, đứng dậy cười nói:
- Nào, chúng ta hãy uống cạn chén này!
Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách hai tay nâng lấy chén, lui về sau mấy bước, đứng phía trước thủ lĩnh các bộ lạc, dẫn đầu các thủ lĩnh đồng thanh hưởng ứng:
- Tạ ơn Thiên Khả Hãn, mọi người cùng uống nào!
Tất cả mọi người trong lều lớn lần lượt nâng chén uống cạn.
Tiệc rượu mừng lễ kết minh chính thức được bắt đầu. Thủ lĩnh các bộ lạc thay phiên nhau kính rượu Thiên tử và sứ thần Đại Minh. Dương Lăng biết được khi những người Mông Cổ này kính rượu mà mình không uống hết thì rất phi lễ, cho nên trước đó y sớm đã kiếm mấy chén rượu bằng bạc nhìn thì khá bề thế nhưng đáy thì nông tẹt, vậy mà y vẫn bị ép uống đến ngà ngà say.
Dương Lăng đứng dậy mời lại thủ lĩnh các bộ lạc. Đang lúc không khí trong lều hết sức chan hòa, chợt mọi người nghe thấy có tiếng pháo hiệu. Tiếng cười nói trong lều tức thì ngưng bặt. Dương Lăng kinh ngạc, lập tức chạy ào ra ngoài, mấy viên thị vệ vội nhanh chóng che chắn trước mặt Chính Đức.
Dương Lăng vừa chạy vội ra ngoài, thủ lĩnh các bộ lạc cũng căng thẳng lục tục kéo nhau ra xem. Cả bọn thấy từ trên đỉnh ngọn núi đằng xa, khói lửa đang bốc lên dày đặc, binh sĩ dưới núi náo loạn. Phía Đại Đồng có một đội nhân mã đang phóng nhanh tới.
Dương Lăng kinh hãi:
- Đã xảy ra chuyện gì vậy?
Tiếc rằng thời này chưa có điện thoại điện báo, tuy thấy khói hiệu truyền tin nên y biết đã xảy ra biến cố quân sự trọng đại, song bên cạnh lại không ai biết rõ rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì.
Thủ lĩnh bộ lạc Ông Ngưu Đặc là Ô Lạp Nhĩ vừa giận dữ vừa khiếp sợ, trông thấy đằng xa có đại đội nhân mã đang chạy lại, trực giác mách gã rằng Dương Lăng muốn mượn việc kết minh mà bắt sạch bọn họ.
Không chút nghĩ ngợi, Ô Lạp Nhĩ rút nhanh loan đao, phóng người qua gác đao lên cổ Dương Lăng, giận dữ quát:
- Bọn Hán chúng mày gạt tao! Đại thủ lĩnh, hãy mau dẫn người xông xuống núi. Cướp ngựa rời khỏi quan ải!
Ngũ Hán Siêu được Dương Lăng năm lần bảy lượt dặn dò, bảo hắn nhất định phải bảo hộ Hoàng đế được chu toàn, cho nên vừa nãy khi Dương Lăng chạy ra khỏi lều chàng ta hơi do dự một chút, nay chỉ trong nháy mắt Dương Lăng đã bị Ô Lạp Nhĩ chế ngự. Thấy đã có bọn thị vệ bảo vệ Chính Đức, Ngũ Hán Siêu bèn phóng người lại, tay phải cầm kiếm, tay trái kẹp ám khí, định giết chết Ô Lạp Nhĩ cứu đại nhân ra.
Dương Lăng trông thấy thủ lĩnh các bộ lạc Đoá Nhan đều cầm chắc đao trên tay, đang căng thẳng đến cực độ, ngay cả thủ lĩnh của Nữ Chân Tam Bộ và thị vệ của bọn họ cũng đã cầm lấy binh khí, căng thẳng đề phòng động tĩnh từ phía thị vệ quân Minh. Y biết rõ nếu như Ngũ Hán Siêu giết chết Ô Lạp Nhĩ cứu mình về, cuộc chiến toàn diện giữa Đại Minh và Đoá Nhan Tam Vệ nhất định sẽ nổ ra khắp cả trên lẫn dưới núi, khi đó sẽ chẳng còn bất kỳ cơ hội nào để mà giải thích nữa. Thế là không chút nghĩ ngợi gì, y lập tức trừng mắt quát:
- Ngũ Hán Siêu, dừng tay!
Ngũ Hán Siêu thoáng sững lại, thân hình đang chực phóng vọt đột nhiên dừng lại tại chỗ. Lúc này Chính Đức cũng đã bước ra khỏi lều dưới sự bảo vệ của các thị vệ, hắn đẩy thị vệ che chắn trước mặt ra, bước mấy bước về phía trước quát lớn:
- To gan! Trẫm đường đường là thiên tử, là Thiên Khả Hãn của Đại Minh, há sẽ làm chuyện bẩn thỉu lấy kết minh làm mồi, dụ thủ lĩnh các bộ lạc ra để giết hay sao? Thả người của trẫm ra!
Tuy Chính Đức còn nhỏ tuổi, mặc long bào vào người vẫn trông như thằng bé mới lớn, nhưng lúc này lời quát lẫm liệt lại không cần giận dữ mà vẫn oai nghiêm, khiến tên Ô Lạp Nhi thân thể như gấu nọ cảm thấy khiếp sợ, không khỏi đưa mắt nhìn về phía Hoa Đáng dò hỏi.
Đương lúc Hoa Đáng còn do dự không biết có nên tin lời của Chính Đức hay không, Ngân Kỳ đã bước ra phía trước, nói lớn:
- Đừng có hoảng sợ, người Minh không có ác ý với chúng ta đâu.
Nói đoạn xoay người về phía thủ lĩnh các bộ lạc và thị vệ đang cầm đao cầm kiếm, cô nàng giơ cao hai tay, trấn an:
- Người Minh nổi lửa khói báo động tức là thông báo có ngoại địch xâm nhập. Giả như Hoàng đế Đại Minh muốn giết chúng ta, hắn sẽ 'giương cờ gióng trống', lặng lẽ điều binh, thừa lúc chúng ta xuống núi mà động thủ, chứ làm gì mà 'ngưng trống dẹp cờ', làm chuyện ai ai cũng có thể thấy, ai ai cũng có thể nghe như thế này?
(Cô nương Ngân Kỳ sử dụng nhầm thành ngữ, lẫn lộn "giương cờ giống trống" với "ngưng trống dẹp cờ" - Ba_Van)
Rồi nàng quay lại nói với Ô Lạp Nhĩ:
- Ô Lạp Nhĩ thúc thúc, hãy thả đại thần nhà Minh đó ra đi. Con tin hắn sẽ giải thích rõ cho chúng ta.
Ô Lạp Nhĩ hơi ngần ngừ. Trông thấy mọi người đều đã lặng lẽ buông bỏ đao thương, Hoàng đế Chính Đức cũng vung tay ra lệnh cho thị vệ quân Minh lui ra sau, hắn bèn buông đao xuống, đẩy Dương Lăng về phía trước.
Dương Lăng bước tới trước hai bước, đứng ngay cạnh cô nương Ngân Kỳ mới biết viên thị vệ này là con gái. Y kinh ngạc liếc người con gái thanh tú có đôi mày kiếm dài và đen như mực, mắt vừa to lại đẹp này, sau đó giũ giũ chiếc mãng bào dệt vàng, sửa ngay ngắn chiếc khăn chít đầu bằng lụa đen hơi bị lệch, rồi nhoẻn miệng cười nói:
- Cô nương thuộc thành ngữ thật giỏi!
Ngân Kỳ cô nương hừ một tiếng yêu kiều, hếch chiếc mũi thon lên, có phần đắc ý bảo:
- Vẫn mong đại nhân hãy mau chóng nắm rõ tình hình, cho chúng tôi một câu trả lời thoả đáng.
Dương Lăng khẽ gật đầu, thưa với Chính Đức:
- Hoàng thượng, ngài có nên vào trong lều...
Chính Đức lắc đầu bảo:
- Thủ lĩnh các bộ lạc đều ở ngoài này, trẫm cũng sẽ ở ngoài này. Dương khanh, khanh hãy mau chóng tra rõ tình hình!
Dương Lăng cung kính đáp:
- Dạ!
Rồi y dẫn theo vài thị vệ chạy nhanh về phía sơn khẩu. Đội quân từ phía Đại Đồng đã phi tới dưới chân núi, Dương Lăng chưa nghe thấy có tiếng địa lôi kích nổ, nên nghĩ ắt là quân đội Đại Minh, cho nên hơi yên tâm. Khi đến sơn khẩu, y thấy có khoảng trên vạn nhân mã xông tới dưới chân núi đã hội họp cùng mấy nghìn quân Minh trên núi. Trên ngọn cờ cao chót vót thêu rõ chữ "Hứa".
Dương Lăng rất đỗi kinh ngạc, thầm nghĩ: "Ra là Hứa Thái! Vốn đã thương lượng rằng nếu trên núi có biến thì sẽ nổi lửa hiệu truyền tin triệu hắn tới ngay. Nay trên Trường Thành lửa hiệu nhóm lên khắp nơi, rõ ràng là giặc Thát lại tấn công quan ải, hơn nữa thế công ắt rất khốc liệt. Đại quân của hắn sao không cố thủ Đại Đồng đợi lệnh mà chạy đến nơi đây để làm gì?"
*****
Sau khi đại quân của Chính Đức rời khỏi thành, bảy nghìn kỵ binh của Hứa Thái liền tạm dừng ở phụ cận thành đông, người không rời ngựa, ngựa không rời yên, sẵn sàng nhận lệnh bất cứ lúc nào, Đỗ Nhân Quốc thì toạ trấn phủ Tổng binh. Tuy kế hoạch đã được bàn tính kỹ càng, suy đi nghĩ lại trên núi Bạch Đăng khó lòng xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, nhưng thiên tử ở nơi nào thì nơi ấy là trọng tâm của thiên hạ thế nên Đỗ Nhân Quốc không hề dám lơ là chút nào.
Mấy quan ải gần Cự Lỗ khẩu liên tiếp nổi lửa hiệu, tin tức truyền khắp chín ải, tất cả mọi quan ải lập tức bước vào tình trạng chuẩn bị chiến đấu cấp một (giống như DEFCON1 haha- TheJoker), vệ sở lân cận liền tăng binh. Đỗ Nhân Quốc nhận được bẩm báo liền lập tức chạy lên thành lũy phía tây, phái mấy lộ thám mã chạy về hướng Cự Lỗ khẩu tra xét tình hình.
Thám mã vừa rời thành đã phóng băng băng theo quan lộ. Mới vừa vượt qua một cái đồi nhỏ, chợt hai viên thám mã thấy mặt đất rung chuyển, đập vào tầm mắt là vô vàn quân mạnh tướng dữ người Thát Đát đầy khắp núi đồi, người và ngựa nhập lại thành một trông như sói như cọp, đang lao nhanh về phía thành Đại Đồng.
Thám mã hãi hùng khiếp vía. Hai năm trước Thát Đát cũng đã từng công phá quan ải, thành Đại Đồng thiếu điều thất thủ, thiết kỵ Thát Đạt đánh thẳng đến Cư Dung Quan thì mới bị chận mà phải lui về. Không ngờ hôm nay lại tái diễn chuyện xưa, lang sói thảo nguyên đã xâm nhập Trung Nguyên một lần nữa.
Hai tay thám tử lập tức quay đầu ngựa chạy về, người nép sát trên lưng ngựa mà vút roi vù vù, chiến mã tung vó như bay. Sau lưng bọn họ, tên bay phủ kín mít cả bầu trời, trông hệt như đàn châu chấu đang ùa tới. Cả người lẫn ngựa Hai viên thám tử bị bắn thành bốn con nhím. Vó ngựa ào ào như mưa gió, thiết kỵ của Thát Đát quét qua, đạp mặt đất thành một mảng mơ hồ, không còn thấy chút dấu vết gì của người lẫn ngựa.
Tốp thám mã thứ tư vừa chạy tới con đường giữa khe núi trên bình nguyên, mặc dù từ xa có thể thấy được tình thế không ổn nên kịp thời quay ngựa phi về nhưng mông ngựa và lưng người vẫn dính phải một đám tên. Có điều khoảng cách hơi xa, sức tên đã hết nên bọn họ không bị bắn chết.
Hai tay thám tử phi vào trong thành như một cơn lốc, hét lạc cả giọng:
- Thu cầu treo! Khóa cổng thành lại! Giặc Thát xông vào quan ải rồi!
Đỗ Nhân Quốc đứng trên đầu thành nghe vậy thì cả kinh. Ông ta cũng không rảnh để đi truy cứu xem chỗ quan ải nào đã bị đánh chiếm mà lập tức ra lệnh cho người phi ngựa cấp tốc truyền báo Hứa Thái đang ở thành đông chạy đi cứu viện núi Bạch Đăng gấp, đồng thời cho đóng chặt bốn cổng thành, toàn bộ quan quân trèo lên lỗ châu mai, cùng quân Nghĩa Dũng và Khoái Thủ hỗ trợ thủ thành.
Hồ Toản hay tin cũng tức tốc chạy từ nha môn tuần phủ tới cổng thành. Trông thấy giặc Thát đang phóng băng băng, thế như đập trời vỗ đất thì kinh hồn hãi vía, chỉ mong cho giặc Thát không biết Hoàng đế đang ký kết hiệp ước với Đóa Nhan Tam Vệ trên núi Bạch Đăng. Nếu đại quân địch công thành thì Hoàng đế sẽ có thể kịp nhận được tin tức mà mau chóng lui về một quan ải nào đó.
Nào ngờ đại quân giặc Thát chỉ hò hét mà lại không công thành, đại quân vòng qua tường thành rồi không chút chần chừ mà lao nhanh về phía đông. Đội ngũ giặc hung hãn như hồng thủy mang theo khí thế như muốn chôn vùi hết thảy.
Trông thấy thế, Hổ Toản lạnh ngắt trong lòng, đờ đẫn nhìn theo đoàn thiết kỵ Thát Đạt đang tràn qua như hồng thủy. Lão quay sang nhìn Đỗ Nhân Quốc thì thấy vị tướng quân đội được xưng là chiến thần Đỗ phong tử không sợ chết cũng đã xám nghoét mặt mày.
Lá cờ lớn vẽ hình con sói xanh tung bay phất phới trong gió, như thể đang giễu cợt bọn họ. Khi thấy đại quân sắp biến mất, Hồ Toản mới giật mình tỉnh lại, la to:
- Đỗ tổng binh, mau, mau cứu viện núi Bạch Đăng! Giặc Thát phá được quan ải mau như vậy, đại quân của Dương tổng chế vẫn còn đang tập trung ở Trường Thành, phần lớn lại đều là lính bộ, đợi hắn dẫn quân trở về thì đại sự đã xong rồi!
Đỗ Nhân Quốc cũng như vừa tỉnh cơn mê, giật mình đánh thót. Phần lớn kỵ binh đều đã bị Hứa Thái mang đi, trong thành chỉ còn lính bộ. Đối diện với đội quân Thát Đát thanh thế cuồn cuộn như thế, nếu dựa vào thành mà thủ thì có lẽ còn giữ được Đại Đồng. Đại quân mà rời khỏi thành, e rằng không chỉ toàn quân bị diệt sạch, mà nếu như giặc Thát lợi dụng đặc điểm mau lẹ và cơ động của kỵ binh mà cho khoái mã quay lại phản công thì ngay cả Đại Đồng cũng sẽ bị mất. Song chỉ cần có thể kéo dài thời gian thêm một chút, để Hoàng đế bình an lui về quan nội, thì tổn thất có lớn cỡ nào cũng đáng.
Đỗ Nhân Quốc chụp lấy đại đao của mình, đang định tập trung quân thủ thành trong thành xuất phát về phía núi Bạch Đăng, thì từ đằng xa một lá cờ thêu hình chim ưng đỏ rực đã lừng lững tiến tới. Đại quân của Hỏa Sư kéo đến rồi!
***
Nghe Hứa Thái hớt ha hớt hả kể xong, Dương Lăng không khỏi sởn gai ốc. Có nghĩ đến ỡ đầu y cũng không tài nào hiểu nổi làm thế nào mà suốt hai tháng trời giặc Thát đại chiến ngoài thành vẫn không phá được Trường Thành, giờ lại nhanh như vậy, khéo như vậy, mà nhằm đúng ngay lúc bọn chúng thế cùng lực tận như vậy mà vẫn có thể trong nháy mắt phá được một quan ải để xông vào.
Giặc ngoài dễ tránh, trộm nhà khó phòng. Dương Nhất Thanh đến Đại Đồng mới được hai tháng, vừa mới đến liền phải tập trung hoàn toàn tinh thần vào trận đại chiến với giặc Thát, vốn không có thời gian chỉnh đốn quân đội.
Mấy ngày trước, đột nhiên xảy ra chuyện Vương Long, Vương Hổ tư thông Thát Đát, mà thực tế là gian tế do Di Lặc giáo dùng vàng to bạc lớn thu xếp trà trộn vào quân Minh, toàn bộ quan viên có quan hệ mật thiết đến họ Vương đều bị thuyên chuyển khỏi chức vụ cũ. Thế nhưng đại quân Thát Đát đang giương cặp mắt hổ nhìn chằm chằm ngoài quan ải, lúc này không thể gây nên ảnh hưởng quá rộng mà thanh trừng khắp nơi, để tránh làm tổn hại tới căn cơ của biên quân. Cho nên không chỉ Dương Lăng không có manh mối gì, mà ngay cả Dương Nhất Thanh ngay vào lúc này cũng chưa nhận được tin tức Lý Nghĩa phản bội mở cửa thành Cự Lỗ Khẩu dẫn giặc Thát vào quan ải.
Đằng xa người ngựa tung bụi mịt mù, bóng giặc vừa hiện, Dương Lăng liền quyết đoán, lập tức hạ lệnh:
- Hứa Thái, Liễu Bưu, lập tức điều đại quân bảo vệ núi, cố thủ, chờ viện binh.
"Cố thủ", chỉ hai chữ, song lại hàm chứa trong đó biết bao sự chém giết đẫm máu. Ngửi thấy được mùi máu tanh trong đó, Hứa Thái và Liễu Bưu bèn nghiêm nghị nghe lệnh. Nghe xong Liễu Bưu liền hỏi:
- Đại nhân, vậy chúng ta làm gì với năm nghìn thiết kỵ của Đóa Nhan Tam Vệ?
Dương Lăng nhìn xuống dưới núi, nơi đại quân Đóa Nhan Tam Vệ tập kết. Trên và dưới núi có tổng cộng hơn một vạn hai nghìn quân Minh, cộng thêm đội quân Đóa Nhan Tam Vệ tràn trề sinh lực thành gần hai vạn nhân mã, như thế ít nhất có thể thủ ngọn núi này được một ngày. Giặc Thát tuy kiêu dũng, song không có quân số gấp mấy lần thì làm sao có thể đánh tràn lên núi được?
Dương Lăng thầm tính toán: "Toàn bộ binh lực của Bá Nhan Khả Hãn có khoảng hơn bảy vạn. Trải qua gần hai tháng chiến trận tiêu hao cũng bộn, kẻ còn năng lực chiến đấu chưa tới sáu vạn. Bá Nhan có không tiếc hết thảy mà dốc toàn bộ binh lực đánh lên núi không? Cho dù sáu vạn đại quân cùng tẠcông lên núi Bạch Đăng, bọn ta cũng có thể thủ được một lúc. Chỉ cần giữ vững không đổ, Dương Nhất Thanh và Đỗ Nhân Quốc sẽ kịp kéo quân đến cứu viện.
Có điều... hiệp ước đồng minh mới vừa được ký kết, Đóa Nhan Tam Vệ vẫn chưa mò vớt được lợi ích gì, cái tên chuyên trờ cờ theo gió Hoa Đáng có sẽ chịu dốc toàn lực đối địch với Bá Nhan không? Có sẽ gặp tình thế không ổn liền lâm trận trở giáo không? Không được! Trước khi thắng bại chưa phân, quyết không thể dùng người của Đoá Nhan Tam Vệ!"
Nghĩ đến đây, Dương Lăng bèn bảo:
- Trước mắt, chỉ cần giữ được ngọn núi này là chúng ta sẽ thắng, không cần cùng Bá Nhan so đo thiệt hơn nhất thời. Hãy cho điều đại quân lên núi, chia đóng ở khắp nơi để ngăn địch, dưới núi chỉ để lại ba nghìn binh mã và mọi súng pháo để kiềm chế nhuệ khí quân giặc, coi thế giặc mạnh yếu mà rút lên núi khi có thể. Còn về phần Đoá Nhan Tam Vệ... bản quan sẽ bảo Hoa Đáng điều bọn họ lên núi. Liễu Bưu, người của ngươi đứng chắn ở giữa, không thể để bọn chúng đến gần lều lớn.
Nhận lệnh xong hai người xuống núi, Dương Lăng trèo lên một tảng đá to, nhìn về nơi xa. Đội kỵ binh đen kịt không ngừng hiện ra ở phía chân trời, ùn ùn kéo tới như thủy triều, khí thế lẫm liệt ngất trời. Dương Lăng chỉ cảm thấy trong miệng đắng nghét...
Đứng trong ngôi đình nhỏ vừa được xây trên đỉnh Bạch Đăng, Chính Đức và đám người Hoa Đáng phóng mắt nhìn ra xa cũng đã phát hiện đại quân bất tận đang dần kéo đến, nhất thời lại không rõ đã xảy ra chuyện gì. Mặc dù không hiện lên trên mặt song ai nấy đều đã nổi trống trong lòng.
Đúng vào lúc này, thấy Dương Lăng dẫn sáu tay thân binh khoan thai trở về từ sơn khẩu, Chính Đức lập tức tranh hỏi trước:
- Dương khanh, đã xảy ra chuyện gì vậy?
Bọn người Hoa Đáng cũng dỏng tai lên nghe câu trả lời của y. Dương Lăng điềm tĩnh mỉm cười đáp:
- Hoàng thượng trù tính thật không sai! Quả nhiên Bá Nhan trúng kế, đã dẫn đại quân đến tấn công núi Bạch Đăng!
Thoạt tiên Chính Đức thấy lạ, nhưng hắn cùng Dương Lăng vốn là đôi bạn học sinh xấu từng cùng nhau lừa gạt Thái phó ngày xưa, có thể nói là ăn ý vô cùng, nên chỉ hơi thoáng kinh ngạc liền vỗ tay cười bảo:
- Hay lắm! Đến thật hay!
Bọn Hoa Đáng nghe nói Bá Nhan dẫn đại quân đến tấn công thì sợ đến nhảy dựng. Khoảng một vạn người ở đây có thể là đối thủ của Bá Nhan sao? Nhưng nghe hai người một vua một tôi này trò chuyện, mặt đầy vẻ mừng rỡ như cố ý dụ hắn đến vậy. Hoa Đáng bèn nén lo lắng trong lòng, nghi hoặc hỏi:
- Thiên Khả Hãn, đằng xa kia... là quân đội của Bá Nhan ư? Bọn chúng... sao bọn chúng đã vào được quan ải rồi?
Chính Đức thoáng ngừng lại, cười khan mấy tiếng, rồi cố làm ra vẻ thần bí bảo:
- Dương khanh, khanh hãy nói cho Thuận Minh vương hay đi.
- Thần tuân chỉ! - Dương Lăng vái một vái rồi đứng thẳng người lại, mỉm cười nói với Hoa Đáng - Khả Hãn Thuận Minh, ngài nghìn dặm xa xôi đến gặp Hoàng thượng, Hoàng thượng liền muốn tặng một lễ vật lớn đến cho ngài. Tuy nhiên vốn chúng ta không biết Bá Nhan có mắc lừa hay không cho nên khi nãy đã không báo trước cho ngài hay.
Rồi y nâng vạt mãng bào bước lên bậc thềm, đứng trong đình đưa mắt nhìn về phía đoàn người ngựa đang cuồn cuộn kéo đến mỗi lúc một gần. Y chỉa tay trỏ vào chúng thản nhiên cười nói tiếp:
- Ngài xem! Bá Nhan xâm phạm biên cương Đại Minh ta, tuy bị hao binh tổn tướng khá nhiều nhưng vẫn chưa bị thương tổn đến gốc rễ. Hắn vẫn còn binh cường mã tráng, thêm sức hiệu triệu từ xuất thân hoàng tộc không ai sánh bằng, một khi hắn trở về được thảo nguyên thì cho dù có nội loạn đi chăng nữa, cũng vẫn sẽ không dễ đối phó. Tuy nhiên, nếu khiến cho mười phần nhân mã của hắn hao tổn hết sáu bảy phần, thì Khả Hãn Thuận Minh vừa được khâm phong sẽ có thể đứng vững. Vì vậy...
Dương Lăng xoay người lại, rất tự nhiên chìa tay mời mọi người vào lều, đoạn dẫn Chính Đức và các vị thủ lĩnh vừa nghe y nói vừa theo y rời khỏi đình bước vào trong lều.
Dương Lăng đi đầu, nhân cơ hội nghiêm mắt ra hiệu cho Ngũ Hán Siêu. Ngũ Hán Siêu hiểu ý, bắt đầu lặng lẽ bố trí đám đại nội thị vệ khống chế cả căn lều.
Đợi mọi người ngồi vào chỗ, Dương Lăng bước ra sau bàn thoải mái nói tiếp:
- Vì vậy, Hoàng thượng cố ý tung tin tức về việc ký kết hiệp ước đồng minh khắp phố thị Đại Đồng, để gian tế Thát Đát truyền ra ngoài quan ải. Quả nhiên Bá Nhan không cưỡng được cám dỗ nên dốc hết binh lực mưu đồ tấn công núi Bạch Đăng, hòng hốt trọn Hoàng thượng và các vị thủ lĩnh một mẻ.
Ha ha, Khả Hãn dâng biếu đức vua trọn con dê nướng tươi ngon, đây hẳn là lễ tiết cao quý nhất của các vị đúng không? Hôm nay đức vua vạn tuế của chúng tôi sẽ thưởng lại cả một con sói nướng, mong Khả hãn Thuận Minh và các vị thủ lĩnh vui lòng nhận cho!
Trong lều liền ồn ào một hồi. Dương Lăng ngồi xuống nghiêm chỉnh, bình tĩnh như không, phất tay áo cả cười:
- Bá Nhan được xưng là kẻ dũng mãnh của thảo nguyên, nay xem ra cũng chỉ là phường thất phu sính dũng, có gì mà đáng nói chứ? Chúng ta chỉ cần cười nói chuyện trò liền khiến hắn tan thành mây khói!
"Ầm... ầm ầm..." mấy quả địa lôi bị giẫm phải phát nổ rất đúng lúc. Tiếng nổ đinh tai, cùng tiếng người la ngựa hí như chứng minh lời nói của Dương Lăng.
Trong mắt Ngân Kỳ lóe lên vẻ kỳ dị. Đây là lần đầu tiên nàng có dịp nhìn thẳng vào anh chàng người Hán hào hoa phong nhã không thèm đặt cả đệ nhất anh hùng thảo nguyên vào mắt này.
Ánh mắt Hoa Đáng lập loè, giọng bán tín bán nghi:
- Nói như vậy, Thiên Khả Hãn đã sớm bày bố trọng binh, đặt bẫy nhằm dụ Bá Nhan vào tròng rồi?
Chính Đức nổi doá trong bụng: "Bá Nhan đã vào quan ải rồi sao? Dương Nhất Thanh đánh trận kiểu gì vậy? Trở về trẫm sẽ tìm hắn tính sổ tiếp! Có điều... may mà Dương thị độc giữ được bình tĩnh, giữ mặt mũi cho trẫm. Nếu mà y hoang mang lúng túng, bối rối chạy vào bẩm báo, chẳng những trẫm sẽ mất sạch mặt mũi oai phong, mà ngay cả lão cáo già Hoa Đáng này nữa; nếu lão không trở giáo ngay lập tức thì cũng sẽ sợ đến mất mật, không bao giờ còn dám thiết lập đồng minh với một láng giềng yếu đuối như trẫm nữa."
Tiếng nổ do người ngựa đạp phải địa lôi không ngừng vọng lại, Hoàng đế Chính Đức cũng nhoẻn miệng tươi cười, ra vẻ đắc ý nói:
- Dĩ nhiên rồi!
Ánh mắt hắn chạm ánh mắt Dương Lăng, cả hai đều đọc và hiểu được ý tứ của nhau: "Trận đánh này đã đổ xuống đầu rồi, vậy thì bắt buộc phải đánh thôi, mà còn phải đánh cho thắng trận. Bằng không, chẳng những về sau đừng mong nói đến việc thiết lập đồng minh diệt trừ mối họa Bá Nhan, mà ngay trước mắt cái mạng của mình cũng sẽ khó giữ."
Vẫn còn do dự lẫn nghi ngờ, Hoa Đáng bèn dò hỏi thử:
- Vậy... Binh mã tiểu vương mang theo tuy không nhiều, nhưng vẫn có thể tham gia chiến đấu. Hoàng thượng có cần tiểu vương dốc chút sức để chống đỡ không?
Dương Lăng đã thu hết vẻ mặt của hắn vào trong mắt, thừa cơ hội này y đứng dậy bảo:
- Chúng ta đã là đồng minh, cùng dùng binh chung sẽ là chuyện sớm hay muộn thôi. Hôm nay kề vai tác chiến đúng là có thể bày tỏ thành tâm liên kết đồng minh của đôi bên. Tuy nhiên đại quân của Khả Hãn còn phải bảo hộ ngài trở về Đoá Nhan Tam Vệ nên không thể để hao tổn quá nhiều, xin Khả Hãn hãy sai người thông tri thuộc hạ tạm thời lên núi. Đợi đến khi quân Đại Minh của ta đã bao vây, chuẩn bị tiêu diệt kẻ địch mới hãy cho thấy oai phong của Đoá Nhan Tam Vệ!
Nói đoạn y bước tới trước bàn rồng của Chính Đức, giở thảm lên, kéo một cái móc sắt mở tấm cửa sắt lớn ra, lộ một cái hang bí mật. Trong hang đuốc tỏ sáng trưng, hiển nhiên là được thông gió từ một mặt khác.
Dương Lăng quay lại bảo:
- Trên chiến trường, tên lạc bay khắp bốn phía. Nhằm phòng ngừa bất trắc, xin mời Hoàng thượng và thủ lĩnh các bộ lạc vào trong lánh tạm.
Y nghĩ rằng khống chế được thủ lĩnh các bộ lạc vào trong tay thì mới có thể đảm bảo bất luận xảy ra nguy cấp như thế nào đi nữa, Đoá Nhan Tam Vệ cũng vẫn không dám trở mặt. Nếu thật sự đã đến lúc lửa xém chân mày thì y cũng sẽ không cần để ý đến thể diện cái con mẹ gì nữa hết, có phải kề đao lên cổ Hoa Đáng đi nữa cũng sẽ bắt Đoá Nhan Tam Vệ mang binh tham chiến.
Khi thấy Dương Lăng nói không cần binh sĩ của mình tham chiến thì Hoa Đáng đã tin được tám phần, lại thấy nơi này còn xy sẵn hang động đề phòng bất trắc thì tin hết mười phần. Lúc này không theo Thiên Khả Hãn đánh chó đang rớt xuống nước(*)... không, nướng cả con sói, thì còn lúc nào tốt hơn để mà biểu lộ lòng thành đây? Xem ra lần này sẽ không đứng nhầm phe rồi. Thật là may quá! Thật là may quá!
(*: ý là hùa vào đánh hôi kẻ đang yếu thế)
Hoa Đáng lập tức đứng dậy, khẳng khái lựa lời chối từ:
- Thiên Khả Hãn! Tiểu vương may được Thiên Khả Hãn ban tước vẫn chưa lập được tấc công lao nào. Đôi bên đã kết làm đồng minh thì phải nên cùng chung kẻ thù, cùng nhau sống chết!
Tuy rằng Thiên Khả Hãn dụng binh như thần, sớm đã chuẩn bị sẵn, không để mắt tới năm nghìn binh mã của Tiểu vương, nhưng Tiểu vương há có thể không tận chức trách của bầy tôi? Xin Thiên Khả Hãn ân chuẩn cho đại tướng Mã Cáp Lư dưới trướng Tiểu vương dẫn quân hiệp lực tác chiến. Tiểu vương và thủ lĩnh các bộ lạc sẽ ở đây bầu bạn cùng Thiên Khả Hãn, chậm rãi chờ đợi thần binh thiên triều diệt sạch kỵ binh cọp sói của Bá Nhan!
Chính Đức che miệng ho khan một tiếng, rồi hơi nhíu mày, ra vẻ "bất đắc dĩ":
- Nếu đã như vậy... Dương khanh, vậy cứ theo ý tốt của Thuận Minh vương! Năm nghìn binh mã này, khanh sẽ chỉ huy luôn vậy!
Nói xong hắn bèn quay sang Hoa Đáng, cười nói:
- Năm xưa Đoá Nhan Tam Vệ phò vua dẹp loạn, lập được công trạng lẫy lừng. Hôm nay vua tôi chúng ta một lần nữa lại tay nắm tay, cũng có thể xem là một giai thoại đó. Ha! Ha! Ha!...
Nhận được sự động viên to lớn, Hoa Đáng bèn đứng dậy quát:
- Mã Cáp Lư!
Từ trong đám tướng lĩnh thị vệ đứng trước lều, một tay tráng niên mắt cọp râu rồng dạ một tiếng rồi bước ra, quỳ một gối thưa:
- Xin đại thủ lĩnh dặn bảo!
Hoa Đáng lớn giọng ra lệnh:
- Lập tức điều động binh mã! Mọi hành động tiến lui, tác chiến giết giặc đều nghe theo lệnh dụ của Dương Lăng Dương đại nhân!
Chương 209: Vũ Khí Hóa Học
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Ngân Kỳ nhìn y thật lâu không chớp mắt, cổ tay thoắt lật, thanh loan đao lại tra soạt vào trong vỏ. Nàng cười mỉm:
- Người Hán các người thật sự rất giảo quyệt, lời đại nhân vừa nói nghe thật xuôi tai. Thực ra nói đi nói lại chẳng qua là đại nhân cho tôi biết rằng nếu các người chết sạch thì chúng tôi cũng sẽ không sống nổi mà thôi.
Hừ! Tôi nói cho ngài biết! Bá Nhan đã từng xin phép cha tôi được cầu hôn, chỉ cần tôi đồng ý gả cho Bá Nhan, Đóa Nhan Tam Vệ cũng quy thuận Thát Đát thì chúng tôi còn có đường sống. Cho nên chúng tôi sẽ cố sức giúp đỡ ngài, nhưng nếu như người của các ngài không kịp thời kéo đến tiếp viện, nếu như toàn bộ thủ lĩnh các bộ lạc đều bị giết, tộc nhân chúng tôi sẽ bị thôn tính, sẽ bị giáng làm nô lệ.
Cho nên, khi mà núi này bị đánh đổ, nếu phải chọn giữa sự diệt vong của toàn tộc và quy thuận cầu sinh chúng tôi nhất định sẽ lựa chọn cái sau; còn tôi, tôi cũng sẽ tình nguyện vì tộc nhân mà dâng hiến thân mình!
Dương Lăng ung dung dẫn Mã Cáp Lư rời khỏi lều lớn, nhưng vừa khuất tầm mắt của những người trong lều y đã vội tăng tốc, bước nhanh đến sườn núi. Chủ lực quân Minh đã rải ra đến nửa ngọn núi, phòng ngự bốn phía, chỉ còn lại một ít quân binh dưới chân núi chấp hành kế sách bắn hết hỏa pháo là lui, nhằm kiềm chế nhuệ khí giặc, cố thủ chờ cứu viện của Dương Lăng.
Chiến mã hí vang, ánh lửa nổi lên bốn bề, một mớ bùn đất mang theo tuyết trắng bắn tung lên trời, trong làn khói mịt mù không ngừng có chiến mã đạp phải mìn ngã gục kéo theo cả người cưỡi. Thế nhưng dòng nước lũ xung phong vẫn không mảy may ngưng nghỉ. Cho dù có chiến mã chệch hướng vì sợ hãi thì kỵ sĩ trên ngựa cũng lập tức cố sức điều chỉnh cho nó xông về phương hướng chính xác.
Theo quán tính được tạo nên bởi hàng trăm hàng nghìn chiến mã cùng lao đi như tên bắn, tất cả mọi thứ trước mặt chúng đều trở thành mục tiêu bị san phẳng. Lúc này cho dù là kỵ sĩ cưỡi ngựa cao siêu đến cỡ nào cũng không thể ghìm cương chiến mã của chính mình. Bất kỳ chiến mã nào dừng lại sẽ lập tức trở thành một chướng ngại không đáng kể, chỉ trong khoảnh khắc sẽ bị giẫm thành bùn nhão, không chút lưu tình.
Cờ sói tung bay, vô số chiến mã giẫm tuyết đạp bùn, cuồn cuộn ào tới. Giáo kích dày đặc như rừng, đao thép sáng bóng như tuyết để lộ mũi đao sắc lạnh đến thấu xương, tiếng vó ngựa như sấm, đinh tai nhức óc. Hứa Thái mặt xám nghoét, trán vồng gân xanh, hai tay nắm chặt thanh đao nhìn chằm chằm vào đội kỵ binh Mông Cổ đang không ngừng tiến sát tới gần. Những kỵ binh xông tới gần nhất đã rút cung lắp tên, Hứa Thái vẫn chưa hạ lệnh khai hỏa.
"Vù", như một đám ong vàng bay vút lên trên cao, lang nha tiễn mang theo tiếng rít khát máu lao tới. Tất cả binh sĩ đều cấp tốc tránh ra đằng sau những tấm cự thuẫn to cao bằng đầu người, đồng thời giơ tấm chắn tròn lên bảo vệ đỉnh đầu.
"Cộp... cộp cộp cộp...", trên mặt thuẫn phủ đầy một lớp tên, có một ít tên xuyên qua khe hở cự thuẫn bắn trúng người binh sĩ, có kẻ rú lên ngã xuống. Chỉ sau khoảnh khắc, lại có tiếng "cộp cộp cộp..." vang lên. Loạt tên thứ hai đã tới.
Cưỡi ngựa bắn tên là bản lĩnh sở trường của kỵ binh Mông Cổ, có khá nhiều chiến sĩ có thể bắn được hơn mười mũi tên trong vòng một hơi thở. Nếu như một đại đội kỵ binh Mông Cổ đang hùng hổ xông tới, bọn họ có thể bắn khoái tiễn dày đặc vừa xa vừa chính xác ngay trong giây phút tiếp cận địch đầu tiên, lợi hại vô cùng. Nếu phe địch cũng dùng cung tên đối đầu thì lập tức sẽ phải rơi ngựa quá nửa.
Hứa Thái kiêu dũng thiện chiến, đã từng xâm nhập vào đại mạc nên đã quen thuộc chiến thuật này của địch. Hơn nữa, tuy Độc Hỏa pháo rất thích hợp để đối phó với kiểu xung phong nghìn nghịt người ngựa như thế này nhưng tầm bắn không xa. Nếu như khai hỏa khi đại đội kỵ binh của giặc chưa xông vào tầm sát thương, tuy có thể khiến một số chiến mã địch trong vùng đạn pháo phải hoảng sợ, nhưng trong khi quân ta nạp lại đạn, kỵ binh Mông Cổ mau lẹ như gió đã có thể xông tới trước mặt rồi. Chỉ cần nắm bắt thời cơ không chuẩn thì thứ được gọi là "vũ khí sắc bén" đó sẽ biến thành que cời lò, không còn đất dụng võ.
Loạt tên thứ ba như mưa trút xuống cự thuẫn, lại có một ít sĩ tốt không kịp đề phòng bị trúng tên ngã xuống. Lúc này Hứa Thái mới gằng giọng rống to:
- Bắn!
Kỵ binh Mông Cổ đã xông qua khỏi vùng gài mìn dần dần xông đến, chỉ cách khoảng ba mươi trượng. Từng họng pháo đen ngòm phun ra những ngọn lửa tử thần. Trong một loạt tiếng gầm đinh tai nhức óc đầy giận dữ, hàng nghìn hàng vạn viên đạn chì, đá, đinh sắt đã bắn trả lại với tốc độ còn nhanh hơn cả tên sắc, quét ngang qua luồng đại quân Thát Đát đang ồ ạt xông đến gần.
Dưới nhát quét ngang của cơn mưa sắt thép, những chiến sĩ Mông Cổ kiêu dũng và chiến mã mạnh mẽ như rồng đã không thể dùng thân thể xương thịt của mình để ngăn đỡ. Lập tức những kẻ đương đầu đều bị thổi tung! Người ngã ngựa đổ, thuẫn gỗ nát tan, thuẫn sắt cũng biến thành cái sàng, tuột tay bay lên không trung. Dưới uy lực khủng bố như đất rung núi lở của hỏa pháo dày đặc, những binh sĩ Mông Cổ chỉ mặc áo da, giáp da biến thành một đống lá quay cuồng trong bão táp, tức thì bị cuốn phăng xuống đất bụi.
Đòn phản kích này thực ác liệt, hỏa pháo bắn thẳng vào giữa đội hình xung phong dày đặc đã tạo nên tổn thất khủng khiếp: có gần một nghìn dũng sĩ ngã ngựa, hơn năm trăm thớt ngựa bị mù, toàn thân đẫm máu đang la hí giãy giụa. Khí thế không thể ngăn trở của kỵ binh Mông Cổ vì thế mà khựng lại.
Nhân thời cơ này Hứa Thái ra lệnh lắp tiếp đạn dược vào hỏa pháo. Đồng thời hắn vẫn còn hai mươi khẩu vẫn chưa khai hỏa đang sẵn sàng đón địch, điều này nhằm tránh cho khoảng thời gian giữa hai loạt bắn quá lâu.
Bá Nhan cũng hạ lệnh quyết tử. Hắn quát tháo ra lệnh cho đại tướng thân tín của mình là Bác Đạt Nhĩ Mô lập tức tổ chức xung phong, nội trong khoảng thời gian ngắn nhất phải công phá được phòng ngự dưới chân núi.
Trận đánh hôm nay không dùng đến bất cứ mưu lược gì, mục tiêu duy nhất của hai phe công và thủ đều là ngọn núi này. Quân Thát Đát chỉ cần đánh chiếm được ngọn núi này thì sẽ thành công toàn diện, bằng không mọi thứ sẽ kết thúc. Bản thân là đại tướng tâm phúc của Bá Nhan, Bác Đạt Nhĩ Mô biết rõ tầm quan trọng của thời gian. Hắn lập tức cùng phó tướng là Hất Lâm Đạt Đạt mỗi người dẫn hai nghìn kỵ binh, bày trận hình cánh nhạn từ hai bên đánh thốc vào chân núi. Được đại tướng dẫn đầu làm gương xung phong lên trước, đám binh sĩ vừa la hét vừa liều chết xông lên, hai mắt đỏ ngầu.
Hứa Thái cười nhạt, chờ cho bọn chúng đến gần, độc hỏa pháo vốn không cần nhắm chuẩn chỉ hơi quay nòng, một loạt đinh sắt, đạn chì tròn dày đặc lại được bắn ra. Kỵ binh Mông Cổ không chỗ náu thân, thuẫn sắt và áo giáp đều không hề có tác dụng gì, người ngựa lại ngã rạp một mảng lớn.
Trong đợt xung phong này, phó tướng Hất Lâm Đạt Đạt bỏ mạng tại chỗ, Bát Đạt Nhĩ Mô mù một mắt, miệng sứt một miếng to lộ rõ hàm răng trắng hếu, song hắn vẫn dẫn đám binh sĩ còn lại liều mạng xông lên.
Trận địa quân Minh cũng có hơn trăm binh sĩ bỏ mạng dưới mũi tên của kỵ binh Mông Cổ, không kịp nạp thêm đạn dược. Trong khói thuốc mịt mù, số binh sĩ Mông Cổ chưa chết lại được hai mươi khẩu đại pháo gầm thét khạc lửa đón tiếp, chỉ kịp bắn được hai loạt tên liền bị quét rơi rụng.
Nhân cơ hội này, Hất Khắc Nông liền tập kết ba nghìn tinh kỵ lại chia làm ba cánh trái giữa phải, tức tốc xông lên. Bá Nhan rỉ máu trong lòng, đây đều là bộ hạ chính quy của hắn. Nhưng lúc này không phải là lúc bo bo giữ riêng quân cho mình, bất kể phải trả cái giá lớn như thế nào, hắn nhất định phải đánh chiếm cho được núi Bạch Đăng.
Chuyến này hắn điều động tinh binh các bộ lạc với quy mô lớn để cướp bóc biên quan, đương nhiên trước tiên là để báo thù cho con của hắn, nhưng nguyên nhân quan trọng hơn đó là: Hoàng đế nhà Minh vừa mới băng hà, thiên tử mới lên ngôi là một thằng nhóc chỉ mười sáu tuổi; chúa còn nhỏ tuổi thì lòng nước chưa an, đây vốn là cơ hội tốt nhất để xâm chiếm đất đai trung thổ. Nhưng hắn không hề ngờ tên tiểu hoàng đế này không hề yếu kém chút nào, thậm chí còn hiếu chiến hơn cả vua Hoằng Trị cha nó.
Chẳng những tiểu hoàng đế mau chóng điều động trọng binh đến biên quan phòng ngự mà tướng lĩnh được phái đi còn hữu dũng hữu mưu, đại quân Thát Đát bị kiềm chân khó thoát, đã hao sạch quân nhu. Càng khiến hắn bất ngờ chính là quân Minh xưa nay chỉ thủ không công, từ sau trận chiến Thổ Mộc Bảo đã coi đại mạc là chốn vô cùng nguy hiểm, mà nay lại dám mạo hiểm phái một nhánh kỳ binh quét ngang qua đại mạc đang trống trải.
Bởi vì ba trăm thân vệ đảm trách việc giam lỏng Mãn Đô Hãi đều bị diệt sạch, cho nên hiện tại hắn vẫn chưa biết hoàng hậu Mãn Đô Hải uy danh khắp đại mạc đã rơi vào trong tay Đại Minh. Nhưng trước lúc xuất binh hắn đã âm thầm cài thám mã giám thị hành vi các bộ lạc. Tin tức các bộ lạc bị tập kích, dê bò bị giết sạch, cỏ khô tích trữđốt trụi đã lặng lẽ được đưa tới. Tin tức này chẳng khác nào là muối sát vào vết thương của Bá Nhan vừa mới chiến bại.
Hiện tại hắn vừa mới dùng vũ lực đàn áp, thống nhất đại mạc, một khi hắn phải chịu áp lực nặng nề như thế này, ắt các bộ lạc có dã tâm sẽ rục rịch ngóc đầu dậy, cục diện đại mạc mới vừa thống nhất ắt sẽ lại sụp đổ tan tành. Con đường thoát duy nhất chính là giết chết Hoàng đế nhà Minh. Thắng lợi trọng đại về mặt quân sự này có thể thay đổi toàn bộ những vấn đề đang tồn tại trên thảo nguyên, khiến uy vọng cá nhân hắn đạt tới một đỉnh cao chưa từng có. Tất cả mọi chất vấn và chỉ trích sẽ do chiến công lẫy lừng này mà tan thành mây khói.
Gặp thời cơ Di Lặc giáo chủ động hợp tác, trao cơ hội cho hắn nên vốn bị dồn đến bước đường cùng, Bá Nhan lập tức dấu nhẹm tin tức bên trong đại mạc bị càn quét, dồn sức dốc sạch vốn liếng đánh núi Bạch Đăng. Công phá quan ải chớp nhoáng, kỳ binh xuất hiện đột ngột, ai sẽ có thể ngờ được bọn họ sẽ từ trên trời rơi xuống? Năm xưa, cũng chỉ với năm vạn nhân mã mà Thát Đát đã đánh bại năm mươi vạn quân Minh, bắt sống Hoàng đế nhà Minh. Hắn là con cháu của Thành Cát Tư Hãn dũng mãnh, chẳng lẽ nắm gần năm vạn nhân mã còn không giết được Chính Đức chỉ có hơn vạn nhân mã hộ vệ sao?
Chỉ cần giết được Chính Đức, triều đình nhà Minh sẽ như rắn mất đầu. Hiện tại các đại thần thân tín nắm quyền của Chính Đức và những bá quan thất thế muốn chất vấn phản công đang đấu đá nhau túi bụi. Đến khi Chính Dức bị giết, các vương gia tranh giành thừa kế ngai vàng sẽ khiến triều đình nhà Minh đã loạn càng thêm loạn. Lúc đó, cho dù chiếm không được Đại Đồng, không thể thừa cơ kiếm chác chén canh thì hắn cũng vẫn có thể ung dung trở về đại mạc nghỉ ngơi dưỡng sức.
Còn về phần gần mười vạn đại quân của Dương Nhất Thanh, hắn không thèm để mắt tới. Quân của Dương Nhất Thanh chia ra trú đóng tại các quan ải, vệ sở và thành lũy rải rác khắp Trường Thành, tổng binh lực tuy hơn hắn, nhưng binh lực có thể cấp tốc tập trung ở lân cận Đại Đồng không thể hơn. Hơn nữa hoàng đế Đại Minh đang ở đây, quân Minh không có thời gian để thong thả bố trí, binh mã các lộ ắt sẽ không tiếc tất thảy mà kéo tới xả thân cứu giá. Khắp quan ải Trường Thành sẽ đầy chỗ hở.
Cho nên chỉ cần hắn có thể tranh thủ giết được Chính Đức trước khi Dương Nhất Thanh tập trung được binh mã, thì hắn sẽ có thể lợi dụng ưu thế cơ động của kỵ binh mà ung dung nhảy ra khỏi vòng vây của quân Minh mà cao chạy xa bay. Hiện tại hắn phải cần tranh thủ thời gian, bởi vì hắn chỉ có cơ hội đánh một trận này. Cho dù lúc này chính là lúc dùng tấm thân máu thịt để giành đường sống, hắn cũng không nuối tiếc.
Đại quân của Hất Khắc Nông xông tới, đại pháo vừa được vội vàng lắp đạn lại khai hỏa, mặt đất rung chuyển, để lại một đống xác chết. Dưới nghiêm lệnh của Bá Nhan, quân Thát vẫn như thủy triều tràn tới, hết đợt sóng này đến đợt sóng khác. Hứa Thái lập tức quát ra lệnh cho nhân mã rút lui lên núi. Đám binh sĩ bắt đầu di chuyển lên núi dưới sự yểm trợ của lính cầm thuẫn và hỏa súng. Pháo thủ kéo ngòi nổ thật dài vào trong đống đạn dược, rồi rút lui khỏi trận địa sau cùng.
Giặc Thát kéo đến xông lên núi như sói như cọp. Đội quân tiên phong mới vừa ruổi ngựa lấy đà phi như bay xông lên đến lưng chừng núi thì thuốc súng chôn dưới núi đã nổ tung. Chân gãy tay cụt, máu bắn như mưa, một cái đầu ngựa to đùng bắn tung lên giữa lưng chừng núi rồi rơi bộp xuống đất, cặp mắt ngựa trợn trừng khiến người ta trông thấy phải rét run.
Thiên phu trưởng Ô Châu Mục Sấm ghìm ngựa quay đầu nhìn, đội hình xung phong bị nổ tung thành một cái hố máu rộng đến chục trượng, bên cạnh mình còn khoảng hơn ba trăm người. Chỉ cần xông lên được tới đỉnh, cho dù chỉ chiếm cứ trong khoảng thời gian một chén trà, bộ đội theo sau sẽ có thể không ngừng ùn ùn xông lên núi. Hắn bèn rống to một tiếng, quát bằng tiếng Mông Cổ:
- Tiến lên! Hãy giết sạch người Hán như giết dê mổ bò!
Liên tiếp những tiếng reo hò trợ oai vừa mới cất lên, kỵ binh xông lên đầu đã nghiêng trái đổ phải, ngã rạp xuống ngựa. Trên sườn núi được đặt nhiều hố bẫy ngựa, chôn chông sắt, con đường chính giữa vốn được lót ván gỗ đã bị rút đi, mặc dù khi xông lên sườn núi tốc độ đã giảm bớt, nhưng chân ngựa bất chợt sa vào hố vẫn bị gãy ngang. Chiến mã bị chông sắt đâm bị thương cũng giãy giụa khó mà khống chế.
Ngay vào lúc này, một đội quân Minh giáp trụ sáng choang chợt xuất hiện trên đỉnh núi, Ô Châu Mục Sấm trông thấy sau lưng bọn họ đeo một lô những cây giáo có đuôi thì không kềm được hít một hơi dài, lập tức la to:
- Xuống ngựa! Nấp sau chiến mã!
Song đã không kịp nữa. Mấy trăm quân Minh đứng trên cao phóng những cây giáo dài một mét xuống, tạo thành những đường vòng cung tuyệt đẹp. Những cây giáo mang theo đà phóng mạnh mẽ thậm chí có thể xuyên qua cả đầu ngựa không chút khó khăn đã cắm xuyên vào thân thể người. Một loạt những tiếng "phập phập" vang lên, hàng loạt người vừa còn sống mạnh khỏe chỉ trong nháy mắt đã biến thành những thây ma lạnh ngắt.
A Lặc Thái dẫn đại quân xông lên. Mệnh lệnh hắn nhận được chỉ có một: "Bằng mọi giá phải mau chóng chiếm lấy ngọn núi, cho dù toàn quân bị diệt sạch." Sự phản kích của quân Minh mãnh liệt và thảm khốc không kém. Bọn họ cũng không có đường lui, nếu để giặc Thát xông được lên núi, thứ chờ đợi bọn họ chỉ là cái chết.
Súng tay của quân Dương Lăng và những tay thần tiễn người Đóa Nhan của Mã Cáp Lô tạo thành một sự kết hợp hoàn hảo. "Đoàng đoàng đoàng", một loạt đạn bắn ra, những tay súng lập tức lui về sau lắp đạn, nhường cung tiễn thủ của Đóa Nhan Tam Vệ và quân Thát Đát cùng sử dụng kỹ xảo thành thạo mà bắn lẫn nhau. Tên bay vun vút như mưa, có sĩ tốt bị súng bắn lủng lỗ chỗ như cái nia, cũng có người bị tên nỏ ghim thành con nhím. Song phương lấy sườn núi làm trận địa, thây chất thành tường, tiếng kêu rên vang khắp núi.
Dương Lăng đứng trên mỏm núi cao quan sát tình hình chiến sự. Chỗ này thế núi dốc đứng, giặc Thát không có cách nào tấn công lên đây, rất thích hợp để theo dõi cuộc chiến. Căn cứ vào tình huống binh lực tấn công lên núi của Thát Đát, Dương Lăng không ngừng đưa ra từng chỉ thị một: điều động chiến sĩ sử dụng vũ khí tầm xa như lính bắn súng và cung tiễn thủ, đồng thời cho đao thuẫn thủ, lính cầm thương và cầm côn chuẩn bị đánh giáp lá cà.
Giặc Thát tấn công như cọp điên, quân Minh đứng vững không lùi, hai bên trông hệt như hai con mãnh thú đang tranh ăn. Giành giật, giằng co, kẻ trước ngã xuống, người sau tiếp bước, thây chất mỗi lúc một nhiều khắp mặt đất, tiếng la hét gào thét vang tận mù xa.
Mã Cáp Lư căng thẳng nhìn quanh, cất giọng nghi hoặc:
- Dương đại nhân! Bá Nhan bất chấp thương vong, thế tấn công rất rát, Thiên khả hãn và thủ lĩnh các bộ lạc đều đang ở trên núi, như vậy thật quá nguy hiểm. Tại sao phục binh còn chưa xuất hiện?
Dương Lăng cười ha hả đáp:
- Mã Cáp Lư tướng quân không cần phải nóng ruột. Ngài hãy xem, nhân mã Bá Nhan tuy điên cuồng, nhưng trước sau vẫn khó mà vượt qua một bước. Hắn không ngờ trên núi chúng ta lại có đến hai vạn tinh binh, cứ tiếp tục cố thủ sẽ không thành vấn đề.
Nơi này đồng không mông quạnh, nếu bố trí phục binh quá gần thì sẽ bị Bá Nhan phát hiện ra ngay. Hiện đại quân của chúng tôi cần phải mất một thời gian nữa mới có thể kéo tới được. Đến lúc đó quân Bá Nhan đều người mệt ngựa mỏi, quân của chúng tôi sẽ quét sạch bọn chúng như lá khô, khiến hắn không thể trốn tránh ở bất cứ chỗ nào nữa!
Mã Cáp Lư nghe vậy thì hơi yên lòng. Hắn trông thấy sườn núi mé trái đang bị quân Bá Nhan tấn công rất rát, song phương đã bắt đầu đánh giáp lá cà giữa lưng chừng núi. Trong đám đông, tiếng gào thét điên cuồng như sấm dậy, theo sau mỗi tiếng gầm, đao quang lóe lên, bóng thương vun vút, thỉnh thoảng lại có người bị đâm, bị chém, trong chớp mắt nơi đó đã biến thành một lò mổ đầy máu thịt. Cung tiễn thủ trên núi vẫn đang bắn tên ngăn trở dòng quân Thát Đát cuồn cuộn xông lên.
Mã Cáp Lư không kiềm được bèn nói:
- Ta qua bên đó xem một chút. Cứu binh chưa tới, nhất định không thể để bọn chúng lên núi.
Không hề cảm thấy yên tâm, khi nãy Ngân Kỳ cũng đi theo ra khỏi lều soái. Nàng đang mặc trang phục thị vệ, lại thêm hiện tại Đóa Nhan Tam Vệ đang cùng quân Minh kề vai tác chiến cho nên Ngũ Hán Siêu không tiện ngăn cản, bèn để mặc nàng đi theo Dương Lăng ra ngoài.
Ngân Kỳ đứng một bên liếc mắt sang, cẩn thận quan sát vẻ mặt Dương Lăng rồi chợt mở miệng hỏi:
- Nghe nói tướng quân nhà Minh càng ở xa Hoàng đế thì đánh càng hăng, càng có Hoàng đế bên cạnh thì càng sợ bóng sợ gió, sợ này sợ nọ.
Thiết kỵ Thát Đát lui tới như bay, các người muốn bắt được cái bóng của hắn cũng khó. Hiện các người lấy Hoàng đế làm mồi dụ đại quân của hắn lại, rồi lại bao vây từ bên ngoài. Thoạt nghe thì thấy kế rất hay, nhưng nếu như viện quân chậm trễ không đến kịp, bản thân các người sẽ bị người ta tiêu diệt mà theo tình hình hiện nay cũng sẽ liên lụy đến cả chúng ta, cũng sẽ bị quân Thát tiêu diệt chung với các người.
Làm sao mà Dương Lăng chẳng khẩn trương cho được? Vốn ước định cùng nhau nếu núi Bạch Đăng gặp nguy hiểm thì liền nổi khói hiệu để Đại Đồng phái quân cứu viện. Hiện tại tổng binh Đại Đồng nhận được tin đã phái Hứa Thái đến hộ giá, thì không có lý do gì không có quân đội tiếp tục đến chi viện, trừ khi thành Đại Đồng cũng đã bị tấn công.
Nếu quả là như vậy, chỗ y có thể gởi gắm vào cũng sẽ chỉ còn có nhân mã của Dương Nhất Thanh. Nhưng binh mã Dương Nhất Thanh chuyên phòng thủ biên giới, kỵ binh rất ít. Cho dù hắn ta cố sức thúc quân chạy về cứu viện thì cũng phải cần đến hơn một canh giờ; đến lúc đó quân lính đã thành nỏ mạnh hết đà, còn lại bao nhiêu chiến lực thật không thể nói trước được.
Sợ nói nhiều sẽ lỡ lời, Dương Lăng không dám trả lời thẳng vấn đề thứ hai. Y cố ý cười nói:
- Câu bình luận tướng quân càng ở xa Hoàng đế thì đánh càng hăng của cô nương hình như hoàn toàn không liên hệ gì tới sự lo lắng của cô nương trong câu thứ nhì thì phải. Không biết cô nói vậy là có ý gì?
Ngân Kỳ trợn tròn cặp mắt to đẹp nhìn y, hoài nghi:
- Bởi vì nó không giống như là ngài đang thực hiện theo mệnh lệnh Hoàng đế. Ngược lại... có vẻ như Hoàng đế không hề có bất kỳ ý tưởng gì, tất cả mọi thứ đều do ngài chỉ huy vậy. Các vị đã thật sự thương lượng phương cách dụ Bá Nhan đến thật sao? Không phải là đã trúng kế của Bá Nhan chứ?
Dương Lăng giật thót trong lòng, gượng cười hỏi lại:
- Sao cô nương lại nói như vậy?
Ngân Kỳ trề môi, đáp:
- Người Minh các người hết lòng bảo vệ Hoàng đế vô cùng, sẽ chịu mạo hiểm như vậy ư? Ta càng nghĩ càng thấy không hợp lý. Ngài xem đi, dưới núi thế công rất rát, các vị lợi dụng dịp ký kết hiệp ước để dụ Bá Nhan tới, song lại lung lay sắp đổ như thế này...
Vừa nói cô ta vừa bước tới cạnh vách núi, khom người nhìn xuống tình hình chiến đấu bên dưới.
Nghe vậy, Dương Lăng chợt nảy ý định giết người. Đóa Nhan Tam Vệ nổi tiếng là kẻ trở cờ theo gió, một khi biết được sự thật, quả thật không ai đoán được bọn họ sẽ đâm lao theo lao hay lâm trận trở giáo. Tiểu cô nương này luôn đứng bên cạnh Hoa Đáng, nhất định là người được hắn ta tin tưởng vô cùng, nếu để cô nàng quay về bẻm mép thì hơn vạn sinh mạng trên núi này rất có thể sẽ chôn vùi trong tay cô ả. Thậm chí giang sơn Đại Minh, còn cả những người thân của mình...
Chung quanh đều là thân binh của mình, tình hình chiến sự đang căng thẳng, sẽ không ai để ý đến bên này, chỉ cần mình đưa tay đẩy một cái...
Dương Lăng đấu tranh dữ dội trong lòng, một tay đã giơ lên cao nhưng không thể hạ quyết tâm giết người. Ngay lúc đó Ngân Kỳ đã xoay người lại. Vừa trông thấy ánh mắt của Dương Lăng, nàng đột nhiên cảnh giác bước tránh sang một bước, tay vịn vào loan đao giắt lưng, quát:
- Ta đã nói đúng rồi? Ngươi muốn giết ta?
Dương Lăng thoáng ngẩn người, gượng cười chống chế:
- Sao cô nương lại nói như vậy? Vô duyên vô cớ, tại sao tôi lại muốn giết cô?
Cặp mắt to tròn xinh đẹp vẫn nhìn chằm chằm vào y khiến Dương Lăng cảm thấy mặt mình nóng rực. Từ trước đến nay đây là lần đầu tiên y nảy ý định giết một người vô tội, mặc dù là để bảo vệ cho nhiều tính mạng, nhưng chẳng lẽ không phải y đang lợi dụng Đóa Nhan Tam Vệ ư? Trong lòng y dâng lên một nỗi hổ thẹn khó tả.
Ngân Kỳ hừ nhạt một tiếng, đáp:
- Bởi vì ngươi sợ chúng ta lật lọng, lâm trận trở giáo. Dương tướng quân, đừng coi chúng ta quá quắt như vậy. Phụ thân ta tuy đôi lúc ngả về phía Bá Nhan, song đó cũng là vì sự sống còn của cả bộ lạc mà thôi.
Đoạn nàng lắc đầu, thở dài rồi nói tiếp:
- Ngài yên tâm, hiện tại tôi đã lỡ trèo lên thuyền giặc của ngài, chỉ còn cách kiên trì tiếp tục theo ngài đến cùng. Lúc này mà trở giáo sẽ phải trả cái giá quá đắt, thế nên cho dù cha tôi có nghi ngờ, tôi cũng sẽ giúp ngài che giấu. Nhưng... chỉ mong đại quân của ngài thật sự có thể kéo tới kịp thời, bằng không ngài sẽ hại cả bộ tộc chúng tôi đấy.
Dương Lăng nghe mà thấy hổ thẹn không thôi. Y chợt quát lớn:
- Người đâu!
Thoáng chấn động cả người, Ngân Kỳ rút soạt thanh loan đao ra khỏi bao, mũi đao chĩa thẳng vào cổ họng Dương Lăng. Thị vệ nghe gọi xông đến gần trông thấy vậy lập tức ạt đao chĩa về phía Ngân Kỳ.
Dương Lăng thành khẩn nói:
- Trước kia Đóa Nhan Tam Vệ luôn dao động giữa Đại Minh và Thát Đát, không rõ chọn lưa bên nào, cho nên bản quan mới không yên tâm. Tuy nhiên cô nương nói đúng. Đại địch ngay trước mắt, chúng ta nên tin tưởng lẫn nhau, bắt tay nhau cùng vượt qua ải khó. Nếu như lúc này còn nghi ngờ lẫn nhau, vậy thật sự sẽ đồng quy vu tận thôi.
Ngân Kỳ nhìn y thật lâu không chớp mắt, cổ tay thoắt lật, thanh loan đao lại tra soạt vào trong vỏ. Nàng cười mỉm:
- Người Hán các người thật sự rất giảo quyệt, lời đại nhân vừa nói nghe thật xuôi tai. Thực ra nói đi nói lại chẳng qua là đại nhân cho tôi biết rằng nếu các người chết sạch thì chúng tôi cũng sẽ không sống nổi mà thôi.
Hừ! Tôi nói cho ngài biết! Bá Nhan đã từng xin phép cha tôi được cầu hôn, chỉ cần tôi đồng ý gả cho Bá Nhan, Đóa Nhan Tam Vệ cũng quy thuận Thát Đát thì chúng tôi còn có đường sống. Cho nên chúng tôi sẽ cố sức giúp đỡ ngài, nhưng nếu như người của các ngài không kịp thời kéo đến tiếp viện, nếu như toàn bộ thủ lĩnh các bộ lạc đều bị giết, tộc nhân chúng tôi sẽ bị thôn tính, sẽ bị giáng làm nô lệ.
Cho nên, khi mà núi này bị đánh đổ, nếu phải chọn giữa sự diệt vong của toàn tộc và quy thuận cầu sinh chúng tôi nhất định sẽ lựa chọn cái sau; còn tôi, tôi cũng sẽ tình nguyện vì tộc nhân mà dâng hiến thân mình!
Nàng nói một cách hết sức thản nhiên, ánh mắt trong veo như dòng suối. Lấy trinh tiết của chính mình để đổi lấy sự sống còn cho người trong tộc, điều mà những phụ nữ người Hán được hun đúc bởi tư tưởng coi trinh tiết to như trời cho dù có thực hiện được cũng ngượng miệng khi nhắc đến ấy, lại được nàng phát biểu một cách vô cùng thánh thiện.
Dương Lăng thoáng nghĩ ngợi, rồi trang trọng đáp:
- Được! Chúng ta cùng thỏa thuận một hiệp nghị quân tử. Nếu như có thể giữ được núi này, chúng ta sẽ dốc hết toàn lực cùng nhau giữ lấy. Khi đỉnh núi bị đánh chiếm, bản quan sẽ lấy thân đền nợ nước, mọi hành động của quý tộc sẽ do các người tự mình quyết định!
Ngân Kỳ đưa mắt chăm chú nhìn y, rồi cũng nghiêm túc gật đầu.
Dương Lăng quay sang bảo thị vệ:
- Đi nổi khói hiệu, cấp báo cho toàn bộ quan ải phụ cận biết!
Quân tiên phong Thát Đát giống như dùi đục đóng về phía trước, khí thế như thủy triều, sắc bén không gì cản nổi, chiến đấu quyết liệt với quân Minh ở khắp sườn núi. Giặc Thát không thể phát huy ưu thế của khoái mã, nhưng lại hơn ở chỗ đông người, ai nấy đều hung hãn; quân Minh đứng ở trên cao, chiếm được địa lợi, ai nấy cũng liều mạng, thề chết không lui.
Rừng giáo mưa tên, gươm sắc đầy trời, mấy vạn người quên sống mặc chết hò hét vang dội, cả chiến trường giết chóc sôi sục. Quân Thát đã xông được tới lưng chừng núi nhưng muốn bước thêm nửa bước đều phải đánh đổi bởi vô số máu tươi và tử thi chất đống. Với tình hình này, không quá một canh giờ thì bọn chúng cũng đừng hòng tấn công lên đến đỉnh núi, đến lúc đó ắt thế nào cũng sẽ có mấy đạo viện quân nhà Minh kéo tới.
"Vù", tiếng tên bay vút. Khi tiếng thét đập vào tai, một mũi tên nanh sói đã xuyên qua ngực một viên lính nhà Minh như một tia chớp. Mũi tên lộ ra sau lưng mang theo một đám hoa máu, lực bắn mãnh liệt vô cùng.
Tên giặc Thát vừa bắn trộm mới vừa lắp mũi tên thứ hai lên cung thì đã bị một tay hỏa súng bắn vỡ đầu. Hứa Thái và Lưu Đại Bổng Chùy, người cầm thương, kẻ cầm côn, thủ ở trước núi, binh khí ngầm mang theo tiếng sấm sét, như rồng độc quay cuồng, quét, đâm, khua... bên cạnh không ngừng có binh sĩ Thát Đát hung tợn và dũng mãnh ngã xuống. Chỉ hai người bọn họ đã đủ sức khống chế một vùng có bán kính mười lăm mười sáu bước, không kẻ nào có thể tiến lên. Sự oai hùng của hai ngưởi khiến sĩ tốt chung quanh nức lòng chiến đấu. Đao thuẫn thủ đã vứt thuẫn, hai tay cầm chắc thanh đao cùng giặc Thát quyết chiến.
Đây là một trận đánh ác liệt, thắng thua cuối cùng sẽ chỉ được quyết định bởi binh lực mạnh yếu, khí thế cao thấp của hai bên, mà không liên quan lắm đến việc điều bình khiển tướng trên chiến trường có hợp lý hay không, sự phối hợp giữa các tổ đội thuần thục nhiều hay ít, cùng với khí giới hay cách vận dụng mưu lược. Cho tới hiện tại, vẫn là phe thủ núi chiếm ưu thế.
Người chết chất thành gò trên sườn núi, chân tàn tay cụt khắp nơi, máu nhuộm khắp mặt đất, mùi máu tanh xộc vào mũi kích thích sát khí của mọi binh sĩ. Cung, đao, thuẫn, súng cùng triển khai, đao chém tên bắn như sóng vỗ; máu vấy giáp y cũng vẫn mặc kệ. Tất cả mọi người như trở nên điên rồ, không ngừng vung vũ khí, quên hết sinh tử, quên cả sợ hãi.
Dưới chân núi, Bá Nhan thúc ngựa chạy qua chạy lại, cổ vũ binh sĩ dũng cảm xông lên phía trước. Lúc này, mỗi khắc trôi qua thì hy vọng thành công của hắn càng nhỏ đi một phần, làm sao hắn không sốt ruột như lửa đốt trong lòng?
Lúc này, một tướng lĩnh Thát Đát hổn hển chạy lại bẩm:
- Đại Hãn, đã lắp xong bốn mươi khẩu pháo. Có dùng chúng để công phá núi không?
Bá Nhan nghe vậy liền cả mừng, lập tức gò ngựa hạ lệnh:
- Mau lên! Lập tức vận chuyển tới trước núi, dùng pháo công núi, phía sau tiếp tục lắp ráp. Dùng hết cả một trăm hai mươi khẩu đại pháo cho ta, để ta xem Chính Đức còn có thể trốn ở chỗ nào. Ha ha ha...
Một loạt kèn lệnh cất lên, giặc Thát đang công núi ào ào rút lui. Quâm Minh lấy làm ngạc nhiên:
- Giặc Thát lui rồi? Bọn chúng không tấn công nữa mà bỏ chạy sao?
Nhưng ngay sau đó bọn họ liền phát hiện quân địch đang đẩy mấy chục chiếc giá gỗ cao lớn về phía dưới chân núi, đằng sau mỗi chiếc giá là mấy trăm tên lính Thát Đát cầm dây thừng dài thật dài. Đó là thứ gì vậy? Đám quan binh đến từ Kinh doanh lấy làm lạ, nhưng quan binh dưới trướng Hứa Thái và chiến sĩ Đóa Nhan Tam Vệ lại lần lượt hét lên hoảng sợ:
- Pháo Hồi Hồi! Bọn chúng đã vận chuyển pháo Hồi Hồi tới!
Hứa Thái đanh giọng quát:
- Sợ cái gì! Nơi đây bốn mặt là bình nguyên, toàn là đất cát, bọn chúng lấy đá ở đâu mà bắn lên núi chứ?
Binh sĩ chung quanh nghe vậy mới cảm thấy hơi yên tâm.
"Pháo Hồi Hồi"(1) được tạo bởi những thanh gỗ lớn làm giá, kết nối với nhau bởi đai riềng kim loại. Trên giá đặt một trục pháo có thể chuyển động, trên trục là một thanh gỗ dài được bắt cố định làm "nòng pháo". Trên thực tế đây là một loại máy bắn đá, dùng để ném đạn đá, bên dưới hệ thống buộc hơn trăm sợi dây thừng, mỗi sợi do hai người cùng kéo, tầm bắn có thể đạt tới mấy trăm bước.
Sau khi quân Mông Cổ sử dụng pháo Hồi Hồi ném cự thạch phá hủy tường thành Tương Dương chỉ sau một loạt bắn, thì cuộc đại chiến Tương Dương kéo dài suốt ba năm mới tới hồi kết thúc. Loại máy bắn đá tương tự đã từng sớm xuất hiện vào thời Xuân Thu. Loại pháo Hồi Hồi này rất dễ lắp ráp, vào năm Tĩnh Khanh thời Bắc Tống, lúc tấn công Biện Lương, quân Kim đã từng lắp hơn năm nghìn khẩu pháo chỉ trong một đêm. Không ngờ để đánh chiếm núi thành công, Bá Nhan đã cho xe thồ vận chuyển một số lượng lớn khí giới đến lắp ngay gần chân núi.
Có điều không cách nào bọn chúng kiếm được "đạn" là đá tảng to lớn ngay tại chỗ để "bắn". Chiến mã Mông Cổ cho dù có khỏe cỡ nào cũng không thể kéo những tảng đá lớn nặng mấy trăm cân đi mấy chục dặm để tập kích bất ngờ như vậy. Rốt cuộc bọn chúng sẽ dùng thứ gì để công phá núi?
"Pháo Hồi Hồi" dừng lại dưới chân núi, khoảng cách này đã quá tầm nỏ mạnh, không thể gây thương tổn cho chúng. Quan binh trên núi chỉ có thể nắm chặt binh khí yên lặng chờ đợi.
Bá Nhan nhếch mép cười gằn. Hắn vốn không ngờ quân số trên núi lại sai lệch so với tin tình báo, hình như không chỉ nhiều hơn gấp đôi, cho nên thế công gặp phải trở ngại. Nhưng hắn có món lợi khí này, quân Minh lại chỉ dùng vũ khí thủ núi đơn giản thì sẽ còn có thể giữ được bao lâu?
Tuy máy bắn đá chủ yếu được dùng để ném những tảng đá lớn phá hủy tường thành, đè chết binh sĩ, nhưng lúc đại quân Mông Cổ tây chinh, trong trận chiến Vác-xa-va, bọn chúng lại chợt nảy ra diệu kế, khơi mào cho thời đại chiến tranh hóa học. Bọn chúng đã sử dụng pháo Hồi Hồi bắn một lượng lớn bong bóng có chứa khói độc vào thành, khiến cho toàn thành Vác-xa-va chìm trong thạch tín và khói độc.
Thấy được hiệu quả mới của thứ vũ khí này, lúc đại quân Mông Cổ tấn công Con-xì-tan-ti-nô-pô-li (nay là thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ), nhằm lúc dịch hạch hoành hành trong quân đội, quân Mông Cổ bèn dùng pháo ném luôn thi thể của quân sĩ mắc bệnh vào thành, khiến trong thành bùng phát bệnh dịch. Nghe nói thương nhân nhiễm dịch trong thành chèo thuyền trốn ra ngoài, mang theo khuẩn bệnh dịch hạch Châu Á này tới Châu Âu, dẫn đến việc gây ra cơn đại dịch "Cái chết Đen" mà người dân Châu Âu nghe đến là khiếp sợ. Trận đại dịch này đã cướp mất tính mạng một phần ba dân số Châu Âu lúc bấy giờ.
Sau khi nhà Bắc Nguyên tan rã, giặc cướp cưỡi ngựa tập kích biên giới chủ yếu chỉ nhằm cướp bóc. Ngoại trừ năm trước, lúc đánh chiếm Đại Đồng bọn chúng có sử dụng "pháo Hồi Hồi" để ném đá, còn lại rất ít khi dùng, cho nên ngay cả Hứa Thái cũng không nghĩ ra được ý đồ sử dụng vũ khí hóa học.
Dưới núi, những khẩu "pháo Hồi Hồi" đã được lắp đặt chu đáo. Một quả bóng lửa khổng lồ bay thẳng lên mỏm núi, rớt ầm xuống đất, một đám khói cay xè tức thì lan ra. Không biết bên trong bọn chúng nhét thêm những thứ gì mà quả bóng vỡ tan rồi lại vẫn cháy phừng phừng, bốc ra mùi cay đến sặc người.
Dưới núi, từng quả bóng khói lửa lại được ném lên núi như những ngôi sao băng...
(1) xem hình http://pic.baike.soso.com/p/20090103/20090103120000-104894.jpg (or http://baike.soso.com/v7484616.htm)
Chương 210: Có Quân Đến Cứu
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: Tàng Thư Viện
Vương Thủ Nhân chỉ mang mấy trăm người lao ra khỏi đội hình của Húc Nhật Can, cùng mấy ngàn binh mã hai cánh lao thẳng tới chiếc lều lông cừu phía trước.
Trong lều lông cừu là Đại Hãn Thát Đát và thủ lĩnh các bộ đã không còn đại quân bảo vệ.
Bắt giặc phải bắt vua trước!
Muốn cứu chỗ phải cứu của ta thì hãy tấn công chỗ phải cứu của địch trước!
Dù chiến sự thành Đại Đồng quyết liệt nhưng cũng không gian nan, nguy hiểm bằng ở núi Bạch Đăng. Tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc, kiêm giữ ấn Chinh tây Tiền tướng quân, thống lĩnh năm vệ, bảy sở, nhưng giờ đây phần lớn đại quân của ông ta lại trú đóng bên ngoài Trường Thành. Thành Đại Đồng lại có tường cao vững chắc nênthành chỉ có hai vệ quân coi giữ. Hứa Thái mang bảy ngàn người ngựa đi, trong thành chỉ còn lại hơn năm ngàn người.
Vốn Hỏa Sư nhận được mệnh lệnh là nội ứng sẽ mở cửa thành phía tây cho đại quân tràn vào. Với mười lăm ngàn quân tinh nhuệ của hắn thì cả tòa thành Đại Đồng lập tức sẽ trở thành món đồ trong túi, vì vậy ngay cả khí giới công thành hắn cũng không thèm mang theo. Nhưng khi quân khinh kị của hắn hào hứng chạy đến dưới thành phía tây lại bất ngờ bị quân coi giữ Đại Đồng bắn cho một trận mưa tên phải thối lui, Hỏa Sư tức giận đến mức chửi thầm trong bụng.
Khi thấy Bá Nhan tự mình dẫn đại quân đánh úp núi Bạch Đăng, Hỏa Sư cũng ghét chuyện tranh cướp công đầu của Khả Hãn, nhưng suy đi nghĩ lại hắn nhận định cho dù thị vệ bên người Hoàng đế không quá mười ngàn nhưng chắc chắn toàn là tinh binh, trận chiến đó nhất định sẽ rất khó khăn. Trong khi đó, quân của mình không cần tốn bao nhiêu công sức cũng hạ được Đại Đồng, thoải mái đốt giết cướp bóc có thể giúp đám sĩ tốt từng chịu đựng nhiều nỗi gian nan vất vả này kiếm được một mớ, tính ra cũng lời chán. Nào ngờ việc phòng ngự trên thành Đại Đồng rất nghiêm, chờ mãi vẫn không thấy nội ứng mở cửa thành, Hỏa Sư cho rằng Bá Nhan cố ý lừa mình, tuy nổi giận trong lòng nhưng phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Lúc này lại không thể một mình lui quân làm hỏng đại cục, hắn đành phải cố gắng cho quân khổ chiến.
Chặt cây tại chỗ đóng thành thang dài, đám binh lính cuồng nhiệt trong mắt chỉ có rượu mạnh, gái đẹp, vàng bạc lẫn tiền của ra sức leo lên không hề sợ hãi. Quân Minh coi giữ trên tường thành sớm đã bày trận chờ địch, dù gặp đại chiến mà vẫn ung dung kéo cung bắn tên, vác đá ném xuống, hàng loạt câu liêm vô tình đẩy những chiếc thang ra khỏi tường thành cao mấy trượng. Tiếng kêu thảm của binh lính Thát Đát vang lên, những khúc gỗ đóng đầy đinh sắt dài cả thước lại được lăn xuống dưới thành.
Thành Đại Đồng được xây dựng rất hùng vĩ, tường thành vừa chắc chắn vừa hiểm trở, các loại thiết bị phòng ngự đều đầy đủ, thân tường thành được xây bằng gạch, bên trong đổ vữa rồi đầm từng đoạn từng lớp. Tường thành cao khoảng năm trượng, mặt trên tường thành cũng rộng năm trượng, đủ chỗ cho đại đội nhân mã di chuyển nhanh chóng. Lỗ châu mai, lầu thành, vọng lâu, vọng canh đan xen nhau, có thể quan sát địch từ xa, ẩn nấp, bắn tên, tiếp ứng, khống chế điểm cao, tạo thành một phòng tuyến nhiều tầng nhiều lớp hoàn chỉnh.
Độc hỏa pháo, Oanh thiên phích lịch pháo không ngừng bắn những viên đạn vô tình xuống dưới thành thu hoạch mạng người. Vô số binh lính qua lại trên tường thành lăn gỗ, lăn đ, đổ dầu, bắn tên tạo thành một phòng tuyến không thể phá vỡ. Còn quân Thát thì như từng đợt sóng không ngừng điên cuồng lao vào thành trì. Tên giặc bắn như mưa, cũng không ngừng gặt hái tính mạng quân Minh.
Xác chất như núi, máu chảy khắp nơi, tiếng chém giết rung trời. Thi thể của đồng đội bị chà đạp vô tình như những miếng giẻ rách; không ngừng có người ngã xuống, trở thành một trong những xác chết bị giẫm đạp. Mặc dù thành trì vẫn sừng sững bất động dưới những đợt sóng tiến công của giặc Thát nhưng trong lòng Hồ Toản và Đỗ Nhân Quốc lại như lửa đốt, gần như cả hai sắp hộc máu đến nơi.
Núi Bạch Đăng mới là chốn bọn họ thật sự bận tâm lo lắng. Nếu như chỗ đó có bất trắc gì thì trời mới biết Đại Minh sẽ gặp phải một tương lai u ám như thế nào. Nhìn thấy một sợi khói đặc quánh bay lên xa xa từ núi Bạch Đăng, Hồ Toản và Đỗ Nhân Quốc vừa cảm thấy vui mừng lại lập tức sắc mặt trở thành xanh mét.
Núi Bạch Đăng báo tin Hoàng đế không việc gì, đỉnh núi còn chưa bị giặc Thát chiếm đóng. Nhưng đồng thời cũng cho biết tình thế hết sức ngặt nghèo, nếu như viện binh không đến kịp thì đỉnh núi có thể sẽ bị đánh chiếm trong chốc lát.
Hồ Toản giậm mạnh chân, hai mắt đỏ ngầu nhìn Đỗ Nhân Quốc quát:
- Đỗ đại nhân! Ta phải tập hợp toàn bộ người ngựa, bỏ thành đi tiếp viện núi Bạch Đăng. Hoàng thượng ở đó, nhất định phải bảo vệ Hoàng thượng cho được! Chỉ cần giữ được đỉnh núi, đại quân của Dương Nhất Thanh kéo tới là chúng ta còn có thể đoạt lại Đại Đồng!
Ý kiến này thật sự ngu xuẩn. Quân chính quy trong thành không quá năm nghìn, cho dù cộng thêm binh nghĩa dũng và tráng đinh thì toàn bộ quân binh vẫn không đông bằng quân công thành. Hơn nữa giặc Thát ở ngoài thành là kỵ binh, nếu bọn họ thật sự tập hợp binh lính lao ra khỏi thành thì chẳng những thành sẽ bị mất mà chỉ trong nửa canh giờ toàn bộ binh mã cũng sẽ bị đối phương chia cắt rồi lần lượt tiêu diệt.
Đỗ Nhân Quốc gian nan nuốt nước bọt. Hắn còn chưa kịp trả lời thì đã nghe một tiếng gầm giận dữ vang lên:
- Ngu không ai bằng! Quân ta ra thành là trúng gian kế của giặc Thát, nếu Hoàng thượng gặp nạn mà tòa thành vững chắc này rơi vào tay địch thì còn ai có thể địch được quân Thát? Toàn bộ Sơn Tây, thậm chí cả kinh thành cũng sẽ gặp nguy trong sớm tối!
Hai người quay phắt lại, nhận thấy một đội giáp sĩ vây quanh Đại vương điện hạ đi vào vọng lâu. Tiếng chém giết vẫn vang lên khắp nơi, Đỗ Nhân Quốc và Hồ Toản vội vàng tiến lên bái kiến. Hồ Toản khóc lóc báo:
- Điện hạ! Núi Bạch Đăng truyền tin báo động, Hoàng thượng gặp nguy hiểm rồi!
Đại vương cũng biết hắn nói có lý, chỉ riêng chuyện thấy nguy không cứu và những lời hôm nay, một khi Hoàng đế vị quốc vong thân thì đã đủ để trở thành lý do vạch tội bọn họ. Ngay cả hắn là dòng dõi hoàng tộc cũng khó tránh khỏi trở thành vật hi sinh chính trị, nếu chỉ bị tù chung thân thì chắc chắn đó cũng là hình phạt nhẹ nhất rồi.
Nhưng cội rễ của hắn ở đây, tất cả con cháu hắn đều ở trong thành. Dòng dõi Đại vương đã sống ở đây hơn trăm năm, trừ năm trước vào kinh còn những lúc khác thậm chí hắn còn chưa bao giờ rời khỏi Đại Đồng một bước. Hồ Toản có thể mở thành chịu chết, không tiếc tính mạng nhằm mưu đồ một hư danh nhưng hắn lại không thể.
Sắc mặt Đại vương xám như tro tàn, hắn than thở:
- Cô(*) biết! Nhưng quân coi giữ Đại Đồng quá ít, mở cửa thành đánh địch sẽ vô dụng, ngược lại sẽ đánh mất trọng trấn biên cương này vào tay giặc.
(*: tiếng tự xưng của Vương hầu thời phong kiến)
Hắn đột nhiên xoay người, rút trường kiếm của thị vệ bên cạnh ra đặt ngang trước ngực rồi quát to:
- Dòng dõi Đại vương thụ phong Đại Đồng, mang trọng trách giữ biên cương bảo vệ xã tắc. Quân coi giữ Đại Đồng đều phải nghe theo hiệu lệnh của bản vương!
Đỗ tổng binh, Hồ tuần phủ! Toàn lực thủ thành, không được để một binh một lính giặc Thát công được lên thành. Cô vương ở đây đốc thúc, nếu Hoàng thượng tuẫn quốc thì là do bản vương không thể cứu viện, cô vương sẽ tự vẫn tạ tội, không quan hệ gì với các vị đại nhân!
Còn không mau đi!
Đỗ Nhân Quốc và Hồ Toản lộ vẻ xúc động, buột miệng:
- Đại vương gia, ngài...
Đại vương trợn mắt hét lớn:
- Còn không mau đi?
Hai người giậm chân liên hồi ra vẻ chẳng đặng đừng, rồi cũng đành vội vã rời khỏi vọng lâu, chạy lên lầu thành chỉ huy việc thủ thành. Đại vương đi tới cửa ngách, chống kiếm quay về hướng đông nhìn núi Bạch Đăng xa xa, lặng lẽ cầu khẩn:
- Hoàng thượng! Người tốt sẽ được ông trời cứu giúp, nhất định phải giữ vững cho được nghe!
***
Những khẩu pháo Hồi Hồi to lớn cao tới ba trượng, có thể ném những tảng đá lớn nặng hai trăm cân ra xa một trăm trượng. Núi Bạch Đăng chỉ cao hơn năm mươi trượng, đạn bắn ra lại là các loại đạn tạo khói lửa đựng trong chum vò gốm nặng có sáu bảy cân, cho nên pháo Hồi Hồi được biến đổi rất nhiều, chủ yếu chỉ dùng máy ném đá cao chưa đến hai trượng, dùng mười một cây gỗ dài ngắn khác nhau kết lại thành một cái giá đỡ giản dị. Hơn nữa bởi vì phải tập kích thần tốc nên bọn chúng không thể mang theo những quả tạ làm đối trọng nặng mấy ngàn cân nên đành chỉ dùng sức người để kéo dây chằng.
Phân trâu, phân sói, các loại cỏ độc ngâm thạch tín bốc cháy phát ra mùi cay thối sặc sụa làm mọi người buồn nôn. Trên núi có gió nhưng người Thát không ngừng ném đồ dẫn hỏa lên núi từ phía đầu gió, sau khi rơi xuống đất vỡ tan, những viên đạn "hóa học" vẫn không ngừng tỏa khói đặc. Khói độc không ngừng bay về phía cuối gió, rất nhiều sĩ tốt bị hun đến không cầm được nước mắt, không thể mở mắt ra được.
Còn may đây là một hòn núi đất, không phải tường thành toàn đá hộc. Chúng tướng lập tức ra lệnh cho binh lính đào đất chôn các bãi chất cháy. Từ trên trời những quầng lửa liên tục bay xuống, còn tất cả sĩ tốt trên đỉnh núi thì ra sức đào đất để chôn. Mặc dù rất nhiều sĩ tốt bị hun đến mức hai mắt sưng đỏ, không ngừng chảy nước mắt nhưng vẫn chưa đến mức không thể chịu được.
Đám người Chính Đức đang ở trong lều lớn cũng không ngờ tới giặc Thát sẽ dùng tới chiêu này. Dương Lăng vội vã chạy về doanh trướng nhắc Hoàng thượng và các vị thủ lĩnh chui xuống hang ngầm tạm lánh, nhưng lúc này chính là thời khắc nguy cấp, đứng trên núi có thể thấy tình thế công thủ địch ta nên còn đỡ sốt ruột. Nếu chui xuống hang, mặc dù không bị khói độc hun nữa nhưng ngọn lửa trong lòng thì dập tắt bằng kiểu gì?
Thấy đám người Chính Đức và Hoa Đương đều không muốn xuống hang tránh né, Dương Lăng đành phải gọi người lột khăn trải bàn xuống nhúng nước sạch rồi đưa cho mọi người che lên mặt. Đôi mắt to xinh đẹp của Ngân Kì cũng đã bị khói hun sưng húp, nước mắt lưng tròng, ngay cả chiếc mũi nhỏ nhắn cũng đỏ ửng. Đã giao ước ngầm với cô ta nên Dương Lăng cũng yên tâm hơn với vị cô nương không biết rõ này. Y đã dặn hai thị vệ đại nội chú ý đến mọi hành vi của cô ta; nay thấy cô ta chạy qua chạy lại chỉ lo giúp đỡ mọi người kể cả cha cô ta che khói độc, không có hiện tượng gì khác lạ nên y cũng yên lòng.
Mười mấy khúc gỗ, mấy chục người lắp ráp là đã thành một cái giá ném "đạn hóa học", tốc độ cực nhanh. Từng chiếc máy ném đá đơn sơ không ngừng được đưa đến dưới chân núi, càng lúc càng nhiều quả bóng chứa chất cháy độc được ném lên trên núi. Bá Nhan cũng đã ước đoán trên núi có thể đào đất chôn vật cháy. Cho dù ông trời phù hộ không có gió, không có tuyết nhưng không thể chỉ dựa vào mấy ngàn quả đạn khí độc mang theo mà có thể đánh hạ được quân Minh. Mục đích của hắn chỉ là muốn khiến cho quân Minh bị đau mắt, giảm sức chiến đấu để quân mình tấn công dễ dàng hơn mà thôi.
Hơn ba trăm quả đạn khói lửa khí độc đã được ném lên núi, khói mù che khắp đỉnh núi. Bá Nhan vừa sai người tiếp tục ném vừa tổ chức đại quân tiến công núi lần nữa. Mùi thạch tín cháy quá khó chịu, cung thủ quân Minh và binh lính của Đóa Nhan Tam Vệ đang không ngừng phải chảy nước mắt, ảnh hưởng rất lớn đến sức phòng ngự từ xa. Quân Thát nhanh chóng tấn công lên đến lưng chừng núi và bắt đầu giáp lá cà với quân Minh.
Số lượng máy ném đá không ngừng tăng, càng ngày càng nhiều đạn khói được ném lên núi. Trong khi đó đa số quân Minh đã băng xuống lưng chừng núi chặn đánh quân Thát, số lượng quân sĩ đào đất chôn chất cháy càng lúc càng ít. Kết quả là khói trên núi cũng càng lúc càng nhiều, sức chiến đấu của quân Minh càng trở nên suy yếu.
Mọi người đều thầm biết rõ việc đỉnh núi bị đánh hạ chỉ còn là vấn đề thời gian. Hi vọng duy nhất trong lòng bọn họ nằm ở chỗ nơi này là địa bàn của Đại Minh, quân Minh có mấy chục ngàn đại quân đóng ở quan ải Trường Thành gần đó; giờ đây bọn họ chỉ có thể cố gắng giết địch, cố gắng kéo dài thời gian.
Viện quân mà đến thì có thể hình thành thế trận bao vây quân giặc cả bốn phía và bọn họ sẽ từ giữa bung ra. Nếu như không thể vây diệt toàn bộ đội kỵ binh tác chiến của quân Thát tại đây thì cũng có thể khiến Bá Nhan thảm bại, thực lực tổn thương nghiêm trọng, do đó triều Minh sẽ đạt được một thắng lợi mang tính quyết định. Nếu như viện quân đến muộn thì chỉ có thể nhặt xác cho mọi người mà thôi.
Đám người Hoa Đáng không hề ngu. Đến lúc này bọn họ cũng đã thấy được cái gọi là mưu kế lấy chính mình làm mồi dụ dỗ Bá Nhan vào bẫy có đến tám chín phần mười là giả. Chỉ có điều lúc này chiến sự đã nổ ra kịch liệt bốn bề núi Bạch Đăng, tất cả binh lính đều chen chúc liều mình chém giết. Cho dù bọn họ có hối hận cũng không có cách nào tập kết quân đội của mình để chống lại quân Minh hay bỏ chạy thoát thân.
Quân đội cố thủ núi Bạch Đăng đã tới đường cùng, hỏa mai đã bắn hết, tên cũng không còn, chỉ có thể dùng đao thương chém giết. Quân Thát đang dần dần lấn lên đỉnh núi, ép quân Minh vào giữa. Dương Lăng chỉ chia một ngàn đao thuẫn thủ và hai trăm thị vệ đại nội bảo vệ lều lớn, còn lại tất cả quan quân đều được phái ra bốn phía chống địch, ngay cả đội dự bị cũng không có.
Quân Minh đang từng bước lui lại, nói chính xác là đám Thát Đát hung hãn liều mạng đang vừa chém giết vừa giẫm đạp thi thể tiến lên đỉnh núi từng tấc một. Giữa lúc đỉnh núi đang trong thế chỉ mành treo chuông, bỗng có tiếng vó ngựa từ xa xa vọng đến. Từ trên cao, những quan binh đang chặn đánh địch ở bên mé tây đã có thể thấy rõ một đại đội kỵ binh đang phi đến như bay. Áo giáp sáng lòa, cờ bay phần phật, rõ ràng là quan binh Đại Minh.
Giống như được tiêm một mũi thuốc trợ tim, đám quan binh sức cùng lực kiệt lập tức reo hò, đao thương mãnh liệt vung lên, càng đánh càng hăng. Cuối cùng cũng đợi được viện quân đến rồi, còn viện quân có bao nhiêu thì bây giờ còn chưa ước lượng được. Nhưng sự kiện viện quân đã đến này lại khiến cho nhuệ khí hai bên thay đổi rất rõ ràng. Cho dù binh lính Thát Đát cực kỳ dũng mãnh cũng không khỏi cảm thấy chán nản, toàn quân đều bắt đầu nhụt chí.
Nhận được tin, Bá Nhan thầm rợn người, chuyện hắn lo lắng nhất rốt cục đã xảy ra. Nếu như đại đội nhân mã quân Minh chạy tới bao vây toàn bộ đội quân của hắn thì chẳng những nước cờ được ăn cả ngã về không này khó thể thành công, mà nếu như không kịp thời phá vòng vây, khiến cho bị trong ngoài giáp công thì có thể toàn quân bị diệt, tất cả đi đời nhà ma.
Chỉ kém một bước, chỉ cần khoảng non nửa canh giờ nữa Chính Đức sẽ trở thành đӠtrong túi của mình. Cứ như vậy mà lui về đại mạc hay sao? Mũi Bá Nhan cay cay, hắn điên cuồng rống to:
- Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ, dẫn người của ngươi ngăn cản viện quân Minh triều. Ta chỉ cần nửa canh giờ, chỉ cần nửa canh giờ nữa thôi!
Tiếng gào thảm thiết của hắn làm đám tùy tùng và thủ lĩnh các bộ lạc xung quanh rối loạn. Đội dự bị có sáu ngàn người, do hai anh em kết nghĩa với Bá Nhan là Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ và Húc Nhật Cán chỉ huy. Hai người này đã đi theo Bá Nhan tung hoành thảo nguyên đại mạc không gì cản nổi, là một trong những tướng quân anh dũng thiện chiến nhất.
Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ cũng biết kéo dài nửa canh giờ có ý nghĩa gì đối với cả thảo nguyên. Hắn rút thành cương đao sáng như tuyết ra, quát lớn:
- Theo ta chặn địch! Cho dù quân Minh là một trận bão cát cũng phải chặn đứng bọn chúng. Xông lên!
Ba nghìn tinh kỵ cùng hò hét vang dội, rút loan đao (đao cong) sáng như tuyết ra, không hề chùn bước xông lên chặn đánh đám quân Minh đang phi đến như bay. Đối với đại đội quân Minh đang phi nhanh đến, ba nghìn tinh kỵ Mông Cổ giống như một mũi dao nhọn sắc bén. Nếu như hai quân lao vào nhau, tinh kỵ Thát Đát lấy khỏe đánh mệt, quyết tâm tử chiến đến cùng sẽ có thể xé đội hình rời rạc của quân Minh ra một vệt dài, có thể đột nhập thẳng vào sâu nửa dặm, từ giữa tách đôi đội hình địch ra, tiến hành chém giết.
Tuy nhiên quân Minh lại như không nhận thấy dụng ý của Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ, vẫn lao tới với đội hình rời rạc. Dương Lăng, Chính Đức và đám người Hoa Đáng trên đỉnh núi nhìn thấy đại đội nhân mã quân Minh kéo đến đều cảm thấy tinh thần phấn chấn. Làm cho bọn họ vui mừng nhất là, đây là một đội ngũ toàn kỵ binh, hơn nữa từ trên núi có thể thấy rõ nhân số của họ nhiều hơn ba nghìn kỵ binh quân Thát chặn đánh gấp mấy lần. Đây là đội thiên binh từ đâu xuất hiện?
Một cây soái kỳ trong tay tên lính cầm cờ cường tráng đang bay phần phật do cuồng phong do đàn tuấn mã phi nhanh tạo nên. Hắn điều khiển ngựa bằng hai chân, hai tay gồng lên nắm chặt cán cờ được giữ chắc chân bằng một cái vòng cài bên cạnh yên ngựa. Trên lá cờ chỉ có một chữ rõ to: "Vương"!
Người tiên phong đi trước soái kỳ chữ Vương bỗng nhiên giương cung, một phát ba mũi tên, lập tức trong đám kỵ binh Thát Đát chạy như bay đối diện có ba kẻ rơi xuống ngựa. Ba mũi tên này như là hiệu lệnh, tinh binh Mông Cổ cũng lập tức giương cung đặt tên, một cơn mưa tên rợp trời ngập đất bay tới.
Đại soái của cánh tinh binh này chính là Phó tướng Tam Quan Vương Thủ Nhân, người dẫn hai vị tướng quân du kích chơi trốn tìm với Hỏa Sư ở quan ngoại. Bởi vì hắn dẫn quân ra ngoài Trường Thành, không ngừng giằng co với Hỏa Sư, nếu sức cơ động không đủ thì chắc chắn sẽ thất bại, cho nên Dương Nhất Thanh tập hợp đại bộ phận kỵ binh của các lộ quân trong tay mình, tạm thời tạo nên một đội quân toàn kỵ binh giao cho Vương Thủ Nhân chỉ huy.
Tổng binh lực của Vương Thủ Nhân ước chừng hai mươi ngàn người, đông hơn quân Hỏa Sư, nhưng hắn rất ít khi tiếp chiến chính diện với Hỏa Sư. Dù sao cưỡi ngựa bắn cung cũng không phải chuyện thành thục trong một sớm một chiều, chiến lực của quân đội hắn còn chênh lệch so với bộ đội sở thuộc của Hỏa Sư. Có điều khiến Hỏa Sư đau đầu là vị tướng quân Đại Minh này vẫn bám sát hắn không rời, bất kể hắn muốn tấn công quấy rối nơi nào cánh quân này cũng luôn đi theo phía sau cháy nhà hôi của.
Hỏa Sư giận dữ muốn tìm hắn quyết chiến nhưng đối phương lại tránh không tiếp chiêu, bất đắc dĩ đành dẫn hắn vào khe núi định sử dụng địa lợi chống lại.
Trong lần duy nhất tác chiến ở đồng bằng này, Hỏa Sư vốn định một đòn đánh tan đội kỵ binh chủ lực của quân Minh, không ngờ Vương Thủ Nhân đã đào hố bẫy ngựa, đặt ván chông, thậm chí còn đặt cả những cây gỗ tròn phía trước vót nhọn, phía sau đóng ván ngang, bên dưới ván ngang đào hố trên đường xung phong của quân Hỏa Sư.
Chiến mã chạy trước đạp lên ván gỗ, đầu nhọn phía sau sẽ chống lên đâm xuyên qua chiến mã phía sau. Hai quân chưa gặp nhau, quân Hỏa Sư đã tổn thương nặng nề, hơn nữa kỵ binh không dám chạy nhanh nữa. Người Mông Cổ vô địch thiên hạ không phải dựa vào đao thương mà là tên nhọn và khoái mã. Quả thực khoái mã bị mất ưu thế chính là quân Thát tự phế một nửa sức lực. Sau trận này, chỉ cần nhìn thấy đại kỳ chữ Vương thì Hỏa Sư đã đau đầu, dứt khoát chuyển sang chơi trò trốn tìm với hắn.
Hôm nay đang bám theo đại quân của Hỏa Sư đi tới gần Cự Lỗ môn, đột nhiên Vương Thủ Nhân phát hiện quân địch lại biến mất. Vùng này nhiều núi, lúc đầu Vương Thủ Nhân cho rằng Hỏa Sư cũng bắt chước mai phục lại mình, nên liền ra lệnh cho đại quân hạ trại men núi, lưng dựa vào Kháng Hồ Bảo, phái thám mã truy tìm hành tung của Hỏa Sư.
Một lát sau khói lửa nổi lên, liền sau đó thám mã báo dấu chân ngựa biến mất trong khe núi hẹp ở Cự Lỗ môn, hoàn toàn không còn bóng dáng, nhưng trên quan ải Cự Lỗ môn vẫn cắm cờ Đại Minh. Vương Thủ Nhân chợt nghi ngờ: Dù Hỏa Sư vẫn quanh quẩn gần các quan ải nhưng hắn xảo trá như cáo, nếu muốn mai phục thì hắn sẽ không mạo hiểm mai phục hàng vạn người ở gần quan ải của Đại Minh. Hơn nữa, hai bên khe núi kia rất hiểm trở, không thể giấu được đông người, người của Hỏa Sư bay lên trời hoặc chui xuống đất rồi hay sao?
Nghĩ đến đây, Vương Thủ Nhân lập tức từ bỏ nhiệm vụ bám theo Hỏa Sư, nhổ trại trở về quan ải, vào quan ải qua Kháng Hồ Bảo cách cửa Cự Lỗ vài dặm. Hỏi quân canh giữ phong hỏa đài, bọn họ cũng chỉ biết có khói lửa dấy lên nên tăng cường đề phòng ở quan ải này, nhưng không hề biết quân Thát đang tấn công ở nơi nào.
Vương Thủ Nhân nghe tin lập tức chạy như bay đến Đại Đồng, còn tiện tay lấy vài món lợi khí mang theo. Hắn cũng biết hôm nay Hoàng đế cùng Đóa Nhan Tam Vệ bàn bạc kết minh ở núi Bạch Đăng, tuy rằng phỏng đoán quân Thát đã dễ dàng lọt vào quan ải và đang đánh úp núi Bạch Đăng đúng là quá lớn mật, nhưng chuyện này quá quan trọng, luôn phải đề phòng cho yên tâm. Cùng lắm xem như là mình lui quân về nghỉ ngơi là xong.
Đại quân vừa chạy tới Thủy Thanh Sách, còn cách thành Đại Đồng vài dặm, bọn hắn đã nghe thấy tiếng chém giết rung trời từ xa xa, đúng lúc này trên núi Bạch Đăng cũng dấy lên khói lửa. Hiểu rõ địa hình bản địa, Vương Thủ Nhân lập tức ra lệnh đại quân bỏ đường lớn đi đường tắt chạy đến núi Bạch Đăng, vừa kịp chạy tới đúng lúc núi sắp bị công chiếm.
Xa xa nhìn thấy quân lính rợp núi, không biết bây giờ Hoàng đế còn sống hay đã chết, Vương Thủ Nhân sợ đến mức tái mặt. Vì vậy, hắn lập tức thúc ngựa đi đầu, dẫn quân lao tới. Cơn mưa tên của giặc Thát bay tới, các binh sĩ đều cầm lá chắn tròn bên cạnh yên ngựa lên che chắn. Vương Thủ Nhân tay trái cầm cung, tay phải cầm lá chắn, ngồi trên ngựa hét lớn: "Bắn thần hỏa tiễn!"
Đám binh lính xông lên đầu tiên đều mang những loại vũ khí có hình thù khá kỳ lạ. Tất cả các loại vũ khí lấy từ Kháng Hồ Bảo này đều là các loại tên lửa gọn nhẹ. Có tên tổ ong (nhất oa phong tiễn), tên đàn ưng đuổi thỏ (quần ưng trục thố tiễn), tên lửa sao băng (hỏa nỗ lưu tinh tiễn), tên trường xà phá địch (trường xà phá địch tiễn). Chỉ trừ hai loại tên phi liêm bốn mươi chín mũi (tứ thập cửu thỉ phi liêm tiễn) khá nặng nề và loại tên trăm hổ cùng chạy (bách hổ tề bôn tiễn) phải dùng xe đẩy hoặc phải hai người mới bắn được, còn lại hắn đều vơ vét sạch sẽ. Các binh sĩ dùng dây đeo buộc trước ngực, có khoảng hai mươi mấy hòm.
Đám binh lính xông lên đầu tiên đội mưa tên đánh đá lửa, trong tiếng xé gió, từng mũi tên lửa bay vụt ra ngoài. Độ chính xác của tên lửa thì không có gì đáng chờ mong, nhất là ngồi trên khoái mã mà bắn thì càng khỏi phải nói.
May là kỵ binh Thát Đát phía trước xếp thành đội hình đao nhọn tập trung, quả thực chính là bia ngắm sống. Danh tướng Thích Kế Quang đời sau có một cách nói rất thú vị để hình dung về tên lửa, đại để là: "Bắn tên lửa giữa vạn kỵ binh, hoàn toàn không cần ngắm ai, châm lửa rồi mặc cho số phận. Phương hướng bắn chúng ta không đoán được, địch cũng không đoán được, thật sự vừa thú vị lại vừa kỳ diệu."
Những mũi tên này chủ yếu là nhanh, bắn liên tục, còn nhanh gấp mấy lần những xạ thủ cao minh nhất của quân Thát. Vô số mũi tên bay ngang bay dọc, còn có mũi vừa bay vừa uốn lượn. Hai đội quân càng ngày càng gần, quân Minh ngã xuống mười mấy tên, quân Thát lại bị bắn chết gần trăm người. Làm mọi người khó hiểu nhất chính là những mũi tên bay xiêu xiêu vẹo vẹo đó, có mũi còn tránh qua tên địch phía trước rồi bắn trúng tên chạy phía sau.
Hơn trăm con chiến mã mất người cưỡi lập tức khiến đội hình xung phong sắc bén của Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ bị lộn xộn. Khí thế phá núi mở đường biến mất, lập tức hai luồng nước lũ đan xen vào nhau, tiếng hét đinh tai nhức óc, tiếng vũ khí va chạm không dứt bên tai. Binh lính hai bên điên cuồng mượn đà xông của khoái mã liều mạng chém giết.
Trong trận chém giết giữa hai đội kị binh lao ngược chiều này không có chuyện chiến đấu một chọi một. Thường thường kỵ sĩ hai bên vừa chém được một đao thì hai con ngựa đã lướt qua nhau, họ lại giao thủ với đối thủ mới, giao đối thủ vừa rồi cho đồng đội đằng sau.
Trong giờ khắc này chỉ có giết người mới có thể tránh cho mình khỏi bị giết. Những binh lính thường ngày rất nhỏ bé này, bất kể trước kia là ti tiện hay là gian manh, cương nghị hay là hèn nhát, âm hiểm hay là quang minh, bây giờ tất cả đều hò hét với khí thế ngất trời, tạo thành một làn sóng xung kích làm mọi người sôi trào nhiệt huyết đưa mình trong chiến trường xay thịt, nghe thấy từng tiếng ma sát chói tai ghê răng.
Bởi vì thuật cưỡi ngựa của quân Minh không bằng quân Thát, mà mã đao muốn phát huy hết ưu thế tấn công thì phải mượn lực cánh tay, lực vặn eo và sức lao của chiến mã; người cưỡi ngựa kém thì cả ba yếu tố này đều kém theo. Vương Thủ Nhân tạm thời không thể nâng cao kỹ năng cá nhân của đội quân tỠhợp tạm thời này nên đành phải giở trò ở binh khí.
Gần năm nghìn kỵ binh đi đầu đều dùng lang nha bổng, lực cánh tay của bọn họ không đủ để sử dụng lang nha bổng bằng sắt thật sự, cho nên tất cả đều dùng những khúc gỗ lê trên to dưới nhỏ vừa cứng vừa nặng, trên đầu đóng rất nhiều đinh sắt to bằng ngón út dài nửa thước. Lang nha bổng va chạm với mã đao sắc bén của đối phương, tiếng ken két vang lên không dứt, còn có thể lợi dụng những móc câu trên đinh sắt để giảm tốc độ vung đao của đối phương.
Lang nha bổng nhẹ nhàng vẫy trái cản phải, đâm trước đập sau, triệt tiêu nhược điểm kỹ năng cá nhân của chiến sĩ. Ưu thế tuyệt đối về nhân số áp đảo sự dũng mãnh thiện chiến của đội quân Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ tinh nhuệ. Một cơn sóng cuồn cuộn tràn tới, ba nghìn tinh kỵ Thát Đát rơi vào giữa biển quân gần hai mươi ngàn người của quân Minh.
Từ đỉnh núi nhìn xuống, đội quân tiên phong và hai cánh quân Minh vẫn đang xung phong, còn chính giữa đội ngũ lại như xoáy nước cuồn cuộn không ngừng. Ba nghìn kỵ binh của Húc Nhật Can cũng đã xông lên, sử dụng mưa tên ngăn cản thế công của quân Minh chỉ trong chốc lát rồi sau đó cũng rơi vào vòng vây của quân Minh.
Lại là một trận hỗn chiến.
Vương Thủ Nhân chỉ mang mấy trăm người lao ra khỏi đội hình của Húc Nhật Can, cùng mấy ngàn binh mã hai cánh lao thẳng tới chiếc lều lông cừu phía trước.
Trong lều lông cừu là Đại Hãn Thát Đát và thủ lĩnh các bộ đã không còn đại quân bảo vệ.
Bắt giặc phải bắt vua trước!
Muốn cứu chỗ phải cứu của ta thì hãy tấn công chỗ phải cứu của địch trước!
Nếu như Vương Thủ Nhân thúc ngựa lên núi thì hắn sẽ không phát huy được ưu thế của kỵ binh, xông đến lưng chừng núi tất nhiên sẽ phải xuống ngựa khổ chiến với quân Thát đang tấn công núi. Cho dù rốt cuộc có đuổi tận giết tuyệt được toàn bộ quân Thát Đát đi chăng nữa thì việc có thể bảo đảm được an toàn của Hoàng đế trong đám loạn quân hay không lại là một vấn đề khác. Chiêu vây Ngụy cứu Triệu của hắn nhắm khiến cho quân Thát sắp đánh chiếm đỉnh núi không thể không lập tức quay lại cứu người, hiểm cảnh trên núi sẽ lập tức được giải khai.
Quả nhiên ngay từ lúc đội kị binh cứu viện của quân Minh lao tới, các đầu lĩnh quân Thát đang chỉ huy công núi đã phải chú ý theo dõi. Nay vừa thấy tình hình nguy hiểm, bọn họ liền lập tức tập kết đại quân lao ngay trở lại.
Tất cả thân binh bên người Bá Nhan và các thủ lĩnh cộng lại cũng chỉ được hơn một ngàn người, nhưng đều là những chiến sĩ dũng cảm. Bọn họ lập tức vung binh khí chặn trước mặt các thủ lĩnh, bắt đầu chém giết với quân Minh.
Xác người xác ngựa ngổn ngang, tay cụt chân gãy vô cùng thê thảm, máu tươi trộn lẫn bùn đất, mặt đất vốn phủ tuyết trắng tinh sớm đã đổi màu, không khí tràn đầy mùi máu tanh khiến mọi người buồn nôn.
Quan sát tình hình trước mắt, Dương Lăng lập tức bảo với Hứa Thái và Mã Cáp Lư đang máu nhiễm chiến bào:
- Thắng bại là ở lần này! Lập tức tập hợp toàn quân, tấn công quân địch chính diện, đón binh mã của Vương tướng quân tới gần!
Hứa Thái nhận lệnh, lập tức tập hợp đám quan binh còn chưa thở dốc xong. Trừ bộ binh, toàn bộ lên ngựa lao xuống núi. Tay cầm cây gậy sắt nặng nề, Mã Cáp Lư cũng gọi đám binh sĩ ba vệ còn sống sót lại, rồi cùng gào thét lao xuống núi. Hai luồng đại quân trang phục khác màu, đan xen vào nhau lao xuống, khói bụi bay lên cuồn cuộn. Trường thương, cương đao lấp lánh đầy sát khí bức người.
Bị Vương Thủ Nhân vây quanh tạo thành hai nửa vòng tròn một lớn một nhỏ là sáu ngàn thiết kỵ quân hậu bị Thát Đát và một ngàn tinh binh của Khả Hãn Bá Nhan và các thủ lĩnh bộ minh. Bên ngoài là binh lính Mông Cổ lũ lượt kéo về cứu viện, theo sát là hơn tám ngàn kỵ binh Đại Minh và Đóa Nhan Tam Vệ lao xuống, cố gắng thừa dịp trận hình phản bao vây của quân Thát chưa kịp hình thành để mở một lối đón viện quân lên núi.
Vó ngựa rầm rập, mặt đất rung động, các kỵ sĩ xung phong gào thét điên cuồng, trước sau trái phải khắp nơi đều là chiến sĩ địch ta lẫn lộn. Ngôn ngữ bất đồng nhưng tiếng gào thét như dã thú lại tương tự nhau.
Chính Đức trên đỉnh núi nhìn mà máu nóng sôi trào, vô cùng háo hức. Có điều, trừ phi Dương Lăng phơi thây tại chỗ, bằng không, dù chỉ còn một hơi thở y cũng không bao giờ chịu để hắn lên ngựa tham chiến.
Đúng lúc này tiếng sấm rền vang, tiếng hô xung phong rung trời, từ phía Phi Hồ Độ xuất hiện một cánh quân điên cuồng đạp tuyết chạy đến. Đội kỵ binh này giáp trụ sáng ngời, tất cả đều là đại đao cán dài, người như hổ, ngựa như rồng, bốn vó chiến mã tung bay, bụng ngựa gần như dán sát mặt đất.
Đội kỵ binh này quân số không nhiều, cùng lắm chỉ hơn ngàn người. Đội hình lại kéo rất dài, chỉ phi như bay chứ không hề quan tâm đến phối hợp, hơn nữa ngay cả chiến kỳ cũng không có, tỏ ra là một đội quân rời rạc. Nhưng đối với binh lính Thát Đát đã mất niềm tin tất thắng thì cánh quân xuất hiện đột ngột này đã triệt để đánh sập chiến ý của họ: Quân đội tiếp viện của quân Minh đã bắt đầu ùn ùn xuất hiện!
Dưới sự bảo vệ của hơn ngàn thân binh quyết tử, Bá Nhan cùng các đầu lĩnh đột phá vòng vây hội hợp với một chi hơn năm ngàn người ngựa từ trên núi kéo về tiếp viện, lúc này đội thân binh đã tổn thất hơn ba trăm người. Lòng đau như dao cắt, Bá Nhan biết trận tất tay này đã thất bại triệt để, lúc này còn không rút đi thì sợ rằng toàn quân đều phải bỏ mạng tại đây.
Tiếng kèn thê lương vang lên, đó là tín hiệu phá vòng vây rút lui của quân Thát...
l> <��Os
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com