Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Ngược về thời Minh

Chương 199 Phượng Hoàng Bắt Nạt Rồng Con

- Thông tri cho cửa hàng da biết thích khách Di Lặc giáo vẫn chưa lộ diện, hẳn là bọn chúng vẫn còn người trong thành, chú ý nghiêm ngặt đến mọi khuôn mặt lạ! Khoan, chờ đã! Đã lùng tra sai hướng rồi! Di Lặc giáo mở hương đường ở khắp nơi, tín đồ rất đông, Đại Đồng là thành lớn ắt sẽ có phân đà bí mật của bọn chúng.
Cho điều tra dân bản địa! Di Lặc giáo ở Thiểm Tây tạo phản thất bại là vào bốn năm về trước phải không? Vậy điều tra xem bắt đầu từ bốn năm về trước cho đến nay có hộ gia đình lớn nào từng có hành động khả nghi hoặc từng có người xứ khác trọ lại nhiều ngày trong nhà bọn họ hay không, đặc biệt chú ý những nhà từng có đạo sĩ ra vào.

- Dạ!

- Hôm trước mới vừa có người thu mua một mớ gia súc bỏ ở Lý Gia tập, hôm nay liền có giặc Thát trèo non lội suối chạy lại đúng lúc, nhất định là có mật thám báo tin, việc này cũng phải điều tra luôn! Đồng thời quan phủ cũng phải điều tra, cho họ điều tra qua lai lịch của tên thương gia đó, xem hắn từng qua lại với những ai, và trong đám bọn họ ai có thể xuất thành đi lên phương bắc.

- Dạ.

- Hôm nay thấy núi Bạch Đăng dễ công khó thủ, nhất là trên đỉnh núi lồi lõm gập ghềnh, làm sao để thiên tử kết minh với người ta ở đó được chứ? Ờ, phải tìm một lý do nào đó,… Rồi! Cứ bảo là quan binh Đại Đồng tiêu diệt hoàn toàn giặc Thát lẻn vào tấn công ở đó, vì tuyên dương công trạng này, bản quan muốn xây đình dựng bia trên đỉnh núi. Thừa dịp hãy cho san phẳng đất đai, ngầm bắc hỏa pháo chung quanh, còn trên dốc thoải hãy cho đào hố bẫy ngựa, chôn chông sắt, chỉ giữ lại một con đường lên núi.

- Dạ!

- Trong khi chôn cất giặc Thát bị giết, phát hiện thấy giáp lót vai, yên ngựa, móng sắt đóng chân ngựa, mũ sắt,… thậm chí phần lớn binh khí đều có nguồn gốc từ trung nguyên, hiển nhiên có người lén tuồn lên phương bắc bán cho giặc. Buôn lậu trà muối kiếm tí tiền thì cũng không sao, nhưng đem bán quân nhu, khí giới cho địch là tội không thể tha. Điều tra cho bản quan!

- Dạ!

- Chủ lực của Thát Đát đã di chuyển về hướng Bình Thuận, Hồ Khẩu, thế mà Hỏa Sư, đệ nhất mãnh tướng của Thát Đát, lại ở lại không đi, còn phái người cướp bóc lương thảo, vẻ như muốn ở lại lâu dài. Khả năng lớn nhất chính là kế ly gián của chúng ta đã có hiệu quả, Bá Nhan đã bắt đầu nảy lòng nghi ngờ hắn.
Theo lý thì bọn chúng không thể biết chuyện Hoàng đế xuất kinh tuần thú, có điều an nguy của Hoàng thượng là chuyện lớn như trời, cẩn thận là hơn. Ra lệnh cho vị Chỉ huy sứ Thái Nguyên là Trương Dần cấp tốc xua quân lên bắc để tiếp ứng; thám mã trinh sát chú ý nghiêm ngặt hết thảy mọi động tĩnh của Hỏa Sư!

- Dạ!

- Đúng rồi, Trương Dần thông qua cửa của Vũ Định hầu Quách Huân mới làm quan, bản lĩnh thống lĩnh quân đội của người này thế nào? Tuy rằng quân thủ vệ Đại Đồng đủ để ứng phó với đại quân của Bá Nhan, nhưng hắn là quân cờ dự bị duy nhất của bản quan. Nếu hắn tài cán tầm thường, khó tránh sẽ làm lỡ chuyện lúc nguy ngập.

- Hồi bẩm Xưởng đốc đại nhân, dựa theo căn dặn của ngài, ti chức đã điều tra qua tất cả những tướng lĩnh quan trọng ở tiền phương. Trương Dần này là người Trương gia, một họ lớn tại Sơn Tây, tuy là chi họ xa, song trên gia phả thuộc hàng chữ Đức(1), vai vế rất cao.
Ông ta nguyên là Binh bị đạo(2) của Đại châu thuộc Sơn Tây, thao luyện hương quân, đào sửa thành trì, lập pháp trữ lương, sửa sang doanh trại, quản quân có phép, đạo tặc bốn phương không kẻ nào dám quấy nhiễu Đại châu, rất được người địa phương khen ngợi. Sau khi ông ta đến Thái Nguyên nhậm chức, việc chỉnh đốn quân kỷ và thao luyện sĩ tốt thực cũng có khuôn có phép lắm.

- Ừm, vậy thì tốt! Đúng rồi, hôm nay vị tướng trong quân Đại Đồng tên Kinh Phật Nhi được xưng là Quỷ vương đó quả là kiêu dũng thiện chiến, có thể nói là một viên mãnh tướng. Tiếc là bản quan thấy hắn cùng lắm chỉ là một vị thiên hộ, đánh trận chỉ biết xung phong lên đầu, binh sĩ bị hắn chỉ huy thành một đạo quân ô hợp.
Nhìn khí thế tác chiến của hắn đáng sợ như vậy, nhưng nếu thật sự đụng phải một vị tướng biết binh thư, chỉ cần bày ra chút kế nhỏ liền sẽ có thể dụ cho hắn trúng phải phục kích, toàn quân bị diệt. Người này đặt vào đúng chỗ thì là một nhân tài, đặt nhầm chỗ sẽ là một tai họa. Chốc nữa sai người đi dò hỏi qua ý tứ của hắn, xem hắn có chịu gia nhập Nội xưởng hay không. Nếu như có, bản quan sẽ đến gặp Dương tổng chế, Đỗ tổng binh đòi người.

- Dạ!

- Ngoài ra sai người chú ý đến hoạt động của đám người Dương Hổ. Nếu bọn hắn lên đường trở về Bá Châu thì tạm thời không cần đụng vào. Từ đây về sau nếu bọn họ chịu hối cải là tốt nhất; nếu lại tiếp tục dấn thân làm sơn tặc, vẫn giữ cái nghề không tiền đồ này thì cũng không sao, nhưng nếu không chịu trở về Bá Châu, nhất định lòng gian chưa hết, gặp phải giết ngay!

- Dạ!

- Huynh đệ nào bị thương thì mời lang trung chữa trị rồi cho nghỉ ngơi cẩn thận. Huynh đệ bị tử trận thì đưa vào hòm mai táng, ghi lại danh tính, về kinh rồi an ủi gia đình, cấp tiền tử tuất cho thật hậu.

- Dạ!

- Ừm! Cứ vậy đã, các ngươi lui xuống trước đi. 
Nhìn đám bộ hạ từng người lui ra, Dương Lăng thở dài một hơi, bước đến ngồi trên ghế dựa, cầm chén trà dỡ nắp ra, đưa lên miệng thổi lay lay những lá trà xanh biếc trôi nổi trong nước.

Hơi nóng vờn quanh khuôn mặt y. Chợt nhớ lại cái chạm môi mềm mại mà tiêu hồn cùng Hồng Nương Tử, Dương Lăng bất giác gợn sóng lòng, trên mặt thoáng nở một nụ cười xấu xa.

Cái tên Dương Hổ đó đúng là chấp mê bất ngộ, năm lần bảy lượt muốn giết mình, rõ biết bị Di Lặc giáo lợi dụng thế mà còn không biết hối cải, lại cứ đuổi theo đến Đại Đồng, lần này coi như là vừa mất phu nhân lại thiệt quân rồi còn gì.
(“bồi liễu phu nhân hựu chiết binh”, các bạn xem Tam Quốc Chí, đoạn Tôn phu nhân qui Thục, ý là mất cả chì lẫn chài )

Hơi nước hơ nóng cục u trên trán khiến y cảm thấy đau tấy một hồi. Dương Lăng vội dời chén đi, xoa nhẹ cái trán sưng vù của mình, thầm nghĩ: "Vợ hắn tuy không đọc sách, song lại cũng hiểu chút lý lẽ. Chậc! Tiếc thật, một đoá hoa nhài cắm bãi..."

Ngay lúc đó, khung cửa chợt mở ra kêu két, một bóng người dịu dàng lách nhanh vào, lo lắng sốt ruột hỏi:
- Biểu ca, Đại Bổng Chùy nói anh bị thương, mau để em xem thử.

Dương Lăng ngước mắt nhìn lên, trông thấy một người thiếu nữ vận áo vải nhiều màu sặc sỡ, cài hoa, vội vội vàng vàng bước vào, khuôn mặt xinh xắn động lòng người đầy vẻ lo lắng. Theo sát phía sau là Hoàng đế Chính Đức, vua của một nước, đang thậm thà thậm thụt như đứa hầu nhỏ của nàng cùng chạy theo vào.

Dương Lăng mỉm cười vui vẻ. Hiện tại Đường Nhất Tiên không phải tuân theo nhiều quy củ như khi còn ở trong vương phủ nhưng không biết tại sao, chọn lụa tơ đoạn gấm cho nàng thì nàng không thích, lại cứ thích mặc áo quần đơn giản mà tiện nhẹ. Bộ áo vải ghép nhiều mảnh nhiều màu(*) này hệt như quần áo ăn mày thời nay vậy, rất hợp cho người con gái trong thời kỳ nổi loạn như nàng mặc, tuy không cao quý, song lại tăng thêm mấy phần anh tú. (* thủy điền y: tựa như áo cà sa, may ghép nhiều mảnh vải, nhiều màu sắc với nhau; là mẫu áo thời trang ở đời Minh). 

Nhìn thấy một cục u sưng phù đỏ ửng trên trán Dương Lăng, Đường Nhất Tiên xót lòng chau mày lại. Nàng nâng nhẹ gương mặt Dương Lăng lên, bàn tay thon thả nhẹ nhàng xoa khuôn mặt y, chúm môi thổi nhè nhẹ, hỏi khẽ: 
- Biểu ca, sao anh lại bị đập trúng ở đây vậy? Suýt chút nữa là mắt bị thương rồi, còn đau không? Có cần mời thầy lang không?

Giữ lấy cổ tay mềm mại của cô nàng, Dương Lăng cười đáp: 
- Không sao đâu! Hôm nay đại ca định dụ một ông phật sống xuất hiện, không ngờ lại thả nhầm mồi, dụ nhầm một con hổ dữ. Nếu chỉ có thế thôi thì cũng chưa sao! Đại ca đang tính bắt hổ, tự dưng lại có một bầy sói đói chạy lại. Ui chao, thật là rối tinh rối mù lên. Còn về phần vết thương này, ha ha, không nhắc tới thì hơn.

Đường Nhất Tiên lương thiện trong sáng, lanh lợi đáng yêu. Thấy cô nàng quan tâm săn sóc mình như vậy, Dương Lăng thấy ấm áp trong lòng. Tuy không có quan hệ máu mủ, song hiện tại y lại cảm thấy giữa mình và Đường Nhất Tiên tồn tại một loại tình cảm thân thiết và khắng khít. Tình cảm này tuyệt không phải là cảm giác áy náy vì nàng ta giúp mình nên bị kẻ thù gây hại khiến phải gặp nạn, mà là niềm yêu mến xuất phát tự đáy lòng.

Đường Nhất Tiên bị y chọc đến bật cười, nàng dịu dàng mỉm cười: 
- Biểu ca lại nói gì đâu rồi, em nghe mà chẳng hiểu gì cả. Khi nãy em còn tính đợi đại ca về dẫn em và Tiểu Hoàng đi dạo phố, xem bộ dạng của anh bây giờ. Chậc! Chắc là em ở nhà với biểu ca rồi.

- Tiểu Hoàng? - Dương Lăng cúi xuống nhìn quanh, không thấy dưới chân nàng có con chó nhỏ nào đi theo, vội hỏi: - Tiểu Hoàng đâu? Trong dịch quán làm gì có chó? Em nhặt được ở ngoài đường à?

- Ớ?! 
Đường Nhất Tiên thoáng ngẩn ra, liền đó ngó sang Chính Đức cười ngặt nghẽo. Hoàng đế Chính Đức dở khóc dở cười, liếc Đường Nhất Tiên đang cười sằng sặc rồi chỉ vào mũi mình bảo: 
- Hồi bẩm đại nhân, Tiểu Hoàng chính là tại hạ, tại hạ chính là Tiểu Hoàng.

Dương Lăng sợ giật nảy người, nhưng khi thấy hoàng đế Chính Đức đang rất lấy làm vui thích, y cũng không tiện nói gì thêm. Đường Nhất Tiên cười đến đỏ mặt đỏ mày, phất tay bảo Chính Đức: 
- Đi, đến chỗ miệng giếng ở hậu viện đập lấy vài miếng nước đá vụn! Lấy thêm cái khăn mặt! Ta giúp biểu ca chườm một tí cho mau tan máu bầm.

- Ờ! 
Chính Đức đáp, co giò định chạy đi, Dương Lăng vội gọi giật lại: 
- Khoan đã, không cần đâu! Trán đã sưng rồi, chườm đá sẽ chỉ đau thêm thôi, để nó từ từ tự tan đi.

Chính Đức vừa dừng chân lại, Đường Nhất Tiên liền trừng mắt ngọc ra lệnh tiếp: 
- Vậy thì đi tìm dịch thừa xin ít mỡ chồn* đi. 
(*TheJoker: tra thấy con này giống con lửng, họ chồn núi, thôi thì gọi chung là chồn cho dễ hiểu)

Vừa định xoay người, Chính Đức nghe vậy lại vội chạy nhào đi. Dương Lăng vừa mới nhấc người lên, giơ tay, há miệng định nói gì thì hắn đã chạy mất. Y chưa biết phải làm sao thì Đường Nhất Tiên đã dìu y, khuyên bảo: 
- Anh à! Anh ngồi xuống đi! Thật không biết anh kiếm ở đâu ra cái tên thân binh ngốc đó nữa, cái gì cũng không hiểu, cái gì cũng không biết, cái gì cũng phải để em dạy cho. Có điều... tính tình hắn cũng tốt, cả ngày cười hề hề, thực cũng không đáng ghét lắm.

Dương Lăng cười gượng mấy tiếng, thầm nhủ: "Không biết nói vậy có tính là báng bổ nhà vua không ta?"

Chính Đức nào biết dịch thừa đang ở chỗ nào, mà thật ra tất cả dịch thừa cũng đã bị đuổi đi từ trước rồi, trong cả dịch quán đều là người của Dương Lăng. Thế là hắn chạy một mạch về viện nhà mình, vừa hò hét một hồi thì ngay lập tức bọn thị vệ thủ hạ cuống cuồng chạy nháo nhào đi tìm thuốc, chỉ chốc sau liền đem về cho hắn sáu bảy lọ mỡ chồn. Chính Đức mừng rỡ lấy vạt áo bọc lại, lật đật chạy về thư phòng Dương Lăng.

Thuốc đưa thì chậm, nhưng mang đến lại nhiều, Đường Nhất Tiên lấy ngón tay vét một miếng mỡ chồn, vừa cẩn thận bôi lên trán Dương Lăng vừa cảm rảm càm ràm. Trước kia Đường Nhất Tiên được người ta dạy dỗ ở "Thì Hoa quán", Dương Lăng không hề biết cái miệng líu ríu này của nàng không hề được nhàn rỗi tí nào. Chính Đức đứng một bên gật đầu khom lưng, mặt mày tươi rói, bị nàng ta mắng mỏ mà lòng lâng lâng phơi phới, chả biết đến trời trăng mây gió gì nữa.

Dương Lăng thấy vậy, trong lòng vui mừng hết sức. Tuy rằng y phụng lệnh Chính Đức chuộc Đường Nhất Tiên ra khỏi "Thì Hoa quán", nếu vị cô nương này còn ở lại nơi đó, sớm muộn gì cũng sẽ là người mệnh khổ, trầm luân chốn khói hoa. Nhưng đã đích thân cứu cô nương này ra, y liền cảm thấy mình phải có một phần trách nhiệm săn sóc cô ta.

Thêm vào đó Đường Nhất Tiên đã vì mình mà rơi xuống vực mất trí nhớ, và nay lại có tình cảm như vậy với mình, nếu như Chính Đức chỉ chủ tâm đùa bỡn với nàng, hoặc Đường Nhất Tiên không thích Hoàng đế thì nhất định y sẽ tìm cách ngăn cản bọn họ gặp mặt. Song nay thấy Chính Đức yêu quý nàng như châu như ngọc, còn bên cạnh mình có nhiều thân binh như vậy nhưng Đường Nhất Thiên lại chỉ thích quở mắng đày đọa mỗi hắn, hiển nhiên giữa đôi thiếu nam thiếu nữ này đã hơi có tình cảm đặc biệt, chẳng qua bản thân nàng cũng chưa nhận ra mà thôi.

Dương Lăng nhè nhẹ thở ra một hơi dài, nghĩ thầm: "Trở về kinh phải bảo Văn Tâm nghĩ cách chữa trị cho nàng ấy xem sao. Dù sao thì mất kí ức vẫn là một điều phải nuối tiếc, chỉ còn lại thân xác, sao có thể xem là Đường Nhất Tiên trước kia được? Ái thê Tô Tam, Tuyết Lý Mai của mình cùng nàng ta tình như tỷ muội, kết giao với nhau từ nhỏ; nếu như không thể khôi phục lại trí nhớ của Nhất Tiên, hai nàng nhất định cũng sẽ hối tiếc suốt đời."

Đường Nhất Tiên bôi mỡ chồn xong xuôi một lượt, ngắm nghía kỹ lưỡng một hồi rồi chun mũi lại hết sức đáng yêu, cười khanh khách: 
- Biểu ca! Giờ trán anh sáng ngời, ấn đường bóng loáng, ra đường nhất định sẽ nhặt được một thỏi vàng to.

Chính Đức cũng thích thú chen vào: 
- Thỏi vàng thì có gì mà quí hiếm? Nhìn cái trán này ấy à, không luyện đến ba trăm năm đạo hạnh sẽ không có đâu. Lần này đại nhân ra ngoài, không biết chừng sẽ có thể nhặt được đại mỹ nhân về đây.

Đường Nhất Tiên trừng mắt với hắn, nhiếc móc: 
- Ngươi suy nghĩ bậy bạ gì đó? Thật không biết lớn nhỏ gì cả! Nhặt mỹ nhân gì chứ, anh của ta mới tròn hai mươi thôi mà ta đã có tới ba biểu tẩu rồi.

Chính Đức bị bẽ mặt, ngượng ngùng im miệng. Đường Nhất Tiên nhướng đôi mày cong nhìn hắn tra hỏi: 
- Sao? Ngươi không phục hả?

Chính Đức vội lắc đầu đáp: 
- Không có! Đâu có! Nào dám! Ờm... Tôi đang nghĩ là... cả ngày ở riết trong dịch quán cũng không có chuyện gì làm, nếu ra ngoài đi dạo một chút thì… thật ra cũng không đến nỗi nào đâu.

Đường Nhất Tiên nghe vậy cũng hào hứng, tán đồng: 
- Ừm, hai ngày trước ở trong vương phủ ta nghe nói ngày mai trên phố "Hoa lỗi" có trưng bày "Thập nhị cẩm bình". Bình phong có thể lấy ra cho người ta thưởng lãm như vậy, ắt hẳn đều là trân phẩm thượng hạng.

Khẽ cắn chiếc môi anh đào tươi tắn nghĩ ngợi một chốc, nàng giật nhẹ vạt áo Dương Lăng nài nỉ một cách đáng thương: 
- Anh à! Ngày mai chúng mình đi xem một chút có được không?

Được?? Dẫn Đường Nhất Tiên đi đương nhiên là không thành vấn đề, nhưng "Tiểu Hoàng" sẽ chịu ở nhà sao? Mặc dù hiện trong thành Đại Đồng giống như binh doanh, có thể nói là đã rất an toàn rồi lại còn an toàn hơn nữa. Không ai có thể nhận ra Hoàng đế. Đừng nói là người trong Di Lặc giáo, thậm chí là quan viên toàn Đại Đồng đi chăng nữa, ngoại trừ mấy người Đại vương, Hồ Toản và Dương Nhất Thanh ra, cho dù Chính Đức đi ngay trước mặt bọn họ, chỉ cần hắn không mặc long bào thì ai biết được hắn là Hoàng đế?

Chớ nói là người ở nơi đây, ngay cả quan lại trong kinh, mấy người phẩm hàm thấp phải đứng xa xa hoặc mấy lão cận nặng vẫn vào chầu tuy trông thấy Hoàng đế mỗi ngày, song chỉ cần hắn không mặc long bào thì vẫn không thể nhận ra vị đại gia này. Thế nhưng bớt được việc nào hay việc nấy! Chỉ trong vòng vài ngày nữa Đoá Nhan Tam Vệ sẽ đến rồi, đừng để xảy ra chuyện gì thì vẫn hay hơn.

Thế nhưng tiểu mỹ nhân như Đường Nhất Tiên đã mềm mỏng yêu cầu thì quả thực không nỡ cự tuyệt. Dương Lăng định dằn lòng lắc đầu, chợt thấy Chính Đức đang đứng sau lưng Nhất Tiên vừa gật đầu vừa dựng tay như đao vung ra ngoài cửa, thái độ kiên quyết, như thể thúc giục y ưng thuận.

Đường Nhất Tiên dõi theo ánh mắt Dương Lăng nhìn ra đằng sau, trông thấy vậy không khỏi ngạc nhiên hỏi: 
- Ngươi đang làm gì đấy?

Tay của Chính Đức đứng sựng lại trên không như bị vọp bẻ, một chốc sau hắn mới ấp úng: 
- Tôi là thị vệ của đại nhân. Nếu đại nhân muốn ra ngoài, tôi đương nhiên phải hộ vệ bên người, ờ... tôi đang luyện tập võ công.

Đường Nhất Tiên bất giác rên lên một tiếng chán nản, lập tức giơ tay lên cốc vào đầu hắn một cái, giọng không vui: 
- Đồ ngu! Chưa thấy ai ngu gì mà ngu dữ như ngươi vậy đó! Nước đến chân mới nhảy thì trễ quá rồi còn gì?

Hoàng đế Chính Đức cười gượng gạo không thôi. Dương Lăng suy nghĩ một chút song vẫn thấy không ổn. Việc bản thân y bị bắt cóc ngay trên một con phố sầm uất của kinh sư, coi như là nhất thời sơ ý mà bị lật thuyền trong cống đi, không tính. Nhưng hôm nay vốn đã sắp đặt mọi thứ thoả đáng, cục diện tróc nã thích khách bám đuôi đi theo vốn mười phần chắc chín rồi, thế mà đột nhiên từ trên trời rơi xuống một đội quân giặc Thát đến đánh cướp kiếm ăn, suýt tí nữa thì đã sinh ra lắm chuyện, có thể thấy trên đời không có gì là tuyệt đối.

Y bèn lắc đầu, ậm ờ đáp: 
- Việc này... biểu ca vẫn còn rất nhiều công vụ phải làm, ngày mai có thời gian rỗi hay không cũng chưa thể nói trước được. Đến lúc đó hẵn tính nhé.

Đường Nhất Tiên ngoan ngoãn gật đầu: 
- Ừm, vậy biểu ca nghỉ ngơi cho khoẻ. Anh mới ở bên ngoài về, chắc còn chưa ăn cơm phải không?

Đúng vào lúc này, Ngũ Hán Siêu chợt mở nhẹ cửa phòng bước vào. Vừa thấy Chính Đức và Đường Nhất Tiên đều có mặt ở trong phòng, chàng không khỏi hơi ngẩn người, rồi ôm quyền thưa: 
- Ti chức ra mắt đại nhân, ra mắt tiểu thư.

Chính Đức và Đường Nhất Tiên quen trò chuyện cười đùa với nhau; Đường Nhất Tiên cũng không cảm thấy luôn miệng quát nạt hắn thì có gì là quá đáng, nhưng nàng lại rất tôn trọng những thuộc hạ khác của Dương Lăng. Nghe vậy, nàng liền cũng vội nghiêm chỉnh đáp lễ: 
- Ra mắt Ngũ đại nhân!

Dương Lăng hỏi Ngũ hán Siêu: 
- Sao? Có chuyện quan trọng gì à?

Ngũ Hán Siêu gật đầu đáp: 
- Dạ, đại nhân! Có một chuyện quan trọng..., 

Nói đến đây chàng ta thoáng ngừng lại. Đường Nhất Tiên hiểu ý, liền vội nói: 
- Biểu ca bận bịu công vụ, để em đi làm vài món ăn thanh đạm, nấu một chén cháo tẻ xanh (*)cho anh.
(*: nguyên văn "bích canh": một loại gạo tốt, có màu xanh, nấu thơm; được sử dụng trong hoàng cung, nhà quý tộc)

Rồi như một chú chim én nhỏ, nàng nhẹ nhàng xoay người bước đi. Vừa đi được mấy bước, trông thấy Chính Đức vẫn còn đứng tại chỗ trong phòng, nàng liền gọi: 
- Ngươi còn đứng ỳ ra đấy làm cái gì? Đi, giúp ta một tay! Đừng có làm vướng bận mọi người ở đây!

Chính Đức đành phải bất đắc dĩ bước theo nàng ra ngoài.

Dương Lăng vội hỏi Ngũ Hán Siêu: 
- Có chuyện gì quan trọng vậy?

Ngũ Hán Siêu đến gần Dương Lăng thưa nhỏ: 
- Binh mã của Miêu công công Tây xưởng và của tham tướng Hứa Thái đã trở về rồi.

Dương Lăng nghe xong liền phấn chấn tinh thần, mừng rỡ: 
- Tốt quá! Chỉ gần năm nghìn tinh kỵ mà dám thâm nhập đại mạc, Miêu Quỳ vì lập công mà mạo hiểm quá rồi, bản quan vẫn luôn lo lắng cho bọn họ, bọn họ trở về thì tốt rồi. Hiện tại bọn họ đang đóng quân ở nơi nào? Bản quan phải đi thăm bọn họ mới được.

Vẻ mặt Ngũ Hán Siêu trở nên có phần cổ quái, chàng đáp: 
- Dương tổng chế phái người phi ngựa đến báo, chính là muốn mời đại nhân đi. Bởi vì... bởi vì khi đại quân của Miêu công công và Hứa tham tướng trở về còn cướp thêm một người phụ nữ mang về nữa.

Dương Lăng nghe vậy liền sững người ra, lông mày nhíu lại.

Quân đội đơn độc ngoài biên tái, lúc nào cũng đối mặt với nguy hiểm chết người, y vốn cũng không hy vọng những mãnh tướng biên quân này dọc đường đánh giết sẽ không cướp đoạt tiền bạc châu báu, không lăng nhục phụ nữ. Thế nhưng ngang nhiên mang phụ nữ về là đã vi phạm quân kỷ nghiêm trọng rồi.

Miêu Quỳ là thái giám, tuy rằng thái giám cũng có kẻ thích mỹ nữ, song hiển nhiên Miêu Quỳ hứng thú với quyền lực hơn nhiều. Tự ý dẫn đàn bà về doanh, tám chín phần mười là chủ ý của vị võ trạng nguyên Hứa Thái rồi.

Không biết người phụ nữ nọ xinh đẹp đến cỡ nào mà có thể khiến cho Hứa tham tướng có tiền đồ như gấm lại dám bất chấp mối nguy bị ngự sử hặc tội mà cướp mang về?

Nghĩ đến đây, Dương Lăng không khỏi giật đánh thót trong lòng. Dương Nhất Thanh trị quân rất nghiêm, nhưng hắn mới tới, vẫn chưa thể tạo được đủ ân uy với tướng sĩ tam quan. Hứa Thái là bộ hạ của Tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc, lại là chiến tướng của cánh quân đơn độc xâm nhập đất giặc lập được công to. Ắt hẳn bởi không tiện lấy quân pháp chế tài hắn, cho nên Dương Nhất Thanh mới nhờ đến mình, vị khâm sai đại nhân có trách nhiệm tuần thị biên quan tay cầm Thượng Phương Bảo Kiếm, ra mặt.

Trị quân nghiêm cẩn cố nhiên được mọi người ủng hộ, nhưng vết tì sao che được ánh ngọc? Hứa Thái tập kích các bộ lạc Mông Cổ, tắm máu mà về, hắn còn chưa kịp nghỉ ngơi thì mình đã tế Thiên Tử Kiếm giết công thần rồi! Làm vậy sẽ có gây ảnh hưởng xấu với nhuệ khí và lòng quân hay không?

Dương Lăng nhíu mày đi tới đi lui mấy bước, chợt hỏi: 
- Người báo tin đang ở đâu? Đã kể những gì?

Ngũ Hán Siêu đáp: 
- Thưa đang chờ ở ngoài cổng gác ạ. Hắn nghe nói ti chức là thị vệ tùy thân của đại nhân mới bẩm báo rằng lai lịch của người phụ nữ này hết sức đáng ngờ. Dương tổng chế mời đại nhân lập tức đến Cổ Điếm một chuyến.

Dương Lăng nghe nói không phải là do muốn chém Hứa Thái giữ nghiêm quân kỷ mà do lai lịch kỳ quái của người phụ nữ bị bắt về thì mới thở phào hỏi tiếp: 
- Lai lịch đáng ngờ?

Ngũ Hán Siêu gật đầu đáp: 
- Dạ! Người phụ nữ này rất kín miệng, không tiết lộ gì về gia thế mình. Nhưng mà lúc Hứa tướng quân bắt mụ về, thị nữ đuổi theo gào khóc ở phía sau lại không ngừng réo gọi mụ là Khả gì đấy...

- Khả Đôn? - Dương Lăng rùng mình, kinh hãi - Hoàng hậu của Khả Hãn Mông Cổ?

Y lập tức đi đến bên tường lấy áo choàng, vừa đi ra ngoài vừa kích động bảo: 
- Đi! Lập tức tìm Trương công công đến, cùng đi đến Cổ Điếm.

Chú thích:
(1) chữ lót (tên đệm), để phân biệt vai vế trong họ tộc. 

Ví dụ: Vua Minh Mạng làm riêng cho con cháu mình bài “Đế hệ thi” gồm 20 chữ dành cho 20 đời:

Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quí Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thế Thụy Quốc Gia Xương

Con vua Minh Mạng có tên đệm là Miên như Miên Tông (Vua Thiệu Trị), Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương), Miên Trinh (Tuy Lý Vương).
Cháu nội vua Minh Mạng có tên đệm là Hường như Hường Nhậm (Vua Tự Đức).
Chắt nội có tên đệm là Ưng như Ưng Chân (Vua Dục Đức).

Không biết dòng họ Trương đặt tên đệm theo qui tắc nào, nhưng ý của tác giả là Trương Dần có vai vế rất cao, nghĩa là các người họ Trương khác chỉ còn ít người ngang vai vế với hắn, còn lại chỉ ngang vai con, cháu, chắt của hắn mà thôi.

(2) Chức quan chuyên trách việc chỉnh quân (rèn luyện, đào tạo, khen thưởng,…) ở những vùng trọng yếu, thời Minh.

Chương 200 - Hoàng Hậu Của Thảo Nguyên

Đường Nhất Tiên bước dồn, tay bưng chén cháo gạo tẻ nóng hôi hổi. Chính Đức đi theo ngay phía sau, tay cầm hai đĩa thức ăn trông rất tinh xảo, vội vội vàng vàng đi đến thư phòng trong ánh mắt áy náy của bọn đại nội thị vệ. Lại thấy trên giường không một bóng người, Đường Nhất Tiên bèn đặt chén cháo xuống, bước nhanh ra cửa hỏi bọn thị vệ: 
- Anh của ta đâu?

Một tay thị vệ cung kính đáp rất lễ phép: 
- Thưa tiểu thư! Đại nhân nhận được một tin tức quan trọng, đã vội vã chạy đi gặp Dương tổng chế rồi ạ.

Đường Nhất Tiên thất vọng quay trở vào phòng, phụng phịu ngồi xuống chiếc ghế chủ soái của Dương Lăng, hờn dỗi: 
- Biểu ca đâu phải là người sắt, cơm cũng không chịu ăn, thật là! Hoàng đế không sai ông lính đói mà, đâu ra kiểu dùng người như vậy chứ?!

Chính Đức hơi chột dạ, rụt cổ cười khan mấy tiếng, tay vẫn cầm hai món ăn không biết nên bỏ xuống hay làm gì.

Đường Nhất Tiên trừng mắt với hắn, nạt: 
- Để xuống đi! Ngươi tính cầm đến khi biểu ca ta về à?!

Chính Đức đặt đồ ăn lên bàn, giọng ngưỡng mộ: 
- Mỹ nhân rửa tay nấu canh! Không biết sau này công tử nhà ai có phước được nếm tay nghề của cô nương cô đây.

Đương Nhất Tiên nằm nhoài người lên bàn, tay chống cằm, cặp mắt mơ màng: 
- Chuyện đó... ta cũng từng nghĩ tới. Phu quân của Đường Nhất Tiên ta nhất định phải là một người đàn ông đầu đội trời chân đạp đất, hiên ngang, có chí khí. Y phải có bản lĩnh cao cường, có thể bảo vệ ta, bảo vệ con dân Đại Đồng khỏi bị giặc Thát ức hiếp, có thể lập nên chiến công lẫy lừng, lưu danh thiên cổ!

Chính Đức ngắm vẻ mơ màng ao ước của nàng, không khỏi gợn sóng trong lòng bèn thập thò trước mặt Nhất Tiên. Nào ngờ nói xong, Đường Nhất Tiên lườm hắn rồi cất giọng răn dạy: 
- Dù sao cũng không thể giống như ngươi được. Biểu ca thuộc giới thư sinh, lại ôm đồm mọi việc, dấn thân vào nơi hiểm cảnh cũng không sợ, còn ngươi thì sao?
Anh hùng không sợ xuất thân kém, chỉ sợ cả đời ôm mãi một nghề hèn. Những đại tướng quân đó không ai vừa sinh ra đã là tướng quân. Nhưng nếu ngươi cam tâm làm một tên tiểu binh cả đời, vậy thì sẽ không bao giờ có tương lai, chỉ có thể cả ngày chạy tới chạy lui hầu hạ người ta mà thôi.

Chính Đức đỏ mặt phản bác: 
- Tôi đâu có tệ như vậy? Tôi cũng từng muốn kiến công lập nghiệp chứ bộ. Đây là bởi... là bởi đại nhân bảo tôi đi nghe cô sai bảo mà.

Đường Nhất Tiên khẽ hừ mũi, ngước mắt lườm hắn một cái, thấy hắn quẫn bách như vậy, không khỏi chợt mềm lòng bèn khuyến khích: 
- Tiểu Hoàng à! Sáng nay ta thấy ngươi và đám thị vệ tỷ võ, tuổi ngươi dẫu còn trẻ song võ công lại rất khá. Sau này rảnh rỗi hãy đọc thêm một ít binh thư đi. Ngươi còn trẻ tuổi, sau này thành công, lập nên sự nghiệp, được bái tướng rồi làm một đại tướng quân tài kiêm văn võ sẽ tốt hơn nhiều.
Thật ra trước đây ta cũng vốn là kẻ hầu hạ người khác, hiện tại cũng không coi mình là đại tiểu thư. Thường ngày ta luôn mồm quát bảo ngươi chỉ bởi vì cảm thấy ngươi thật vui tính mà thôi, chứ không phải vì có ý muốn sai bảo ngươi đâu. Đàn ông các ngươi không thể so với đám phụ nữ chúng ta được, điều vinh quang của nam nhân nếu không là máu đổ sa trường thì là trị quốc an bang, tệ nhất cũng là làm một danh sĩ tài tử. Ngươi cần phải có một tí chí hướng mới phải!

Chính Đức nghe những lời nàng ấy nói xong thì cảm thấy xao động tâm tình. Hắn đỏ bừng khuôn mặt tuấn tú, im lặng hồi lâu mới trả lời, giọng chắc như đinh đóng cột: 
- Nhất Tiên cô nương! Cô hãy yên tâm, tôi sẽ không để cô thất vọng đâu! Tiểu Hoàng sẽ vĩnh viễn không chỉ là một tiểu binh! Rồi sẽ có một ngày, tôi sẽ đứng trước thiên quân vạn mã bình thản chỉ huy, sai khiến thiên quân, lập được chiến công lừng lẫy, lưu danh thiên cổ, làm đại tướng quân. Đúng! Làm một đại tướng quân vĩ đại nhất từ trước tới nay!

Đường Nhất Tiên bật cười khúc khích, chống cằm liếc hắn đáp lời: 
- Ta thất vọng làm gì nhỉ?! Ngươi có tiền đồ vẻ vang hay không thì có liên can gì tới ta chứ?

Nói xong nàng thu ánh mắt lại, trong lòng chợt xuất hiện cảm giác là lạ. Sóng mắt ngước lên, khéo chạm với ánh mắt si tình say đắm của Chính Đức, khuôn mặt xinh xắn chợt nóng bừng.

*****

Gió nổi, tuyết rơi bám đầy cung, đao.

Sáu mươi thớt chiến mã chạy ào ào qua khu phố thị thưa nhà, thẳng tới trấn Cổ Điếm ngoài thành bắc.

Đây là nơi trú quân, chỉnh đốn binh mã và nghỉ ngơi của Miêu Quỳ và Hứa Thái vừa tập kích Mông Cổ trở về.

Lần này Miêu Quỳ và Hứa Thái đã hoàn thành nhiệm vụ quấy rối sau lưng quân giặc một cách mỹ mãn, ý nghĩa của nó không thể nói là không lớn. Từ trước đến nay toàn là người Thát Đát vốn lấy du mục làm lẻ sống không ngừng xâm phạm biên cảnh cướp bóc. Lần này quân Minh chủ động xuất kích, xâm nhập vào thảo nguyên của giặc Thát, đả kích nhuệ khí và lòng quân của toàn thể bộ lạc Mông Cổ, khiến cho chúng hoang mang và sợ hãi hơn hẳn việc tiêu diệt mấy vạn thiết kỵ Mông Cổ trên đất Đại Minh.

Hơn nữa lần quấy rối này nhất định sẽ khiến các bộ lạc Mông Cổ vì sự sinh tồn mà sau kỳ vào xuân sẽ phát động một hồi nội chiến. Nếu như Đại Minh có thể nương theo xu thế mà đưa đẩy, giúp yếu diệt mạnh, lại tranh thủ thu lấy Đóa Nhan Tam Vệ vào tay, thì sẽ có thể khiến cho đại mạc mới hơi có dấu hiệu thống nhất lại tan thành nắm cát vụn, sa vào cái "loạn Chiến quốc". Nếu như Đại Minh lại thừa cơ mà xóa bỏ lệnh cấm, làm cho nước giàu, dân mạnh, luyện binh cường quân, thì mười năm sau, hai mươi năm sau sẽ...

Nghĩ đến đây, Dương Lăng không khỏi nóng rực trong lòng. Phía trước là một tòa tửu lầu hai tầng, cờ phướn màu đỏ lẫn đèn lồng đều trông có phần cũ rách. Trên nóc lầu cắm sừng sững lá cờ quân bằng da dê to và đỏ rực như máu và lá cờ soái viết hai chữ Miêu và Hứa, biểu thị rõ đây là nơi đồn trú của Hứa Thái và Miêu Quỳ.

Thiết kỵ chạy đến trước lầu, Dương Lăng lật đật xuống ngựa, thân binh dắt ngựa buộc sang một bên, Dương Lăng giũ giũ tuyết bám trên áo quần, nheo mắt ngước nhìn bầu trời mênh mông, mờ mịt.

Tuyết rơi như sương mù, tửu lầu cổ kính chìm vào trong tuyết, trắng xóa một màu, chỉ có cờ phướn và đèn lồng khẽ lay lay mang theo chút sắc đỏ nhàn nhạt. Lều trại chung quanh có binh tốt ra vào không ngừng, vài ba con chiến mã chốc chốc lại hí lên khe khẽ.

Trương Vĩnh cũng xuống ngựa, lúc này bên trong tửu lầu hay tin liền có một đám người chạy ra. Người đi đầu vừa trông thấy Dương Lăng và Trương Vĩnh liền vội mừng rỡ chạy tới chào hỏi: 
- Dương đại nhân! Trương công công! 
Vừa nói vừa bước tới chụp lấy cánh tay Dương Lăng.

Dương Lăng quét mắt nhìn, theo sau là Dương Nhất Thanh, Đỗ Nhân Quốc, bên cạnh còn có một vị tướng quân tuổi trạc hơn hai mươi, thân vận trang phục Mông Cổ, mặt vương đầy vẻ phong trần chưa kịp tẩy rửa cũng đang mỉm cười với mình. Trong lòng Dương Lăng chợt lóe linh quang, đoán ra người này ắt là Hứa Thái, Võ Cử trạng nguyên của hai năm về trước, nay là tham tướng Đại Đồng.

Khó trách bọn họ thuận lợi quét ngang đại mạc như vậy. Ngoài việc có được tin tức tình báo tỉ mỉ và bản đồ chuẩn xác do Nội xưởng cung cấp, binh sĩ kiêu dũng thiện chiến, xem ra việc dọc đường bọn họ cải trang giả dạng, ăn mặc thành người Thát Đát cũng là một trong những nguyên nhân thành công đây.

Dương Lăng không kịp nghĩ ngợi nhiều, lại nhìn kỹ Miêu Quỳ đang tràn đầy kích động đứng trước mặt. Vị xưởng công Tây xưởng vốn da mỏng thịt mềm đầy vẻ yếu đuối này nay cũng vận áo vải da thú thùng thình, mặt mày tay chân thô nhám, da dẻ đen nhẻm, nứt nẻ.

Bất chấp cái nguy hiểm giữa sự sống và cái chết mà xâm nhập vào đại mạc, nếm trải hết bấy nhiêu gian khổ, nói khó nghe một chút thì đó gọi là "tham cầu quyền thế", vậy phải tạo ra công lao gì, lập nên sự nghiệp gì mới được gọi là "kiến công lập nghiệp" đây? Ngay khoảnh khắc này, trong lòng Dương Lăng đã không còn bất cứ sự kì thị nào đối với vị Miêu công công này nữa.

Nắm chặt lấy tay Miêu Quỳ, y mỉm cười khích lệ: 
- Xưởng công! Năm nghìn thiết kỵ càn quét sa mạc an toàn mà trở về, công lao to lớn của ngài nhất định sẽ được chép vào sử sách. Đại Minh mở mang bờ cõi, bình định giặc Thát là bắt đầu từ ngày hôm nay!

Miêu Quỳ nghe mà lệ nóng quanh tròng. Gần một tháng trời vào sinh ra tử, ngày ngày hành quân vào nơi chó ăn đá, gà ăn sỏi, nay sự cực khổ đó có thể nhận được sự đánh giá cao như vậy, có thể nhận được sự tôn trọng của người khác như vậy, khiến trong lòng lão xúc động khôn thôi.

Trương Vĩnh vốn là bộ hạ Tây xưởng, gặp lại thượng ty cũ cũng bước lên an ủi mấy câu. Vị tướng quân vận áo quần Mông cổ nọ mỉm cười chờ hai bên hàn huyên xong mới bước nhanh lên trước, quỳ một gối xuống, cao giọng hô: 
- Mạt tướng Hứa Thái, bái kiến hai vị khâm sai đại nhân!

Dương Lăng và Trương Vĩnh vội vàng bước tới đỡ hắn lên, cười bảo: 
- Tướng quân vất vả lập được công to, chớ nên khách sáo như vậy.

Dương Nhất Thanh cười to: 
- Ha ha, nào nào! Bên ngoài trời tuyết lớn, chúng ta vào trong rồi nói tiếp.

Đám người vào trong lầu. Chính giữa căn phòng đặt một cái lò đất, chiếc nồi sắt trên lò đang sôi sùng sục, trong nồi đang ninh mấy miếng thịt dê lớn, bên cạnh là một chiếc bàn, trên bàn bày ra tỏi giã nhỏ, gia vị, một ít bánh nướng sữa, lương khô và vài chiếc bát to.

Dương Lăng không tiện hỏi ngay về chuyện vị Khả Đôn của Thát Đát nọ, bèn xoa xoa tay cười nói: 
- Bát rượu to, miếng thịt lớn, được! Bụng tôi cũng thấy hơi đói rồi. Nào nào! Chúng ta hãy ngồi quanh lò uống rượu, vừa ăn vừa chuyện trò nào!

Đoàn người kéo đến đến ngồi vào bàn. Ngồi tại đây phần lớn đều là võ tướng, Dương Nhất Thanh tuy xuất thân là quan văn, nhưng ban đầu giữ chức Tây Lương dưỡng mã, tiếp đó làm trấn soái biên quan, nên cũng đã sớm bị "đồng hóa". Ngoại trừ Trương Vĩnh ăn uống còn hơi nhã nhặn, đám người này ai nấy đều như sói ăn hổ nuốt, không còn chút dáng vẻ nào là trọng thần trong triều.

Miêu Quỳ lăn lộn trong đại mạc một tháng trời nên đã sớm quen với mùi vị tanh nồng, lấy dao chọc vào miếng thịt dê to còn đỏ au màu máu bên trong rồi cho ngay vào miệng nhai luôn, thỉnh thoảng lại bưng bát hớp một ngụm rượu nóng. Vẻ hào sảng ấy thực còn đàn ông hơn cả đàn ông.

Miêu Quỳ và Hứa Thái đã thuật lại cho Dương Nhất Thanh nghe kỹ càng quá trình xâm nhập đại mạc, lúc này lại kể cho Dương Lăng và Trương Vĩnh nghe, tâm tình đã không còn quá kích động như trước nữa. Tự chôn người dưới hố để trốn tránh bạo tuyết cuồng phong, bất ngờ gặp phải bầy sói đói hung tàn, ban đêm tập kích thiêu đốt cướp bóc bộ lạc Thát Đát, từng mẩu chuyện được liên tục kể lại. Bất kể là sự phiêu lưu giữa ranh giới của sự sống và cái chết, hay chém giết thỏa thuê, hoặc máu thịt tung tóe, giờ đặt mình trong căn phòng ấm áp và thoải mái này, bọn họ lại cảm thấy như đang kể về một câu chuyện trong quá khứ xa xăm.

Đợi cho hai người kể xong, Dương Lăng mới thở ra một hơi thật dài, hỏi thăm: 
- Nghe nói các vị trên đường về bắt được một người phụ nữ, là một vị Khả Đôn, chẳng lẽ là... hoàng hậu của Bá Nhan?

Hứa Thái lắc nhẹ đầu đáp: 
- Khó nói! Lúc chúng tôi trở về gặp phải bão tuyết, nhất thời không phân biệt được phương hướng, nếu tiếp tục ở lại đó thì toàn quân sẽ chết cóng, đành phải tìm chỗ chắn gió để ẩn náu, vô tình phát hiện trong một thung lũng bên sườn núi có một bộ lạc Mông Cổ nhỏ. Vốn định thuận tay cướp bóc bọn chúng cho nên chúng tôi chỉ phái ra một nhóm trăm người, không ngờ bộ lạc nho nhỏ ấy lại không có người già và phụ nữ yếu đuối, tuy không có đến năm trăm người, song lại đều là dũng sĩ thiện chiến.
Mạt tướng thấy thế tấn công bị cản trở bèn lập tức dẫn toàn quân tấn kích, lúc ấy mới tiêu diệt hết bọn chúng. Có một thị nữ người Mông Cổ quýnh quáng chạy đến một căn lều lớn gào kêu Khả Đôn trốn đi, lính trinh sát của mạt tướng hiểu tiếng Thát Đát, bèn lập tức dẫn mạt tướng đuổi theo. Mạt tướng phát hiện người phụ nữ này ắt hẳn có lai lịch không tầm thường, nên mới dẫn bà ta trở về.

Trương Vĩnh ngạc nhiên hỏi: 
- Nếu đã gọi là Khả Đôn, chẳng lẽ Bá Nhan còn có hoàng hậu thứ hai hay sao? Sao vẫn không thể xác định lai lịch của người đàn bà ấy?

Miêu Quỳ mỉm cười giải thích: 
- Lão Trương à! Người Mông Cổ khác với người Hán chúng ta, vợ của Đại Hãn Mông Cổ và vợ của mấy thủ lĩnh bộ lạc lớn đều được xưng là Khả Đôn, ngoài ra hậu cung của Đại Hãn Mông Cổ thi hành chế độ "Oát Nhĩ Đóa". "Oát Nhĩ Đóa" là cung điện dưới hình thức lều trại, mỗi "Oát Nhĩ Đóa" đều có thể cho lập một hoàng hậu, dưới hoàng hậu lại có một số phi tần.

Dương Nhất Thanh tiếp lời: 
- Cho nên một hoàng đế Mông Cổ có thể đồng thời có một, hai, thậm chí vài hoàng hậu. Người phụ nữ này hết sức quật cường, mặc cho chúng tôi tra hỏi thế nào cũng không hề hé lộ nửa lời về lai lịch mình, cho nên rất khó để xác định. Có điều nhìn vào năm trăm thiết kỵ dũng mãnh thiện chiến canh gác bên người, có thể thấy địa vị của Khả Đôn này nhất định không tầm thường.

Dương Lăng nghĩ ngợi một lúc rồi hỏi: 
- Bà ta đang ở đâu? Chúng ta đi gặp thử một tí.

Mọi người đã ăn gần xong, Dương Nhất Thanh đứng dậy: 
- Bà ta đang bị nhốt trên lầu, đưa đồ ăn thì không cự tuyệt nhưng khi hỏi thì không chịu mở miệng, sợ rằng sẽ không tra hỏi được gì. Nhưng mà lai lịch người phụ nữ này không tầm thường, phải thu xếp thế nào cho ổn thỏa thì chúng tôi lại nghĩ mãi không ra.

Đoàn người bước lên dãy cầu thang kẽo kẹt đi lên lầu hai. Thị vệ gác cửa trông thấy các vị đại nhân đến, vội vàng thi lễ nhường đường. Hứa Thái đi trước dẫn đầu, đẩy cửa phòng mời các quan lớn vào. Ngồi bên giường là một bà lão ăn mặc theo kiểu người Mông Cổ, đầu tóc bạc phơ, mặt đầy nếp nhăn. Nghe thấy tiếng động, bà lão quay ra, díp mắt lại quan sát bọn họ.

Dương Lăng rất đỗi bất ngờ. Bà lão này trông tuổi ít nhất cũng phải chừng sáu mươi, quần áo cũng hết sức bình thường, không giống phu nhân tù trưởng bộ lạc lớn có quyền có thế. Trong lúc bọn họ quan sát tỉ mỉ người phụ nữ già cả đó, bà ta cũng dùng cặp mắt sắc bén không tương xứng với tuổi tác quan sát kỹ bọn họmột hồi rồi chậm rãi dời ánh mắt đi.

Một thị vệ biết ngôn ngữ Thát Đát đứng bên cạnh quát lớn mấy tiếng với bà ta, bà lão liếc hắn một cách khinh miệt, không nói gì. Dương Lăng khẽ lắc đầu, thấp giọng nói với Hứa Thái: 
- Bên người bà ta có vật gì có thể chứng minh danh phận không? Ví dụ như năm trăm thị vệ nọ, cờ xí có vẽ ký hiệu gì, thuộc về bộ lạc nào hay không?

Hứa Thái cũng thấp giọng đáp: 
- Lạ là lạ ở chỗ đó. Trang sức trên thân ngựa, lều trại và quân giới của đám thị vệ đó đều hết sức tinh xảo. Theo lý thuyết thì trên đại mạc chỉ có đội thị vệ thân tín nhất của Bá Nhan Khả Hãn mới được trang bị như vậy, thế nhưng bộ lạc nho nhỏ năm trăm người này đều là chiến sĩ hạng nhất, được trang bị vũ khí tốt nhất.
Hơn nữa bọn chúng chừng như không phải đang bảo vệ bà lão này, mà là chịu trách nhiệm giám thị bà ta. Lúc chúng mạt tướng xông vào đại doanh, người thị nữ xông vào la bảo bà ta chạy đi lại bị quân Thát Đát canh giữ ngoài lều trại giết chết, ngay sau đó tên giặc Thát đó còn muốn giết bà lão này, mạt tướng phải bắn một phát tên giết chết hắn... Thật sự là kỳ quái.

Quả thật là kỳ lạ, vợ của nhân vật lớn nào lại phải dùng đến đội thiết kỵ tốt như vậy để bảo vệ? Phải biết rằng vào lúc bình thường, các bộ lạc muốn tập hợp một nghìn chiến sĩ trở lên đều không hề dễ; mà bộ lạc của bà lão này lại có đến năm trăm người bảo vệ, lại toàn bộ đều là chiến sĩ thuộc loại cang cường dũng cảm, hơn nữa trong bộ lạc không có đàn bà và trẻ em, hiển nhiên có người khác cung ứng mọi thứ cần thiết cho bọn họ. Vào lúc nguy cấp thị vệ lại dám tự ý giết bà ấy, rốt cuộc bà ta là ai? Là được bảo vệ hay là bị giam lỏng?

Được trang bị vũ khí, chiến giáp tinh xảo chỉ có ở đội hộ vệ cận thân của Bá Nhan Khả Hãn, một bộ lạc kỳ quái được tạo thành từ năm trăm tinh binh, thị vệ dám giết chủ vào lúc nguy cấp, phu nhân quí tộc Khả Đôn tuổi trạc lục tuần...

Hàn Lâm là thương nhân buôn lậu với người Mông Cổ lớn nhất ở Đại Đồng, thám thính được rất nhiều bí mật không mấy ai biết. Ngoại trừ những điều cơ mật về mặt quân sự, những tướng soái biên quan này không hề hay biết về những thứ khác, nhưng Dương Lăng lại biết rất rõ.

Y thoáng ngẫm nghĩ, chợt máy động trong lòng, bèn gọi viên thị vệ biết tiếng Thát Đát nọ nói nhỏ một hồi. Viên thị vệ nọ hơi ngẩn người, rồi xoay người thuật lại cho bà lão đó một lượt. Bà lão nọ nghe xong thì kinh hãi đến run lẩy bẩy. Bà lập cập đứng lên, gào thét mấy câu, hai mắt trợn trừng nhìn Dương Lăng như trông thấy quỷ dữ.

Thị vệ rất kinh ngạc, quay người lại khâm phục thưa: 
- Đại nhân! Bà ta nói Bá Nhan là vua của thảo nguyên, là con cháu của Thành Cát Tư Hãn, sẽ không thể thất bại. Cho dù Hỏa Sư có dã tâm cũng quyết không dám phản bội hắn, y không có thực lực đó, không có danh vọng đó, nhưng lại có trí tuệ biết cân nhắc lợi hại. Bà ta bảo chúng ta nói xằng.

Hoa đèn chợt loé sáng, ánh mắt Dương Lăng cũng loé lên. Từ sự quan tâm chú ý và phản ứng dữ dội của bà lão này đối với lời nói của y, y đã xác định được lý lịch của bà lão này đến tám phần. Dương Lăng mỉm cười vỗ vai viên thị vệ nọ, thử thăm dò lần cuối: 
- Nói với bà ta vừa rồi đích thực là ta nói xằng. Song Bá Nhan sớm muộn gì nhất định cũng sẽ thua vào tay ta, xin Mãn Đô Hải hoàng hậu bệ hạ hãy rửa mắt chờ xem!


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: