Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

126 128

Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển bốn - Dương Lăng xuống Giang Nam

Chương 125 - Trong Hỏi Ngoài Tra (phần 2)

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!

Bồi hồi, y dường như nhìn thấy một người con gái xinh đẹp mặc đồ trắng thướt tha mờ ảo, yểu điệu mảnh mai như một đoá thược dược nhẹ nhàng bước ra từ trong nước, khuôn ngài ẩn chứa mối thâm tình, đang bước về phía y. Dáng đi thong thả ấy, cử chỉ không chỗ nào không quyến rũ ấy, khiến cho người ta phải thất thần.

------------------------

Chương 125 - Trong Hỏi Ngoài Tra

------------------------

Ngày hôm sau, quan viên bản xứ và thân sỹ địa phương lần lượt đến chính thức thăm viếng khâm sai đại nhân, nhất là những quan lại và thân sỹ hôm qua không có tư cách tham dự tiệc tẩy trần khoản đãi Dương khâm sai.

Đương nhiên tất cả những người đến viếng thăm đều không thể đi tay không: hoặc ngân phiếu, hoặc châu báu thư họa, hoặc đặc sản địa phương; dược liệu trân quý các loại cũng không ít. Dương Lăng cố ý tạo hình tượng một viên quan tham tiền hám lợi vô trách nhiệm, cho nên y không khước từ một ai.

Cao Văn Tâm không biết rõ nội tình, nàng không thích lão gia nhà mình biến thành kẻ cơ hội như vậy. Trong lòng bực bội song lại không tiện phát tiết, cho nên mặc dù được Dương Lăng sai ngồi làm "kế toán viên", nàng lại chẳng thèm đếm xỉa đến những kẻ biếu quà.

May mà những người này đều sớm hay rằng Dương Lăng lần này đến đây chỉ mang theo một cô tỳ nữ xinh đẹp này, hơn nữa nghe nói mỗi tối nàng thường xuyên len lén chui vào phòng khâm sai. Ai còn dám đối đãi với nàng như thị nữ chứ?

Giang Nam là địa phương đông đúc và giàu có nhất thiên hạ. Những phú hào đó đều có gia tài ức vạn, đến thăm viếng xưởng đốc Nội xưởng có quyền lực khuynh đảo triều đình nào dám tặng lễ vật tầm thường? Tuy không dám nói là kỳ trân dị bảo nhưng những món quà biếu tặng cũng đều đắt giá vô cùng.

Cao Văn Tâm đang ghi chép từng hạng mục, bỗng nhiên nha sai dẫn một thương nhân buôn muối vào. Không ngờ người này đem tặng bốn mỹ nữ gồm hai người Cao Ly và hai người Đông Doanh. Bốn nữ tử này dáng điệu tuy không xinh đẹp bằng Cao Văn Tâm, nhưng vẻ phong tình ngoại quốc ấy lại quả thực rất mới mẻ.

Cao Văn Tâm thật sự đã nổi giận, nàng mang bút lông xông thẳng vào phòng khách. Dương Lăng vừa mới tiễn một thương nhân buôn trà về, thấy nàng đang cầm bút lông, dáng điệu tức giận trông rất xinh đẹp, không khỏi cười hỏi:

- Sao vậy? Ai lại chọc cô giận à?

Cao Văn Tâm chua chát đáp:

- Lễ vật người ta tặng, tiểu tỳ đều sai người đưa vào trong kho. Giờ có người đến tặng bốn món vật sống, tiểu tỳ không biết có nên đưa lên giường lão gia hay không, cho nên phải đến xin ý kiến lão gia.

Dương Lăng đảo tròng mắt rồi cười nói:

- Đưa lên giường tôi à? Ha ha, có phải có người đến tặng mỹ nữ không? Đi đi đi, ra ngoài xem thử.

Y còn tưởng có người tặng mỹ nữ Giang Nam cho mình, khi ra ngoài nhìn thì lại là bốn nữ tử nước ngoài, đương nhiên nhận ra người đeo bọc vải nhỏ trên lưng là người Nhật Bản, bất giác ngẩn ra.

Đang cung kính chờ đợi khâm sai đại nhân triệu vào gặp, vị thương gia buôn muối trông thấy bốn tay nha sai đang vây quanh một vị công tử thiếu niên vận cẩm bào đai ngọc đi ra, vị mỹ nhân ghi chép sổ sách nọ đang cầm cây bút lông đi theo sau, môi cong như thoa mỡ, thì biết người đi trước chính là khâm sai đại nhân. Gã không khỏi có cảm giác được yêu mến mà lo sợ, bèn quỳ xuống cười nịnh nọt thưa:

- Thảo dân Đỗ Sách bái kiến khâm sai đại nhân!

Dương Lăng nói:

- Bản quan xuôi Giang Nam chỉ là tuần tra tình hình thuế khoá địa phương thôi, thực không muốn làm phiền đến danh lưu thân sỹ địa phương. Đỗ tiên sinh đang bao bộn bề lo toan mà vẫn đến thăm viếng, bản quan thẹn không dám cáng đáng.

Tay thương gia buôn muối Đỗ Sách đó cười bồi đáp:

- Nào có nào có! Thảo dân may mắn gặp được đại nhân, đó vận tốt của thảo dân. À... thảo dân nghe nói đại nhân đi đường mệt mỏi, ngay cả nha đầu để sai vặt bên người cũng không có, cho nên đã cố công mua bốn thị tỳ tặng đại nhân để hầu hạ hằng ngày, xin đại nhân vui lòng nhận cho.

Đứng bên cạnh, Cao Văn Tâm ho khan hai tiếng. Dương Lăng nghe thấy trong lòng cười thầm, y cũng không tính sẽ xuống Giang Nam đem theo một đám mỹ nữ về biến nhà mình thành Đại Quan viên(4). Đang tính mở miệng từ chối khéo, y chợt nghe một giọng cười nói oang oang cất lên:

- Thì ra ông chủ họ Đỗ cũng đến rồi à? Chạy còn nhanh hơn ta! Ha ha ha, ông có tặng mỹ nhân thì cũng nên tặng cực phẩm một chút mới được! Nhớ khi xưa có vị tuyệt sắc giai nhân, đến ta thấy mà còn mê mẩn, âm thầm trao lòng cho Dương đại nhân mà Dương đại nhân vẫn năm lần bảy lượt từ chối khéo, sao đại nhân có thể để mắt đến mấy cô gái này?

Lời vừa dứt, liền thấy một vị quan văn râu ria xồm xoàm, hai tay chắp sau lưng, ưỡn bụng bước dài đến nơi. Dương Lăng ngước mắt nhìn, trông thấy đúng là huyện lệnh Mẫn Văn Kiến một đao chém chết vương tử Thát Đát ở Kê Minh khi xưa, liền vội chạy lên mấy bước, nắm chặt tay lão mừng rỡ chào:

- Mẫn đại nhân!! Đã mấy tháng không gặp, thật nhớ ông muốn chết.

Mẫn Văn Kiến vẫn trực tính như xưa, chỉ là bụng đã bự hơn một chút, lão vội cựa khỏi tay y, quỳ xuống làm lễ:

- Hạ quan Mẫn Văn Kiến ra mắt...

Dương Lăng ngăn đỡ lão dậy, trách:

- Mẫn đại nhân của ta ơi! Đến Giang Nam rồi, nhìn đại nhân nói chuyện cũng đã ra vẻ nho nhã, sao lại còn chú trọng đến những thứ lễ nghi rườm rà này nữa? Nếu không có ơn tri ngộ của đại nhân, sao có tại hạ hôm nay. Đại nhân cũng đừng khách khí như vậy nữa.

Mẫn Văn Kiến đứng thẳng người lên cười nói:

- Lễ nghi nào nên chú trọng vẫn cần phải chú trọng chứ! Ha ha ha! Từ lúc đại nhân đến kinh sư, thường có những tin tức khó tin lan truyền đến Giang Nam, Mẫn mỗ nghe kể xong lúc thì thấp thỏm lo lắng, khi lại vui sướng không thôi. Vốn dĩ còn tính chạy chọt khắp nơi để điều đại nhân đến Giang Nam. Giờ thực tốt quá, rốt cuộc đại nhân đã đến, nhưng lại không phải do Mẫn mỗ điều động, ha ha ha...

Thương gia Đỗ Sách bước tới cười nói:

- Hoá ra Diêm vận sứ đại nhân và khâm sai đại nhân là cố giao à! Thất kính thất kính.

Mẫn Văn Kiến nheo cặp mắt tròn như đậu xanh nhìn hắn rồi cười nói:

- Sao? Có phải là cảm thấy kính nể bản quan rồi không?

Lão lại liếc mắt sang bốn mỹ nhân ngoại quốc nọ, nói tiếp:

- Đừng bảo bọn họ ở đây nữa! Ngươi cũng được xem như là một nhân vật khôn khéo, không lẽ chưa từng nghe nói chuyện đương kim thiên tử hạ chỉ ban thiếp sao? Dương đại nhân có tầm mắt như thế nào? Mấy nha đầu non nớt này lọt được vào mắt đại nhân ư?

Dương Lăng bật cười nói:

- Mẫn đại nhân! Đại nhân đến Giang Nam mới có mấy tháng mà giờ đã xuất khẩu thành thơ rồi. Thật sự khiến người ta phải rửa mắt mà nhìn.

Mẫn Văn Kiến nghe vậy thì cười lớn:

- Không còn cách nào khác, không còn cách nào khác! Cả ngày nghe bọn họ nói những từ ngữ này nên lỗ tai ta cũng quen rồi, thế nào cũng phải nhớ được mấy câu.

Dương Lăng vừa chuyện trò cùng lão, vừa mời hai người vào phòng khách, rồi kêu người dâng trà tiếp đãi.

Thật ra vị thương nhân buôn muối nọ còn buôn bán thứ khác. Lần này hắn đến Hàng Châu là để tiếp nhận một lượng hàng hóa lớn từ trong kinh do thuyền quan Dương Lăng vận chuyển. Mắt thấy người đẹp mà mình đem tặng không hợp tâm ý của khâm sai đại nhân nhưng cũng không thể cứ đến tay không một chuyến như vậy. Phải biết rằng bấu víu được vào gốc cây to này, sau này có chuyện gì, chỉ cần đại nhân thuận miệng nói một câu thì hắn cũng được ích lợi không biết đến dường nào.

Nghĩ đến đây, ông chủ họ Đỗ lấy từ trong ngực ra một đôi khuyên tai trân châu, vốn là món quà lão mua từ Kim Lăng chuẩn bị tặng cho người thiếp xinh đẹp mà lão sủng ái nhất, hai tay dâng lên thưa:

- Là thảo dân lỗ mãng rồi! Bốn cô gái này chốc nữa thảo dân sẽ dẫn đi. Đôi khuyên tai trân châu này chính là chút lễ mọn, thật sự không tỏ được lòng kính trọng, đại nhân nhất định phải nể mặt cho.

Đôi khuyên tai trân châu đó được chế tạo xinh đẹp tinh xảo, trân châu bóng tròn chắc mẩy, kích cỡ đều đặn, màu sắc và ánh sáng thu hút người ta, đặt trong lòng bàn tay tỏa ra ánh sáng mượt mà thăm thẳm, vừa nhìn liền biết ngay nó là châu báu đắt giá vô cùng. Dương Lăng thuận tay nhận lấy rồi đưa cho Cao Văn Tâm, thấy nàng còn cầm bút, liền cười nói:

- Không cần ghi đâu, đôi khuyên tai này tặng cho cô đó.

Cao Văn Tâm đỏ mặt liếc y một cái rồi nhanh nhẹn xoay người đi ra. Vẻ vui mừng e thẹn hiện lên bất chợt ấy cực kỳ rung động lòng người. Ông chủ họ Đỗ bừng tỉnh, thầm nhủ: "Thì ra khâm sai đại nhân mê luyến người con gái này, khó trách y không nhận mỹ tỳ mình tặng. Tư dung của vị cô nương này quả thực hơn bọn chúng không chỉ là một bậc."

Hai người và Dương Lăng chuyện trò một hồi về chuyện nhà chuyện cửa. Tâm ý đã tặng xong, biết rõ rằng khâm sai đại nhân và Mẫn đại nhân xa cách lâu ngày mới gặp ắt có nhiều chuyện muốn thổ lộ, cho nên Đỗ Sách ngồi một lát thì đứng dậy cáo từ.

Tiễn Đỗ Sách về xong, Dương Lăng và Mẫn Văn Kiến quay lại chỗ ngồi. Mẫn Văn Kiến mời:

- Đại nhân! Lần này xuôi Nam nhất định ngài phải tranh thủ đến Hải Ninh một chút đấy. Khoảng cách không quá xa, đến khi ấy để ta cũng được tận lễ chủ nhà.

Dương Lăng cười đáp:

- Nếu có cơ hội, tại hạ nhất định sẽ đi. Mẫn đại nhân ở Hải Ninh mọi thứ vẫn tốt chứ?

- Vẫn tốt, sự giàu có và sung túc nơi đây còn lâu phương Bắc mới sánh bằng, có điều quân đội nơi này so với biên quân của chúng ta thực thua kém quá xa. Nghe nói bây giờ phía bên kia biển, chư hầu các nơi của Nhật Bản đang làm loạn, thường có một vài võ sỹ và lãng nhân(5) thất thế không chốn nương thân bèn cấu kết với một số thuyền buôn đi đến chỗ của chúng ta cướp bóc khắp nơi.

Con bà nó chứ! Không ngờ là còn có một đám gian thương, cường hào, lưu manh, hải tặc của địa phương mật báo tin tức cho bọn chúng, dẫn đường cho bọn chúng, thậm chí còn trực tiếp tham gia cướp bóc.

Ta vừa đến Hải Ninh gặp đúng lúc phải giặc Oa đến tập kích quấy rối. May mà bản thân Diêm vận ty có đội ngũ hộ tống hơn ba trăm người, sức chiến đấu còn phải mạnh hơn quan binh một chút. Bọn giặc Oa đó lại không đông, bị ta dẫn người ra sức giáo huấn những tên ranh đó một trận, một cây Đại Khảm đao đã chém chết hơn hai chục tên. Hiện không còn thấy bọn chúng dám đến Diêm vận ty của ta sinh sự nữa.

Dương Lăng lại một lần nữa nghe đến hai chữ "giặc Oa" này, không kiềm lòng được bèn chú ý hỏi:

- Thế lực của những tên giặc Oa này lớn mạnh lắm sao?

Mẫn Văn Kiến cười khinh thường:

- Sức chiến đấu không bằng giặc Thát, nhân số lại chỉ là một đám giặc lang thang. Có điều đường bờ biển quá dài nên khó đề phòng cho xuể; hơn nữa quân đội nơi đây quá yếu, thông thường một đám giặc Oa khoảng trăm tên đổ bộ thì đã đủ để tung hoành ngang dọc rồi.

Ta nghe nói chư hầu các nơi ở Nhật Bản đang đấu đá tranh quyền lẫn nhau, trong tay đều thiếu bạc, cũng có chư hầu từng muốn thông thương buôn bán với Đại Minh chúng ta. Đáng tiếc số lượng bến cảng thương mại và hàng hoá giao dịch mà chúng ta cho phép lại quá ít, không thể thoả mãn nhu cầu của bọn chúng.

Bọn chúng chó cùng rứt giậu, bèn tổ chức luôn nhân mã rồi cấu kết với đám thương gia phạm pháp âm thầm buôn lậu. Nhược bằng bị thuỷ quân truy đuổi không buôn bán được thì đổi nghề chuyển sang làm cường đạo. Bọn chúng đến rồi đi ngay, trốn vào biển khơi, chúng ta thật không làm gì được bọn chúng.

Dương Lăng máy động trong lòng, thầm nghĩ: "Thì ra trong những hải tặc này có kẻ vì muốn làm ăn buôn bán hợp pháp không được mới đổi nghề làm hải tặc. Trước kia chỉ nghe nói giặc Oa tham lam tàn bạo, thường xuyên cướp bóc dân chúng vùng duyên hải chứ chưa hề được nghe ai nói đến nguyên nhân này.”

Dương Lăng lặng lẽ gật đầu, suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Muốn giải quyết những vấn đề này, xem ra phải thực hiện song song việc khơi thông và ngăn chặn mới được. Một mặt tăng cường sức mạnh quân sự, khiến bọn chúng phải e dè, không dám tuỳ tiện xâm phạm; mặt khác còn phải mở cảng thông thương hợp pháp, chủ động làm ăn buôn bán với chúng, đôi bên cùng có lợi, có gì là không tốt

Những hải tặc đó chỉ dựa vào cướp bóc thì có thể cướp được bao nhiêu thứ từ trong tay dân chúng chứ? Đa số chỉ đủ trám miệng bọn chúng mà thôi. Nếu thấy rõ những ích lợi có thể kiếm được, ắt những kẻ này sẽ lắc mình biến thành thương nhân ngay...

Nói đến đây, Dương Lăng chợt ngậm miệng: Chỉnh đốn quân đội là việc Nội xưởng làm được sao? Mở cảng thông thương? Văn thần trong triều không gật đầu, chính sách này có thể được thực hiện à? Chỉ quyền lực và quan hệ không thì không đủ, còn phải thay đổi tư tưởng và nhận thức của mọi người, còn quá nhiều điều kiện chưa chín muồi, cho nên toàn bộ những thứ này dứt khoát không phải là những điều mà hiện giờ y có thể làm. Y có cơ hội và thời gian đi làm mấy việc này sao?

Mẫn Văn Kiến nghe nhưng không hiểu những thứ này, thấy y nhíu mày lo lắng cho dân chúng Giang Nam, bèn vội cười nói:

- Đại nhân không phải lo lắng. Giặc Oa phần lớn đến từ biển, từ biển muốn đổ bộ ắt phải dựa vào sức gió; cho nên mùa nào nổi gió gì, lúc nào giặc Oa lên bờ, phần lớn đều phải theo qui luật, có muốn thay đổi cũng không được.

Chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng thì bọn chúng sẽ không dấy lên được bao sóng gió đâu. Cùng lắm chúng chỉ cướp đoạt ít làng chài, cũng không có bao bản lĩnh. Ờ... thông thường là giữa tháng tư, tháng năm và tháng chín, tháng mười hằng năm là những tháng thích hợp để đi thuyền vượt biển, lúc đó giặc Oa sẽ chạy đến cướp bóc. Trước khi đến thăm đại nhân ta đã sai quan binh Diêm vận ty tăng cường phòng bị, chỉ cần qua hai tháng này, bọn chúng có muốn đến nữa cũng phải đợi đến tháng tư năm sau thôi.

Dương Lăng và Mẫn Văn Kiến đang tán gẫu, Trịnh bách hộ chạy vào thưa:

- Khải bẩm xưởng đốc đại nhân, Mạc công công đã chuẩn bị xong kiệu xe, mời đại nhân cùng đến núi Sư Tử khảo sát.

Dương Lăng nghe vậy đứng lên, áy náy bảo:

- Mẫn đại nhân! Đại nhân và tại hạ xa cách từ lâu mới gặp lại, đáng lý tại hạ nên bày rượu cùng đại nhân chuyện trò cho thỏa thích một phen. Chỉ là hôm nay tại hạ đã cùng Mạc công công thoả thuận sẽ cùng đến núi trà tuần tra. Không biết Mẫn đại nhân trọ ở nơi nào, đợi tối nay tại hạ trở về sẽ lại cho người mời đại nhân đến, chúng ta cùng nhau nâng chén, không say không về.

Mẫn Văn Kiến cười hào sảng đáp:

- Với giao tình của hai ta, đại nhân còn nói những lời khách sáo này làm gì? Có điều đại nhân đường sá xa xôi đến đây, muốn gặp mặt một lần không dễ, cho nên ta mới tranh thủ thời gian chạy đến. Cha già bệnh tình nguy kịch, Diêm vận sứ đại nhân đã xin phép nghỉ về quê; ta thực không dám gác lại công việc quá lâu, cho nên hôm nay sẽ phải chạy về rồi. Nếu đại nhân có thể đến Hải Ninh tuần tra, chúng ta sẽ lại uống thoả thích một phen.

Dương Lăng hồ hởi:

- Được! Khó có dịp đến Giang Nam một chuyến, tại hạ nhất định sẽ đến Hải Ninh.

Mẫn Văn Kiến chợt nhướng mày, cười giảo quyệt:

- Đã biết khó có dịp đến Giang Nam một chuyến, vậy... có đi Kim Lăng không?

Dương Lăng ngẩn ra:

- Nam Kinh? Lần này tuần thị thuế khoá Giang Nam, hình như không cần đi Nam Kinh thì phải?

Y vừa đáp vừa thầm nghĩ trong lòng: "Đi đến đó làm gì nhỉ? Vương Quỳnh đang ở Nam Kinh, tuy rằng lão già ấy hận mình đến thấu xương nhưng thực ra bản tính không tệ, mình cũng không muốn làm khó lão, nhưng nếu đi đến đó khó tránh phải chạm mặt cùng lão. Con trai lão chết trong tay mình, đến lúc gặp lão cũng không biết sẽ xảy ra chuyện gì đây. Còn về phần Mã Liên Nhi... chậc!”

Mẫn Văn Kiến cười hắc hắc đáp:

- Lộ trình không xa quá, thật ra nhín chút thời gian đại nhân cũng có thể đi thăm Kim Lăng một lúc.

Lão mỉm cười nói tiếp:

- Lúc ta vận chuyển muối đến Nam Kinh, đã từng tình cờ gặp ái nữ của Mã dịch thừa. Cô nàng đó thực sự là nghĩa nặng tình sâu với đại nhân à! Nếu đại nhân phụ người ta, ngay cả ta cũng sẽ nhìn không vừa mắt đâu.

Lão vừa nói vừa rút từ trong ống tay áo một tờ giấy đã được gấp lại, nhét vào trong tay Dương Lăng:

- Đây là nơi ở của nàng ấy. Ha ha, ta đã hết lời trong chuyện này rồi, đi hay không đại nhân hãy tự quyết định.

Xử lý xong việc này, dường như Mẫn Văn Kiến hết sức vui vẻ, toét miệng cười đắc chí.

Dương Lăng tiễn lão ra khỏi cổng, trông thấy trước cổng đã có hai kiệu ngựa đang đậu, Trịnh bách hộ dẫn theo một ít nha sai, còn có thuế lại (nhân viên thu thuế) và một ít nô bộc của Mạc phủ đang đứng bên ngoài.

Dương Lăng cáo từ Mẫn Văn Kiến, dõi theo chiếc kiệu của lão từ từ đi xa. Y đứng dưới bức tường xanh mọc đầy dây leo, ngắm nhìn liễu xanh sông biếc cạnh bờ tường, ngẩn ngơ vuốt ve miếng giấy trong tay thật lâu.

Bồi hồi, y dường như nhìn thấy một người con gái xinh đẹp mặc đồ trắng thướt tha mờ ảo, yểu điệu mảnh mai như một đoá thược dược, nhẹ nhàng bước ra từ trong nước, khuôn ngài ẩn chứa mối thâm tình, đang đi về phía y. Dáng đi thong thả ấy, cử chỉ không chỗ nào không quyến rũ ấy, khiến cho người ta phải thất thần.

"Quân tự minh nguyệt ngã tự vụ,

Vụ tùy nguyệt ẩn không lưu lộ,

Chích duyên cảm quân nhất hồi cố,

Ngã tiện tư quân triều dữ mộ.

Hồn tuỳ quân khứ thiên nhai lộ,

Y đái tiệm khoan bất giác khốc,

Tích thán niên hoa như triều lộ,

Hà thời hàm nên sào quân ốc...

Tam thập lục luân minh nguyệt hậu,

Đương vi quân tác nghê thường vũ..."

Dịch thơ:

Thiếp tựa mù giăng chàng tựa trăng

Trăng lặn mù tan đọng sương lan

Cảm lòng chàng một phen ngóng lại

Tim này nhớ ai bao ngày sang

Hồn theo chàng đến cuối chân trời

Thân gầy áo rộng lệ tuôn rơi

Xuân xanh tàn tận dường sương sớm

Khi nao hội ngộ hỡi người ơi

Ba sáu mùa trăng tỏ sẽ qua

Sẽ múa chàng khúc Nghê Thường ca... (hieusol)

Dương Lăng khẽ ngâm hết câu thơ cuối cùng, nghĩ đến ba mươi sáu mùa trăng tỏ sau, mình và Mã Liên Nhi sớm đã người, ma hai ngả, đôi đường li biệt, trong lòng không khỏi dâng lên một nỗi bi ai. Y dằn lòng, vo chặt mảnh giấy ghi nơi ở của Mã Liên Nhi lại, đang định thuận tay vứt xuống sông, chợt nghe bên cạnh có tiếng người vỗ tay khen:

- Thơ hay! Thơ hay! Nếu như ty chức đoán không sai, đây hẳn là của một vị cô nương đa tình tặng cho đại nhân thì phải.

Dương Lăng quay đầu lại nhìn, thấy Mạc Thanh Hà đang đứng bên cạnh vỗ tay mỉm cười, vị phu nhân xinh đẹp muôn vẻ phong tình cũng đứng cạnh bên, ánh mắt đầy vẻ kỳ lạ, hiển nhiên tán thưởng vô cùng.

Phong tục tập quán Giang Nam cởi mở, khác xa với kinh thành phương Bắc, vị phu nhân này của Mạc Thanh Hà cũng không quá kiêng kị. Lão gia nhà mình muốn đi đến núi Sư Tử, nàng ta liền tiễn ra đến cổng. Vừa nghe thấy Dương Lăng ngâm thơ, nàng không khỏi tán thưởng, cười nói với Mạc Thanh Hà:

- Lão gia! Từ sau khi nghe được bài thơ "Đào Hoa am" do tài tử Đường Dần(6) của Tô Châu sáng tác ở biệt thự Đào Hoa am vào tháng sáu năm nay, thiếp thân đã không còn nghe được bài thơ hay nào có ý cảnh như vậy nữa. Nếu như Dương đại nhân không chê, có thể cho phép thiếp thân chép bài thơ này lại hay không?

Mạc Thanh Hà chau mày vờ trách:

- Chớ nên vô lễ! Sao lại để cho đại nhân khó xử như vậy?

Dương Lăng cười nói:

- Việc này không sao!

Y vừa nói vừa thuận tay cất miếng giấy nọ vào ngực, rồi tiếp:

- Đợi bản đốc và Mạc đại nhân từ trên núi trở về, sẽ đọc lại cho phu nhân nghe là được.

Trước mặt vị "thái giám có vợ" này, Dương Lăng không tiện gọi hắn là công công, bèn đổi gọi thành đại nhân. Vợ chồng Mạc Thanh Hà nghe xong trên mặt lập tức lộ vẻ vui mừng. Mạc Phu Nhân tươi cười duyên dáng nói:

- Khi nãy thiếp thân chỉ chú ý đến ý cảnh trong thơ, chưa nhớ hết lời. Chỉ cần đại nhân ngâm lại một lượt, thiếp thân liền sẽ nhớ ngay.

Dương Lăng kinh ngạc nhìn nàng ta, không ngờ người con gái này học thức uyên bác, có khả năng xem qua là nhớ, thế là y liền đọc lại bài thơ một lượt. Mạc phu nhân chăm chú lắng nghe, sau đó không nén được vui mừng vỗ tay:

- Thiếp thân đã nhớ rồi, giờ thiếp thân sẽ về chép lại.

Nói đoạn cũng không cáo biệt, nàng dịu dàng như hoa xuyên liễu phớt, hạnh phúc dẫn hai nha hoàn quay trở vào phủ.

Mạc Thanh Hà chỉ biết cười nhìn theo bóng lưng nàng, rồi nói với Dương Lăng:

- Tiện thiếp trước giờ vẫn luôn không biết lễ phép, khiến đại nhân chê cười rồi.

Dương Lăng nói:

- Thẳng tính mà làm, ấy là chân nhân*. Tôn phu nhân tính tình bộc trực, không hề có tâm cơ, như vậy có gì là không tốt? Ha ha, bản quan phải tiếp với mấy vị khách nên ra hơi trễ, đã phiền đại nhân phải đợi lâu. Giờ chúng ta đến núi Sư Tử đi dạo thôi.

*(chân nhân vừa nghĩa là người đắc đạo vừa nghĩa là người sống thật)

Mạc Thanh Hà nghe y nói "đi dạo" núi Sư Tử, không khỏi cười lớn. Hai người cùng lên kiệu ngựa, Dương Lăng dẫn theo một trăm hai mươi nha sai, Mạc Thanh Hà cũng mang theo bốn mươi viên thuế lại, cùng chạy về phía núi Sư Tử.

Hàng Châu có Tây Hồ trong veo trang nhã, có bờ Phú Xuân trong xanh gợn sóng, có dòng Tiền Đường thủy triều lên thủy triều rút, có núi Nam Ngô, Bắc Cô, phong cảnh rất nhiều. Thật ra quang cảnh của Hàng Châu chủ yếu nằm ở những lâm viên và cảnh quan nhân văn của vùng Giang Nam êm dịu; có rất nhiều cảnh vật tự nhiên nhưng mang nặng dấu ấn của con người, nếu bỏ lớp ý cảnh đó đi thì cũng sẽ không còn gì hay ho nữa.

Chẳng hạn như ngôi mộ của Tô Tiểu Tiểu bên cạnh Tây Hồ. Nếu không phải vì nàng là danh kỹ Giang Nam phong lưu thiên cổ, có nhiều câu thơ ưu mỹ như:

"U lan lộ, như đề nhãn. Vô vật kết đồng tâm, yên hoa bất kham tiễn.

Thảo như nhân, tùng như cái. Phong vi thường, thuỷ vi bội..."*

được văn nhân mặc khách lưu lại, thì chỉ nhìn phần mộ đó thôi cũng sẽ chẳng thấy ý vị gì.

*Lan đọng sương, như giọt lệ, lấy gì kết đồng tâm. Trăng hoa đâu nỡ dứt?

Cỏ như tơ, thông che bóng. Gió là áo, nước điểm trang...

Quang cảnh Hàng Châu vốn không phải theo kiểu "nhìn núi ra thơ", núi Sư Tử lại hết sức tầm thường. Trong con mắt của người đã quen nhìn những ngọn danh sơn trên thế giới như Dương Lăng, nó càng cực kỳ nhạt nhẽo vô vị. Nhưng chính trên mỏm núi trông hết sức tầm thường này, lại sản xuất ra thứ trà ngon Long Tỉnh vang danh thiên hạ.

Ở Tô Hàng, núi Hổ Khâu vì suối mà có tiếng, ngọn Phi Lai vì Linh Ẩn tự mà nổi danh. Ngọn Sư Tử sơn này chính là nhờ trà Long Tỉnh mà vang danh thiên hạ.

Khi kiệu quan vừa lên núi, sớm đã có viên thuế giám phụ trách trông coi núi này dẫn người chạy vội ra nghênh đón, đưa hai vị đại nhân vào trong một căn nhà gỗ được xây dựa sườn núi.

Dương Lăng ngồi xuống chiếc ghế dựa bằng tre, cười ha hả:

- Tháng này, nếu ở phương Bắc thì sớm đã có gió thu hiu hiu, cây cối điêu linh rồi. Nơi này lại vẫn cỏ cây xanh ngát, hơn nữa khí trời vẫn còn thiêu đốt như vậy!

Mạc Thanh Hà đáp:

- Ở Giang Nam sông nước hãy coi như còn mát mẻ, xuôi Nam vào trong nội địa một chút sẽ càng nóng bức hơn. Người đâu rồi, mau dâng trà ngon lên cho đại nhân giải nhiệt coi!

Dương Lăng nghe hai chữ "trà ngon", không khỏi âm thầm cười nhạt. Y rờ bọc trà nhỏ cất trong người, chỉ đợi nước trà được bưng lên, nếm thử tư vị liền sẽ hỏi rõ Mạc Thanh Hà trước mặt mọi người. Có điều y có ý định thu phục Mạc Thanh Hà nên cũng không muốn làm quá, chỉ muốn răn đe áp bức hắn một chút, khiến hắn thần phục là được.

Một người con gái hái trà mặc áo màu xanh ngọc, váy vải hoa bằng sáp nhạt màu, eo thon thắt dây đai màu đen, tóc buộc khăn vải, trên gương mặt mang một nụ cười dịu dàng, nhẹ bước vào phòng, nhanh nhẹn pha một ấm trà, rồi dâng cho Dương Lăng và Mạc Thanh Hà mỗi người một chén.

Dương Lăng nâng chén trà lên, thấy lá trà vẫn đang xoay tròn trong nước như lưỡi con chim sẻ. Y liếc Mạc Thanh Hà, rồi thong thả ung dung đưa chén lên mũi ngửi thử, không khỏi lại ngẩn ra.

Mùi vị của trà này thơm nức mũi, giống hệt như mùi vị của loại cực phẩm hoàng gia mà lúc ở trấn Thượng Hải y đã thưởng thức. “Mạc Thanh Hà giấu riêng trà ngon, trà cung phụng cho cung đình so với thứ này kém hơn rất nhiều. Hôm nay ở trước mặt vị khâm sai từ trong kinh đến để điều tra như mình mà hắn lại không hề biết kiêng kị, thản nhiên dâng lên loại trà này. Chẳng lẽ hắn không sợ mình phát giác ra sự khác thường, hạch hắn tội khi quân sao?”

Dương Lăng thoáng ngẩn ra, ngước mắt nhìn Mạc Thanh Hà đang mỉm cười chờ y thưởng thức mùi vị, không dằn lòng được bèn hỏi:

- Mạc đại nhân! Trà này của đại nhân mùi hương ngào ngạt, thấm tận tâm can tỳ phế, quả thực là cực phẩm. Có điều... khi ở trong kinh bản đốc cũng đã từng uống ngự trà trong cung, trà tiến cống mà Hoàng thượng uống so với trà này của ngài kém hơn không chỉ một bậc. Không biết Mạc đại nhân giải thích thế nào đây?

Chú thích:

(4) Đại Quan viên là ngôi biệt thự do Giả Phủ xây dựng dùng làm hành cung cho quý phi thăm viếng trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, được dùng để ví như chốn Bồng Lai.

(5) tiếng Nhật là Ronin, nghĩa là "con người trôi dạt", một thuật ngữ chỉ những samurai vô chủ. (trích wiki)

(6) Đường Dần (1470 - 1523) là một danh hoạ, một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Minh. Đường Dần tự là Tử Uý, Bá Hổ (nên còn được gọi là Đường Bá Hổ), hiệu là Lục Như cư sĩ, Đào Hoa am chủ, tự xưng là Minh triều Giang Nam đệ nhất phong lưu tài tử.

Bài Đào Hoa am

Đào hoa ổ lý đào hoa am

Đào hoa am lý đào hoa tiên

Đào hoa tiên nhân chủng đào thụ

Hựu trích đào hoa hoán tửu tiền

Tửu tỉnh chỉ tại hoa tiền tọa

Tửu túy hoàn lai hoa hạ miên

Bán tỉnh bán túy nhật phục nhật

Hoa lạc hoa khai niên phục niên

Đãn nguyện lão tử hoa tửu gian

Bất nguyện cúc cung xa mã tiền

Xa trần mã túc quý giả thú

Tửu trản hoa chi bần giả duyên

Nhược tương phú quý tỉ bần giả

Nhất tại bình địa nhất tại thiên

Nhược tương bần tiện tỉ xa mã

Tha đắc khu trì ngã đắc nhàn

Biệt nhân tiếu ngã thái phong điên

Ngã tiếu tha nhân khán bất xuyên

Bất kiến Ngũ Lăng hào kiệt mộ

Vô hoa vô tửu sừ tác điền.

Dịch thơ:

Lũng Ðào Hoa

Lũng Ðào hoa, am hoa một mái,

Trong hoa am tự tại tiên hoa.

Tiên hoa trồng cội đào hoa,

Chiết cành ta lấy đổi ra rượu nồng.

Khi tỉnh rượu ung dung kề cận,

Uống say nằm ngủ khểnh dưới hoa.

Tỉnh say ngày lại ngày qua,

Hoa tươi hoa rụng la đà tháng năm .

Chốn ngựa xe chẳng cần luồn cúi,

Ước nguyền rằng chết với rượu hoa.

Bụi xe dấu ngựa cao xa,

Cành hoa chén rượu cùng ta duyên nghèo.

Đem phú quý so đo đạm bạc,

Một đất bằng một ngất trời xanh.

Ngựa xe đem sánh thanh bần,

Người toan bận rộn, ta phần thong dong.

Người cười ta cuồng ngông khờ khạo,

Ta cười người điên đảo ngược xuôi.

Ngũ lăng phần mộ san rồi,

Không hoa không rượu cũng thời ruộng sâu. (Người dịch: Hạt Cát)

Quyển 4 - Dương Lăng xuống Giang Nam

Chương 126 - Thủ thế chờ “bung”

Dịch: TheJoker

Biên dịch: fishscreen

Biên tập: fishscreen

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!

Cao Văn Tâm đảo mắt, chỉ thấy Dương Lăng cười một cách xấu xa, Trịnh bách hộ và mấy tay nha sai đứng sau đều mím chặt môi, trông thì hết sức nghiêm túc, thế nhưng mặt người nào người nấy đều lộ vẻ kỳ dị, thế là không khỏi ngượng chín người, cả cổ cũng đỏ ửng lên.

----------------------------------------------

Chương 126 - Thủ thế chờ “bung”

----------------------------------------------

Mạc Thanh Hà kinh ngạc nói:

- Khâm sai đại nhân đã từng uống loại cực phẩm hoàng gia rồi ư? À, đúng rồi, Dương đại nhân là thần tử đắc lực bên cạnh hoàng thượng, đương nhiên là có cơ hội thưởng thức trà tiến cống cực phẩm rồi. Ha ha ha!

Hắn nói xong bèn mỉm cười khoát tay ra hiệu cho cô gái hái trà và đám thuế lại, trà giám của đỉnh Sư Tử lui hết ra ngoài.

Trịnh bách hộ chần chừ đưa mắt nhìn Dương Lăng. Dương Lăng lại không tin Mạc Thanh Hà sẽ vì chuyện này mà dám công nhiên gây bất lợi cho mình, huống hồ những người mà mình dẫn theo ai nấy đều võ nghệ siêu quần, nhân thủ cũng hơn xa số người của Mạc thuế giám, vì thế y tuỳ ý khoát tay lệnh cho Trịnh bách hộ dẫn người đi ra.

Mạc Thanh Hà cầm chén trà lên, thong thả thổi những hoa trà đang trôi nổi trong chén tản ra, chậm rãi hớp một ngụm trà tỉnh rồi mới mỉm cười nói:

- Trà này của ty chức so với loại cực phẩm hoàng gia được tiến cống kỳ thật còn ngon hơn một bậc, khó trách đại nhân nếm xong lại sinh nghi. Có điều đây cũng không phải là bí mật gì, người trong nghề đa phần đều biết chuyện này.

- Ồ?

Dương Lăng xoay nhẹ chén trà, nghi hoặc hỏi:

- Trà tiến cống chẳng phải là loại trà ngon nhất à? Vì sao trà Long Tĩnh của Tây Hồ cung phụng hoàng gia đại nội lại không bằng loại trà mà ông giữ lại vậy?

Mạc Thanh Hà cười lớn đáp:

- Đại nhân có điều không biết, trà này chỉ có sản xuất ở mấy ngọn núi gần đây mới là trà cực phẩm chính tông. Lá trà ngon nhất bị ảnh hưởng rất lớn bởi khí hậu. Cho dù năm nay mưa thuận gió hòa, khí hậu thích hợp, có thể sản xuất ra một ít trà ngon cực phẩm, nhưng vận chuyển đường dài gặp phải mưa dầm liên miên, mùi vị cũng sẽ chịu nhiều ảnh hưởng.

Hắn ngừng một chút rồi nói tiếp:

- Bởi vậy loại trà dâng cho hoàng thượng uống cần phải có mùi vị ổn định, phẩm chất như nhau. Trà tiến cống không yêu cầu phải ngon nhất, chỉ cần ổn định nhất là được. Bằng không nếu như năm nay hoàng thượng uống thấy mùi vị khác biệt, năm sau mùi vị lại hơi khác đi, cho rằng kẻ dưới làm việc không tốt, truy cứu xuống thì có đem chém toàn bộ người ở vườn trà này cũng sẽ không sinh ra trà mới đâu.

Hắn lại tiếp tục giải bày:

- Đây không phải là kẻ dưới bất kính với hoàng thượng, mà thực sự là không có biện pháp giải quyết. Trong kinh thỉnh thoảng vẫn có người dùng nhận thấy sự khác biệt giữa hai loại trà này, nhưng cũng chỉ cho rằng do trà mới được hái nên có mùi vị ngon hơn, sẽ không vì vậy mà sinh nghi. Ty chức hết sức kính ngưỡng Dương đại nhân, do đó không dám giấu giếm. Đương nhiên… danh tiếng thương cảm cho bá tánh của Dương đại nhân ty chức đã nghe từ lâu, cho nên cũng không đành che giấu.

Dương Lăng nghe mà ngỡ ngàng. Y cứ tưởng Mạc Thanh Hà giấu giếm trà ngon làm của riêng là vì trục lợi cá nhân, không ngờ bên trong lại có lý do này.

Mạc Thanh Hà cười khổ nói:

- Đại nhân à, những kẻ hầu hạ bên dưới như chúng tôi đây dựa vào thân phận sai dịch cho hoàng thượng để diễu võ giương oai, người người đều cảm thấy oai phong vô cùng, nào có ai biết muốn bình an vô sự chúng tôi cũng phải lao tâm khổ tứ chứ.

Hắn lại thở dài một hơi rồi nói:

- Nhưng cũng không còn cách nào khác. Ngoài việc không dám tiến cống trà không biết được phẩm chất ngon hay kém do bị ảnh hưởng của thời tiết, chúng tôi thực không dám giấu làm của riêng. Ngân lượng chúng tôi có được từ việc bán loại trà ngon cực phẩm này đều dựa theo số lượng mà nộp lên kinh sư. Đương nhiên… cũng không tránh được phải trích ra một ít biếu tặng cho quan trên, Vương công công và mấy vị thủ lĩnh của Ty Lễ Giám trong kinh. Mỗi năm ty chức đều phải hiếu kính chục cân trà ngon. Giờ đây ty chức thuộc sự quản hạt của đại nhân, thành thật bẩm báo, vẫn mong đại nhân thể nghiệm và quan sát tình hình bên dưới, thông cảm với những khó khăn của đám nô tài chúng tôi đây.

Dương Lăng nghe vậy cười khổ không thôi. Vốn tưởng là một vụ án khi quân to tát, hoá ra lại là một quy củ lớn được ước định mà thành trên quan trường: phàm là cống phẩm không thể bảo đảm chất lượng để cung ứng, thà giảm yêu cầu chất lượng của nó cũng không cung phụng cho đại nội, tránh để mặt rồng nổi giận ngược lại sẽ không hay.

Có điều Mạc Thanh Hà thẳng thắn bẩm báo như vậy cũng khiến y có nhiều hảo cảm hơn. Bất luận Mạc Thanh Hà giả vờ thật thà hay tâm tư bộc trực, ít nhất cũng chứng minh rằng hắn xác thực có ý muốn dựa vào mình. Dương Lăng cười ha hả, nâng chén hướng về phía Mạc Thanh Hà nói:

- Đa tạ Mạc đại nhân thẳng thắn nói cho hay, tháo gỡ nghi hoặc trong lòng tại hạ. Dương mỗ cũng hầu hạ quân chủ, đương nhiên hiểu được nỗi khổ của các vị đại nhân, nay đã biết được đầu đuôi trong đó, dĩ nhiên sẽ không trách móc.

Sau khi nghe xong tình hình do Liễu Bưu báo cáo, Dương Lăng đã quyết định sẽ khai đao lập oai với thuế giám trấn thủ Viên Hùng, chỉ là vụ trà tiến cống của Mạc Thanh Hà vẫn luôn là mối tâm bệnh vướng mắc trong lòng y. Nay đã biết được tường tận tình hình, y cảm thấy vô cùng thoải mái. Hai người uống trà trò chuyện, cảm tình đôi bên cũng thân thiết hơn không ít.

Sau khi đi hai vòng trong vườn trà trên sườn núi, xem như đã hoàn thành sứ mệnh thị sát, lúc hai người lên kiệu xuống núi, Mạc Thanh Hà bỗng đưa tay lên vẫy, thuế giám trông coi vườn trà vội vàng dẫn mấy người khiêng hai chiếc rương nhỏ sang. Dương Lăng nghi hoặc hỏi:

- Đây là…?

Mạc Thanh Hà cười nịnh nói:

- Đại nhân, trên núi này ngoại trừ lá trà thật sự không có thứ gì đáng giá cả. Trong một chiếc rương này là mười cân trà xuân Long Tĩnh cực phẩm, xin đại nhân cầm về thưởng thức. Nếu vụ thu hoạch trà năm sau gặp phải thời tiết không tốt, đại nhân sẽ không thể uống được thứ trà ngon như vậy đâu.

Dương Lăng biết nếu bây giờ đem loại trà xuân cực phẩm chân chính như vậy ra chợ bán cho phú hào Giang Nam, một lạng trà phải có giá mười lượng bạc. Một rương trà cỏn con này là cả ngàn lượng bạc, uống một ngụm e phải bằng phần ăn cả một tháng của bá tánh bình thường, thật sự là hơi quá xa xỉ.

Có điều nếu trước đây mọi người của Ty Lễ Giám đều đã quen tiếp nhận, bây giờ Mạc Thanh Hà vẫn chưa quy thuận, nếu như không nhận khó tránh sẽ khiến hắn sinh nghi, thế là y bèn tủm tỉm gật đầu.

Mạc Thanh Hà xoa tay nói:

- Còn chiếc rương này bên trong là bốn chiếc gối uyên ương. Lá trà trong gối tuy không phải là loại trà xuân cực phẩm hoàng gia, nhưng cũng là loại trà ngon hạng nhất. Một khi gối lên, mùi trà sẽ lan toả khắp người, lòng thanh mắt sáng, giúp ngủ ngon tốt nhất. Ha ha, xin tặng cho đại nhân và phu nhân.

Dương Lăng nghe nói là gối trà thì rạng rỡ mặt mày. Gối trà này hương thơm nức mũi, ba nha đầu trong kinh nhất định sẽ thích lắm, nhưng vừa nghe nói đến số lượng thì lại thoáng ngẩn ra: “Nếu là gối uyên ương, vậy Ấu Nương, Ngọc Nhi và Tuyết Nhi cộng lại mới có ba người, hắn tặng bốn cái là ý gì? Chẳng lẽ việc này cũng coi trọng ‘tặng lễ theo cặp’(1) ư?”

(1) Nguyên văn “hảo sự thành song”. “Thành song” ở đây nghĩa là “theo đôi, theo cặp”. Theo phong tục Trung Hoa, phàm tặng lễ mừng cho chuyện vui nào đó, lễ vật thường được tặng theo đôi, kị tặng đơn lẻ.

Dương Lăng ngước mắt nhìn, thấy trong mắt Mạc Thanh Hà ngậm cười, mặt bèn chợt nóng lên, biết rằng hắn đã nhận định Cao Văn Tâm sớm muộn gì cũng sẽ được mình cưới về làm thiếp. Y cũng không có cách nào giải thích, chỉ đành ậm ờ ưng thuận, sai người nhận lấy hai chiếc rương, sau đó hai người khởi kiệu rời khỏi núi Sư Tử.

Rời khỏi miệng núi, đầu tiên phải đi qua một thôn nhỏ mới có thể rẽ sang đường lớn về thành. Dương Lăng đang ngồi trong kiệu chợt nghe phía trước có tiếng người quát mắng, vội vén rèm kiệu lên nhìn. Chỉ thấy hai tên thuế lại đang giơ roi đuổi đánh một đứa bé ăn mặc rách rưới, nhìn cũng chỉ khoảng mười tuổi, liền giận dữ quát một tiếng:

- Dừng tay!

Hai tên thuế lại kia đang say sưa quất roi, hoàn toàn không nghe thấy. Trịnh bách hộ đi bên cạnh kiệu liền phóng tới một bước, chụp lấy roi da trong tay tên thuế lại, đẩy một cái khiến cho hắn lảo đảo, quát lên:

- Đại nhân có lệnh, ngươi không nghe thấy à?

Tên thuế lại đó quay đầu lại, nhìn thấy Dương Lăng đã xuống kiệu, bộ mặt hung thần ác sát lập tức đổi thành vẻ mặt tươi cười siểm nịnh, gật đầu khom lưng đứng sang một bên. Mạc Thanh Hà cũng xuống kiệu ngựa, vội vã chạy qua hỏi:

- Đại nhân, đã xảy ra chuyện gì vậy?

Dương Lăng thấy đứa bé đó đã lùi về bên một sạp trà. Trông nó hết sức ốm yếu, thân thể gầy gò để lộ một cái đầu hơi quá khổ, đôi mắt to hiện lên vẻ lanh lợi cứng cỏi, có điều quần áo lại rách rưới, thân thể và mặt mũi trông rất bẩn thỉu.

Dương Lăng bước tới ngồi xổm xuống, đặt tay lên vai thằng bé, chỉ cảm thấy da bọc xương, gầy đến thảm thương. Y ôn hoà hỏi:

- Tiểu huynh đệ, đệ không phải là người bản địa à? Người nhà đệ đâu rồi?

Dương Lăng vừa bước tới phía trước, Trịnh bách hộ đã dẫn bốn tay nha sai đuổi theo sau. Thằng bé đó trông thấy năm đại hán oai phong lẫm liệt tay cầm đơn đao sau lưng Dương Lăng thì co rúm người lại không dám trả lời. Dương Lăng quay đầu lại nhìn, nhíu mày nói:

- Chỉ là một đứa bé, còn sợ bản quan bị hành thích sao? Đừng doạ thằng bé, các người lui ra chút đi!

Trịnh bách hộ vội dẫn người lùi ra mấy bước. Mạc Thanh Hà cũng bước qua, ngồi xổm xuống, ôn tồn cười nói:

- Nhóc con, vị đại nhân này là người tốt, đại nhân hỏi thì ngươi phải trả lời đàng hoàng, đại nhân mà cao hứng sẽ thưởng ngươi mấy văn tiền để mua mấy cái bánh bao thịt lớn ăn đó.

Thằng bé vừa nghe nói đến bánh bao thịt, cặp mắt liền sáng lên. Nó nuốt một ngụm nước bọt rồi mới ấp úng nói:

- Đại lão gia, cháu tên là Ôn Tiểu Hoa, là người ở trấn Tư Khẩu. Khi nãy đói bụng, trông thấy cây bên đường có quả dại nên định hái mấy trái xuống ăn. Vị đại gia đó… ông ta lấy roi đánh cháu.

Dương Lăng nhìn sang Mạc Thanh Hà. Mạc Thanh Hà nhướng mày nói:

- Trấn Tư Khẩu à? Đó là địa giới Tô Hàng mà, đứa nhỏ như ngươi một mình chạy đến nơi này sao? Người nhà của ngươi đâu?

Thằng bé rụt rè gật đầu đáp:

- Ừm! Người nhà cháu đều chết cả rồi, cháu phải đi ăn xin khắp nơi để sống qua ngày, đi hoài đi mãi thì đến nơi này.

Dương Lăng hỏi:

- Thế nào mà người trong nhà đều không còn vậy? Nơi đó đã xảy ra ôn dịch sao?

Mạc Thanh Hà lắc đầu nói:

- Chưa từng nghe nói có ôn dịch. Đứa nhỏ, nói cho ta biết người trong nhà ngươi làm sao mà chết hết vậy?

Thằng bé chớp đôi mắt to, rụt rè đáp:

- Ruộng nhà cháu ở kế bên sông, tháng năm nổi lụt ngập hết cả ruộng. Cha cháu bán nhà vào thành làm chút buôn bán nhỏ, nhưng mà vào thành cũng bị thu thuế. Cha… cha lén trèo tường nên té bị thương, mẹ cháu mới bán ruộng để chữa thương cho cha, nhưng bọn người lùn lại kéo đến, cướp tiền và đồ nhà cháu, giết chết cả cha mẹ cháu. Cháu phải… phải ăn xin khắp nơi.

Dương Lăng nghe mà cảm thấy xót xa trong lòng. Lúc này ông già mở quán trà bên đường nhận ra Mạc Thanh Hà, không nén được mừng rỡ kêu lên:

- Ngài là Mạc gia? Mạc đại thiện nhân!

Mạc Thanh Hà ngẩn ra, hỏi ngược lại:

- Ông nhận ra ta à?

Lão hán đó hưng phấn reo lên:

- Nhận ra chứ, nhận ra chứ. Mùa đông năm ngoái, Mạc gia bố thí cháo trong thành, lão đây đã từng đến trước phủ ngài xin miếng ăn đó. Cái đứa nhỏ không cha bị Trương quả phụ thôn chúng tôi tái giá bỏ rơi, đứa nhỏ tên là Thuỷ Sinh không có ai nuôi đó, không phải Mạc gia đã nhận nuôi sao? Ha ha, lão đây còn nhớ ngài mà. Đứa nhỏ này thật là đáng thương, lại có vẻ lanh lợi, không bằng Mạc gia ngài rủ lòng thương thu nhận nó đi.

Dương Lăng nhìn Mạc Thanh Hà, lấy làm bất ngờ nói:

- Mạc đại nhân thật không hổ được gọi là thiện nhân, hóa ra không chỉ bố thí cháo cứu người mà còn thu dưỡng cô nhi.

Mạc Thanh Hà còn chưa kịp nói mấy câu khiêm tốn, ông già nọ đã cướp lời nói tiếp:

- Mạc gia là người tốt, thành Hàng Châu ai mà không biết chứ? Mạc gia đã thu dưỡng mấy chục đứa nhỏ bơ vơ không nơi nương tựa. Thằng bé này hôm nay gặp được ngài thật đúng là phước đức tổ tiên à.

Mạc Thanh Hà nghe lão ta khen ngợi mình trước mặt Dương Lăng, dường như hơi không được thoải mái lắm, vội nói:

- Được rồi được rồi, cái ông lão này!

Hắn quan sát thằng bé tên là Ôn Tiểu Hoa mấy lượt, rồi khẽ gật đầu nói:

- Được rồi, ngươi hãy đi theo ta, thế nào? Ta sẽ tìm một chỗ cho ngươi, có ăn có uống, còn có thể học chút nghề.

Thằng bé rất lanh lợi, nghe xong vội vàng quỳ xuống, vui mừng phấn khởi đáp:

- Tạ ơn đại lão gia! Chỉ cần có miếng ăn, ngài sai cháu làm gì cũng được.

Mạc Thanh Hà không ngại nó bẩn thỉu, vừa cười lớn vừa xoa đầu nó, sau đó quay đầu gọi quản gia:

- Lão Lý, mang thằng bé này theo! Có mang theo thứ gì ăn không? Cho nó một chút lót dạ đi!

Dương Lăng vừa cùng hắn trở về, vừa nói:

- Mạc đại nhân đã thu nhận mấy mươi cô nhi à? Đây… đây thật là việc đại thiện đó. Có điều trong phủ nuôi dưỡng nhiều con nít như vậy cũng thật khó khăn cho đại nhân rồi.

Mạc Thanh Hà hơi đỏ mặt nói:

- Đại nhân quá khen rồi. Chúng ta… chà, chúng ta là người gì hẳn đại nhân cũng rõ, chỉ muốn làm chút việc thiện, kiếp sau có thể được báo ứng tốt mà thôi. Ty chức chỉ là giúp đỡ những đứa nhỏ này kiếm miếng ăn, cũng không giữ lại trong phủ mà nhờ người đưa đến hộ dệt bản địa làm ít việc vặt, đồng thời học chút tay nghề. Cũng vì nể mặt ty chức nên những hộ dệt đó không dám làm khó bọn chúng, cho bọn chúng một con đường sống mà thôi.

Đến đây Dương Lăng quả thật đã cảm thấy kính nể người thái giám này. Bất kể hắn có thật muốn tích âm đức để cầu thiện báo hay không, những việc làm và hành động ấy đã hơn biết bao kẻ đọc sách cả ngày ra rả vì nước vì dân, song lại chỉ biết nói suông. Tuy hắn không hiểu nhiều đạo lý lớn, nhưng lại thật sự làm được rất nhiều việc tốt.

Mặc dầu, lợi dụng sự tiện lợi của chức quyền hắn cũng thu được không ít chỗ tốt, nhưng hắn có thể nghĩ đến việc cứu tế dân chúng cùng khổ, đây đã là chuyện rất đáng quý rồi.

Tất cả hộ dệt của bản địa đều thuộc sự cai quản của thái giám dệt may Lý Đại Tường. Các hộ dệt may tập trung ở Tô Châu, cho nên nha môn của Lý Đại Tường cũng đặt tại Tô Châu. Dương Lăng và Mạc Thanh Hà trở về thành, không quay thẳng về phủ mà đến một cửa điếm nhỏ đặc sắc của địa phương. Hai người ngồi dưới gốc thuỳ dương, khoan thai đối ẩm, vui vẻ bình phẩm phong cảnh Giang Nam. Sau đó còn chưa dứt chuyện thì lại quyết định đi đến hộ dệt bản địa để quan sát.

Dương Lăng nhớ lúc nhỏ đọc sách, có nghe nói vào thời Minh hộ dệt Giang Nam thuê mướn thợ thuyền, đã có quy mô khá lớn, có hình thức ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Hộ dệt mà y đến tham quan lần này là một trong mười mấy hộ dệt lớn của Hàng Châu, tuy không lớn bằng hộ dệt Tô Châu nhưng cũng có mấy chục khung cửi, thuê mướn gần hơn trăm thợ nữ. Dạo một vòng bên trong, Dương Lăng có cảm giác rất giống với xưởng sản xuất dây chuyền công nghiệp hiện đại, không khỏi vô cùng hưng phấn.

Khi sắp ra khỏi cửa, y chợt nhìn thấy một thằng bé mập mạp độ mười một mười hai tuổi vác một bao sợi trắng đi vào. Vừa trông thấy có người ngoài, nó bèn đứng một bên cửa, đưa tay áo lên quệt mồ hôi đầy trán, chỉ đứng đó cười ngây thơ.

Mạc Thanh Hà cười chỉ vào thằng bé đó, nói:

- Thằng nhỏ này cũng không cha không mẹ, ty chức thấy tội nghiệp nên đã thu nhận rồi đưa đến đây. Ừm, đó là chuyện của mùa hè năm ngoái rồi.

Hắn lại cười nói:

- Ha ha! Không sợ đại nhân chê cười, người do ty chức đưa đến những hộ dệt này còn không dám không nể mặt. Bọn họ quyết sẽ không ngược đãi chúng, cho nên ty chức cũng chưa bao giờ đến thăm. Ty chức nhớ được thằng nhỏ này cũng bởi cái bướu to đấy của nó, bằng không quả thật không thể nhớ nổi.

Dương Lăng bèn đưa mắt nhìn, thấy thằng bé đó thân thể khoẻ mạnh rắn chắc, xem ra cuộc sống nơi đây quả nhiên không tệ. Có điều cổ nó vừa thô lại ngắn, bên cổ lại mọc ra một cái bướu thịt to dễ sợ màu đỏ tía, khiến người ta trông thấy liền có ác cảm.

Mặc dù Dương Lăng biết thân thế thằng bé này đáng thương, nhưng nhìn xong trong lòng cũng có cảm giác dị dạng, đừng nói là người khác. Nếu không vì Mạc Thanh Hà rủ lòng thương, phỏng chừng thằng bé này có muốn kiếm chút miếng ăn một cách chính đáng cũng sẽ không có ai dùng nó, chỉ có thể ăn xin cả đời. Đối với việc làm vĩ đại của Mạc Thanh Hà, trong lòng y không khỏi càng sinh ra một sự ngưỡng mộ.

Nhưng kỳ quái chính là, sao thằng nhóc đó gặp Mạc Thanh Hà mà vẻ mặt lại bình thường, không có vẻ gì như gặp được ân nhân vậy? Dương Lăng hơi động nghi ngờ, song lập tức nhớ ra thằng nhóc mập này mới chỉ gặp Mạc Thanh Hà một lần, trải qua lâu ngày một đứa bé làm sao nhớ rõ như vậy được, thế là lòng nghi ngờ lập tức tan biến.

Thằng bé mập mạp đó chỉ nhìn mấy vị khách cười ngây thơ, cũng không bước lên chào hỏi. Hộ dệt Cao Minh cười mắng:

- Tiểu tử ngốc, nhìn gì mà nhìn, mau mang đồ vào đi, đừng che mắt đại nhân!

Thằng bé mập đó nghe thấy liền vội vác bao sợi lên rồi chạy vụt vào.

oOo

Dương Lăng mặt đỏ như gấc đi vào Tây khoá viện. Cao Văn Tâm ngồi dí trong nhà cả ngày, nghe nói y trở về liền tung tăng ra đón, trông thấy vẻ mặt Dương Lăng quái dị, không khỏi ngẩn ra. Dương Lăng lúng túng đưa một cuộn giấy qua nói:

- Văn Tâm, đem cất cái này cẩn thận đi!

Cao Văn Tâm ngạc nhiên hỏi:

- Lại có người tặng lão gia thư hoạ của danh nhân gì sao?

Nàng vừa mở cuộn giấy ra nhìn, sắc mặt lập tức trầm xuống, chua chát nói:

- Thiếp tựa mù giăng chàng tựa trăng… Quả là một bài thơ tình hay. Không ngờ lão gia nhà chúng ta còn là nhân vật hết sức phong lưu nữa, đến vùng Giang Nam sông nước không biết đã khiến bao nhiêu người con gái phải điên đảo thần hồn rồi.

Dương Lăng dở khóc dở cười bao biện:

- Bài thơ này… là tôi nghe được lúc ở cố hương. Mạc phu nhân thấy hay nên đã phỏng chép ra hai cuộn, cuộn này là tặng lại cho tôi. Cô đừng có nghĩ ngợi lung tung! Đúng rồi, cô thấy thư pháp của vị Mạc phu nhân này thế nào? Thật là khéo tay hay chữ nhỉ.

Cao Văn Tâm nào tin lời nói dối của y. Nếu như thật sự đường hoàng như vậy, cớ gì khi nãy sắc mặt lại lúng túng? Nàng nhìn thư pháp ấy một chút rồi hừ giọng nói:

- Chữ thì không tệ, nhưng cũng không thấy đẹp hơn chữ tiểu tỳ. Trái lại bài thơ này… ý nặng tình thâm, chẳng lẽ là của Ấu Nương tỷ tỷ tặng lão gia?

Dương Lăng đằng hắng hai tiếng, không đáp lời nàng. Khi nãy vừa trở về phủ, Mạc phu nhân liền hưng phấn cầm hai cuộn tranh ra. Nàng ta đã chép bài thơ thành hai phần giống nhau, một phần tặng cho Dương Lăng để tạ ơn.

Chuyện này vốn không có gì to tát, chỉ là không biết vì con gái Giang Nam phóng khoáng như vậy, hay vì Mạc phu nhân lăn lộn chốn thanh lâu nhiều năm, không biết chừng biết mực, lại chẳng hề kiêng kị áp sát đến trước mặt Dương Lăng, mở tranh thư pháp ra, duyên dáng tươi cười, chỉ chỉ trỏ trỏ.

Nếu như cử chỉ đó được đặt vào thời nay thì cũng không tính là gì, nhưng Dương Lăng ở niên đại này đã lâu mà vẫn chưa từng thấy phu nhân người nào không biết tránh hiềm nghi như vậy, cứ kề sát lại gần. Chỉ ngửi thấy làn gió thơm rười rượi, hơi thở như lan đã khiến y trở nên khó chịu bất an, thế mà Mạc Thanh Hà không hề cho đó là ngỗ ngược. Vì vậy y càng không thể nổi giận được.

Cuối cùng khi Mạc phu nhân thu cuộn tranh về, buộc lại rồi đặt vào tay y, ngón tay ngọc thon thả lại thuận thế lẳng lơ khều nhẹ lòng bàn tay y một cái, làm Dương Lăng sợ giật nảy tim. Y ngước mắt nhìn, đúng lúc trông thấy cặp mắt khiến cho hồn xiêu phách lạc của Mạc phu nhân liếc sang: yêu kiều, quyến rũ, răng trắng cắn khẽ môi hồng, tuy vẻ phong tình chỉ hiển lộ ra trong chớp mắt, nhưng lại như hòn đá ném xuống mặt nước yên ả, khiến lòng người nổi lên từng gợn sóng. Lúc này Dương Lăng mới hiểu được không phải nàng ta không câu nệ tiểu tiết mà là có ý quyến rũ mình.

Vẻ phong tình của mỹ nữ này, phong lưu mà không thấp hèn, tuy ở trước mặt trượng phu mình quyến rũ người khác, nhưng sức mê hoặc đặc biệt đó lại khiến người ta không thể nảy sinh chút ác cảm nào. Dương Lăng chỉ cho rằng nàng cưới phải ông chồng thái giám, khao khát xuân tình, đột nhiên có người đàn ông trẻ tuổi vào ở nơi này, mới khiến nàng ta suy nghĩ vẩn vơ. Thế là y không dám ngồi lâu, trò chuyện vài câu với Mạc Thanh Hà xong liền vắt giò lên cổ mà chạy.

Chuyện khó xử như vậy y đương nhiên không thể kể cho Cao Văn Tâm nghe. Nhìn thấy nàng vẫn còn chút giận dỗi, Dương Lăng vội cười ruồi nói:

- À… Văn Tâm này, chúng ta có phải nên uống thuốc châm cứu không?

Cao Văn Tâm duyên dáng lườm y một cái, nói:

- Không được, hay là lão gia người đi gặp Liễu thiên hộ trước đi rồi hẵng bàn! Đừng để khi châm cứu lại kêu ầm lên, đến lúc đâm cho cái lưng ngài thành cái sàng, trở về Ấu Nương tỷ tỷ mà không đòi mạng tiểu tỳ mới lạ đó.

Dương Lăng buột miệng cười nói:

- Vậy thì không sợ, chỉ sợ tôi kêu la trong phòng, bị đám nha sai nghe được lại hiểu lầm chúng ta…

Y nói đến đây chợt ngậm miệng lại, hối hận đến suýt nữa thì đã vả vào miệng mình: “Thằng khốn nạn này, rõ ràng không muốn gánh thêm nợ tình, sao còn ngứa miệng nhiều chuyện vậy! Mày nghĩ đây là đang trong công ty tám chuyện với đồng nghiệp nữ sao? Phụ nữ thời này chung tình lắm đó.”

Y còn ngượng ngùng xấu hổ, Cao Văn Tâm sao không thẹn đến đỏ bừng cả mặt. Thế nhưng nàng lại không hề có chút vẻ giận hờn nào, ánh mắt hết sức phức tạp, cũng không biết đang nghĩ gì. Nàng liếc Dương Lăng một cái thật sâu rồi nhẹ giọng nói:

- Tiểu… tiểu tỳ sẽ đi mời Liễu thiên hộ vào.

Trong khoảnh khắc, ngữ khí ấy càng mê ly và thuỳ mị không nói nên lời.

oOo

Quả thật phụ nữ mỗi khi ăn mặc trang điểm lại có một diện mạo khác. Cao Văn Tâm mặc một bộ phục sức phổ thông của con gái vùng Giang Nam, vẻ ung dung sang trọng hoàn toàn biến mất mà lại hơi giống như một cô con gái cưng vậy. Nàng vội vã chạy lên lầu, tay cầm vạt váy màu xanh lá, giậm mạnh đôi hài thêu màu đỏ, bực bội liếc Dương Lăng một cái rồi nói:

- Lần sau lão gia đừng tìm tiểu tỳ nữa, còn muốn người ta cười với hắn một cái, thật muốn ói quá!

Cao Văn Tâm dáng người thon cao, dung mạo trong veo như nước, lúc này giậm chân hờn dỗi, cả người toát lên phong thái xinh đẹp khiến người ta phải động lòng. Dương Lăng nhìn mà hai mắt sáng rực, liền vội gật đầu nói:

- Đương nhiên, đương nhiên, yên tâm, yên tâm, nếu không phải sợ đánh rắn động cỏ, tôi cũng không nỡ… A hèm, cô lánh ra sau một chút đi, để tôi xem thử tên háo sắc ngửi mùi mà tới này trông như thế nào.

Cao Văn Tâm hừ một tiếng, xoay người lánh ra phòng sau. Chỉ nghe ngoài cửa có tiếng một gã đàn ông cười ha hả:

- Không tệ, không tệ. Ngươi không có gạt ta, cô gái này quả nhiên có mùi vị. Nhưng nói đến chuyện trước mắt, tiền quà cáp lão tử chỉ có thể chi ra mười lượng. Trong tay ngươi đã có thóc gạo, lát nữa ta về kêu quan ty vụ thu mua với giá cao là được. Lợi nhuận của ngươi không ít được đâu, ha ha ha…

Theo giọng nói, một gã quan quân mặt cáo, râu ngắn đen đúa đang cười híp mắt cùng với Liễu Bưu đóng giả thành một thương nhân đầu cơ tiến vào phòng. Hắn nhìn thấy trong phòng lại không phải khuê phòng thiếu nữ như trong tưởng tượng mà là một gian phòng khách không lớn, một công tử trẻ tuổi vận đồ trắng, thắt lưng xanh lam đang mỉm cười ngồi trên nghế dựa nhìn hắn, đứng sau lưng gã công tử đó là bốn hán tử mặc đồ đen, thân hình nhanh nhẹn dữ dằn, vẻ mặt âm trầm thì không khỏi sững sốt, lập tức đưa tay mò cán thanh đao giắt bên hông.

Dáng vẻ thương nhân của Liễu Bưu lập tức biến mất, y giơ chân đá một cái vào sau gối hắn, tiếp đó một thanh chuỷ thủ sáng choang đã kề lên cổ. Hắn chỉ nghe kẻ tự xưng là thương nhân có thóc gạo để bán, muốn dùng mỹ sắc để dâng tặng này lạnh lẽo quát:

- Ngồi bên trên chính là đề đốc nội xưởng, thống lĩnh thân quân thị vệ đại nội, khâm sai phụng chỉ kiểm tra thuế phú Giang Nam, Dương Lăng Dương đại nhân, còn không khấu đầu làm lễ!

Gã quan quân đó cảm thấy hồ đồ, khi nghe nói không phải là cường đạo giặc cướp, mối nguy hiểm mất mạng giảm đi nhiều, hắn mới trút bỏ được một nửa gánh nặng. Nhưng đường đường quan tổng đốc nội xưởng, khâm sai đại nhân, muốn gặp hắn không phải chỉ nói một câu là được sao, thần thần bí bí như vậy để làm gì? Nghĩ đến những chuyện vi phạm pháp luật và kỷ cương mà mình đã làm, hắn không kìm được mà túa mồ hôi lạnh, hoảng hốt bổ nhào về phía trước, run giọng nói:

- Hạ quan thiêm sự Đinh Lâm chỉ huy Long Sơn vệ, bái kiến Dương… Dương đại nhân…

Dương Lăng cúi người cười nói:

- Đinh thiêm sự, bản đốc mạo muội mời ngươi đến đây, ngươi có biết là vì chuyện gì không?

Thiêm sự Đinh Lâm chỉ huy Long Sơn vệ trán mướt mồ hôi hột, thần sắc hoảng sợ đáp:

- Hạ… hạ quan không biết.

Nội xưởng thành lập chưa lâu, có những thủ đoạn lợi hại gì hắn vẫn không biết, nhưng cực hình của Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm Y vệ thì đã sớm có nghe qua. Nghe nói nội xưởng còn có chức trách đốc sát hai xưởng một vệ, vậy thủ đoạn có thể ít sao? Đinh Lâm đã làm ra không ít trò phạm pháp, cho nên vừa nói vừa không nhịn được run lên lập cập.

Dương Lăng thẳng lưng lên phất áo một cái, bắt chéo chân qua. Chiếc giày trắng như tuyết đung đưa trước trán Đinh Lâm. Y khoan thai nâng chén trà lên nói:

- Trịnh bách hộ, đọc cho hắn nghe!

- Ty chức tuân mệnh!

Trịnh bách hộ kính cẩn đáp một tiếng rồi bước lên một bước, liệt kê ra từng hành vi phạm pháp của Đinh Lâm như: ép mua ruộng đất của quan binh vệ sở, tham ô quân hưởng, thông dâm cùng thê tử của binh sỹ.

Đinh Lâm nghe mà mặt vàng như nghệ, Trịnh bách hộ còn chưa đọc hết, hắn đã bò lên phía trước, bi ai cầu khẩn:

- Hạ quan có tội, hạ quan đáng chết, xin đại nhân thứ tội, xin đại nhân khai ân cho!

Vừa nói hắn vừa dập đầu bồm bộp.

Dương Lăng đặt chén trà xuống, khẽ mỉm cười nói:

- Đinh thiêm sự, những việc này ta đều tra ra chứng cứ xác thực, tin rằng nếu cần nhân chứng, những quan binh được ngươi “đối đãi tốt” như vậy cũng sẽ vui vẻ đứng ra làm chứng. Bất cứ một điều nào trong đây đều đủ để lấy đầu ngươi, ngươi có gì để nói không?

Đinh Lâm run rẩy van xin:

- Dạ dạ, hạ quan biết, hạ quan đáng chết, xin đại nhân…

Dương Lăng ngắt lời hắn:

- Thường nói “xin người chi bằng tự xin mình”, nếu như Đinh đại nhân muốn đoái công chuộc tội, vẫn phải dựa vào bản thân mới được à!

Đinh Lâm nghe ra ẩn ý trong lời nói của y, hai mắt không khỏi sáng lên, vội ngẩng mặt sốt sắng nói:

- Xin đại nhân hãy chỉ điểm bến mê, hạ quan sẽ nghe theo tất thảy!

Dương Lăng bảo:

- Thật ra bản quan cũng biết, trong sáu huynh đệ ngươi chỉ có ngươi là theo nghề binh, gia tộc đông đúc hoàn toàn đều dựa vào một mình ngươi nuôi dưỡng, chỉ với chút bổng lộc đó quả thật không đủ để dùng. Còn về phần ngươi thông dâm với thê tử của sĩ tốt, âu cũng là đôi bên tình nguyện, mặc dầu tội không thể tha nhưng cũng có thể niệm tình. Nếu như ngươi chịu giúp bản quan làm ít việc, những tội lỗi này ta sẽ giúp ngươi thay đổi một chút, tự nhiên có thể chuyện lớn hoá nhỏ, chuyện nhỏ hoá không.

Đinh Lâm mừng rỡ nói:

- Đa tạ đại nhân khai ân! Không biết đại nhân muốn hạ quan làm… làm những việc gì?

Dương Lăng tập trung ánh mắt lại nói:

- Ta nghe nói chỉ huy sứ Tất Xuân Tất đại nhân của Long Sơn vệ thường hay mưu hại sĩ tốt vi phạm quân quy, sau đó bức ép sĩ tốt tướng vệ khoanh tay phục tùng, cùng với giám quân Viên công công chiếm dụng làm của riêng. Ngoài ra định mức trong quân là sáu ngàn năm trăm người, nay chỉ còn một phần ba, lại đều là người già yếu bệnh tật. Tất Xuân và Viên Hùng giấu giếm không báo, gạt chiếm quân hưởng, thậm chỉ ngay cả ngân lượng trích cấp để đóng thuyền cũng chảy vào trong hầu bao mỗi người. Giờ đây quân giới cũ hỏng, không thể sử dụng được. Thực có chuyện này không?

Đinh Lâm tuy là thiêm sự chỉ huy, nhưng quyền bính đều nằm trong tay Tất Xuân; Tất Xuân lại cấu kết cùng Viên Hùng, một tay che trời, căn bản không hề để hắn vào mắt. Hắn chỉ có thể vơ vét được một ít lợi trong đó, cho nên trong lòng sớm đã bất mãn với Tất Xuân. Nghe khẩu khí vị khâm sai này dường như muốn trị Tất Xuân và giám quân Viên công công, hắn không khỏi mừng thầm trong bụng.

Nhưng do lâu năm bị chèn ép dưới oai, hắn nhất thời vẫn không dám thổ lộ thật tình, cho nên không khỏi do dự. Dương Lăng thấy vậy hừ nhạt một tiếng, bảo:

- Nếu ngươi đã không thể thành thật với bản quan, vậy bản quan cũng chẳng muốn cứu ngươi nữa. Ngươi về đi!

Đinh Lâm không còn thời gian để suy nghĩ thêm nữa, lật đật nói:

- Đại nhân đừng trách, hạ quan thú nhận ngay đây!

Ngay sau đó Đinh Lâm lôi tất cả những chuyện xấu của Viên Hùng và Tất Xuân mà mình biết được lần lượt kể hết ra. Càng khiến người ta thêm căm phẫn chính là, ngoại trừ hơn năm trăm binh sĩ trong thân binh doanh của Tất Xuân là tinh nhuệ, còn lại toàn bộ đều không có sức chiến đấu. Vì thế lúc giặc Oa kéo đến, hắn cùng thân binh liền mỗi người một ngả, cố ý tránh né giặc Oa, để mặc cho bọn chúng cướp bóc.

Nếu luận năng lực chỉ huy và dũng cảm, Tất Xuân thực ra là một viên tướng kiêu hùng, bằng không lúc tập trung mấy tinh binh vệ sở chống giữ biên giới phía Bắc ngày đó, hắn đã không có gan chiến đấu trực diện với giặc Thát. Nhưng lần này nếu liều mạng chống chọi với giặc Oa, kẻ chết sẽ đều là quân tinh nhuệ của hắn. Xuất phát từ tư tâm, hắn thân mang trọng trách giữ đất nhưng lại để mặc giặc Oa cướp bóc, đợi đến khi bọn chúng rút lui mới gióng trống khua chiêng truy đuổi. Mỗi khi chạy không kịp, giặc Oa bèn vứt lại rất nhiều của cải cướp được, khi ấy Tất Xuân liền thừa cơ thu lượm bỏ vào trong túi mình. Tướng quân Đại Minh mà lại làm “bá vương hôi của”.

Dương Lăng nghe mà giận sôi lên. Đợi Đinh Lâm nói xong, một nha sai cúi đầu hí hoáy ghi chép ở góc phòng liền cầm một tờ giấy cung khai còn ướt mực đi qua. Đinh Lâm bất đắc dĩ phải lăn tay. Lúc này mới nghe Dương Lăng cười nhạt nói:

- Rất tốt, kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt, hy vọng Đinh đại nhân có thể chân thành hợp tác với bản đốc. Những chuyện đại nhân vừa khai nhận bản đốc đã ghi chép vào văn kiện. Việc này còn phải nhờ Đinh đại nhân lợi dụng quan hệ để thu thập nhiều chứng cứ hơn, lúc đó bản đốc bắt người cũng hợp lý hợp lẽ.

Đinh Lâm nghe vậy thì ngẩn ra: “Hoá ra vị xưởng đốc đại nhân này đang gạt mình. Tuy y nghe nói có những chuyện này, song lại căn bản không có chứng cứ!”

Đinh Lâm hơi hối hận, nhưng hắn vừa mới lăn tay ký tên, giờ đã lên thuyền giặc, nếu muốn xuống, chỉ cần dựa vào tờ cáo trạng này Dương Lăng đã có thể bắt hắn vào nội xưởng tra khảo.

Lòng người như sắt, phép quan như lò, ai còn có thể giữ được bí mật dưới cực hình của xưởng vệ chứ? Cho dù Viên công công và Tất Xuân chịu cứu hắn, đến lúc ra được thì người cũng đã tàn phế. Đến nước này Đinh Lâm chỉ đành ảo não đáp ứng mà thôi.

Dương Lăng lại không phải là người dựa vào doạ dẫm để khiến người ta làm việc cho mình, thấy Đinh Lâm đã đáp ứng vội mỉm cười đỡ hắn lên, hứa hẹn phong quan một phen, vẽ ra cho hắn một tiền đồ đầy gấm vóc, đến khi Đinh thiêm sự đang ủ rũ lấy lại tinh thần mới thả hắn đi.

Đợi hắn đi khỏi, Liễu Bưu hơi thắc mắc hỏi:

- Đại nhân, xưởng vệ chúng ta bắt người, chỉ cần có chút manh mối thì không cần xin ý chỉ vẫn có thể bắt loại quan như Tất Xuân và Đinh Lâm này về tra khảo. Huống chi chúng ta ít nhiều cũng đã có chút chứng cứ xác thực, đại nhân cần gì phải phí công lợi dụng tên này cho phức tạp thêm?

Dương Lăng thản nhiên cười nói:

- Liễu Bưu này! Đinh Lâm… không đáng sợ. Tất Xuân… không đáng sợ. Viên Hùng… cũng không đáng sợ. Có điều, huynh cho rằng kẻ địch của chúng ta thật sự là bọn chúng sao?

Nói đoạn y lắc đầu, mỉm cười nói:

- Không đâu, đối thủ chân chính của chúng ta đang ở trong kinh đó. Thay vì nói mấy kẻ này là người mà chúng ta cần đối phó, nói chúng là một món vũ khí thì đúng hơn. Những kẻ ở trong kinh đang dùng bọn chúng để đối phó với chúng ta, chúng ta cũng đang dùng bọn chúng để đối phó với trong kinh. Ha ha, cho nên chứng cứ càng xác thực càng tốt, nếu như nhân chứng vật chứng đều vững chắc, cho dù bọn chúng muốn đặt điều thị phi cũng không có cớ mà vịn lấy.

Liễu Bưu nghe vậy khiếp đảm thất kinh:

- Phải rồi, sao lại quên lý do chúng ta đến Giang Nam nhỉ? Đây vốn là một ván cờ của Ty lễ giám và Đông xưởng lập ra, bọn chúng có thể ngồi yên nhìn Dương đại nhân đến giải ván cờ này sao? Giờ đây đối phó với mấy tên thái giám trấn thủ này thật ra là đánh một trận chiến, thắng thì sẽ giành được sự ủng hộ của mấy trăm vị thuế giám trong thiên hạ, làm yếu đi thực lực của Ty lễ giám và Đông xưởng, thua thì không chỉ mất một ty thuế giám, mà đến lúc đó thuế giám các nơi sẽ dùng mọi cách để gây khó dễ, e rằng con đường tiền tại và thế lực hiện giờ cũng sẽ đi tong.

- Đại nhân càng ngày càng có tâm kế à.

Liễu Bưu nhìn Dương Lăng một cách khâm phục, cung kính nói:

- Vậy thì chúng ta phải chờ Đinh thiêm sự lấy được bằng chứng rồi mới xử lý bọn chúng sao?

Dương Lăng lắc đầu nói:

- Không! Bây giờ cung đã lắp tên, không thể không bắn. Ba đại thái giám trấn thủ Giang Nam đích thực có hành vi phạm pháp, nếu như một tên cũng không xử lý kỹ thì vẫn sẽ tạo cớ cho người ta. Tên Viên Hùng này nhất định phải bắt, có điều cái cớ của chúng ta không can hệ gì đến thuế phú, mà là bại hoại quân kỷ. Thân làm khâm sai, ta có trách nhiệm thuận tiện khảo sát, chưa phụng chỉ thì chưa thể xử lý được.

Y lại nói tiếp:

- Bây giờ cần lập tức phái người vào kinh đem sự tình bẩm rõ với hoàng thượng, xin chỉ lập tức bắt người. Việc này căn bản không che mắt được xưởng vệ, cho nên chỉ có thể xem ai nhanh hơn. Huynh hãy chọn mấy người cơ trí lập tức hồi kinh, trước tiên đến gặp Ngô đại bộ đầu, sau đó vào cung diện kiến thánh thượng.

- Vâng!

Liễu Bưu đáp một tiếng rồi vội xoay người đi ra.

Cao Văn Tâm từ sau vách tường nhẹ nhàng bước ra, chớp chớp mắt hỏi:

- Đại lão gia chuẩn bị quan binh bắt giặc à? Vậy… ngày mai huynh muội Trương thiên sư mời lão gia đến Tô Châu du ngoạn, lão gia có đi hay không?

Duơng Lăng duỗi lưng nói:

- Đi, tại sao không đi, tin tức trong kinh chuyển về nào nhanh như vậy chứ? Nơi này có Liễu Bưu trông coi tôi cũng rất yên tâm.

Trông thấy Cao Văn Tâm trong trang phục con gái Giang Nam, hai mắt y không khỏi sáng lên, giãn mày cười nói:

- Đẹp quá, mặc bộ quần áo này vào, trông thật giống giai nhân vùng sông nước. Tôi thấy cô cũng không cần thay nữa, ngày mai cứ mặc quần áo như vầy, kéo ống quần, để chân trần, chúng ta đến Thái Hồ chèo thuyền hái ấu. Học… học…

Đoạn y vỗ trán nói:

- Học ai ấy nhỉ?

Cao Văn Tâm thấy y không nhớ, nhịn không được bèn buột miệng nói:

- Là Tây Thi Phạm Lãi.

Dương Lăng vỗ tay nói:

- Đúng rồi, là Tây Thi Phạm Lãi.

Không phải là y cố ý dụ Cao Văn Tâm nói ra, mà vì y không biết cách phát âm chữ “Lãi”(2) của vị Phạm đại phu đó. Cao Văn Tâm vừa nói ra, y mới phát giác ví dụ này hơi không thích hợp. Ví quan hệ giữa mình và Cao Văn Tâm như Tây Thi Phạm Lãi, vậy thành ra cái gì đây? Cho nên nói xong y nhịn không được bèn bật cười.

(2) Chữ 蠡 (lãi) có hai cách phát âm là “lǐ” (thanh 3) và “lí” (thanh 2). Tên của Phạm Lãi là thanh 3.

Cao Văn Tâm đảo mắt, chỉ thấy Dương Lăng cười một cách xấu xa, Trịnh bách hộ và mấy tay nha sai đứng sau đều mím chặt môi, trông thì hết sức nghiêm túc, thế nhưng mặt người nào người nấy đều lộ vẻ kỳ dị, thế là không khỏi ngượng chín người, cả cổ cũng đỏ ửng lên.

Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển bốn - Dương Lăng xuống Giang Nam

Chương 127 - Ngoại Thành Cô Tô

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!

Năm xưa, khi y đọc lịch sử đã phát hiện quả thật người Trung Quốc xưa rất "đần", thà cầu danh chứ không cầu lợi. Nếu nước khác chịu tự nhận là bề tôi thì cho dù có đưa đến một sọt cỏ cũng hận không thể ban thưởng số hoàng kim gấp mười lần để biểu đạt sự khẳng khái lẫn hào phóng của thiên triều thượng quốc. Nhưng nếu đối phương không chịu xưng thần, thì cho dù có cuộc mua bán trăm lợi mà không hại thì cũng quyết không chịu giao dịch cùng, xem như là mình trừng phạt đối phương.

------------------------

Chương 127 Ngoại thành Cô Tô

------------------------

Từ khi nhà thơ Trương Kế thời Đại Đường thi rớt về quê, đêm cập bến Phong Kiều sáng tác bài "Phong Kiều dạ bạc"(1) nổi tiếng được mọi người yêu thích, tháp cổ Hàn Sơn cũng vì thế mà vang danh thiên hạ. Đã đến Tô Châu, thì sao có thể không đến chùa Hàn Sơn một chuyến chứ?

Phú ông Ngô Tế Uyên đất Tô Châu cung thỉnh Trương thiên sư đến phủ chúc phúc cho lão thái gia. Huynh muội họ Trương cũng mới đến Giang Nam lần đầu, nghe danh phong cảnh Thái Hồ đã lâu, có ý muốn ngoạn hồ, chèo thuyền hái ấu một chuyến nên đặc biệt sai người đến Hàng Châu mời Dương Lăng. Ba đại thái giám trấn thủ Giang Nam quyền cao chức trọng, mà Dương Lăng lại đang trọ tại Mạc phủ, đương nhiên Ngô Tế Uyên sẽ không thể không đoái hoài gì đến vị Mạc công công trấn thủ Giang Nam này, vì vậy lão cũng mời vợ chồng Mạc công công đi cùng.

Thuyền quan rẽ sóng dọc theo con kênh cổ xưa. Khi đi qua chùa Hàn Sơn, huynh muội Trương thiên sư và Ngô Tế Uyên đã chờ sẵn trên bến Phong Kiều. Hôm nay Dương Lăng đổi sang mặc quần áo chẽn, nếu không phải vì cái đám nha sai đeo cung cầm đao bên cạnh là cái chiêu bài sống của y, thì với tướng mạo và cách ăn mặc bình dị này nhất định y sẽ bị người khác lầm tưởng là một vị công tử nho nhã phong độ.

Tuy sớm đã nghe nói vị khâm sai này tuổi còn rất trẻ, song khi trông thấy diện mạo của y, Ngô Tế Uyên vẫn không khỏi lộ vẻ kinh ngạc. Vị phú ông Tô Châu này tuổi trạc ngũ tuần, tướng mạo hiền lành tao nhã. Mặc dù nhà họ Ngô mấy đời buôn bán nhưng sở hữu đất đai trong khu vực Tô Hàng cũng rất nhiều, con cháu Ngô gia cũng nhiều người thi đỗ làm quan, cho nên có thể xem họ Ngô là thế gia vọng tộc, hào phú đất Giang Nam.

Hôm nay Trương thiên sư là chủ, vị khách mời quan trọng nhất chính là khâm sai đại nhân; nhưng nói đến quen biết thì Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên quen biết hơn. Thế là Mạc Thanh Hà lập tức giới thiệu Dương Lăng với Ngô Tế Uyên, Ngô Tế Uyên thì giới thiệu huynh muội Trương thiên sư với Mạc Thanh Hà. Một đoàn người vui vẻ nói cười bước vào trong chùa Hàn Sơn.

Hôm nay Mạc Thanh Hà cũng đổi sang mặc một bộ thường phục. Hắn có vóc người cao lớn, dáng vẻ đường đường, thật không còn thấy bộ dáng của một thái giám. Hắn đứng cạnh Mạc phu nhân chan chứa phong tình, quyến rũ mê người thực cũng khiến cho người ta có cảm giác đó là một cặp trai tài gái sắc.

Nghe nói hôm nay khâm sai đại nhân từ kinh đô và thái giám trấn thủ Mạc công công muốn đến chùa tham quan, phương trượng chùa Hàn Sơn không dám sơ suất chút nào, sớm đã ra đứng đón ngoài cổng chùa. Lão hoà thượng tuổi quá bát tuần, râu tóc bạc phơ, sắc mặt hồng hào, thân thể rất là tráng kiện.

Lão hòa thượng khoác cà sa màu đỏ thẫm, dẫn theo các trưởng lão, tri khách tăng và mười mấy tiểu sa di trong chùa cung kính nghênh đón nhóm người Dương Lăng. Tuy thanh danh vang dội nhưng thật ra chùa Hàn Sơn này rất nhỏ, đi hết một vòng cũng không mất bao thời gian. Vừa bước vào cổng chùa, đập vào mắt mọi người là một chiếc lư hương lớn, hương hoả cực thịnh, cắm đầy những cây nhang to bằng hai ngón tay do các tín đồ kính dâng, từ rất xa đã ngửi thấy mùi nhang khói nồng nặc.

Tuyệt đối không vì có khâm sai đại nhân quang lâm mà nhà chùa đuổi những khách hành hương khác ra ngoài. Có điều trông thấy đám nha sai xông thẳng vào chùa, đứng canh ở khắp nơi thì ai cũng biết là có nhân vật tai to mặt lớn đến, cộng thêm lão phương trượng ngày thường không dễ ra gặp khách lại đích thân tháp tùng giới thiệu cảnh chùa, những tín đồ nọ sớm đã thức thời mà tránh sang một bên.

Chủ yếu Dương Lăng chỉ tò mò về cái chùa Hàn Sơn này. Tuy nói rằng đến Tô Châu thì Viên Lâm(2) và chùa Hàn Sơn là những nơi phải tham quan, song trong tâm trí Dương Lăng thì Yến Tử Ổ(3) mới là nơi đáng đến nhất. Trương thiên sư có thân phận là bậc chí tôn của đạo gia, đến nơi thánh địa của Phật gia này cũng cảm thấy có phần bất tiện, còn Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên lại đã viếng thăm nơi này chán chê, nên tuy là lão phương trượng vô cùng ân cần, mọi người đều không cảm thấy hào hứng lắm.

Do đó mọi người chỉ cưỡi ngựa xem hoa, ngôi chùa vốn không lớn đi càng mau hết, mới nửa canh giờ, Dương Lăng đã đi đến sau chùa. Lúc vòng qua các tượng phật được cung phụng trong lầu gác ở đằng trước, y chợt trông thấy hai tăng lữ đang chắp tay quỳ trên bồ đoàn bái lạy. Ban đầu Dương Lăng còn tưởng đó là tăng nhân trong chùa đang tham thiền tụng kinh lễ Phật, nên bèn vội dừng bước. Song thấy bọn họ lại quỳ lạy phía sau tượng Phật, y lại cảm thấy có chút quái lạ.

Phương trượng vốn không nghĩ rằng khâm sai đại nhân sẽ đi đến hậu viện nhanh như vậy, cho nên không kịp gọi những tăng nhân ở hậu viện này tránh đi. Lúc này thấy bọn họ làm ảnh hưởng đến hứng thú tham quan của đại nhân, lão bèn vội vẫy tay ra hiệu tri khách tăng đuổi hai hoà thượng áo xám này ra ngoài.

Dương Lăng thấy tăng y hai hoà thượng đó mặc hơi khác với những tăng lữ khác trong chùa, sau lưng hai người lại đều đeo mũ rộng vành, tựa như đi đường xa mà đến, nhìn chung vừa cảm thấy hơi là lạ vừa lại cảm thấy hơi quen quen. Y nhíu mày suy nghĩ ngợi một lúc, chợt nhớ ra những tăng lữ mà y thấy trong truyện tranh Nhật Bản cũng ăn vận như vầy, y lấy làm lạ hỏi:

- Phương trượng đại sư, hai vị cao tăng này có phải là tăng nhân của quý tự không vậy?"

Phương trượng cung kính đáp:

- Khâm sai đại nhân! Hai vị tăng lữ này đến từ chùa Thập Đắc ở Nhật Bản, đến bản tự để chiêm ngưỡng và thỉnh kinh Phật, tượng Phật.

Ngô Tế Uyên đứng bên cười nói:

- Đại nhân! Trong những năm Trinh Quán thời Đường chùa này có hai vị cao tăng đắc đạo, tên là Hàn Sơn và Thập Đắc. Về sau hoà thượng Thập Đắc đông độ (đi truyền đạo về phía đông đến) Nhật Bản, đã dựng nên một ngôi chùa "Thập Đắc" ở Nhật Bản, truyền đạo dạy kinh, rất được người bản xứ kính trọng. Vì vậy nếu có tăng lữ hoặc tín đồ Nhật Bản đến Đông Thổ, phần lớn đều sẽ đến chùa Hàn Sơn thăm viếng.

- Ồ?

Dương Lăng thấy phương trượng chùa Hàn Sơn và Ngô Tế Uyên bàn luận về Nhật Bản mà thần sắc lại thong dong, không hề có vẻ gì là phẫn hận, thì hơi lấy làm ngạc nhiên, song sau đó liền nhớ ra rằng lúc này Nhật Bản vẫn chưa gây ra tội ác tày trời với Trung Quốc*. Mặc dù giặc Oa làm nhiều điều ác ở vùng duyên hải, song đám hải tặc đó cũng là phường vô lại phạm pháp ở Nhật Bản. Huống hồ trong đó còn xen lẫn rất nhiều hải tặc Trung Quốc, cho nên người dân lúc này vẫn chưa vì vậy mà oán hận người Nhật. Thế là y cũng thoải mái tươi cười.

(*: tác giả nhắc đến những chuyện trong Thế Chiến thứ hai chăng?)

Y cất bước đến trước mặt hai hoà thượng Nhật Bản đang định lui ra điện nọ để chào hỏi. Nhìn trên tường, y thấy treo một bức tranh đã mờ, niên đại xem ra rất xưa, vẽ chân dung hai hoà thượng trông rất chấc phác, thậm chí có phần khôi hài. Phương trượng đại sư đi đến gần tươi cười:

- Đại nhân! Đây chính là chân dung của hai vị cao tăng Hàn Sơn và Thập Đắc đó.

Dương Lăng gật nhẹ, nhìn thấy bên trái bức tranh có hai hàng chữ. Hai câu đối thoại này rất nổi tiếng, y đã từng được nghe qua, có điều vẫn không biết xuất xứ từ đâu, lúc này trông thấy thì mới biết là lời của Hàn Sơn và Thập Đắc.

Y thuận miệng đọc:

- Người đời phỉ báng tôi, khi dễ tôi, làm nhục tôi, chê cười tôi, khinh rẻ tôi, căm ghét tôi, lừa gạt tôi, thì tôi phải xử trí thế nào?

Bên cạnh lập tức có người tiếp lời:

- Chỉ cần nhịn họ, nhường họ, mặc họ, tránh họ, chịu đựng họ, kính họ, không để ý đến họ, rồi chờ ít năm nữa ông hãy nhìn họ xem.

Dương Lăng kinh ngạc quay đầu, trông thấy đó là một trong hai vị tăng nhân Nhật Bản trẻ tuổi nọ đang chắp tay trả lời y. Dương Lăng không khỏi cười nói:

- Hoà thượng! Đúng là ông nhớ thật kỹ.

Được y khen ngợi, mặt vị tăng nhân Nhật Bản đó không khỏi lộ vẻ vui mừng, nói:

- Đa tạ đại nhân khen ngợi! Bần tăng Viên Nhân, là tăng lữ chùa Thập Đắc ở Nhật Bản. Bần tăng còn nhớ Hàn Sơn đại sư từng hỏi: “Còn có bí quyết gì có thể tránh họ được không?” Thập Đắc đại sư đáp: “Bồ tát Di Lặc từng có bài kệ rằng: ‘có người mắng lão khờ, nói lão khờ còn tốt; có người đánh lão khờ, lão khờ tự ngủ khì. Phun nước miếng vào mặt, để nó tự khô luôn, mình cũng đỡ phí sức, họ cũng khỏi não phiền’..."

Bài kệ đó hơn ba trăm chữ, thế mà vị hoà thượng này nhớ rõ mồn một, đọc rõ ràng từng câu từng chữ, du dương trầm bổng. Phương trượng đại sư nghe xong vui vẻ vỗ tay khen:

- Thiện tai! Thiện tai!

Viên Nhân mỉm cười, cẩn thận chắp tay vái phương trượng, rõ ràng cũng có phần tự đắc. Ngô Tế Uyên đứng cạnh cười ha hả nói:

- Thập Đắc đại sư đông độ truyền kinh, quả nhiên thu được nhiều tín đồ, thật là công đức vô lượng.

Dương Lăng nhìn vị hoà thượng miệng đọc kệ ngữ cao tăng, mặt mày hoan hỷ, bèn nhớ đến đời sau cả nước bọn họ hoá thân thành cường đạo, đến Trung Thổ làm ra những hành vi phóng hoả đốt nhà giết người cướp của. Y không khỏi cười nhạt hỏi:

- Lời nói đó của Thập Đắc đại sư quả thực bao hàm phật lý diệu huyền, đại sư quả nhiên thuộc làu. Vậy ta hỏi đại sư, những gì đại sư thuộc... đại sư có làm được hết không?

Viên Nhân thoáng ngẩn ra, trầm ngâm một hồi lâu rồi mới cung kính đáp:

- Bần tăng không làm được.

Dương Lăng lại hỏi:

- Thế... quý quốc là quốc gia thờ Phật, chẳng hay có bao nhiêu người làm được?

Viên Nhân trầm ngâm thật lâu, mồ hôi túa đầy trán, song thuỷ chung vẫn không nói được tiếng nào. Dương Lăng mỉm cười ung dung nói:

- Cho dù có thuộc làu từng quyển kinh Phật, "Phật" đó bất quá chỉ là lời nói đầu môi. Khi nãy đại sư vừa nói... "ngộ đắc chân thường lý, nhật nguyệt vi lân bạn"(4). Lẽ chân thường ấy là ngộ ra như vậy ư?

Hoà thượng Viên Nhân trầm mặc một lát đoạn gập người vái sâu, rồi thản nhiên đáp:

- Từng chữ của đại nhân như lời cảnh tỉnh, bần tăng xin thọ giáo, đa tạ đại nhân chỉ điểm.

Dương Lăng cười nói:

- Không dám, ta chỉ nói bừa mà thôi. “Ngộ ra lẽ chân thường, lấy nhật nguyệt bầu bạn”! Ha ha, nhật nguyệt là ánh sáng, nếu như quý quốc thật sự giúp mọi người làm điều tốt, thì ánh sáng nhật nguyệt ấy... Triều đình Đại Minh(*) ta há không phải chính là bạn tốt láng giềng của quý quốc đấy ư?

(*): Dương Lăng chơi chữ: Chữ Minh明 gồm chữ nhật日 và chữ nguyệt 月 tạo nên.

Hoà thượng Viên Nhân nghe vậy bèn ngẩng đầu nhìn y, cảnh giác hỏi:

- Đại nhân nói vậy... có phải bởi vì quý quốc gặp nạn hải tặc mà trút giận sang nhân dân đất nước của bần tăng không?

Dương Lăng cười nói:

- Đại sư dám khẳng định trong đám "hải tặc" đó không có quân đội do các Mạc chúa hám lợi đen lòng phái ra, giả hải tặc làm ác ư?

Những chuyện này là bí mật được công khai, triều đình Đại Minh có rất nhiều người biết chứ đừng nói là Viên Nhân vốn đến từ Nhật Bản. Viên Nhân nghe vậy thì đỏ mặt, không dám mở miệng phản bác. Nhà sư suy nghĩ một chút rồi bảo:

- Nhưng... quý quốc đã có bao giờ từng biểu thị thiện ý không? Đất nước của bần tăng muốn chung sống hảo hữu cùng quý quốc, hỗ trợ cho nhau, nhưng quý quốc lại vô lý yêu cầu nước bần tăng phải dùng lễ bề tôi mà tiếp kiến.

Nếu dùng lễ bề tôi, thì quý quốc sẽ không tiếc ban thưởng. Mà tăng lữ nước bần tăng cũng phải thường xuyên vượt biển đến đây, mang theo bên người về được một ít, mất bao trắc trở vẫn không thể thoả mãn đủ yêu cầu của các tín đồ. Thế nhưng khi chúng tôi tình nguyện đưa ra nhiều tiền mua sắm, quý quốc lại cho rằng nước của bần tăng không chịu dùng lễ bề tôi mà gây khó dễ. Nếu không phải vì quý quốc hà khắc như vậy, chúng tôi... chúng tôi...

Nói đến đây, mặt nhà sư đỏ lên, rõ ràng cũng tự cảm thấy việc người ta không chịu mua bán với mình mà mình liền ra tay đánh cướp cũng quá vô sỉ, cho nên không thể nào nói xong cái lý do này.

Đương nhiên Dương Lăng cũng biết những nguyên nhân ấy. Năm xưa, khi y đọc lịch sử đã phát hiện quả thật người Trung Quốc xưa rất "đần", thà cầu danh chứ không cầu lợi. Nếu nước khác chịu tự nhận là bề tôi thì cho dù có đưa đến một sọt cỏ cũng hận không thể ban thưởng số hoàng kim gấp mười lần để biểu đạt sự khẳng khái lẫn hào phóng của thiên triều thượng quốc. Nhưng nếu đối phương không chịu xưng thần, thì cho dù có cuộc mua bán trăm lợi mà không hại thì cũng quyết không chịu giao dịch cùng, xem như là mình trừng phạt đối phương.

Y thấy hoà thượng Viên Nhân tuy trong lời nói có ý tức giận bất bình, nhưng mặt lại hiện vẻ xấu hổ, rõ ràng là hổ thẹn với hành vi của người nước mình thì bất giác có mấy phần hảo cảm với hắn. Y giãn mặt mỉm cười rồi nói:

- Lời đại sư nói, bản quan cũng biết một phần. Những việc này ta sẽ bẩm rõ với Hoàng thượng, cầu xin Hoàng thượng cho phép mở hải cảng thông thương, tăng cường giao lưu qua lại giữa hai nước. Chỉ có điều... những hải tặc đó của quý quốc, bất kể vì lý do gì, chỉ cần bọn chúng tới, chúng ta sẽ đập nát chúng ngay.

Nói xong, Dương Lăng lại thâm thúy nhìn chăm chú hoà thượng Viên Nhân dường như đang có điều đăm chiêu. Sau đó y cùng nhóm người Trương thiên sư và Mạc Thanh Hà chậm rãi quay về. Trông thấy Ngô Tế Uyên dường như có điều nghĩ ngợi, Dương Lăng không nhịn được bèn hỏi:

- Ngô tiên sinh vẫn còn đang nghĩ đến lời vị hoà thượng đó sao?

Ngô Tế Uyên giật mình thất kinh, liền vội chắp tay đáp:

- A! Phải... à không phải... thảo dân...

Dương Lăng cười nói:

- Ngô tiên sinh không cần phải kinh hoảng. Ngài là phú ông đất Tô Châu, có đất đai, có xưởng dệt và còn có cửa hàng, chắc hẳn hiểu những chuyện này hơn. Lần này bản quan đến Giang Nam chính là để kiểm tra việc thuế khóa. Không những bản quan chỉ tra xét sự thanh liêm của thuế lại mà cũng muốn hiểu rõ hơn về nguồn gốc thuế khóa và phương pháp gia tăng thuế khóa nữa. Tiên sinh cứ việc nói thẳng, bản quan quyết sẽ không trách tội.

Ngô Tế Uyên nhìn Trương thiên sư hỏi ý, thấy y gật đầu khích lệ mới bèn lấy hết dũng khí đáp:

- Đại nhân! Theo thảo dân thấy, thật ra... nếu như triều đình chịu mở cảng thông thương với Nhật thì chẳng những lợi cho bá tánh, mà thuế khóa của triều đình nhất định cũng sẽ tăng lên rất nhiều.

Hiện nay trong nước Nhật Bản chiến loạn liên miên, rất nhiều thứ bị thiếu hụt, ví dụ như tơ sống, vải bông, lụa gấm, thủy ngân, thậm chí là cây kim, dây xích, nồi sắt, đồ sơn mài, đồ sứ, thảm len, và cả dược liệu, đồ gia vị, vân vân,… đặc biệt là sách vở kinh điển của Phật giáo. Nhu cầu này rất cao, nếu bán được cho bọn họ, chúng ta có thể thu về lợi nhuận gấp mười lần đó.

Tuy Dương Lăng biết thông thương nhất định mang lại lợi ích cho đất nước, nhưng y cũng không ngờ những thứ không đáng giá này mang sang Nhật Bản lại được lãi lớn như vậy. Nếu như một số lượng lớn những vật dụng hằng ngày này được Nhật Bản tiêu thụ, vậy chẳng phải tiền bạc của Nhật Bản sẽ chảy như nước vào Đại Minh ư? Dương Lăng vẫn chưa quên việc xe hơi cùng đồ điện Nhật Bản tràn ngập thị trường Trung Quốc. Thì ra trong lịch sử cũng có lúc bọn họ điên cuồng theo đuổi hàng hoá Trung Quốc à. Cơ hội này sao có thể bỏ qua?

Dương Lăng nửa ngạc nhiên nửa hào hứng hỏi:

- Lại được lợi nhuận lớn như vậy sao? Ngô tiên sinh hãy nói rõ hơn một chút đi!

Ngô Tế Uyên thấy y mừng rỡ ra mặt thì càng tăng thêm dũng khí. Lão nghĩ ngợi một chút rồi đáp:

- Đại nhân đừng cho rằng thảo dân nói bừa. Thảo dân lấy ví dụ như nuôi tằm, lấy tơ, dệt lụa. Từ nuôi tằm con thành thành tằm có thể kéo tơ phải mất một năm, sau đó là sản xuất tơ sống, một cân chỉ có thể bán được năm sáu phân tiền. Trừ chi phí tiền vốn và thuế, phần còn lại phải cố gắng lắm mới có thể sống tạm qua ngày mà thôi.

Nhưng nếu vận chuyển được tơ sống sang Nhật Bản sẽ có thể bán được năm sáu lạng bạc, chênh lệch gấp cả chục lần đấy! Cho dù một cây kim ở đây mang sang bên chỗ bọn họ cũng có thể bán được bảy phân tiền, đúng là một vốn bốn lời à. Đương nhiên, bên đó bọn họ cũng có đồ tốt mà chúng ta cần, tỉ như đồng, hưu huỳnh, gỗ vang (tô mộc, danh pháp khoa học: Caesalpinia sappan, lõi rất cứng), vân vân… Chúng ta mua về gia công chế tạo một tí rồi bán lại cho bọn họ, lại kiếm thêm một khoản nữa.

Dẫu sao Ngô Tế Uyên cũng là thương nhân, nói một hồi thì sự sợ sệt e dè hoàn toàn tan biến, mặt mày lão hớn hở hẳn lên. Dù Dương Lăng nghe như thế nào cũng thấy giống như một phiên bản tình hình kinh tế hai nước Trung - Nhật vào khoảng thời gian nào đó ở đời sau, chỉ có điều là thịnh vượng hơn và cung cầu của song phương được đảo ngược lại, bèn không khỏi bật cười nói:

- Người Nhật cũng không ngu. Những Mạc chúa, tướng quân đó hối hả buôn bán với chúng ta như thế, không phải chỉ vì nhu cầu của người dân mà họ để tâm như vậy, đúng không?

Ngô Tế Uyên cười lớn nói:

- Đó là lẽ đương nhiên. Bình phong, quạt, hộp, nghiên mực của bọn họ được chế tạo tinh mỹ, phú ông bên chúng ta cũng vui vẻ trả giá cao để mua về. Nếu thông thương qua lại, triều đình còn có thể nhập một lượng lớn đao kiếm từ chỗ bọn họ. Chất lượng đao Nhật tốt hơn đao của chúng ta, bán lại ít nhất phải lời gấp ba lần.

Dương Lăng nghe xong lặng lẽ gật đầu. Đến lúc rời khỏi cổng chùa Hàn Sơn, y bỗng dừng bước, trịnh trọng nói với Ngô Tế Uyên:

- Làm phiền Ngô tiên sinh việc này. Không biết liệu ông có thể ghi cặn kẽ những việc mà ông biết, càng chi tiết càng tốt. Khi hồi kinh bản quan sẽ trình báo những việc này lên cho Hoàng thượng.

Ngô Tế Uyên trợn tròn cặp mắt nhìn y, mãi lúc sau mới hào hứng kêu lên:

- Đại nhân... Đại nhân nói thật đấy chứ? Đại nhân tự nguyện vì chuyện ích lợi của thương nhân này mà dâng lời lên Hoàng thượng sao?

Dương Lăng lắc đầu, nghiêm túc đáp:

- Đây không phải là chuyện ích lợi của thương nhân. Đây là việc quốc gia đại sự!

Ngô Tế Uyên nghe vậy, ánh mắt chợt lóe lên, đoạn lão vái Dương Lăng một vái thật sâu, trịnh trọng:

- Có câu này của đại nhân, Ngô mỗ nếu biết sẽ không tiếc lời, nếu nói sẽ nói ra hết. Thảo dân nhất định sẽ trong thời gian sớm nhất nhanh chóng thuật lại tỉ mỉ những gì mình biết để đưa cho đại nhân.

Dương Lăng gật đầu nhè nhẹ, trong lòng cũng âm thầm quyết định. Về đến kinh thành bất kể thế nào y cũng phải tâu chuyện này cho Chính Đức, thuyết phục hắn thông thương giao lưu. Y cũng biết đám đại thần thủ cựu xưa nay vẫn một mực cho rằng thiên triều thượng quốc có thể tự cung tự túc, lấy thân phận bình đẳng mà thông thương cùng mọi rợ ngoại bang là việc làm mất mặt thượng quốc nên nhất định sẽ ra mặt can thiệp. Nhưng y cũng biết rõ tầm quan trọng và tất yếu phải xảy ra của việc mở cửa thông thương. Việc này nhất định phải làm. Chỉ cần làm tốt, để triều đình và bá tánh nếm chút lợi lộc của nó, đến khi nó phát triển lớn mạnh rồi thì không ai có thể ngăn cản được nó nữa.

Ngô Tế Uyên đứng thẳng lưng lại, vui vẻ cười nói:

- Thảo dân nói chuyện cả buổi, vất vả cho đại nhân phải nói đến việc công rồi. Hôm nay đại nhân tới để giải sầu, chuyện này để chốc nữa hẵng nói tiếp. Thảo dân đã đoán biết đại nhân nếu đã đi du ngoạn, điểm dừng đầu tiên phải là ngôi chùa cổ Hàn Sơn này rồi. Gần đây có một tiệm ăn chay Hàn Sơn, hương vị độc đáo, thảo dân đã đặt trước tiệc rượu, mời đại nhân đến đó thưởng thức trước một tí, sau đó chúng ta sẽ đi du ngoạn Thái Hồ ngắm cảnh thu tiếp nhé!

Mạc Thanh Hà thoáng ngẩn ra rồi bảo:

- Hôm nay đại nhân dùng thân phận cá nhân du ngoạn Tô Châu cho nên bản quan không thông báo cho tri phủ Tô Châu. Có điều bản quan đã thông báo cho Lý Đại Tường thết tiệc tẩy trần cho đại nhân ở lầu Sư Tử. Đại nhân xem...

Dương Lăng thoáng suy nghĩ rồi đáp:

- Thôi, bỏ đi! Vào thành chạy tới chạy lui sẽ lại lãng phí thời gian, hơn nữa đoàn người đông đảo này cũng không tiện phô trương thanh thế. Đi Thái Hồ xong, tối nay chúng ta hãy trọ lại một đêm rồi phải trở về Hàng Châu. Thôi đừng làm phiền hắn nữa.

Thật ra Dương Lăng định đi nhanh về sớm là muốn khi trở về sẽ đến Hải Ninh gặp Mẫn Văn Kiến một lúc. Song nếu nói cho Mạc Thanh Hà biết trước, nhất định hắn ta sẽ thông tri quan phủ Hải Ninh rằng có khâm sai giá đáo; bọn họ lại rầm rầm rộ rộ chuẩn bị tiếp đón tất sẽ khiến cho cái huyện Hải Ninh bé xíu loạn cả lên.

Cái cảm giác bị cả đoàn người tiền hô hậu ủng, mất hết tự do như lúc này đã khiến Dương Lăng nhức đầu không thôi rồi, y không mong khi đến Hải Ninh thì những người ở nơi ấy sẽ lại bày vẽ chiêu đãi như thể sắp lâm đại địch, cho nên không hề nói cho Mạc Thanh Hà hay. Mạc Thanh Hà nghe y nói muốn nhanh về Hàng Châu, ngẫm nghĩ nếu mình tỏ ý ngăn trở thì ngược lại sẽ giống như sợ y điều tra mình ở Hàng Châu vậy, nên hắn không nói gì thêm.

Tiệm cơm chay Hàn Sơn phía tây nhìn bến Phong Kiều, nam dựa chùa Hàn Sơn, Bắc kề dòng Phong Tân, tựa vào lan can uống rượu, lên lầu trông về phía xa, thoả sức thưởng lãm vẻ tú lệ của Cô Tô. Các món ăn như Phật Thiên Thủ, Công Đức Kim Thối, La Hán Trai, Bát Trân Hoà Hợp, Phỉ Thuý Cầu, Cua Xào Chay do nơi đây làm rất chú trọng đến việc chọn lựa nguyên liệu, màu sắc và mùi vị đều tuyệt vời, hương vị của nó đủ để "mượn giả làm thật".

Nơi ấy cũng không xa, đoàn người không ngồi kiệu, vừa nói vừa cười cuốc bộ mà đi. Ngô Tế Uyên dẫn mọi người đến tiệm cơm chay Hàn Sơn, đang tủm tỉm mời vào thì Liêu quản sự chờ sẵn ở đó chợt hổn hển chạy ra thưa:

- Lão gia! Xảy ra chuyện rồi. Tiểu nhân đã bao hết tiệm ăn này chờ khâm sai đại nhân quang lâm, nào ngờ lão gia Lý Quý câu cá ven sông trở về, khăng khăng đòi thưởng thức khẩu vị nơi đây một chút. Tiểu nhân đã nói rõ với hắn là nơi này đã được lão gia bao, song hắn vẫn không nghe...

Ngô Tế Uyên nghe vậy thì thoáng sững người, lão không ngờ đến đây mà còn chạm phải oan gia đối đầu là Lý Quý. Nhưng mà... Liêu quản sự này cũng thật không biết làm việc gì cả, chỉ cần nói mình bày tiệc là để chiêu đãi khâm sai đại nhân và Trương thiên sư, thì cho dù tên Lý Quý đó có to gan hơn nữa cũng lại dám ở đây sinh sự sao?

Ngô Tế Uyên hầm hầm nhìn Liêu quản sự. Lão vừa định cất lời trách mắng thì đột nhiên chú ý thấy Liêu quản sự vừa nói với lão vừa không ngừng nhìn sang Dương Lăng, lúc này mới sực hiểu ra ý tứ của hắn ta. Lão cười thầm trong bụng, lập tức đổi thành vẻ mặt khó xử nói:

- Vậy... tiệm này đã bị Lý Quý bao rồi à? Nếu vậy thì hơi có chút rắc rối rồi.

Nguyên lai họ Ngô đã cư ngụ ở nơi này hơi một trăm sáu mươi năm, sáu mươi năm trước đã trở thành phú hộ giàu có nhất Tô Châu. Mà cái tên Lý Quý này, lại là một vị nhà giàu mấy năm gần đây đột nhiên phất lên, là một phú hộ mới nổi chuyên cho vay nặng lãi, đầu cơ trục lợi.

Không ai biết lai lịch xuất thân của tên Lý Quý này, chỉ biết dường như khi hắn đến đã có sẵn nguồn vốn rất hùng hậu rồi. Mỗi khi gặp phải thiên tai nhân hoạ, nhất là sau mỗi lần giặc Oa đến cướp bóc, có mấy nông dân trả nổi nợ nần chứ? Khi đó, cùng đường bí lối, những người nông dân nghèo khổ đói khát này buộc lòng phải cầm cố đất đai mà trả nợ, từ nông dân trở thành tá điền cho hắn, một số người thì trở thành dân lang thang không nghề không ngỗng được các xưởng thủ công làm giấy, dệt tơ thuê mướn; một số thì vì tuổi già sức yếu không cách mưu sinh đành phải đi ăn xin, lang bạc khắp nơi.

Dựa vào thủ đoạn này, chỉ trong vòng vài năm ngắn ngủi Lý Quý đã mua gom được một lượng lớn đất đai của hai vùng Tô-Hàng, giờ đây nghiễm nhiên trở thành địa chủ lớn nhất hai châu Tô-Hàng. Gia nô tôi tớ của gã phải dùng con số hàng ngàn mà tính, nhà ở thì lầu cao cửa rộng, ra đường thì quần áo lụa là, thanh thế có vẻ đã vượt trội nhà họ Ngô.

Hành vi của gã hiển nhiên khiến thân sĩ Tô Châu khinh thường, cộng thêm người dân địa phương cũng có tâm lý bài ngoại, cho nên những thân sĩ này bèn tố cáo những việc làm xấu xa của Lý Quý với quan phủ. Nhưng không biết tên Lý Quý đó rốt cuộc có lai lịch thế nào, mà nha môn tri phủ tiếp nhận cáo trạng xong lại nhắm mắt làm ngơ.

Thế gia hào phú với mạng lưới quan hệ rộng lớn như nhà họ Ngô bèn phản ánh sự tình với Bố chánh sứ cùng nha môn ti Án Sát sứ, không ngờ cũng không hề có kết quả. Lúc này mấy đại gia tộc địa phương mới hiểu chỗ dựa của tên Lý Quý này nhất định vô cùng vững chắc. Bọn họ lật gã không đổ, lại sợ bị gã trả thù nên đành phải căn dặn người trong nhà bình thường bớt qua lại với tên ác nhân này.

Lý Quý làm mưa làm gió ở Tô Châu, gia nghiệp nhà họ Ngô lại khổng lồ, cho dù có muốn tránh cũng chẳng thể nào tránh hết được, cho nên không ít tôi tớ và quản sự trong nhà bị gã hà hiếp lắm lần. Gần đây Lý Quý lại bắt đầu dòm ngó đến sản nghiệp họ Ngô, quan hệ hai nhà như nước với lửa. Liêu quản sự cố ý không nói rõ khâm sai đại nhân muốn đến dùng bữa, chính là muốn mượn tay Dương Lăng để trút nỗi bực tức này.

Mạc Thanh Hà đứng bên cạnh nghe được chuyện, da mặt liền hơi dúm lại, không nén được giận bước lên cả tiếng:

- Lý Quý? Là cái tên thân hào địa phương không đáng giá đó à? Hừ! Bình thường ỷ vào mấy đồng tiền mà đã ngang tàng hống hách, lần này lại dám bày trò trước mặt cả khâm sai đại nhân!

Dương Lăng nghi hoặc hỏi Ngô Tế Uyên:

- Lý Quý này là ai vậy?

Tuy thân phận thấp kém, nhưng Liêu quản sự từng ngồi cùng thuyền với Dương Lăng, quan hệ còn thân hơn cả lão gia của hắn, nên bèn vội tranh bước tới mấy bước, thêm mắm thêm muối kể lại thái độ đối nhân xử thế của Lý Quý. Dương Lăng nghe mà liên tục nhíu mày.

Mạc Thanh Hà cười ha hả nói:

- Trong số những kẻ giàu có ở vùng Tô Châu thì tên Lý Quý này là kẻ vi phú bất nhân nhất. Tuy gã chưa từng làm chuyện thương thiên hại lý gì, song chỉ mỗi bộ mặt nhà giàu mới nổi đó đã khiến người ta thấy ghét rồi. Hôm nay gã lại dám động chạm đến đại nhân, bản quan đang muốn nhân cơ hội này dạy dỗ gã, cũng là để khiến gã an phận một chút vậy.

Tuy Dương Lăng cảm thấy ghét Lý Quý, nhưng gã chưa hề có hành vi xấu xa trắng trợn gì, cho vay nặng lãi lại không phạm pháp, nếu chỉ vì gã va chạm với mình mà mình lại nghiêm khắc trừng trị gã, đến khi đám ngôn quan biết được, nhất định bọn họ sẽ dâng tấu hạch tội mình, cho nên y không muốn đa sự. Có điều nghe lời nói của Mạc Thanh Hà, Dương Lăng biết hắn ta sẽ không làm gì quá mức, nên chỉ cười cười không nói.

Mạc Thanh Hà thấy y cho phép, bèn quay đầu ra lệnh cho quản gia của lão:

- Lão Lý! Đập cái tên không biết điều đó một trận cho ta, bảo gã sau này bớt phóng túng lại mộ chút. Ngươi lôi gã ra xa xa đi, đừng làm mất khẩu vị của đại nhân.

Lý quản gia mỉm cười đáp một tiếng. Hắn vừa khoát tay mang theo mấy người bước tới trước cửa, cửa phòng chợt mở ra, một gã tráng niên tầm hơn ba mươi, mặt mày to béo đen đúa, chắp tay sau lưng, hất hàm ngạo mạn nói:

- Ngô lão gia mời nhân vật nào ăn chay thế? Thật ngại quá, hôm nay bản lão gia đã bao quán này rồi.

Chú thích:

(1) Phong Kiều dạ bạc (dạ: đêm, bạc: cập bến), tạm dịch "Đêm cập bến Phong Kiều", là bài thơ rất nổi tiếng của Trương Kế (张继). Tác giả sống vào khoảng trước sau năm 756 - đời vua Đường Túc Tông. Bài thơ Phong Kiều dạ bạc về sau đã được Khang Hữu Vi đời nhà Thanh khắc trên tấm bia lớn dựng trong chùa Hàn Sơn để cho người đời sau qua đây thưởng lãm.

Hán Việt:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Bản dịch của Tản Đà:

Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi

Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co

Con thuyền đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.

(2) Tô Châu Viên Lâm hay còn gọi là Cô Châu là một kiến trúc lâm viên ở trong nội thành của Tô Châu, lấy khuôn viên tư gia là chủ đạo, bắt đầu từ thời Xuân Thu (514 trước Công Nguyên), hình thành thời Ngũ Đại, hoàn thành thời nhà Tống, hưng thịnh thời nhà Minh. Đến cuối thời nhà Thanh thì Tô Châu đã có hơn 170 vườn cây cảnh đặc sắc, hiện nay có hơn 60 nơi được bảo tồn hoàn chỉnh, có 19 nơi là vườn cây cảnh mở.

(3) tạm dịch "tổ én", là nơi cư ngụ của nhà Mộ Dung trong Thiên Long Bát Bộ.

(4) hiểu ra được lẽ chân thường (chân lý), mặt trời mặt trăng sẽ quây quần làm bạn, ý nói một khi hiểu ra lẽ phải thì anh sẽ tìm được ánh sáng (mặt trời và mặt trăng tượng trưng cho ánh sáng).

Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển bốn - Dương Lăng xuống Giang Nam

Chương 128 - Chèo Thuyền Du Ngoạn Thái Hồ

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!

Y nói lời này tự đáy lòng, nhưng Cao Văn Tâm lại hiểu lầm thành ý khác. Nghe y nói muốn đem tranh vẽ mình làm báu vật gia truyền, để lại cho con cháu đời sau, cái ẩn ý đó... Vừa nghĩ đến đây, con tim nàng liền nhảy thình thịch như trống trận, thế là nàng vui vẻ đồng ý ngay.

------------------------- Chương 128 Chèo thuyền du ngoạn Thái Hồ

------------------------

Gã hán tử mập lùn, da dẻ đen đúa dương dương đắc ý nói xong, tròng mắt mới dần khôi phục lại vẻ bình thường. Chợt nhìn thấy quản gia của Mạc phủ đang đứng trước mặt, gã không khỏi thất kinh, mặt lập tức biến sắc.

Lý quản gia cười khà khà:

- Lý đại lão gia thực là oai phong! Lão gia nhà ta cũng định nếm thử đặc sản của quán Hàn Sơn này, xem ra sẽ uổng công một chuyến rồi.

Lúc này Lý Quý mới nhìn thấy ngoài cửa còn có mấy người đang đứng, trong đó gã chỉ nhận ra được Ngô Tế Uyên và Mạc Thanh Hà, vẻ mặt hai người đều như nhau, miệng mỉm cười, điềm nhiên quan sát.

Lý Quý chửi thầm trong bụng, biết mình đã trúng kế của Ngô Tế Uyên, hôm nay khó tránh bị mất sạch thể diện rồi. Nhưng Mạc Thanh Hà chủ quản việc thu thuế gạo thóc, mà gã là địa chủ đứng đầu hai vùng Tô – Hàng; có thể nói Mạc Thanh Hà tha cho gã một phần, ấy là được vạn gánh thóc gạo, căng với gã một phần, ấy là mất đi một số bạc lớn, cho nên gã không dám đắc tội với vị thần tài này chút nào.

Lý Quý lật đật bước ra khỏi cửa, cúi đầu khom lưng thưa:

- Mạc gia! Lão nhân gia ngài cũng đến à! Úi chao, tiểu nhân không biết là lão nhân gia ngài, mời ngài vào! Tiểu nhân đã lâu không gặp ngài rồi, muốn hiếu kính ngài cũng không có cơ hội nữa. Thực khó có dịp lão nhân gia ngài đến Tô Châu, xin để tiểu nhân thết tiệc tẩy trần cho ngài.

Mạc Thanh Hà nở nụ cười nhàn nhạt, đáp:

- Ăn đồ chay phải chú trọng đến ý cảnh, lời của Lý viên ngoại thực không thích hợp lắm.

Vị Lý đại viên ngoại này nhìn như kẻ thô kệch nhưng lại không thiếu thông minh. Gã hiểu ý Mạc Thanh Hà giễu gã người đầy mùi tiền, mặt không khỏi lúc trắng lúc đỏ, ngượng ngập nói:

- Phải phải phải! Tiểu nhân không biết Mạc gia còn mời khách, mời các ngài vào, tiểu nhân lập tức đi ngay. Khoản tiền này ngàn vạn lần lão nhân gia ngài hãy để tiểu nhân lo liệu, xem như nể mặt tiểu nhân vậy.

Thấy bộ dạng ảo nảo của gã Lý Quý đang hoành hành khắp phủ Tô Châu, trong lòng Ngô Tế Uyên hết sức hể hả. Lão thấy Lý Quý vẫn đang lấy lòng Mạc Thanh Hà bèn chen miệng vào:

- Không cần nhọc Lý viên ngoại tốn phí. Ngô mỗ đây đã mời các vị đại nhân đến du ngoạn Tô Châu, chút tiền này vẫn có thể trả được.

Lý Quý thấy Ngô Tế Uyên mở tiệc thết đãi Mạc Thanh Hà, hiển nhiên quan hệ đôi bên không nhạt, bên cạnh còn có một vị công tử tôn quý và một đạo nhân trông cũng không phải nhân vật tầm thường, nên càng không dám lộ vẻ kiêu ngạo. Mấy tên tay sai của gã tay áo xắn cao, mặt mày bặm trợn trong quán trà hùng hổ đi theo ra lúc này cũng đã phải rón ra rón rén. Lý Quý thấy Mạc Thanh Hà không thèm nhìn mình, vội ngượng nghịu khom lưng, mãi đến khi Ngô Tế Uyên mỉm cười mời đám người Dương Lăng vào quán xong, gã mới vội vã rời đi.

Lý quản gia được Mạc Thanh Hà căn dặn, nào dám dễ dàng bỏ qua cho gã, sớm đã mỉm cười theo sau. Đương nhiên "dạy dỗ" mà Mạc Thanh Hà nói không phải là sai người tẩn gã một trận; phỏng chừng khi đuổi tới nơi, sợ rằng Lý quản gia sẽ nả gã một món lớn, chưa khiến gã đau thịt buốt xương ba ngày thì chưa thôi.

Ngô Tế Uyên đưa mấy người vào nhã phòng, áy náy xin lỗi:

- Thảo dân không biết tên Lý Quý này sẽ đến, đã quấy rầy nhã hứng của các vị đại nhân, thật có lỗi quá.

Dương Lăng thấy trong quán ngoài đường đều có tuỳ tùng đứng gác, ngay cả ông chủ và tiểu nhị của quán cũng trở nên sợ sệt, y hơi nhíu mày nói: "Hôm nay chúng ta chỉ lấy cương vị cá nhân du ngoạn ngắm cảnh, làm to chuyện như vầy quả thật cũng không ổn. Tại hạ nghĩ... có thể hay chăng phiền Ngô tiên sinh chuẩn bị vài bộ y phục của bá tánh phổ thông, lát nữa chúng ta đến Thái Hồ du ngoạn, cứ đồ xe đơn giản là được. Về phần người của tại hạ thì chỉ cần chọn ra vài người đi theo là được, những người khác chờ trên thuyền. Có điều... phải phiền huynh muội thiên sư thay đổi y phục rồi."

Tuy lần này Trương thiên sư đi với tư cách là người tu đạo, song thật ra đó không phải là lễ nghi trọng đại gì, sau khi lập đàn tế tự thì thiên sư ăn mặc cũng không khác người thường là bao, cho nên không dị nghị gì về việc này. Trịnh bách hộ nghe Dương Lăng giao việc xong, bản thân đảm trách an nguy cho Dương Lăng nên gã không dám qua loa, liền vội tìm Liêu quản gia bảo hắn nhanh chóng thu xếp, còn bản thân gã chọn trong đám nha sai được hơn hai mươi người thân thủ cao cường, thông minh tháo vát, hỏi rõ Liêu quản sự về lộ trình du ngoạn, rồi chạy đến Thái Hồ chuẩn bị trước.

Mạc phu nhân nhẹ nhàng cởi áo khoác ngoài ra, thị nữ đứng bên cầm lấy rồi đứng hầu sau lưng nàng. Nàng cười duyên dáng ngồi xuống cạnh Mạc Thanh Hà, dịu dàng:

- Lão gia, đã lâu thiếp thân không đến Tô Châu, thiếp muốn ghé thăm Bố chánh sứ phu nhân một chút. Vả lại, không được ngồi trên thuyền lớn thiếp lại thấy chóng mặt, thiếp sẽ không đi Thái Hồ đâu.

Nàng vừa nói vừa đưa mắt nhìn sang Dương Lăng và Trương thiên sư cười áy náy. Dương Lăng luôn cảm thấy hơi mất tự nhiên trước mặt nàng, giờ nghe nàng nói không cùng điđến Thái Hồ, trong lòng lại nhẹ nhỏm hẳn. Mạc Thanh Hà khẽ gật đầu, vỗ nhẹ tay nàng, nhẹ giọng bảo:

- Được, nàng cũng không cần về gấp, trên đường về ta sẽ cho người đi đón nàng.

Đoạn hắn quay đầu, nhỏ nhẹ nói với Dương Lăng:

- Chuyết nội (vợ nhà) và như phu nhân (vợ lẽ) của Bố chánh sứ Ngưu đại nhân rất thân thiết, đến Tô Châu mà không ghé thăm thì không tiện tí nào. Hơn nữa chúng ta chèo thuyền du ngoạn Thái Hồ, nếu đi thuyền lớn thì mất hết ý vị, còn nếu đi thuyền nhỏ thì cô nàng lại hay chóng mặt, thôi không đi cũng được.

Dương Lăng nghe vậy bèn gật nhẹ đầu, thầm nghĩ: "Nghe nói vị Mạc phu nhân này là danh kỹ Giang Nam, không biết vị thiếp của Bố chánh sứ Ngưu đại nhân có phải cũng là nhân vật trên chốn phong lưu không nữa."

Y vừa nghĩ vừa không khỏi ngẩng đầu liếc nhìn Mạc phu nhân, không ngờ cặp mắt sắc lẹm của Mạc phu nhân cũng đang "ngầm đưa tình" với y, thấy vậy Dương Lăng liền nổi da gà.

Vị Mạc phu nhân này tuy xuất thân từ chốn thanh lâu, nhưng lại không khiến cho người ta có cảm giác quyến rũ yêu mị, mỗi cái nhăn mày, mỗi một nụ cười của nàng đều vô cùng xinh đẹp thanh nhã. Hôm nay nàng vận váy lụa trắng thuần, càng tôn lên vẻ đẹp như đoá phù dung nổi trên mặt nước; mày ngài tựa núi xuân, mắt như đọng thu thủy, quyến rũ mê người.

Lúc cặp mắt như biết nói đó thuỳ mị nhìn người khác, cho dù không hề có ý khêu gợi sắc tình, cũng khiến người ta suy nghĩ vẩn vơ, càng huống chi ngày đó Dương Lăng từng bị nàng âm thầm trêu ghẹo, sao không chột dạ chứ?

Vừa lảng mắt tránh đi, lại trông thấy Cao Văn Tâm đang đứng đối diện, cặp mắt sáng ngời ấy cũng đang chằm chằm nhìn y không chớp. Cả người Dương Lăng càng mất tự nhiên hơn, như thể đã bị nàng nhìn trúng chỗ uý kị trong lòng.

Hôm nay Cao Văn Tâm quả nhiên mặc bộ đồ màu xanh biếc mà hôm qua Dương Lăng đã khen. Quần áo của con gái bình dân tràn trề phong thổ nhân tình của vùng Giang Nam sông nước khoác lên tấm thân thiếu nữ phương Bắc mang đậm khí chất thanh cao điềm tĩnh của nàng, càng toát lên một ý vị khác. Dẫu rằng tuyệt nhiên không thể đánh đồng với khí chất muôn vẻ phong tình như nước của Mạc phu nhân, song nó lại mang một nét đẹp thanh tao ngọt ngào khác hẳn.

Dương Lăng bất giác nhẹ giọng nói với nàng:

- Văn Tâm! Bản quan không cần người hầu hạ, cô cũng mệt rồi. Liêu quản sự, xin ông hãy bố trí một bàn tiệc rượu khác, để nàng ta... à... và hai vị thị nữ của Mạc phu nhân cùng ăn uống rồi nghỉ ngơi vậy.

Khâm sai đại nhân ngồi ghế đầu còn chưa mở lời nói câu chào hỏi hình thức nào mà đã sai người an bài cho thị nữ của y dùng bữa nghỉ ngơi trước rồi! Người thị nữ này thật sự là thị nữ đấy ư?

Ngô Tế Uyên nghe Dương Lăng dặn dò vậy, bèn quan sát kỹ lưỡng Cao Văn Tâm vài lượt. Tuy Cao Văn Tâm ăn mặc như một thị nữ nhưng đứng chung với hai tiểu tỳ của Mạc phu nhân nàng lại toát ra khí độ ung dung khuê các mà bọn họ thua kém cả vạn phần. Lão máy động trong lòng, không khỏi thầm nghĩ: "Phong độ và khí chất của vị cô nương này thật sự không giống nữ tỳ. Khâm sai đại nhân yêu mến nàng ta như vậy, chẳng lẽ bọn họ...?"

Ngô Tế Uyên nghĩ ngợi một chốc, cảm thấy không ổn thoả, hình như hậu lễ chuẩn bị ban đầu đã tính sót một phần, liền vội gọi Liêu quản sự lại, chum tay căn dặn khẽ thêm mấy câu.

**********************************

Trên Thái Hồ, non xanh nước biếc, phong cảnh hoàn toàn tự nhiên. Cảnh sơn thủy này dung hoà vẻ u nhã thanh tú cùng sự bao la hùng vĩ. Nước biếc bao la, khói sông bát ngát, núi non ẩn hiện, muôn hình vạn trạng.

Bốn người Dương Lăng, Mạc Thanh Hà, Ngô Tế Uyên và Trương thiên sư hoá trang thành thư sinh ngoạn cảnh hồ. Trương Phù Bảo cũng thay một bộ quần áo thị nữ nhỏ nhắn, tóc bới ba búi, theo sau với dáng vẻ lanh lợi hoạt bát.

Tướng mạo nàng vốn đã vô cùng xinh xắn dễ thương, nay đổi mặc trang phụ nữ nhi, vẻ mặt thanh tú vui buồn đều đẹp ấy liền trông như tranh vẽ. Ngay cả Ngô Tế Uyên mấy ngày qua quen nhìn nàng vận trang phục đạo sỹ cũng sáng rỡ hai mắt.

Trịnh bách hộ mang theo bốn tay nha sai giả trang làm gia đinh, trong ngực thủ sẵn dao nhọn, trên vai gánh hộp đồ ăn, cảnh giác quan sát chung quanh. Thỉnh thoảng có nha sai cải trang làm du khách hoặc thuyền phu lặng lẽ đưa tay làm vài động tác, ra hiệu không có gì khả nghi.

Lúc này đã là buổi chiều, mặt trời không còn khốc liệt nữa mà đã hơi ửng đỏ. Cỏ lau lay động theo gió, bóng cỏ múa lượn đong đưa. Thi thoảng có cơn gió mát rượi thổi qua mặt hồ mang theo mùi vị tươi mát sảng khoái lùa phớt qua khuôn mặt âm ấm do ngà ngà men rượu của đám người Dương Lăng, khiến cho bọn họ cảm thấy toàn thân thư thái.

Đám nha sai do Trịnh bách hộ phái đến trước đã cải trang phân tán rải rác gần hồ chuẩn bị thuyền hái ấu. Tuy trên hồ có vài du khách, nhưng cũng đều là hai ba người chèo một con thuyền nhỏ, cử chỉ tiêu dao tự tại, nhìn không ra bộ dáng khả nghi nào.

Lúc này đang là mùa ấu nổi rộ, phía trước là mấy khoảnh sen, lá sen xanh biếc bát ngát bao trùm, thỉnh thoảng thấp thoáng những cánh sen trắng nõn hoặc phấn hồng và những củ ấu đã trưởng thành. Lá sen xanh biếc không hề có chút dấu hiệu khô héo điêu tàn, sắc xanh tràn trề một mảng. Có những chiếc lá sen xanh biếc làm nền, những đoá sen gần như bị che khuất lại càng thêm phần xinh đẹp.

Ngô Tế Uyên dẫn đoàn người đến ngồi nghỉ chân dưới một mái đình nhỏ, cười nói:

- Đại nhân thích yên tĩnh du ngoạn hồ, cho nên thảo dân cũng không dám quá khoa trương. Thảo dân đã kêu Liêu quản sự an bài vài chiếc thuyền lá* nhỏ. Hôm nay chúng ta chèo thuyền hái ấu, dập dờn trong sóng biển sen này một lát, đợi trở về bờ, chúng ta sẽ lại lột ít ấu tươi, nhắm rượu thoả thích một phen. Đại nhân thấy thế nào?

(*: thuyền thon hình chiếc lá)

Trong đám người này Dương Lăng có thân phận và địa vị cao nhất, đương nhiên trên mâm tiệc mọi người không ngừng kính rượu với y, cho nên mặc dù năm lần bảy lượt thoái thác, y vẫn phải uống đến gần say, ngực cũng hơi tưng tức, buồn nôn. Vừa nghe lên bờ rồi còn phải uống tiếp nữa, y không khỏi cười khổ sở không thôi.

Những khóm sen nơi đây mọc lan tới cả sát bờ. Trên bờ trồng một hàng cây dương liễu, hơn chục chiếc thuyền nho nhỏ được buộc vào đó. Liêu quản sự đã dẫn vài người đứng dưới gốc cây, thấy mấy vị đại nhân đã đến, hắn liền sai người tháo dây thừng buộc thuyền ra.

Ngay lúc này, từ trên hồ bỗng cất lên một giọng ca trong trẻo ngọt ngào, hát rằng:

- Đào hoa hồng lai dương liễu thanh,

Thanh thủy đường lý chủng hồng lăng,

Muội chủng hồng lăng ca chủng ngẫu,

Hồng lăng khiên đáo ngẫu ti căn.

Tạm dịch: Hoa đào đỏ cho liễu thêm xanh, trong ao nước biếc trồng ấu đỏ, em trồng ấu đỏ anh trồng sen, ấu đỏ nối gốc với sen anh.

Tiếng hát ngọt ngào đắm say lòng người, ca từ trong sáng tao nhã, mấy người Dương Lăng nghe xong bất giác đưa mắt nhìn ra hồ, thấy một chiếc thuyền hoa (thuyền trang hoàng rực rỡ để đón đưa du khách) đang lắc lư tiến về phía bờ bên này. Ở đầu thuyền là một người con gái thướt tha áo đỏ váy đỏ, thắt đai lưng màu hồng phấn, cặp chân trần trắng muốt như tuyết, đang vừa múa vừa hát.

Ở đuôi thuyền, thuyền phu đã ngưng chèo, đầu thuyền rẽ biển sen đỏ lá xanh như cắt ngang một tấm gương, khoan thai rẽ sóng vào bờ. Từ trong khoang thuyền, một thư sinh trẻ tuổi mặc áo chẽn xanh nhạt tay cầm chén rượu lảo đảo bước ra, cười nói với thiếu nữ áo đỏ :

- Bài hát thật hay, quả hợp để uống rượu. Chỉ là không biết Liên Nhi cô nương nối tình ấu đỏ là cho vị công tử nào vậy nhỉ?

Người thiếu nữ xinh đẹp áo đỏ như lửa cười khúc khích, giơ tay ném một hạt sen qua chàng công tử, cất giọng thân mật:

- Đương nhiên là Từ công tử chàng rồi, còn có thể là người nào chứ?

Khuôn mặt của vị công tử đã đỏ bừng, rõ ràng y đã say túy lúy. Nghe nàng nói xong y cất tiếng cười to, mắt lờ đờ ngoái đầu vào trong khoang thuyền bảo:

- Xem Liên Nhi cô nương thực biết nói nhiều câu hay. Có điều đã mở miệng hứa với ta, sao đêm qua ngủ trên giường hoa của nàng lại là Tử Úy huynh thế?

Vốn Cao Văn Tâm nghe giọng hát nọ rất lấy làm thích, nhưng nghe đoạn đối đáp này của bọn họ, nàng biết là mấy thư sinh phong lưu đang mời kỹ nữ thanh lâu du ngoạn trên hồ, không khỏi hơi nhíu mày, mặt lộ vẻ chán ghét.

Lúc này trong khoang lại có một người mặc áo xanh bước ra, tay cầm một chiếc quạt, tuổi độ bốn mươi. Trên nước da trắng trẻo đã lờ mờ có nếp nhăn, mặt ông tuy tươi cười, nhưng dường như từ trong nội tâm vẫn toát ra ngoài một dáng vẻ cô độc.

Ông cười phóng đãng hỏi:

- Sao thế, Xương Cốc mới ngủ với Linh Lung Nhi chưa được một tháng mà đã có ý với Liên Nhi của ta rồi sao?

Thiếu nữ áo đỏ tên gọi Liên Nhi chợt xoay eo thon, nhẹ nhàng lách khỏi bên thư sinh áo xanh nhạt rồi như én về rừng sà vào lòng thư sinh áo xanh, cười ngọt ngào:

- Nói đúng đó, Từ công tử thật không có lương tâm, uổng cho Linh Lung muội muội của thiếp nặng tình với y. Xem khi về thiếp mà không tố cáo y với Linh Lung mới lạ đó...

Thư sinh áo xanh ôm lấy eo nàng ta cười lớn. Lúc quay đầu nhìn lên bờ, vừa trông thấy Cao Văn Tâm, mặt thư sinh nọ chợt ngẩn ngơ. Ánh mắt của vị thư sinh áo xanh tuổi trạc tứ tuần này mờ mịt vì men rượu, nhưng khi ông nhìn kỹ người khác lại vẫn hết sức có thần.

Ánh mắt ông nhìn chằm chằm vào Cao Văn Tâm đang đứng trong đình, quan sát từ trên xuống dưới mấy lượt, trên mặt liền lộ vẻ thích thú, tán tụng:

- Đã lâu chưa từng gặp được cô gái có khí chất u nhã hơn người như vậy. Úi chà, còn là một thị nữ sao? Phủ Tô Châu này người nào lại dùng được thiếu nữ như vậy làm tỳ nữ thế nhỉ?

Ông đập quạt vào tay liên tục, mặt đầy vẻ tiếc hận, thiếu điều sắp đấm ngực giậm chân kêu gào một phen.

Trong khoang nghe tiếng khen ngợi, lập tức lại có hai thư sinh nhào ra. Đi đầu là một người râu ria xồm xoàm, mặc một trường bào màu xanh, chòm râu đen đúa dài chấm ngực, tay y cầm một chén rượu lớn, đủ để so với một chiếc bát con.

Hai người nhìn thấy Cao Văn Tâm, hai mắt lập tức sáng rỡ, thay nhau nói:

- Tử Úy có pháp nhãn, người được khen tất phải bất phàm. Úi chà, quả nhiên đoan trang xinh đẹp, có ý vị khác, đáng để cạn một chén to.

Cao Văn Tâm nghe bọn họ bình phẩm mình từ đầu tới chân, đôi mày lớn không khỏi cau lại. Nếu không vì trước mặt có tới mấy nhân vật có uy tín và danh tiếng, thân là tỳ nữ mà tùy tiện mở miệng sẽ làm mất mặt Dương Lăng thì nàng đã sớm phát tác với mấy thư sinh này rồi.

Ngô Tế Uyên thấy sắc mặt nàng không vui, trong lòng liền trở nên thận trọng. Khi nãy tại tiệm ăn chay Hàn Sơn lão đã tận mắt thấy khâm sai đại nhân cưng chìu nàng như thế nào. Ngô Tế Uyên không sợ nữ tỹ xinh đẹp này không vui mà sợ bọn họ chọc ghẹo khiến khâm sai đại nhân nổi giận. Lão liền vội bước lên một bước quát lớn:

- Hi Triết vô lễ! Không được ăn nói quàng xiên.

Thấy lão gọi thẳng tên tự người đó, xem ra đôi bên đã từng quen biết. Người râu rậm nghe thấy có người gọi mình, liền vội đưa tay lên che trán nheo mắt nhìn kỹ đối phương, đoạn khoái trá cười lớn:

- Hóa ra trước mặt là Ngô ông! Vậy thì tốt rồi, vậy thì tốt rồi! Trưng Trọng, mau lấy hộp tranh của huynh ra, ta muốn vẽ người con gái này, Ngô ông nhất định phải cho phép vãn sinh đấy nhé. Cùng lắm ta về tặng ông một bức tranh sơn thủy là xong.

Ngô Tế Uyên xấu hổ nói với Dương Lăng:

- A hèm... Dương đại nhân! Mấy vị đó là tứ đại tài tử của đất Ngô Trung, ngày thường quen thói phóng đãng, mong đại nhân chớ trách. Vị vận áo xanh tên là Đường Bá Hổ (*), thường ngày buôn tranh bán chữ để mưu sinh. Người này giỏi nhất là vẽ tranh mỹ nữ, có điều tầm mắt rất cao, thường luôn nuối tiếc không có nhân vật đáng để y đặt bút. Cho nên hôm nay trông thấy thị nữ của đại nhân phong tư xuất chúng, hắn nhất thời vui quá nên mới thất lễ, để thảo dân đuổi bọn họ đi là được.

(*) Xem thêm http://home.thuhoavn.com/?p=671

Ba_Van: Có lẽ tác giả nhầm; kẻ rau rậm tỏ ý muốn vẽ tranh là Chúc Chi Sơn chứ nhỉ!

Dương Lăng vừa nghe ba chữ Đường Bá Hổ, toàn thân không khỏi chấn động. Đường Bá Hổ! Nhân vật thanh danh hiển hách này không ngờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt y, Dương Lăng vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Nghe Ngô Tế Uyên muốn đuổi bọn họ đi, y liền vội kéo lại, vui vẻ bảo:

- Không sao, không sao! Ngô tiên sinh mau mời... mời mấy người bọn họ lên đây. Dương mỗ nghe danh tứ đại tài tử Giang Nam đã lâu, hôm nay được gặp mặt thật là có phước. Nếu đuổi bọn họ đi như vậy, thật sẽ tiếc lắm.

Ngô Tế Uyên không ngờ Dương Lăng cũng đã nghe danh của bốn tài tử Ngô Trung, nghe y tán thưởng như vậy, bản thân là người đồng hương, lão cũng có chút vẻ vang lây, bèn vội cao hứng gọi Liêu quản sự cho mời bốn người Đường Bá Hổ lên.

Bốn vị tài tử này bước vào đình, ra mắt Ngô Tế Uyên trước. Trong bốn người thì Chúc Chi Sơn lớn tuổi nhất, gia cảnh cũng giàu có nhất, qua lại với Ngô phủ rất thân mật, cho nên thoải mái nhất, đi tới chỉ cười hì hì làm lễ một cái, vẫn nâng chén rượu to đùng của y uống không ngừng. Văn Trưng Minh và Từ Trinh Khanh thì tương đối câu nệ hơn.

Dương Lăng quan sát kỹ bốn đại tài tử nổi tiếng gần xa này, nhận thấy Đường Bá Hổ mà y muốn kết giao nhất, khi nãy mặc dù vui quá mà không câu nệ hành vi và thái độ, nhưng sau khi bước vào đình, vừa nghe nói thị nữ đó không phải tỳ nữ của Ngô phủ mà là của vị công tử sang trọng mà ngay cả Ngô Tế Uyên cũng phải cung kính lễ độ, vẻ mặt ông liền lập tức trở nên cẩn trọng. Thần thái đó thật sự không giống với Giang Nam đệ nhất tài tử phong lưu phóng đãng như trong tưởng tượng của y, khiến Dương Lăng vốn mong được gặp "phong thái Đường Giải Nguyên"(1) một lần bèn cảm thấy thất vọng không ít.

Y không biết vị Đường Bá Hổ này trong truyền thuyết dân gian tuy là nhân vật phong lưu phóng đãng, không câu nệ lễ pháp, nhưng thật ra trong số tứ đại tài tử thì Đường Bá Hổ là người có số phận long đong nhất, cuộc sống vô cùng nghèo khổ. Trong lòng ông tuy ngông cuồng cao ngạo, căm ghét thế tục, nhưng do cuộc sống bức bách nên vẫn phải thường xuyên cúi đầu với người ta, nào còn phóng túng gì nổi chứ?

Vị Đường Giải Nguyên mười sáu tuổi đỗ tú tài, vừa vặn cùng độ tuổi mà Dương Lăng đỗ tú tài, nhưng vận mệnh lại kém xa. Mười chín tuổi ông cưới vợ là Từ Thị, trong nhà mở một quán rượu, sinh hoạt cũng thoải mái.

Thế nhưng về sau tai họa lại theo nhau ập đến. Đầu tiên phụ thân y trúng gió qua đời, mẫu thân vì quá đau buồn nên cũng ra đi theo, không lâu sau em gái lại chết ở nhà chồng. Tiếp đó vợ ông sau khi sinh xong thì sốt cao, vì bệnh mà qua đời, con trai ra đời được gần ba ngày thì cũng theo mẹ mà đi.

Liên tục gặp đả kích như thế, dưới sự giúp đỡ của những bạn bè tốt khó khăn lắm Đường Bá Hổ mới gắng gượng vui sống trở lại, cưới vợ mới là Hà Thị, lao tâm đọc sách. Nhưng khi ông vào kinh thi cử lại bị người ta vu cáo tội đút lót chủ khảo, bị đày vào đại lao. Tuy về sau được thả vì không tra được chứng cứ, song ông lại bị buộc cả đời không được làm quan.

Vị đại tài tử đa tài đa nghệ này dường như chịu phải lời nguyền của thần vận mệnh, gặp đả kích liên miên khiến ông cửa nát nhà tan, nghèo túng thất vọng, người vợ cũng chê nghèo mà bỏ đi, người em thì lại chạy ra ở riêng chỗ khác.

Đường Bá Hổ tán gia bại sản, thân không của nả, lang thang khắp nơi. Đến thời điểm này ông mới trở về Tô Châu được chưa đầy hai năm, cuộc sống mới vừa có chút khởi sắc. Ông tái giá với một kỹ nữ thanh lâu tên Thẩm Cửu Nương, mưu sinh bằng cách buôn tranh bán chữ.

Dương Lăng nghe ông nói muốn vẽ tranh cho Cao Văn Tâm, không khỏi vui mừng hết đỗi. Y nghĩ, được Đường Bá Hổ vẽ tranh cho là vinh hạnh tới dường nào, nên lập tức không ngần ngại mà đồng ý ngay.

Vốn Đường Bá Hổ thấp thỏm lo lắng y sẽ không chịu đáp ứng, lúc này thấy y gật đầu Đường Bá Hổ cũng lộ rõ vẻ vui sướng trên mặt. Sợ Dương Lăng đổi ý, ông liền vội vui vẻ gọi Văn Trưng Minh mang hộp vẽ tới, rồi lập tức trải sạp để vẽ cho Cao Văn Tâm.

Cao Văn Tâm thấy bọn họ cùng đi chơi kỹ nữ, trong lòng vốn đã không có hảo cảm, giờ lại bảo nàng đứng yên ở đó để người ta vẽ. Trong mắt người con gái xuất thân là tiểu thư khuê các này, việc đó tuyệt không phải là việc vinh dự gì, thế nên trong thâm tâm nàng cực kỳ không bằng lòng.

Dương Lăng thấy thần sắc nàng không vui, bèn bước đến gần nói nhỏ:

- Văn Tâm, chỉ là để người ta vẽ dung mạo thôi, có gì không vui vậy? Tranh vẽ của vị Đường công tử này rất là nổi tiếng đó. Hôm trước tôi đã có được thư pháp của Giang Nam đệ nhất danh kỹ, hôm nay nếu có thể có được tranh vẽ của đệ nhất tài tử Giang Nam này, tương lai sẽ có thể làm báu vật gia truyền. Dung mạo khí chất của cô, vạn người không có lấy một, đành phiền cô chịu khó đứng yên trong chốc lát để ông ta vẽ tranh. Nhiều năm sau lấy ra xem lại, sẽ có ý vị khác đó.

Y nói lời này tự đáy lòng, nhưng Cao Văn Tâm lại hiểu lầm thành ý khác. Nghe y nói muốn đem tranh vẽ mình làm báu vật gia truyền, để lại cho con cháu đời sau, cái ẩn ý đó... Vừa nghĩ đến đây, con tim nàng liền nhảy thình thịch như trống trận, thế là nàng vui vẻ đồng ý ngay.

Chúc Chi Sơn chỉ biết đứng ở một bên vuốt râu uống rượu. Hành động của vị tài tử luôn đóng vai nhân vật gây cười trong những truyền thuyết về Đường Bá Hổ trông cũng hết sức bình thường, không hề có vẻ gì điên điên khùng khùng cả.

Có điều tửu lượng của hắn thật sự kinh người, ban đầu còn thỉnh thoảng gọi thuyền phu lên thuyền rót thêm rượu cho, sau cùng cứ thế mà bê cả vò rượu lên, ngồi bên thành lan can tự rót tự uống.

Đường Bá Hổ đã sớm trải sạp ra, bắt đầu chăm chú vẽ chân dung Cao Văn Tâm. Văn Trưng Minh, Từ Trinh Khanh và nhóm người Dương Lăng cùng Mạc Thanh Hà cũng đều đứng sau lưng ông hiếu kỳ theo dõi. Trương Phù Bảo lại chê chán, kéo anh nàng cùng ra bờ sông chơi.

Bên này Đường Bá Hổ vừa mới phác thảo vài nét, Chúc Chi Sơn chợt như nghĩ đến điều gì, đột nhiên bỏ chén rượu, nhảy xuống thành lan can la lên quái gở:

- Hỏng rồi, hỏng rồi! Sao ta lại cũng tham dự theo chứ nhỉ? “Thập mỹ đồ” đó thật sự sắp hoàn thành rồi!

Rồi hắn giậm chân la lên:

- Ba trăm lạng ơi là ba trăm lạng! Tính sai rồi! Tính sai rồi! Lần này lão Chúc ta phải đền tiền rồi.

Đường Bá Hổ chỉ ngẩng đầu cười lớn một tiếng rồi lại cúi đầu tiếp tục vẽ tranh, vẻ mặt hơi đắc ý. Dương Lăng phảng phất nhớ dường như có cái "Cửu mỹ đồ"(2) gì đó liên quan đến Đường Bá Hổ, không khỏi lấy làm tò mò hỏi:

- "Thập mỹ đồ” gì vậy?

Văn Trưng Minh cười lớn:

- Hôm nay du ngoạn trên hồ là ý tưởng của lão Chúc. Chuyến đi du ngoạn hồ này hao mất ba trăm lạng, y thật sự đã tính sai rồi.

Thấy thân phận Dương Lăng dường như cực kỳ cao quý, nhưng tính tình ôn hoà, không hề có phong thái cao kỳ của con cháu thế gia quyền quý, hắn bèn cười cười giải thích:

- Dương công tử! Hi Triết huynh và Tử Uý huynh đã đánh cuộc, chỉ cần trong vòng một năm Tử Uý huynh có thể vẽ được mười bức tranh mỹ nữ, hơn nữa phải là mỹ nữ mà bốn người chúng ta đều công nhận, thì Hi Triết huynh sẽ thua Tử Uý huynh ba trăm lạng bạc.

Chỉ là mười mỹ nữ này thực khó kiếm à nha! Chùa Huyền Diệu ở Tô Châu có nhiều thiếu nữ tới lui nhất, Đường huynh thường hay đến nơi đó ngồi canh chừng, nhìn thấy tuyệt sắc giai nhân chân chính nào liền ghi nhớ kỹ trong lòng, sau đó vẽ lại. Nhưng mà tin tức này dần dần bị tiết lộ, nhà ai có nữ quyến định đến chùa dâng hương đều sai người đuổi vị đại tài tử này đi trước.

Kết quả là sau bảy tháng đầu tiên, Tử Uý huynh đã có thể vẽ được chín mỹ nữ, nhưng người thứ mười lại tìm mãi không thấy. Chúng tôi cứ tưởng rằng lần này Tử Uý huynh sẽ thua rồi, nào ngờ hôm nay lại có duyên gặp được vị cô nương của quý phủ đây. Ha ha, đây cũng xem như là ý trời, muốn Hi Triết huynh đưa bạc cho Tử Uý huynh tiêu dùng.

Dương Lăng nghe vậy cũng cảm thấy mắc cười, thì ra đám tài tử này cũng giống như những người bình thường khác, lúc ăn không ngồi rồi cũng lấy mỹ nữ ra làm đề tài câu chuyện, không ngờ còn dùng nó để đánh cuộc.

Y ngồi xổm bên cạnh Đường Bá Hổ, thấy bút pháp tuyệt diệu của ông hất lên móc xuống, bức tranh trong tay đã vẽ được sáu phần, tuy mắt mũi ngũ quan vẫn mới chỉ được hoạ phác đơn giản, vẫn cần phải chấm phá thêm, nhân vật cũng hãy còn chưa tô màu, nhưng một mỹ nữ sinh động như thật đã dần hiện ra trên trang giấy. Thấy vậy y không khỏi ngợi khen:

- Nhân vật của Đường huynh vẽ quả nhiên giống như đúc, bút lực quả thực bất phàm.

Đang vẽ say sưa, Đường Bá Hổ nghe vậy mặt liền tươi rói, đáp:

- Dương công tử quá khen! Mỹ nữ tập trung thiên địa linh khí, bản thân đã là một bức tranh sáng đẹp tuyệt luân, tại hạ chẳng qua chỉ lấy bút trong tay vẽ một phần vạn nét phong tình của họ mà thôi. Cái tĩnh của mỹ nữ thì thanh nhã u khiết, còn cái động của mỹ nữ lại bay bổng như hạc. Mái tóc, chân mày, cặp mắt, đôi môi, làn da, cần cổ, tấm eo, đôi chân, không chỗ nào không thể vẽ nên tranh. Vẻ đẹp ấy có thể họa vào thơ, có thể nhập vào trong tranh vẽ, có thể hoà vào rượu, còn có thể bước vào mộng nữa thay.

Dương Lăng không ngờ vị đại tài tử này nói đến mỹ nữ lại cũng có bài bản như vậy. Văn Trưng Minh cũng là cao thủ về hội hoạ, có nhận thức bất phàm về hội hoạ nên có thể lý giải được cái ý trong lời Đường Bá Hổ, vả lại hắn cũng cực kỳ sùng bái kỹ xảo vẽ chân dung của Đường Bá Hổ.

Lúc này thấy Dương Lăng tràn đầy thích thú, trong lòng hắn có cảm giác như gặp người đồng đạo, liền hào hứng nói với Dương Lăng:

- Dương công tử hãy đợi một chút, trên thuyền hoa có một bức tranh tuyệt diệu mà Tử Uý mới vẽ đêm qua, để tôi lấy cho công tử xem!

Đường Bá Hổ phong lưu phóng khoáng. Tuy ông đã cưới người bạn thân thiết chốn khuê phòng của Liên Nhi cô nương là Thẩm Cửu Nương làm vợ, nhưng vẫn thường lưu luyến chốn thanh lâu. Những cô nương này cũng mến tài nghệ của ông nên cũng chưa từng đòi tiền qua đêm, vị Liên Nhi cô nương này cũng là một người ái mộ ông.

Nàng mắt to môi đỏ, da trắng như mỡ, cũng là một mỹ nhân, tuy nhiên hôm nay Đường Bá Hổ vừa thấy Cao Văn Tâm liền miệng khen không ngớt, Liên Nhi tự thấy tư sắc thua người nên vẫn luôn đứng một bên, trề môi vẻ không vui lắm. Bây giờ nghe Văn Trưng Minh nói muốn lấy bức vẽ đêm qua, tuy tức giận, nhưng nàng vẫn không nén khỏi đỏ mặt, hung hăng trừng mắt với hắn, dường như có chút ngượng ngùng.

Văn Trưng Minh hấp tấp chạy về thuyền hoa lấy một cuộn tranh. Hắn trở vào trong đình, mới vừa giở cuộn tranh vẽ ra một nửa, một cơn gió lùa tới suýt nữa thổi rách bức vẽ. Văn Trưng Minh liền kéo Đường Bá Hổ nói:

- Tử Uý huynh ngừng một chút đi! Để Dương công tử kiến thức bức tranh phong nguyệt mà huynh vẽ ngày hôm qua một chút.

Văn Trưng Minh nói xong, liền đoạt lấy bàn vẽ trong tay Đường Bá Hổ, giở cuộn tranh trong tay ra đặt lên trên. Dương Lăng vừa nhìn thì thấy bức tranh đó tịnh không phải là tranh đen trắng, mà dùng thuốc màu sơn lên. Trong tranh vẽ một mỹ nữ khỏa thân dáng vóc nẩy nở rung động lòng người, người con gái đó nửa quỳ trên chiếc giường nhỏ, một dải lụa đỏ vắt ngang eo, một tay che chỗ xấu hổ, eo thon hơi trũng xuống, cặp mắt yêu kiều ngoái nhìn ra sau, trong nét mặt đó có thể lờ mờ nhìn ra người thiếu nữ chính là vị Liên Nhi cô nương nọ.

Phía sau là một nam tử đang nằm chồm sấp trên mông nàng trong trạng thái giao hợp, cạnh bên có lưu hai hàng chữ như rồng bay phượng múa: "Bán liêm thanh phong, nhất tháp minh nguyệt, bán tự hàm tu bán thôi thoát, hồi đầu đinh ninh khinh ta cá, bất tỉ tầm thường lãng phong nguyệt"*. Không ngờ bức tranh này lại là một xuân cung đồ kiều diễm mê người.

(* Tạm dịch: nửa mành gió mát, một mảnh trăng thanh, nửa như e ấp nửa như khước từ, ngoảnh đầu khẽ dặn vài câu, không như cảnh sắc gió trăng tầm thường)

Dương Lăng chưa từng nghe nói đại tài tử Đường Bá Hổ vẽ tranh xuân cung, y ngẩn người nhìn chằm chằm vào bức tranh, vừa chỉ tay vào vừa lắp bắp hỏi:

- Đây... đây là của Đường huynh vẽ sao?

Văn Trưng Minh cười đáp:

- Đúng vậy! Nét vẽ tinh tế tỉ mỉ, nhân vật sinh động có thần, tranh xuân cung mà Đường huynh vẽ không dưới trăm bức, song đây là bức vẽ mà tại hạ thích nhất, nên đã xin y. Tại hạ và Dương công tử tuy vừa gặp mặt nhưng như đã quen lâu, nếu như công tử thích, tại hạ xin tặng cho công tử, không biết công tử thấy thế nào?

Dương Lăng cười gượng:

- Ơ... Đệ nhất tài tử Giang Nam cũng vẽ loại tranh này sao? Ha ha, đúng là nằm ngoài dự liệu của tại hạ.

Từ Trinh Khanh cười nói:

- Nghe khẩu âm của công tử, đoán là người đến từ phương Bắc nên không biết tập tục phương Nam. Vẽ tranh này cũng không có gì cả, thật ra rất nhiều tiểu thư khuê các cũng sao đi vẽ lại tranh xuân cung này đấy. Có điều những bức được chính tay Tử Uý huynh vẽ ra đều có thể gọi là trân phẩm, khắp phố phường đều tranh giành đấy!

Đường Bá Hổ dường như cũng rất là hài lòng với bức tranh này, ông lấy bản vẽ lại, xoa nhẹ lên bức tranh cười nói:

- Nào chỉ ở phương Nam, cho dù vùng phụ cận kinh sư cũng học theo tập tục này đấy chứ. Đa số nữ tử khéo tay của Thiên Tân vệ đều tinh thông môn này, chẳng những thường ngày vẽ tranh, mỗi khi đến cuối năm còn vẽ tranh xuân cung đem ra chợ bán, bản địa gọi họ là "Nữ nhi xuân". Dương công tử đến từ phương Bắc, chẳng lẽ không biết chuyện này ư?

Cao Văn Tâm ngồi nghiêng trên lan can mái đình, nhìn chăm chăm vào khói sông trên Thái Hồ theo sự hướng dẫn của Đường Bá Hổ để cho ông ta vẽ. Nàng đã ngồi yên một hồi lâu nên cảm thấy vai và cổ hơi mỏi, vừa quay đầu cho mau huyết lưu thông đột nhiên nhìn thấy Dương Lăng và mấy thư sinh đang chỉ chỉ trỏ trỏ vào bức tranh, thậm chí Ngô Tế Uyên và Mạc Thanh Hà cũng đang đứng sau đám người kiễng chân lên xem.

Nàng tưởng bức chân dung đã vẽ xong rồi nên mừng rỡ đứng dậy, đi lại gần mọi người, vui vẻ hỏi:

- Đường công tử đã vẽ xong rồi à?

Cao Văn Tâm vừa hỏi vừa cúi đầu nhìn bức tranh, mặc dù nhìn ngược xuống, nhưng tổng thể bức tranh vẽ gì nàng vừa liếc mắt liền nhận ra ngay. Khuôn mặt xinh xắn của nàng liền thoáng trắng bệch, mặt cắt không còn giọt máu, liền tiếp đó lại đột nhiên đỏ bừng, cả người cũng phát run lên.

Nàng vạn lần không ngờ kẻ này lại dùng tướng mạo của nàng để vẽ ra một bức tranh sỉ nhục như vậy. Cao Văn Tâm giận đến choáng váng mặt mày, không chút nghĩ ngợi nàng vung tay tát bốp một bạt tai vào mặt Đường Bá Hổ, giận dữ mắng:

- Đồ vô sỉ!

Cao Văn Tâm mắng xong, hai hàng lệ đã không nén được mà trào ra. Điều khiến cho nàng đau lòng khôn xiết chính là: Dương Lăng chẳng những không nổi giận, mà không ngờ... không ngờ cũng hùa với người ngoài chỉ chỉ trỏ trỏ lên bức tranh. Nếu như y thật sự thích mình, xem mình như nữ nhân của y, sao y lại có thể đối xử với mình như vậy, mặc cho mình bị người ta khinh thị?

Nghĩ đến đây, Cao Văn Tâm đau lòng như cắt. Hai tay ôm mặt, nàng xoay người lao về phía bờ hồ.

Chú thích:

(1) vì Đường Bá Hổ đỗ giải Nguyên (đỗ đầu trong kỳ thi Hương) nên được gọi là Đường "Giải Nguyên"

(2) "Cửu mỹ đồ" kể về chuyện tình giữa Đường Bá Hổ và Thu Hương

Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)

Quyển bốn - Dương Lăng xuống Giang Nam

Chương 129 - Oan Gia Cưỡi Sóng Tới (phần 1)

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: Ba_Van

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Mong các bạn tích cực góp ý, báo lỗi!

Sau đó, do gốc liễu che khuất tầm mắt nên cả bọn chỉ có thể nhìn thấy nửa bóng lưng của hai người. Họ thấy rõ phần bóng lưng của khâm sai Dương đại nhân - xưởng đốc Nội xưởng, thống lĩnh thân quân phụng chỉ tuần sát - thoạt khom thoạt thẳng như đang cúi người vái lạy, không ngừng xin tha thứ. Đám nha sai Nội xưởng thấy vậy, lòng chợt cảm thấy như bị kim chích, lập tức không hẹn mà cùng xoay người đi vờ như không thấy.

Chương 129: Oan Gia Cưỡi Sóng Tới

------------------------

Ai nói phụ nữ "chân yếu tay mềm"? Cú tát của Cao Văn Tâm vừa giáng xuống tức thì má trái của Đường Bá Hổ lập tức "nở hoa". Đã bị người ta đánh còn bị mắng là bỉ ổi, đệ nhất tài tử Giang Nam phong lưu đa trí như ông cũng bị đòn đến sững người.

Dương Lăng trông thấy bộ dạng của ông ta như vậy, không khỏi thầm kêu may mắn trong lòng: may mà chỗ ngày đó Văn Tâm đánh chỉ là cái mông của mình, chứ nếu mặt mình bị ăn cái tát như vậy thì e rằng suốt ba ngày cũng đừng hòng gặp ai!

Điều Cao Văn Tâm đau lòng nhất chính là không ngờ nàng bị chính người nàng luôn quan tâm trong tâm tưởng đã quá khinh rẻ và sỉ nhục nàng đến thế. Lệ tuôn đầy mặt, nàng lao về phía bờ hồ, chỉ muốn trầm mình vào dòng khói sóng mênh mông cho kết thúc mọi chuyện từ đây.

Những thuyền phu đang kéo thuyền bên bờ hồ có một nửa là nha sai nội xưởng hoá trang. Vừa thấy người tỳ nữ luôn như hình với bóng với xưởng đốc đại nhân ôm mặt chạy tới, còn Dương khâm sai vừa đuổi theo vừa kêu to cứu người, lập tức có hai gã tráng niên cải trang thành ngư phủ sóng vai bước tới trước cản Văn Tâm lại, cười nói:

- Cô nương, xin dừng bước!

Cao Văn Tâm quát:

- Tránh ra cho ta!

Vừa quát vừa đưa tay đẩy. Tay còn chưa chạm ngực hai nha sai đó, eo thon chợt bị siết chặt, cả người đã bị nhấc bổng lên.

Cao Văn Tâm vừa sợ vừa giận, vùng vẫy kêu la:

- Thả ta ra, ngươi thả ta ra!

Ngoái đầu trông thấy chính Dương Lăng đang ôm eo mình nhấc bổng lên, lập tức hành động vùng vằng của nàng tức thì yếu đi vài phần, hai chân vốn đang dãy đạp về phía sau cũng buông lỏng xuống.

Thừa thế Dương Lăng bước thêm vài bước vòng ra sau một gốc liễu xù xì thấp bé đoạn đặt Cao Văn Tâm xuống, nói vội:

- Đại tiểu thư của tôi ơi! Cô gây náo loạn quá chừng rồi! Đã hiểu lầm rồi, hiểu lầm rồi!

Đám người Mạc Thanh Hà, Ngô Tế Uyên và tứ đại tài tử đang đứng ở trong đình nhìn về phía cây liễu trông thấy mỹ nhân đáo để nọ chợt ló đầu ra dường như muốn bỏ chạy đi, ngay lúc đó hai cánh tay đột nhiên vươn ra, ôm lấy eo cô nàng kéo trở lại.

Sau đó, do gốc liễu che khuất tầm mắt nên cả bọn chỉ có thể nhìn thấy nửa bóng lưng của hai người. Họ thấy rõ phần bóng lưng của khâm sai Dương đại nhân - xưởng đốc Nội xưởng, thống lĩnh thân quân phụng chỉ tuần sát - thoạt khom thoạt thẳng như đang cúi người vái lạy, không ngừng xin tha thứ. Đám nha sai Nội xưởng thấy vậy, lòng chợt cảm thấy như bị kim chích, lập tức không hẹn mà cùng xoay người đi vờ như không thấy.

Vị tài tử râu dài họ Chúc cũng không uống rượu nữa. Hắn vuốt chòm râu dài, cố sức rướn cổ nhìn, chỉ thấy hai bóng người sau gốc cây ban đầu thì xô xô đẩy đẩy, tiếp đó càng lúc càng nhích gần lại nhau, cuối cùng trừ hai gót chân ra, cả bóng lưng cũng không nhìn thấy được nữa.

Bỗng một cơn gió thổi tới, hắn mới thấy một dải thắt lưng lụa tung bay sau gốc cây, áo choàng Dương Lăng khẽ lay động, bèn không khỏi đảo mắt nhướng mày, chớp mắt nói to:

- Đường Giải Nguyên mau lấy bút ra ! Lão Chúc thấy hình như sắp diễn xuân cung trực tiếp rồi.

Văn Trưng Minh huých khuỷ tay vào người y, mắng khẽ:

- Lo uống thứ rượu vàng quí hóa(*) của huynh đi. Ngô ông và khách quý của phủ ông ấy cũng đang ở đây đó.

(*):nguyên văn là “hoàng thang” (rượu vàng), cụm từ này được sử dụng với hàm ý chê trách người say sưa.

Từ Trinh Khanh cũng gượng cười nói:

- Vị tỳ nữ đó tuy không phải thiên kim thế gia vọng tộc nhưng xem ra cũng cực kỳ tự trọng tự ái. Lão Chúc hãy cẩn thận cái miệng, kẻo lại bị như Đường huynh...

Đường Bá Hổ nghe vậy bèn xoa cái má đang đau rát mà cười khổ một hồi. Xem ra mình đã ăn không cái tát này một cách oan uổng rồi, còn e rằng mấy bằng hữu to mồm không có lòng dạ này sẽ mang chuyện đi rêu rao khắp chốn một phen. Có điều bọn họ là người phóng đãng không chịu gò bó, tạm thời xảy ra một chuyện phong lưu ân ái cũng không thấy mất thể diện gì.

Dương Lăng vừa giải thích vừa dỗ dành. Hồi lâu, cũng không biết do chưa hết giận hay Cao Văn Tâm vẫn muốn được hưởng cảm giác dựa vào lòng y, bị Dương Lăng ôm chặt, nàng nép sát vào người y như một chú chim nhỏ, lại thút thít một hồi, rồi mới uất ức nói:

- Cho dù bọn họ và lão gia vừa gặp như đã quen lâu, cũng không có lý gì... đem tranh vẽ trộm rêu rao khắp nơi. Vị Liên Nhi cô nương đó xuất thân thanh lâu thì bọn họ sẽ phơi bày nàng ta với người khác một cách tuỳ tiện sao? Chỉ là ngang ngạnh phóng đãng thôi ư? Đó còn không phải là sỉ nhục người ta à? Con đường làm quan của bọn họ không thuận lợi nên mới vờ mượn tiếng phong lưu mà khinh nhờn thế tục, chung quy vẫn là khinh bạc, không giữ đức hạnh, không tuân thủ khuôn phép. Trong triều hiện đang có không biết bao nhiêu kẻ đang nhìn chòng chọc vào lão gia, muốn bươi móc tìm kiếm khuyết điểm của lão gia. Lão gia thật sự không nên kết giao thân thiết với bọn họ quá.

Lời Cao Văn Tâm nói rất có lý. Những hành vi phóng đãng của mấy tài tử này nếu đặt ở đời sau thì mọi người sẽ chỉ cảm thấy đó là sự phản kháng đối với lễ giáo phong kiến; ai nấy chỉ hăng say bàn về những chuyện phong lưu mà bọn họ mơ mộng, cho rằng ông trời ghen ghét bậc kỳ tài, khiến họ chịu phải cảnh bất công; mà không biết hành động sa ngã của bọn họ, tuy trong mắt người đương thời cũng tạo được những câu chuyện thú vị để mọi người say sưa bàn tán nhưng bọn họ cũng đã tự tuyệt hoạn lộ rồi: có đủ loại "kiến thức" này, làm sao còn có thể gặp mặt triều đình?

Nói trắng ra, hành vi của bọn họ là khoe mẽ, là hình ảnh không tao nhã. Mọi người có thể dùng nó làm đề tài chuyện trò trong những lúc trà dư tửu hậu, song không ai coi kiểu "minh tinh" này là rường cột của xã hội cả.

Tâm tình bị kích động lúc mới gặp tứ đại tài tử đã hơi bình phục, Dương Lăng đột nhiên tỉnh ngộ. Ví như mình si mê thanh danh đời sau của bọn họ mà đàng đúm cùng bọn họ, vậy há chẳng phải mình đang tạo cơ hội cho những kẻ đang nhìn mình chằm chằm như hổ đói muốn dồn mình vào chỗ chết sao?

Dương Lăng thở dài một hơi rồi nắm chặt cổ tay Văn Tâm, chân thành:

- Văn Tâm, cô nói đúng! Bất luận thế nào, với thân phận của tôi mà cùng bọn họ công khai thảo luận những thứ này như vậy thì quả là đã hơi khinh xuất mất rồi. Đến Giang Nam một khoảng thời gian, thoát khỏi những chuyện minh tranh ám đấu trong triều, tôi thật sự đã có hơi sơ ý rồi.

Cao Văn Tâm được y vừa dỗ dành vừa khuyên giải, biết rằng mình đã hiểu lầm, nộ khí trong lòng sớm đã tan đi, lại nghe y nói với giọng chân thành, ngược lại hơi cảm thấy áy náy trong lòng. Nàng đỏ mặt rụt tay về, mắng khẽ:

- Bị lão gia nắm đau quá đi! Tiểu tỳ đã không tính nhảy xuống hồ nữa, người còn kéo tiểu tỳ làm gì?

Dương Lăng bật cười ha hả, buông tay ra nói:

- Đi thôi, trở về thôi! Mấy người Mạc công công và Ngô tiên sinh nhất định đang lo lắng lắm đây.

Cao Văn Tâm cúi đầu, di di chiếc giày thêu trên mặt đất, ngượng nghịu:

- Tiểu... tiểu tỳ ngại lắm! Lão gia muốn du ngoạn hồ thì tiểu tỳ chờ lão gia ở đây là được rồi.

Dương Lăng cười nói:

- Loại thuyền nhỏ đó một chiếc chở được hai người. Hôm nay tôi chèo thuyền để cô rong chơi vui vẻ một ngày, có được không?

Cao Văn Tâm ngẩng đầu, mừng rỡ nhìn y, rồi lập tức chần chừ:

- Lão gia, tiểu tỳ chỉ là hạ nhân, lão gia... lão gia không cần phải khách sáo với tiểu tỳ như vậy.

Dương Lăng thở dài một hơi, đoạn cười trêu:

- Cao đại tiểu thư à, từ khi đón cô vào nhà đến giờ, cô nói xem, tôi có từng xem cô như tỳ nữ chưa? Còn dùng kiểu nói này với tôi nữa, cô sẽ tự thẹn với lòng thôi.

Khuôn mặt xinh xắn của Cao Văn Tâm thoáng đỏ lên, nàng khẽ hé môi nhưng lại không nói được lời nào. Dương Lăng mỉm cười, xoay người đi về phía mái đình.

Dương Lăng cao đầu ưỡn ngực bước vào trong đình. Ngô Tế Uyên lật đật bước lên hỏi han:

- Đại... Dương công tử, à... Cao cô nương đã hết giận chưa?

Dương Lăng khoát tay, ra vẻ bất cần:

- Phụ nữ ấy mà, thật không hiểu ra sao cả! Bị tại hạ dạy dỗ cho một trận, giờ cô ta đã ngoan ngoãn hơn nhiều rồi.

Mạc Thanh Hà bật ho khan vài tiếng, cố nhịn cười, sau đó quay đầu đánh xoạt một cái về phía Thái Hồ, chắp hai tay sau lưng ra vẻ đang thưởng thức phong cảnh.

Dương Lăng vẫn không hay bộ dạng trốn sau gốc cây cúi đầu thi lễ của mình đã sớm bị người ta thu vào trong mắt, y quay sang Đường Bá Hổ cười áy náy:

- Đường huynh! Thật xin lỗi, tiểu đệ quản giáo không nghiêm, để tỳ nữ đó ra tay tổn thương Đường huynh, thật rất lấy làm hổ thẹn.

Đường Bá Hổ cười khan hai tiếng, đáp:

- Không sao không sao! Nếu không được tặng một cái tát này, Đường mỗ còn hòng thấy hình ảnh mê người như vậy được ư?

Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:

- Hình ảnh gì? Đường huynh đã lại vẽ một bức tranh sao?

Đường Bá Hổ vội vàng nhoẻn cười đáp:

- Không dám không dám, không có không có, ờ... Có điều bức Thập mỹ đồ này, tại hạ đã có ý tưởng mới rồi, song cần phải chỉnh sửa một chút. E rằng khó có thể hoàn thành trong hôm nay...

Dương Lăng vội nói:

- Không vội không vội! Không biết Đường huynh vẽ tranh, một bức ra giá bao nhiêu? Huynh cứ việc về nhà vẽ, trở về tại hạ sẽ cho người đến lấy, ngân lượng văn tiền không thành vấn đề.

Đường Bá Hổ liền đáp:

- Dương công tử! Tuy bức tranh này mượn ý từ cô tỳ nữ của phủ công tử, nhưng nó lại là của tại hạ. Thập mỹ đồ này tại hạ quyết sẽ không bán lẻ, mong công tử lượng thứ.

Thời ấy còn chưa có bản quyền tranh chân dung, Đường Bá Hổ nói một cách đầy lý lẽ khiến Dương Lăng cũng không cảm thấy có gì không đúng. Y nghĩ tranh của Đường Bá Hổ giá trị liên thành, vậy nếu y muốn lấy cả bộ Thập mỹ đồ thì không biết phải tiêu tốn hết bao nhiêu bạc cho đủ? Nhưng y lại không muốn để bức tranh của Cao Văn Tâm bị kẻ khác mang đi.

Dương Lăng không khỏi do dự:

- Như vậy những bức Thập mỹ đồ này, không biết Đường huynh muốn giá bao nhiêu mới chịu bán ra?

Nhìn bộ dạng cung kính mà Ngô Tế Uyên đối đãi với y, Đường Bá Hổ đã sớm kết luận người này hẳn là công tử tôn quý rất có thân phận. Có thể khiến phú hộ số một Tô Châu kính cẩn nghe lời như vậy, nói không chừng y còn là hào phú kinh sư, cho nên ông nảy ý muốn kiếm chác một mớ. Đường Bá Hổ vừa chăm chú nhìn thần sắc của Dương Lăng, vừa ngập ngừng nói:

- Việc này à... Tập hợp Thập mỹ đồ rất ư không dễ, Đường mỗ cũng đã hao tốn gần một năm trời, cho nên giá bán ra so với bán lẻ từng bức tranh có đắt hơn một chút. Ít nhất cũng phải năm... năm...

Những bức mà Đường Bá Hổ dày công ra vẽ cùng lắm cũng chỉ rao giá hai mươi lạng. Mặc dầu Thập mỹ đồ khó kiếm, nhưng đòi đến năm trăm lạng thì bản thân ông cũng cảm thấy có phần quá cao rồi. Nhưng hiếm khi gặp phải một kẻ không tiếc bỏ tiền như thế này, nhìn Dương Lăng cưng yêu người tỳ nữ xinh đẹp nọ như vậy, khẳng định là một công tử phú gia thương hoa tiếc ngọc. Cơ hội này thật sự khó mà có được.

Ông vừa ngập ngừng đang muốn nói giá thì Ngô Tế Uyên nghe được, trong lòng đã sáng tỏ. Gần đây lão bị gã phú hộ mới nổi Lý Quý chèn ép kịch liệt, vậy mà Bố chánh sứ và tri phủ Tô Châu bình thường vẫn nhận của lão từng món bạc lớn ấy lại vẫn ngoảnh mặt làm ngơ, nếu như lão có thể bấu víu vào cái gốc cây cao như Dương Lăng này, ai còn dám khi dễ Ngô phủ nữa chứ?

Nếu như Đường Bá Hổ ra giá thấp thì dù lão có mua tặng cho Dương Lăng cũng chẳng biểu lộ được lòng thành, thế là lão vội lật đật cướp lời:

- Năm ngàn lạng? Được, Đường Giải Nguyên hãy mau vẽ Thập mỹ đồ đi, ta sẽ lấy năm ngàn lạng bạc mua nó.

Nói xong lão cười nịnh với Dương Lăng:

- Đợi tôi nhận Thập mỹ đồ này rồi, sẽ cho người đem đến phủ tặng cho công tử.

Nghe vậy rất mừng rỡ, Đường Bá Hổ giơ bức tranh trong tay lên, nói:

- Được, vậy Đường mỗ sẽ tặng miễn phí bức “Nguyệt Dạ Hậu Đình Hoa”* này, đến lúc đó nhất định sẽ đưa đến quý phủ." (*tạm dịch: Khúc nhạc Hậu Đình Hoa trong đêm trăng; Hậu Đình Hoa cũng là một vở kịch nổi tiếng, có nhiều phiên bản)

Dương Lăng nghe mà không biết nên khóc hay nên cười. Y gãi nhẹ mũi, ngắm bức tranh một lúc lâu rồi hỏi:

- Bức tranh này của Đường huynh là... Hậu Đình Hoa à? Ha ha, vị nhân huynh trong tranh che thật đến kín, thật sự là không nhìn thấy được gì.

Đường Bá Hổ vừa nghe Dương Lăng khơi ra khuyết điểm của bức tranh mình vẽ liền có phần nôn nóng, ông ra vẻ nghiêm túc nói:

- Vẽ là phải chú trọng đến cái đẹp của hàm súc, cái thần của ý cảnh. Công tử không thấy một tay của mỹ nhân che chỗ xấu hổ đó ư? “Có người ngư phu đến hỏi, Đào Nguyên giờ ở chốn nào?” Công tử còn chưa hiểu rõ ý sao?

Chúc Chi Sơn và hai người đàn ông háo sắc còn lại nhất tề đắc ý cười dâm, phụ họa:

- Chí phải, chí phải! Huống chi còn có câu này: “Quay đầu khẽ dặn vài câu, nào như trăng gió phong lưu bình thường...”, chính là kỹ thuật điểm mắt(1) đấy nhé!

Dương Lăng nghe vậy, trong lòng phát lạnh: "Đây là những đại tài tử của lòng mình à, thần tượng lớn đấy ư? Mấy người cũng... cũng thật... Khó trách sao mấy người không làm quan cho nổi, thì ra có bao nhiêu tài hoa mấy người đều dùng vào khía cạnh này hết cả rồi.”

***

Một mảng sen xanh bồng bềnh gợn sóng. Thấp thoáng gần xa, vài chiếc thuyền nhỏ đang chèo trong những khóm lá sen xanh biếc cao tới gối trên mặt nước mà nếu không đứng lên thì sẽ khó thấy được nhau.

Trịnh bách hộ và hơn hai mươi tay nha sai chèo trên những con thuyền nhỏ ra xa, bao quanh vùng này lại, đề phòng du khách xâm nhập. Huynh muội thiên sư một thuyền, Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên một thuyền còn Dương Lăng quả nhiên đã thực hiện lời hứa, tự chèo một chiếc thuyền nhỏ cùng Cao Văn Tâm dập dờn trong những con sóng sen liên miên bất tuyệt.

Cao Văn Tâm vui vẻ ngồi ở đầu thuyền, vốc nước hồ trong vắt rót lên những chiếc lá sen xanh ngát. Nước hồ chảy tràn, phần nước còn lại dần dần ngưng tụ lại thành những giọt nước nhỏ tròn trĩnh, xinh xinh. Thuyền trôi nhẹ về phía trước, những chiếc lá ấu rậm rạp gặp phải áp lực nước, tự động rẽ sang hai bên.

Từng đoá hoa ấu trắng tinh lung linh xinh xắn điểm xuyết giữa những bông sen đỏ lá xanh, trang nhã mà tươi mát. Cao Văn Tâm bươi gốc ấu ra, vui thích tìm từng trái ấu đỏ hồng, ngắt lấy bỏ lên váy, đã gom được hai vốc lớn.

Bỗng nhiên, một con cá lớn bị kinh động nhảy vọt lên khỏi mặt nước, vẽ thành một hình cung ngay dưới mắt Cao Văn Tâm, rồi quẫy đuôi đánh "ùm" xuống nước, bụi nước bắn lên tung toé một mảng, làm cho nàng giật nảy mình. Dương Lăng thấy vậy không nhịn được bèn cười to.

Cao Văn Tâm yêu kiều lườm y, nét mặt cực kỳ quyến rũ. Mái tóc đen mướt như gương trên trán hơi bị rối xoà, bọt nước trong vắt óng ánh thấm trên gò má trắng ngần diễm lệ, như thể từ trong da thịt tiết ra. Dương Lăng thấy vậy hai mắt sáng rực, y vừa tính mở miệng khen nàng nhưng lại kịp thời ngậm miệng lại.

Trông thấy vẻ mặt của y, khoé mắt Cao Văn Tâm thấp thoáng một tia hờn oán. Nàng cầm một củ ấu đỏ lên, cúi đầu ngâm khẽ:

- Lăng nhi cá cá tương y sanh, thu thủy hữu tình tổng giác lãnh. (- Tạm dịch: Ấu kia mỗi củ nương tựa vào nhau mà sống, làn thu thủy có tình mà sao vẫn thấy chán chường.)

Dịch thơ: Ấu kia sống tựa vào nhau, mắt ai sóng sánh mà sao đượm buồn. (TheJoker)

Miệng ngâm thơ, khoé mắt nàng lại trộm ngắm Dương Lăng.

Dương đại lão gia chân thành phối hợp, liền vội ra sức vỗ tay bôm bốp khen hay:

- Thơ hay, thơ hay...

Cao Văn Tâm hơi thất vọng: "Lão gia đang giả vờ hay thật sự không hiểu vậy? Không phải mười sáu tuổi y đã đỗ đầu kỳ thi tú tài của Tuyên phủ hay sao?"

Dương Lăng lại không hay biết Cao Văn Tâm đang mượn thơ khêu tình. Y vỗ tay xong nhưng thấy Cao Văn Tâm vẫn hơi phiền muộn không vui, bèn ngượng ngập buông tay nói:

- Chèo nãy giờ cũng hơi đói rồi. Tới đây, chúng ta ăn tí gì trước đi.

Cao Văn Tâm ngoan ngoãn đồng ý, gom mấy củ ấu lại, bước đến giữa thuyền ngồi xuống, đưa tay qua cầm lấy hộp đồ ăn sơn màu sáng bóng. Hộp đồ ăn tổng cộng có bốn tầng, nàng lấy từng món bên trong ra, đặt lên chiếc bàn nhỏ ở giữa.

Đáy loại hộp đồ ăn này của Ngô phủ làm bằng sắt, bên trong đặt than nóng, bên trên là một tầng cách thủy, cho nên để lâu như vậy mà đồ ăn trong hộp vẫn nóng hổi. Người miền Nam ăn uống luôn chú trọng đến sự tinh tế, mỗi loại đồ ăn trong hộp không nhiều, đại khái chỉ đủ vài miếng, song lại rất đa dạng. Đĩa đầu tiên là một miếng thịt vuông vức, dày cộp, thơm phức, béo ngậy, miếng da lợn lại óng ánh sắc vàng, khiến người ta vừa trông thấy đã phát thèm. Đó chính là một miếng thịt Đông Pha(2).

Món thứ hai là Tôm Bóc Vỏ Động Đình, dùng đặc sản "Hách Sát Nhân Hương"(3) của Động Đình Hồ nấu chung với tôm sông mà thành, sắc, hương, vị tuyệt cả. Giống như Chè Khoai Môn Hương Quế, Chả Giò Rán, Đậu Hũ Chiên Giòn, Bánh Bao Hấp, Vịt Kho, Lương Bung, món này thể hiện rõ đặc điểm văn hóa Đông Ngô: tinh, nhã, tế (tỉ mỉ), xảo (khéo).

Thuyền dập dờn trên sóng, hái sen giữa rừng hoa, cao lương mỹ tửu, lại có áo hồng thêm hương, cho dù không uống cũng say. Huống hồ chung quanh lá sen cao vút trên mặt nước, giữa nơi đây lại chỉ riêng mình cùng một mỹ nhân xinh đẹp khéo cười bầu bạn.

Nghĩ đến dáng vẻ giận dữ của Cao Văn Tâm khi nãy, Dương Lăng thầm nổi lòng "xấu xa", muốn "dạy dỗ" nàng một phen, nên y bèn giở điệu bộ lão gia ép nàng cũng phải uống mấy chén.

Cao Văn Tâm không thoái thác được, đành phải uống vài chén rượu. Rượu thuần thấm vào bao tử, hai má nàng ửng lên một màu đỏ xinh đẹp, thấy vậy Dương Lăng thầm đắc ý trong lòng. Nhưng đã ép người ta uống rượu, y cũng không thể không uống, kết quả là rượu trong chiếc bình bằng thiết đã được uống sạch trơn. Dương Lăng đã cảm thấy đầu nặng chân nhẹ mà Cao đại tiểu thư nhà người ta, mặc dù màu da như được phết thêm một lớp son, đôi mắt lại càng lúc càng sáng, lại không hề có vẻ gì là say. Lúc này Dương Lăng mới biết tửu lượng Cao đại tiểu thư khá cao, thế là y không khỏi ngầm kêu khổ.

Đây là lần đầu Cao Văn Tâm ở riêng cùng một chỗ với Dương Lăng, lần đầu cùng y chung bàn uống rượu, lần đầu được y ôm vào lòng, cũng là lần đầu được y dùng những lời lẽ ngọt ngào để dỗ dành. Thiếu nữ ôm ấp mối u tình này hạnh phúc không thể tả, sau khi uống rượu vào, lòng càng thêm vui vẻ.

Nàng cầm chiếc bình bằng thiết đã cạn lên, nhoẻn miệng cười duyên dáng với Dương Lăng:

- Lão gia mười sáu tuổi đã đạt công danh, là tài tử phương Bắc, hôm nay rượu đã cạn bầu, nô tỳ và lão gia dùng câu đối thế rượu, không biết ý lão gia thế nào? Ở đây nô tỳ có một vế trước (thượng liên), mời lão gia đối lại một câu nhé: Đề tích hồ, du Tây Hồ, tích hồ lạc Tây Hồ, tích hồ, tích hồ!* Lão gia, mời người đối lại.

*: chữ 'tích' (vật làm bằng thiết), 'Tây' (phía Tây) và 'tích' (luyến tiếc) đều có một âm đọc là 'xī'. Tạm dịch: Cầm bình thiết, dạo Tây Hồ, bình thiết rơi xuống Tây Hồ, tiếc thay cái bình, tiếc thay cái bình!

Dương Lăng vừa nghe phải đối câu đối thì giật nảy mình, người hiện đại có mấy ai học qua cái thứ này? Đến lúc nghe nàng tay nói mấy cái gì mà 'tích hồ', 'Tây Hồ', rồi 'tích hồ', y lại càng cảm thấy nhức đầu. Tuy y chưa từng nghe câu đối này, nhưng cũng nghe hiểu được cái khó của câu đối chính là cả ba từ đều đồng âm của từ 'Tây Hồ'.

Y không biết rằng năm xưa có người đã dùng câu đối này làm khó đại học sỹ Tô Đông Pha, khi ấy chính Tô Đông Pha cũng đã từng bị bắt bí. Y còn tưởng rằng đây là câu đối do Cao Văn Tâm nghĩ ra nên trong lòng bội phục không thôi.

Nghĩ ngợi thật lâu, cuối cùng y cũng nghĩ ra ba từ có phát âm na ná nhau, miễn cưỡng có thể lắp thành một câu, bèn nói với Cao Văn Tâm:

- Ờ... Tôi vừa nghĩ được một câu, song nếu so ý cảnh với vế trên của cô, thật sự kém hơn nhiều lắm. Bây giờ tôi đọc, cô không được cười đó.

Cao Văn Tâm nghe vậy trên mặt không khỏi lộ vẻ kinh ngạc. Câu đối này từ khi ra đời đến nay đã mấy trăm năm, đã có không biết bao nhiêu tài tử hao tổn tâm tư tìm câu đối lại, kết quả cũng chỉ vì quá truy cầu từ phát âm tương đồng mà miễn cưỡng ghép thành một vài hạ liên (vế sau), song không có câu nào có được ý cảnh ưu mỹ như vế trước.

Lão gia nhà mình chỉ trong chốc lát đã có thể nghĩ ra vế đối, như vậy đã là vô cùng quý hoá lắm rồi, còn mong gì đến ý cảnh nữa.

Cao Văn Tâm vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, liền nói:

- Xin lão gia hãy mau đọc ra, tiểu tỳ rửa tai cung kính lắng nghe đây.

Dương Lăng cắn răng, rồi quyết đoán đọc:

- Hảo tỷ phu, sính tiết phụ, tỷ phu thất tiết phụ, ta phu, tỷ phu.

*Tạm dịch: Anh rể tốt, cưới tiết phụ, anh rể phản bội tiết phụ, ôi chồng, anh rể!

Ba chữ 'tỷ' (jiě), 'tiết' (jié) và 'ta' (jiē) đọc na ná nhau.

Cao Văn Tâm trợn tròn mắt, đôi môi xinh há ra, ngạc nhiên nhìn y thật lâu, không nói câu nào. Dương Lăng không khỏi ngượng ngùng:

- Cô thấy đó, tôi nói rồi, ý cảnh kém lắm...

Cao Văn Tâm đột nhiên xoay người lại, tựa người vào mạn thuyền, đưa ống tay áo lên che mặt, rồi đôi vai nàng rung lên bần bật không ngừng, con thuyền nhỏ cũng theo đó mà lắc lư qua lại. Sau cùng vị tiểu thư khuê các lâu nay vẫn luôn chú trọng đến phong thái này rốt cuộc cũng không đếm xỉa gì đến hình tượng nữa mà bắt đầu cất tiếng cười to.

Dương Lăng cứng người nhìn nàng, mặt lúc trắng lúc đỏ, sau một hồi lâu mới hậm hực nói:

- Cô xem! Đang uống rượu vui vẻ lại đòi đối này đối nọ cho bằng được, thật làm mất cả vui.

Cao Văn Tâm thấy y giận, vội vàng ngồi ngay ngắn lại, đôi môi mím chặt ra sức nhịn cười, nước mắt cứ ứa ra, người run lên bần bật như trúng sốt rét. Dương Lăng không khỏi giận quá hoá thẹn, đứng bật dậy, gắt:

- Cười đi, cười đi, cười cho chết tôi thì thôi.

Cao Văn Tâm thấy y đã thật sự giận dữ bèn không dám cười nữa, lật đật đứng dậy, nhỏ nhẹ dỗ dành:

- Lão gia! Nô tỳ xin nhận lỗi, lão gia đừng giận nữa.

Chiếc thuyền nhỏ vốn đã đang tròng trành, Dương Lăng đứng lên đột ngột, con thuyền lại càng nghiêng sang bên trái. Do Cao Văn Tâm đứng lên vội nên chân không vững, thiếu chút nữa đã ngã xuống sông.

Dương Lăng tuy tức giận nhưng thật ra là bởi câu đối của mình quá kém. Khi nãy y cho rằng có thể nghĩ ra ba từ gần âm, trong đó còn có một thán từ giống như chữ "tích hồ" (tiếc thay cái bình) là nhanh trí lắm rồi, như vậy đã là hiếm có lắm rồi.

Cho nên khi thấy Cao Văn Tâm bật cười lớn, y mới cảm thấy thật mất mặt. Giờ y thấy Cao Văn Tâm cuống cuồng nên đứng không vững chực ngã xuống sông, bèn vội đưa tay đỡ lấy. Cao Văn Tâm hốt hoảng nhào vào lòng y, mãi đến khi con thuyền chầm chậm ổn định lại, mới đỏ mặt mắc cỡ rời khỏi lòng y.

Lúc này Cao Văn Tâm vừa uống rượu xong, mặt ngọc đỏ bừng, tóc mây tán loạn, mày như liễu mảnh che lấp một mảng xuân quang, mắt sáng như trăng nằm nhởn nhơ trong nước hồ thu. Nhất thời Dương Lăng ngẩn ngơ nhìn ngắm.

Cao Văn Tâm đã đứng vững lại, nhìn thấy ánh mắt y, không khỏi khẽ cụp hàng mày đen mướt, thẹn thùng cúi đầu, song lại không nhịn được mà ngước lên liếc y một cái thật nhanh.

Một cái cụp mày, tình ý khôn kể xiết, mê ly hơn cả lời tỏ tình. Mày ngài nhướng trộm, ngầm tỏ ý đàn lang(4), lại là vẻ lay động hồn phách người ta biết dường nào. Biết rõ là không nên song Dương Lăng lại không thể dằn lòng, y nhịn không được bèn hôn trộm môi nàng một cái thật nhanh.

Bờ môi đỏ thắm của Cao Văn Tâm vốn đầy đặn và mềm mại, chỉ vừa được y hôn nhẹ, môi nàng lập tức trở nên ẩm ướt, cặp mắt sáng ngời của nàng cũng chợt sâu thẳm phảng phất như biến thành hai hũ rượu lâu năm, tinh thuần không gì sánh được.

Chiếc thuyền mui đen thong thả đong đưa, gió đưa đến hương sen thơm ngát, tuy chưa hề uống say song lúc này nữ thần y lại lờ mờ như muốn say, tựa như gởi tới Dương Lăng lời mời tình cảm nồng nàn.

Dương Lăng hôn xong, từ trong mỹ sắc bừng tỉnh lại, cuống quýt buông thỏng đôi tay:

- Văn Tâm! Tôi thật không phải. Chúng ta không thể... tôi thật không nên.

Sau khi say rượu, người ta khó tự kiềm chế tình cảm của mình. Giờ đây hôn xong một cái thoả thê, y mới giật mình phát giác đã phạm sai lầm lớn. Tình ý của Cao Văn Tâm với y, trong lòng y sớm đã biết rõ, và cũng đã luôn cảnh tỉnh mình đừng lún vào quá sâu. Nhưng trên chặng đường xuôi Nam này, bất tri bất giác lưới tình miên man của nàng lại sớm đã trói chặt lấy y.

Cho đến lúc này đây, Dương Lăng mới phát hiện thì ra con tim mình cũng đã thích nàng từ lâu, nhưng bởi nỗi khổ tâm của chính mình, y chỉ có thể giống như con cá mắc vào trong lưới, khổ sở vùng vẫy, khổ sở trốn chạy...

Dương Lăng trở về chỗ ngồi, cầm chén rượu lên, lòng ngổn ngang trăm mối, song lại phát hiện chén rượu đã cạn khô. Y không dám ngẩng đầu nhìn ánh mắt ai oán và thất vọng của Cao Văn Tâm đang ngồi đối diện, lòng chỉ thầm nghĩ: “Không thể lại gây thêm nợ tình nữa. Văn Tâm hiểu chuyện hơn mấy người Ngọc Nhi, mình... Không bằng tiết lộ cho nàng một ít chuyện của mình, cắt đứt ý niệm của nàng ấy vậy.”

Dương Lăng nghĩ đến đây, ngẩng đầu tính mở lời, phía trước bỗng nhiên có một giọng nói giòn dã yêu kiều vọng đến:

- Í, vừa mới thấy đứng ở gần đây mà? Ca à, đi tới trước chút nữa đi, này này, mấy người đâu rồi?

Dương Lăng nghe thấy tiếng nước cùng lá sen lay động, huynh muội Trương thiên sư đã chèo thuyền trôi tới, bèn nuốt lời định nói ngược vào bụng. Y thấy Cao Văn Tâm đang cúi đầu vân vê góc áo, dáng vẻ rất đáng thương, bèn vội nói với nàng:

- Văn Tâm! Tôi tự có nỗi khổ của mình, tuyệt không xem nhẹ thân phận của cô. Ôi... đợi đến lúc về đến Hàng Châu, tôi sẽ nói bí mật của tôi cho cô nghe thì cô sẽ rõ hết thảy.

***

Chú thích:

(1) trích từ thành ngữ "điểm mắt cho rồng" (hoạ long điểm tình), là kỹ thuật làm nổi bật nét chính của bức tranh (hoặc bài viết) khiến cho nó phong phú, sinh động hơn. Tích rằng Trương Tang Do vẽ bốn con rồng nhưng không vẽ mắt, vì lo rằng nếu vẽ mắt thì rồng sẽ bay mất. Mọi người không tin. Nhưng khi Trương lấy bút điểm mắt cho một con rồng thì sấm sét nổi lên, bức vách lung lay và con rồng có mắt bay vút lên, ba con kia vẫn ở yên chỗ cũ.

(2) một món ăn nổi tiếng trên thực đơn trong các nhà hàng ở Tô Châu, do nhà thơ nổi tiếng Tô Đông Pha chế biến.

(3) tên cổ của loại trà "Bích Loa Xuân" nổi tiếng. Vì trà được hái vào dịp tiết Thanh Minh, tiết Cốc Vũ nên có tên gọi là “Bích La Xuân “ và được liệt vào là một trong những vật cống phẩm.

(4) chỉ Phan An đời Tấn, sau được người con gái dùng gọi người con trai tuấn tú mà mình ái mộ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: