em là trung tâm của vũ trụ rộng lớn này
Xin hãy bật bài "Giữ Anh Cho Ngày Hôm Qua" của Hoàng Dũng để nghe trong lúc đọc truyện, mong là bạn sẽ luôn giữ Nguyễn Lê Diễm Hằng và Trần Thị Dung trong tim dù cái kết buồn hay vui, và cảm ơn cuộc đời vì đã để mình gặp được bạn qua chiếc fic này.
✩₊˚.⋆☾⋆⁺₊✧
Đã rất lâu rồi tôi không trở lại Lâm Đồng, chiều hôm ấy trời nổi gió lồng lộng với từng đoàn mây đen kéo đến vây kín lấy cả thành phố khiến tôi rùng mình.
Khi một ai đó đã và đang trên đường trở về nơi họ từng cho là thân thuộc đối với người mà họ trân quý nhất thế gian thì dẫu không tìm được lý do phù hợp thì họ vẫn sẽ mặc định chuyến đi ấy như một cuộc viếng thăm bất ngờ. Người đó có thể còn vấn vương, cũng có thể đã rời đi từ sớm nhưng bóng dáng họ để lại cho vùng đất này như một vết tích được khắc trên đá để dù cho thời gian có trôi thì không gì có thể bào mòn được. Rồi mái tóc, ánh mắt, bờ môi, ngay cả giọng điệu của người con gái đó vẫn sẽ ám ảnh tôi đến tận bây giờ mà chưa một lần mờ phai.
Tôi có nói với chồng về việc đến Lâm Đồng để ghé thăm một người bạn cũ, một người mà tôi đã không có dịp gặp gỡ trong suốt mười lăm năm dài đằng đẵng và rồi cũng nhờ có chuyến công tác đột xuất đến từ toà soạn báo mà tôi mới có cơ hội đặt chân xuống nền gạch trơn lạnh tại nhà ga cũ kỹ. Cái hơi lạnh rét cóng của mùa đông tràn về làm tôi hoài niệm biết bao thời học trò ngô nghê cắp sách tới trường, những lần ăn vụng chưa kịp chùi mép đã bị giáo viên bắt gặp hay lén lút lật giở phao trong giờ kiểm tra, tôi đều nhớ cả.
Mùa này hoa dã quỳ nở nhiều, dọc hai bên lối đi là từng cụm năm cánh màu vàng rực đang phấp phới bay theo hướng gió, chúng ngả nghiêng rồi đổ rạp về phía trước như muốn chỉ đường dẫn lối cho tôi ôm lấy những giấc mộng dang dở đang tràn về nhỏ giọt. Tôi chìm trong chiếc áo măng tô đen cứ thế tay xách va li một mực đi thẳng một đường, đi mãi, đi mãi cho đến khi có người đón tôi với đôi dép xỏ ngón đang từ tốn đạp lên bãi cỏ xanh rì.
Một đứa bé chừng sáu bảy tuổi, nó có nụ cười răng khểnh, da nó trắng sứ và chiếc mũi thon. Nó có cái thứ mà tôi đã luôn nhọc nhằn tìm kiếm suốt bao lâu nay, nó sở hữu bóng hình rực rỡ của mẹ nó sâu trong đôi mắt trẻ thơ ấy.
Tay nó cầm dây cước diều, nó cười với tôi rồi theo hướng chỉ tay của đứa bé, mắt tôi treo lên con diều hình mặt trăng xen lẫn vào từng cụm mây. Thoạt đầu tôi chỉ đơn giản nghĩ rằng người giống người mà thôi vì làm gì có chuyện trùng hợp đến mức đây là con gái của người bạn đó? Và rồi tôi mỉm cười với đứa bé:
"Con gái, đi thẳng hết đường này là về tới Đức Trọng phải không?"
Nó chớp mắt nhìn tôi, gật đầu:
"Đi hết đường là về đến nhà con."
"Con tên gì? Sao trời gần tối rồi mà vẫn ở đây chơi?"
Lẽ ra tôi phải đoán được tất cả kể từ lúc thấy con diều chắp cánh bay cao hình mặt trăng kia, nhưng cái gì mình càng không muốn tin thì xác suất xảy ra lại càng lớn, đứa bé mắc cỡ nói:
"Con tên Hằng đó cô." Nó khẽ liếc con diều khi đã rơi xuống bãi cỏ. "Như mặt trăng được bao bọc bởi bầu trời đó, mẹ con nói vậy."
Trong một khắc, tôi sực nhớ rằng người bạn thân thiết của tôi từng nói, tên của nó ghép với người nó thích chính là sự bao dung dịu dàng của bầu trời rộng lớn dành cho mặt trăng.
Nhưng cũng đã mười lăm năm trôi qua rồi.
#1.
Ngay từ lần đầu tiên gặp Dung, tôi đã nghĩ rằng đứa con gái này ắt không phải người bình thường.
Thành thật mà nói, không có lý nào trên đời này lại xuất hiện một người rực rỡ đến như vậy.
Khoảng cách giữa tôi và Dung khi đó là một bức tường của lớp học và những dãy người đứng ngổn ngang, nó chạy vội, bóng dáng nó hiện lên thật chớp nhoáng trên cửa sổ lớp học hệt một tia sét giáng vội xuống trần giang làm tôi ngẩng đầu lên mà nhìn không kịp, cứ tưởng là hồn ma ai đó vừa lướt qua như trong truyện kinh dị. Rồi không chỉ ngày một ngày hai, chỉ cần tiếng trống trường vang lên thật lớn đến hồi thứ hai là tôi đã thấy nó như muốn hoá thành những con nhạn biển đập cánh bay vút đi thật nhanh, mái tóc ngắn của nó sớm chỉ còn là một vệt đen quằn quện trong ký ức tôi. Nếu chỉ có như thế thì tôi đã không nhận xét Dung là một người rực rỡ, vậy thì tại sao nó lại là một người rực rỡ?
Dung không giống mấy đứa con gái truyền thống kiểu mẫu của mười lăm năm trước, thuở ấy nó cắt tóc tém hệt mấy thằng con trai, lại còn hay chỉa chỉa ra nên mấy đứa lớp tôi hay gọi vui nó là loài nhím biển, có đứa thì bảo nó là quả sầu riêng nhưng mấy cái biệt danh tầm thường đó đã sớm được che lấp bởi một cái tên độc đáo hơn: ông mặt trời. Đơn giản là vì lúc nào nó cũng cười, bị điểm kém cũng cười, bị khiển trách cũng cười, bị phạt đứng dưới cuối lớp cũng cười, chưa bao giờ tôi thấy nụ cười tắt vụt trên môi nó. Nó cười nhiều đến mức cái răng nanh nhỏ xíu bắt đầu lộ ra nhiều hơn như một cái răng khểnh và đó cũng là điều mà nó tự hào nhất. Nó giống hệt một con chó con (dù nó khá là sợ chó) suốt ngày mè nheo nhõng nhẽo với người khác, đến cả tôi cũng là nạn nhân của nó đấy thôi. Và lẽ ra bọn học trò khối lớp mười hai chúng tôi chỉ kêu nó là mặt trời nhưng nó cứ loi nhoi như một thằng nhóc, thế là tụi tôi cũng gọi nó bằng "ông" luôn.
Và Dung bảo, Dung thích lắm vì với Dung, chỉ khi một người nào đó mến mình thì họ mới gọi mình bằng bất kỳ cái biệt danh thân thương nào.
Dĩ nhiên là Dung không ham chơi tới mức chỉ chờ trống giải lao để tót xuống sân chơi với bạn bè, nó ham ăn nhiều hơn và vốn dĩ nó phải lấy đà chạy vụt đi như thế là vì căn tin trường tôi thường bán món bánh bao nhân xá xíu với nhân hai trứng cút một trứng muối rất đắt hàng, lần nào xuống xếp hàng chờ mua cũng bán hết sạch chỉ trong vòng năm phút vậy nên là với cặp giò thon thả đó của Dung thì việc chạy thục mạng từ tầng ba xuống tầng trệt không gì là không thể. Có mấy lúc vừa mới học xong tiết Văn, tôi ra ngoài lan can đứng hóng gió một tí là đã thấy nó bay nhảy trên sân trường với cái bánh bao và ly sữa đậu trên tay như một chiến lợi phẩm lớn cùng nụ cười toe toét trên môi. Tôi không nhịn được cười mà nghĩ rằng con nhỏ này đúng là phàm ăn tục uống quá đi, có mấy hôm vì quá hào hứng mà nó mắc nghẹn, suýt thì nôn hết cả ra mặt đất rồi. Nó ăn nhiều thế mà không tăng cân nổi, lần nào đi khám sức khoẻ định kỳ do trường tổ chức cũng đều nhận cái mộc đỏ to tổ bố ba chữ "suy dinh dưỡng" kèm một sớ dài ghi rõ các thực phẩm cần bổ sung, nó cao một mét sáu mươi lăm nhưng cả người chỉ vọn vẹn bốn ba ký, có lẽ vì thế mà nó dễ bay nhảy hơn người bình thường?
Nhưng chỉ như thế cũng chưa đủ để khiến tôi có ấn tượng mạnh và tiếp xúc với Dung, khi đó bọn tôi học khác lớp, tôi học xã hội còn nó thì tự nhiên, cụ thể hơn là nó chọn khối B. Chỉ là trong một lần cô giáo dạy Toán cho ra chơi sớm hơn mười phút, bọn học trò lớp tôi nhanh chân xuống căn tin xếp hàng giành chỗ để mua đồ ăn (tất nhiên là có cả tôi), nhưng vì khi ấy tôi phải đi vệ sinh nên lúc vào hàng mua bánh cũng đã vơi đi hơn một nửa. Vừa hay khi tới lượt tôi thì căn tin chỉ còn đúng một cái mỗi loại, mà tôi lại chẳng thể nào ăn hết cả hai cái nên cứ đứng phân vân lựa chọn mãi. Sực nhớ ra chưa thấy Dung đến mà đã không còn bánh, tôi tặc lưỡi rút tờ bạc trong ví ra rồi đưa cho cô thu ngân, sau đó vừa ôm hai cái bánh trong túi giấy vẫn còn nóng hổi thì hàng người đứng phía sau đã tan từ bao giờ.
Hôm đó Dung xuống trễ là do lớp nó bị giáo viên bộ môn xin bớt mười lăm phút để dạy thêm, kết quả khi vừa ra khỏi cửa lớp thì bánh đã chẳng còn. Thấy gương mặt thất thểu đó khi cụp mắt nhìn vào quầy bánh mì chả cá khô quắt queo, tôi cảm thấy vừa buồn cười vừa đáng thương, chậm rãi vỗ lên vai nó:
"Tao mua dư một cái này, mày ăn không?"
Dung giật mình nhìn tôi, nó chột dạ hỏi:
"Sao lại mua hai cái để rồi dư?"
"Vì tao biết mày không xuống kịp để tranh mua."
"Nhưng tao với mày có quen nhau đâu?"
Dung nói không sai, lúc đó tôi chưa biết tên Dung mà Dung cũng chả biết tên tôi, ấn tượng mà tôi dành cho nó chỉ là đứa con gái choai choai hệt thằng cu và nó dành cho tôi là một bà già khó tính, nhưng hai mắt nó dù có cố tỏ ra nghi ngờ vẫn có bám dính lấy mấy cái bánh bao thật chặt:
"Mày dư nhân gì?"
"Xá xíu với thịt hai cút một muối." Tôi nói nhanh. "Mày lựa đi, tao bán lại cho mày."
"Thế tao ăn xá xíu nhé." Vừa nói, nó vừa mừng rỡ đặt mấy tờ tiền lẻ nhăn nhúm vào tay tôi. "Mày tên gì? Sao mày tốt với tao thế?"
Tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện một cái bánh bao cứu đói lại có thể dễ dàng thuần hoá nó đến như vậy. Nhưng vì không nỡ nhìn thấy cổ họng nó khô quắt khô queo bởi bánh mì chả cá, tôi vén tà áo dài qua một bên, cắn một góc bánh bao rồi nói:
"Lan, Trần Hoàng Phương Lan lớp trưởng lớp 12C2"
"Trời! Mày học khối C nên tính tình thiện lương như vậy là đúng rồi." Nó pha trò chọc tôi cười. "Chắc cô chủ nhiệm lớp mày sẽ tâm đắc lắm khi có một đứa học trò như mày."
Lúc ấy tôi không nhịn được mà bật cười ngay lập tức, thế là tôi huých tay nó:
"Còn mày?"
"Hở?" Bỗng nó đơ ra khi đang đớp lấy miếng xá xíu rim đỏ. "Tao thì sao cơ?"
"Tao hỏi mày tên gì?"
"Dung, tao học bên đám 12B3 ấy."
Mới đầu Dung không nói rõ họ tên cho tôi biết, vì nó cảm thấy cái tên đầy đủ Trần Thị Dung ấy thật sự không ăn khớp gì đến vẻ ngoài bảnh tỏn kia lắm. Đã đặt là Dung rồi mà lại lót thêm chữ Thị nên nghe cứ nhân đôi sự nữ tính kiểu gì ấy, vừa dịu dàng vừa nết na làm sao. Tất nhiên là lúc đó tôi vẫn chưa nghĩ sâu xa đến vậy, chỉ chăm chăm ráng ăn nốt cái bánh bao trên tay rồi khi thấy Dung vẫn cứ nhìn tôi với hai cái trứng cút còn lại, chợt hiểu ra gì đó, tôi chìa bánh ra:
"Ăn giùm trứng cút đi, không thích ăn trứng."
"Trời ơi ân nhân của tôi!" Nó cảm thán. "Tao nghĩ là tụi mình có thể thân thiết từ giờ cho tới lúc tao ngủm củ tỏi luôn đó."
Ngón tay nhón vội hai quả trứng rồi nhét vào miệng, trứng không to nhưng hai bên má nó căng phồng như một con sóc khiến tôi không nhịn được mà phá ra cười ngặt nghẽo ngay dưới sảnh lớn. Cả nó cũng bị tiếng cười của tôi chọc cười lây, vậy là hai đứa mới đầu chưa quen biết gì cứ thế đứng pha trò cùng nhau suốt giờ chơi mới thôi.
Dung có vẻ như không phải người Đức Trọng vì cái giọng lơ lớ miền bắc ngọt ngào đó chả phải của dân Lâm Đồng, mà tôi cũng thế, có lần nó hỏi tôi:
"Mày cũng là bắc kỳ à? Giọng mày nặng thế kia mà."
Cái từ bắc kỳ ấy nghe có vẻ phiến diện nhưng Dung không có ý xấu vì đợt dạo ấy người lớn xung quanh chúng tôi nói rất nhiều, nam kỳ trung kỳ bắc kỳ, thành ra lũ trẻ con chúng tôi cũng quen thói mà học nói theo. Tôi gật đầu nhìn nó:
"Tao gốc Hà Nội."
"Tao thì là Thái Bình nè, mà bố mẹ chuyển vô Lâm Đồng sớm quá nên giọng tao cũng nửa nạc nửa mỡ luôn rồi."
Bỗng nó nhìn tôi, chép miệng bâng quơ:
"Hôm nào mày dắt tao đi Hà Nội chơi đi. Nhỏ lớn giờ chưa biết mùi thủ đô là gì."
Câu nói đó vẫn luôn in hằn trong tâm trí tôi suốt mười lăm năm qua mà chưa bao giờ mờ phai, nụ cười lộ răng khểnh đó của nó là một dấu ấn đặc biệt mà tôi nghĩ có lẽ không ai có thể quên được. Tôi cũng chẳng rõ nó đã được đặt chân đến Hà Nội hay chưa, nếu rồi thì tốt còn nếu chưa thì có lẽ nó vẫn luôn đau đáu chờ ngày tuyệt vời ấy đến.
Sau bữa chia sẻ bánh bao hôm đó, Dung bắt đầu thân thiết với tôi hơn. Nó cứ như một cái đuôi bám theo tôi dai dẳng đến tận cửa lớp C2 mới chịu về, hay là mấy lần cùng nhau vắt áo dài đạp xe bon bon qua mấy hàng cây để về nhà cũng vậy, nhà nó cách nhà tôi tận một ngọn đồi nhưng bao giờ cũng chạy về nhà tôi rồi mới quay xe về lại nhà nó. Nó ham vui tới mức bắt chuyện cười với tôi suốt quãng đường, chuyện gì hài hước mà chưa kể xong là nó sẽ bắt tôi dừng xe lại để nghe nó nói hết mới được vào trong. Dung là một đứa hoạt bát lanh lợi như thế đấy, nó nói nhiều tới mức tôi có cảm giác tai mình bị ù đi và đến cả mắt cũng trở nên mù loà trước nụ cười răng khểnh đó.
Dung xinh lắm, xinh theo cái kiểu không son phấn mà vẫn giữ được cái nét sắc sảo khó tìm. Nó xinh đến mức đứa con trai nào cũng nghĩ rằng việc cắt tóc ngắn cũn ấy đã giảm bớt 70% sức sát thương của nhan sắc đó, đứa nào cũng tiếc rẻ hết. Nhưng tôi đã nói rồi, nó không giống tôi, không giống bất cứ đứa con gái nào khác mà tôi đã từng tiếp xúc qua, chính vì cái mái tóc gai góc kia đã làm tôi có cái nhìn rất khác về nó. Một lần khi nó bị phạt ở lại giờ ra chơi để làm lại bài kiểm tra môn Sinh bị điểm kém, tôi cầm hai cái bánh bao qua B3 để tìm nó thì thấy nó đã gục xuống bàn ngủ gật từ bao giờ, chắc là do thức đêm luyện truyện tranh dữ quá đây mà. Nhưng khi tôi chưa kịp lay nó tỉnh dậy thì tóc nhím biển của nó đã ngọ nguậy trước, mắt nó từ từ hé ra rồi nhìn tôi, sau đó chun mũi cười.
Cứ như ánh bình minh vừa mới ló dạng sau một buổi đêm dài.
Vì khá thân với đám con trai nên Dung cũng không đặt nặng chuyện yêu đương lắm, nói đúng hơn là nó cóc quan tâm đến tình cảm trai gái và dù cho nó có sống mộng mơ như thế nào đi chăng nữa thì dường như bọn nam sinh của trường tôi chẳng thể nào đáp ứng được việc phải chiều chuộng nó. Nó chưa bao giờ tâm sự với tôi về một anh chàng nào đó, nó chưa bao giờ để mắt đến những thằng nhãi ranh bằng tuổi nhưng rồi vào một ngày đẹp trời, bỗng nó xấu hổ đến ngượng cả mặt và hít một hơi thật sâu để anh dũng kể cho tôi nghe về một người con gái.
Và đó cũng là lần đầu tiên tôi nghe nó nhắc về Hằng, thứ ánh sáng xa vời vợi mà dù cho Dung có dùng hết công đức của kiếp này để đuổi theo thì cũng chẳng thể nào chạm tới.
#2.
Hằng là đàn em học dưới tôi một khoá, nhưng lại chung đội tuyển học sinh giỏi Văn cấp thành phố. Cũng như tôi và Dung, con bé không phải người gốc Lâm Đồng, tôi đã sớm nhận ra điều đó chỉ qua giọng nói của em rồi.
Đợt đó đang vào độ giữa hè, khi các khối đều được nghỉ học đi chơi thoả thích thì bọn học sinh giỏi phải è cổ ôn bài như tụng kinh trong lớp học oi bức nhằm giành giải về cho trường. Mà lúc đó đội tuyển của chúng tôi chẳng đông đúc được như lứa học trò sau này, trừ tôi ra thì có tám mống tất cả, mà đã hết sáu mống là của lớp mười hai rồi. Đứa còn lại học lớp mười và rồi vào tháng cuối cùng của mùa hè khi mà hoa phượng đỏ bắt đầu rụng kín dưới gốc cây, đội tuyển bắt đầu chiêu mộ các em học sinh mới, trong đó có Hằng.
Trước đó tôi chưa từng thấy Hằng xuất hiện trong trường, hỏi ra mới biết em mới chuyển tới ngay học kỳ này để bắt đầu ôn thi tiếp cho tới khi lui về thành phố học đại học. Con bé là người Tam Kỳ, nghe bảo bố em do bận công tác xa nên mới mang cả hai mẹ con vào Lâm Đồng sinh sống, giọng em ngọt như mía lùi và với cái dáng vẻ e ấp ngại ngùng vào ngày đầu tiên nhận lớp mới, thật khó để tin rằng Hằng cũng là một người rất hay nói hay cười.
Nguyễn Lê Diễm Hằng, cái tên nghe nữ tính chẳng thua gì Trần Thị Dung cả.
Lúc Hằng làm bài thi thử để gia nhập đội tuyển học sinh giỏi là khoảng thời gian tôi vẫn chưa thân thiết với Dung. Tôi vẫn nhớ như in cái ngày hôm ấy khi mái tóc đen mượt của em xoăn thành từng lọn và đậu lên bờ vai mềm mại, đầu hơi nghiêng, nét bút gọn gàng đặt trên dòng kẻ của tờ giấy bản to cùng vài tia nắng chiếu chếch vào khiến tôi không nhịn được mà cảm thán. Do cô tổ trưởng tổ Văn hôm ấy có việc gấp phải họp với hiệu trưởng nên thành ra tôi cùng một cậu bạn khác phải nán lại phòng tự học để giám sát các em khóa dưới thi đầu vào, nhờ thế mà tôi mới chú ý đến Hằng. Thi vào ca chiều, mấy đứa khác thì do đã trải qua cả một ngày học căng thẳng nên trông đứa nào cũng xuề xòa thấy thương, duy chỉ có Hằng vẫn xinh đẹp gọn gàng như vậy. Và không phụ lòng mong đợi của tôi, Hằng cũng là đứa nộp bài thi sớm nhất khi mà còn chưa đầy mười lăm phút nữa mới đến hạn nộp cuối cùng. Em tự tin lắm, không cần dò lại phần bài làm của mình mà trực tiếp đưa cho tôi, hai tay lễ phép cầm lấy góc giấy thi rồi chìa đến và không quên nói lời cảm ơn. Thế là tôi đã có ấn tượng mạnh với Hằng suốt mấy tuần sau đó, mạnh đến mức chỉ cần thấy em ngồi trong lớp cũng khiến lòng tôi chộn rộn hạnh phúc một cách lạ thường.
Hằng hệt như một đứa em gái nhỏ của mấy anh chị cùng đội tuyển, đơn giản là vì em rất lễ phép và hiểu chuyện. Ngày học ôn thi học sinh giỏi thứ nhất, cô bé vì quá ngại ngùng mà không dám xin lên bàn đầu để nhìn bảng cho dễ, hai mắt lúc nào cũng ti hí lại và tốc độ viết thì chậm chạp vô cùng. Lúc đi xuống kiểm tra vở, thấy tình trạng Hằng như thế, tôi khẽ hỏi:
"Sao mắt kém mà không xin lên mấy bàn đầu ngồi?"
Tôi hỏi vậy chỉ để theo phép lịch sự vì hai dãy bàn đầu đều bị tụi mười hai lớn xác chiếm đóng hết rồi, mấy tụm mười hay mười một chỉ có thể thậm thụt ngồi giữa hoặc cuối. Thế là tôi lấy vở cuộn lại rồi đập một phát vào đầu một lúc gần năm đứa, hắng giọng nói:
"Tụi mày xuống sau ngồi, nhường bàn đầu cho mấy em."
Không phải bọn lớp mười hai xấu tính mà là do tụi nó ít khi để ý đến mấy đứa lớp dưới, hơn nữa các khối sau thi tuyển quan trọng hơn các khối trước nên vì thế mà quên bẵng đi chuyện này. Lúc hai bên đổi chỗ, Hằng đột nhiên tiến đến sát thật gần nhưng em cứ ấp a ấp úng mãi không dám nói gì, chỉ khi mọi người bắt đầu ngồi đúng vị trí, cô bé ngồi ở bàn thứ hai quay xuống nhìn tôi, đôi mắt lấp lánh tỏ ý biết ơn rồi khoanh tay gật đầu một cái.
Hằng cũng đẹp, cái đẹp thật khác với Dung và vẻ đẹp của con bé làm tôi nhớ đến bức tranh Thiếu nữ bên hoa huệ do họa sĩ Tô Ngọc Vân sáng tác, chính suy nghĩ này đã chợt lóe lên trong đầu khi cả đội tuyển đang cùng nhau giải đề phân tích ẩn ý sâu xa của bức tranh ấy. Lúc đó tôi ngồi kế Hằng, và chẳng hiểu sao mà tôi lại bật thốt thành lời:
"Giống em ghê."
Hằng tai thính lắm, em nghe được bèn ngẩng đầu hỏi:
"Cái gì giống em?"
"Thì đề bài." Tôi nói. "Có ai nói Hằng giống bức này chưa? Nhưng mà chị thấy độ tương đồng cao phết, mắt mày cũng là mắt một mí kia mà."
Thuở ấy, học sinh nữ trường tôi ai cũng phải mặc áo dài trắng suốt cả tuần (đến cả con Dung cũng không phải ngoại lệ) nên bọn trường khác hay trêu rằng chúng tôi trông giống binh đoàn ma nữ trong mấy bộ truyện kinh dị Nhật Bản, nhưng khi nhìn Hằng thì tôi không nghĩ thế. Màu áo trắng của em cũng y hệt với màu áo của thiếu nữ trong tranh, đôi bàn tay nõn nà cùng với gò má đỏ hồng hây hây, trong lúc tôi nói cho Hằng nghe về những điểm giống nhau thì bất thình lình thằng Tuấn ngồi ở bàn phía sau chọt miệng lên nói:
"Giống thiệt, xinh y như tranh vẽ ấy."
"Cảm ơn nhưng mà tao không có hỏi mày, thằng đần!" Tôi cau mày ngả người về sau và thụi cùi chỏ vô trán Tuấn một cái. "Đừng có thừa nước đục thả câu nữa."
Lúc Hằng mới chuyển đến, không ai là không ngấp nghé ôm vọng được làm bạn trai con bé vì như tôi đã miêu tả ở trên rồi, Hằng xinh đến mức tôi còn chưa để ý đến nhan sắc của Dung. Chưa kể giọng nói lại còn mềm mỏng nhỏ nhẹ, mọi cử chỉ hành động đều hết mực từ tốn nên lũ con trai khoái lắm, ngày nào cũng bày trò viết thư tình dán lên hộp sữa rồi nhét vô ngăn bàn làm Hằng cứ phải lôi hết sữa hộp ra mới có chỗ để chứa sách vở. Một lần tôi thấy đám lớp C10 đang hí hoáy nhét sữa nhét thư vào bàn học của Hằng trong phòng ôn tuyển Văn, vì quá ngứa mắt mà tôi lớn tiếng đuổi thẳng cổ, sau đó moi sạch sữa ra rồi phát cho đội tuyển mỗi người một hộp. Dĩ nhiên là Hằng không phản đối, thậm chí còn vô cùng vui vẻ vì tôi biết rằng em cũng đã quá ngán ngẩm với mấy trò tán tỉnh cũ mèm này rồi. Thế là từ đó về sau, ngăn bàn học của Hằng nghiễm nhiên trở thành một cái kho lương thực thực phẩm nhằm nạp năng lượng cho chúng tôi, dù cho Hằng đã từ chối không biết bao nhiêu lần nhưng rồi chẳng hiểu sao sữa trong ngăn bàn mỗi lúc một tăng, thậm chí có hôm tôi còn thấy hai ba hộp rơi xuống chân ghế chỉ vì ngăn bàn của em không còn chỗ trống nào nữa.
Cái ngăn bàn học của Hằng giống như trái tim vậy, tuy rộng chỗ nhưng dù cho có lấp đầy bao nhiêu đi chăng nữa thì cô bé cũng chẳng bao giờ thèm ngó ngàng gì đến cả.
Khoảng hai tháng sau khi tôi đã bắt đầu thân thiết hơn với Dung, nó cũng siêng lui tới chỗ ôn thi tuyển học sinh giỏi của bọn tôi hơn, và đó cũng là lần đầu tiên nó gặp Hằng.
Tận cho đến lúc chia ly, nó vẫn nhớ ngày hôm đó rất nhiều, nó nói với tôi như thế.
Hôm đó Lâm Đồng đã bước vào độ mùa thu, mưa trên núi cũng rả rích khắp thành phố vậy nên trường chúng tôi lúc ấy cũng nhuộm nước mưa ướt đến lạnh cả người. Vì nhiệt độ thấp nên khi ấy ban giám hiệu cho phép học sinh mặc đồng phục mùa đông trước thời gian dự kiến, tôi vì mải mê tìm cái áo len trong lớp nên thành ra đến phòng ôn thi muộn nửa buổi so với các bạn. Nhưng vừa mới chạy đến thì chẳng thấy ai đâu, chỉ thấy mỗi Dung và Hằng đang trố mắt nhìn nhau ngay bục giảng.
Hóa ra buổi học đó được cô báo nghỉ để hôm sau học bù do mưa lớn nhưng tôi với Hằng chẳng ai thèm nghe, đã thế tôi còn rủ Dung đến học cùng mới buồn cười làm sao.
Dung đến trước tôi nên mới đầu định vào lớp chờ để tránh không bị mưa tạt, lúc thấy có bóng dáng ai đó tóc dài đang cặm cụi giải bài nên cứ ngỡ đó là tôi. Cộng thêm đôi mắt cận khó thấy đường, thế là nó không nghĩ ngợi gì nhiều mà trực tiếp sà đến, đầu đặt lên vai người kia hết sức gọn gàng và nũng nịu nói:
"Sao mày không chờ tao gì hết?"
Hằng từ đầu đến cuối không hiểu Dung đang nói gì, nhưng vì thấy Dung đang mệt cũng không nỡ đẩy nó ra, em chỉ đỏ mặt lặng lẽ tiếp tục cầm bút làm bài rồi tinh ý hạ vai trái xuống một chút để nó cảm thấy thoải mái hơn.
Vậy là nó ngủ thật, nó cũng không để ý đến thái độ im bặt khác lạ ngày thường của tôi mà cứ thế thiu thiu ngủ ngon lành. Mái tóc ngắn chỉa chỉa của nó phảng phất sương Lâm Đồng làm ướt vai áo len em ngày hôm ấy, bàn tay thon dài của nó cũng thuận thế mà siết chặt giữ ấm rồi đặt lên đùi như một đứa trẻ khiến Hằng không nhịn được mà bật cười thật khẽ. Ngoài kia trời mưa lành lạnh, bên trong không khí của lớp học lại ấm áp lạ thường bởi vì hai trái tim đang được sưởi ấm, em cứ để nó ngủ như thế được chừng mười phút nữa thì đến lúc này Dung mới tỉnh dậy. Nó ngáp một hơi thật dài, tay dụi dụi mắt rồi định nói gì đó nữa nhưng khựng lại ngay vì phát hiện ra cái người tốt bụng cho nó ngủ ké kia không phải là tôi, thế là nó giật bắn người lùi ra xa vài bước.
Lúc tôi đến, mặt mày hai đứa ai cũng đỏ như tôm luộc.
Dung cảm thấy xấu hổ vì nó đã cư xử quá mức tự nhiên với một người lạ mới gặp lần đầu, Hằng lại ngượng ngùng vì em lo rằng nó sẽ cảm thấy em không nói cho nó biết để trêu chọc nó. Rốt cuộc tôi lại là người cười to nhất, cứ ngồi bên kia rìa bàn mà nhìn cả em lẫn nó xin lỗi không ngừng chợt làm tôi chảy cả nước mắt. Sau cùng, tôi lên tiếng phá vỡ sự im lặng này:
"Chị không nghĩ là em cũng nhớ sai lời thầy." Nói đoạn, tôi liếc Dung rồi nháy mắt chọc. "Cứ tưởng có mình chị với con Dung bị kẹt ở đây thôi chứ."
"Dạ em tính vô đây làm cho hết bài rồi mới về, ai dè mưa lớn quá."
Hằng vẫn không dám nhìn vào mắt Dung, vì lo rằng hai đứa cứ tiếp tục mắc cỡ nhau nên với bản tính bà cô già khó tính của tôi trỗi dậy, tôi bảo Hằng đưa một tờ giấy thi cho nó sau đó lật đúng cái đề khó nhất ra và bắt nó làm chung. Nó ham chơi ham ăn có tiếng chứ không ham học, đời nào mà chịu bỏ thời gian rảnh quý báu ra để làm bài tập? Nó cay đắng nhìn tôi:
"Sao mày bảo tới phòng ôn thi của tụi mày chỉ cần ngồi cuối đọc truyện là được?"
"Giờ tao đổi ý rồi." Tôi cầm cây thước sắt to, làm bộ làm tịch dứ dứ vào đầu nó. "Mày nhìn lại xem điểm Văn học kỳ này của mày có qua nổi số năm không?"
"..." Nó lại giở trò đôi mắt long lanh lấp lánh hòng lấy lòng tôi.
Nhưng lần này tôi quyết tâm lắm, tôi kéo tay Hằng nói:
"Hằng, em lấy dùm chị quyển sách giáo khoa mười hai tập một ra đây." Chờ Hằng lúi húi lấy sách từ ngăn bàn, tôi lại ban thêm cho Dung một cái liếc nhìn đầy đe dọa. "Kèm nó làm nghị luận văn học hết bài Việt Bắc cho chị, từ tác giả, hoàn cảnh sáng tác cho tới phân tích luôn."
Lần này đến lượt em trố mắt nhìn tôi, vì thường là một bài văn bản được làm theo dạng phân tích kỹ như vậy mất ít nhất cũng phải chín mươi phút, tức là một tiếng rưỡi đồng hồ. Cơ mà trông Dung chẳng có vẻ gì là vui tươi lắm, nó biết cái tính tôi, dù cho sạt lở hay núi đè thì không gì có thể lay chuyển được quyết định điên rồ đó nên cũng ngoan ngoãn lấy giấy bút ra bắt đầu làm bài.
Thế là tôi ở phía sau, từ từ hưởng thụ cảm giác tuyệt vời khi ngắm cái đứa bướng bỉnh cứng đầu như Dung đang phải è cổ làm một bài văn dài mấy trang dưới sự hướng dẫn của Hằng, và khác xa với những lần kèm cặp Dung học thì lần này trông nó có vẻ chịu khó hợp tác hơn tôi nghĩ.
Cả Dung lẫn Hằng đều thích giỡn hớt vậy mà nay lại im ắng lạ kỳ, nhưng thử đặt mình vào vị trí của hai đứa nó khi buộc phải làm việc chung với một người mình chẳng hề quen biết thì hẳn là tôi sẽ cảm thấy khó chịu lắm. Tiếng bút máy cặm cụi viết trên tờ giấy thi thật chậm rãi khiến tôi thấy thoải mái hẳn, đứa bạn thân trời đánh của tôi im lặng ngồi viết được hai đoạn đầu, sang đến đoạn mô tả hoàn cảnh sáng tác thì nó ngắc ngứ ngay khúc đó. Thấy vậy, Hằng nhẹ nhàng lật sách ra, chỉ vào đầu trang sách:
"Chị thấy đoạn này không?" Đợi đến khi Dung nheo mắt nhìn chăm chú, con bé tiếp lời. "Thường thì hoàn cảnh sáng tác sẽ được viết sau tiểu sử tác giả, lúc đi thi chỉ cần học thuộc mấy ý chính là có thể làm được rồi."
Dung nghiêng đầu khó hiểu, nó lấy đuôi bút gãi gãi đầu:
"Nhưng giờ chị chưa thuộc."
"..." Hằng im lặng nhìn nó, thế ý nó là muốn em phải đọc cho nó viết à?
Quả đúng với suy nghĩ của tôi, nó bấm cây bút liên tục, mỉm cười nói:
"Vậy em..." Sực nhớ ra chưa biết tên em, nó lại hỏi. "Em tên gì?"
Không hiểu sao khi ấy Hằng khựng lại khoảng hai ba giây gì đó khi em vô tình nhìn thẳng vào mắt Dung. Tôi thấy đồng tử xinh đẹp của em khẽ rung động khi nhìn thấy cái nụ cười răng khểnh chết người đó của nó, em nhát đến mức chẳng dám nán lại quá lâu, chỉ cúi gằm mặt xuống rồi lí nhí:
"Dạ, em là Hằng."
Nó tỉnh bơ nói:
"Hằng đọc cho chị chép nha?"
Thế là dưới cơn mưa rả rích của mùa thu khi hoàng hôn đang dần buông xuống, tôi lim dim mắt muốn đổ gục xuống bàn để ngủ chỉ vì giọng đọc bài trong trẻo của Hằng và tiếng ghi bài hết sức chăm chỉ của Dung. Ngồi cách nhau chừng một gang tay là vậy nhưng sự đồng điệu của em và nó cứ như dàn ca đoàn cao giọng mà tôi thường hay nghe thấy mỗi khi đi ngang qua nhà thờ lớn, đúng là một sự kết hợp hoàn hảo đến mức lạ lùng.
Vài ngày sau, đột nhiên Dung lén lút mò đến lớp tôi rồi nhét vào tay tôi một hộp sữa chocolate, miệng bảo rằng nhờ tôi đưa cho Hằng giúp nó.
Tôi nhếch mép tự tin nói:
"Con Hằng chả bao giờ uống sữa đâu, mày không thấy sữa bọn con trai tặng nó toàn được đem cho tụi tao uống hả?" Tuy vậy, tôi vẫn nhận lời Dung.
Chiều hôm đó đúng như tôi dự đoán, trong ngăn bàn của em toàn sữa là sữa như mọi khi và tôi cũng chia chác đều cho những đứa khác. Khi giáo viên sắp vào lớp, tôi bỗng nhớ đến hộp sữa của Dung nên lôi ra:
"Dung nó có nhờ chị đưa em cái này." Trước khi để Hằng kịp nói, tôi thở dài. "Nhưng mà chắc em không uống, chị đưa cho thằng..."
"Em uống được Lan ơi!" Hằng mắc cỡ lên tiếng. "Em thích chocolate."
"Ủa sữa tụi con trai tặng em cũng có hộp vị đó mà?"
Khi ấy, trời bắt đầu hửng nắng hồng dìu dịu ban chiều và len lỏi qua từng khe cửa sổ để chạm đến làn da mịn màng của em, em không vội trả lời tôi ngay vì ánh mắt em lơ đễnh đi theo hướng khác. Hóa ra Dung lại đang bay nhảy khắp hành lang nữa rồi, nhưng lần này không chỉ có một mình tôi quan sát mà giờ đây còn có cả em Hằng nữa.
"Chị Dung tặng thì em uống." Con bé mỉm cười đáp.
#3.
Hằng nhận ra em thích Dung vào một ngày mùa đông lạnh cuối năm.
Sau buổi kèm cặp học Văn hôm đó, bỗng nhiên Dung trở nên siêng năng một cách lạ thường và có những hôm nó chẳng ngại phải lặn lội đường xa để đến tận nhà tôi xin bố cho học nhóm. Và nó cũng bỏ thú vui đọc truyện tranh qua một bên, ngày nào cũng cắm mặt mũi vào sách tập vở môn Văn đọc tới đọc lui mấy bài phân tích mẫu đến thuộc lòng, học kỹ đến mức ngay cả học sinh giỏi Văn như tôi cũng chẳng thể nào bắt bẻ được. Nhưng thuở ấy tôi vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân nó thích học Văn, hỏi thì cứ bảo là có đam mê với môn ấy rồi lảng sang chuyện khác rất nhanh nên tôi cũng không buồn hỏi nữa. Tất nhiên tôi biết rõ Hằng chính là lý do lớn nhất để nó thay đổi rõ rệt, chỉ là tôi chưa có bằng chứng rõ ràng để chứng minh được luận điểm đó thôi.
Một cái gì đó rất khó nói cứ nghẹn ứ trong cổ họng tôi mỗi khi muốn miêu tả mối quan hệ của hai người họ cho các bạn hiểu. Giá mà tôi có thể viết về mối quan hệ khó hiểu giữa Dung và Hằng giống như ánh trăng bị che khuất sau những áng mây trôi, cái cảm giác bản thân biết rõ rằng sau cụm mây ấy chính là thứ ánh sáng xa vời vợi nhưng vẫn chẳng thể nào nhìn thấy rõ được, tôi là đang bị kẹt trong tình huống như thế đấy. Tôi nắm lấy sợi dây vô hình kết nối cả em và nó nhưng không thấy, cũng không chạm đến được. Nhưng lúc đó tôi nào có biết Hằng để ý đến Dung? Trí tưởng tượng của tôi chỉ dừng lại ở mức em xem nó như một người chị thân thiết giống tôi mà thôi.
Mối quan hệ của họ chính thức thay đổi là khi Dung vô tình bắt gặp Hằng tại một cửa tiệm bán xiên nướng tại chợ đêm Đà Lạt, mùa đông đầu tiên của Hằng kể từ khi em đặt chân đến vùng đất lạnh lẽo này. Từ chỗ bọn tôi sống đến trung tâm ăn chơi sầm uất của Đà Lạt là ba mươi cây số, vậy là cứ sáng sớm Hằng sẽ lên trường học còn chiều đến thì hì hục đạp xe muốn đứt hơi để kịp phiên chợ bán hàng tối. Lẽ ra tôi nên hỏi em kỹ hơn về hoàn cảnh gia đình em, vì nếu khá giả thì đã không phải vất vả tới mức bán mạng đi làm thêm như thế. Con bé ngày nào cũng phơi mình trước cái lạnh rét run người, làn da trắng gầy xanh xao trông thiếu sức sống đến mức một sáng đến trường, tôi đã phải giật mình vì ngỡ đâu em bị bạo hành. Gầy đến mức mắt trũng sâu và hai gò má hóp lại nhưng không vì thế mà lười biếng trong học tập, và sự biến đổi tiêu cực này làm sao có thể qua được mắt Dung? Sợ rằng tôi biết thì sẽ lên tiếng can ngăn, thế là sau giờ học, nó lén lút chờ Hằng đạp xe chạy một quãng xa mới bám gót sát phía sau lưng.
Khung cảnh chợ đêm Đà Lạt thật nhộn nhịp, khác xa với khung cảnh bình yên ở trên Đức Trọng, Dung lạc lõng giữa chốn đông người như một linh hồn bị đẩy ra khỏi miền hư vô. Mất dấu Hằng, nó cứ đi mãi, đi mãi cho đến khi bắt gặp bất cứ ai có dáng người hao hao và mái tóc dài giống em là nó liền quan sát thật kỹ lưỡng. Nó sợ em biết những dấu chân của em đều bị nó bám theo, nó sợ em biết rằng ngay cả bóng em đổ rạp trên phố bởi ánh đèn đường cũng đều được nó hạnh phúc bước qua đó, nó sợ nhiều lắm. Và rồi những ngọn đèn dừng lại khi đã đưa nó tới nơi mà nó luôn tìm kiếm, nó nhìn thấy bóng hình em cô đơn hiu quạnh với chiếc tạp dề đã ngả màu rêu xanh với những lời mời gọi nhỏ xíu cùng khay thịt trên tay.
Dung không bước đi nữa, trong áo len đồng phục trường và khăn choàng cổ màu đỏ thẫm, nó lặng lẽ nép vào góc khuất của một hàng bánh hạt dẻ ở gần đó lâu thật lâu, dù cho môi của nó đã bắt đầu khô nứt nẻ và chảy máu vì lạnh, gò má nó đỏ ửng và hơi thở phả ra làn khói hệt tàu lửa đang báo hiệu tình trạng cơ thể đáng báo động nhưng nó vẫn mặc kệ. Nó chỉ im lặng nhìn Hằng quạt lửa bên cái bếp than hồng và thầm nghĩ chí ít em cũng đã được sưởi ấm.
Nó không có ý định xuất hiện trước mặt em trong tình huống này vì nó ăn nói bộp chộp lắm, sẽ ra sao nếu nó khiến em cảm thấy tổn thương lòng tự trọng? Vậy nên khi đã gần mười giờ đêm và những sạp hàng ở phiên chợ bắt đầu đóng cửa, Hằng sớm đã thay quần áo rồi định lên xe vội vã trở về Đức Trọng trong đêm thì bấy giờ Dung mới thậm thụt bước ra khỏi góc tối với những phiến lá vàng dính đầy tóc, nhoẻn miệng cười vẫy vẫy tay với em:
"Hằng cũng ở chợ đêm giờ này à? Sao em về trễ thế?"
Đúng như dự đoán, em hết sức bất ngờ nhưng biểu cảm lại không giấu nổi sự vui vẻ:
"Em làm thêm ạ." Cô bé không ngại ngần gì khi nói về việc mình đang làm. "Ngày nào em cũng làm tới giờ này."
"Không thấy lạnh hả?" Dung liếc mắt nhìn xuống đôi bàn tay khô của em, sau đó rút từ trong túi ra một cặp găng tay len mới cáu. "Em đeo vào đi."
"Dạ không cần đâu." Cô bé bối rối nói. "Em quen r..."
Dung cau mày hăm dọa:
"Chị nói là em cứ giữ đi, lớn rồi là không nghe lời chị à?"
Rồi như sợ Hằng sẽ cảm thấy khó xử, nó mỉm cười nói thêm:
"Coi như chị thưởng em vì làm việc chăm chỉ mà điểm số không sa sút, không đắt đâu."
Giữa cái lạnh cắt da cắt thịt độ mùa đông về và những bông hoa dã quỳ bắt đầu nở rộ dọc lối đi, đầu ngón tay mềm mại của Hằng chạm vào lớp len găng tay ấy, cô bé giật mình như có một dòng điện xẹt qua nhưng hai tay vẫn lễ phép đón nhận rồi chậm rãi đeo vào. Chưa bao giờ Hằng cảm thấy ấm áp và dễ chịu đến thế, ngay cả khi chỉ nhìn thấy bóng lưng Dung đang lề mề dắt xe đạp của hai đứa ra đường lớn, chẳng hiểu sao Hằng lại hạnh phúc đến như vậy.
Lúc ấy đoạn đường từ Đà Lạt về đến Đức Trọng không được lắp nhiều đèn như bây giờ, chỉ có ánh trăng sáng soi đường dẫn lối cho hai đứa trẻ về nhà mà thôi.
Tôi vẫn không biết chuyện gì xảy ra cho tới khi Dung nói với tôi rằng nó sắp sửa đi làm thêm ở một tiệm nướng trên chợ đêm Đà Lạt vào buổi chiều tối, chắc chắn là tôi đã cản nó hết lời vì thời gian học tập ở trường còn không đủ thì làm sao mà cày cuốc kiếm tiền? Chưa kể chúng tôi chỉ mới là vị thành niên, làm việc quá sức như vậy thật đúng là không tốt nên cho tới khi nó không chịu khai ra lý do hợp lý thì tôi không thể nào chiều theo ý nó được. Dung là một đứa rất tùy hứng, thỉnh thoảng nó sẽ lại nảy ra ý tưởng muốn làm gì đó nhưng không kéo dài được lâu, thích một bộ truyện thì chỉ cần đọc hai ba chương rồi lại nhảy hố sang truyện khác. Chính vì quá hiểu rõ tính Dung, tôi thở dài:
"Mày cứ nhất quyết phải ra Đà Lạt làm mới được à?"
"Ờ." Nó đáp cụt lủn. "Nhà tao thiếu nợ nên tao mới phải đi làm lụng vất vả vậy đó."
"Mày tưởng tao ngu hả Dung?" Tôi khịt mũi. "Bình thường lười như lợn, làm gì có chuyện đạp xe tổng hơn sáu mươi cây mỗi ngày chỉ để đi làm bán thời gian như thế? Chưa kể muốn thì mày kiếm việc ở Đức Trọng cũng được, thiếu gì chỗ?"
Biết không tìm được lý do nào hợp lý hơn được nữa, nó đành phải thú nhận tất cả.
Vài tháng trước khi Hằng mới chuyển đến, tôi nghe loáng thoáng ai đó nói bố con bé là một thương nhân giàu có và việc chuyển lên Lâm Đồng là để tiện vận chuyển buôn bán gỗ. Hồi ấy chỉ cần nghe đến buôn gỗ là đã thấy giàu, nhưng rồi Dung kể thì tôi mới được hóa ra mọi chuyện không phải vậy. Bố Hằng mất sớm, hai mẹ con vì không trụ nổi ở Tam Kỳ nên mới lặng lẽ bỏ quê lên đây sống, mà mẹ em cũng không còn khỏe như trước. Thế là Hằng ngoài giờ học chính ở trên trường thì cô bé vẫn phải chạy tất tả ngược xuôi để chạy vạy từng đồng, chuyện này chỉ là Dung vô tình nghe được ông chủ của tiệm xiên nướng kể khi ông đang khoe với khách về Hằng chứ cũng chả dám hỏi thẳng. Tôi nghe xong chỉ biết thừ mặt nhìn về phía trước mà đầu óc trống rỗng, chừng năm phút sau lại quay sang hỏi Dung lần nữa:
"Mày có chắc không?"
"Chắc cái gì?"
"Mày có thật sự nghiêm túc không đấy?"
Dung không trả lời, thay vào đó, nó chỉ lặng lẽ rời đi với bóng lưng cô độc hiu quạnh cùng chiếc xe đạp cọc cạch khi đèn đường nơi Đức Trọng được bật sáng. Hằng bon bon chạy phía trước, Dung như một chiếc đuôi nhỏ cứ lẽo đẽo theo sau mãi không rời và dù cho có bực cỡ nào thì cũng phải bật cười trước cảnh tượng đó. Em và nó làm tôi nhớ đến bộ phim Cô gái năm ấy chúng ta cùng theo đuổi của tác giả Cửu Bả Đao, khi mà nhân vật nam chính Kha Cảnh Đằng cùng nhóm bạn trai đang hì hục đạp xe bám sát ngay phía sau Thẩm Giai Nghi, như một cách thể hiện tình cảm của mình ở cái độ tuổi ngây ngô dại khờ. Nhưng thay vì ánh nắng vàng chan hòa cùng với con đường làng vắng vẻ, tôi chỉ có thể thấy Dung chìm trong bóng tối ở vô tận phía sau khi mà nó còn đang mải mê ngắm nhìn bóng lưng xinh đẹp của Hằng, tôi thấy được khát khao cháy bỏng chìm sâu trong mắt nó.
Phải rất nhiều năm sau khi gặp lại, Dung mới dám thú nhận với tôi rằng sở dĩ ngày ấy nó không bao giờ chạy song song với Hằng là vì nó luôn muốn hưởng thụ cái cảm giác tuyệt vời đó, khi mà ánh mắt nó luôn bao bọc lấy em bằng tất cả những gì dịu dàng và bao dung nhất còn sót lại trên thế gian này.
Nó vẫn luôn như thế, chưa bao giờ thay đổi.
Thuở ấy tôi vẫn chưa biết Hằng thích Dung hoặc ngược lại, tôi chỉ cho rằng tính cách của Dung vốn đã đơn thuần trong sáng thích giúp đỡ bạn bè như thế nhưng lại chưa một lần nhận ra rằng việc gì nó phải hy sinh thời gian lẫn sức khỏe của mình nhiều đến như vậy. Để mọi thứ có thể diễn ra tự nhiên nhất, nó cũng nói dối với Hằng như cái cách mà nó nói dối tôi nhưng Hằng khờ hơn nhiều, con bé tin nó ngay lập tức và thậm chí còn vô cùng vui vẻ khi biết rằng mình sẽ không phải làm việc một mình nữa.
Thế là từ đó, tiệm nướng ở phiên chợ đêm Đà Lạt có hai bóng hình đến từ Đức Trọng tưởng chừng như vô cùng lẻ loi nhưng lại hạnh phúc an yên đến lạ lùng.
Cũng như Hằng, dù Dung đã cố gắng sắp xếp thời khóa biểu trống nhất có thể nhưng nó chưa bao giờ nghỉ ngơi đủ để nạp năng lượng cho ngày hôm sau, hậu quả là tôi không còn được thấy Dung chạy long nhong khắp hành lang như trước nữa. Lúc tôi qua bên B3 để kiếm Dung thì đã thấy nó đổ gục xuống mặt bàn rồi ngủ ngáy khò khò hệt một con mèo lười, đến cả món bánh bao ngon lành kia cũng chẳng thể nào vực nó tỉnh táo lại được. Mà cũng không nỡ nhìn hai đứa trẻ của mình mệt mỏi đói khát, thế là giờ ra chơi nào tôi cũng luôn là người tranh mua bánh hộ chúng nó, một cái cho Dung một cái cho Hằng dù tôi chẳng biết Hằng có thích ăn bánh bao hay không nữa.
Vào một ngày buổi sáng cuối tuần với ánh nắng nhè nhẹ rải khắp mặt sân khi trường chỉ còn lại lác đác vài lớp ôn tuyển, bầu không khí yên tĩnh khác hẳn thường ngày làm chúng tôi có hứng để tập trung giải mấy bài phân tích hơn. Tôi cũng ngồi cạnh Hằng như mọi lần nhưng hôm đó tôi đặc biệt chú ý đến một cặp găng tay màu trắng tinh trông mới như bông tuyết đầu mùa đậu trên Tây Bắc, em xếp nó thật gọn và đặt vào một ngăn trong cặp khiến tôi đặc biệt chú ý, thế là tôi hỏi ngay:
"Em tính tặng cặp găng đó cho ai à?"
"Dạ?" Hằng bối rối nhìn tôi. "Cặp găng là quà của một người em cực kỳ yêu quý đã tặng cho em."
"Sao chị chưa thấy em đeo bao giờ nhỉ? Mấy nay thời tiết ở Lâm Đồng rét gần chết."
Tôi không để ý đến vẻ mặt đang bắt đầu ửng đỏ lên của Hằng, em không trả lời tôi mà vờ bận rộn chăm chú tiếp tục làm bài vậy nên tôi cũng hiểu ý là chuyện khó nói nên không dò hỏi nữa. Chỉ có điều tầm năm phút sau, cô bé cắn môi nói với tôi:
"Vì nếu em xài thì cặp găng tay này sẽ cũ đi mất."
"???" Tôi trợn tròn mắt. "Đã là vật chất thì nếu em không xài, nó vẫn sẽ cũ đi ngày một ngày hai. Đâu có gì có thể tồn tại mãi mãi được?"
Hằng hiểu ý tôi, nhưng tôi lại không thể hiểu nổi tâm tư của Hằng khi con bé vẫn chỉ nhìn tôi rồi mỉm cười dịu dàng như thể mùa xuân xanh sắp đến. Rồi mi mắt em cụp xuống khi em vẫn lặng lẽ dõi mắt theo những tán lá cây đang rơi rụng bên ngoài sân, không hiểu sao tôi lại hỏi bâng quơ:
"Dạo này Hằng để ý ai đó rồi đúng không?"
Bằng trực giác của một người chị lẫn người bạn thân thiết của Hằng, tôi nhìn thấy tình yêu màu hồng đang tràn ngập trong đôi mắt đó. Tôi cảm nhận được em đang yêu một cách đầy trọn vẹn nhưng lại chẳng thể dò xét được đối tượng của em chỉ qua vài câu hỏi, và trái với dự đoán của tôi về một anh chàng đẹp trai học giỏi nào đó trong trường, Hằng vẫn tiếp tục cúi đầu làm bài tập làm văn nhưng giọng nói của em vang lên thật nhỏ xíu bên tai tôi:
"Em thích Dung."
Vỏn vẹn ba chữ ngắn ngủi nhưng em khiến tôi hoàn toàn không thể tập trung vào bài học suốt cả ngày hôm đó. Mười lăm năm trước của chúng tôi khi nghe tin hai người con gái có tình cảm với nhau thì thật là mới mẻ, và cả sốc nữa, tôi đón nhận cái tin đó bình thản hết mức có thể nhưng lòng lại nổi lên một trận phong ba bão táp khi nghe em nhắc đến cái tên Trần Thị Dung. Môi tôi khô khốc, hỏi em:
"Sao em thích nó?"
Có lẽ Hằng đã luôn chờ câu hỏi này đến với em, vậy nên rất nhanh, Hằng bình thản đáp:
"Vì đã rất lâu rồi em chưa được yêu như thế. Dù tình yêu của Dung dành cho em chỉ đơn thuần là chị em bạn bè, em cũng mãn nguyện lắm rồi."
Câu trả lời của em khiến tôi sững sờ.
Tình yêu mà em nói với tôi vào ngày hôm ấy tựa như hàng ngàn bức thư tình không rõ người gửi mà chỉ có tên của người nhận, cái thứ tình yêu rõ ràng đến mức bản thân tôi biết rõ rằng điều kỳ diệu thiêng liêng đó vẫn luôn tồn tại xung quanh tôi nhưng lại chẳng thể gọi tên. Vì Hằng cho đi mà không cần nhận lại, tình yêu của em âm thầm vụng trộm trong bóng tối, kín kẽ đến mức Dung không nhận ra là em đang yêu nhưng lại đủ tín hiệu để tôi biết được rằng cái thứ tình cảm lẻ loi đó đang tồn tại và yếu ớt như một mầm cây sống sót sau cơn bão.
Dẫu chẳng được hồi đáp thì tình cảm của em vĩnh viễn không bao giờ đổi thay.
Tận cho đến lúc rời đi, em vẫn luôn yêu Dung nhiều đến mức không gì có thể lay chuyển được.
#4.
Vào tháng Giêng của học kỳ mới, tỉnh Lâm Đồng mở một cuộc thi viết lách nho nhỏ dành cho các bạn học yêu mến môn Văn nên bầu không khí của các trường học khi ấy phải gọi là sôi sùng sục hết cả lên. Thế là chúng tôi đã phải nhận đề bài cực kỳ khó ngay buổi học đầu tiên của năm: viết một câu chuyện viễn tưởng ngắn về một loài động vật.
Không bắt buộc phải thi nhưng nếu nhận giải lớn thì không chỉ tôi nhận tiền thưởng mà trường cũng được thơm lây, vậy là suốt mấy ngày liền suy nghĩ đau hết cả đầu, cuối cùng tôi cũng đã ghi danh vào phiếu thí sinh của tỉnh. Hằng học Văn rất giỏi nhưng lần này con bé không tham gia vì chẳng dư dả thời gian, nếu tôi gặp khó khăn trong phần xây dựng cốt truyện hoặc diễn biến tâm lý nhân vật thì còn có thể nhờ vả Hằng được. Tôi bắt đầu với cảnh một con chuồn chuồn bay là đà lướt trên mặt nước, nó là bạn thân của một vị thần cáo với tuổi đời hơn hàng nghìn năm trú ẩn trong rừng. Nhưng rồi chuồn chuồn ta không thể chịu đựng nổi sự kìm hãm của thiên nhiên dành cho chú, chú muốn khám phá thế giới rộng lớn ngoài kia với tâm hồn đam mê học hỏi nhưng chú lại sợ con người sẽ làm tổn thương chú, vậy nên chuồn chuồn đã đánh bạo mò tới điện thờ thần cáo để rủ người bạn thân của mình đi. Đáng tiếc thay, khu rừng nguyên sinh này sống được đến tận bây giờ là nhờ vào những lời nguyền của thần ngăn không cho loài người giết hại các động vật khác và buôn bán gỗ vô tội vạ, thần cáo không thể rời khỏi vị trí của mình được.
Tôi kể sơ sơ câu chuyện viễn vông của mình cho Dung nghe vào giữa trưa của một ngày đẹp trời nọ, những tảng mây lững lờ trôi vụt ngang đầu hai đứa khi tôi và nó đang cùng nhau ngồi vắt vẻo trên hàng rào của một ruộng ngô xanh gần đó rồi cùng nhau gặm khoai nướng. Dung chăm chú nghe tôi kể lúc tôi nhổ đống vỏ khoai vào tay nó, tôi lật lật vài trang trong sổ tay với cây bút bi rẻ tiền được bán ở chợ rồi nói:
"Tao có nên để con cáo chết không?"
Dù chưa được nghe đến phân nửa câu chuyện nhưng khi nghe tôi hỏi vậy, nó trả lời:
"Vì sao cáo lại chết?"
"Vì sẽ đến lúc thần cáo biết yêu, và tình yêu chính là dấu chấm hết cho cuộc đời của thần."
Có lẽ tôi không nên nói cho nó biết rằng thực chất tôi đã phác họa lại con người Dung qua chính con cáo đó. Một vị thần lúc nào cũng tràn ngập niềm vui và tiếng cười, một vị thần đã luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình kể từ lúc Thượng Đế ban cho thần chức năng quan trọng đó và là một vị thần đã từng cho rằng cuộc sống bất tử này thật vô vị cho đến khi nó được khám phá thế giới tàn khốc ngoài kia. Nhưng vị thần cáo cũng có những mặt mâu thuẫn của chính mình, nó căm ghét con người vì cứ cố tình phá hoại nơi nó sinh ra và lớn lên nhưng rồi sau này khi đã mang ơn một kẻ nhân loại hết sức tầm thường, nó sẽ yêu và yêu vô cùng say đắm. Nó sẽ tự tay giết chính con cáo được nuôi bởi hận thù trong nó từ bé, và rồi nó sẽ chết trong nỗi tuyệt vọng đớn đau khi loài người mà nó yêu lại nhẫn tâm đẩy nó về phía kẻ thù.
Tôi đã tưởng tượng ra khoảnh khắc con cáo tử vong.
Dung ghét tình yêu màu hồng, nó không tin và cũng chưa bao giờ tin vậy nên hình ảnh thần cáo đó cũng sẽ phải nằm giữa một vũng máu tanh lớn. Bốn chi của nó bất động, miệng cáo với một dòng máu chảy gọn gàng trên mặt đất đang trút ra những hơi thở cuối cùng và đặc biệt nhất có lẽ chính là vùng ngực. Thần cáo bị loài người moi tim, trái tim màu vàng chói lóa đó chính là những gì đẹp đẽ nhất của thiên nhiên đúc kết ra được. Nhưng rồi khi cơ thể cáo không còn trái tim ấy nữa, nó trở nên teo tóp và xác xơ như chính khu rừng nguyên sinh hiện tại, tất cả chỉ còn một đống tro tàn. Hai mắt nó trơ trơ mở to nhìn về phía trước với những giọt nước mắt chưa kịp khô cùng với dấu chân của người nó yêu vẫn còn hằn trên vũng máu đang từng chút một rời bỏ nó.
Cuối cùng, vị thần cáo thiêng liêng đã chết trong tình yêu, một tình yêu đầy cám dỗ hết sức độc hại.
Đó chỉ là một trong những cái kết đầu tiên được tôi nghĩ ra khi nhìn thấy Dung đang bị bóng tối bào mòn mỗi ngày.
"Kết thảm quá." Dung nuốt nốt miếng khoai vụn. "Nếu tao là giám khảo, tao sẽ đánh rớt mày ngay từ vòng gửi xe luôn."
Không hẳn là cái kết quá bi thảm, nhưng cá nhân tôi lại thấy câu chuyện này tương đối nhàm chán mà chẳng có điểm đột phá nào. Vậy nên khi ngỏ ý hỏi Hằng và kể em nghe, Hằng đã trầm ngâm rất lâu sau đó lại băn khoăn nói:
"Tại sao chị lại để thần cáo yêu?"
Tại sao tôi lại để một vị thần biết yêu? Thần cáo từ khi sinh ra đã không có cha mẹ, nó không được hưởng đặc ân về tình yêu thương như biết bao người khác và ngoài con chuồn chuồn nhỏ xíu kia thì nó cũng chẳng có nổi một người bạn nào. Người như nó nên yêu, tình yêu chẳng phải là thứ trái cấm ngọt ngào nhất của thế giới này sao?
"Thần cáo chưa một lần tan vỡ. Thật ra chị nghĩ, cách nhanh nhất để giết chết một ai đó thì em phải để người đó yêu."
Hằng lấy quyển sổ của tôi rồi lật đến trang phác họa nhân vật, tuy vẽ không quá đẹp nhưng tôi cũng có thể vẽ vài nét căn bản từng góc mặt của con cáo đó. Một người tóc ngắn ngủn không rõ nam hay nữ với đôi tai nhọn màu cam trên đầu, mắt cười với răng khểnh trông cực kỳ lém lỉnh làm Hằng bật cười:
"Chị đừng để thần cáo chết, trông đáng yêu quá."
"Là vì em thấy nó giống con Dung đúng không?"
"Dạ." Cô bé nhẹ nhàng nói. "Vì nó quá giống Dung nên nó xứng đáng được hưởng quả ngọt của tình yêu."
"Chán em quá, suốt ngày chỉ biết có con Dung thôi, em không còn gì khác ngoài nó à?"
Đôi mắt biết cười của em lại lần nữa nhìn tôi trìu mến, nhưng môi em không cười, chỉ đáp:
"Nếu như Dung cũng yêu em như khi chị ấy chạy suốt ba mươi cây số lên Đà Lạt chỉ để biết rằng em vẫn an toàn thì chị ấy phải xứng hơn con cáo kia gấp vạn lần ấy chứ."
Tôi sững sờ, mấp máy môi hỏi:
"Sao em biết là nó theo dõi em?"
Hóa ra Hằng đã biết tất cả từ lâu, trước cả tôi vì cái cách mà Dung thể hiện vẫn còn vụng về lắm. Hằng biết nó thích em nhiều, làm gì có ai lại rỗi hơi lên Đà Lạt kiếm việc làm giết thời gian trong khi bản thân vốn đã chẳng rảnh rang gì? Vì Hằng có người quen chỉ nên mới đến đó làm, còn nó thì đâu có ai quen? Tại sao cứ phải nằng nặc chạy đến Đà Lạt bán xiên nướng trong khi Đức trọng cũng chẳng thiếu gì công việc? Và cũng làm gì có ai hấp tấp bỏ trốn vì sợ bị người mình thích phát hiện đến độ giấu đầu lòi đuôi, bị em thấy từ lâu nhưng vẫn vờ như nấp kỹ lắm mà không dám chui ra ngoài?
Hằng biết nó thích em trước cả khi em nhận ra em thích nó.
Để đáp lễ lại cho câu chuyện của tôi thì em cũng kể cho tôi nghe một câu chuyện khác.
Em kể tôi nghe về một con thỏ mang tên Mặt Trăng.
Mặt Trăng được sinh ra trong một gia đình ba người gồm có em cùng với bố mẹ, bố em là một thương nhân vô cùng giàu có trong rừng và mẹ em là một người vợ hiền đảm đang. Cuộc sống của Mặt Trăng cùng với muôn thú khác lúc nào cũng tràn ngập niềm vui và hạnh phúc nhưng rồi vào một ngày nọ khi em vừa mới đón sinh nhật tám tuổi cách đây không lâu, bố của Mặt Trăng vì làm ăn thua lỗ mà dính vào nợ nần, cuối cùng không thể nào gánh vác nổi nên đã bỏ cả hai mẹ con ở lại để đi tìm hạnh phúc khác.
Từ đó gia đình nhà thỏ chỉ còn hai người.
Mặt Trăng lên mười tuổi, cái độ tuổi bắt đầu nhận thức rõ ràng về đúng sai phải trái và đó cũng là lúc mà chuyện kinh khủng bắt đầu ập đến, nhà thỏ đã chào đón anh trai của mẹ hay còn gọi là một người bác về ở nhờ với lời hứa sẽ cưu mang cả hai mẹ con Mặt Trăng. Cuộc sống dần trở nên khá giả hơn nhưng rồi vào một buổi tối nọ khi Mặt Trăng đang ngủ say, ông bác của Mặt Trăng mò đến phòng em để tính đến chuyện giở trò đồi bại. Không một ai tin vào lời kêu cứu của một đứa trẻ cả, dẫu cho không thật sự nhớ điều đáng sợ gì đã xảy ra nhưng tiềm thức của Mặt Trăng đã luôn mách bảo rằng bác là người xấu, đáng buồn là đến cả mẹ cũng không thể phản kháng lại hắn. Sau một vài năm em phải chạy trốn hắn mỗi khi hắn có mặt ở nhà thì mọi thứ cuối cùng cũng kết thúc, từ đó hai mẹ con Mặt Trăng quyết chuyển đến một khu rừng khác để sinh sống.
Nhưng Mặt Trăng chưa bao giờ nghĩ rằng cuộc sống này đối xử tệ với em khi em được gặp một con cáo khác, nó tự xưng rằng nó tên là Mặt Trời. Con cáo xuất hiện với vẻ ngoài hung dữ nhưng thực chất nó rất tốt bụng, là một giống loài kỳ lạ thích chia sẻ niềm hạnh phúc với người khác và đặc biệt hơn là nó rất dịu dàng với Mặt Trăng. Khi đông đến, nó sẽ cuộn tròn Mặt Trăng trong bộ lông dày mượt của mình để cùng nhau ngủ đông suốt ba tháng dài dằng dặc để rồi khi xuân sang, chính nó đã kéo Mặt Trăng ra khỏi hang tối để em có thể biết được rằng thế gian này thật đáng sống biết bao.
Đó là lúc mà Mặt Trăng nhận ra không phải ai đối xử tốt với em cũng là người xấu như ông bác kia.
Hằng kể câu chuyện này không lâu, vậy mà tôi lại bật khóc nức nở suốt mười lăm phút liền. Thậm chí đến cả đám đông học trò đang tụ tập trên sân cũng đã bắt đầu chuyển hướng sự chú ý sang tôi khi nước mắt cứ liên tục trào ra như suối, vậy mà tôi và Hằng chẳng nói năng gì sau câu chuyện đó. Có vẻ như em cảm thấy nhẹ nhõm hơn khi trút bỏ được một gánh nặng quá lớn, và em xoa nhẹ mu bàn tay tôi, giọng nói trở nên run rẩy:
"Chị Lan giữ bí mật nha? Xem như đây là chuyện chỉ hai đứa mình biết thôi."
Có lẽ em nghĩ, con cáo Mặt Trời trong câu chuyện kia giống hệt Dung, rực rỡ đến mức ngay cả một người đã đổ vỡ quá nhiều như thỏ Mặt Trăng cũng chẳng thể nào kể cho nó nghe tường tận chi tiết về cuộc đời mình. Em không sợ nó sẽ thất vọng, em chỉ sợ rằng rồi một ngày nào đó thế gian sẽ cướp nó đi mà thôi, một ngày mà em hoàn toàn chẳng thể nào lường trước được.
Tôi đã giữ được lời hứa đó, bằng chứng là hơn mười lăm năm qua, ngoại trừ tôi ra thì không một ai biết quá nhiều về câu chuyện giữa thỏ và cáo.
Những tưởng tình yêu thầm lặng này mãi mãi không có lời hồi đáp thì vào đúng đêm giao thừa đón năm mới đến, tôi đánh lẻ trốn gia đình tự đi lang thang ở phiên chợ đêm để xem thử xem hai đứa nó đang làm ăn như thế nào. Tôi nhớ rõ lúc đó đồng hồ lớn đang điểm đúng hai mươi ba giờ ba mươi phút, tức nửa tiếng nữa là chúng tôi sẽ phải bỏ lại một năm cũ đầy hoài niệm ở phía sau thì vừa hay tôi lại thấy bóng dáng của Hằng và Dung đang ngồi ngay bàn nướng của quán. Do là lúc đó ai ai cũng đổ xô đi tìm chỗ đẹp để xem bắn pháo hoa nên chỉ còn vài hàng quán lác đác đang bận rộn thu dọn, đến cả tiệm xiên nướng này cũng không phải ngoại lệ. Ông chủ để lại tiệm cho hai đứa trẻ trông và ba chân bốn cẳng dắt vợ con ra ngoài đồng thoáng mát để tranh thủ xem, tôi chỉ còn nghe tiếng ầm ầm bát nháo vang lên từ phía Đông và phím máy tính lạch cạch đang tính toán để tổng hợp lại doanh thu sổ sách, chợt Dung ngẩng đầu hỏi:
"Tết ta này em có về thăm quê không?"
"Dạ không." Cô bé thở dài. "Nhưng chị thì sẽ về Thái Bình chứ?"
"Chị cũng không biết, em đi đâu chị đi theo đó."
Dung thốt ra câu nói đó với vẻ mặt tự nhiên đến mức tôi ngỡ đâu em đã quá quen với việc tán tỉnh này, nhưng hình như không phải thế. Cây bút đang viết của Hằng dừng lại ở khoảng không, em ngượng đến đỏ mặt nhìn nó vẫn tiếp tục gõ máy tính tính nhẩm, sau đó hít một hơi thật sâu:
"Sao lại đi theo em?"
"Chị tưởng em biết cả rồi, hay em vờ không biết?"
Tôi dù chỉ là phận hèn mọn đứng nấp góc tối để nghe lén nhưng cũng thấy khó thở hồi hộp đến lạ, Hằng cảm giác hơi nghèn nghẹn, em uống một ngụm nước để vơi đi cái vướng víu nơi cổ họng:
"Biết rằng chị lúc nào cũng dõi theo em hả?"
Giữa một buổi đêm khuya ồn ào tấp nập nơi phồn hoa đô thị ngoài kia, phiên chợ hôm nay lại bình yên đến mức đứa trẻ bên trong tôi dường như đang được ru ngủ hết sức êm ái. Lần này Dung đã nhìn thẳng vào mắt Hằng, nhìn chăm chú đến mức tôi chẳng rõ má em đỏ là do lạnh hay do nó nữa, và cả khi tiến gần đến thì chóp mũi cao của hai đứa cũng suýt va vào nhau, nó bật cười vui vẻ nói:
"Ừ." Nó siết chặt cây bút của em trong tay. "Và cũng biết là em đã sẵn sàng rồi."
Ngay đúng giây đầu tiên của mùng một chào đón năm mới, họ đã nhìn thấu lòng nhau như thế, họ yêu nhau như cái cách mà con thỏ và con cáo trong câu chuyện Hằng kể chữa lành lẫn nhau, họ yêu nhau nhiều đến mức dẫu tôi chẳng thể nào nghe nổi lời yêu nhỏ xíu trong mớ tạp âm pháo nổ lẫn lộn kia thì tôi vẫn có thể dễ dàng nhận ra cả một trời hoa rực rỡ đang nở rộ nơi đáy mắt của em và nó.
Buổi sáng ngày đầu năm.
Dung xuất hiện với cái áo măng tô màu be dài cùng khăn choàng bằng len mà em đã tặng nó nhân dịp sinh nhật vừa rồi vào cuối đông, ấm và thơm nức mùi hoa cỏ. Nó đã đứng trước cửa nhà thờ khi mặt trời còn chưa kịp mọc vì mong mỏi rằng Cha sẽ thấy dáng vẻ chân thành đó khi nó sắp sửa xin lời cầu nguyện cho người mà nó yêu nhất, nó phải chờ hơn ba tiếng khi mà dòng người bắt đầu đổ xô đến tấp nập hơn. Nó lắng tai nghe lời kinh thánh khi vẫn còn đang nghĩ ngợi vẩn vơ về Hằng còn đang say ngủ ở nhà sau một ngày mệt mỏi, khi mắt nhắm lại trước tượng Chúa thiêng liêng, nó đã lẩm nhẩm cầu xin rất nhiều thứ. Nó cầu cho một năm mới bình an, cầu một năm sóng yên biển lặng, cầu sức khỏe cho cả gia đình bạn bè và tất nhiên là làm sao nó có thể quên đi em?
Bằng tấm lòng chân thành của con cáo lương thiện trong câu chuyện của tôi và cả câu chuyện của Hằng, nó chắp hai tay lại với nhau:
"Con tin rằng mọi sự đều ở trong thánh ý Ngài, xin Ngài hãy thực hiện điều tốt lành nhất cho Nguyễn Lê Diễm Hằng, người con yêu thương nhất trên đời."
#5.
Suy đi nghĩ lại một hồi, tôi quyết định xóa đi cái kết cũ và không để thần cáo chết nữa.
Kỳ nghỉ tết của chúng tôi cũng chẳng có gì đặc biệt và mới mẻ, tôi phải về quê thăm ông bà một chuyến nên đã không liên lạc được với hai đứa suốt khoảng thời gian đó. Thế là tôi tranh thủ dịp làng đang cùng nhau tổ chức nấu cỗ gói bánh tét thì cũng xúm vào gói phụ mấy đòn, bánh mặn bánh chuối bánh chay nhân đậu đều đủ cả. Tôi không biết Hằng ăn được những món gì nên chỉ xin mẹ lấy về vài đòn bánh chưng cùng với hai ba bát thịt đông làm quà, với cả vì bố tôi còn kẹt việc ở Đức Trọng nên cả nhà tôi không nán lại lâu mà chỉ ngay mùng ba là đã bay về rồi. Lâm Đồng sau vài ngày nghỉ tết vẫn lạnh lẽo và bình yên như thế, lúc về đến nhà tôi cũng không vội tắm rửa nghỉ ngơi ngay mà đã ba chân vọt đến nhà Dung và Hằng để gửi tặng bánh, vừa hay lúc ấy cũng chỉ mới ba giờ chiều nên hai đứa rủ tôi ra đồng ngô hóng gió một tí, thế là tôi đi ngay.
Đó là ruộng ngô của bác Cả, một trong số những người hiếm hoi làm nghề thuộc da ở tỉnh và cũng là bạn của bố tôi nên bác cưng lũ trẻ bọn tôi lắm. Tôi với Dung ngày nào cũng ra đây ngồi hóng gió, mấy lúc may mắn gặp được bác còn được bổ dưa cho ăn mát rượi sướng gần chết rồi cứ thế phun hạt xa xả ngoài đồng cho lũ chim bay đến ăn. Nhẩm đến cũng đã năm tuần kể từ khi ngô của bác Cả xuất hiện râu, tôi đứng gần một cây và ngước mắt lên thì thấy chúng đều đã cao quá đầu người rồi, bác bảo nếu thấy trái nào chín thì cứ hái về luộc ăn chứ đừng mất công hỏi bác làm gì. Dung cười bảo:
"Tụi con không khách sáo đâu nha."
Hôm đó nó mặc quần đùi áo phông như mọi khi nhưng lần này đuôi tóc của nó đã dài hơn che kín gáy, chưa chạm tới vai nhưng tóc ôm sát hai bên má khiến nó trông nữ tính hơn bình thường, hóa ra tôi đã không để ý đến mái tóc gai nhọn kia của nó nữa. Thế là tôi vuốt mái tóc của Dung với vẻ tiếc rẻ:
"Vậy là tụi tao hết được gọi mày là ông mặt trời rồi."
"Gọi đi, ai cấm?" Nó hếch mặt lên nói khi ngón tay còn đang vuốt lấy râu ngô. "Mày không thấy tao để tóc dài sẽ xinh đẹp hơn à?"
Lúc này tôi bỗng nghe thấy tiếng cười hích hích vang lên từ phía sau, không biết Hằng đã lắng tai nghe thấy cuộc đối thoại lãng xẹt đó từ bao giờ, em vẫn xinh đẹp và tỏa sáng như thế khi mà bàn tay nhỏ nhắn của em khẽ đưa lên miệng. Nhận thấy tôi đang lườm, cô bé vui vẻ nói:
"Là em bảo Dung để tóc dài, em muốn thấy chị ấy để tóc dài thử."
"Tốt số gớm nhể?" Tôi giở giọng chua ngoa đâm chọt cả hai. "Vậy mà mấy lần tao kêu mày để tóc dài thử đi thì nhất quyết từ chối, nay có Hằng rồi thì xem lời tao ra cái khỉ khô gì nữa?"
Bây giờ thì Dung cũng chẳng buồn cãi cọ với tôi nữa, đôi mắt sáng ngời của nó nhìn em như một viên ngọc quý, nhìn lâu đến mức cả hai đột nhiên bật cười cùng một lúc trước câu nói ấy của tôi.
Có một điều mà đa số tất cả mọi người vẫn chưa biết đó là thân cây ngô thực ra không đắng chát mà lại rất ngọt, bọn trẻ con Lâm Đồng thời đó nếu không có mía ăn để giải khát thì chúng sẽ lặn lội nắng mưa đi tìm đến mấy ruộng ngô gần đến mùa thu hoạch hoặc những đồng ngô xác xơ chẳng còn quả nào mà chỉ còn lại thân, lúc ấy thân cây ngô xốp mà ngọt nước lắm. Tôi để ý thấy có cái cây ngô chín ở rìa phía tây, vừa mới vặn được trái đầu tiên thì thân cây đã bắt đầu xìu xuống, thế là cũng chẳng ngần ngại gì mà đưa miệng vào cắn một phát thật lực, từ từ cảm nhận cái thứ nước ngọt ít ỏi chảy ra từ thân cây đang nhảy múa trong cổ họng tôi. Cả Dung cũng làm trò tương tự, thay vì hỏi Hằng có muốn thử không thì nó lại lựa đúng cái cây chín quả vàng đẹp mắt nhất, lấy răng tước bớt vỏ rồi dùng cây dao gọt trái cây nhỏ gần đó cố thái ra từng miếng nhỏ gọn sau đó đem đến trước mặt Hằng. Nó chu đáo đến mức chờ Hằng nhai sạch bã mới chìa tay ra bảo em nhổ vào đó, thế là suốt cả buổi nó chỉ toàn nhặt bã thân ngô từ miệng của em, tôi nhăn mặt đáp:
"Hằng có muốn ăn nữa đâu, sao mày tốn công thế?"
"Tao có tốn công thì cũng chẳng để cho mày ăn đâu." Nó lè lưỡi ra trêu ngươi tôi.
Lúc bấy giờ trông Hằng và Dung thật sự rất giống với thỏ Mặt Trăng và cáo Mặt Trời trong tâm trí tôi.
Cuối mùa đông, thời tiết ở Đức Trọng cũng ấm áp hơn một chút nên chúng tôi không cần phải mặc đồ dày cui như tháng trước, cũng chẳng sợ sẽ bị ốm nữa. Chỉ có điều khi bọn tôi đã bắt đầu mỏi nhừ cơ hàm với đống thân ngô tiều tụy xác xơ thì ngay lúc ấy Hằng đang gọt ổi thành từng miếng vừa ăn, tôi cũng nhanh nhảu đớp mấy miếng nhưng Dung thì không ăn ngay, nó nhìn miệng em ăn một hồi sau đó bâng quơ nhìn hướng khác mà cười. Thấy thế, Hằng tỉnh rụi quay sang hỏi tôi với hai bên má còn đang phồng ổi:
"Mặt em dính gì hả Lan?"
"Đâu có? Nó ghẹo em đó." Vừa nói tôi vừa thụi cùi chỏ vô bụng Dung. "Mày giở trò gì thế?"
Lần này đến lượt em hỏi nó:
"Chị muốn ăn hả?"
"Không."
"Không muốn ăn thật?" Hằng nhướng mày. "Em gọt thêm được mà."
"Chị không muốn ăn, chị nói thật đó."
"Không muốn ăn vậy sao cứ nhìn miệng em vậy?
Nhìn em chứ có nhìn ổi đâu mà nói chị thèm ăn ổi hoài.
Không biết có phải tai tôi bị ù hay không nhưng từng chữ một Dung cố gắng thì thầm nhỏ tiếng vì sợ em nghe thấy sẽ xấu hổ rốt cuộc lại lọt hết vào tai tôi, không lẽ lúc đó tôi lại nhả hạt ổi vào mặt cả hai đứa rồi bỏ về ngay à? Thế thì vô duyên quá rồi, mà để tôi ở lại nghe chúng nó chim chuột thì cũng khổ cho tôi quá, cuối cùng chẳng biết phải xử sự như nào, tôi đành ngả lưng ra mặt đất đánh một giấc ngon lành.
Thật ra tôi không ngủ, trời mát có gió thiu thiu thổi thế thì cũng lý tưởng để chợp mắt đấy nhưng tôi chỉ muốn hưởng thụ cái cảm giác bình yên này đang lặng lẽ trôi qua. Lúc đầu còn nghe thấy tiếng Hằng và Dung cười cười nói nói gì đó nữa nhưng giây sau lại im bặt, lúc tôi hơi hé mắt ra để nhìn trộm một chút là đã thấy đầu hai đứa gần như kề sát nhau rồi.
Vậy là tôi vờ im lặng, các giác quan của tôi khi ấy như trì trệ mọi hoạt động để câu chuyện cứ thế tiếp diễn. Và tôi cũng biết rằng khi bàn tay năm ngón của Dung và Hằng đan vào nhau thì đó cũng là lúc mà tôi hạnh phúc nhất.
Kỳ nghỉ của chúng tôi không kéo dài quá lâu, vào buổi tối chủ nhật lễ tết cuối cùng thì tôi bỗng gặp lại Hằng trước cửa nhà tôi. Lúc đó tôi hoàn toàn không biết chuyện gì đang xảy ra mà chỉ nằm ườn trên giường đọc truyện tiểu thuyết ngôn tình cũ xì, bỗng có tiếng mẹ gọi từ tầng dưới:
"Lan ơi, có bạn con đến chơi này."
"Ai vậy mẹ?" Tôi hoàn toàn không chơi thân với ai ngoài Dung và Hằng, hai đứa nó cũng chả bao giờ tìm đến tôi vào lúc tối muộn như thế.
"Bạn nói bạn tên Hằng, con xuống gặp bạn đi."
Dự cảm chuyện chẳng lành, tôi vứt vội quyển sách còn chưa kịp đánh dấu trang đang đọc dở mà hộc tốc chạy ra ngoài cổng. Lúc ấy mấy con phố ở Đức Trọng tối thui, vậy nên khi ra ngoài gặp Hằng, tôi chỉ có thể thấy bóng con bé bị che khuất với hai bàn tay run rẩy ôm chặt lấy nhau, tôi thở hổn hển nói:
"Sao vậy em? Sao tới đây giờ này?"
Tôi tiến lên một bước thì Hằng càng lùi lại một bước, các bóng im lặng hồi lâu, chốc sau nức nở nói với tôi:
"Ba em về rồi, các bác em nữa."
Ngay khi câu nói ấy vừa thốt ra, tôi có cảm giác cả cơ thể mình như đang rơi tự do từ cổng thiên đường cho đến tận cùng của địa ngục. Trông Hằng vừa mệt mỏi lại vừa tiều tụy, tôi sững sờ hồi lâu mới quyết định gồng mình dùng sức nắm cổ tay em kéo về phía có ánh đèn. Đúng như tôi nghĩ, khóe môi em rướm máu, má trái sưng đỏ, những vết bầm trên tay trầy da tróc vảy khiến tôi chết lặng.
Vậy là con thỏ Mặt Trăng đã trở lại quỹ đạo đen tối của cuộc đời em.
Không biết tại sao mà cả bố lẫn người bác tệ hại kia của Hằng lại nghe được tung tích hai mẹ con ở Đức Trọng, thế là họ bắt xe đò đi ngay trong ngày để kịp đến đây khi trời đã tối muộn. Muốn biết nhà của Hằng cũng không khó vì dân ở đây thật thà lắm, chỉ cần hỏi là họ chỉ cho ngay, làm sao mà họ biết được rằng lòng tốt đó sắp sửa giết chết linh hồn của một đứa trẻ chưa kịp lớn đâu chứ? Ông bố đi biền biệt từ năm bảy tuổi giờ đây lại đeo một cái mặt nạ hiền từ mẫu mực đóng vai một người đã hoàn thành trách nhiệm với con cái sau mười năm đi xa khiến em buồn nôn. Ông đòi đón em đi, đón em về sống cùng với gia đình của người vợ mới cùng hai cậu con trai riêng, người bác thì chẳng khá khẩm hơn là bao, hắn tìm đến mẹ là do ham mê bài bạc dẫn đến đổ đốn. Họ vô lý lắm, họ cho rằng đứa con gái đang độ mười bảy như thế này lẽ ra đã có thể đem gả cho nhà khác để có tiền nuôi sống những cái miệng ăn vô ơn ấy, họ đang sống với cái tư tưởng cổ hũ lạc hậu trong thế kỷ hai mươi mốt này.
Lúc ấy, mẹ vẫn còn đang đi buôn xa chưa về.
Vì không thể chống trả, em chỉ có thể chịu đựng bằng cách để những vết thương hằn trên da thịt và rồi bỏ trốn khi không ai thèm để ý đến. Không có mẹ ở đây, cũng chẳng thể bộc bạch chia sẻ cho Dung biết, cuối cùng em chỉ có thể tìm đến tôi.
Hằng vì bỏ đi quá vội vã nên chỉ kịp đem theo cặp vở với mấy bộ quần áo trong balo, lúc tìm đến tôi, em đúng nghĩa chỉ là một con thú hoang bị bạo hành tàn nhẫn, bị bỏ rơi đến mức chỉ có thể trông cậy vào tôi. Mà nếu không gặp tôi, chắc hẳn Hằng sẽ tìm đến mấy cái ghế đá ê ẩm người ở ngoài công viên để ngủ vào hôm, tôi khẽ chạm đầu ngón tay vào môi Hằng:
"Ngày mai em có tính đi học không?"
"Dạ có chứ. Nghỉ một buổi cũng không ổn."
"Còn sức để mà đi không? Hay để chị nói Dung?"
Nếu như mọi lần tôi đòi nói Dung một chuyện gì đó thì có lẽ Hằng sẽ năn nỉ tôi giữ bí mật, nhưng lần này em buông xuôi rồi. Đôi mắt xinh đẹp nhưng giờ đây lại quá đỗi vô hồn của em nhìn tôi chằm chằm, tận cho tới khi tôi cầm điện thoại bàn nhấn số gọi tới nhà Dung, em cũng không buồn phản kháng nữa.
Có lẽ Hằng vẫn luôn chờ ngày này đến, chỉ tiếc là nó đến sớm quá mà tâm lý em lại không đủ vững để chịu đựng nổi.
Chỉ mười lăm phút sau cuộc gọi của tôi, Dung đã ngay lập tức có mặt trước cổng nhà với vẻ mặt hoảng loạn hơn bao giờ hết.
Thật khó để có thể giữ bình tĩnh khi thấy người mình yêu đang mắc kẹt trong cái lưới sắt bởi những người thân ruột rà của em, những người mà Dung từng nghĩ rằng họ sẽ không thể nào tàn nhẫn như thế. Hằng lúc này đây trông còn yếu ớt hơn cả khi em chạy đến trước nhà tôi, cơ thể em gầy rộc, làn da trắng xanh nổi bật với vết bầm tím và đôi mắt ráo hoảnh kia tránh né ánh nhìn của Dung khiến nó đau khổ đến mức muốn tự đâm một nhát dao vào tim mình. Tôi cũng tưởng Hằng sẽ bình thản lắm, nhưng khi tay Dung run rẩy xoa đầu em rồi nói:
"Em về nhà chị nhé?" Những ngón tay trượt dài cùng với hai hàng nước mắt. "Em có chị mà, em đừng lo nữa nhé?"
Đó là lần đầu tiên tôi thấy Hằng khóc lớn đến như vậy.
Cô bé khóc to tới mức bố mẹ tôi cũng phải lật đật chạy ra để xem xét tình hình, vì thế sau khi giải thích đại khái tình hình cho cả hai với Dung hiểu sơ sơ thì họ cũng cho phép tôi theo về nhà Dung để trông nom bạn bè.
Dung đèo em về trên chính chiếc xe đạp mà nó thường lẽo đẽo theo em mỗi khi đi làm thêm ở tiệm xiên, Dung kể với tôi rằng chưa bao giờ nó cảm thấy cái ôm của Hằng có thể làm nó đau đến độ tim như bị ai đó bóp nghẹt. Hằng ôm nó rất chặt, và lưng áo nó cũng ướt đẫm nước mắt bởi người nó yêu, rát bỏng và tê dại như có ai đó tạt một bình dung dịch axit đặc vào người.
Về tới nhà Dung, việc đầu tiên chúng tôi làm là đẩy Hằng vào tắm táp sạch sẽ trước, sau đó Dung sẽ giúp em bôi thuốc ở ngoài rồi cùng tôi dọn dẹp trải chiếu cho cả bọn ngủ cùng. Bố mẹ Dung hôm ấy cùng đã về quê để phụ đám tang ông nên nhà chỉ còn mình nó trông, có tôi với Hằng đến cũng đỡ trống trải hơn. Em vẫn chẳng nói gì dù chỉ một lời kể từ khi Dung lăn xăn chạy hết chỗ này đến chỗ kia để chăm sóc, em chỉ nhìn tôi, cái ánh nhìn biết ơn mà cũng thật là cảm thấy khi có lỗi khi đã làm phiền hai đứa tôi nhiều đến thế. Dung là đứa cuối cùng tắm xong, điều đầu tiên mà nó làm là hỏi tôi:
"Hằng đâu?"
"Ủa?" Lúc này tôi mới ngớ người nhìn quanh. "Nãy giờ tao không thấy rồi."
Hai đứa tôi bốn mắt nhìn nhau, sau đó ùa đi khắp nhà kiếm nhưng em cứ thế biến mất như một bóng ma khiến tôi giật mình sợ hãi, rồi chừng hai mươi phút sau là chúng tôi nghe thấy tiếng gạch lộp cộp trên mái nhà tầng trên. Linh cảm điều chẳng lành, Dung rón rén bắc thang lên mới thấy con bé đang ngồi bó gối một góc ngay rìa tầng thượng, khỏi phải nói lúc đó hồn vía Dung như bị quỷ bắt mất, nó hốt hoảng nắm lấy tay Hằng. Đoán trước được suy nghĩ điên rồ kia, em phải lên tiếng trấn an:
"Em không có ý định nhảy đâu, chị đừng lo."
"Không lo cái nỗi gì được?" Đến cả tôi cũng bị dọa sợ suýt bĩnh ra quần. "Mới xảy ra một đống chuyện như thế kia mà em còn lên đây ngồi, người bình thường còn hiểu nhầm chứ nói chi tụi này."
"Em lên đây ngắm trăng thôi, em không tự tử đâu."
"Em xuống trước đã." Dung nghiến răng. "Xuống đây với chị rồi muốn nói gì thì nói."
Không đợi Hằng phải nói lần thứ hai, nó đã hấp tấp bế xốc con bé lên rồi nhẹ nhàng đặt xuống, lúc này tôi coi như đã hết lo vài phần. Dung không nén được lửa giận, bực mình nói:
"Em muốn ngắm trăng thì ra trước hiên mà ngắm."
"Chị giận em hả?"
"Làm sao mà chị có thể không giận em?" Giọng Dung càng ngày càng lớn.
Dường như Hằng cũng biết lỗi nhưng sâu trong đáy mắt tuyệt vọng của con bé chợt tôi lấp ló thấy ý cười, em mè nheo Dung, hai tay lắc lắc cổ tay nó:
"Hồi bé em cũng hay trèo cây, lúc nãy nhớ mẹ nhớ quê quá mới tính trèo lên thử tìm lại cảm giác cũ." Rồi sợ Dung không tin, em nói thêm. "Em không có định nhảy xuống, vừa ảnh hưởng chị mà vừa ảnh hưởng ba mẹ chị."
"Chị không sợ mình bị ảnh hưởng." Dung gần như rít lên. "Sao em không nghĩ đến em? Chị sợ em không còn ở đây với chị nữa."
Rồi chỉ bằng một câu nói nhẹ nhàng, em chợt khiến tôi rùng mình ớn lạnh.
"Em chưa đủ khổ để rời đi hay sao?"
#6.
Thời gian thấm thoắt trôi, cuối cùng cũng đã đến lúc lứa mười hai như tôi và Dung lựa chọn ngành học chính khi lên đại học.
Đã hai tháng kể từ buổi tối định mệnh hôm ấy khi Hằng bị cả hai bóng đen dai dẳng ám ảnh mình suốt thời thơ ấu ghé đến, mẹ của em rất nhanh đã biết được tin vậy nên cũng vội vã theo chân bác tài xế lái xe chở hàng đi suốt mấy giờ đồng hồ liền từ miền trong để về tới Đức Trọng. Lúc ấy trời mưa to, mẹ Hằng nổi cơn tam bành hô hoán khắp nơi, gọi cả công an phường lẫn tổ trưởng tổ dân phố đến để làm to chuyện. Cuối cùng vì sợ xấu mặt và áp lực dư luận quá lớn nên hai gã khốn đó đều phải rời đi ngay khi trời tờ mờ sáng, mẹ biết chuyện Hằng đang ở nhà Dung cùng bọn tôi thì cũng tạm yên tâm. Chỉ có điều Hằng không ngủ được, trăn trở xoay qua xoay lại toàn gặp ác mộng, Dung vì sốt ruột khi thấy trán em cứ lấm tấm mồ hôi liền đẩy cái quạt đến sát hơn một chút, sau đó nó lặng lẽ mang cây guitar ra trước sân nhà chơi vài bài nhạc ru.
Hình như tôi quên kể với bạn đọc rằng Dung biết chơi guitar, thậm chí chơi giỏi là đằng khác. Nó từng được phường kêu gọi biểu diễn vào đêm trung thu trăng rằm cho các bé ở trại trẻ mồ côi, cũng từng đạt giải văn nghệ nhất toàn trường suốt hai năm liền. Dung hát hay lắm, giọng nó vốn dĩ đã ngọt ngào và trong vắt nay lại thêm tiếng đệm đàn chẳng khác nào đôi cánh đang giúp nó bay cao thật cao. Lúc nó mang đàn ra gảy cũng đã bốn giờ sáng, không dám chơi đàn ồn ào trong nhà mà chỉ gảy dây đệm thật nhẹ những bài hát ru mà nó được mẹ hát cho nghe những ngày còn bé. Đàn như vậy khoảng mười phút hơn thì tôi không còn cảm thấy những cú cục cựa mình của người bên cạnh nữa, nhưng khi Hằng xoay qua đối diện với tôi, tuy mắt nhắm nghiền nhưng tôi vẫn thấy gò má đẫm nước của con bé đang lấp lánh dưới ánh nến cháy bập bùng. Gối em cũng vương vấn chút nước mắt, chợt tiếng sụt sịt im bặt và rồi chỉ còn thanh âm dế kêu trong các bụi cỏ làm tôi chột dạ. Dẫu sao trời cũng gần sáng, biết mình không ngủ được nữa, tôi xỏ dép vào và ra ngoài hiên ngồi với Dung:
"Ngày mai chắc là Hằng về nhà với mẹ được rồi." Tôi thở một hơi dài. "Lúc nãy mẹ tao gọi điện qua bên này thì báo là mẹ con nhỏ đuổi hai thằng cha đó đi rồi, không còn chuyện gì nữa đâu."
Dung không trả lời tôi, những ngón tay vẫn gảy thật nhẹ trên phím đàn làm bộ làm tịch thản nhiên nhưng tôi biết là đầu óc nó suy nghĩ mông lung nhiều lắm. Hẳn là nó vẫn bị chuyện hôm qua dọa cho mất ăn mất ngủ, có cảm giác như thể chỉ cần nó sơ sẩy một chút là lạc mất em ngay, cái thang bắc lên tầng thượng cũng đã bị nó dẹp mất rồi. Thấy Dung cứ thừ mặt ra như thế mà không nói gì, tôi mím môi gõ lên đầu nó thật mạnh:
"Bị câm rồi à?"
"Tao đang suy nghĩ một chút." Dung cau mày.
"Nghĩ cái gì?"
"Nghĩ về câu chuyện của mày, về thần cáo. Cái người mà thần cáo yêu sẽ là kiểu người như thế nào?"
Tôi đáp rất nhanh:
"Mày yêu người như nào thì thần cáo cũng sẽ yêu kiểu người như thế."
Dung mơ hồ nhận ra vị thần cáo trong câu chuyện viễn tưởng của tôi chính là nó trong một hình hài khác, nó nhớ lại lúc trước tôi từng kể nó nghe về việc thần cáo sẽ chết vì tình yêu nên đâm ra có chút băn khoăn, thế là tôi nói:
"Tao bỏ cái kết cũ rồi. Kết mới có lẽ là thần cáo cứu được người đó khỏi gông cùm của nhân loại xấu xa và cả hai sẽ cùng nhau sống trong khu rừng nguyên sinh ấy tới khi già đi, mày nghĩ thế nào?"
"Khó quá, khó cho tao quá." Nó trầm ngâm nói. "Giá như những gì mày viết có thể thành sự thật thì hay biết mấy."
Như sợ tôi vẫn đần độn chưa hiểu, nó nói thêm:
"Tao muốn cùng Hằng già đi, mày hiểu không?"
"Hiểu." Tôi gật đầu. "Vì thế mà mày mới thấy khó à?"
Nó thấy khó là đúng, nó biết rằng tương lai của hai đứa xa xôi hàng vạn dặm nhưng không phải là không thể cùng nhau đi tới đích đến cuối cùng. Chỉ trong một buổi tối ngắn ngủi mà Dung biết rằng mình thật sự đã lớn rồi, nó không còn mang suy nghĩ của vị thành niên như vẻ bề ngoài nữa, nó chín chắn hơn nhiều rồi. Nó đã đủ lớn để hiểu rằng sẽ không có cái thứ gọi là tình yêu màu hồng như trên phim ảnh thường kể, sẽ không có cái kết nào đủ viên mãn cho cả em và nó, nhưng thế thì đã sao? Nó chưa đủ điên à? Nó yêu em muốn chết, làm gì có chuyện nó sẽ buông tay rời bỏ Hằng vào một ngày nào đó chứ? Dung yêu Hằng nhiều đến mức một kẻ phàm tu tục tử như tôi còn được giác ngộ ké, vậy thì việc gì nó lại cảm thấy nhụt chí?
Với Dung, Hằng thật sự chính là trung tâm của cả vũ trụ rộng lớn này.
Và rồi cuộc sống lại trở về đúng với quỹ đạo chính, Dung và Hằng đã có những ngày tháng êm đềm đúng với cái thời tiết hơi se se lạnh ở Lâm Đồng. Ba đứa tôi cứ thế cùng nhau hưởng hết mọi thú vui cuối cùng của đời nữ sinh áo dài trắng thướt tha, đi xem chiếu bóng, đi ăn kem, đi thả diều hay thậm chí là đi đốt lửa trại,... mọi thứ đều đã được bọn tôi trải nghiệm qua. Rồi cái tháng cận kề ôn thi đại học cuối cùng cũng đến, tôi thi khối C còn Dung thi khối B nên lịch học hai đứa cũng tréo ngoe, đứa học sáng đứa học tối nên cũng ít có dịp gặp nhau, Hằng thì thoải mái giờ giấc hơn. Sau khi giành huy chương vàng môn Văn toàn tỉnh, cô bé cũng lui tới lò luyện thi của bọn tôi thường xuyên hơn, khi thì mua cho tôi và Dung cái bánh hộp sữa, khi thì nán lại chờ hơn hai tiếng đồng hồ chỉ để chờ Dung cùng đi học về. Chỉ vậy thôi mà nó vui lắm, mấy lần vì xót người yêu sợ em sẽ mỏi chân nên nó đánh bạo kéo Hằng vào trong lớp ngồi luôn (đúng là đồ quỷ sứ vì nó chưa bao giờ cho tôi hưởng cái đặc ân đó).
Có những hôm học hành căng thẳng quá không có cả thời gian ngủ, kết quả là Dung vừa mới gà gật mắt nhắm mắt mở trong lớp đã bị giáo viên bắt đứng phạt ngoài hành lang cầm vở học thuộc mấy công thức hóa cho đến hết giờ. Vừa hay lúc đó Hằng đi học thể dục ngang qua không nhịn được cười bèn trêu nó:
"Hôm nay lại làm gì mà để bị phạt thế này?"
"Lại?" Nó chun mũi nói. "Chị cũng không phải loại phá trường phá lớp, lần đầu bị phạt đó."
Hằng không buồn đôi co nữa, đồng phục thể dục với áo thun trắng và quần tối màu càng khiến em trông có vẻ gầy hơn, miệng em đang ngậm một viên kẹo mút chợt khiến Dung phân tâm. Rồi em bật cười, lôi ra một viên kẹo khác từ trong túi:
"Thèm hả? Ăn không, em lại mua thêm cho chị."
Dung nhìn kỹ cái vỏ kẹo trên tay em, là vị táo.
"Không ăn."
"Dưa lưới nhé?" Em lại lôi một cây khác. "Hay đào?"
Nó vẫn lắc đầu, Hằng lại hỏi:
"Hay chị ăn vị cam?"
"Chị không muốn ăn." Nó bất mãn. "Ai đời bị phạt đứng hết tiết rồi mà còn ăn kẹo nữa? Chả thành tâm tí nào."
"Không ăn vậy nhìn kẹo em ăn hoài để làm gì?"
Lần này nó nói thẳng, không vòng vo tam quất nữa:
"Nhìn em chứ không nhìn kẹo, chị nhìn bạn gái cũng không được hả?"
Hằng đỏ mặt ngay lập tức, sợ ai nghe thấy, con bé lóng ngóng đưa tay lên miệng suỵt khẽ một tiếng như thể Dung vừa làm chuyện gì đó tày trời lắm. Nó bật cười:
"Tưởng em mạnh miệng thế nào, giờ lại không dám trêu nữa hả?"
"Chị im đi!" Con bé xấu hổ nói. "Em không chơi với chị nữa."
Nói thế thôi nhưng khi lớp thể dục của Hằng vừa mới xong tiết, ngay khi em vừa định rời đi thì Dung đã nhanh nhảu nắm lấy cổ tay giữ lại. Nó không nói gì cả mà chỉ cười cười, thấy gương mặt gợi đòn đó, Hằng cố nhịn:
"Chị tính nói gì thì nói lẹ đi, giờ em phải về lớp rồi."
"Hôn chị một cái đi."
"???"
Như không tin vào tai mình, giọng Hằng cao vút:
"Chị đùa hả?"
"Không đùa."
Biết chắc rằng không thể thoát khỏi sự nghiêm túc (và đôi phần đùa cợt) đó của Dung, cuối cùng Hằng đành phải để môi mình chạm thật nhẹ má nó như chuồn chuồn lướt trên mặt nước. Nhẹ đến nỗi nó gần như không cảm nhận được sự mềm ẩm của đôi môi kia, nhưng lần này nó lại tham lam ôm lấy chút hơi thở ấm áp cuối cùng còn sót lại trong không khí mà quên mất nỗi khổ sở khi phải chịu phạt.
Trông vậy thôi mà thời gian như chó chạy ngoài đồng, chớp mắt một cái là tôi và Dung đã đứng trước cổng trường điểm thi với tờ giấy nháp nguệch ngoạc của môn cuối cùng, nó nhìn tôi rồi tôi nhìn nó, thế là đời học trò áo trắng của chúng tôi kết thúc thật rồi.
Không ngoài dự đoán khi cả hai đứa tôi đều thành công đậu vào nguyện vọng mình mong muốn, tôi học báo chí thì nó lại muốn theo chuyên khoa răng hàm mặt. Ngày nó vui vẻ chạy sang báo tin mừng cho Hằng thì dường như đó cũng chính là ngày mà Hằng hạnh phúc nhất, tôi chưa bao giờ thấy nụ cười trên môi em lại rạng rỡ đến như vậy.
Vào sinh nhật đầu tiên của Hằng kể từ khi hai người họ yêu nhau, có một người giận.
Buồn cười thay, người giận ở đây lại là Dung chứ không phải Hằng.
Hằng vốn không có thói quen ăn sinh nhật nên nghiễm nhiên con bé xem ngày này như bao ngày bình thường khác, sở dĩ tôi may mắn biết được sinh nhật của Hằng là do có lần tôi xem trộm căn cước công dân của em khi em đang điền nguyện vọng thi thử cho giáo viên, chính xác là ngày mười tám tháng tám. Vậy nên trước khi ngày này đến thì tôi cũng tranh thủ mua cho em một cái áo len của brand mà tôi khá thích, định bụng sẽ cùng Dung đến chúc mừng sinh nhật rồi gửi quà luôn. Nhưng tôi lại không biết là Dung đã rõ hôm ấy là sinh nhật em hay chưa nên cứ đánh bạo cầm theo túi giấy đựng quà rồi cùng nó đến trường cấp ba đón em vào giờ tan học, nó cũng chả hỏi tôi túi giấy đó là gì. Chỉ khi Hằng vui vẻ xuất hiện thì nó mới tươi tỉnh rõ rệt, nhưng trước khi để nó kịp nói thì tôi đã giành phần nói trước:
"Chúc mừng sinh nhật em nha."
Thoạt đầu cả Hằng và Dung đều nghệch mặt ra không hiểu gì, ngay cả Hằng cũng chẳng nhớ hôm nay là ngày mười tám tháng tám, cô bé bối rối hồi lâu rồi gật đầu cảm ơn:
"Nhưng sao chị biết hôm nay là ngày sinh của em?"
"Chị vô tình xem trộm, mấy hôm trước đi mua quần áo mới nhớ ra sắp tới sinh nhật em nên mua luôn."
Hằng cứ gật đầu vâng dạ mà không dám nhìn Dung, bởi lẽ em biết người như Dung rất xem trọng mấy ngày như thế này, mà lại chẳng muốn nó tốn kém gì nên cũng giấu nhẹm không nói ai. Chắc em không nghĩ đến chuyện tôi nhớ ra để mà tặng quà trước mặt Dung như thế, nhưng rồi nó chỉ tròn xoe mắt hỏi:
"Sinh nhật em?" Giọng nó bắt đầu buồn buồn tủi tủi.
"Dạ, nhưng mà em không có thói quen đón sinh nhật, chị đừng để ý."
Kết quả là cả đoạn đường về nhà hôm đó tĩnh lặng đến mức tôi cảm thấy gai người, nhìn sang Hằng cũng thấy cô bé có vẻ suy nghĩ nhiều lắm, rồi ai về nhà nấy, mọi chuyện chỉ thế thôi.
Tôi suýt nữa đã mắng Dung là cái đồ người yêu tệ bạc nhưng khi biết những gì nó đã làm thì tôi phải ngậm miệng im bặt ngay. Từ lúc về nhà là nó đã vội vã đặt bánh kem ở cửa tiệm ngon nhất Đà Lạt, đợi đến khi bánh giao đến thì trời cũng nhá nhem tối, thế là nó lại lần nữa mang cái bánh lẫn món quà sinh nhật đến nhà em. Nghe tiếng gọi mệt mỏi của Dung, Hằng ló mặt ra khỏi cửa sổ ngay lập tức và rồi ba chân bốn cẳng chạy xuống nhà dưới, em ngơ ngác nhìn nó:
"Em cứ tưởng chị giận em."
"Mắc gì giận em?" Nó vừa nói vừa đốt nến. "Chỉ sợ em giận chị mới đúng, mau ước rồi thổi nến đi."
"Em đã nói là không để ý rồi mà."
Dung xoa đầu em:
"Được rồi lát nói sau, giờ em nhắm mắt lại đi."
Hằng đã ước gì, đến cả Dung cũng không biết. Chỉ biết rằng em chắp tay rất lâu sau đó mới chịu thổi nến.
"Chị lại còn mang theo cái gì nữa đấy?"
"Quà cho em." Dung mắc cỡ gãi đầu nói. "Nhớ có lần em bảo em giống hoa phù dung, vậy nên chị phải trồng rất lâu để cho ra hoa. Định sẽ ít hôm nữa nở thật đẹp mới tặng em, không nghĩ hôm nay đã là sinh nhật em rồi."
Ngay cả Hằng còn không nghĩ nó sẽ để ý đến lời em nói đến vậy, nhìn nụ phù dung trắng e ấp giữa chậu, em lại không kiềm lòng được mà sờ nhẹ lên những cánh hoa. Phù dung tuy đẹp nhưng lại dễ tàn, chỉ sợ em vừa sờ lên là chúng không sống được lâu nữa nên trông có vẻ nâng niu lắm.
Buổi tối mùa hè với gió thổi mát rượi, Hằng thật sự cảm nhận được tình yêu của người đang đuổi theo mình lớn lao đến mức không gì có thể đong đếm nổi.
Với Dung, Hằng thật sự chính là trung tâm của cả vũ trụ rộng lớn này.
Những tháng năm sau đó, Hằng thật sự sống rất tự do, rất vui vẻ và yêu đời. Từ góc nhìn của tôi, Hằng đã sống như thể đây là lần cuối cùng em được sống và lần cuối cùng em được yêu, em trân trọng từng tháng ngày ở bên Dung, em tâm sự với tôi rằng em sợ một ngày nào đó khi mở mắt thức dậy sẽ không còn thấy Dung bên cạnh mình nữa. Nỗi sợ đó còn lớn hơn cả nỗi sợ tuổi thơ ngày bé, và rồi em không dám trì trệ nữa, em muốn cùng Dung đi đến chân trời góc bể của thế giới rộng lớn này.
Nhưng đó là khi em chưa nghĩ đến việc người rời đi là em, chứ không phải nó.
Một buổi tối học hành căng thẳng, tôi vừa làm xong bài luận thì cũng đã chín giờ tối.
Hằng lại đến nhà tìm tôi.
Lần thứ hai trong đời và cũng là lần cuối cùng, em đến tìm tôi nhưng không còn sợ sệt hay hoảng loạn, em bình thản đến mức tôi ngỡ đâu đấy chỉ là một buổi đi dạo bình thường. Nhưng rồi khóe mắt em rưng rưng khi em siết chặt tay tôi:
"Nếu em làm Dung buồn thì Lan có ghét em không?"
"Nói gì kỳ vậy Hằng?" Tôi trợn mắt. "Nó có bao giờ buồn phiền gì về em đâu?"
Hằng nắm tay tôi thật chặt, thật lâu mà chẳng nói lời nào. Em khiến tôi cảm thấy bối rối, mãi cho đến khi tôi định mời em vào nhà trong ngồi nói chuyện, em hỏi tôi rằng có muốn nghe tiếp câu chuyện về thỏ Mặt Trăng của em không.
Tôi gật đầu, hồi hộp nhìn sâu vào đáy mắt em.
Từ lúc gặp cáo Mặt Trời, thỏ Mặt Trăng được yêu thương nhiều đến mức em ngỡ rằng Chúa thật sự ban cho em một món quà vô giá. Thỏ và cáo cứ bên nhau qua bốn mùa xuân hạ thu đông, tưởng chừng như không gì có thể chia cắt được mối nhân duyên đẹp đẽ ấy nữa thì bỗng một hôm thỏ vì phát hiện ra bản thân mắc bệnh hiểm nghèo, nghiêm trọng đến mức thỏ biết rằng nếu tiếp tục ở bên cáo thì thật sự không ổn chút nào vì có lẽ cáo sẽ buồn lắm, thỏ muốn cáo quên đi em, quên đi một người mà nó đã từng xem là cả thế giới này.
Trong lúc hoảng loạn rơi xuống đáy vực mà chẳng biết phải làm gì khác, thỏ đánh liều tìm đến một người bạn nai và nhờ chú nai giữ bí mật giúp. Sau đó nhắn nhủ rằng quãng đường dài rộng sắp tới phải chăm sóc cáo thật tốt, cáo Mặt Trời vừa ương bướng lại lì lợm nhưng mềm mỏng một tí thì sẽ chịu nghe lời thôi, thỏ nói với nai rằng sắp tới có thể em sẽ làm những gì tàn nhẫn nhất để cáo có thể quên đi em, và mong rằng nai sẽ tha thứ cho mọi lỗi lầm này.
Thỏ còn nhớ trước khi phát hiện ra bệnh tình của mình một hôm, thỏ cũng đã cầu nguyện như thế này:
Xin Chúa che chở và bảo bọc người ấy trong sự bình an của Ngài.
#7.
Một cái kết khác cho vị thần cáo trong câu chuyện của tôi rằng khi người nó yêu rời đi, nó sẽ được tự do và sống hạnh phúc thay cả phần người đó, hạnh phúc hơn bao giờ hết.
Hằng không đùa dù cho tôi có hỏi đi hỏi lại không biết bao nhiêu lần, con bé chỉ kéo tay tôi ngồi xuống thảm cỏ xanh rì khi trời nhá nhem tối, mỉm cười nói rằng phổi của bản thân đã ở giai đoạn ba rồi. Tôi chỉ nhớ hôm ấy sét giáng đùng đùng lóe sáng cả bầu trời, từng cụm mây đêm nhấp nháy cũng chẳng thể nào khiến hai đứa cảm thấy sợ hãi, Hằng ngồi cạnh tôi, hai tay bó gối và lặng lẽ nhặt những hòn sỏi tròn ném đi lăn tăn trên mặt nước nổi. Viên sỏi của em đi được chừng hai ba bước thì lại chìm nghỉm xuống, bỗng em nói với tôi:
"Hoa phù dung mà Dung tặng em héo mất rồi."
"Ừ, dễ tàn mà."
Hằng phát hiện ra mình bị ung thư phổi khoảng hai ba ngày trước khi đến trung tâm y tế để kiểm tra sức khỏe, thời gian đầu con bé đã thấy không ổn, ho nhiều và khó thở nhưng chỉ đơn giản nghĩ đấy là do thời tiết thay đổi dẫn đến viêm xoang. Nhưng rồi mọi thứ ngày càng tệ hơn khi một số triệu chứng như đau ngực bắt đầu xuất hiện, đỉnh điểm là Hằng còn vô tình ho ra máu khi đang ôn thi tốt nghiệp ở trường khiến cô bé rùng mình, lúc đi khám là đã phát hiện bản thân mắc bệnh nặng lắm rồi. Hằng cầm lấy tờ giấy chẩn đoán bệnh chẳng khác nào một lời tuyên án tử hình mà thế gian dành cho mình thì chợt thấy trống rỗng, không sợ cũng không buồn, là vì em đã chuẩn bị sẵn sàng cho ngày hôm nay?
Mấy khi, tôi lại nghĩ thế giới này thật sự quá đỗi ảo diệu. Thượng Đế không cho em cuộc sống màu hồng như chúng tôi hằng mong ước nhưng lại lấy đi tất cả mọi thứ của em như thể em vốn chưa từng thuộc về nơi này, tôi hoàn toàn không muốn tin. Sao lại vô lý tới vậy? Làm sao mà những điều hư cấu nhất trong phim ảnh cũng chẳng bằng đời thực và làm sao mà tôi có thể đối mặt với em khi mà cơ thể tôi vẫn đang khỏe mạnh phơi phới như thế này?
"Nếu bây giờ mới chữa thì," Tôi run rẩy hỏi. "Phần trăm cơ hội để em được tiếp tục sống có cao không?"
"Chắc là 30%? Lúc ấy bác sĩ nói gì thì cũng chẳng lọt lỗ tai em nữa rồi, em đào đâu ra số tiền lớn như thế để chữa? Mà có chữa bây giờ thì xác suất thành công cũng không quá 50%."
"Em nỡ để Dung ở lại một mình sao?"
Trong lúc Hằng nói, tôi đã tưởng tượng nhiều đến mức đầu mình đau như búa bổ và thử đặt mình vào vị trí của Dung. Nếu tôi là Dung thì sao? Nếu tôi biết chuyện tày trời mà Hằng cố tình giấu mình thì liệu tôi có đủ bình tĩnh và dễ dàng tha thứ không?
Hằng làm gì biết được mỗi cuối tuần khi đi lễ ở nhà thờ, Dung đều cầu nguyện cho em hết sức thành tâm đâu chứ? Hằng làm gì biết được một cái đứa rất ghét những gì mộng mơ như Dung lại chịu khó gấp đủ hơn một nghìn con hạc chỉ vì em? Hằng làm gì biết được loại lười chảy thây như nó vẫn luôn theo em đi học đi về khắp mọi nẻo đường trên Đức Trọng và Hằng cũng làm gì biết được rằng để có thể củng cố cho tương lai của hai đứa, Dung đã cố gắng nhiều như thế nào?
Hằng làm gì biết được những chuyện đó.
Tôi muốn trách móc, muốn chửi bới hay có muốn làm loạn thì cũng chẳng còn cơ hội nữa rồi, em dại dột và khờ khạo quá. Tại sao em vẫn muốn rời đi khi trên thế gian này còn rất nhiều người yêu thương em?
"Em còn chưa chạm đến tuổi hai mươi." Tôi thở dài đầy tiếc nuối. "Em còn chưa kịp làm những gì em thích."
"Em có đặc biệt thích thú với cái gì đâu. Mà nếu có thì chắc chỉ có Dung và chị."
"Đừng có liệt kê chị vô, một mình con Dung thôi là quá lớn lao với em rồi."
Hằng còn bảo rằng em chưa bao giờ sợ cái chết cận kề vì con người mà, ai cũng phải đến lúc để rời đi mà chỉ là không biết sẽ đi sớm hay đi muộn. Thật ra em biết rằng nếu nói với Dung thì có lẽ nó sẽ chẳng tiếc biết bao nhiêu là tiền bạc lẫn công sức để đánh cược với thần chết, nên em đã không làm thế. Sẽ thật là ích kỷ nếu để Dung cứ phải phí hoài tuổi xuân vào một mạng sống mà tất cả đều biết trước một cái kết thật là thảm hại, vì vậy sao không để Dung sống hạnh phúc thay phần em? Có lẽ Hằng không nhận ra nhưng trong lúc trò chuyện với tôi, nước mắt của em bắt đầu chảy rả rích xuống bãi cỏ đang châm chích vào mông tôi ngứa ngáy, giọng em vẫn bình thản như không có gì xảy ra và đều đều như kể một câu chuyện cổ tích. Đúng rồi, vòng đời của thỏ ngắn lắm, cùng lắm là hơn ba năm một chút nhưng chẳng phải em đã kiên cường đến năm thứ mười tám còn gì?
Đêm đó, chúng tôi cùng nhau ngửa mặt lên trời để ngắm sao. Lúc ấy trời quang mây tạnh chẳng có gì che lấp, Đức Trọng như được cả ngân hà gói gọn trong vòng tay rộng lớn, một ngôi sao rồi hai ba ngôi sao cứ thế nối thành những hình hài kỳ lạ làm tôi vốn mù tịt về các chòm sao cũng chẳng thể nào đoán ra được.
"Chị thấy gì ở đằng kia không?" Hằng đưa tay lên chỉ. "Hai cái tai ở phía bắc, thân hướng về phía tây còn đầu hướng về phía đông, đố chị đấy là chòm sao gì?"
"Chị chịu." Tôi bật cười. "Con thỏ? Nhưng sao nó xấu thế?"
"Thì phải ráng tưởng tượng ra chứ, đấy là chòm Thiên Thố đó." Hằng hạnh phúc giải đáp cho tôi. "Xung quanh nó còn các chòm sao khác như Bạch Dương, Đại Khuyển, Ba Giang, nói tóm lại là nhiều vô số kể."
"Sao em giỏi thế, biết cả ba cái này, trông chả ra hình thù rõ ràng gì cả nên chị nhìn không ra."
"Vì hồi em năm tuổi thì ông ngoại em mất, trước khi đi, ông có dạy em rằng sau này nhớ ông thì cứ nhìn lên trời là sẽ thấy ổng tỏa sáng ở chòm Ba Giang tức Sông Cái ấy, ở nơi đó có sao Achernar là điểm kết thúc dòng sông. Ông em rất thích thiên văn học, sau khi rời quân đội về hưu, ông sưu tầm được rất nhiều sách ảnh về vũ trụ nên dạy em rất nhiều thứ hay ho." Hằng nói luôn miệng, đó là lần đầu tiên tôi thấy Hằng nói nhiều đến thế. "Nếu ông là một ngôi sao sáng của chòm Ba Giang thì em sẽ là một vị trí đặc biệt trong lòng chòm sao Thiên Thố, khi con thỏ đến gần cửa sông thì biết đâu chừng ông sẽ đưa em đi?"
Hằng mải mê kể đến độ quên cả tôi, nghe thấy hão huyền nhưng xem ra lại còn hợp lý hơn cả chuyện con cáo và chuồn chuồn trong khu rừng nguyên sinh của tôi. Hằng còn chẳng nhận ra rằng tôi đang khóc, tôi khóc vì ông trời đang lấy đi cả thế giới của Dung, tôi khóc vì đứa trẻ lạc ngày đó mà tôi thương nhất sắp xa tôi mãi mãi.
"Lúc gia đình em còn êm ấm thì ông có dặn rằng sau này nếu có người yêu, nhất định phải dẫn đến gặp ông." Hằng chua xót nói. "Nhưng giờ ông đi mất rồi mà em cũng chẳng còn thời gian nữa."
"Trên trời có chòm sao nào mang hình dạng cáo không?"
"Dạ có chứ." Em reo lên vui vẻ. "Chòm sao Hồ Ly, nhưng khoảng cách giữa Hồ Ly và Thiên Thố lớn đến mức không có chòm trung gian nào ở giữa cả."
Biết tôi đang muốn nhắc về Dung, em phì cười:
"Dung làm sao có thể hóa kiếp lên trời? Một ngày nào đó nếu em không còn nữa thì chị chỉ cần chỉ cho Dung thấy Thiên Thố như em đã làm hôm nay, gần đó có Ba Giang thì chắc chắn là ông em sẽ được gặp người em yêu rồi."
"Vậy hôm nay coi như chị đã gặp được ông em, chị là người bạn tốt nhất thế giới của em."
Chợt Hằng bật cười khúc khích:
"Hôm nay chị lại muốn tranh vị trí số một của Dung hả?"
"Chị chỉ là bạn thôi." Tôi nhún vai. "Còn nó mới là người yêu số một thế gian, chịu chưa cô nương?"
Tôi lờ mờ nhận ra đây có thể là cuộc gặp mặt cuối cùng với Hằng dù em không nói vì giọng em nghe lưu luyến tới mức họa chỉ có người điên mới muốn rời đi. Suốt mấy phút liền, con bé cứ nói lời xin lỗi khiến tôi phát cáu, nhưng tôi lại chẳng thể mắng em được. Tôi không nỡ để Dung buồn thì tôi cũng chẳng nỡ nhiếc móc Hằng, giờ đây tôi như đứng giữa cán cân mà không biết phải nghiêng về bên nào cả, cuối cùng chỉ có thể thở dài phó mặc số phận đẩy đưa. Khuya hôm đó trước khi về, em lại bồi hồi nắm lấy cả hai tay tôi hết sức trịnh trọng:
"Lan đừng quên em nhé?"
"Làm sao mà chị có thể quên em được?" Tôi khịt mũi nói.
"Cũng đừng giận em."
Tôi nghiến răng kèn kẹt:
"Em mà còn sống thêm được ít lâu là chị sẽ giết em luôn chứ không có đợi em chết dần chết mòn như thế này."
"Không cần nói tốt cho em trước mặt Dung, mấy ngày nữa thi trung học phổ thông xong thì em cũng rời Đức Trọng rồi." Một giọt nước mắt nóng hổi của Hằng chạm vào mu bàn tay tôi, sau đó ôm tôi thật chặt. "Ước gì em được gặp Dung một lần cuối giống như gặp chị bây giờ, Lan nhỉ?"
Tôi vừa mới ngừng khóc ít lâu thì giờ con bé lại bắt tuyến lệ của tôi tiếp tục hoạt động, tôi vỗ vỗ vào lưng em như mẹ dỗ con:
"Dạo này em có gặp nó không?"
"Dạ có, mới hôm trước em bảo Dung rằng đợi khi nào em thi đại học xong thì sẽ dành nhiều thời gian rảnh cho Dung hơn nên chị ấy cũng không về đây nữa."
Buổi gặp mặt và tạm biệt cuối cùng của tôi và Hằng đã xảy ra chóng vánh như thế, nhiều ngày sau đó tôi cũng chẳng nghe thêm bất cứ thông tin gì về em nữa dẫu cho kỳ thi trung học phổ thông đã kết thúc. Khoảng chừng hai ngày sau thì Dung cũng về tới nhưng gương mặt nó chẳng còn vẻ vui tươi hồ hởi như trước, nó đến nhà tôi rồi hỏi:
"Nhậu không?"
"Gớm, nay lại còn nhậu nhẹt." Dù giở giọng bông đùa nhưng tôi như hiểu thấu lòng nó. "Có chuyện gì hả?"
Nó lại vờ câm điếc mà chẳng nói gì, chỉ lặng lẽ đi trước dẫn đường như những tháng ngày vừa qua nó vẫn luôn làm thế. Đến bây giờ tôi mới chú ý đến diện mạo của nó, tóc nó đã dài chấm lưng, phần mỡ mềm bầu bĩnh tích tụ ở bầu má cũng mất đi khiến gương mặt trở nên thon gọn chững chạc hơn, hôm đó nó mặc áo hai dây mỏng với quần thun dài càng khiến nó trông nữ tính hơn nữa. Dung thật sự đã khác trước rất nhiều, nó mất đi cái vẻ rực rỡ hào nhoáng vốn có mà thay vào đó là nét đẹp trưởng thành của thiếu nữ độ đôi mươi.
Sự chuyển tiếp từ cái "thằng" Dung tóc tém ngày xưa cũ với Dung tóc dài thướt tha của hiện tại cũng giống như khoảng cuối hè đầu thu, chính là kiểu kỳ nghỉ của những mùa lễ hội ở bãi biển với thời tiết oi bức giờ đây đã chuyển qua cái se lạnh của mùa thu trầm màu cũ kỹ theo thời gian. Tôi ngỡ ngàng nhận ra bản thân như đang đứng giữa điểm giao mùa, cái thời khắc chuyển giao mà ai cũng mong ngóng ấy và tại nơi đây, tôi đã gặp Dung – con cáo loi choi loắt choắt bé xíu đang mải mê rong ruổi theo những tán lá cây, và con cáo đó giờ đây đang đi ngang qua chính mình của nhiều năm sau khi đã chẳng còn giữ trong mình bao ước mơ hoài bão khi ấy. Giá như Dung của hiện tại có thể liếc mắt nhìn Dung của quá khứ dù chỉ một lần, hai đứa nó sẽ nói gì với nhau?
Dung của quá khứ chắc chắn sẽ trách móc Dung của hiện tại rất nhiều vì đã bỏ lỡ Hằng.
Để rồi Dung của hiện tại lại đứng chịu trận trước những lời nặng nề đó vì dù có làm đủ mọi cách thì nó cũng chẳng thể nào giữ được một người quyết tâm rời đi ở lại bên mình.
Hôm ấy Dung uống nhiều, nhiều đến mức dù tôi có bực mình hỏi chuyện gì đã xảy ra thì nó vẫn nhất quyết không hé môi nửa lời. Chỉ cho tới khi tôi nhắc về Hằng, đôi mắt nó hiện lên ngàn vì sao sáng lấp lánh hy vọng và chỉ chừng một giây sau là đồng tử nó lại trở nên vô hồn như thể mối quan hệ này đã mục nát đến mức không gì có thể cứu vãn được, nó không khóc cũng chẳng nói gì nặng nề, chỉ thở dài:
"Tao với Hằng chia tay rồi mày."
Tôi giả vờ ngạc nhiên dù chính lòng mình cũng đau như bị dao đâm phải:
"Sao lại chia tay? Chẳng phải mọi chuyện vẫn đang tốt sao?"
Tôi hoàn toàn không biết Hằng đã chọn dùng cách gì để buông tay Dung nhưng chắc chắn rằng không còn gì tệ hơn khi thấy đứa bạn thân mà mình yêu quý đang chết tâm. Suốt hai tiếng đồng hồ nó vẫn không ngừng đổ cái thứ chất lỏng cay xè xuống cổ họng, tôi đâm cáu, hất văng cả cái ly đổ ào xuống mặt đất:
"Chia tay thì chia tay, mày cứ muốn bản thân phải sống thất bại như vậy hả?"
"Mày nói thì hay quá." Nó cười. "Mày đã bao giờ yêu ai chưa?"
"Đùa chứ tao cóc cần yêu cũng đủ minh mẫn để biết là mày đang lạc đường."
"Lạc đường thì sao?" Nó gằn giọng. "Đây cũng chẳng phải lần đầu tao chệch hướng, mày muốn tao phải làm gì? Sớm quên đi và yêu thằng khác? Vì mày chưa từng trải qua nên những lời mày nói tưởng chừng rất dễ, vậy mày có thấy ai lý trí trong chuyện tình cảm chưa?"
"Ý mày là sao? Mày chưa nói tao nghe tại sao tụi mày chia tay."
"Đến tao cũng chẳng rõ thì làm sao có thể nói mày nghe?" Nó cười chua chát. "Mày còn nhớ chuyện về thần cáo mày từng viết không? Mày nộp một cái kết hạnh phúc, nhưng giờ tao có vui vẻ gì đâu?"
Tôi sững người, hóa ra suốt bao nhiêu năm quên lãng, cả Dung lẫn Hằng chưa từng quên đi câu chuyện viễn tưởng của tôi. Hai đứa vẫn luôn mong ngóng cái kết viên mãn về vị thần đó và loài người mà nó yêu, nhưng đáng tiếc thay khi xưa tôi đã nói dối mà không nộp thành phẩm của mình. Tôi cất bản thảo về câu chuyện đó sâu trong hộc tủ mà chưa một lần lấy ra, có vẻ giờ xấp giấy đó cũng đã bám bụi hết cả rồi.
Tôi còn chưa kịp kể em nghe cái kết về thần cáo đó nữa mà.
Như không thể chịu đựng được nữa, hệt một quả bóng phát nổ vì có quá nhiều khí nén bên trong, Dung bật khóc nức nở khiến tôi bối rối đơ ra đó mà chẳng biết phải làm gì khác. Mắt nó đỏ hoe hệt đôi mắt cáo long lanh trong trí tưởng tượng của tôi với những giọt nước cay đắng trào ra khỏi kẽ tay, nó vẫn luôn lẩm nhẩm rằng tại sao em lại làm thế? Tại sao lại để nó bơ vơ giữa thế gian này mà không có nổi một câu trả lời rõ ràng? Tại sao cây phù dung hôm ấy mà nó dành tặng em lại tàn lụi sớm đến như vậy? Tại sao người mà nó xem như cả thế giới lại nhẫn tâm quay lưng đi thẳng thừng?
Ngày hôm ấy nó khóc còn to hơn cả trận bão vừa rồi cuốn sạch đồng ngô của bác Cả, những hạt mưa mùa thu bắt đầu nặng hạt khi chúng tôi định ra về, mà nó cũng chẳng cần dùng đến ô nữa rồi.
Giờ thì ngay cả tôi cũng mất đi con cáo Mặt Trời ngày ấy mà chẳng riêng gì Hằng nữa.
Giữ em cho ngày hôm qua.
Rất nhiều năm sau khi mọi chuyện thật sự đã lắng xuống, Dung hẹn gặp tôi khi giờ đây cả hai đều sinh sống và lập nghiệp ở Sài Gòn vào một ngày hè mát mẻ. Hôm đó trời lâm râm mưa phùn nhè nhẹ, vẫn là nó đến với tôi trong dung mạo nhẹ nhàng hiền thục ấy mà đưa cho tôi một phong bì đỏ.
Từ khi Hằng rời đi thì chuyện cũng được ba năm rồi.
"Đỉnh thật, mày sắp cưới hả?" Tôi trợn mắt lật qua lật lại tấm thiệp. "Sao mấy năm nay tao không nghe mày nói năng gì hết, giấu cũng kỹ quá rồi."
Chồng sắp cưới của Dung là kỹ sư của một hãng bay nội địa, nó chỉ vừa quen anh chàng này nhờ vào lời mai mối của người quen khoảng một năm trước và rồi khi cả hai đều tâm đầu ý hợp thì bố mẹ hai bên cũng đã sớm chọn ngày tốt để làm lễ kết hôn. Anh cũng là người theo đạo công giáo nên sắp tới tôi sẽ lại được vào nhà thờ để chứng kiến khung cảnh hạnh phúc này, Dung mỉm cười:
"Phải giấu chứ, lỡ mày nghĩ tao dại dột làm mấy chuyện ngu ngu rồi cản thì sao? Tao nghĩ kỹ rồi, giờ lập gia đình là vừa đẹp."
"Mày mới hai lăm hai sáu tuổi chứ nhiêu? Tưởng đâu còn ham chơi lắm chứ ai ngờ sớm đã yên bề gia thất rồi."
Tôi và Dung đã chẳng còn thân thiết kể từ lúc bọn tôi tốt nghiệp đại học cùng với tấm bằng cử nhân và có cho mình những nghề nghiệp mà bọn tôi vốn đã ao ước từ lâu. Nhưng rồi Dung bảo nó không có ý định làm y tá tại phòng khám nha khoa tư nhân nữa mà định sẽ chuyển về lại Đức Trọng sau khi kết hôn, lúc hẹn gặp tôi để đưa thiệp thì đó cũng chính là lúc nó vừa mới nộp đơn xin nghỉ việc. Chợt nhớ về Đức Trọng với quá nhiều ký ức dang dở đau thương, tôi bật cười khẽ:
"Mày có chắc là muốn chuyển về đó không?"
Nó thản nhiên đáp:
"Chắc chứ, sau này có con thì để con gần ông bà, như thế chẳng phải tốt sao?"
Rồi cái ngày trọng đại ấy cuối cùng cũng đến, đám cưới của Dung vừa hoành tráng nhưng cũng lại thật giản dị với tông màu trắng đơn giản được điểm xuyến rất nhiều hoa phù dung trắng khiến tôi ngỡ ngàng. Tại một nhà thờ lớn giữa lòng Sài Gòn đang nhộn nhịp lời nói và tiếng cười của dòng người tấp nập, tôi lạc lõng vớ lấy những đóa phù dung như gặp lại một người bạn đã lâu chưa trò chuyện. Ngỡ rằng em vẫn còn ở đó, hình bóng người con gái khi xưa vẫn in đậm trong ký ức tôi như thể em đang đứng ở đây cùng với tôi chúc phúc cho lễ cưới tuyệt đẹp này.
Lễ cưới hôm đó trùng với ngày tôi còn phải ghé thăm một vị khách nên định bụng sẽ không nán lại quá lâu, thế nên tôi có xin phép mẹ Dung để vào phòng trang điểm của cô dâu ít phút. Chưa bao giờ tôi thấy Dung xinh đẹp đến như vậy, thật sự rất giống với cái kết về vị thần cáo của tôi rằng chắc chắn nó sẽ hạnh phúc, nó sẽ hạnh phúc hơn bao giờ hết vì có lẽ ngay cả Dung cũng biết rằng nó đáng được sống một cuộc đời vui vẻ và tự do thay cho cả phần của người xưa cũ kia. Nó bồi hồi nhìn tôi thật lâu, giọng bắt đầu nghẹn ngào:
"Không nghĩ rằng cuối cùng tao cũng có ngày này."
"Tao cũng không nghĩ đến luôn." Tôi bật cười. "Tao có nhiều điều muốn nói lắm nhưng vì hôm nay là ngày của mày nên sẽ không giành nói đâu."
"Ơ kìa cứ nói đi, mày là cốt của tao mà." Nó lại giở giọng bông đùa khi xưa. "Tao chưa bao giờ giành phần mày nói."
Đến cả bó hoa trên tay nó cũng là vô vàn những đóa phù dung lớn nhỏ khác nhau.
"Cảm ơn mày vì đã hiểu cho những chuyện dở dang năm đó."
"Mày biết rồi à?"
"Biết gì?" Tôi giả nai hỏi ngược lại nó.
"Biết rằng tao đã nhận ra tại sao năm xưa từng có người yêu tao rất nhiều nhưng lại rời đi vội vã không lời từ biệt." Nó cụp mi mắt. "Giờ người đó vẫn còn ở đây, mày không thấy rất nhiều hoa phù dung sao?"
"Tao sẽ xem như là mày trang trí bằng hoa phù dung vì hoa đó mang tên của mày chứ không phải vì bất kỳ lý do nào khác." Tôi gõ lên đầu nó một cái thật đau. "Đúng là mày chưa thay đổi gì cả, lì như trâu vậy."
Chợt nhớ đến lời nhận xét đầu tiên mà tôi dành cho nó, rằng tôi chưa từng thấy ai rực rỡ như Dung, đột nhiên mắt tôi cay xè.
Rốt cuộc tôi đã không thể chờ cho đến khi lễ kết hôn kết thúc mà chỉ kịp nhìn Dung vui vẻ trao nhẫn cho người mà nó sẽ gọi là chồng suốt quãng đời còn lại, sau đó lặng lẽ rời đi khi hoàng hôn vừa mới buông xuống. Sở dĩ hôm ấy tôi vội vã như vậy là vì tôi vừa mới xem qua dự báo thời tiết nói rằng trời hôm nay đẹp, không có mây nhiều nên khả năng cao là sẽ được ngắm sao. Nhưng tôi không ngắm sao ở nhà mà lại đến nghĩa trang thành phố, đúng thế, tôi đến nghĩa trang để ngắm sao vào lúc trời nhá nhem tối.
Mong là hôm ấy tôi có thể thấy được chòm Thiên Thố và Ba Giang thật rõ.
Tôi vô tình gặp lại mẹ của Hằng khoảng một tháng trước, hóa ra Hằng vừa rời bỏ thế giới này cách đây không lâu nên mẹ em định sẽ ở lại đây một thời gian rồi mới dọn về Đức Trọng sống. Cuối cùng thì thứ ánh sáng mà Dung đã mải mê theo đuổi suốt thời thanh xuân ấy vẫn không thể nào gắng gượng được nữa, nhưng trong một khoảnh khắc đau đớn, em đã nói với mẹ rằng em hạnh phúc lắm. Hằng hạnh phúc vì đời này kiếp này đã được yêu thương vô điều kiện, cảm thấy may mắn vì được gặp tôi và Dung.
Em rời đi với dáng vẻ bình thản vào một ngày mùa hè. Mà Hằng cũng sinh ra vào độ hoa phượng đỏ nở rộ, vậy thì em chính là mùa hè trong lòng tôi rồi.
Nghĩa trang thành phố rộng lớn làm sao, trời lại sắp tối nên chẳng còn bao nhiêu người nán lại gặp gỡ người thân nữa nhưng tôi lại chẳng thấy bơ vơ lạc lõng tí nào vì biết rằng vẫn luôn có người dõi theo và bảo hộ cho tôi. Trên bầu trời cao vời vợi trước mắt, tôi đã sớm thấy hai cái tai cùng thân mình và cái đầu quen thuộc ngụ tại vị trí trung tâm, vẫn đẹp rực rỡ như ngày chia ly từ biệt thuở ấy. Và vì Thiên Thố ở đó nên chắc là chòm Ba Giang vẫn luôn kề cạnh, và thế là tôi cứ thế men theo dọc lối đi lát đá, đi mãi đi mãi mới tìm đến được một ngôi mộ nhỏ.
Nhưng kỳ lạ thay, tôi lại thấy có vài que xiên nướng gần đó cùng với những viên kẹo mút đủ màu đủ vị.
Và sâu trong tiềm thức, có lẽ tôi không còn là Trần Hoàng Phương Lan của ngưỡng cửa trưởng thành nữa rồi, vì tôi như đang đứng trong lớp học ngày xưa đó với cái đầu tóc tém của ông mặt trời hãy còn bay nhảy suốt ngoài hành lang để tranh mua bánh bao, cùng với cô nữ sinh mà tôi từng khen rằng đẹp tựa bức họa Thiếu nữ bên hoa huệ. Vẫn là cái ngày nắng chan hoà đó đang mỉm cười dịu dàng với tôi, đưa tôi về với thuở thiếu thời đẹp đẽ của rất nhiều năm về trước.
Cảm ơn Chúa vì đã giữ Dung và Hằng cho ngày hôm qua.
✩₊˚.⋆☾⋆⁺₊✧
Fic này mình viết tặng em lâmfao aka @lamoonlmfao, cảm ơn em vì đã luôn khen chị viết hay vào những thời điểm tồi tệ nhất mà ngay cả chị cũng chẳng thể nào tin tưởng vào những con chữ do chính mình viết, vậy nên cái fic thứ hai này là dành tặng em, chị mong là em sẽ có nhiều bài học thật đáng nhớ cùng với ba bạn Lan, Dung và Hằng trong chiếc fic này.
Cảm ơn em vì đã yêu thương Hằng cũng như đã cùng chị nói nhảm về Dung vì biết chị rất yêu Dung. Chúc em khóc sạt l =))))))))))))))))) như cái cách mà chị đã khóc khi hoàn thành xong người đuổi theo ánh sáng, mong là còn nhiều dịp để có thể viết cho em, cho Hằng cho Dung như thế này nữa.
Từ @starlight.mmr, cảm ơn bạn đọc vì đã yêu Dung và Hằng nhiều như cái cách mà Lan đã thuật lại toàn bộ câu chuyện này.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com