Bí ẩn của Kim Tự Tháp châu Mỹ - 21/4/2006 8h:4
Nói đến Kim Tự Tháp chắc hẳn mọi người sẽ nghĩ tới Ai Cập. Ở miền Bắc châu Mỹ La Tinh từ Mexico đến Nicaragua, có số Kim Tự Tháp vượt xa tổng số Kim Tự Tháp của Ai Cập. Nhưng tại sao Kim Tự Tháp Ai Cập lại nổi tiếng khắp năm châu bốn biển, còn Kim Tự Tháp châu Mỹ lại ít người biết đến?
Nguyên nhân là do bộ lạc dân tộc xây dựng Kim Tự Tháp, trước sau đều đột nhiên biến mất. Tất cả các Kim Tự Tháp và hàng trăm thành phố, thị trấn lớn nhỏ vây quanh chúng cũng bị rừng rậm nhiệt đới nuốt, trong đó đại bộ phận bị chìm sâu trong lòng bùn đất, biến mất khỏi tầm mắt con người.
Kim Tự Tháp Teotihuacán, Mexico (Ảnh: redhaus)
Đầu thế kỷ XX, một cuộc khai quật khảo cổ với quy mô lớn, bước đầu con người đã vén được bức mạng che mặt của Kim Tự Tháp châu Mỹ. Châu Mỹ có khoảng 20 Kim Tự Tháp to nhỏ, được xây dựng vào thế kỷ XIV trước Công nguyên đến thế kỷ VIII trước Công nguyên. Từ quy mô hùng vĩ và nghệ thuật kiến trúc điêu luyện của Kim Tự Tháp châu Mỹ, người ta nhận thấy vẻ đẹp của chúng không kém vẻ đẹp của Kim Tự Tháp Ai Cập, thậm chí có Kim Tự Tháp còn vượt cả Kim Tự Tháp Ai Cập.
Kim Tự Tháp Ai Cập là phần mộ của các Pharaon, nhưng Kim Tự Tháp của châu Mỹ lại không phải như thế. Kim Tự Tháp châu Mỹ đại bộ phận là tế đàn để hiến tế các vị thần thánh và cúng lễ. Kim Tự Tháp do các khối hình vuông tạo thành, từng tầng một xếp chồng lên nhau, thu nhỏ dần lên phía trên; có 4-5 tầng, có cái tới 20 tầng; cao nhất tới 80m. Xung quanh tháp hoặc 2 mặt tháp là các bậc đá dốc đứng. Theo từng bậc, người ta có thể lên tới đỉnh tháp, trên đỉnh tháp rộng rãi đều lập tế đàn hoặc xây dựng miếu thần. Ngoài việc tiến hành nghi lễ tế lễ thần vào các ngày tế lễ đặc biệt để cầu xin giải trừ thiên tai ra, một ngày người ta còn lên đỉnh tháp thờ cúng thiên thần 4 lần. Bên trong Kim Tự Tháp được đắp bằng đất, cát, sỏi, đá - đây là điều khác biệt với Kim Tự Tháp Ai Cập
Bí ẩn của linh cảm - 19/3/2006 11h:43
Thật kỳ lạ, trong đời sống mỗi người đều có ít nhất một lần được linh tính mách bảo. Linh cảm hay linh tính ấy thường được gọi là "giác quan thứ 6" và hiện nay vấn đề này còn được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Lịch sử đã có nhiều minh chứng cho điều ấy. Nhà bác học Nga Mendeleev (1834-1907), người đã phát minh ra định luật tuần hoàn các nguyên tố hóa học, đã nằm mơ thấy hiện rõ ra trước mắt toàn bộ bảng tuần hoàn. Điều này có thể giải thích được vì có lẽ ông đã nghiên cứu hàng chục năm vấn đề này và đến khi chín mùi thì kết quả đã hiện ra trong giấc mơ, ông chỉ việc ngồi bật dậy và chép lại.
Nhà thơ Nag Lermontov (1814-1841) đã kể lại câu chuyện khi ông còn là sĩ quan biên phòng ở Kabkaz. Có một hôm ông đang ngồi đánh bài với lính của mình và nhìn thấy một người có vẻ mặt khác lạ so với ngày thường, ông bèn nói với người ấy: "Anh phải đề phòng, có lẽ anh sắp bị chết bất đắc kỳ tử. Đêm nay, anh nên ngủ lại ở đồn biên phòng và sáng mai hãy về". Người lính ấy không tin, ra về và dọc đường đã bị một người say rượu đâm chết.
Về những khoa học còn mang đầy tính chất tiên đoán như kiến tạo học cũng đã có nhiều nhà bác học phát minh ra mỏ nhờ linh cảm. Viện sĩ Xobolev của Nga tìm ra kim cương ở vùng Iakutsk, viện sĩ Muratov (1908-1983) tìm ra dầu mỏ ở vùng Tây Xibêri đều do linh tính mách bảo. Điều này cũng có thể được giải thích bằng kinh nghiệm và sự so sánh kiến tạo với các miền khác trên thế giới của họ, nhưng mặt khác, linh tính cũng đóng vai trò rất quan trọng.
Nhiều lúc linh tính hoàn toàn trái ngược với logic, tư duy nhưng lại thích hợp. Napoleon (1769-1821) khi đánh vào nước Nga năm 1812 đã linh cảm là sẽ thất bại nhưng ông vẫn cứ tiến hành, vì theo ông, cái vĩ đại chỉ cách cái lố bịch có một bước.
Rõ ràng là từ lâu, nhiều học giả đã phải đau đầu vì cái thế giới cảm tính bao giờ cũng lẩn quất quanh ta, ngay trong ý nghĩ của ta nhưng lại cực kỳ bí ẩn.
Vừa rồi, tờ Zarubejom (tháng 11/1995) đã đăng lại bài của tờ Time (tháng 8/1995): "Linh cảm là một cảm giác hay một quy luật?". Sau đây xin trích một đoạn của bài báo ấy: "Vấn đề linh cảm rõ ràng là một bí mật lớn. Có một tư duy rất biện chứng của các nhà khoa học mà nhiều khi chúng ta quên đi: Trước một vấn đề mà ta không hiểu thì ta đừng giải thích bừa, vì làm như thế là ta tự dẫn ta vào ngõ cụt. Trong những trường hợp ấy, tốt nhất là ta tự thừa nhận cái chưa biết của mình và cũng đừng cho đó là một sự thật hiển nhiên. Bởi vì, vũ trụ là vô tận, đầy bí mật và mỗi ngày chúng ta chỉ biết thêm một chút trong cái ta chưa biết vô cùng lớn ấy. Nhưng như con kiến tha lâu đầy tổ, chúng ta cứ chịu khó tìm tòi và biết đâu sẽ tìm ra một quy luật chi phối toàn vũ trụ".
Điều khó hiểu hơn cả là tín hiệu mà ta cảm nhận được, cái mà ta gọi là "giác quan thứ 6" là lời mách bảo của một sức mạnh siêu nhiên nào đó hay là thuộc tính tự nhiên của loài người? Vì rõ ràng, linh tính không phải là kết quả quá trình tư duy, nó nằm ngoài phạm trù logic và biện chứng. Nhưng thật ngược đời, sự logic mà linh tính mách bảo, trong nhiều trường hợp dường như lại hợp lý và lại là điều cần phải làm.
Xưa nay, quan niệm thông thường cho rằng phụ nữ có linh cảm cao hơn nam giới. Người đàn bà giải quyết nhiều vấn đề xuất phát từ cảm tính. Ngược lại, người đàn ông bao giờ cũng đi từ logic của vấn đề. Nhưng cũng có nhiều phát minh nổi tiếng của các nhà bác học nam giới lại bắt đầu từ cảm tính. Nhà soạn nhạc vĩ đại người Áo là Mozart (1756-1791) khẳng định rằng, mỗi tác phẩm âm nhạc của ông là sự kết tinh của nguồn cảm hứng, tư duy sáng tạo và do linh tính mách bảo. Nhà vật lý, toán học và thiên văn học người Anh là Newton (1642-1727) đã phải công nhận linh tính đã đưa ông đến những phát minh vĩ đại.
Trong lịch sử, không những các nhà khoa học, các nhà quân sự mà cả những nhà chính trị cũng có khả năng linh cảm trước một số vấn đề. Một số người nổi tiếng cũng nhờ "giác quan thứ 6" mà thoát chết. Nhà chính trị người Anh Churchchill (1874-1965), được giải thưởng Nobel văn học năm 1953, hai lần làm Thủ tướng nước Anh (1940-1945) và (1951-1955), một lần thoát chết trong trận oanh tạc của không quân phát xít Đức là do linh tính mách bảo. Năm 1944, ông Churchchill vừa chuẩn bị rời trận địa tên lửa thì máy bay oanh tạc của Đức ập đến. Người tài xế vội vàng nổ máy cho xe đi. Không hiểu sao, Churchchill không chịu vào xe mà vòng chạy ra phía sau. Đúng lúc ấy, một quả bom nổ ngay cạnh cửa xe, làm thành một hố bom lớn, ngay chỗ Churchchill vừa đứng. Trong tập hồi ký của ông, Churchchill viết: "Dường như có một sức mạnh nội tâm đã mách bảo tôi phải rời ngay chỗ đứng".
Đến đây một câu hỏi đặt ra: "Những người bình thường có khả năng linh cảm không?" Như trên đã nói, ai cũng có ít nhiều khả năng này.
Tờ báo Scandal ở Mỹ năm 1994 có đăng một câu chuyện về giấc mơ kỳ lạ của một người mẹ: "Chuyện kể rằng, 1865, một chú bé bên là Maks Hoffman 5 tuổi bang Wisconsin bị mắc chứng bệnh tả. Bác sĩ nói rằng không còn tia hy vọng nào cứu sống được chú. Ba ngày sau đó, chú bé trút hơi thở cuối cùng và mọi người đem chôn chú trong nghĩa địa của làng. Đêm hôm đó, trong giấc mơ, bà mẹ nghe thấy tiếng con trai trở mình trong quan tài. Bà kêu lên rồi chạy đến bên chồng, xin ông hãy ra mộ để cứu con. Ông chồng tất nhiên đã từ chối. Ông giải thích cho vợ mình rằng bà đã quá thương con nên đã thấy như vậy.
Nhưng đêm hôm sau, bà mẹ lại mơ thấy y như thế. Lần này, bà đã quyết tâm cùng người nhà ra cứu con. Lúc ấy đã gần nửa đêm. Mọi người treo đèn lên trên cành cây bên cạnh mộ và cặm cụi đào. Khi nắp quan tài vừa mở, ai cũng sửng sốt, vì thấy cậu bé nằm đúng tư thế mà người mẹ nhìn thấy trong mơ: "Cậu nằm nghiêng về phía bên phải, 2 tay xếp dưới má phải". Cậu bé không có biểu hiện gì của sự sống. Nhưng người cha vẫn bế con lên rồi bằng mọi cách hô hấp nhân tạo. Sau một giờ, điều kỳ diệu đã xảy ra: Cậu bé dần dần tỉnh lại. Rồi mọi người đã tìm các biện pháp giúp cậu phục hồi sức khỏe và chữa khỏi bệnh tả cho cậu. Về sau, Maks Hoffman đã sống tới 80 tuổi (1860-1940) tại thành phố Lincoln (bang Iowa, Mỹ). Vật kỷ niệm quý giá nhất đời ông là cái núm sắt nhỏ ở nắp quan tài mà từ trong đó, ông đã được cứu sống nhờ giấc mơ của người mẹ.
Bí ẩn của 'Ngôi nhà lớn' thần bí - 2/1/2006 6h:40
"Ngôi nhà lớn" là nơi sinh sống của bộ tộc Anasaki, người Indian ở Bắc Mỹ. Vào thế kỷ XV, bộ tộc huyền bí này đã dần dần mất đi một cách khó hiểu nhưng nền văn hóa và kiến trúc bằng đá mà họ để lại vô cùng tiên tiến, khiến người đời sau phải kinh ngạc.
Di tích nền văn hóa Anasaki được phát hiện ở châu Colorado, châu Utah, châu Arigola và châu New Mexico (Nouveau Mexique) Tân Mexico. Nhưng nơi có những phát hiện quan trọng nhất là khe Núi Chaco dài 24km, rộng 1600m thuộc miền Tây bắc Tân Mexico. Vào năm 1050, những người sống trong khe núi này đã có khả năng sáng tạo vượt bậc. Qua mấy chục năm phát triển, họ tạo ra 12 trấn nhỏ xinh đẹp đặc sắc. Nơi đây dần dần hình thành trung tâm tôn giáo, chính trị và thương nghiệp của người Anasaki mà sau này được các nhà khảo cổ học gọi là "hiện tượng Chaco". Nếu tính cả số người sống ở xung quanh khe núi thì nhân khẩu ở đây lên tới trên 5000 người. Với một bộ tộc trong xã hội thời kỳ đồ đá, sinh sống ở nơi hoang vắng như vậy thì con số 5000 người là cực kỳ lớn. Hơn nữa, kiến trúc nhiều tầng mà họ sinh sống được gọi là "Ngôi nhà lớn" có trình độ kỹ thuật rất cao siêu, chỉ những cao ốc xuất hiện sau hàng trăm năm trong các đô thị lớn mới có thể so sánh được.
Nhưng thật kỳ lạ, tại sao tộc người ấy không chọn nơi rộng rãi để sinh sống mà lại tâp trung ở mảnh đất nhỏ hẹp này?
Mỗi một "Ngôi nhà lớn" đều được dùng hàng chục tấm đá lớn và hơn 2 vạn cột gỗ tùng hoặc gỗ vân sam dựng thành. Lúc đó, không có gia súc thồ và công cụ vận tải có bánh, do vậy, tất cả những vật liệu này đều phải vận chuyển bằng sức người suốt quãng đường dài 5,6km. Những kiến trúc này thể hiện công nghệ làm gạch đá cực kỳ độc đáo. Mỗi viên đá vật liệu đều được đục đẽo theo một yêu cầu nhất định, giữa chúng được gia cố bằng một lớp bùn mỏng, những phiến đá nhỏ được xếp bên trên. Các kiến trúc này cùng với cảnh sắc tự nhiên tươi đẹp đã hòa quện với nhau tạo thành một thể hoàn mỹ tuyệt vời.
Sự hoành tráng nhất trong "Ngôi nhà lớn" là một kiểu kiến trúc năm tầng hình chữ D, bên trong có khoảng 800 gian phòng, chiếm 60 mẫu đất Anh.
"Ngôi nhà lớn" còn có phòng hình tròn, có vị trí đặc biệt trong đời sống của người Anasaki. Có người qua khảo cứu phân tích cho rằng đây là nơi tiến hành nghi lễ tôn giáo hoặc tiến hành lễ bái; cũng có người phỏng đoán, nó là nơi cho người ngủ trọ, và là nơi đàn ông tập trung tiêu khiển. Mỗi một phòng đều có mái hình tổ ong được ghép bằng gỗ. Trên đỉnh nóc nhà, người ta dùng đất và đá vụn nhét kín. Cừa vào duy nhất của gian phòng được bố trí trên mái để đàn ông theo cầu thang vào trong nhà. Trên nền nhà còn có một hố thần chuyên dùng để cho tinh linh ma quỷ ra vào. Không khí trong lành được dẫn vào nhà theo một đường ống bằng đá. Gian lớn nhất là gian "khải ốc", đường kính 19m, độ sâu 4,5m. Hiệu quả truyền âm thanh trong phòng rất tốt, nói thầm từ góc này âm thanh truyền tới được góc kia, hắt hơi một cái sẽ gây ra tiếng động gần như sấm.
Mỗi một gia đình đều sử dụng một gian phòng trong "Ngôi nhà lớn", ngoài các phòng dùng để nấu nướng ăn ở ra còn có kho, chuồng gà, phòng chứa rác, thậm chí còn làm nhà táng. Nhà ở nhìn chung dài 3,5m; cao 2,5m; tường được trát bằng bùn xám, trên tường có nhiều bức họa và để giảm bớt tốc độ tỏa nhiệt vào mùa Đông, cửa sổ, cửa ra vào mở rất nhỏ. Trong nhà đốt lửa sưởi ấm, do không có ống khói nên trên nóc nhà đều có lớp bồ hóng dày.
Những đồ gốm tìm thấy khi khai quật "Ngôi nhà lớn", có không ít đồ được làm phỏng theo hình dáng các con vật và vẽ những hình trắng đen, rất rõ nét sáng sủa. Người Anasaki đã làm ra những đồ trang sức rất tinh xảo, nguyên liệu là đá xanh, vỏ trai, vỏ sò, ngoài ra họ còn tết những cái làn, cái giỏ bằng cỏ rất đẹp. Người Anasaki không chỉ biết đánh trống gõ nhịp, thổi tiêu, sáo (được làm bằng xương chim) mà họ còn vẽ lên tường những hình vẽ rất trìu tượng.
Đến năm 1150, cũng chính là thời điểm quan trọng đạt tới đỉnh cao của sự phồn vinh và hùng mạnh nhất của người Anasaki, văn hóa Chaco lại bắt đầu suy giảm một cách thần bí. Cư dân trong khe núi vứt bỏ thành phố phồn hoa của mình nhanh chóng ra đi.
Trong thế kỷ XII, người Anasaki đã bịt kín tất cả cửa và cửa sổ hướng ra bên ngoài của các gian phòng phía ngoài "Ngôi nhà lớn". Họ dùng đá bịt kín tất cả các cửa vào chủ yếu của gian nhà tập thể, chỉ để lại một cửa cầu thang để họ ra vào. Cách làm này được một số nhà khảo cổ cho là để chống kẻ xâm lược, nhưng lại mâu thuẫn ở chỗ, trong đống phế tàn ấy, người ta không tìm thấy môt thi thể nào không đầy đủ các bộ phận hoặc mang bất kỳ một vết tích chiến tranh nào. Dù vậy, họ cũng đã vĩnh viễn rời bỏ lòng chảo mà họ đã sinh sống hàng trăm năm để ra đi một cách lặng lẽ bí hiểm. Người Anasaki không còn tồn tại trên thế gian này nữa nhưng những bí ẩn về "Ngôi nhà lớn" vẫn thu hút sự chú ý của nhân loại, vẫn để cho những người hiện đại không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, khám phá.
ng ma xuất hiện khi có sóng hạ âm - 19/8/2006 5h:54
Chuyên gia công nghệ thông tin người Anh Vic Tandy không bao giờ quên đêm đó. Ông đang làm thêm trong phòng thí nghiệm tại ĐH Coventry, Anh. Đồng hồ chỉ 7 giờ tối. Tất cả các cộng sự đã về song Tandy dường như mất cảm giác về thời gian vì hoàn toàn bị cuốn vào công việc.
Đột nhiên, ông cảm thấy lạnh buốt dọc sống lưng - có ai đó đang theo dõi ông. Tandy nhìn quanh và trông thấy một cái gì đó không rõ hình dạng, mờ ảo như sương mù, màu xám đang tiến về phía mình. Nó dường như đang di chuyển và nhìn thẳng vào Tandy. Bóng ma ấy biến mất trong luồng không khí mỏng khi chỉ còn cách nhà nghiên cứu chưa đầy một mét.
Trên đây chỉ là phần đầu câu chuyện mà Tandy kể lại với một trong các tờ báo Anh. Phần còn lại mở ra như một cuốn phim trinh thám xen kẽ với các chi tiết khoa học.
Là một nhà nghiên cứu thực thụ, Tandy quyết định tìm hiểu hiện tượng này, trên nền tảng khoa học vững chắc. Ông đã bỏ ra 5 năm để tìm hiểu tất cả các câu chuyện liên quan đến ma quan sát được trong các lâu đài ở Anh, đồng thời "mai phục" vào đêm. Ông cũng nghiên cứu các thiết bị khoa học. Cuối cùng, Tandy tin rằng mình đã biết các bóng ma từ đâu đến, thậm chí giải thích được lý do vì sao cư dân xứ sở sương mù chạm trán ma với tần suất cao hơn cư dân các nước khác.
"Những bóng ma ở đất nước này có nhiều lý do để đi dọc theo các hành lang và tháp canh của những lâu đài và biệt thự cổ vì gió biển mạnh thổi nhanh trên khắp các hòn đảo nước Anh", Tandy nói. "Những cơn gió đã tạo ra sóng âm ở một dải tần số đặc biệt, mà cho đến gần đây các nhà nghiên cứu vẫn không ghi nhận được. Người ta thường nhìn ra hiện tượng được tạo bởi những sóng âm này là những con ma".
Tandy đi đến kết luận này một cách tình cờ. Ông mang một thanh kiếm mỏng tới chỗ làm việc một ngày sau khi nhìn thấy bóng ma trong phòng thí nghiệm. Thanh kiếm này cần được sửa chữa để tham gia một cuộc thi đấu mà Tandy dự định vào cuối tuần đó. Ông giữ nó trong một cái mỏ cặp và không lâu sau quan sát thấy nó đu đưa như thể một bàn tay vô hình nào đang nhấn từ trước ra sau. Nhà nghiên cứu tin rằng ông đang chứng kiến hiện tượng cộng hưởng.
Tandy nghiên cứu sóng âm của gió thổi qua những bức tường của một tòa tháp cổ (Ảnh: ghostexperiment.co.uk)
Vào thời điểm đó, phòng thí nghiệm rất yên tĩnh. Tandy hạ thanh kiếm xuống để đo đạc quá trình này bằng một vài thiết bị. Ông thực sự kinh ngạc khi phát hiện thấy một tiếng động kinh hoàng đang tràn đầy căn phòng ngay lúc đó. Nhưng tất cả những âm thanh này là sóng hạ âm, với tần số nằm dưới ngưỡng nghe của con người.
Không mất nhiều thời gian để định vị ra nguồn phát âm thanh: Nó xuất phát từ một bộ thông gió mới được lắp đặt trong một máy điều hoà. Khi nhà nghiên cứu tắt bộ thông gió, thanh kiếm ngừng dao động. Giây sau, một ý nghĩ thú vị đến với ông: "Hiện tượng này có liên quan gì với những bóng ma?"
Sóng âm đo được trong phòng thí nghiệm có tần số 18,98 Hz. Nó tương đương với tần số chuyển động của nhãn cầu người.
Theo Tandy, gió thổi giật qua những bức tường của một toà tháp cổ cũng tạo ra sóng âm trong vùng hạ âm này. Âm thanh có thể đi xuyên qua những bức tường dày nhất. Khi ở trong một cái tháp, người ta có thể nghe gió hú và rên rỉ giống như người điên trong các hành lang.
"Không phải là ngẫu nhiên mà các bóng ma thường được nhìn thấy đi dọc theo hành lang khi gió thổi mạnh trên các bức tường", nhà nghiên cứu dẫn chứng cho giả thuyết của mình.
Song đến nay, Tandy vẫn chưa giải thích được tại sao "những âm thanh cộng hưởng" lại tạo ra một hình dáng cụ thể như vậy. Ngoài ra, vẫn chưa rõ phản ứng của các sóng hạ âm khi chúng được tạo ra từ các cơn gió mạnh hoặc các loại phương tiện và máy bay rít qua.
Bí ẩn của sao bạn Thiên Lang (Sirius) và người Doxiang - 10/12/2005 5h:53
Người Doxiang
Nước cộng hòa MaLi nằm ở phía Tây châu Phi. Bên bờ sông Nil của quốc gia này có một dân tộc thổ dân tên là Doxiang sinh sống.
Cuộc sống của họ lấy trồng trọt và du mục làm chính. Đời sống của họ rất khó khăn nghèo khổ, phần lớn dân sống ở nông thôn hoặc trong một số hang động trong rừng núi. Họ không có chữ viết riêng, từ đời này qua đời khác chỉ truyền lại bằng miệng, bện thừng đánh dấu sự việc. Nếu nhìn từ góc độ này thì họ cũng không có gì khác so với các dân tộc da đen Tây Phi khác. Nhưng nghi lễ tôn giáo mà họ cử hành lại đem đến nhiều ngạc nhiên và thu hút sự chú ý của các nhà nhân loại học và thiên văn học trên thế giới.
Cứ mỗi chu kỳ 600 năm, khi Sao Thiên Lang xuất hiện giữa hai đỉnh núi thì người Doxiang lại cử hành nghi lễ tôn giáo Sigui long trọng nhất, lớn nhất trong đời sống tôn giáo của họ.
Những năm 20 của thế kỷ XX, hai nhà nhân loại học người Pháp Gria và Didelun đến Tây Phi cùng ăn cùng ở với người Doxiang 10 năm. Bằng quan hệ qua lại lâu dài, thân thiết họ đã chiếm được sự tin tưởng tín nhiệm và tình cảm của người Doxiang. Từ những thầy cúng cao cấp, họ biết được người Doxiang trong quá trình duy trì tôn giáo tín ngưỡng của mình hàng trăm nghìn năm nay, luôn ẩn giấu tri thức chính xác đặc biệt về một hiện tượng thiên văn. Trong giáo lý tôn giáo thần bí của người Doxiang giữ gìn tư liệu tường tận về một ngôi sao ở rất xa, mà ngôi sao này hàng trăm năm trước đây không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Cho đến ngày nay, nếu không có sự trợ giúp của kính viễn vọng hiện đại nhất thì cũng không thể quan sát, đo đạc được.
Thầy cúng
Ngôi sao này chính là ngôi sao bạn của Sao Thiên Lang. Người Doxiang gọi là "Pak Tolu", "Pak" cói nghĩa là "nhỏ", "Tolu" có nghĩa là "sao". Họ còn nói đây là "ngôi sao nặng nhất" có màu trắng. Thật kỳ lạ khi người Doxiang đã nói chính xác ba đặc trưng cơ bản của ngôi sao này: Nhỏ, nặng và màu trắng. Trên thực tế, sao bạn Thiên Lang đúng là Ngôi sao trắng lùn.
Gọi là Sao trắng lùn, không phải gọi riêng một ngôi sao nào đó mà là tên gọi chung cho một loại sao có những điểm "trắng" và "lùn". "Trắng" nói rõ nhiệt độ của nó rất cao, nhiệt độ bên ngoài của sao trắng lùn khoảng 10.000 độ C phát ra ánh áng trắng, "lùn" nói rõ thể tích của nó nhỏ. Các nhà thiên văn học cho biết: Một, hai trăm ngôi sao trắng lùn ghép lại với nhau mới to như Mặt trời, còn một ngôi sao trắng lùn nhỏ nhất chỉ to bằng một phần nghìn vạn Mặt trời.
Trên bầu trời phía Đông Nam và mùa Đông mỗi năm, chúng ta có thể nhìn thấy sao hằng tinh (như sao Chức Nữ, Mặt trời) sáng nhất trên bầu trời, nó chính là sao Thiên Lang. Thể tích của nó lớn gấp hai Mặt trời, nhưng ánh sáng của nó lại gấp 20 lần Mặt trời.
Ghi thức cúng lễ
Bên cạnh nó còn có một ngôi sao nhỏ không nhìn thấy quay quanh, ngôi sao nhỏ này chính là sao bạn Thiên Lang. Tuy có thân hình bé nhỏ, nhưng thể trọng của nó rất lớn, đúng như người Doxiang đã nói nó là một ngôi sang trắng lùn.
Các nhà thiên văn học phỏng đoán, sao bạn Thiên Lang có vào năm 1844. Họ phán đoán sao bạn Thiên Lang nhất định chịu ảnh hưởng, sức hút của một ngôi sao khác, từ đó dẫn tới sự vận động của nó không có quy tắc. Năm 1930, nhờ có sự trợ giúp của kính viễn vọng với tầm nhìn rất xa và các dụng cụ thiên văn hiện đại, người ta mới nhận biết được nó là một ngôi sao kèm (hộ tinh) có thể tích nhỏ nhưng mật độ lại cực lớn.
Nhưng đối với loài người trên Trái đất, ngôi sao đó ở quá xa và nó quá nhỏ, khiến người ta lại bắt đầu nghi ngờ liệu nó có thể gây ảnh hưởng tới Sao Thiên Lang không?
Quỹ đạo chuyển động sao kèm Thiên Lang
Chúng ta không thể không đặt câu hỏi, người Doxiang sinh sống trong các hang động ở châu Phi, làm sao lại có thể có những tri thức hiểu biết về ngôi sao này? Phải chăng họ dựa vào linh cảm? Không chỉ có thế, người Doxiang còn vẽ một cách chuẩn xác trên cát quỹ đạo hình bầu dục sao kèm Thiên Lang chuyển động vòng quanh Sao Thiên Lang, so với sự quan trắc của các nhà thiên văn học hầu như không sai chút nào. Người Doxiang nói, chu kỳ quỹ đạo của sao kèm Thiên Lang là 49,5 năm (trên thực tế con số chính xác là 50,04 năm), bản thân nó tự quay quanh trục chuyển động (điều này cũng được các nhà thiên văn học chứng thực). Người Doxiang cho rằng, sao kèm Thiên Lang là ngôi sao được thần thánh tạo ra, là trung tâm của Vũ trụ. Ngoài ra, họ còn biết từ rất sớm các tri thức về thiên văn, về những hành tinh xung quanh Trái đất. Ví dụ như, Sao Mộc có bốn vệ tinh chủ yếu, họ có bốn loại phương pháp làm lịch, tuần tự lấy Mặt trời, Sao Thiên Lang, Mặt trăng và Sao Kim làm căn cứ.
Na Mẫu
Những người làm công việc tế lễ ở địa phương nói, tri thức thiên văn học của họ có được là nhờ sinh vật có trí tuệ của hệ Sao Thiên Lang cứ tới Trái đất truyền cho người Doxiang, họ gọi sinh vật này là Na Mẫu. Trong truyền thuyết người Doxiang, Na Mẫu từ một nơi nào đó ở phương Đông - quê hương người Doxiang hiện nay đến Trái đất. Bề ngoài của Na Mẫu vừa giống cá lại vừa giống người, là một loài sinh vật lưỡng thể sống trong nước.
Trong các bức họa và điệu múa của người Doxiang đều giữ lại truyền thuyết có liên quan đến Na Mẫu. Người Doxiang luôn cho rằng, dân tộc họ vốn không phải là sinh sống trên mảnh đất hiện nay, họ là hậu duệ của người Berber, dân tộc cổ xưa ở Bắc Phi. Người Berber mới đầu sinh sống ở đầu Bắc sa mạc Sahara. Từ thế kỷ I, II sau Công nguyên họ mới bắt đầu di chuyển xuống phía Nam, đến kết hôn với người da đen, nên dần dần họ cũng trở thành tộc người da đen. Mặc dù Đạo Do Thái có ảnh hưởng rất lớn, nhưng họ vẫn giữ tôn giáo của tộc mình.
Những tri thức về Sao Thiên Lang mà người Doxiang lưu truyền qua hàng năm vẫn hoàn toàn trùng hợp với những tri thức về ngôi sao này mà các nhà thiên văn học hiện đại tìm hiểu được. Từ đâu họ có được tri thức thiên văn học thần kỳ ấy? Có thể khẳng định, không có kính viễn vọng thì con người không thể nhìn thấy sao kèm Sao Thiên Lang. Nhưng người Doxiang cổ đại chắc chắn là không có kính viễn vọng. Phải chăng những tri thức mà họ có được đúng là do sinh vật của hệ sao Thiên Lang dạy cho? Nếu như không phải, thì tri thức về Sao bạn Thiên Lang của người Doxiang có được từ đâu?
Bí ẩn động Ma và những quan tài cổ - 22/6/2006 10h:9
Ông Phạm Hồng Nêu - nguyên Phó Chủ tịch UBND huyện Quan Hoá, tỉnh Thanh Hoá - qua điện thoại, cho biết: Phát hiện khoảng 200 cỗ quan tài cổ được treo bung biêng trong một cái hang mà tiếng Thái bản địa gọi là động Ma, chon von đỉnh núi tai mèo tại địa phương. Quan tài làm bằng thân gỗ quý khoét rỗng. Dăm bảy cái động bên cạnh hang Ma cũng được đám thợ săn hốt hoảng trông thấy la liệt toàn... quan tài. Một táng thức khá kỳ lạ ở Việt Nam: Không biết từ quan niệm nào, và bằng con đường nào mà hàng trăm cỗ quan tài có thể "bay" lên các vách núi cao hàng trăm mét ấy?
Khám phá động Ma
(Ảnh: VNN)
Cách TP.Thanh Hoá 140km, xã Hồi Xuân có phong cảnh hữu tình, là nơi sông Luồng nhập với sông Mã đỏ ngầu băng mình qua bạt ngàn đá phiến. Nơi ấy có động Ma nằm giữa mây mù trên núi đá tai mèo vòi vọi.
Khi tôi và tiến sĩ Nguyễn Văn Việt - GĐ Trung tâm Tiền sử ĐNÁ - sắm sửa để khám phá động, cựu Phó Chủ tịch huyện Quan Hoá - ông Phạm Hồng Nêu - kêu ồi ồi không cho đi. Khi chúng tôi vẫn hăm hở đòi đi xem hơn một trăm cỗ quan tài cổ treo trong động Ma, ông Nêu cùng bà vợ đành đi mượn dao rừng, giày tất, mua nhang khói phục vụ các vị khách.
Cái quan trọng nhất là kiếm người dẫn đường giỏi giang, tin cẩn - kẻo dễ bỏ xác trên núi cao lắm. Trưởng bản Khằm - anh Phạm Hồng Sơn - được "triệu tập" đến, tiếp theo là phó bản (tên là Dũng) cũng có mặt.
Dũng là thợ săn lão luyện, cũng từng là kẻ phá sơn lâm khét tiếng, nên anh ta đã hai lần trực tiếp chui vào hang Ma. Bản Khằm có 194 hộ, với 920 khẩu, nhưng số người dám lên hang Ma (có tên tiếng Thái là Lũng Mu) chỉ đếm trên đầu ngón tay!
...Bước khỏi dòng sông Luồng, lập tức chúng tôi ngộp vào một cánh rừng rậm rạp. Cây và dây leo trùm trên đá tai mèo phún sắc, lá mục dày hàng gang tay, muỗi rĩn phi như vãi trấu vào mặt người leo núi. Nhiều đoạn, vách núi dựng đứng, leo cả tiếng đồng hồ chỉ nhích lên cao được độ 30m. Nhiều lúc, cả trưởng bản lẫn phó bản phải kỳ công kéo rồi đỡ thì tiến sĩ Việt mới lê được cái tuổi 56 của mình ngược đỉnh trời.
Càng lên cao, rừng càng hoang dã. Mùi phân dơi, lợn rừng, sơn dương, nai hoẵng cứ sực lên đến tắc thở. Đó là lúc động Ma hiện ra, với lồng lộng gió ngoài cửa hang.
Ngay cửa hang là la liệt quan tài. Quan tài làm bằng thân gỗ lớn, khoét hình thây người với hai đầu nhỏ thon dần, khúc giữa phình to; hai đầu khúc gỗ khoét có hai cái núm như chuôi vồ (có thể dùng để khiêng), tiếng Thái gọi là phần chuông hậu. Mỗi mảnh quan tài thể hiện rõ những khấc gỗ dùng để ghép hai nửa thân gỗ đã khoét với nhau (sau khi đã đặt thi hài người quá cố vào). Vật đem chôn sẽ nguyên bản như một thân cây khi nó đang đứng trong rừng.
Hầu như không có cỗ quan tài nào còn nguyên vẹn hai phần thân gỗ khum khum úp vào nhau. Mỗi phần của cỗ quan tài nằm như một con thuyền độc mộc. Chỏng chơ. Nhiều mảnh quan tài vỡ vụn, mục ruỗng, rêu mốc xanh rì.
Chúng tôi tiếp tục leo trong động, bằng cách bắc các cỗ quan tài gá vào nhau làm thang để lên đến cấp độ thứ hai và ba của Lũng Mu. Tại lòng hang thứ ba, dễ đến 50 cỗ quan tài nữa hiện ra. Quan sát kỹ, có thể thấy giàn giáo đặt quan tài (lên tầng 2) được làm rất công phu.
Cột gỗ dựng từ lòng hang, chằng với các thanh dầm húc sâu vào các vách đá, vững chãi. Anh Dũng trèo lên nóc "tầng 2", dùng dao đẽo những thanh gỗ quan tài đã vỡ lăn lóc. Ai nấy giật mình thấy gỗ vẫn dẻo quánh, vàng sậm, toả mùi thơm nhè nhẹ.
Tìm lời giải
Nhiều người đang tranh luận, nên gọi là động táng hay là "thiên táng", bởi rõ ràng, quan tài được treo trong không gian động, chứ không chôn vùi gì. Hầu như không thấy những cỗ quan tài úp vào nhau thành một thân cây hình tròn khiến nhiều người đặt vấn đề: Hay thuở ấy, người ta chôn người chỉ có bằng một nửa thân gỗ khoét rỗng? Người chết nằm trong các thớ gỗ như nằm trong một chiếc nôi, treo trong động "thiên táng"?
Tất nhiên, phần chưa thể lý giải được là: Xuất phát từ quan niệm nào mà người xưa lại đem thi thể người chết lên tận những hang động cao và hiểm trở nhất khu vực để chôn, mà không phải là chôn dưới đất hay dưới chân núi chẳng hạn? Làm thế nào người xưa mang được những cỗ quan tài khổng lồ bằng thứ gỗ đứng vào hàng tứ thiết kia lên động Ma (và các động hiểm trở khác)?
Tiến sĩ Nguyễn Văn Việt phỏng đoán, có thể người ta đã làm những sạn đạo, tức là buộc dây buộc gỗ thành được những cái thang nằm ngang, ngoắt ngoéo mãi lên đỉnh núi để đám đô tuỳ có thể khiêng quan tài đi được.
Và - vẫn là giả thiết "sạn đạo" ấy giờ đã đổ sụp, hoặc sau khi động đầy quan tài, bà con đốt "sạn đạo" để vĩnh viễn các ngôi mộ thiên táng được ngủ yên trước thế sự... tò mò?
Riêng phó bản Dũng rất có lý khi cho rằng: Có ai đó, có thể theo bản đồ, gia phả, họ đã đến và thâu lượm xương cốt người quá cố rồi mang đi cả. Chứ không có tên trộm nào, con thú nào, hay sự tàn phá nào có thể làm cho những bộ xương bị biến mất một cách nhanh chóng và trọn vẹn đến thế.
Theo tài liệu nghiên cứu đang lưu giữ ở Viện Khảo cổ học mang ký hiệu HS 410 - do hai nhà khảo cổ Bùi Văn Liêm và Nguyễn Gia Đối thực hiện - trong thời gian 1998-1999, thì bước đầu bí ẩn động Ma đã được "giải ảo".
Về các mộ táng "được đặt và treo trong hang" (từ ngữ trong nguyên văn) Lũng Mu, các tác giả đã đếm được ít nhất 75 "ngôi mộ" (cỗ quan tài). Bên cạnh hang Lũng Mu, có hang Ko Phày "cũng phát hiện 10 cỗ quan tài". Tiếp đến là hang Pha Ké đã phát hiện 5 hang - mái đá có đặt và treo cả một hệ thống với gần 20 cỗ quan tài (trong đó có nhiều quan tài nhỏ xíu, có thể dành để mai táng trẻ em xấu số).
Cũng trong tài liệu trên, hai ông Bùi Văn Liêm và Nguyễn Gia Đối viết: "Những quan tài phát hiện trong hang và mái đá ở Quan Hoá có hai mốc niên đại: Mốc thứ nhất, mộ đất thời đại kim khí, di vật tiêu biểu là những mảnh nồi vò Đông Sơn và những con ốc biển phát hiện ở hang Pha Ké 1; mốc thứ hai, khu mộ táng quan tài thân cây có thể có niên đại từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, di vật tiêu biểu là hàng trăm quan tài gỗ (...).
Từ những khu mộ đặt và treo trong các hang động, chúng tôi đã điều tra dân tộc học quanh vùng cho thấy, người hiện nay là người Mường và người Thái ở Quan Hoá vẫn dùng những quan tài tương tự như đã phát hiện trong hang.
Theo các cụ cao niên thì từ rất xa xưa, người Mường và người Thái định cư ở Quan Hoá vẫn dùng quan tài từ thân cây. Từ một thân cây gỗ lớn, có thể là gỗ bi hoặc vàng tâm. Sau khi cưa cắt cẩn thận, họ dùng rìu, nêm, bổ đôi khoét vũm lòng gỗ tạo thành chiếc quan tài. Hiện nay, đa số người Mường, người Thái ở Quan Hoá vẫn có những quan tài bằng thân cây khoét để dự trữ cho người thân khi quá cố đặt dưới nhà sàn.
Và, hai nhà nghiên cứu đưa ra kết luận: "Từ những lý do trên, chúng tôi cho rằng chủ nhân của những khu mộ táng trong hang động và mái đá ở Hồi Xuân, Quan Hoá có quan hệ mật thiết, quan hệ họ hàng với hai dân tộc Mường, Thái ở Quan Hoá hiện nay".
Khi chúng tôi trở về, trời đổ mưa ào ạt, sấm chớp mù trời, nhưng nhiều bà con trong bản vẫn tề tựu ở nhà ông Nêu lo lắng, chờ đợi. Bà con yêu cầu tôi bật máy vi tính xách tay cho xem ảnh... động Ma, hang Ma.
Hàng trăm bức ảnh được mang ra từ hang tối. Chính vợ chồng ông Nêu là những người háo hức xem ảnh nhất. Bởi, ở tuổi 68, ông Nêu vẫn chưa một lần có mặt ở động Ma, dù ông rất tự hào hơn ai hết về đỉnh núi bí ẩn nhiều mạch nguồn văn hoá quê mình.
Huyên - giáo viên cấp 2, con rể trưởng bản Sơn - xem ảnh xong xuýt xoa: Đẹp thế này mà làm du lịch thì hay quá, đông khách có khi hơn cả Sầm Sơn ấy chứ. Sắp tới, Giám đốc Việt sẽ cho nhân viên của Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á lên Hồi Xuân vẽ lại toàn bộ địa hình, kích cỡ động Ma và các cỗ quan tài "thiên táng". Nếu có thể, sẽ lấy phiên bản hoặc một số hiện vật (quan tài, xương cốt, đồ gốm sứ) về trưng bày ở Hà Nội...
Bí ẩn khoa học: Giấc ngủ dài... 16 năm - 8/6/2006 13h:51
Do bị tưởng nhầm là đã chết, cô bé Nazira Rustemova (4 tuổi, người Kazakstan) từng được... mai táng. Và khi được đưa ra khỏi mộ, Nazira chìm vào giấc ngủ dài 16 năm rồi đột nhiên tỉnh dậy. Cơ thể của cô (vốn thay đổi rất ít trong thời gian hôn mê) bỗng lớn lên từng ngày để nhanh chóng trở thành cơ thể một phụ nữ.
Đó là một trong những trường hợp mắc chứng hôn thụy, cho đến nay vẫn là bí ẩn đối với khoa học. Những người bị chứng hôn thụy có thể ngủ hàng tháng trời, thậm chí vài chục năm. Trong thời gian đó, cơ thể họ hầu như không có sự thay đổi. Sau khi tỉnh giấc, quá trình trao dổi chất được tăng tốc khiến cho cơ thể lớn nhanh trông thấy, y như trong truyện cổ tích. Ở một số bệnh nhân còn xuất hiện nhiều khả năng kỳ lạ mà trước khi hôn mê họ chưa hề có. Nazira Rustemova là một trường hợp điển hình.
Lúc mới sinh, Nazira là một cô bé khỏe mạnh, cơ thể phát triển bình thường. Gần đến sinh nhật lần thứ 4, đột nhiên cô bé bị đau đầu dữ dội, không thuốc nào làm giảm được. Sau mỗi cơn đau, cô bé lại lịm đi. Một buổi sáng, khi vào đánh thức con, cha mẹ Nazira thấy cô bé nằm bất động trên giường. Các bác sĩ khẳng định em đã chết mà không rõ nguyên nhân.
Sau khi mai táng cho Nazira, ông và bố cô bé nằm mơ thấy có người bảo rằng Nazira chưa chết mà đã bị chôn sống. Người cha trở lại nghĩa địa, lật ván áo quan lên để kiểm tra. Ông sửng sốt nhận thấy xác con gái đã nằm sát vào một góc chứ không ở vị trí chính giữa như lúc hạ huyệt. Lớp vải liệm quấn quanh cô bé bị nhàu và đôi chỗ có vết cào xước. Ông vội vàng bế con về nhà.
Hai tuần liền, gia đình Nazira tìm mọi cách để đánh thức cô bé nhưng vô hiệu. Được tin, Bộ Y tế Liên Xô đã chuyển Nazira lên Moscow để nghiên cứu. Cô bé được đặt trong lồng kính suốt 16 năm cho đến ngày bừng tỉnh.
"Suốt thời gian đó, tôi không hề ngồi dậy lần nào" - Nazira nhớ lại - "Mặc dù nằm bất động nhưng tôi vẫn nhận biết được mọi chuyện xảy ra xung quanh. Thậm chí có lần tôi còn ngửi thấy hương thơm thoang thoảng đặc trưng của vùng thảo nguyên quê tôi. Một hôm, tôi nghe thấy tiếng chuông điện thoại réo rất lâu. Mãi mà không có ai nhấc máy, thế là tôi quyết định đứng dậy để nói chuyện điện thoại..."
Trong 16 năm ngủ lịm, người Nazira chỉ dài thêm 30cm, mặc dù vẫn tiếp nhận thức ăn qua hệ thống ống dẫn nối với dạ dày. Tuy nhiên, khi tỉnh lại, cơ thể cô phát triển nhanh như thổi. Chỉ trong thời gian ngắn, từ một cô bé, Nazira đã có một cơ thể phát triển như mọi cô gái 20 tuổi khác.
Trong mấy ngày đầu, Nazira đã phục hồi khả năng khẩu ngữ, có thể giao tiếp với mọi người mà không quên từ nào. Thậm chí, cô còn nói được 4 thứ tiếng, trong đó có tiếng Latinh và tự nhấc mình khỏi mặt đất nhẹ nhàng như bay. Tuy nhiên, sau đó vài năm, những khả năng này biến mất. Nazira quên cả tiếng mẹ đẻ (Kazakstan), chỉ còn nhớ duy nhất tiếng Nga
Bí ẩn người ngoài hành tinh trong sử thi Gilgamesh - 15/6/2006 6h:26
Vào đầu thế kỷ XX, các nhà khảo cổ đã từng có một phát hiện gây xôn xao ở núi Kujujik, đó là một bộ sử thi anh hùng đầy hấp dẫn. Bộ sử thi này được khắc trên 12 bản bằng đất, nó vốn được bảo quản trong Thư viện Azonibo của Quốc vương Azo, được viết bằng chữ Akko.
Sau này, người ta còn phát hiện ra quyển thứ 2 thuộc về nhà vua Hammourabi (1848-1806 trước Công nguyên) Vương quốc Cubabilon.
Đây là bộ Sử thi Gilgamesh có giá trị lịch sử và văn học rất lớn. Tất cả giới khoa học đều công nhận rằng, Sử thi Gilgamesh nguyên bản của nó xuất phát từ người Sumer. Người Sumer là một dân tộc thiện chiến, cho tới nay chúng ta cũng chưa rõ được nguồn gốc của dân tộc này, chỉ biết rằng họ đã để lại 15 số tự làm con người ngày nay kinh ngạc, những kiến thức về thiên văn toán học vô cùng tiên tiến.
Sử thi Gilgamesh bản bằng đất (Ảnh: malaspina)
Ở bản thứ nhất của Bộ sử thi Gilgamesh miêu tả một con quái vật Anjitu được Nữ thần Aru tạo ra. Toàn thân Anjitu mọc đầy lông dài. Nó ăn cỏ, và uống nước ở chỗ trũng như bò, nó còn thích nô đùa ở chỗ có nước sôi nóng bỏng. Vua của Thành Uruk nghe nói đó là một sinh vật xấu xí, bèn đề
Vua của Thành Uruk
(Ảnh: mediarebellion)
nghị cho nó một người con gái xinh đẹp, làm như vậy để nó có thể rời xa đàn bò. Anjitu bị Vua dùng kế bắt được, và cho cùng sống với người phụ nữ đẹp mê hồn nửa thần nửa người, được 6 ngày 6 đêm.
Trên bản thứ 2 kể rằng, người anh hùng Gilgamesh luôn luôn chiến thắng đã cho sửa chữa lại tường Thành Uruk. Vị thần này sống trong một cung điện rộng lớn, bên trong có cả kho lương thực, trên tường thành đều có vệ sỹ đứng gác, tuần tra canh phòng. Gilgamesh là dòng máu pha trộn giữa người với thần, 1/3 là người còn 2/3 là thần. Tín đồ hành hương đến Thành Uruk đều run rẩy khi ngửa mặt lên nhìn ông ta, bởi vì người ta chưa bao giờ nhìn thấy một người to khỏe và đẹp trai đến như vậy. Tập thơ tự sự này lại một lần nữa đề cập đến vấn đề giao phối giữa người với thần.
Bản kể thứ 3 kể rằng, từ nơi xa một cơn lốc bụi cuốn tới làm kinh thiên động địa, bụi cát mù trời. Thần Mặt trời xuất hiện, ông ta dùng một móng vuốt rất lớn quặp lấy Anjitu. Ở đây mô tả Thần Mặt trời như một mũi khoan nặng nề cắm vào người Anjitu, nặng nề đè lên như một cái thớt cối. Con người ngày nay ngạc nhiên và khó lý giải. Phải chăng, người nguyên thủy đã tự biết rằng, dưới một gia tốc nhất định, cơ thể con người có thể lao mạnh như một mũi khoan? Ngày nay, chúng ta đã biết được gia tốc của lực hấp dẫn, phi công vũ trụ khi cất cánh bị một gia tốc trọng lực ép chặt xuống ghế, điều này đã được tính toán kỹ từ trước. Nhưng người nguyên thủy tại sao lại có thể hiểu được những kiến thức ấy?
Bản thứ 6 kể rằng, Gilgamesh và Anjitu đã cùng nhau đi đến nơi ở của thần. Đứng từ rất xa họ đã nhìn thấy ngọn tháp rực rỡ, vô cùng huy hoàng tráng lệ. Đấy là nơi ở của nữ thần Oninis. Hai hiệp sỹ thận trọng lấy tên và đạn bắn các vệ sỹ, nhưng đều bị bắn trả lại, các vệ sỹ không hề bị xây xước. Hai hiệp sỹ vội vàng áp sát cung điện, lúc đó đột nhiên nghe thấy một tiếng gầm khủng khiếp: "Hãy quay về đi!! Phàm là người nào đã đến núi thánh nơi ở của thần, nếu người nào chỉ cần nhìn thấy mặt thần thì người đó sẽ nhận lấy cái chết". Trong Kinh thánh cũng có đoạn ghi như vậy "Người không thể nhìn được mặt ta, người nhìn mặt ta sẽ không thể sống được".
Bản thứ 7 thuật lại cảnh loài ngoài lần đầu tiên nhìn thấy Trái đất từ Vũ trụ. Anjitu bị móng đồng của con chim ưng lớn quắp lấy bay trong không trung. Trong sách ghi lại như sau:
Ngài nói với ta rằng: "Mi hãy nhìn xuống dưới đất mà xem, mặt đất giống cái gì? Mi hãy nhìn lại biển xem biến giống cái gì? Mặt đất giống ngọn núi cao, mặt biến giống như một cái hồ. Bay thêm một giờ đồng hồ nữa, lại hỏi ta "Mi hãy nhìn xuống dưới đất mà xem, mặt đất giống cái gì? Mi hãy nhìn lại biển xem biển giống cái gì?" Mặt đất lúc này giống như một khu vườn, mặt biển giống như một bồn nước trong vườn hoa. Lại bay thêm 4 tiếng nữa hỏi: "Mi hãy nhìn xuống dưới đất mà xem, mặt đất giống cái gì? Mi hãy nhìn lại biển xem biển giống cái gì?" Mặt đất như cháo loãng, mặt biển như chậu nước".
Nhất định phải có một sinh vật nào đó đã nhìn Trái đất từ trên trời cao. Ở bản này còn kể rằng, một cánh cửa đã nói giọng như một con người, điều này khiến người ta nghĩ ngay tới phát thanh.
Đến bản thứ 8, Anjitu đã từng nhìn thấy Trái đất từ trên cao ấy đã bị chết vì một bệnh rất lạ. Gilgamesh hỏi có phải Anjitu đã bị trúng khí độc do một loài dã thú trên trời có thể gây nên một chứng bệnh không thể điều trị liệu được ở người.
Bản thứ 9, kể lại câu chuyện Gilgamesh vô cùng thương tiếc người bạn Anjitu bèn quyết định lặn lội dặm trường đi tìm thần, bởi vì ông ta lúc nào cũng nghĩ rằng sẽ chết bì căn bệnh giống như bệnh của Anjitu. Gilgamesh đi đến chân 2 ngọn núi chống trời, vắt ngang qua 2 ngọn núi là Cổng Mặt trời. Trước Cổng Mặt trời, ông ta đã gặp 2 người khổng lồ. Phải thương lượng cả một ngày, Gilgamesh mới có thể vào được. May mắn vì ông ta 2/3 là thần, nên một lát sau Gilgamesh đã tìm thấy vườn hoa của thần ở bên một bờ biển rộng lớn. Khi Gilgamesh đang trên đường đi, thần đã cảnh cáo ông ta 2 lần: "Hỡi Gilgamesh, mi đi đâu? Mi không tìm được tính mạng mà mi muốn đâu. Khi thần tạo ra người, thì đã xếp đặt trước vận chết rồi, còn tính mạng là do thần tự thân nắm quản". Gilgamesh không nghe khuyến cáo, quyết tâm tiến bước, cho dù có bao nhiêu nguy hiểm, ông ta
Người anh hùng Gilgamesh
(Ảnh: planetxvideo)
nhất định phải đến được nơi ở của Utenapise. Nhưng Utenapise lại ở một bờ biển rất xa xôi, ở đó không có đường đi, ngoài con tàu của Thần Mặt trời ra thì không có một con tàu nào khác có thể bay được qua biển rộng. Gilgamesh đã vượt qua bao nguy hiểm, biết dựa vào trí thông minh của mình để vượt qua biển rộng.
Về sau, bản thứ 10 đã tả lại cảnh ông ta tới gặp Utenapise, cha của loài người có eo lưng không thô hơn eo lưng ông, vai cũng không rộng lớn, mà là người có vóc dáng như ông ta. Utenapise nói rằng, 2 người trông rất giống cha họ. Tiếp đó, Utenapisa kể lại cho Gilgamesh nghe những việc mà Gilgamesh đã trải qua, kỳ lạ là ông ta lại dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất để kể. Thật ngạc nhiên là Utenapise đã miêu tả hết sức tỷ mỷ nạn Hồng Thủy. Ông ta kể rằng, thần đã cảnh cáo ông ta có nạn Đại Hồng Thủy, để ông ta đóng một con thuyền, dùng để cứu trẻ em, phụ nữ, những người thân của ông ta cùng với các nghệ nhân của các ngành nghề. Ông ta đã miêu tả nhiều cảnh phong ba bão táp, nước thủy triều ầm ầm dâng cao màn đêm đen đặc cùng với những con người mà ông ta không thể cứu vớt hết được, cho đến ngày nay cảnh tượng ấy vẫn còn sinh động và có sức cuốn hút kỳ lạ. Câu chuyện này thật giống với câu chuyện của Noê trong Kinh Thánh, chúng ta lại được nghe câu chuyện thả quạ và chim bồ câu, câu chuyện sau khi nước rút thuyền bị mắc cạn trên một ngọn núi.
Căn cứ vào những miêu tả ở trên, chúng ta có thể đặt một giả thiết về lịch sử mơ hồ của loài người như sau: Từ thuở rất xa xưa, có một phi thuyền Vũ trụ không rõ từ đâu phát hiện ra sự tồn tại của hành tinh chúng ta. Họ nhanh chóng hiểu ra rằng, Trái đất có đầy đủ điều kiện thuận lợi cho việc phát triển trí tuệ con người. Đương nhiên thời ấy loài người trên Trái đất không phải là loài người chúng ta bây giờ.
Người ngoài hành tinh đã thụ tinh cho một số phụ nữ ở Trái đất, giống như lời kể trong truyện thần thoại, họ đợi cho những phụ nữ này ngủ say rồi bỏ đi. Mấy nghìn năm sau, những người khác ngoài hành tinh lại tới Trái đất, họ tìm thấy sản phẩm là hậu duệ của họ để lại. Họ lại tiếp tục tiến hành giao phối nhiều lần cho đến khi tạo ra được một loại sinh vật có trí tuệ để họ có thể truyền thụ cho loài sinh vật này kỹ năng sinh tồn và những quy luật sống của xã hội.
Loài người thời đó là loài dã man chưa được khai hóa, họ rất có thể bị thoái hóa nên một lần nữa giao phối với dã thú. Người ngoài hành tinh đã nhìn thấy mối nguy hiểm này, nên đã tiêu diệt cái sản phẩm không thành công của họ, hoặc đem chúng đến một vùng đất khác. Vì vậy, xã hội nguyên thủy, kỹ năng nguyên thủy nhất đã bắt đầu xuất hiện, những bức tranh vẽ trên vách đá và trong hang động, làm ra đồ gốm, rồi tới những kiến thức ban đầu về việc dựng nhà ở, từng thứ một cứ dần dần xuất hiện. Những người nguyên thủy này vô cùng sùng kính những người khách tới từ trời cao. Bởi vì những vị khách này tới từ một nơi mà loài người không hề biết, hơn nữa sau này họ lại bỏ đi mất
Bí ẩn 'thung lũng chết' ở Siberia - 13/4/2006 7h:32
Yakutia (Ảnh: skitalets)
Nằm ở phía Tây Bắc Yakutia - Siberia, gần thượng lưu sông Viliuy có một thung lũng kỳ lạ, nơi dấu vết của nhiều sự biến đổi lớn về địa chất trong lòng đất xảy ra cách đây hàng trăm năm. Ở khu vực này, người ta còn tìm thấy các mảnh kim loại lạ nằm sâu dưới lớp đất, cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa thể xác định được thành phần hóa học của chúng. Tên gọi theo tiếng địa phương của vùng đất này là Uliuiu Cherkechekh, còn gọi là "thung lũng chết".
Khu vực này trải rộng trên một diện tích hơn 1000 km2, được bao phủ bởi các cánh rừng Taiga rộng lớn với rất nhiều đầm lầy, các miệng núi lửa và là nơi hằn in dấu vết các vụ va chạm thiên thạch với Trái đất.
Xưa kia, vùng đất này là nơi qua lại của những người dân du mục Evenk. Họ đến từ Bodaibo, qua Annybar để ra biển Laptev. Những người du mục kể lại rằng, họ thường thấy những tấm kim loại có màu sắc giống như đồng, nhưng rất cứng và sắc, có thể cắt được kim loại khác một cách dễ dàng. Mỗi tấm có đường kinh từ 6-8m, bao phủ bên ngoài lớp vỏ kim loại là một lớp giống như bột mài. Khi dùng dao để cứa vào nó, người ta không thấy bất kỳ một vệt xước nào để lại trên bề mặt. Qua phân tích, các nhà khoa học nhận thấy những tấm kim loại này là mảnh vỡ của các khối hình tròn lớn chứa đủ nhiều người bên trong.
Mảnh vỡ của các khối hình tròn lớn
(Ảnh: bibliotecapleyades)
Năm 1936, trong lúc thám hiểm "thung lũng chết", một nhà địa chất học người Nga đã phát hiện ra một khối bán cầu bằng kim loại có sắc đỏ, nhô lên từ mặt đất. Khối bán cầu này đủ lớn để chứa 2 người nằm gọn bên trong. Khi đó, nhà địa chất chưa có đủ dụng cụ đo đạc cần thiết cũng như kiến thức để xác định đó là cái gì. Đến năm 1979, một nhóm khảo cổ khác đến nơi này cùng nhà địa chất người Nga trên, thì mặt đất ở đó đã trống trơn.
Những người dân sống ở gần 'thung lũng chết" kể rằng họ tận mắt chứng kiến nhiều hiện tượng lạ xảy a ở khu vực, như các khối cầu khổng lồ bay lên từ lòng đất, phá nổ và bắn ra các mảnh kim loại trên, hiện tượng sét khô, sét hòn và dấu vết để lại của các vụ va chạm thiên thạch đến từ ngoài Trái đất. Nhiều người cho biết họ đã tận mắt chứng kiến các khối cầu lửa hình nấm bốc lên trời như vụ nổ của một quả bom hạt nhân. Đặc biệt, người ta nhận thấy ở đây cây cỏ mọc không giống cây cỏ tự nhiên. Chúng rất xanh tốt, lá rộng hơn bình thường và có rất nhiều nhánh. Cỏ cũng rất lớn và có chiều cao gấp đôi thân người.
Một trong những truyền thuyết kỳ lạ nhất về "thung lũng chết" được những người dân du mục Yakut kể lại rằng: "Vào một ngày nọ, giữa lòng thung lũng đột nhiên bị bao phủ bởi các đám mây mù xám xịt và bị sét đánh dữ dội. Một cơn lốc xoáy khổng lồ bốc lên từ dưới mặt đất, bụi bay mù mịt hàng trăm dặm. Vật thể lạ này có màu
Ánh sáng rực rỡ lan tỏa, sau đó là những tiếng nổ inh tai (Ảnh: nexusmagazine)
đỏ giống màu đồng và phát ra những âm thanh rất chói tai. Ít lâu sau, nó biến mất dưới lòng đất sâu, để lại miệng hố khổng lồ có bán kính rộng đến 20m. Người ta kể lại rằng, bất cứ ai tò mò muốn đến gần miệng hố xem điều gì đã xảy ra đều không bao giờ quay trở lại. Sau đó ở khu vực này xuất hiện các khối cầu lửa khổng lồ vọt lên từ dưới mặt đất. Khi chạm đất, chúng gây ra các tiếng nổ khủng khiếp và tạo ra các hố sâu đến 100m ở khu vực núi bao quanh thung lũng. Sau khi xảy ra các vụ nổ trên, những người dân du mục phải rời bỏ nơi đây để tìm đến các vùng đất an toàn hơn cho cuộc sống của họ".
Theo các nhà khoa học, những vụ nổ kỳ lạ trong truyền thuyết trên rất giống với các vụ nổ hạt nhân ngày nay. Họ cũng phát hiện ra rằng, những tàn tích còn sót lại ở "thung lũng chết" có nhiều điểm gần giống với những bí ẩn của nền văn minh cổ đại Maya thuộc Mexico (đã biến mất từ năm 830 sau ảnh hưởng của một vụ nổ được tạo ra bởi một sức mạnh bí ẩn mà cho đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân). Đặc biệt, ở "thung lũng chết" vào một số thời điểm nhất định trong ngày, các nhà khoa học đã đo được mức phóng xạ cao hơn bình thường từ dưới lòng đất.
Các nhà khoa học cho rằng, ẩn sâu dưới lớp đất của "thung lũng chết" tồn tại sự hoạt động mạnh của các dòng từ trường. Do trước đây quân đội Liên Xô đã chọn nơi này để thử nghiệm vũ khí hạt nhân nên trữ lượng phóng xạ còn sót lại kết hợp với từ trường trong đất đã khiến cho vùng này bị nhiễm xạ nặng. Mặc dù vậy, người ta vẫn chưa giải thích được nguồn gốc của các tấm kim loại lạ được tìm thấy ở đây và chưa phân tích được thành phần hóa học của nó. Một số người thậm chí cho rằng đây chính là mảnh vỡ của các đĩa bay đến từ ngoài Trái đất, vì nhiều người ở khu vực này đã tận mắt chứng kiến các vật thể lạ phát sáng bay lên từ lòng thung lũng. Cho đến nay, những bí ẩn về vùng đất này vẫn chưa được sáng tỏ.
Bí ẩn về di tích Zimbabwe - 5/1/2006 8h:10
Cái tên Zimbabwe gợi cho ta sự liên tưởng không giới hạn. Theo tiếng Tây Ban Nha thì Zimbabwe có nghĩa là "ngôi nhà đá khả kính", "nhà đá". Ngoài ra, có một số người cho rằng, Zimbabwe là từ đồng âm của "mazimbwe", trong tiếng Seichanne ý nghĩa của nó là "nhà ở của tù trưởng". Lại có ý kiến cho rằng, nó là "mỏ giàu có"... Tất cả những gợi mở ấy đã phủ lên Zimbabwe, quốc gia lục địa và những di tích cổ đại nằm trong đó một màu sắc huyền bí.
Vào năm 1868, một đoàn các nhà thám hiểm Châu Âu đi du lịch Châu Phi đuổi theo một con dã thú trong rừng già rậm rạp cách thành Victoria vùng Zimbabwe khoảng 30km, bỗng nhiên họ phát hiện ra một bãi đá hoang tàn rộng mênh mông. Đó chính là "Đại Zimbabwe" nổi tiếng Thế giới sau này.
"Đại Zimbabwe" tuy phần lớn đã bị hư hỏng, nhưng vẫn còn một số đặc điểm thể hiện được vẻ hùng vỹ tráng lệ của một quần thể kiến trúc cổ đại, và được bảo tồn đến ngày nay.
Chủ thể kiến trúc là một khu đất bằng nằm dưới chân núi biểu thị sự huy hoàng nhất của "Đại Zimbabwe". Bức tường vây bên ngoài có hình bầu dục nên gọi là tường vây lớn hình bầu dục. Trên ba mặt tường thành Đông, Tây, Bắc trỏ ba cửa, bên trên mỗi cửa đều xây vòm bằng đá hoa cương lớn. Phía trên của tường vây có đắp các hoa văn cứng nhưng dài và mảnh, có những đầu còn chạm khắc chim đá hình thù lạ lùng. Phía Đông Nam tường vây còn có một tường đá song song với tường vây, khoảng cách giữa chúng độ 1m, cùng với tường vây hình thành một con đường hẹp dài 100m, cuối con đường này là khu vực nửa kín giống như một cái sân. Bên trong tường vây có những tháp đá cao, có hình nón; có những bia đá, hầm ngầm, giếng nước và một số vách đá nham nhở, giống như di tích cung đình cổ. Gần tường vây còn có rất nhiều ngôi nhà nhỏ.
Trong toàn bộ quần thể kiến trúc Đại Zimbabwe, điều thần bí nhất là những tháp đá hình nón bên trong tường vây hình bầu dục. Đây là kiến trúc đá hoa cương đặc ruột, trên nhỏ dưới to, cao khoảng hơn 20m, không hề có một ký tự gì. Nó chủ yếu được tạo bởi những khối đá hoa cương được đục đẽo thành gạch có lỗ mộng, xây theo quy tắc đường nét của một đồ án nhất định. Giữa các viên gạch đá không hề có vết tích đã dùng vôi vữa hoặc chất kết dính nào gắn lại, những chỗ tiếp giáp giữa các viên gạch rât khít nhau, muốn lùa một lưỡi dao mỏng vào cũng khó. Không biết chúng đã trải qua bao nhiêu năm tháng nếm trải, bao nhiêu cuộc bể dâu của thế gian này?
Từ năm 1868 trở lại đây, từng đoàn thám hiểm châu Âu và các nhà khoa học hằng hải đến miền Nam châu Phi tìm tòi mọi dấu tích trên mảnh đất thần kỳ này. Họ đã tiến hành khảo sát nhiều lần, muốn làm rõ sự huyền bí nội tại của Đại Zimbabwe. Tháp hình nón, ở bên trong tường vây của Đại Zimbabwe là vấn đề người ta khảo sát đầu tiên. Nhà khảo cổ học người Anh là Cotlan Bethe đã từng bỏ ra nhiều tiền của, sức lực đào một đường hầm với quy mô lớn xung quanh tháp hình nón và xuyên qua tháp, hòng tìm được lối vào. Ông phát hiện ra các tháp này đặc ruột, cửa vào cho đến nay vẫn chưa tìm thấy, cũng có thể nó vốn không có cửa. Các nhà khảo cổ học không khỏi không thắc mắc tháp khổng lồ chọc trời này có tác dụng gì?
Vấn đề này được bàn thảo với nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng: hình dáng bên ngoài của tháp giống kho lương thực lớn. Nhưng toàn bộ tháp là một chỉnh thể đặc ruột thì làm sao có thể cất trữ lương thực? Cũng có người cho rằng, nó là vật tượng trưng cho bộ phận sinh dục nam, là một linh vật mà nghi thức tôn giáo cổ đại nào đó đã dùng, nó đại diện cho tinh thần bộ lạc mạnh mẽ hoặc quyền lực tối cao của tù trưởng bộ lạc. Nhưng tất cả những ý kiến này đều thiếu chứng cứ thuyết phục, thêm vào đó lại không có sử liệu ghi chép gì.
Đối với người châu Âu, Đại Zimbabwe phải là một quốc gia thời hoàng kim tồn tại trong truyền thuyết. Họ cho rằng, nó rất giống sử sách châu Âu, rất có khả năng đó chính là khu đất có mỏ vàng của Quốc vương Salomon được nhắc tới trong Thánh kinh cựu ước. Tường bảo vệ thành được xây dựng mô phỏng theo kiểu mà Vua Salomon xây dựng cung điện trên núi Molia.
Kiểu suy luận chủ quan này một dạo đã dấy lên cơn sốt tìm vàng của người châu Âu. Không ít người châu Âu sau khi đến thành đá này thuê dân địa phương cùng những phương tiện cơ giới tiên tiến, tiến hành đào bới toàn bộ khu di tích, đào đến độ sâu 3m. Họ lấy đi tất cả các văn vật, trừ đá hoa cương. Tất cả các tài liệu, bao gồm một số tài liệu lịch sử có thể nói rõ sự thật lịch sử cũng bị lấy đi. Do vậy, các nhà khoa học đã không kịp tiến hành nghiên cứu, khai quật khu vực thành đá này.
Trong những năm tháng sau này, người ta tiến hành khai quật xung quanh Zimbabwe đã đào được lượng lớn văn vật, trong đó có vũ khí, công cụ lao động và một ít đồ trang sức được chế tác rất tinh xảo và đẹp. Một số đồ đó được đưa đến từ Trung Quốc, Ả Rập, Ba Tư và cả từ Ấn Độ xa xưa. Từ những văn vật tìm thấy trong lòng đất khu vực này, ít nhất chúng ta cũng có thể nhận thấy, ở nơi thành đá bị tiêu vong này từng có sự trao đổi về văn hóa, mậu dịch từ lâu đời với Trung Quốc và Ả Rập và Ba Tư cổ xưa. Nhưng trong các sách cổ của Trung Quốc, Ả Rập, Ba Tư hiếm thấy những ghi chép về hoạt động buôn bán với Zimbabwe.
Rất có thể những di vật này được nhân vật trung gian nào đó đưa tới buôn bán ở Zimbabwe. Nhân vật trung gian này là ai, chúng ta cũng chưa được biết. Từ những tháp hình nón hùng vĩ, chúng ta còn thấy được kỹ thuật xây dựng thời bấy giờ ở đây đã đạt đến một trình độ rất cao. Nói một cách khác, những người xây dựng tháp hình nón này ngay từ rất sớm đã nắm được tri thức về hình học, kiến trúc học, lực học,...
Bí ẩn về sự mất tích của Vương quốc Khazalle - 22/1/2006 6h:51
Khazalle là một Vương quốc phồn thịnh nằm bên bờ Sông Iquille và đầu nguồn Sông Gorgan. Quốc vương Joseph chiếm lĩnh khu vực châu thổ, chắn giữ cửa ngõ tấn công vào người Nga. Rất nhiều bộ tộc đến đây sinh sống và cống nạp cho triều đình Joseph.
Trong ba thành phố bên Sông Iquille có một thành phố là quê hương của quốc vương và hoàng hậu Joseph; một thành phố là nơi cư trú của người theo đạo Do Thái, Cơ Đốc và người Tây Ban Nha và thành phố thứ ba do quốc vương Joseph thống lĩnh. Thành trì ở đây có kết cấu hình bầu dục, là nơi ở của các đại thần, nô lệ và thần dân của quốc vương. Ở vương quốc Khazalle, người ta không gặp những trận mưa lớn nhưng gặp một hệ thống sông hồ ngang dọc, đi đâu cũng nhìn thấy đất đai màu mỡ phì nhiêu, sản vật phong phú, những cánh đồng bao la với các vườn nho, vườn hoa xanh ngút ngàn.
Cho đến nay, những dẫn chứng trên là tư liệu lịch sử duy nhất được phát hiện do chính người Khazalle tự nói về đất nước mình. Các tài liệu khác đều là thư của quốc vương Joseph viết cho một đại thần người Ả Rập tên là Hassan Sufourt.
Các nhà nghiên cứu lịch sử luôn hoài nghi về tính chân thực của bức thư này. Đến thế Kỷ XX họ mới tìm được lá thư của Hassan Sufourt gửi tại Cairo - Ai Cập. Vị đại thần này giữ chức Vương công tại Tây Ban Nha vào Thế kỷ X. Trong bức thư, Hassan đề nghị Hoàng đế Bizantine cấp cho ông ta một chiếc thuyền để đến Khazalle. Lúc đó Bizantine đang giao chiến với Khazalle. Có người ở thành Koustantin - Thủ đô của Bizantine đã viết thư trả lời Hassan rằng, từ thành Koustantin đến vương quốc Khazalle phải mất khoảng 15 ngày đường, đi theo đường bộ phải đi qua nhiều quốc gia. Lá thư của người đó còn thông báo cho ông ta biết tên của quốc vương Khazalle là Joseph. Nhận được thư rất có thể Hassan đã viết thư cho Quốc vương Joseph để hỏi vị trí của vương quốc Khazalle. Và quốc vương Joseph đã viết một bức thư ngắn gửi cho Hassan giới thiệu vị trí và tình hình của vương quốc. Đây cũng là tư liệu tham khảo quan trọng để các nhà sử học nghiên cứu chính xác về vương quốc Khazalle.
Ngoài ra, trong tư liệu văn hiến của nước Nga, Bizantine, Armenia đã nói rõ vương quốc Khazalle từng là một vương quốc hùng mạnh giàu có, thành trì được phòng thủ kiên cố và có những công trình kiến trúc lớn. Đất nước này, khí hậu ôn hòa mát mẻ. Lực lượng quân sự của Khazalle tương đối hùng mạnh, họ có một đội quân rất hùng hậu từng xâm lược lãnh thổ của người Armenia. Người Gruzia nói quốc vương Joseph vì không lấy được Công chúa của đại công quốc Gruzia làm vợ bèn dùng sức mạnh quân sự phá hủy Thành Tbilisi. Biên niên sử của người Ả Rập nói, các dân tộc từ sông Donau đến mạn Bắc sông Ural đều phải tiến cống cho vương quốc Khazalle. Người Ả Rập cũng phải công nhận vương quốc Khazalle là nơi án ngữ con đường thông thương buôn bán chính giữa vương quốc Bizantine với Trung Quốc. Người Nga đã từng giao chiến với người Khazalle, năm 965, hai bên đã có một cuộc chiến tranh khốc liệt, cuối cùng người Nga đã chiếm được thủ đô Iquille của người Khazalle. Rồi từ vùng châu thổ sông Volga người Nga men theo hồ Caspian đánh thẳng xuống thành Siedlce của vương quốc Khazalle.
Vương quốc Khazalle là một nước lớn, từng xưng bá một phương, từng tồn tại cách đây hơn 1000 năm. Nhưng cho đến nay, gần như không có tài liệu để tham khảo nên các nhà nghiên cứu lịch sử vẫn chưa tìm ra nó nằm ở vị trí nào. Con sông Gorgan mà quốc vương Joseph đề cập trong thư ở đâu? Có phải đó là một nhánh của sông Volga, hay một con sông nào khác nữa? "Khu vực châu thổ" mà quốc vương Joseph viết trong thư là để chỉ nơi nào? Trong thư quốc vương còn nói, thần dân của ông "nhiều như cát". Vậy thần dân của quốc vương có bao nhiêu người? Do không có tư liệu ghi chép về vương quốc Khazalle nên các nhà nghiên cứu không thể tiến hành khảo sát để tìm di chỉ. Sự mất tích của vương quốc Khazalle luôn cám ảnh các nhà nghiên cứu sử ngày nay.
Sông Volga (Ảnh: blueheart)
Một vài học giả dự đoán, vương quốc Khazalle đã bị hồ Caspian nuốt chứng. Vào thế kỷ VII, vương quốc Khazalle có nhiều cánh đồng phì nhiêu màu mỡ. Vương quốc Khazalle khống chế đường thủy trên sông Volga và trở thành chủ nhân của vùng châu thổ sông Volga. Nhưng cũng từ hồ Caspian bắt đầu lần dần ra bờ biển. Năm này qua năm khác, hồ Caspian vô tình nuốt chửng những cánh đồng, những vườn cây, thôn làng của người Khazalle. Đến thế kỷ XIX, các thành trì của vương quốc Khazalle cuối cùng cũng bị hồ Caspian nuốt chửng. Rất nhiều tư liệu đã cung cấp những chứng cứ đáng tin cậy về việc vương quốc Khazalle bị nhấn chìm bởi hồ Caspian.
Tuy nhiên, lời giải thích này vẫn chưa thể thuyết phục mọi người. Nếu nói vương quốc Khazalle bị hồ Caspian nhấn chìm theo năm tháng thì những cư dân của vương quốc này có rất nhiều thời gian để chuyển đến nơi khác. Vậy thì họ đã chuyển đến đâu? Hậu duệ của họ hiện sống ở nơi nào? Ngoài ra, Khazalle là một vương quốc giàu có, đất rộng người đông, nếu bị nhấn chìm thì trên thềm lục địa phải để lại di chỉ và tàn dư của sự đổ nát. Tuy nhiên, hiện nay người ta vẫn chưa phát hiện được một vết tích nào của vương quốc này.
Biên niên sử của Bizantine cho biết, vùng Sakiel của Khazalle nằm bên dòng sông Don, trên con đường chính đến Iquilla, đã từng bị Đại công quốc Kifev Svuilatosarap phá hủy. Giáo sư khảo cổ học người Liên Xô (cũ) - Artamop đã tiến hành khảo sát lại một lần nữa. Cuối cùng ông đã tìm ra vị trí của Shakiel và khai quật. Đáng tiếc là Artamop đã không phát hiện được bất cứ văn vật nào của người Khazalle. Artamop buồn bã nói: "Cho đến nay chúng ta vẫn không hề biết gì về người Khazalle". Lịch sử về vương quốc Khazalle đã bị cuốn mất như một áng mây khiến chúng ta không tài nào phán đoán được.
Bí ẩn về tường vây dưới đáy biển - 10/1/2006 7h:0
Từ rất lâu, từng có một nhà tiên tri đưa ra lời dự đoán: Đảo Atlantic - hòn đảo bí ẩn bị chìm dưới đáy biển cuối cùng sẽ xuất hiện ở gần quần đảo Bahama vào năm 1969, lúc đó đã không ai tin vào dự đoán này.
Năm 1969, nhà thám hiểm Robert Feropormi Gran, người Mỹ đã đến đảo Bimili thu thập tư liệu. Ngày 26 tháng 2, đoàn thám hiểm thả neo cách bờ Bắc đảo Bimili 1,4 hải lý. Khi đang đứng hít thở làn gió biển mát rượi và ngắm nhìn những làn nước biển màu xanh, họ bất ngờ phát hiện ra một mỏm đá trong nước rất khác lạ giống như những hình vẽ do con người tạo nên. Họ lập tức lặn xuống đáy biển và vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy hình trạng của mỏm đá dưới đáy biển rất lớn, rất quy củ. Mỗi hòn đá lớn dài khoảng 6m, cao 3m và rộng 1,2m. Những hòn đá này ghép liền nhau dài khoảng 213m. Theo lời giải thích của người hướng dẫn viên du lịch đi cùng đoàn, vào thập niên 20 của thế kỷ XX, khi xây dựng thành Maianmi, những người thợ phá đá đó từ đâu ra, tại sao lại có hình trạng như vậy thì không ai giải thích được.
Từ những phiến đá chìm dưới đáy biển ấy có thể nhận thấy được kỳ tích rèn luyện của người công nhân. Nhưng các nhà khảo cổ học dự đoán, những hòn đá này chìm trong nước ít nhất đã hơn 10.000 năm. Vậy 10.000 năm trước, những hòn đã này là cái gì và có tác dụng gì? Có người cho rằng đó là mặt tường, nhưng sử sách chưa hề đề cập đến sự tồn tại của thành phố này vào 10.000 năm trước. Do đó người ta kết hợp những phiến đá này với đảo Atlantic trong truyền thuyết lại thì thấy rất trùng hợp với thời gian mà nhà tiên tri nọ dự đoán. Không biết đây có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà kỳ diệu hay không?
Tháng 7 năm 1969, hai thợ lặn đã phát hiện thấy một số trụ lớn dưới nước cách không xa bờ Tây đảo Bimili. Những trụ này có cái nằm ngang, có cái dựng đứng dưới lớp bùn cát của đáy biển. Sau khi phân tích kiểm tra kỹ lưỡng, họ đã chứng minh được nguồn gốc của các trụ đá này không phải ở đảo Bimili.
Các thợ lặn còn phát hiện, cách đảo Bimili không xa, còn có một số bức tường thấp vây quanh đảo nhỏ. Các nhà khảo cổ dự đoán, từ rất xa xưa, trên đảo Bimili ắt đã có một bức tường vây cao lớn. Nhưng điều người ta không giải thích được là: Ngoài bức tường vây ở đó gần như không có kiến trúc nào khác. Vậy vào thời đó bức tường vây dùng để làm gì? Có phải bức tường vây này ẩn chứa bí mật nào không? Về sau, vì nguyên nhân gì khiến bức tường bị chuyển dịch từ trên đảo xuống biển? Đó là những bí ẩn khó giải đáp ngay được.
Có người cho rằng, do đáy biển không yên tĩnh, sự chìm nổi của đảo là chuyện thường tình. Một vạn năm trước là khoảng thời gian rất dài đủ để đảo nhỏ có thể đã bị chìm xuống đáy biển rồi bao nhiêu năm sau lại nổi lên hoặc có thể bức tường vây bị sóng biển làm trôi xuống đáy biển. Tuy nhiên, cách giải thích này không có sức thuyết phục. Trên đảo không hề để lại vết tích nào cho thấy từng bị nước biển tràn qua. Cũng có nhà khảo cổ học cho rằng, bức tường vây được xây dưới nước, nhưng xây tường dưới nước có tác dụng phòng ngự ư? Nếu không phát huy tác dụng phòng ngự thì bức tường vây còn phát huy tác dụng gì? Một địa điểm liên lạc, một ký hiệu hay là một thuyết minh (một lời giải thích)? Cũng có người mạnh bạo cho rằng, đây là sản phẩm của tự nhiên, không hề có liên hệ gì với con người. Tuy nhiên, đáp án cuối cùng của bí ẩn này là gì? Những hòn đá này đến từ đâu? Bức tường đó do ai xây dựng và ẩn chứa bí mật gì? cần phải đợi các nhà khảo cổ học tiếp tục nghiên cứu và đưa ra câu trả lời xác đáng
Bí mật tiếng gọi lúc mờ sáng - 17/7/2006 8h:7
Đã hơn một tháng, Anna Bray, một phụ nữ độc thân 30 tuổi, sống tại thành phố Manchester (Anh) nhận thấy có những dấu hiệu rất kỳ quặc trong giấc mơ của mình. Cô thấy trong mơ rằng có ai đó thỉnh thoảng lại thì thầm vào tai cô: "Dậy đi, dậy đi Anna". Cô liền trở dậy, chân tay có vẻ chới với rất lạ.
Tiếng gọi ấy rõ lắm. Anna không nghe nhầm và dường như tiếng thì thầm ấy phát ra từ phía tường bên trong chứ không phải là từ phía cửa sổ. Lẽ ra Anna không lưu tâm nhiều đến chuyện này nếu như khi tỉnh dậy không có gì xảy ra. Các nhà tâm lý đã chứng minh được rằng những người sống độc thân thường có ảo giác và nghe được những tiếng gọi tên mình như vậy trong mơ. Nhưng trường hợp của Anna có điều gì đấy rất kỳ quặc.
Khi tỉnh dậy, cô lại thấy chăn màn đã được gấp lại gọn gàng; bình nước cá vàng trong vắt như có ai đó vừa thay nước; bộ quần áo công sở đã được là gọn gàng và treo trên mắc; cửa sổ thì mở toang ra... Đó là những công việc mà cô thường làm mỗi khi thức dậy. Điều này đã khiến Anna không khỏi lo âu. Phải chăng có ai đó đã lẻn vào phòng khi cô đang ngủ say và làm hết tất cả những công việc đó?
Thật là một câu chuyện giống như chuyện cổ tích. Anna càng hãi hùng hơn khi nghĩ rằng đó là do cô bạn thân Brige trở về làm giúp cô những việc đó. Brige đã chết trong một tai nạn xe hơi từ lâu. Nỗi sợ này ngay lập tức ám ảnh vào giấc ngủ của Anna và cô nghe thấy chính Brige gọi mình. Cuối cùng Anna tìm đến các bác sĩ tâm lý.
Người ta cho rằng Anna bị ấn tượng rất nặng nề về cái chết của Brige nên tâm lý bị rối loạn, trí nhớ cũng không bảo đảm. Những công việc đã hoàn tất khi Anna tỉnh dậy rất có thể là cô đã làm vào buổi tối. Anna quả quyết rằng, cô không bao giờ thay bình nước nuôi cá vàng vào buổi tối. Nhưng cô thú nhận là thỉnh thoảng mình cũng là quần áo trước khi đi ngủ để buổi sáng có thời gian ngủ được muộn hơn.
Các bác sĩ giữ nguyên kết luận của mình rằng Anna đã bị rối loạn trí nhớ vì cái chết của bạn mình. Chính cô đã đi cùng Brige trên chiếc xe đó nhưng may mắn thoát chết. Để tránh những ám ảnh đó, các bác sĩ khuyên cô không nên ngủ một mình. Anna gọi điện cho một cô bạn gái đến ngủ cùng. Đêm đầu tiên, hai người bạn thức khuya nói chuyện. Hôm đó Anna chìm vào một giấc ngủ sâu và sáng dậy, cô thấy rất vui khi những công việc buổi sáng của mình vẫn còn nguyên, quần áo vẫn vắt trên đi văng, bình nước cá vàng vẫn đục ngầu...
Nhưng mọi việc lại bắt đầu vào đêm thứ ba. Cô bạn vẫn ngủ cùng. Anna lại mơ thấy tiếng ai đó thì thầm gọi mình trong giấc ngủ và sáng hôm sau quần áo lại được "ai đó" là sẵn. Anna lại đến bác sĩ. Người ta khuyên cô cứ trở về ngủ bình thường, họ sẽ tìm cách chữa trị khác. Đêm hôm đó, các bác sĩ cử người bí mật đến theo dõi phòng ngủ của Anna.
Anna trở dậy, mắt nhắm nghiền và làm chính xác mọi việc thường ngày (Ảnh minh họa: fogato.com)
Căn phòng chìm trong ánh sáng lờ mờ, hồng nhạt của ngọn đèn ngủ. Anna Bray và cô bạn vẫn đang ngủ say. Trên chiếc giường rộng có rất nhiều gối nhỏ. Cửa sổ mở hé. Bầu trời đêm yên tĩnh không có sao. Đã hơn ba giờ sáng, cửa sổ phòng Anna khẽ rung rinh. Không có gì hết. Nó chỉ là một ngọn gió buổi sáng khẽ lùa vào phòng. Đột nhiên Anna trở dậy. Cô khẽ khàng không động đến cô bạn đang ngủ say.
Cô bật đèn lên, uể oải vươn vai rồi đẩy rộng cánh cửa sổ ra cô đi vào phòng tắm. Một lát sau, Anna trở lại phòng, cô lấy bàn là là quần áo công sở rồi vắt chúng lên mắc, sau đó đi thay nước bình cá vàng. Cuối cùng Anna xếp lại những chiếc gối còn thừa trên giường, tránh đụng đến cô bạn đang ngủ. Xong việc, Anna lại nằm xuống giường và ngủ tiếp.
Phát hiện này khiến các bác sĩ rất kinh ngạc.
Họ quyết định bí mật cử nhiều người đến quan sát và tiếp cận gần hơn nữa căn phòng của Anna. Cuối cùng, sau khi đã báo cho cảnh sát biết, một bác sĩ đã tìm cách lọt được vào phòng ngủ của Anna và nấp ở đó chờ đợi. Anh ta nhận thấy rằng Anna trở dậy, mắt nhắm nghiền nhưng các cử động lại rất chính xác. Cô làm việc, đi lại không hề va vấp vào các đồ vật trong phòng. Thậm chí ngay cả khi từ phòng tắm bước ra, Anna cũng vẫn nhắm nghiền mắt.
Trường hợp của Anna có những biểu hiện giống bệnh mộng du. Nhưng ở những người mộng du thường chỉ đứng dậy và đi đứng loanh quanh một hồi rồi lại nằm xuống chứ không thể đi rất lâu, làm nhiều việc, thậm chí làm cả những công việc tác động lên thân thể mình như việc tắm giặt nữa. Các bác sĩ tâm lý xác nhận rằng Anna không phải là trường hợp duy nhất có những hành động kỳ lạ như thế.
Người ta đã phát hiện ở vùng nông thôn kề cạnh thủ đô London (Anh) có một người đàn bà tên là Merey, 34 tuổi và một người đàn bà khác tên là Dlune ở New York, Mỹ... Khoảng hơn chục người có những biểu hiện như Anna xuất hiện ở Mỹ và Anh. Điều lạ lùng là họ giống nhau ở đặc điểm: sống độc thân và từ ba mươi tuổi trở lên. Điều đặc biệt hơn nữa là mặc dù đã nhiều tuổi như vậy, lại sống trong một đời sống xã hội đầy những cám dỗ dục vọng, những người phụ nữ này lại vẫn giữ được cuộc sống của người thiếu nữ. Tất cả họ đều chưa bao giờ ngủ với người đàn ông nào cả.
Mộng du hay khao khát tình yêu?
Theo các nhà khoa học, những người mắc bệnh mộng du thường đột nhiên vùng dậy, vừa đi đi lại lại, vừa nhắm mắt và lảm nhảm thành lời những điều gì đó. Hiện tượng này là do một dây thần kinh thực vật nào đó bị kích động, thức dậy trước cả hệ thần kinh điều khiển ý thức của con người. Do vậy, chân tay con người có thể cử động được một cách hoàn toàn vô thức trong một thời gian ngắn.
Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến trái ngược với nhận định này. Một số nhà tâm lý cho rằng trí nhớ của người bệnh quá linh hoạt và nhạy bén cho nên ghi nhớ quá mức bình thường các hành động sinh hoạt. Mặc dù vậy, mộng du vẫn là một hành vi bí ẩn, vô ý thức mà giới khoa học vẫn chưa giải thích được cặn kẽ rõ ràng...
Cũng có những trường hợp người mộng du làm một vài việc gì đó rồi nằm xuống ngủ. Nhưng đa số các công việc đó đều có kết quả không tốt, hoặc nước đổ ra sàn hoặc quần áo bị là cháy. Khi nghiên cứu mộng du, người ta cho rằng có sự liên quan đến sự ngăn cản công năng não.
Thường thường khi ngủ, cơ thể con người tạo ra một "khoảng trống" ngăn cản các tín hiệu từ não truyền xuống hệ thống cơ bắp, giúp chúng ta nằm yên. Nhưng nếu như cơ chế tạo "khoảng trống" này bị khủng khoảng, rối loạn thì sẽ tạo ra các hành động và con người bị mộng du.
Hình ảnh người bị mộng du
(Ảnh: anarchitetto)
Đa số các bệnh nhân mộng du thường xuất hiện ở lứa tuổi dậy thì, và sau khi trưởng thành thì khỏi bệnh. Chính thế mà các nhà khoa học khó chuẩn định những bệnh nhân đã qua tuổi 30 như Anna. Người ta bắt đầu lập hồ sơ tâm lý về những người bệnh này và nhận ra một điều hết sức đặc biệt: họ chưa từng cảm thấy thích thật sự một người đàn ông nào đó trong cuộc đời mình.
Hơn nữa, xét nghiệm y tế cho thấy, họ hoàn toàn khỏe mạnh, không có các dị tật bẩm sinh. Thời gian ước định (sau đó được xác định bằng các quan sát từ bên ngoài) khi họ nghe tiếng gọi là vào khoảng hơn ba giờ sáng. Như vậy, thời gian đó là thời gian giấc ngủ sâu nhất, và "trạng thái ngủ" của cơ thể đạt được mức cao nhất của nó. Đây chính là chiếc chìa khoá bí ẩn để mở cánh cửa căn bệnh này.
Các nhà khoa học cho rằng, đối với những người chưa từng yêu, chưa từng có một khao khát thực sự với một người khác giới, thì trong họ luôn có một nỗi lo âu cô đơn thường trực. Những người này luôn làm việc mau mắn vì chỉ sợ hết thời gian. Và cũng bởi nỗi lo âu côi cút này mà tâm hồn họ sinh ra một thứ phản xạ rất đặc biệt; họ sợ đi đến cùng một sự việc hay một cảm giác nào đó. Tại sao lại như vậy?
Ở những ngời bình thường, tình yêu làm cho họ có cảm giác can đảm và tự tin kỳ lạ. Sự tự tin này nằm ngay trong phản xạ sống của mỗi người. Hơn nữa, họ không ngần ngại khi phải quyết định "phiêu lưu" trong một cảm giác sống nào đó bởi vì họ đã được "phụ thuộc" rõ ràng vào người tình của mình. Nhưng ở những người sống cô đơn, chưa từng yêu thì không có cảm giác đó.
Anna nói rằng sau tiếng gọi, "Anna dậy đi, dậy đi", chân tay cô cảm giác rất chới với. Cô không cảm thấy đi hay là bay mà chỉ cảm thấy người cứ mềm nhũn và xê dịch vô định vào một cái vòng tròn lớn. Thế rồi khi gần chạm vào cái vòng lớn đó thì cô giật mình, tỉnh dậy. Điều khiến các nhà khoa học kinh ngạc là các bệnh nhân mộng du thường không thể nhớ những gì diễn ra trong giấc ngủ. Đằng này, Anna lại có được cảm giác "chới với".
Người ta lý giải rằng, Anna và những người có biểu hiện như cô đã dồn tụ được cái phản xạ vô thức là không để mình "đi" đến cùng mọi cảm giác sống. Do vậy, cái phản xạ vô thức ấy vẫn "thức" ngay cả khi giấc ngủ kéo đến. Cái phản xạ đó như một "kẻ canh chừng" mọi hành vi sống của họ. Khi giấc ngủ tự nhiên chuyển dần về sáng, cơ thể con người "trôi" dần vào điểm "ngủ" viên mãn nhất. "Kẻ canh chừng" lập tức ngăn lại, không cho giấc ngủ viên mãn bằng cách tạo ra tiếng gọi.
Khi giấc ngủ tự nhiên bị chặn lại khỏi đỉnh điểm viên mãn của mình, con người sẽ rơi vào trạng thái nửa thức nửa ngủ. Một bộ phận tín hiệu sẽ truyền xuống hệ thống cơ bắp. Và hệ thống ấy sẽ làm những công việc quen thuộc, đã lặp đi lặp lại trong một khoảng thời gian dài.
Mặc dù chưa thống nhất được các nhận định trên, nhưng các nhà khoa học đều đồng ý rằng, những người bệnh chỉ có thể khỏi khi họ có một người đàn ông trong đời. Tình yêu hay sự sống chung với một người khác giới sẽ giúp cho con người có được những phản xạ sống tự tin hơn. Đây là một ý nghĩa rất "thực dụng" của tình yêu nhưng rất cần thiết mà những người sống độc thân nên biết
Bí mật về thành trì ngầm ở Cappadocia! - 7/5/2006 10h:3
Năm 1963, tại làng Drinkuer ở cao nguyên Cappadocia! cách cố đô Ankara - Thổ Nhĩ Kỳ 360km về phía Đông Nam, một nông dân khi đào đất trong vườn nhà vô tình phát hiện ra một cửa hang.
Các cột đá đều được trang trí điêu khắc những hoa văn
(Ảnh: cromwell-intl)
Nếu đi sâu vào hang qua 8 tầng hành lang có thể nhìn thấy một thành ngầm còn nguyên vẹn. Hai bên đường hầm đan xen ngang dọc được xây dựng vô số nhà ở, có nhà thờ, ngõ ngách, giếng nước và phòng cất giữ lương thực, thậm chí còn có cả nhà ngầm chuyên làm nơi mai táng. Trong hang có 52 lỗ thông gió hướng lên mặt đất được ngụy trang rất tinh vi, mấy địa đạo làm lối thoát hiểm được cấu tạo rất kỳ diệu.
Theo dự tính, thành ngầm quy mô như vậy có thể bảo đảm an toàn cho 2 vạn người sống trong đó. Cách đây 2 năm, một mê cung có quy mô giống như thành ngầm Cappadocia! ở gần Kemeckli cũng đã được khai quật. Điều khiến người ta bất ngờ ở đây là: 2 thành ngầm này chính là một chỉnh thể nối liền nhau thông qua một địa đạo dài 10km.
Đến nay, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được 36 thành ngầm với các quy mô khác nhau. Thành ngầm nhỏ có thể gọi là làng ngầm đủ để làm chỗ ở cho mấy chục gia đình, còn lớn nhất vẫn là 2 thành ngầm có quy mô như thành phố được nối liền với nhau ở cao nguyên Cappadocia!. Hiện nay công tác khai quật vẫn đang được tiến hành, theo dự tính có khoảng hơn 100 thành ngầm sẽ được tìm thấy.
Trước khi phát hiện ra thành ngầm, ở Cappadocia! các nhà khảo cổ đã phát hiện được hàng nghìn giáo đường ngầm trong tầng nham thạch. Các giáo đường này được đục ở trong các ngọn núi đá nhỏ hoặc trên các vách đá cao. Có những giáo đường khá khang trang, nham thạch được đục rất công phu điệu nghệ thành cổng vòm, hình trụ, hình chóp. Từng tấc trên bề mặt và các cột đá đều được trang trí điêu khắc những bức họa và hoa văn. Chúng được vẽ rất sống động, minh họa những câu chuyện trong Kinh thánh và cả những truyền thuyết dân gian cũng như tôn giáo phương Đông. Thậm chí đến cả đồ dùng gia đình như đàn tế, bàn ăn, ghế tựa, giường ngủ trong phòng đọc sách, phòng ngủ và các bếp của các đạo sỹ sống ở đây đều được làm bằng đá.
Vậy, các thành đá ngầm này được hình thành như thế nào, những đồ dùng bằng đá trong các phòng đã được chế tạo như thế nào?
Với trình độ lao động thủ công thuần túy mà những người thợ thời đại đó đã đục được các gian phòng lớn như vậy trong núi đá vôi rất cứng? Lẽ nào do tinh thần kiên trì họ đã chiến thắng sức mạnh thiên nhiên, và trải qua nhiều thế hệ họ mới hoàn thành các công trình này. Nhưng, cũng có thể do các ngọn núi lửa có quy mô lớn ở Cappadocia! thời kỳ cổ đại phun nham thạch hình thành các đường hầm. Sau đó, con người đục đào thiết kế thêm mới tạo thành các thành ngầm này. Đó chính là kết quả tác động gữia sức mạnh của con người kết hợp với sức mạnh của thiên nhiên.
Ảnh: cromwell-intl
Như vậy, những cư dân sống sớm nhất trong các thành ngầm này là ai? Chắc chắn họ không phải thổ dân mà là người ở vùng đất xa xôi khác đến đây lánh nạn. Sở dĩ họ chọn Cappadocia! bởi vùng đất này hoang vắng không có dấu chân người nên không gây sự chú ý của người bên ngoài. Dân trong làng lúc đầu dùng đá xây dựng nhà cửa, nhưng sau đó họ phát hiện ra không nhà nào vững chắc bằng nhà được đục trực tiếp bằng đá, lúc đầu là ngoài bề mặt núi đá, sau đó họ dần xây dựng vào trong lòng núi và mở rộng ra thành ngầm.
Thời kỳ đế quốc Byzantine, chỉ có vùng Cappadocia! là nơi luôn an toàn. Những tín đồ Cơ đốc và giáo sỹ thành kính các nơi đều tìm về Cappadocia! lánh nạn. Do vậy, vùng Cappadocia! bỗng nhiên trở thành một thánh địa, những người muốn tu đạo, truyền đạo hay muốn cư trú tất yếu phải xây dựng nhiều giáo đường, viện tu đạo và các làng ngầm đã khiến cho quy mô các thành ngầm không ngừng được mở rộng.
Ảnh: user.chollian
Cuối thế kỷ XII hoặc đầu thế kỷ XIII, đế quốc Byzantine dần bị diệt vong. Người Cappadocia! bắt đầu trốn chạy bốn phương, cũng có thể họ chạy đến miền Tây cùng sống với người Cơ đốc giáo, cũng có thể họ đổi tôn giáo đến sống chung với những người Đạo Hồi ở những thôn làng Ả Rập,.. Thực ra, từ cuối thế kỷ XVII, một vị sứ giả của Vua Louis XIV nước Pháp đã phát hiện ra các thành trì ngầm và giáo đường trên cao nguyên Cappadocia!. Ông quay về châu Âu tuyên bố phát hiện quan trọng này nhưng không ai tin, mọi người còn cho rằng ông bị điên. Không đầy một thế kỷ sau, số người phát hiện ra các thành trì và giáo đường ngầm càng nhiều thì cũng là lúc vùng Cappadocia! dần trở nên nổi tiếng. Những tín đồ hành hương về đất thánh đông như trảy hội, các nhà khảo cổ học cũng tốn không biết bao công sức với vùng đất này. Tuy nhiên, các thành trì ngầm đã được xây dựng như thế nào và cư dân sớm nhất sinh sống ở đây từ đâu đến rồi họ đi đâu cho đến nay vẫn là một bí ẩn chưa có lời giải đáp.
Các nhà khoa học Nga giải mã thông điệp của người ngoài hành tinh - 14/8/2006 9h:26
Theo nhà toán học lỗi lạc Nga, Vladimir Pakhomov, những người ngoài hành tinh đã từng viếng thăm trái đất và để lại hệ thống lịch của họ cùng một thông điệp cho nền văn minh trái đất.
Nhà toán học Nga, Vladimir Pakhomov (Ảnh: midi-ebooks)
Nhà toán học này nói: "Tôi không thấy thông điệp từ người ngoài hành tinh một cách tình cờ, mà tôi tìm kiếm nó. Với một niềm tin chắc chắn rằng họ đã viếng thăm trái đất chúng ta". Nhiều chuyên gia rất chú ý đến một vài sự trùng hợp ngẫu nhiên mà họ có thể tìm thấy trong các truyền thuyết và chuyện kể về sự viếng thăm trái đất của người ngoài hành tinh thời xa xưa.
Nhà thám hiểm Erich von Daeniken viết rằng, con người rất khó khăn trong việc tìm kiếm các dấu vết của người ngoài hành tinh trên trái đất. Đại dương chiếm 2/3 bề mặt hành tinh, băng tuyết bao phủ 2 cực trái đất, các sa mạc và rừng cây mênh mông chiếm phần đất còn lại của hành tinh.
Daeniken cho rằng người ngoài hành tinh (nếu họ đã từng có mặt trên trái đất) ắt hẳn phải suy nghĩ cách để lại loại hình thông điệp nào của họ trên trái đất để có thể tồn tại qua hàng ngàn thời kỳ.
Nhà khoa học Nga Vladimir Pakhomov tin rằng, người ngoài hành tinh có thể đã để lại hệ thống lịch của họ trên trái đất. Ví dụ như các pharaon Ai Cập cổ đại đã có lời tuyên thệ khá lạ lùng khi lên ngôi hoàng đế: Họ hứa sẽ không thay đổi hệ thống lịch, dù chỉ là sự sửa đổi nhỏ nhất.
Nhiều bản thảo cổ cũng cho biết rằng vị thần thông thái có 2 tên gọi: Thoth và Hermes đã soạn thảo và giữ kín một số "cuốn sách" trước khi ngài quay về trời. Nhà nghiên cứu Graham Hancock viết trong cuốn sách Tấm gương trời, rằng các cuốn sách của vị thần thông thái tồn tại lâu dài và vô hình trong suốt nhiều thế kỷ. Các truyền thuyết cũng kể rằng vị thần linh này không muốn cho con người tìm thấy và đọc được các cuốn sách đó, vì loài người không xứng đáng được hưởng vinh dự đó.
Erich von Daeniken đang tìm kiếm các dấu vết lạ ở Dendera, Egypt
(Ảnh: daniken.com)
Loài người chưa có kiến thức và các công nghệ cần thiết để đọc được hệ thống lịch của người ngoài hành tinh, nhưng dù sao thì loại lịch này cũng đã tồn tại trên trái đất. Nhà khoa học Pakhomov nói: "Tôi rất sốc đối với ma trận của lịch vĩnh cửu, được tìm thấy trên các bức tường Đại giáo đường Sophia ở Kiev, nước Ukraina. Ma trận được làm ra để có thể xác định được cấu trúc lịch của bất cứ năm nào. Ví dụ, bạn có thể dễ dàng tìm được ngày sinh của mình trong 100 năm với sự giúp đỡ của lịch vĩnh cửu".
Pakhomov đã sử dụng lịch của Đại giáo đường Sophia như là điểm khởi đầu cho công việc giải mã các tài liệu cổ xưa được viết bằng mật mã.
Cái chết thần bí của Người băng - 24/11/2005 6h:11
Năm 1991, trên vùng sông băng cũ của dãy núi Alpes nằm giữa biên giới Áo và Italia, người ta phát hiện được di thể một người đàn ông có niên đại 5300 năm. Do địa điểm phát hiện nằm ở khe núi Oetzi (Auz) nên người tiền sử có tên là "Người băng". Các nhà khoa học đã tiến hành hàng loạt cuộc nghiên cứu rất tốn kém về phát hiện này.
Giáo sư Aug - Nhà khoa học về người cổ đại thuộc Trường đại học Innsbruck - Áo phát hiện, Oetzi là thi thể người tiền sử được bảo tồn tốt nhất hiện nay. Họ đã tìm thấy những hạt phấn hoa của cây sừng Hubơlông còn nguyên vẹn trong ruột của người tiền sử. Giống cây này chỉ nở hoa vào mùa xuân và sinh trưởng ở những khu vực có độ cao thấp hơn mực nước biển. Do vậy, có thể đoán người tiền sử Oetzi chết vào mùa xuân hoặc đầu mùa hạ. Ngoài ra, phân tích da của Oetzi, các nhà khoa học nhận thấy, cơ thể của Oetzi trước khi trở thành người băng trong băng tuyết đã phải ngâm mình trong nước từ vài tuần đến mười mấy tuần.
Phát hiện của giáo sư Aug khiến nhiều người nghi ngờ chất vấn những dự đoán trước đây về nguyên nhân cái chết của người tiền sử Oetzi. Trước đây, các nhà khoa học cho rằng người tiền sử đã gặp phải trận bão tuyết bất ngờ vào mùa thu, cuối cùng đã bị chết vì khí hậu quá lạnh.
Chứng cứ mới này còn khiến các nhân viên nghiên cứu xem xét lại một lần nữa người tiền sử Oetzi tại sao lại ở trên đỉnh núi cao. Một số nhân viên nghiên cứu đã phán đoán, Oetzi bị mang lên đây để làm vật dâng tế của người tiền sử trong thời đại đồ đá mới. Tuy nhiên, những nhận xét của giáo sư Aug lại không quá xa vời như vậy: "Chúng ta có thể khẳng định trong vòng 12h trước khi chết, Oetzi đã từng ngủ quên dưới đáy của khe núi - nơi có cây sừng Hubơlông mà Oetzi thường hay đến ngủ hàng ngày".
Người tiền sử đội mũ, chân bọc da cừu, trên người mặc ba lớp áo được khâu bằng da hươu, da cừu và sợi vỏ cây. Bên cạnh di thể Oetzi còn đặt một chiếc rìu bằng đồng và một túi đựng đầy mũi tên.
Người tiền sử Oetzi cao 1,62m, khi chết chừng 50 tuổi. Tổ nghiên cứu do giáo sư Aug chỉ đạo trước đó đã chứng minh, người tiền sử Oetzi mắc bệnh viêm đường hô hấp, trong cơ thể người tiền sử có ký sinh trùng. Trước khi gặp nạn vài tháng, người tiền sử Oetzi từng ba lần mắc bệnh nghiêm trọng. Từ hàm lượng đồng và Asen còn lưu lại trong tóc rất cao, khiến các nhà khoa học có thể phán đoán, ông ta từng làm công việc luyện đồng. Tất cả những phán đoán này khiến cho cái chết thần bí của Oetzi càng lẫn lộn khó phân biệt. Vì vậy, cho đến nay chân tướng của sự việc vẫn chưa được làm sáng tỏ.
Chuyện về những người biết bay - 7/12/2005 3h:15
Các vị thần trong thần thoại phương Đông có một khả năng đặc biệt. Họ có thể bay. Tuy nhiên, những người bình thường như các giáo sĩ Bà La môn ở Ấn Độ, người luyện Yoga, các thuật sĩ và ẩn sĩ cũng có thể khinh công và lơ lửng trong không khí.
Có một chương trong kinh Vệ Đà nói về thuật bay lên, trong đó hướng dẫn phương pháp luyện tập đạt tới tình trạng nhấc mình lên khỏi mặt đất. Nhưng không may, trải qua nhiều thế kỷ, nhiều từ cổ Ấn Độ và các khái niệm trong đó đã bị quên mất nên những điều truyền thụ vô giá này không thể chuyển được thành ngôn ngữ hiện đại.
Cũng liên quan đến những người biết bay thời cổ, nhiều tài liệu chép tay cho biết họ có thể tự nhấc mình lên khỏi mặt đất đến 90 cm. Họ làm việc này không phải để biểu diễn cho công chúng xem mà chỉ vì mục đích chọn một vị trí phù hợp nhằm thực hiện những nghi thức tôn giáo.
Thuật khinh công đã tồn tại từ rất lâu ở Ấn Độ và Tây Tạng. Nhiều nhà bác học, trong các cuộc nghiên cứu về phương Đông đã đề cập đến các "thầy tu Tây Tạng biết bay". Alexandra David-Neel, một nhà thám hiểm người Anh, một ngày nọ đã chứng kiến một tu sĩ Phật giáo bay lên khỏi mặt đất hàng chục mét trên cao nguyên đầy thông, Cnang Tang. Neel kể lại rằng tu sĩ nọ bật lên khỏi mặt đất nhiều lần như một quả bóng tennis nẩy. Cặp mắt của ông ta hướng về một số ngôi sao đang ở nơi nào đó trên bầu trời để xác định vị trí đến. Vị tu sĩ ấy có thể thấy được các vì sao vào ban ngày...
Những người châu Âu từ lâu cũng đã quan tâm đến khả năng bay lên của con người. Tuy nhiên, có một sự khác biệt lớn giữa những người biết bay thời Trung cổ ở phương Đông và phương Tây. Không giống những giáo sĩ Bà La Môn, thuật sĩ Yoga và những ẩn sĩ, các tu sĩ ở châu Âu không tham gia bất cứ một lớp huấn luyện đặc biệt nào để được bay lên. Họ thường lơ lửng trong không trung sau khi đã đạt đến trạng thái xuất thần.
Theo những tài liệu đáng tin cậy, Thánh Theresa, nữ tu dòng Carmelite, là một trong những người có thuật khinh công của thời Trung cổ. Bà đã bay trước sự chứng kiến của 230 tu sĩ Công giáo. Vị nữ tu đã viết về "món quà" bất thường của mình trong tự truyện vào năm 1565. Một điều cần lưu ý trong tự truyện này là bản thân Thánh Theresa không muốn bay. Bà đã mất nhiều giờ cầu nguyện trong một nỗ lực xin thoát khỏi năng lực đặc biệt này. Vào một đêm nọ, Thượng đế đã nghe được lời cầu xin của bà và người nữ tu không bao giờ còn bay được nữa.
Josef Desa từng là "người bay" nổi tiếng nhất. Ông ta xuất thân từ một gia đình mộ đạo ở miền Nam Italy. Từ khi còn là một cậu bé, Josef đã là một người rất sùng tín, sẵn sàng chịu đựng mọi khổ hạnh để đạt được trạng thái xuất thần. Sau đó, ông gia nhập dòng thánh Francis và luyện được khả năng bay.
Giới khoa học đã quan sát hơn 100 trường hợp về khả năng bay của Josef và ghi chép những nhận xét trong tài liệu chính thức. Tuy nhiên, những người Cơ đốc giáo tỏ ra không hài lòng về hiện tượng này và hậu quả là Josef được đưa đến một tu viện xa xôi vào năm 1653. Ba tháng sau, ông lại phải đến một tu viện khác, rồi tiếp tục đến một tu viện khác nữa...
Khi Josef xuất hiện, tin tức về "người có phép màu" lan ra nhanh chóng. Nhiều người từ những vùng lân cận tìm đến đứng bên ngoài bức tường của tu viện chờ đợi một điều kỳ diệu. Cuối cùng, Josef lại được đưa đến một tu viện ở Osimo. Ông đã mất tại đây vào năm 1663 và được phong thánh 4 tháng sau đó.
Daniel Douglas Hewm là người có thuật phi thân nổi tiếng nhất thế kỷ 19. Trên một tờ báo Mỹ, một nhà báo đã mô tả trạng thái bồng bềnh trong không gian của Hewm như sau: "Bất thình lình Hewm bắt đầu nhấc mình lên khỏi mặt đất khiến những người trong phòng sửng sốt, ngạc nhiên. Tôi thấy chân của ông ta cách mặt đất khoảng 0,3 mét. Ông ta vọt lên rồi hạ xuống. Đến lần thứ 3 thì ông ta chạm trần nhà..."
Hewm đã biểu diễn năng lực đặc biệt này trước hàng nghìn khán giả, trong đó có cả những người nổi tiếng như William Makepeace Thackeray, Mark Twain, Napoleon III cùng những nhà chính trị, bác sĩ, khoa học gia. Người ta không phát hiện ra sự lừa đảo nào trong hiện tượng này.
Có nhiều tranh cãi liên quan đến sự bay lên của con người. Một số nhà nghiên cứu nói rằng đó là sản phẩm của trường sinh học, tạo ra bởi một dạng năng lượng tinh thần đặc biệt phát ra từ não người. Bác sĩ Alexander Dubrov, chuyên gia về sinh vật học, là người ủng hộ giả thuyết này. Ông chỉ ra rằng trường sinh học được tạo ra một cách có chủ ý bởi người phi thân, do đó họ có thể kiểm soát và thay đổi hướng khi lơ lửng trên không
Có hay không "kiếp luân hồi"? - 2/7/2006 8h:53
Sau khi chết, con người có "trở lại" mặt đất theo một vài dạng khác không? Giới khoa học phương Tây và các chuyên gia tâm lý đã dày công nghiên cứu một cách có hệ thống về "kiếp luân hồi" từ rất lâu nhằm phân tích dưới ánh sáng khoa học về bản chất vấn đề.
Dẫn đầu là một nhóm giáo sư thuộc Trường đại học Yale ở Mỹ từng thu thập khắp thế giới các bằng chứng liên quan đến "kiếp trước" hoặc sự "đầu thai vào kiếp sau". Rồi họ nghiên cứu chúng một cách tỉ mỉ, logic và nghiêm túc. Nếu phát hiện ra điều gì đó "không bình thường", họ liền phân tích một cách chuyên sâu hơn nhằm khám phá xem có liên quan gì tới "kiếp luân hồi" - theo quan điểm tín ngưỡng cố hữu không?
"Mảnh đất màu mỡ" cho các cuộc nghiên cứu nói trên đa số là các trẻ em. Roberta Morgan, sinh ngày 28/8/1961 ở tiểu bang Minnesota (Mỹ), bắt đầu kể về "kiếp trước" của mình trong thời còn là một bé gái. Người mẹ thì cho rằng con bé nói rặt những chuyện ngốc nghếch và luôn tìm cách ngắt lời đứa bé. Nhưng Roberta vẫn không ngừng kể về "cha mẹ trước đây" của mình. Em còn kể về chiếc ôtô mà "người cha kiếp trước" từng có và khẳng định rằng em đã cùng sống với "cha mẹ cũ" tại một khu trang trại. Khi bé gái lên 4 tuổi, em được dẫn tới một trại chuyên thuần ngựa nòi. Roberta rất tự nhiên và phấn chấn nói: "Con từng cưỡi ngựa thuần thục nhiều lần rồi". Thật
Bé gái Samlini Permac đang ôn lại quảng đời trước đây của mình. (Ảnh: CAND)
ra, em đã trèo lên mình ngựa bao giờ đâu. Roberta còn đòi mẹ làm những món thức ăn "khoái khẩu" mà "mẹ trước" đã từng nấu. Em tả lại cách thức nấu các món đó hoàn toàn chính xác. Tới năm 9 tuổi, Roberta Morgan đột nhiên quên hẳn quãng đời "kiếp trước" của mình và không bao giờ nhớ lại được nữa (?!).
Còn Samlini Permac sinh đầu năm 1962 ở Colombo (Sri Lanka). Trước khi bé biết nói, cha mẹ nhận thấy rằng em rất sợ... nước. Mỗi khi người mẹ định tắm cho bé, đều gặp phải các phản ứng dữ dội cùng tiếng kêu khóc. Em còn rất sợ ôtô. Khi Samlini nói được, em đã mô tả "quãng đời trước đây" của mình một cách tỉ mỉ. Em kể: "Một hôm cha mẹ "kiếp trước" sai em đi mua bánh mì. Phố xá đang bị lụt, chiếc xe buýt đi sát bên cạnh, hất em xuống đồng nước. Em cố giơ tay quá đầu cầu cứu và hét lên: "Mẹ ơi!". Sau đó, em bị chìm hẳn vào giấc ngủ vô biên".
Cha mẹ của Samlini suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Sau đó một thời gian, họ biết được câu chuyện của một bé gái 11 tuổi từng bị chết đuối trong hoàn cảnh tương tự, y hệt câu chuyện mà cô con gái họ đã kể lại. Còn bản thân Samlini Permac không thể biết được sự kiện này vào bất cứ trường hợp nào, bởi đơn giản lúc ấy bé chưa ra đời (?!).
Hai trường hợp tiêu biểu trên được bác sĩ tâm lý học nổi tiếng người Mỹ John Stevenson - người đã nghiên cứu các hiện tượng về "kiếp trước" suốt nửa thế kỷ nay - kể lại. Ông cùng các đồng nghiệp thuộc Trường đại học Tổng hợp Virginia đã thử tìm các bằng chứng, được tồn tại như một "thực trạng X", mặc dù không tìm được những yếu tố vô lý trong "các X" và họ cũng không thể lý giải chúng dưới ánh sáng khoa học được. Giáo sư Bác sĩ J.Steveson cùng các đồng nghiệp đi tới quyết định chỉ tồn tại một khả năng duy nhất: giống như "ảo giác" - nếu nói về khả năng phân tích khoa học hiện nay. Còn một nhà phân tâm học người Mỹ, Bác sĩ Scot Rogo. cũng đã từng dày công nghiên cứu các trường hợp liên quan tới sự "đầu thai" hoặc "kiếp luân hồi" hơn ba thập niên gần đây, cũng mới chỉ đưa ra các giả thuyết, chứ chưa "dám" nêu lên một kết luận khoa học chắc chắn nào cả.
Trước đây nhiều năm, đa số các nhà khoa học phủ nhận sự "đầu thai", cho đó là một trò "hoàn toàn lừa bịp". Nhưng ngày nay đa phần trong số họ đã thừa nhận hiện tượng này như là một phương cách chữa các chứng khủng hoảng tâm lý. Còn Giáo sư Tiến sĩ Abraham Kelsy, Trưởng khoa Y học lâm sàng của Viện Đại học New York, trong các thực nghiệm riêng của mình đã dùng những phương pháp giúp các bệnh nhân nhớ lại "quãng đời kiếp trước" của họ, và bằng cách này giúp họ giải phóng khỏi những vướng mắc hiện tại.
Ông giải thích: "Tôi đã rút ra được kết luận là, rất nhiều biểu hiện hiện tại của người bệnh là hệ lụy của kiếp trước và chính chúng là những trở ngại phong tỏa nghị lực của cuộc sống thực tại. Theo tôi, cơ thể con người luôn mang sẵn những thứ phi vật chất, những thứ vẫn tồn tại sau khi thân xác đã chết. Nôm na như người phương Đông gọi là "hồn". Chính thứ "hồn" này được tái sinh - đầu thai lại. Niềm tin này của tôi càng được củng cố qua các phân tích tỉ mỉ về "chất lượng riêng" của mỗi cá nhân. Tại sao trong một gia đình, trẻ em thường khác biệt nhau, dù rằng chúng được sinh ra cùng cha cùng mẹ, có cùng một tổng thể gien và lớn lên trong cùng một môi trường? Rất nhiều trẻ em, khi đang chơi, luôn có xung quanh chúng "những người bạn vô hình" nào đó mà chúng luôn cho là đang hiện hữu thật sự. Tới độ 4-5 tuổi, thứ cảm giác ấy đột nhiên biến mất. Điều này theo các nhà khoa học chính là kỷ niệm về những người bạn "kiếp trước" của chúng.
Vẫn chưa có một nhà tâm lý học nào có thể giải thích một cách logic về những cá tính khác nhau, cũng như các "chất lượng cá nhân" khác nhau của đám con trẻ được sinh ra từ một gia đình chung. Trong từng trường hợp, thể hiện những dấu hiệu ảnh hưởng từ "kiếp trước", được giới tâm lý học nêu ra các giả thuyết về những "biến dạng của tâm lý": như mê ngủ, nghe hoặc đọc được ở đâu đó... Giới vương quyền Ai Cập thời cổ cũng từng hay nói về các "kiếp luân hồi", cả Hoàng đế Pháp Napoléon, cũng như nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng khác cũng vậy - những người thường nhớ về "kiếp trước", để chỉ muốn tạo ra cái ấn tượng về "xuất xứ thần thánh" của họ. Đa phần trong chúng ta không hề gợi nhớ lại "kiếp trước" ngay cả qua những cách tân tiến hoàn thiện nhất. Trong trường hợp đó, không tồn tại quan niệm "đầu thai" trong thực tế. Ngoài ra cũng còn nhiều điểm bất đồng ngay cả giữa những người vốn luôn tin vào "kiếp trước".
Tới giờ, giới khoa học vẫn chưa có sự đồng nhất về thực chất của tiến trình này, đó là cơ sở gây nên sự hoài nghi về khả năng "đầu thai" trong "vòng xoay luân hồi" của mỗi người
Giải mã bí ẩn thuật thôi miên - 20/12/2005 2h:17
Từng được sử dụng từ lâu trong y học cũng như giải trí, thuật thôi miên - một trong những bí ẩn lớn nhất của con người - đang dần được giải mã nhờ nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ.
Từ thế kỷ 18, người ta đã phát hiện ra rằng trí não có thể bị ám thị điều khiển để sai khiến cơ thể. Nhưng sau hàng thế kỷ sử dụng thôi miên để gây tê và chữa bệnh cho bệnh nhân, người ta vẫn chưa thể trả lời liệu đó chỉ là sự tuân theo ám thị của nhà thôi miên, hay là một dạng tập trung cao độ khi môi trường xung quanh đã ra khỏi ý nghĩ của người được thôi miên? Những nghiên cứu gần đây đã giải mã được phần nào cơ chế tác động của thôi miên lên nhận thức của con người, dẫn tới việc người bị thôi miên hành động theo ám thị.
Trong những thí nghiệm mới của mình, Michael Posner - Giáo sư thần kinh học tại Đại học Oregon (Mỹ) - và các đồng sự đã ghi lại những thay đổi trong quá trình xử lý thông tin của não người. Thường thì thông tin mà cơ thể nhận được sẽ được chuyển đến vùng cảm giác sơ cấp trong não, để từ đó lại được chuyển lên những vùng chức năng cao hơn, nơi diễn dịch thông tin. Kết quả nghiên cứu cho thấy, điều đáng ngạc nhiên là lượng thông tin chuyển xuống nhiều gấp 10 lần lượng thông tin chuyển lên, cũng có nghĩa là những gì con người nhìn, nghe thấy và tin vào là dựa trên quá trình xử lý thông tin từ trên xuống. Các dữ liệu ở mức xử lý sơ cấp có thể bị ghi đè lên phụ thuộc vào các kết quả diễn dịch thông tin của trung tâm xử lý thông tin cao nhất. Mô hình xử lý thông tin này cũng giải thích vì sao thôi miên, với bản chất là tạo ra một quá trình xử lý thông tin từ trên xuống, có thể gây ra ám thị mạnh mẽ.
Theo kết quả nghiên cứu tiến hành trong hàng chục năm của tiến sĩ David Spiegel - nhà tâm lý học tại Đại học Stanford, 10-15% người lớn rất dễ bị thôi miên, so với tỉ lệ 80-85% ở những trẻ dưới 12 tuổi, lứa tuổi mà chu trình xử lý từ trên xuống chưa hoàn chỉnh; trong khi đó khoảng 20% người lớn rất khó bị thôi miên.
Tiến sĩ Amir Raz - Giáo sư thần kinh học tại Đại học Columbia - lại nghiên cứu tác dụng của thôi miên bằng cách sử dụng bài test Stroop. Ông cho 16 người, trong đó một nửa là những người rất dễ, nửa kia là những người rất khó bị thôi miên, nhìn những chữ cái ghi tên các màu nhưng lại có màu trái ngược với nghĩa của chúng. Sau khi ám thị cho họ rằng đó là những từ tiếng nước ngoài mà họ không hiểu, ông yêu cầu họ ấn vào nút chỉ màu thật của chữ cái. Ở những người dễ bị thôi miên, hiệu ứng Stroop (người biết chữ có phản xạ phải đọc trước khi ấn nút nên mất thời gian giải quyết sự xung đột thông tin) không còn, họ có thể chỉ ra màu ngay lập tức. Còn với những người khó bị thôi miên, hiệu ứng Stroop thắng thế, khiến họ chậm hơn.
Kết quả scan não của hai nhóm được so sánh với nhau đã cho thấy sự khác biệt. Trong nhóm dễ bị thôi miên, vùng thị giác trong não thường mã hóa các chữ cái hiển thị và vùng não chuyên dò tìm những xung đột thông tin đã không hoạt động. Quá trình xử lý thông tin từ trên xuống đã áp đảo việc xử lý của não (đọc và xử lý thông tin trái ngược nhau) theo đúng trình tự từ dưới lên, nhưng chính xác điều đó xảy ra như thế nào vẫn còn là điều bí ẩn.
Một số nghiên cứu gần đây từ các hình ảnh của não cũng chỉ ra cơ chế tương tự. Theo tiến sĩ Stephen Kosslyn - nhà thần kinh học tại Đại học Harvard, con người nghĩ rằng các hình ảnh, âm thanh từ thế giới bên ngoài tạo ra sự thật, nhưng não lại xây dựng ngân hàng dữ liệu của nó dựa trên kinh nghiệm từ quá khứ. Sự thú vị của thôi miên là ở chỗ nó tạo ra thông tin sai lệch. "Chúng ta tưởng tượng ra điều gì đó khác biệt, và nó trở thành 'sự thật'" - Spiegel nói
Giải quyết 8 bí ẩn lớn nhất của khoa học trong thế kỷ 21 - 27/12/2005 5h:10
Cuộc sống vốn đầy rẫy những bí ẩn và các nhà khoa học đang cố gắng tìm lời giải đáp cho những bí ẩn Đấy. Bí ẩn về con người là những bí ẩn sâu thẳm nhất mà hiện nay các nhà khoa học cần phải làm rõ trong thế kỷ 21 này.
NGUỒN GỐC TUỔI THANH XUÂN
Cấu trúc phân tử gien P21
Các nhà khoa học tại Viện nghiên cứu Scripps - California (Mỹ) đã khảo sát gien của một số người già ở tuổi 90. Có đến 99% trường hợp, gien vẫn làm việc hoàn hảo khi điều khiển tế bào tạo ra loại protein thích hợp. Các nhà khoa học ở ĐH Illinois, Chicago (Mỹ) cho biết, họ rất có thể đã tìm ra được câu trả lời qua việc nghiên cứu một loại gien gọi là p21. P21 hoạt động như một bộ phận hãm khẩn cấp về mặt di truyền; khi được kích hoạt, nó làm ngừng sự phát triển của các tế bào bị tổn hại do chất độc hay phóng xạ, cho chúng có thời gian phục hồi.
Igor Roninson, giáo sư về di truyền học phân tử, đã kích hoạt được gien p21 trong tế bào người và nghiên cứu cách nó tác động lên các gien khác. Những gien bị tác động này sẽ có dạng hình bột, xẹp xuống và ngừng phát triển - chúng đang già đi. Ông nói: "Việc kích hoạt gien loại này còn dẫn đến sự thay đổi tại một loạt các gien khác đã bị tác động bởi lão hoá hay các bệnh liên quan đến lão hoá".
Ngoài ra p21 còn có tác dụng kiềm chế một cách có chọn lọc hơn 40 gien được biết có liên quan đến việc tái tạo ADN và việc phân chia tế bào, theo đó làm ngừng ngay lập tức sự tăng trưởng của tế bào. Những loại gien được p21 kích thích gồm các loại liên quan đến bệnh Alzheimer, bệnh lão hoá và viêm khớp.
Ung thư vú - nỗi lo kinh hoàng của phụ nữ sẽ được tiêu diệt trong thế kỷ 21.
THANH TOÁN BỆNH UNG THƯ
Bệnh ung thư có đặc tính chung: các tế bào đang khoẻ mạnh bỗng trở nên phát triển bất thường. Các nhà khoa học đã xác định rõ: nguyên nhân không phải ở các gien mà ung thư xuất hiện chủ yếu vì hút thuốc lá, chế độ ăn uống kém khoa học, thiếu rèn luyện thể lực hay bị ảnh hưởng bởi phóng xạ, ô nhiễm cùng các hoá chất gây ung thư khác.
Một nỗ lực kiểm soát bao gồm các quy định hạn chế việc thải chất công nghiệp có thể đẩy bệnh ung thư ra khỏi danh sách những căn bệnh giết người, chuyển nó thành loại bệnh hiếm gặp. Giải pháp chính đã được xác định không phải bằng những viên thuốc, mà tốt hơn cả là những biện pháp phòng ngừa.
TÌM RA THUỐC BẤT TỬ
Những chiếc đồng hồ đếm ngược giúp tìm ra phương thuốc bất tử.
Các tế bào ung thư cùng chia sẻ với nhau một đặc tính, đó là khả năng bất tử. Nếu còn được nuôi dưỡng, chúng sẽ được tiếp tục phân chia. Điều này không xảy ra đối với các tế bào khoẻ mạnh, nơi dường như đã được gắn một chiếc đồng hồ đếm ngược (được gọi là telomere) vào cuối các nhiễm sắc thể để giới hạn số lần tế bào có thể tự tái tạo. Mỗi lần tế bào tự tái tạo, một phần của telomere bị loại bỏ và đến khi nó hết sạch, tế bào sẽ ngừng việc phân chia. Với 46 nhiễm sắc thể, con người có cả thảy 92 chiếc đồng hồ đếm ngược thời gian sống của mình.
Tiến sĩ Jerry Shay tại Đại học Texas cho biết: "Thông thường, các tế bào sẽ ngừng phân chia sau khoảng 70 thế hệ. Còn những tế bào mới (đã có telomerase được kích hoạt) đã tự nhân đôi đến hơn 100 lần, trong khi chưa có dấu hiệu nào cho thấy tốc độ phân chia của chúng đang giảm dần". Mặc dù telomerase đã hoạt động khá lâu trong các tế bào bình thường, đủ thời gian cho các telomere có thể khôi phục được độ dài nguyên gốc của nó, không hề có triệu chứng những tế bào trên phát triển thành loại tế bào ung thư.
CUỘC SỐNG NHÂN TẠO
Công nghệ nano - đỉnh cao của mọi công nghệ trong tương lai
Công nghệ siêu nhỏ (nanotechnology) là một kỹ thuật sản xuất, theo đó các thiết bị nhỏ xíu được sắp xếp theo từng nguyên tử một. Điều duy nhất có thể chế tạo được những thiết bị từ những thành phần nhỏ bé đến như vậy chính là một hiện tượng được gọi là tự sắp xếp (self-assembly). Nếu bạn sắp xếp theo thứ tự chính xác được một cấu trúc cơ bản, bạn có thể "làm phát triển" các ống siêu nhỏ, hình cầu siêu nhỏ và các transistor (bóng bán dẫn) siêu nhỏ cho máy tính.
Tại ĐH Illinois, các nhà nghiên cứu đang sử dụng một loại tiền tố protein thường tìm thấy trong nhiều loại tế bào con người để tạo ra một cấu trúc tự sắp xếp. Chuyên gia Gerard Wong cho biết: "Các nang có màng là chất tiền tố này của chúng tôi luôn trong trạng thái cân bằng và không yêu cầu năng lượng để duy trì sự ổn định". Câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có thể đạt tới một điểm mà tại đó, các cấu trúc tự sắp xếp theo đúng nghĩa đen có thể tạo ra một cuộc sống của riêng chúng? Một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Viện công nghệ California và Đại học Tổng hợp bang Michigan đã cùng thống nhất khẳng định: câu trả lời là có! Những nhà khoa học này đã tạo ra được "các cơ thể dưới dạng số" trong máy tính. Họ phát hiện ra rằng, những "cá thể điều khiển học" này phản ứng trước những biến đổi theo cách rất giống với những cơ thể thực sự như vi khuẩn, nấm và ruồi giấm.
Chuyên gia Chris Adami tại Viện công nghệ California cho biết: "Rất có thể nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất về cuộc sống từ một cơ thể sống, do cơ thể sống là kết quả phức tạp của một quá trình tiến hoá sau 4 tỉ năm. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu ban đầu sẽ giúp chúng ta hiểu được chút gì đó về cuộc sống".
Bước nghiên cứu đầu tiên của Adami chính là thử nghiệm quá trình tiến hoá dưới dạng sống được xây dựng dựa trên một cơ thể sống, trong trường hợp này là vi khuẩn E. coli. Ông khẳng định: "Tôi nghĩ chúng tôi đã có thể thuyết phục những nhà nghiên cứu sinh vật học rằng cuộc sống nhân tạo không còn là một giấc mơ. Nó còn giúp chúng ta giải đáp một số vấn đề cơ bản về sinh vật học".
KHÁM PHÁ BẢN CHẤT CỦA TÂM HỒN
Các nhà khoa học đang làm việc với mày quét X quang tính toán phát xạ positron đơn ba đầu xoay.
Nhờ công nghệ nano siêu nhỏ, trong tương lai chúng ta có thể tạo ra được bản sao của một con người. Nhưng bản sao đó thực sự có tâm hồn như nguyên mẫu hay không? Một câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ! Đây có thể là bí ẩn mà các nhà khoa học ưu tiên giải quyết trong thế kỷ này. Các chuyên gia thần kinh học và những nhà thần học của toà thánh Vatican đang tranh luận và nghiên cứu về bản chất về mặt vật chất của linh hồn. "Liệu tôn giáo có phụ thuộc vào linh hồn hay không? Khoa học có thể thừa nhận hình thức vật chất của linh hồn không?". Đó là những câu hỏi mà hai bên đặt ra.
Câu hỏi đầu tiên dành cho các nhà thần học. Còn các chuyên gia thần kinh học thì tin rằng, họ đã có một công nghệ để có thể trả lời cho câu hỏi thứ hai. Đó là một thiết bị cực nhạy có tên là máy quét X quang tính toán phát xạ positron đơn ba đầu xoay để nghiên cứu não của những người đang suy nghĩ. Nhà bác học Andrew Newberg cho biết: "Nhiều người rất bối rối trước hiện tượng cảm động nhất vừa trải qua có thể làm giảm những chức năng đặc trưng của bộ não - điều có thể đo được bằng các phương pháp chụp ảnh não tiên tiến".
Đối tượng của các cuộc nghiên cứu này là các thiền sư Tây Tạng và họ đã cho phép gắn các ống vào tĩnh mạch trên tay của họ. Khi các người này đạt đến trạng thái tập trung tư tưởng cao nhất, họ báo cho Newberg để ông truyền một chất đồng vị phóng xạ vào tĩnh mạch của họ. Trong não, những tế bào đã được kích hoạt mạnh hơn trong quá trình suy nghĩ đã tiếp nhận thêm chất đồng vị để phóng xạ mạnh hơn, giúp máy quét có thể dễ dàng ghi nhận. Cuộc nghiên cứu tương tự cũng đang được tiến hành với các nữ tu sĩ dòng thánh Francis và những tín đồ đạo Cơ đốc chính thống.
Liệu con người có thể vượt qua được tốc độ của ánh sáng? Các nhà khoa học sẽ cho chúng ta câu trả lời trong những năm tới một khi họ đã thực sự đo được chính xác đường truyền của ánh sáng
NHANH HƠN TỐC ĐỘ ÁNH SÁNG
Vượt qua tốc độ ánh sáng là một trong những mơ ước hàng đầu của con người, nhất là khi nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công cuộc chinh phục vũ trụ. Nhà bác học Chris Van Den Broeck (Bỉ) đã mô tả về một cuộc đua tốc độ ánh sáng bằng cách dùng một dạng không gian biến dạng đặc biệt, cho phép tạo ra các bong bóng có dung tích trong lớn - trong khi bề mặt bên ngoài cực nhỏ. Broeck đã tính toán khả năng có thể tạo ra được một bong bóng đủ lớn để chứa được một đầu phóng tên lửa vũ trụ chỉ yêu cầu có 1g nguyên liệu.
Hè 2005, tạp chí khoa học Nature cho biết, nhóm nghiên cứu của nhà bác học Lijun Wang, Viện Nghiên cứu NEC, Princeton (Mỹ) đã hướng được một xung ánh sáng đi qua bồn chứa đầy xezi với vận tốc gần 300.000km/giây. Wang khẳng định: "Thí nghiêm cho thấy, quan niệm thông thường cho rằng không có gì có thể di chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng là sai lầm". Khả năng gửi tín hiệu với vận tốc nhanh hơn ánh sáng có thể giúp giải quyết hai vấn đề bí ẩn nhất: tiếp xúc với người ngoài trái đất và du hành theo thời gian.
CHÚNG TA LÀ DUY NHẤT?
Hai phát hiện gần đây trong khoảng không vũ trụ đã làm thay đổi đột ngột những quan điểm mâu thuẫn về sự sống trong vũ trụ. Phát hiện đầu liên quan đến một đám mây bí ẩn gần trung tâm ngân hà. Phát hiện thứ hai liên quan đến các bức xạ từ pulsar (ngôi sao không nhìn thấy được bằng mắt thường mà chỉ được phát hiện qua các tín hiệu)
Pulsar - những ngôi sao không nhìn thấy được bằng mắt thường mà chỉ được phát hiện qua các tín hiệu.
Các nhà thiên văn học đã phát hiện ra dạng hợp chất đường (glycolaldehyde) trong đám mây mà từ đó các ngôi sao mới đang hình thành. Điều này có nghĩa là, khả năng rất lớn cho thấy các chất hoá học tiền thân của sự sống đã được hình thành từ khá lâu trong đám mây như vậy, trước khi các hành tinh phát triển xung quanh các ngôi sao.
Các nhà khoa học mô tả hợp chất đường này là họ hàng về mặt phân tử với loại đường ăn bình thường. Nguyên nhân là do loại nguyên tử gồm 8 nguyên tử của carbon, oxy và hydro này có thể dễ dàng kết hợp với các phân tử khác để tạo thành ribose. Ribose chính là khối cơ sở của axít nucleic (ADN), một phần tử hoá học của mã di truyền tìm thấy trong tất cả cơ thể sống.
Phát hiện thứ hai liên quan tới các pulsar. Mặc dù phần lớn các pulsar đều được coi là một dạng sao neutron, việc tính toán thời gian phát năng lượng của chúng đã khiến cho các nhà vật lý học thiên thể phải ngạc nhiên. Một chuyên gia Mỹ đưa ra bằng chứng cho thấy các pulsar đã được định vị và gửi các tín hiệu theo mẫu giống như dạng một thông điệp có trí tuệ.
Việc tìm ra các phân tử tạo thành cơ sở di truyền cho cuộc sống cùng với các tín hiệu được phát đi khá trật tự đã khẳng định một luận điểm: chúng ta hoàn toàn không cô đơn trong vũ trụ.
NHỮNG CỖ MÁY THỜI GIAN SẼ XUẤT HIỆN?
Albert Einstein - nhà bác học thiên tài của mọi thời đại. Những giả thuyết của ông đưa ra vẫn còn đầy sức hút cho các nhà khoa học ngày nay để khám phá ra bản chất con người.
Albert Einstein từ lâu đã được đánh giá là một thiên tài vượt thời đại và những giả thuyết của ông đang được con người đương đại chứng minh. Một trong số đó có liên quan đến nghịch lý về hai anh em sinh đôi. Einstein đưa ra giả thuyết nhà du hành vũ trụ tham gia một chuyến đi dài với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng, trong khi người anh em của anh ta lại ở nhà. Khi ông này trở về thì nhìn thấy người anh em của mình đã thành một ông già. Nguyên nhân của sự kiện này, theo như Einstein là do thời gian trên tàu vũ trụ trôi chậm hơn, khiến cho các nhà du hành vẫn còn trẻ.
Trong một thí nghiệm gần đây nhất có sử dụng hai chiếc đồng hồ siêu chính xác, chiếc đồng hồ đặt trên máy bay siêu âm Concorde rõ ràng đã chạy chậm hơn so với chiếc đặt trong phòng thí nghiệm. Điều này cho thấy thời gian hoàn toàn có thể co giãn. Việc nghiên cứu về những bộ máy thời gian trên lý thuyết vẫn được tiến hành với những tiến triển.
Nhà bác học Kip Thorne tại Viện công nghệ California đã đề xuất việc sử dụng các lỗ đen vũ trụ. Theo như Einstein mô tả, những lỗ đen chính là những đường hầm đưa ta vào khoảng không - thời gian. Một lỗ đen nằm giữa hai điểm có thể kết nối giữa ngày hôm nay với ngày hôm qua hay sớm hơn nữa.
Khả năng trên lý thuyết của việc du hành ngược thời gian đã đặt ra một câu hỏi thực tế: vì sao chúng ta không gặp những nhà du hành vũ trụ theo thời gian? Einstein đã giải thích: khi các thuyết tương đối không tuân theo việc du hành ngược lại thời gian, chúng sẽ giới hạn thời gian bạn có thể du hành
Hồ thủng ở Kirghizistan - 20/5/2006 10h:13
Kirghizistan, miền trung Á, được nuôi dưỡng bởi các đỉnh núi cao đến 7.000 mét, con sông băng Inylchek chứa đựng một bí ẩn chưa giải thích được từ trăm năm nay, nó là duy nhất trên thế giới mà cứ mỗi mùa hè, hồ Merzbacher ở đó lại cạn khô nước trong 3 ngày. Tại sao?
Các câu hỏi này đặt ra từ đúng một thế kỷ nay, khi nhà địa chất người Đức Gottfried Merzbacher khám phá chiếc hồ năm 1904 (và từ đó nó được mang tên ông). Với mong muốn phá vỡ bí ẩn của hồ Merzbacher, một đoàn thám hiểm quốc tế do GFZ Berlin tiến hành đã lên đường đến chiếc hồ này vào mùa hè năm nay. Lần đầu tiên, các nhà khoa học cố gắng trả lời câu hỏi đó.
Con sông băng khổng lồ Inylchek dài 65 km, với hai nhánh chính hội tụ nhau cách đoạn cuối sông 15 km. Tại chỗ giao nhau của hai nhánh, ở độ cao 3.300 m, đó là hồ Merzbacher, sâu 130 mét, một phần bị bao phủ bởi các núi băng trôi. Mỗi năm, nước hồ rút sạch đi trong 3 ngày, vào khoảng đầu tháng 8.
Điều không thể đã diễn ra. Vào lúc 16h ngày 6/8/2004, hồ Merzbacher bắt đầu tự tháo cạn nước đi! Cứ mỗi năm, hiện tượng lạ lùng trên lại xảy đến vào thời gian này. Với vẻ ngoài bình lặng, lượng nước đông giá của nó dần dần đổ vào đáy sâu của con sông băng Inylchek. Thấp hơn 30 km và sau vài giờ, đến lượt thung lũng bao la bị ngập nước. Từ một con sông khiêm tốn trên núi, Inylchek đã trở thành một đại dương hung dữ, chiếm trọn cả không gian. Trong 3 ngày đêm, chiếc hồ tháo sạch 250 triệu m3 nước của mình, chỉ để lại trong lòng hồ một thảm các khối băng khổng lồ u buồn. Ngày 9/8, hiện tượng nước rút hoàn tất trong thung lũng. Con sông băng chấm dứt sự thay hình đổi dạng của nó. Còn hồ Merzbacher đã trống rỗng. Nhờ điều kỳ diệu nào mà chiếc hồ bắt nguồn từ sông băng này có thể tự tháo nước đi trong vòng 3 ngày? Nước đã chảy đi đâu? Sự tháo sạch nước đã xảy ra như thế nào? Và bằng cách nào hồ lại đầy nước trở lại?
Ngày 19/7/2004. Khi đến Bichkek, thủ đô Kirghizistan, khó khăn đã lộ ra. Serguei Dushavili, một trong những lãnh đạo của đoàn thám hiểm, thông báo: "Có thể chúng ta buộc phải dùng ngựa cho 4 ngày đường, nếu như trực thăng không sử dụng được". Không thể bỏ lại những người Nga, chiếm đại đa số trong đoàn, cho dù ở Kirghizistan chỉ có một chiếc trực thăng duy nhất. Nhưng rồi cuối cùng một chiếc MI-8 khổng lồ cũng xuất hiện đón chúng tôi sau hai ngày đường vất vả trên con đường xấu.
Chúng tôi dựng lên hai trại, cách nhau 20 km: một trại nằm dưới chân con sông băng, nơi mà sông Inylchek bắt nguồn và trại thứ hai nằm ngay trên con sông, đối diện với hồ Merzbacher. Trong liên lạc vô tuyến hằng ngày với nhau, chúng tôi gọi tên hai trại lần lượt là Paliana và Basa. Con sông băng được chia cắt thành nhiều khu vực, từ tây sang đông, và mỗi êkip chịu trách nhiệm nghiên cứu các khu vực gần với trại của mình. Lúc này hồ còn đầy nước, do chúng tôi đã quan sát trước bằng máy bay vào buổi sáng. Thậm chí là rất đầy nước, theo các phi công thường bay tới đây để thả các nhà leo núi xuống chân ngọn núi Khan Tengri cao 7.000 mét. Trong tháng 7, hồ Merzbacher đạt mức lưu lượng nước kỷ lục.
Mỗi người một giả thuyết riêng
Đặc điểm của mỗi cuộc thám hiểm là sự may rủi đè nặng trước các bí ẩn của tự nhiên. Cuộc thám hiểm của chúng tôi cũng không thoát khỏi quy luật đó. Chúng tôi muốn có nhanh những câu trả lời sau khi có mặt tại hiện trường được vài hôm. Tuy nhiên, cuộc thám hiểm được lên chương trình cho 4 năm. Mục tiêu của năm đầu tiên này là thiết lập mạng lưới các điểm GPS, để đo đạc, nhờ vào các vệ tinh định vị mọi sự di chuyển của con sông băng. Tiến sĩ Wasili Michaljow, trưởng đoàn thám hiểm, dự đoán: "Có lẽ chúng ta sẽ có nhiều câu trả lời vào vài tuần nữa. Nhưng hiện thời chúng ta nên giảm thiểu bớt các giả thuyết". Mặc dù vậy, các giả thuyết vẫn kích thích trí tò mò của mọi người. Lúc đó, Serguei Dudashvili đưa ra giả thuyết của mình:
Đã không có bất kỳ một lỗ thủng nào cho phép hồ Merzbacher tháo nước đi, nhưng nhiều miệng lỗ bị tắc nghẽn do các khối băng khổng lồ. Vào mùa đông, các khối băng này vẫn còn áp sát bề mặt đáy nhiều lỗ xốp như là một loại rào cản tự nhiên. Nhờ thế mà chiếc hồ ngập nước, vì các "nắp van" vẫn bị đóng lại do hiệu quả của áp suất và nhiệt độ thấp. Khi mùa hè đến, nước nóng dần lên và các khối băng to bắt đầu tan chảy, cho đến lúc mà - theo Serguei - chúng mất đi sự bám dính, đột ngột trồi lên bề mặt. Hiện tượng này tương ứng với sự mở đột ngột các "nắp van". Một giả thuyết như thế chỉ có thể đứng vững nếu như mực nước hồ dâng lên về phía hạ lưu cũng đột ngột không kém. Do đó chúng ta còn phải chờ đợi để biết sự thật nằm ở đâu.
Ngày 28/7/2004. 6 ngày đã trôi qua kể từ lúc chúng tôi đặt chân đến trại Paliana. Chúng tôi kẻ ô vuông khu vực một vùng khoảng 10 km. Độ cao trung bình 3.000 mét. Vì lý do an toàn, trại của chúng tôi nằm ở phía tây con sông Inylchek, điều đó khiến chúng tôi buộc phải lội nước để đến con sông băng. Nhiệt độ nước là 1 độ C.
Trong khi chúng tôi lắp đặt các cột mốc trên khu vực cuối sông băng, nhà nghiên cứu hang động Wasili Filipienko xác định được hai hang động khổng lồ. Ở cách hồ chưa đầy 2 km, hai hang này có thể nằm trong mạng lưới thủy văn tiêu nước của chúng. Trong thời kỳ "nóng", sự tan chảy và lưu lượng nước đóng băng trong hai hang động trên, không kể đến chiếc hồ đang đe dọa rạn vỡ bất cứ lúc nào, không cho phép các nhà khoa học thăm dò chúng được. Sau hai lần mạo hiểm thâm nhập hang bất thành, chúng tôi đành bỏ cuộc. Công việc nghiên cứu hang động phải rời sang mùa thu.
Ngày 1/8/2004. Như không màng đến sự chờ đợi của đoàn thám hiểm, hồ Merzbacher vẫn cứ đầy nước. Serguei lúc đó đề nghị tiến về hướng nam. Ở đây sông băng rộng hơn, khoảng 4 km và đặc biệt xáo trộn. Từ trại chúng tôi, phải mất 3 giờ đi bộ mới đến được vùng đất bí mật tách nước khỏi hồ, khỏi con sông băng nói riêng. Chúng tôi biết chiếc hồ thủng nằm tại vùng này, nhưng không có ai đến được đó. Điều gì xảy ra trong cái rào chắn tự nhiên này? Sự chuyển tiếp giữa yếu tố nước và băng đã diễn ra như thế nào?
Yếu tố đơn giản, và rất có thể giải thích cho sự tồn tại của chiếc hồ, là sự dâng lên của băng từ nhánh nam của con sông băng tại nơi này. Thay vì tan chảy cùng nhánh bắc trong một chữ Y hoàn hảo, như mọi con sông băng trên thế giới, nhánh này lại dâng lên hình thành một rào cản băng giá khiến nước hồ Merzbacher được giữ lại.
Chúng tôi không bao giờ đến được bờ nam của hồ. Càng đến gần, các núi băng càng to ra, hòa vào nhau và tạo ra nhiều khe nứt. Chúng tôi có một điều chắc chắn: mặt băng dâng lên này của nhánh nam là nguyên nhân của hiện tượng hồ thủng duy nhất trên thế giới. Không có sự bất thường này sẽ chẳng có chiếc hồ. Trong một thế kỷ, hồ Merzbacher dịch chuyển từ 2 đến 3 km đến hạ lưu. Từ nay rào cản băng giá rất gần chỗ giao nhau của hai nhánh sông, và có lẽ hồ sẽ biến mất trong một tương lai khá gần.
Ngày 3/8/2004. Kết thúc cuộc thám hiểm tạm thời. Chiếc hồ vẫn đầy nước. Tôi quyết định ở lại một mình cho đến lúc hồ cạn nước. Không phải tại trại Basa, nơi khó quan sát, mà trong thung lũng, cách 30 km về phía dưới, nơi hiện tượng dâng nước sẽ rất ngoạn mục.
Ngày 5/8/2004. Tatiana chia sẻ với tôi nhiều dấu hiệu cho thấy chiếc hồ bắt đầu rút nước. Những điểm nước mới xuất hiện trong lòng sông. Lưu lượng sông băng Inylchek tăng dần...
Ngày 6/8/2004. Lúc 16 giờ. Lần này con sông đã gấp 3, 4 lần khối lượng. Thung lũng tràn nước. Chắc chắn chiếc hồ đang tan rã. Giả thuyết của Serguei bị loại bỏ. Lưu lượng nước không ngừng tăng lên trong 2 ngày. Rõ ràng là sự khai mở "các nắp van" không diễn ra đột ngột. Chắc chắn là sự tan chảy của các nút băng giải phóng dần dần nước của hồ Merzbacher, chứ không phải sự dâng lên mặt của các nút băng.
Cuối cùng, để giải được bí ẩn hồ thủng Merzbacher, có lẽ chúng ta phải chờ vài năm nữa.
Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng - 9/1/2006 4h:53
Theo truyền thuyết lịch sử và văn hóa cổ đại, Salomon thường được gọi là một Quốc Vương lý tưởng, một Ông Vua thánh hiền. Thực ra ông ta là một bạo chúa, ông ta đánh thuế nặng nề, thực thi cưỡng bức lao động, bắt thần dân phải xây dựng một cung điện và miếu thần vô cùng tráng lệ trên Núi Jerusalem. Trong Kinh Thánh đã ghi lại chân thực câu chuyện Salomon xây dựng thần Jéhova: "Salomon cho là cần phải xây cho Thần Jéhova một cung điện thờ, cho mình một cung điện. Thế là Salomon cho tuyển 8 vạn phu khuân vác, 8 vạn thợ đục đá và 3600 đốc công đến xây dựng".
Thành Jerusalem
Theo Kinh Thánh viết: Salomon ra lệnh 20 vạn người xây dựng miếu thần đều không phải là người Israel. Ông ta lại chọn trong người Israel được 5 vạn nhân công làm lao dịch. Công trình đó kéo dài đến 7 năm. Điện thần này hướng từ Đông sang Tây dài 250m, rộng hơn 90m được xây dựng cẩn trọng chặt chẽ, nguy nga tráng lệ, phía bên trong trang trí vô cùng hoa mỹ. Thật là một tác phẩm kiến trúc tuyệt vời. Điện thần này đã trở thành trung tâm tôn giáo và hoạt động chính trị của người Do Thái Cổ, đồng thời cũng là biểu tượng của họ. Hàng ngày, các giáo đồ đến đây để bái yết và hiến tế thần linh. Đá Thánh A La được đặt giữa điện thần. Đá Thánh cao 20m rộng 15m, là một tảng đá hoa cương, được dỡ bởi hai trụ đá cẩm thạch tròn. Phía dưới Đá Thánh là Nham Đường cao 35m, bên trong có bàn thờ, trên bàn thờ đặt một hòm thánh có khắc dòng chữ "Maxi Thập giới" còn gọi là "Mười lời răn của Thánh Jéhova", Jéhova là giáo chủ của Đạo Do Thái. Trong hòm thánh, ngoài những điều răn của Thánh còn có Tây Nại pháp điển. Hòm Thánh được làm bằng vàng ròng, gọi la Hòm của Jéhova cũng còn gọi là Hòm ước vàng. Nó được người Do Thái cổ đại coi là Bảo vật giữ nước liên quan đến việc tồn vong hưng thịnh của dân tộc Do Thái. Ở phía dưới Đá Thánh A La, Salomon cho xây một căn hầm và một đường hầm bí mật. Theo truyền thuyết Salomon đã cất giấu ở căn hầm và đường hầm này rất nhiều châu báu và các đồ vật quý giá. Đó chính là Kho báu của Salomon mà cả Thế giới đều đã được nghe nói tới.
Suốt hơn 2000 năm, các hoạt động tìm kiếm Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng chưa bao giờ ngừng. Vào hồi đầu thế kỷ, có một số nhà thám hiểm người Anh đã vào Thành Jerusalem. Đầu tiên, họ dùng tiền vàng hối lộ người gác đêm. Khi đêm đã về khuya, đoàn người lặng lẽ vào điện thần, cậy tấm đá bên cạnh Đá Thánh lên, rồi đào đất xúc đổ ra bên ngoài tường. Khi trời đã sáng, họ lại khuân tấm đá đậy lại như cũ, tuyệt nhiên không để lại dấu vết gì, rồi lặng lẽ rút ra ngoài. Cứ như vậy, họ bí mật đào suốt 7 đêm liền, cái hố ngày một sâu, mà không một ai biết. Đến sáng ngày thứ 8, họ bị một thầy tu Do Thái vô tình phát hiện ra. Các tín đồ gần đấy được thậy tu khua dậy, tay dao tay gậy kéo tới vây bắt. Mấy nhà thám hiểm thấy vậy sợ quá vội vàng chạy mất. Về sau, các tín đồ phát hiện ra là người gác đêm đã bị mấy nhà thám hiểm người Anh mua chuộc, và là họ lấy đá đập chết ông ta. Từ đó, các tín đồ càng tăng cường bảo vệ điện thần về ban đêm hơn nữa.
Cũng có một số người cho rằng Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng có thể có cách đây 2000 năm. Vào năm 586 trước Công Nguyên trước khi quân của Vương quốc Babylon vào Thành Jerusalem kho báu đã được chuyển đến cất giấu ở Đường hầm bí mật Uanbu.
Hầm ngầm Uanbu có một lai lịch rất cổ xưa. Theo truyền thuyết vào hơn 3000 năm trước (khoảng Thế kỷ XI trước Công Nguyên). Jerusalem bị người Ibux xâm lược. Bố của Salomon là David chỉ huy bộ lạc vây đánh người Ibux ở Thành Jerusalem. Do Thành Jerusalem cao hiểm trở, người Ibux lại canh phòng cẩn mật, nên David mãi không hạ được thành. Một đêm, một viên tướng của David tên là Uanbu thấy khát nước quá, ông ta rời doanh trại đi xuống dưới khe suối bên thành, phát hiện ra một cái hang có dòng nước chảy ra, lại nghe thấy trong hang phát ra những tiếng như thể tiếng gầu đang múc nước. Ông ta thấy lạ quá bèn chui vào xem, chỉ thấy một chiếc gầu có sợi dây ngược lên phía trên. Nghĩ một lát ông ta hiểu rằng: Do trong Thành Jerusanlem rất thiếu nước, người Ibux sống ở đấy đã đào một đường hầm dài ra tận khe suối ngoài thành. Hàng đêm, người Ibux thường lấy nước qua đường hầm này. Uanbu lập thức báo cáo với David: Ông ta đã phát hiện ra một đường ngầm để vào thành và sau đó ông ta dẫn một toán quân ra phía hang đó rồi theo đường ngầm vào trong thành mở toang cổng thành đón đại quân của David vào đánh tan người Ibux. David nhanh chóng chiếm được Jérusalem và quyết định lấy đó làm Thủ đô của Isarel - Vương quốc của người Do Thái.
Bởi vì đường ngầm ấy là do Uanbu tìm ra, lập được công lớn nên sau này người ta gọi đó là đường hầm Uanbu. Trong Thánh Kinh cũng có nói tới câu chuyện Uanbu vào thành qua đường ngầm đánh tan người Ibux, nhưng lại không thấy nói rõ đường ngầm ấy nằm ở đâu. Hơn hai nghìn năm, mọi người vẫn ôm mối hoài nghi: Rất có thể Đường hầm Uanbu đang cất giấu Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng. Nhưng đường hầm Uanbu nằm ở đâu cũng không có ai biết.
Đến năm 1868, viên Thượng úy Holan, sỹ quan Anh trong lúc đi vãn cảnh ở ngoại ô Jérusalem đã vô tình phát hiện ra một cái hang sâu khúc khuỷu. Ông ta liền chui vào trong hang, tiến thẳng, leo qua rất nhiều bậc đất do con người đục nên. Khi đến bên một hồ nước, Holan lại nhìn thấy một dòng suối. Ông ta ngẩng đầu lên đột nhiên nhìn thấy trên đỉnh mỏm đá có một cái lỗ tròn, theo đó, ông ta bèn leo lên lỗ hòn đá bằng một sợi dây leo núi, rồi tiếp tục đi theo đường ngầm, lại leo qua một cầu thang nữa. Lên cao khoảng 40m, Holan phát hiện ra một đường ngầm sâu khúc khuỷu dẫn vào động núi tối mò. Đi ra khỏi cái động đó cuối cùng ông ta vào tới thành Jérusalem. Holan tự hào cho rằng Đường hầm Uanbu cổ đại đã được chính ông tìm ra. Nhưng ông ta không hề tìm thấy Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng trong đường hầm mà người xưa đã kể. Vì vậy mà có một số người không đồng ý với phán đoán suy luận của Holan. Họ cho rằng, cái mà viên Thượng úy tìm thấy không phải là Đường hầm Uanbu cổ đại, mà là một đường hầm khác không nổi tiếng chưa được mọi người biết tới mà thôi.
Cũng có một số người tin rằng Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng vẫn ở trong đường hầm bí mật của thành Jérusalem. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, hai nhà thám hiểm người Mỹ - Hêlibatti và Matăngxtơ, lặng lẽ chui vào đường hầm mà trong truyền thuyết là do Uanbu tìm ra. hai người với đèn pin, xẻng và một số đồ dùng thiết yếu cùng một nỗi sợ hãi, mò mẫm đi vào đường hầm âm u ma quái. Ở trong đó, họ bắt đầu tìm thấy một nơi có cả đất và những thứ gì đó, họ phát hiện ra có 2 đường hầm khúc khuỷu sâu tối. Hai người đoán: môt đường có thể là đường ngầm cũ của người Ibux cổ ra ngoài thành lấy nước, còn đường kia có lẽ là hầm ngầm bí mật thông với Đá Thánh A La. Và 2 người quyết định đi theo một trong hai con đường đó. Nhưng đi được khoảng 150m thì hết đường ngầm, họ gặp những bậc đá ăn lên trên đều đã bị bùn cát lấp tịt, không thể đi tiếp được nữa. Hai người lấy xẻng ra xúc cát. Cát xúc ra lại đánh đóng vào đường ngầm phía sau và đường ngầm dường như bị bùn cát lấp lại nên cát ở trên bậc đá vẫn cứ chảy xống không ngừng, như thể có ai đó đang cố tình phá hoại, làm cho 2 nhà thám hiểm không thể có cách nào hót sạch chỗ cát cứ chảy ùn ùn trên bậc đá. Hai người cảm thấy, trên bậc đã có một uy lực vô biên, không thể chống lại sức mạnh thần bí đang tác quái, họ càng xúc, cát chảy xuống càng nhiều, nếu dừng thì cát cũng không chảy nữa. Hai người vô cùng sợ hãi, vội vàng theo đường cũ trở ra ngoài. Sau khi ra ngoài họ ra sức tô vẽ, thêm nếm cái nỗi sợ hãi trong đường hầm làm cho người nghe phát sợ, sởn cả tóc gáy. Sau này Hêlibatti đi thuyền buồm vượt Thái Bình Dương, gặp phải cơn bão lớn, thuyền chìm, chôn thân dươi đáy biển. Từ đó về sau, không còn người nào biết về đường ngầm thần bí đó, lại càng không có ai đi tìm nó nữa.
Lại có một số nhà khảo cổ cho rằng, Salomon thường xuyên phái các đoàn thuyền ra khơi xa, mỗi lần quay về thì vàng đều chất đầy khoang. Vì vậy, họ mạnh dạn suy đoán rằng, rất có thể ở ngoài biển xa xôi ấy nhất định phải có một hòn đảo châu báu. Đó là nơi Salomon đã cất giấu kho báu của mình, chỗ vàng kia là từ hòn đảo châu báu đó ùn ùn chuyển về không dứt. Nhưng câu chuyện vẫn là một bí mật cho tới nay chưa ai có thể làm sáng tỏ hơn.
Năm 156 sau Công nguyên, nhà hàng hải Tây Ban Nha dẫn một đoàn thám hiểm đến hòn đảo châu báu nọ thì thấy thổ dân trên đảo đeo các đồ trang sức đều lấp lánh ánh vàng. Họ đã vô cùng kinh ngạc cho rằng đã tìm thấy kho báu của Salomon, nên liền đặt tên cho nơi này là Quần đảo Salomon, đó là nguyên do vì sao hòn đảo này có tệ gọi là Quốc đảo Salomon. Từ đó về sau, người châu Âu cứ kéo nhau đến quần đảo Salomon để tìm "Kho báu của Salomon". Do vị trí của quần đảo Salomon nằm ở phía Tây Nam Thái Bình Dương, bao gồm 6 đảo lớn và gầm 1000 đảo nhỏ nằm rải rác trên diện tích đất biển là 60.000km2, rừng rậm phủ kín 90% diện tích đảo, nên rất khó khăn trong việc tìm kho báu. Mấy trăm năm trở lại đây, hàng ngàn hàng vạn lượt người tìm kho báu đã không tìm kiếm được gì ở quần đảo này. Có người cho rằng, trên quần đảo Salomon làm gì có Kho báu của Salomon, đó chẳng qua chỉ là tin đồn nhảm nhí.
Sự thật về kho báu của Salomon và Hòm ước vàng cho đến tận ngày nay vẫn là một bí ẩn
Lăng mộ Alexander huyền bí - 11/11/2005 3h:57
Quốc vương Macedonia Philip II.
Alexander Đại đế (356 - 323 trước Công Nguyên) là con trai của Quốc vương Macedonia Philip II. Ngay sau khi lên ngôi (năm 336 trước Công Nguyên), ông ta bắt đầu xâm lược sang phía Đông. Chỉ trong hơn 10 năm, từ Đông sang Tây, Alexander đã lập nên mọt đế quốc Alexander có bản đồ rộng lớn, phía Đông tới sông Hằng, phía Tây tới Sông Sanniro và bán đảo Balkan.
Alexander từng là một vị anh hùng hiển hách, và cũng là một nhân vật thần bí. Những truyền thuyết kể về ông ta nhiều vô kể. Nhưng thật đáng tiếc, những ghi chép lịch sử về cuộc đời ông lại không còn. Sau này cũng có một số sách sao chép nhưng lại có nhiều ý kiến khác nhau, vô cùng mâu thuẫn và mang nặng màu sắc truyền kỳ, màu sắc cá nhân. Vì vậy, dù đã qua hơn 2300 năm, sau khi ông ta chết, nhưng sự nghiệp chiến công của vị thống soái vĩ đại cổ xưa này vẫn làm cho người ta cực kỳ quan tâm. Đã có ý kiến yêu cầu phải tìm ra lăng mộ của Alexander, từ những cổ vật khai quật được sẽ xác định một số chứng cứ lịch sử có giá trị, để mà đánh giá sự nghiệp của vị anh hùng ngạo mạn một thời.
Một ngày của năm 1964, tờ báo của Thành phố Alexander Ai Cập đưa một tin hết sức giật gân: "Lăng một Alexander - quốc vương Macedonia đã được tìm thấy! Một thành tựu vĩ đại của các nhà khảo cổ học Ba Lan" Tin này nhanh chóng truyền đi khắp Thế Giới. Thời báo NewYork của Mỹ lập tức đăng tin và gửi cho đội khảo cổ Ba Lan một bức điện, hy vọng họ viết một bài về phát hiện vĩ đại này, hứa sẽ trả nhuận bút rất cao. Nhà báo từ các nước cũng tới Ai Cập. Đồng thời, một lượng lớn độc giả đổ dồn tới thành phố làm cho cảnh sát Ai Cập luôn ở trong trạng thái báo động khẩn cấp.
Thật đáng tiếc, tin này lại là giả. Phát hiện ấy không phải là lăng mộ của Alexander mà là di chỉ của một tu viện thời Roma cổ. Vậy lăng một của nhân vật nổi tiếng trong lịch sử này nằm ở đâu? Ông ta chết như thế nào? Về bí mật này có rất nhiều ý kiến khác nhau.
Nguyên nhân về cái chết của Alexander có hai truyền thuyết. Truyền thuyết nói rằng, khi ông ta viến chinh Ấn Độ, ở một nơi cách không xa Babylon, một số thầy mo tinh thông thiên văn và xem bói đã yết kiến, khuyên ông ta không lên tới Babylon, sợ rằng lành ít dữ nhiều. Tuy nhiên ông ta vẫn không dừng bước, nhưng từ đó về sau tâm tính biến đổi thành trầm uất phiền muộn không thôi.
Một lần, Alexander điều khiển chiến hạm dạo trên mặt hồ, bỗng nhiên ngọn gió thổi tới, làm bay chiếc mũ của ông ta vào đám lau sậy, mà lại rơi chính vào mộ của Quốc vương Azo. Tất cả tùy tùng và ngay bản thân Alexander đều cho rằng đây là một điềm dữ. Người thủy thủ được phái đi lấy chiếc mũ, lúc bơi về, lại dám to gan đội mũ lên đầu. Alexander tức giận lập tức sai đem chém ngay thủy thủ nọ.
Chẳng bao lâu Alexander lâm bệnh nặng, 13 ngày sau, một buổi tối tháng Sáu năm 323 trước Công Nguyên Đức Vua từ trần. Alexander làm Vua được 12 năm, 8 tháng, khi chết mới 32 tuổi.
Những câu chuyện vụn vặt như thế, có lẽ chỉ là một sự trùng hợp. Kỳ thực cái chết của Alexander rất có khả năng là do hành quân gian khổ, thêm nữa nhiều lần trải qua chiến trận, trên mình ông ta mang đậy thương tích, ở trong đầm lầy lại nhiễm thêm bệnh sốt rét.
Ngoài ra một truyền thuyết khác lại kể rằng: "Trong một bữa tiệc có người đã dâng Alexander cốc rượu pha thuốc độc." Nếu truyền thuyết này đúng, thì Alexander chết do một âm mưu, chứ không phải là một cái chết tự nhiên.
Sau khi Alexander chết, tướng quân Ptolemaic - bộ hạ của ông ta (sau này trở thành Vua Ai Cập) đã dùng linh xa chở thi hài Quốc vương về Ai Cập, an táng tại Thành Alexander và xây cho ông ta một năng mộ vô cùng lộng lẫy.
Caesar đại đế
Caesar đại đế, Hoàng đế Kalakal, Hoàng đế Augustin các nhân vật nổi tiếng trong lịch sử cũng đã từng tới đây bái lễ, và đặt thêm lên trên đầu tượng Alexander một vương miện bằng vàng. Nhưng đến thế kỷ thứ IV sau Công Nguyên, những câu chuyện về lăng mộ Alexander, không hiểu tại sao không còn nữa. Năm 642 sau Công Nguyên, đại quân Hy Lạp đánh chiếm Thành Alexander. Những dấu tích lịch sử huy hoàng ở đây đã làm cho họ tấm tắc mãi không thôi. Năm 1798, khi quân đội của Napoleon tiến vào Thành Alexander, cảnh tượng ở đây đã suy tàn. Trong thành chỉ có 7000 dân. Một số học giả đi theo Napoleon chỉ nhìn thấy những đống đổ nát của các công trình kiến trúc cổ. Đầu Thế kỷ XIX, ở đây bắt đầu xây dựng hải cảng. Di chỉ kiến trúc cổ xưa đã trở thành bãi khai thác đá, dần dần nó biến mất trong con mắt mọi người.
Theo tập tục của Hy Lạp cổ, nhà Vua xây dựng nên thành phố, sau khi ông ta chết đi, sẽ được mai táng ở trung tâm thành phố. Vì vậy mà có nhà khảo cổ học phân tích cho rằng, lăng mộ Alexander phải ở một điểm giao nhau của 2 đường phố.
Những năm gần đây, Malia - nhà khảo cổ học người Ba Lan sau khi tiến hành nghiên cứu những lăng đèn cổ được khai quật ở đây đã phát hiện thấy: Người xưa khi chế tạo đèn, ở phía trên đều làm một mô hình Thành Alexander cổ đại. Từ đây bà đã đưa ra một suy đoán thú vị mà mạnh dạn: Trong mô hình đền, có một công trình kiến trúc hình nón, có khả năng đó chính là lăng mộ của Alexander Đại đế bởi lăng mộ của Hoàng đế Augustin có kiến trúc đỉnh nhọn hình nón, kiểu mộ này rất có khả năng là phỏng theo lăng mộ của Alexander.
Hoàng đế Augustin
Willi, người Anh từng tiến hành nghiên cứu đối với khu mộ của Vương triều Ptolemaic cho rằng những ngôi mộ này dứt khoát giống với lăng mộ của Alexander. Ông ta tưởng tượng quan tài của Alexander được đặt trong một ngôi miếu lớn, xung quanh là những chiêc trụ hình tròn, trong mộ nhất định có rất nhiều đồ đạc quý hiếm, tinh xảo. Trong mộ còn có thể lưu giữ những ghi chép về lịch sử của các tập kinh thư từ khắp nơi trên Ai Cập đưa đến. Vào cuối Thế kỷ XX, một phát hiện lớn đáng kinh ngạc đã chứng thực những phỏng đoán trên. Androniks nhà khảo cổ học chuyên nghiên cứu về lịch sử Macedonia cổ đại đã phát hiện ra mộ của Philip II - cha của Alexander.
Ở chính giữa đại điện ngôi mộ Philip II đặt một quan tài đá cẩm thạch cực lớn, trên mặt có đá quý. Bình trang trí mộ bằng vàng rất nặng. Hài cốt của Quốc vương đặt ở trong đó, xung quanh là một số đồ bằng vàng bạc châu báu, mũ giáp vương trượng, sáng lấp lánh, hấp dẫn tất cả những ai tới xem. Trong số châu báu đó có 5 bức tượng làm bằng ngà voi, được chế tác hết sức tinh tế, đặc biệt thu hút sự chú ý của mọi người. Năm bức tượng này là tượng gia quyến của nhà Vua: Bản thân Philip II, vợ của ông, con trai Alexander và phụ mẫu của Philip II. Phát hiện này đã làm giới khảo cổ kinh ngạc và được coi là một phát hiện vĩ đại nhất của ngành khảo cổ trong Thế kỷ.
Trong sự mừng vui khôn xiết, người ta không thể không đặt câu hỏi: Lăng mộ của Nhà Vua Philip II đã tìm thấy, lẽ nào lại không thể tìm ra lăng mộ của con trai ông? Nhưng thực tế vẫn là thực tế, sự thần bí của lăng mộ Alexander càng thần bí hơn khiến người ta khó có thể với tới được.
Ai có thể mở ra bí mật của lăng mộ này? Mọi người vẫn đang kiên nhẫn chờ đợi. Nếu tìm thấy, rất có khả năng các nhà khảo cổ sẽ khai quật được những vật phẩm văn hóa nghệ thuật của nhiều dân tộc thời bấy giờ cùng với một số lượng lớn tư liệu lịch sử đối với khảo cổ. Đó sẽ là một đóng góp lớn đối với khảo cổ và là một cống hiến vĩ đại đối với nền văn minh nhân loại
Ngôi giáo đường tạc trong đá - 1/7/2006 10h:15
Xây dựng từ thế kỷ 16, cho tới nay, 11 ngôi giáo đường này vẫn hấp dẫn và gây nhiều hứng thú, hiếu kỳ cho vô số người. Những kiến trúc độc đáo, lạ lùng tới mức ngay cả người kiến tạo nên nó cũng nghi ngờ, không biết người ta có tin vào những gì họ làm hay không.
Đất nước của thánh đường đá
Lalibela là một trong những thành phố của tộc người Amhara, hay còn gọi là Kilil, của Ethiopia. Nằm ở độ cao 2.500m so với mực nước biển ở 12,04 độ Bắc và 39,04 độ Đông, dân số hiện khoảng 8.484 người. Lalibela là trung tâm của các cuộc hành hương.
Bên trong nhà thờ, những tảng đá nguyên khối được dùng để xây dựng hiện vẫn còn nguyên vẹn. Các nhà khoa học vẫn chưa có câu trả lời về cách thức con người của thế kỷ 13 bằng phương tiện nào đó thể lấy được những tảng đá này từ các vùng núi lân cận về địa điểm xây dựng. (Ảnh: rainbowtours)
Thành phố này có những giáo đường được xây dựng từ tảng đá nguyên khối trong thời kỳ trị vì của Thánh Lalibela (một thành viên của hoàng tộc Zagwe), người nắm quyền cai trị toàn lãnh thổ Ethiopia trong thế kỷ 13. Trong thành phố có 11 nhà thờ cổ kính và chia thành 3 nhóm. Nhóm cực bắc: giáo đường Bete Medhane Alem bằng đá, lớn nhất thế giới hiện nay, có lẽ là bản sao từ ngôi nhà thờ Thánh Ary ở Aksum, một vùng khác ở Ethiopia. Nhóm cực Tây: nhà thờ Bete Giorgis được bảo tồn hầu như nguyên vẹn nhất và nhóm cực Đông bao gồm 4 nhà thờ dành riêng cho hoàng gia, trong đó giáo đường Bete Gabriel-Rufael là nơi sản xuất bánh thánh (từ bột mì) cổ nhất thế giới.
Người châu Âu đầu tiên phát hiện những ngôi nhà thờ này là nhà thám hiểm Bồ Đào Nha Pêro da Civilhã (1460 - 1562). Tuy nhiên, một trong những người phát hiện thị trấn Lalibela là linh mục Bồ Đào Nha Francisco Alvares (1465 - 1540), người đã tháp tùng đại sứ Bồ Đào Nha trong chuyến viếng thăm Lebna Dengel vào những năm 1520.
Độc đáo và thánh thiện - những lời mà du khách thường để lại sau khi viếng thăm cây thập tự giá cổ xưa này. Với lối kiến trúc hoàn toàn bằng đá, xây dựng sâu đến gần 5m dưới mặt đất, đây hiện nay là vùng đất thánh của người dân Lalibela. (Ảnh: weltkulturerbe)
Kiệt tác của kiến trúc sư vô danh
Giáo đường được dựng hoàn toàn trong nham thạch của thế núi. Đầu tiên, chung quanh nham thạch cỡ lớn ở sườn núi, người ta đào rãnh rất sâu, tách rời nó ra khỏi thế núi. Sau đó, từ trên xuống dưới từng chút một, người ta đào từng mét đá trong nham thạch, tạo thành giáo đường nham thạch với nóc tròn, cửa sổ, hành lang, cửa phòng lớn... Bên trong, ngoài cột đá chống đỡ vùng nóc và cổng vòm, toàn bộ đều bị khoét rỗng.
Một giáo sĩ ở nhà thờ
(Ảnh: SGTT)
Những giáo đường được xây dựng vững chãi và rộng lớn. Giáo đường Chúa cứu thế, dài 33,5m, rộng 23,5m, cao 10,6m. Giáo đường Sainte Maria với cửa sổ hình thập tự Latin và cổ Hy Lạp, hình chữ vạn và chữ thập cuộn vòng tròn. Cột đá chính giữa trong giáo đường dùng vải bao bọc.
Các giáo đường được nối liền với nhau bởi đường thông nham thạch giống như mê cung chằng chịt. Cả khối nham thạch cỡ lớn xây nên giáo đường Saint Georges được khắc hình thập tự đều nhau. Saint Georges tọa lạc trong hầm nham thạch rất sâu, đường thông dưới đất nối liền với cửa vào, trở thành bia kỷ niệm sự nghiệp anh hùng và nghị lực phi thường của những người xây dựng giáo đường.
Các nhà nghiên cứu kiến trúc những ngôi nhà thờ ở Ethiopia có hai nguồn gốc: trước hết, được xây dựng theo lối kiến trúc Axumite với lối xây dựng từ đá nguyên khối và gỗ làm thân trụ giữa; thứ hai là theo lối kiến trúc nhà thờ xây sâu với hai dãy cột thường thấy thời La Mã. Những ngôi nhà thờ này phản ánh truyền thống kiến trúc nổi bật Axumite và Kitô giáo Địa Trung Hải thời xưa: chúng mang lại một sự sáng tạo mới của nghệ thuật tôn giáo trên đất Ethiopia.
Năm 1978, Lalibela được Tổ chức Khoa học - văn hoá và giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hoá thế giới
Ngọn núi di chuyển 100 km trong nửa giờ - 22/5/2006 12h:35
Một ngọn núi gần biên giới bang Montana - Wyoming (Mỹ) từng di chuyển 100 km chỉ trong 30 phút trong một thảm họa kinh hoàng có thể lặp lại ở những nơi khác trên thế giới, các nhà khoa học tiết lộ.
Đá trên đỉnh của núi Heart già hơn 250 triệu năm so với chân của nó. Điều đó chứng tỏ đỉnh và chân núi không phải lúc nào cũng gắn với nhau. Sự dịch chuyển mãnh liệt tới vị trí hiện nay đã làm bối rối các nhà khoa học trong nhiều năm. Họ biết rằng ngọn núi rời chỗ, nhưng không ai giải thích được chuyện đó đã xảy ra như thế nào và trong bao lâu.
Núi Heart, trên ảnh, bắt đầu hình thành cùng với rặng núi Absaroka nằm ở phía Tây khoảng 50 triệu năm trước. (Ảnh: NASA)
Một giải thích mới đến từ lòng đất, nơi dung nham sôi lên bề mặt và đẩy đất đá trên đường của nó đi nhanh một cách đáng kinh ngạc.
Einat Aharonov, nhà địa vật lý tại Viện khoa học Weizmann đã sử dụng một mô hình máy tính để mô tả trạng thái bên dưới núi Heart 50 triệu năm trước. Thời kỳ này là một trong những giai đoạn hình thành núi với nhiều vụ phun trào núi lửa.
Họ nhận thấy núi Heart có một lượng lớn các vết đứt gãy thẳng đứng (hay các rãnh dọc). Các rãnh dọc này chứa đầy dung nham, dâng lên qua một lớp đá vôi bão hoà nước.
Dung nham từ các rãnh xâm nhập vào lớp đá bão hoà nước, khiến cả đá và nước đều sôi lên. Lớp nước này bị giữ lại, và giống như trong một nồi áp suất, nhiệt càng tăng thì áp suất càng cao. Vì nằm kẹp giữa các lớp đá không thấm, nên nước sôi không thể thoát ra được. Cuối cùng, sức ép đã khiến nó nhấc bổng lớp đá, và ngọn núi bắt đầu trượt.
"Chúng tôi nghĩ rằng cú trượt này phải rất kinh hoàng. Theo tính toán, sự chuyển dịch chỉ diễn ra trong chưa đầy 30 phút", Aharonov nói.
Núi Heart không phải là ngọn núi duy nhất có thể dịch chuyển. Aharonov cảnh báo rằng do nằm trên một mặt của núi lửa, quần đảo Canary cũng có thể sẽ sớm bò đi, đe doạ gây ra một trận sóng thần lớn.
Ngựa trời Uffington - 30/6/2006 9h:41
Ngựa trắng Uffington vẽ bằng bột đá
(Ảnh: nashfordpublishing)
Con ngựa trắng Uffington có chiều dài 114m và chiều cao gần 34m, được vẽ bằng bột đá. Đây là một trong những hình vẽ trên đồi cổ nhất ở Anh.
Nhiều người cho rằng đó là hình con ngựa, nhưng cũng có người nhận định hình vẽ giống con rồng. Điều đó liên quan đến truyền thuyết về thánh George và đồi Rồng, là ngọn đồi thấp nằm trong thung lũng phía dưới đồi Ngựa Trắng.
Theo truyền thuyết, đây là nơi thánh George đã giúp người dân trừ diệt một con rồng hung ác, máu chảy ra thành hình con rồng, khiến cỏ không thể nào mọc lên được. Con ngựa trắng có thể được vẽ từ 3.000 năm trước, tài liệu sớm nhất nói đến Uffington được viết từ năm 1070 và vào năm 1190 các nhà sử học đã đề cập đến trong các truyện truyền kỳ về lịch sử nước Anh
Những bí ẩn phổ thông nhất - 9/2/2006 8h:24
'Kẹo cao su mất 7 năm mới phân huỷ' là điều hù dọa những đứa trẻ tinh nghịch. Vạn lý Trường Thành không khá hơn kim tự tháp Giza khi nhìn từ mặt trăng. Còn ở Nam bán cầu, nước không 'chảy giật lùi' như truyền thuyết...Đồng xu rơi từ đỉnh toà cao ốc có thể giết chết người đi bộ? Miếng bánh rơi xuống sàn nếu nhặt lên ngay có bị dính khuẩn không?... Câu trả lời bạn sẽ tìm thấy dưới đây
Ảnh: LiveScience
Mất 7 năm mới phân huỷ được kẹo cao su
Mặc dù kẹo cao su có thể được chứng minh là lâu phân huỷ hơn các loại thực phẩm hữu cơ khác, song nó không gây ảnh hưởng đặc biệt nào với hệ tiêu hoá. Các bác sĩ cho biết câu chuyện về kẹo cao su 7 năm mới tiêu hoá được chỉ là để ngăn bọn trẻ khỏi nuốt thứ chất dính này.
Vạn lý Trường thành là cấu trúc nhân tạo duy nhất thấy được từ vũ trụ
Ảnh: LiveScience
Có một vài thay đổi trong lời bình dân gian này, và chúng đều sai. Các nhà du hành có thể nhận ra Vạn lý từ trên quỹ đạo thấp, cùng với rất nhiều công trình khác như kim tự tháp Giza và thậm chí cả đường băng. Nhưng họ không thể nhìn thấy Trường thành từ mặt trăng.
Con người chỉ sử dụng 10% não bộ
Ảnh: LiveScience
Thông tin này đã xuất hiện ít nhất 1 thế kỷ. Nhưng may mắn thay, nó chẳng đúng chút nào. Ảnh chụp MRI đã cho thấy rõ ràng - con người đặt hầu hết vỏ não vào trạng thái hoạt động hữu ích, ngay cả khi đang chợp mắt.
Nước chảy giật lùi ở Nam bán cầu do sự quay của trái đất
Ảnh: LiveScience
Không chỉ lực quay của trái đất quá yếu để có thể ảnh hưởng đến hướng chảy của nước trong một ống dẫn, các thử nghiệm mà bạn có thể tự làm dễ dàng trong bồn rửa mặt sẽ cho thấy nước xoáy theo cả hai chiều phụ thuộc vào cấu trúc bồn, không phải là bán cầu.
Động vật có thể dự báo thảm họa thiên nhiên
Ảnh: LiveScience
Không có bằng chứng nào cho thấy động vật sở hữu giác quan thứ 6 bí ẩn cho phép chúng dự đoán thảm họa tự nhiên. Chỉ riêng khả ngửi, nghe và bản năng bẩm sinh nhanh nhẹn cũng đủ để giúp chúng thoát khỏi những sườn núi trong một cơn bão hoặc một trận sóng thần. Và hơn nữa, động vật thường chết trong các thảm hoạ thiên nhiên, vì vậy nếu chúng có một hình thái nào của giác quan thứ sáu, thì nó cũng không có tác dụng lắm!
Tóc và móng tay vẫn tiếp tục mọc sau khi chết
Mặc dù tóc và móng ta dường như vẫn dài ra sau khi chết, nhưng điều này chỉ đơn thuần là ảo giác quang học. Cơ thể người chết bị mất nước nghiêm trọng, kéo co da khiến cho móng tay và tóc lộ ra nhiều hơn.
Đồng xu rơi từ đỉnh toà cao ốc có thể giết chết người đi bộ
Ảnh: LiveScience
Một đồng xu không phải là vũ khí có khả năng động học lớn nhất. Sự kết hợp của hình dáng và lực cản của gió có nghĩa rằng, nếu được thả từ độ cao 380 mét của toà nhà Empire State Building, nó sẽ bay nhanh chỉ đủ để làm đau nhói một người đi bộ không may mắn.
Không có lực hấp dẫn trong vũ trụ
Ảnh: LiveScience
Khái niệm "không trọng lực" là thủ phạm cho sự hiểu lầm này. Lực hấp dẫn có ở khắp mọi nơi, ngay cả trong vũ trụ. Các nhà du hành có vẻ nhẹ đi vì họ đang ở trong trạng thái rơi tự do liên tục về trái đất, và lơ lửng vì những cử động theo phương ngang. Ảnh hưởng của lực hấp dẫn nhỏ dần khi khoảng cách tăng lên, nhưng không bao giờ thực sự biến mất. Ngoài ra, cũng không đúng khi nói vũ trụ là chân không. Có nhiều loại nguyên tử ở đó chứ, mặc dù đôi khi chúng ở xa nhau (và thứ khí mỏng này cũng góp phần vào cái kho hấp dẫn).
Gà mất đầu vẫn sống
Ảnh: LiveScience
Đúng, và không phải chỉ trong vài phút. Một con gà có thể lảo đảo bước đi sau khi bị chặt đầu, vì gốc não - phần thường còn lại một ít sau khi bị chém - kiểm soát hầu hết các phản xạ của nó. Một con vật như vậy đã sống khoẻ mạnh 18 tháng liền.
Quy luật giây thứ 5
Ảnh: LiveScience
Bạn cứ ngỡ rằng bánh rơi xuống sàn sau 5 giây mới tiếp xúc với vi khuẩn, đủ thời gian để nhặt nó lên cho vào miệng. Không may, các thử nghiệm (và logic) xác định rằng vi khuẩn có thể bám vào hầu hết thức ăn hầu như ngay tắp lự.
Mèo rơi bao giờ cũng chạm chân xuống đất
Ảnh: LiveScience
Các nghiên cứu đã chứng tỏ rằng, khi bị rơi từ hầu hết độ cao, mèo có thể hạ cánh an toàn trên đôi chân. Nhưng điều này thay đổi khi nó bị rơi ngược từ một độ cao chỉ chưa đầy 0,3 mét hoặc hơn. Cũng khuyến cáo bạn không nên thử điều này ở nhà.
Người lớn không mọc thêm các tế bào não mới
Phần lớn vùng não quan trọng của người phát triển mạnh trong thời niên thiếu, nhưng nó cũng không xuống dốc ở đó. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các neuron tiếp tục mọc ra và thay đổi nhanh trong những năm trưởng thành
Những bí ẩn xung quanh sinh vật chân to - 10/6/2006 9h:48
Bigfoot trong phim được quay năm 1967 bởi một người tên là Roger Patterson ở vùng Bluff Creek, Bắc California (Ảnh: compuserve)
Một tấm ảnh, một bằng chứng hay một dấu vết không thể trở thành các yếu tố mang tính quyết định. Người ta luôn cần đến bằng chứng cụ thể: bộ xương hay chiếc sọ, những thứ mà hiện nay vẫn chưa phát hiện được. Một ngày nào đó chúng ta sẽ phát hiện sự tồn tại của "người - khỉ" này, còn hiện tại sinh vật có tên gọi Bigfoot vẫn còn là bí ẩn lớn.
Theo mô tả đó là một sinh vật hai chân ăn tạp, sống về đêm, trong các cánh rừng trên núi hoặc nơi có nước. Nó cao khoảng 2,20 mét đến 3,75 mét, cân nặng khoảng 250 đến 450kg. Các mặt như sức khỏe, thính giác, thị giác và khứu giác đều hơn hẳn con người. Tuy nhiên nó có đặc tính vô hại, không hung hăng. Nó được gọi là Bigfoot do những dấu chân của nó để lại trên mặt đất (dài đến 45 cm).
Một tài liệu gây hoang mang nhất cho chúng ta chính là một cuốn phim về một con thú loại này đang đi loanh quanh trong một cánh rừng. Phim được quay năm 1967 bởi một người tên là Roger Patterson ở vùng Bluff Creek, Bắc California. Nhiều nhà khoa học đã xét nghiệm cẩn thận cuốn phim và kết luận rằng đã không có bất cứ kỹ xảo nào được dùng để thực hiện cuốn phim. Sự tồn tại của Bigfoot chỉ thể hiện ở các dấu chân do nó để lại trên mặt đất, và các dấu vết đã được các chuyên gia, nhất là nhà nhân loại học Grove S.Krantz, tiến hành các nghiên cứu giải phẫu học và cơ học sinh vật.
Sự trở lại của Bigfoot?
Một hình ảnh Bigfoot (Ảnh: geocities)
Sau một thời gian yên ắng, gần đây sự kiện về Bigfoot lại nổi lên, nhất là tại Canada. Tháng 4/2005, một người lái phà ở sông Manitoba của nước này đã quay phim một sinh vật lờ mờ, to lớn, đen thui, di chuyển dọc theo bờ sông. Chưa biết chắc đó là con gì - Bigfoot hay gấu... - nhưng nó cũng trở thành một đề tài bàn tán sôi động.
3 tháng sau, gần vùng Yukon, một cư dân Teslin tên là Trent Smarch lại phát hiện một nhúm lông đen, to sợi trong rừng nơi mà anh ta và dân địa phương từng nghe đồn có một con thú bí ẩn, to lớn. Họ tin rằng đó chính là con Sasquatch, một phiên bản Bigfoot dạng người, rậm lông và cao to của Canada. Phát hiện này liền được thông tin rộng rãi khắp Bắc Mỹ và vòng quanh thế giới, và người ta thắc mắc không biết nhúm lông này có lẽ cuối cùng sẽ chứng minh được sự tồn tại của một sinh vật Bigfoot từng được tranh cãi gay gắt trong quá khứ hay không. Sau đó mẫu tóc được chuyển đến Đại học Alberta cho nhà di truyền học đời sống hoang dã David Coltman phân tích ADN và đem đối chiếu với dữ liệu về các sinh vật trong khu vực. Chỉ đến ngày 28/7, một tuần sau xét nghiệm, các kết quả mới được thông báo. Và người ta đã có được một số cơ sở đầu tiên trong nghiên cứu bằng chứng Bigfoot.
Bigfoot bắt đầu hình thành
So sánh bàn chân của Bigfoot với bàn chân người bình thường (Ảnh: tqnyc)
trong tâm trí chúng ta từ năm 1959, với một bài báo thông tin về sự khám phá các dấu chân to lớn ở Bluff Creek, Californoa. Gần nửa thế kỷ sau, vấn đề về sự tồn tại của Bigfoot lại được bàn tán trở lại qua các dấu chân được tìm thấy, các tấm ảnh được đăng tải. Nhưng sau 5 năm nghiên cứu, sự thật sau khi công bố hóa ra thật buồn cười: "Lông Bigfoot" trở thành lông của bò rừng bizon, gấu hay nai sừng tấm, và "máu Bigfoot" lại là một thứ dịch truyền!
Tại một cuộc họp báo, Coltman đã tiết lộ kết quả các phân tích ADN đối với mẫu lông được cho là của Bigfoot: nó hoàn toàn phù hợp với lông của bò rừng bizon! Loài bò rừng này rất phổ biến trong vùng, do đó dường như sự mong đợi và nhận thức của người dân đã bị ảnh hưởng bởi những gì đã xảy ra vào 3 tháng trước đó ở Manitoba. Tuy nhiên, kết quả này vẫn không làm nản lòng các nhân chứng và những người tin vào sự tồn tại của Bigfoot.
Hiện nay, tất cả những gì được coi là của Bigfoot đều giả mạo, không xác định hay xuất phát từ những con thú mà ai cũng biết. Bí ẩn Bigfoot vẫn còn đó và cuộc tìm kiếm vẫn cứ tiếp t
Những tiếng gọi bí ẩn - 20/8/2006 7h:55
Một phụ nữ bước vào cửa hiệu, khi cô đang đi quanh góc nhà thì chợt nghe một giọng nói gọi tên cô 2 lần. Cô chạy lên phía trước nhưng không thấy ai, và lúc đó vang lên những tiếng ầm ầm. Cô quay trở lại góc nhà, nơi vừa đi qua thì thấy chiếc cột nhà đổ nằm đó và chao đèn trên bàn vỡ tan từng mảnh.
Thì ra đã có một chiếc thùng phuy lăn từ trên xe tải xuống và làm đổ chiếc cột nhà. Cô đã thoát hiểm nhờ tiếng gọi bí ẩn.
"Con người ta không hiếm khi nghe thấy một giọng nói nào đó như được cất lên từ bên ngoài. Và dù cố gắng tìm kiếm nơi phát ra giọng nói, họ cũng không thấy ai", ông Igor Vinokurov, chủ tịch Ban nghiên cứu những hiện tượng khó lý giải của Nga nói.
Một câu chuyện khác ông ghi nhận được ở Nga như sau. Sau khi người mẹ qua đời được 2 tuần, cậu bé 13 tuổi tên là Alecxey đã sống ở nhà người bà con. Một thời gian sau, cậu trở về nhà mình, trong nhà không có ai cả. Cậu định bụng chuẩn bị bữa ăn. Tủ lạnh đặt ở gần cầu thang ngoài. Thế nhưng khi cậu đưa tay nắm cửa thì từ đâu có tiếng gọi vang lên, đúng là giọng nói nhẹ nhàng của mẹ đang gọi cậu. "Vâng, mẹ ơi", cậu bé đáp rồi chạy bổ vào phòng bà và chỉ thấy chiếc giường trống trơn nên đứng sững lại. Sau đó, cậu trở lại nhà bếp mà trống ngực đập thình thịch, rồi cậu quay lại cửa ở cầu thang thì tiếng kêu thảng thốt của người mẹ lại vang lên. Cậu bé không nhớ là đã trở lại phòng mẹ thế nào nữa. Ngay lúc đó bà hàng xóm sang và nói rằng, người ta đã phá bỏ hoàn toàn chiếc cầu thang này rồi vì nó bị lung lay. Cậu bé đã thoát khỏi nguy hiểm chết người.
Trong số những hiện tượng về giọng nói bí ẩn, đôi khi đó là thông báo cụ thể về sự kiện sắp tới mà nguồn tin lại là giọng nói phát ra từ TV hoặc radio.
Vào lúc gần trưa, một phụ nữ trẻ người Anh đang xem TV, trên màn hình vang lên lời thông báo về vụ nổ ở Fliksboro đã làm cho vài người bị chết. Không lâu sau đó, bạn bè của cô đến chơi và cô kể về tin này. Đến tối, họ xem phóng sự truyền từ nơi xảy ra tai nạn và kinh ngạc khi nghe thông báo tai nạn xảy ra vào buổi chiều. Quả thật, vụ nổ ở nhà máy hoá chất đã xảy ra vào lúc 16h35'. Các công trình của nhà máy hoàn toàn bị phá huỷ, khu dân cư, cửa hiệu và các xí nghiệp lân cận đều bị thiệt hại. Đã có 28 người bị chết, hàng trăm người bị thương và không hề có một tin tức nào được báo cáo vào lúc người phụ nữ nghe được thông báo cả.
Một người dân ở Xamara là V.Grigoriev đã ở trong gara của mình suốt cả ngày. Vào lúc gần 1 giờ trưa thì radio thông báo về một tai nạn ôtô mà nạn nhân là một linh mục. Một chiếc xe của bưu điện đã đâm vào ông ta. Đến tối thì thông báo này được nhắc lại 2 lần. Ngày hôm sau Grigoriev đi đến nhà nghỉ và mãi đến chiều tối mới về, cả ngày anh không đọc báo, nghe đài hay xem TV. Khi đi xe taxi, người tài xế kể lại hôm qua anh ta chứng kiến vụ đụng độ đó. Theo lời anh thì sự việc xảy ra vào lúc 11 giờ đêm hôm trước. Grigoriev đã gọi điện đến đài phát thanh để hỏi về trường hợp này. Hoá ra, tin tức chỉ được phát vào lúc nửa đêm và phát lại vào buổi sáng.
Theo các chuyên gia về thần giao cách cảm, những ảo ảnh về thính giác không phải lúc nào cũng là chứng hoang tưởng. Những giọng nói đoán định trước nguy cơ của hiểm họa sắp xảy ra có thể không phải là giọng nói của người quen, nhưng cũng có thể là của những người bà con hoặc người quen đã chết. Nếu như giọng nói là của người còn sống thì điều đó thường đến vào lúc mà người nghe đang ở trạng thái không tốt về thể chất hoặc cảm xúc - có thể là do bệnh tật, sự sợ hãi hay ước muốn được gặp ai đó. Đôi khi nó là tiềm thức và bên tai ta vang lên một cái tên như thể là lời kêu gọi sự giúp đỡ hoặc là sự cảm thông.
Phát hiện Zimkin thần bí - Đài thiên văn Iza - 7/1/2006 4h:11
Totonaco - một trong những nền văn minh cổ đại của Trung Mỹ
Zimkin - đài thiên văn Iza, là vật kiến trúc hình tròn đại diện cho nền văn minh Maya cổ đại. Kiến trúc của giàn ba tầng này được xây cao chót vót giữa rừng cây, trong kiến trúc có một cầu thang hình xoắn ốc lên tận đài quan sát trên tầng cao nhất. Đỉnh tầng hình tròn có rất nhiều cửa sổ trên mái, nếu quan sát kỹ sẽ phãt hiện thấy chúng đều nhìn trúng vị trí các vì sao trên bầu trời và hướng cũng rất trùng hợp với vị trí hình thành từng mùa của Mặt trăng và Mặt trời.
Tiếp đó, từ Totonaco - một trong những nền văn minh cổ đại của Trung Mỹ còn chút ít vết tích Kim Tự Tháp Phetan ở di chỉ Eltan, có thể phát hiện ra 365 tháp Phetan tương đương với số ngày trong một năm. Từ đó có thể thấy, tri thức thiên văn và cách tính lịch của nền văn minh cổ đại Trung Mỹ vượt xa trình độ vận dụng thực tế lúc đó. Người Maya cổ đại thời đó đã áp dụng 20 phép tính. Nếu chúng ta đổi thành 10 phép tính thì được số ngày trong một năm là 365,2420; so với cách tính hiện đại là 365,2422 ngày thì phép tính của họ chỉ có sai số 0,0002 ngày.
Vậy, người Maya cổ đại đã học được tri thức thiên văn phức tạp đó ở đâu? Và ai dạy họ? Đài thiên văn Iza - Zimkin vẫn đang ẩn chứa rất nhiều bí ẩn chưa có lời giải đáp.
Quái vật hồ Nix - 2/3/2006 5h:48
Phía Bắc đảo Great Bristain có một hồ nổi tiếng thế giới nhờ có quái vật, gọi là hồ Nix.
Một ngày xuân năm 1802, một nông dân đang cắt cỏ bên hồ bỗng thấy một con quái vật nhô đầu khỏi mặt nước, bơi bằng một chiếc vây chân to và ngắn, sau đó biến mất... Một ngày mùa thu năm 1880, có vài chiếc du thuyền chở đầy khách, bỗng nhiên một cái đầu với cái cổ dài của quái vật vươn lên khỏi mặt nước. Mọi người ai cũng hốt hoảng, một chiếc thuyền không khéo điều khiển đã bị lật chìm.
Mùa hè năm 1933, báo Tín Phong đăng bài viết vợ chồng Mike đã tận mắt trông thấy quái vật hồ Nix: "Một quái vật khổng lồ đùa giỡn trên mặt hồ". Ít lâu sau, một người Anh tên Wilson đã chụp được ảnh quái vật gây xôn xao dư luận toàn thế giới. Từ đó họ gọi quái vật là Nixie.
Con Plesiosauria chộp bắt một con chim (Ảnh: signosaurus)
Sau những năm 60, các nhà khoa học dùng máy ảnh dưới nước Sonar bố trí khảo sát hồ Nix, thu được những thành quả đáng mừng, nhất là một tấm ảnh chụp hình giống như chiếc vây, làm chứng cứ cho sự có mặt của quái vật. Qua phân tích, chiếc vây này dài khoảng 2m, hình thoi dẹt đang hoạt động. Về sau, lại chụp được đầu quái vật ở độ sâu 11-25m. Căn cứ vào ảnh chụp, các nhà khoa học đã dựng lại được hình ảnh của quái vật: Cao khoảng 15-20m, cổ dài từ 3-4m, đầu nhỏ, trên đầu nhô ra một cái sừng.
Một số nhà khoa học căn cứ vào đó suy ra rằng, quái vật là hậu duệ của một loài bò sát dưới nước sống cách đây khoảng 65-70 triệu năm, gọi là rồng cổ rắn (Plesiosauria).
Rồng cổ rắn đã tuyệt chủng từ rất lâu, lẽ nào còn lại đến ngày nay? Nó sống bằng gì, như thế nào? Khi chết xác của nó biến đi đâu?... Những câu hỏi này các nhà khoa học đã đưa ra để tìm đến những giải thích hợp lý nhưng vẫn chưa có kết quả đích thực
Sự biến mất kỳ lạ của Vương quốc Minos - 14/7/2006 10h:1
Thần thoại Hy Lạp có một câu chuyện rất lý thú khẳng định có Vương quốc Minos trên đảo Crete.
Các nhà khảo cổ học phương Tây cũng công nhận rằng, các thần thoại và truyền thuyết của người Hy Lạp cổ rất có thể là đã dựa trên những sự kiện và nhân vật lịch sử có thật. Nhưng, điều làm cho người ta cảm thấy khó hiểu là, Vương quốc Minos và mật cung trong chuyện thần thoại không thấy ghi chép trong bất kỳ trang sử nào của đất nước Hy Lạp. Vì vậy, điều đó đã thu hút sự chú ý của bao nhiêu người qua các thời đại.
Phế tích được tìm thấy trên đảo Crete có thể là cung điện Minos.
(Ảnh: arc.miami.edu)
Cuối thế kỷ XIX, một nhóm nhà khảo cổ đã đến đảo Crete và phát hiện ra phế tích của vương cung. Nó có hình chữ nhật, chiếm diện tích khoảng 20.000 m2, ở giữa là quảng trường và sân, có hơn 1.300 gian phòng. Trong đống phế tích còn phát hiện ra biểu tượng của 2 lưỡi búa. Các nhà khảo cổ đều nhất trí nhận định rằng, đây chính là cung điện Minos trong truyền thuyết.
Vương quốc Minos trong thần thoại đã được chứng thực, nhưng nó đã biến mất như thế nào? Năm 1907, các nhà khảo cổ học người Mỹ đã phát hiện một thành phố thương nghiệp ở dưới độ sâu 60 m của tầng tro bụi dưới chân núi lửa thuộc đảo Santorini ở phía bắc đảo Crete. Qua khảo chứng cho thấy tòa thành này có niên đại khoảng năm 1.500 trước CN, khi núi lửa Santorini bùng cháy, đã chôn vùi thành phố dưới lớp tro bụi.
Núi lửa Santorini đã từng hoạt động mạnh nhất trong
lịch sử loài người (Ảnh: travel-to-santorini)
Đó là một trong những lần núi lửa hoạt động mạnh nhất trong lịch sử loài người, phun ra một lượng nham thạch chiếm diện tích 62.500 m2. Núi lửa hoạt động dẫn theo bão biển cực lớn, các ngọn sóng cao tới 50m trùm lên phá hủy thành phố trên đảo. Vương quốc Minos cũng bị tiêu hủy từ đó. Cùng với thời gian, Vương quốc Minos đi vào quên lãng, chỉ còn được nhắc tới trong truyền thuyết.
Nhưng, đó cũng mới chỉ là giả thuyết, sự mất tích của Vương quốc Minos thực sự diễn ra như thế nào cho đến nay vẫn còn là một câu hỏi đối với chúng ta
Sự ra đi của người Eskimos. - 14/11/2005 2h:29
Gia đình của người Eskimos
Cách đồn kỵ binh Canada ở Tikiujar khoảng 950km, có bộ lạc Eskimos rất nhỏ. Jo Laxiner là người thường xuyên đến đây và được bộ lạc này đón tiếp rất thân tình. Tháng 12 năm 1931, Jo Laxiner đến thăm bộ lạc này, ông cảm thấy rất lạ lùng, giữa ban ngày mà khắp nơi đều im lặng đến rợn người. Trước đây, mỗi khi ông đến đều nghe thấy tiếng chó sủa ầm ĩ, sau đó bọn trẻ từ những ngôi nhà gỗ ùa ra quây tròn lấy ông. Nhưng lần này, một bầu không khí lặng ngắt rờn rợn bao trùm toàn bộ lạc, không có tiếng chó sủa, cũng không có tiếng cười đùa ồn ào của trẻ con, không một bóng người, cả bộ lạc như một vùng chết.
Jo Lxiner ngạc nhiên, ngó vào cửa một ngôi nhà gỗ gọi lớn: "Có ai trong nhà không? Có ai trong nhà không? Tôi là Jo Laxiner đây". Tất cả đều im lìm, không một tiếng động. Nơi đât đã xảy ra ra chuyện gì? Mọi người đi đâu? Tại sao lại đi? Tại sao lại kỳ dị như thế này?
Người Eskimos bắt cá
Jo Laxiner rùng mình run sợ và cảm thấy rất lạ lùng khó hiểu. Ông đi vào một ngôi nhà nhỏ, phát hiện trên bếp còn đặt nồi nấu cơm, giống như chưa kịp nấu chín, thức ăn trong nồi bị đông cứng lại. Ở một phòng nhỏ khác, áo trẻ em được may bằng da báo vứt trên nền nhà không có ai xếp dọn. Bên cạnh bộ lạc này có một hồ rộng, người Eskimos thường bơi trên 3 thuyền nhỏ để đánh bắt cá thì đến nay cả 3 thuyền này cũng bị bỏ trơ bên bờ sông. Điều khiền cho người ta ngạc nhiên không chỉ có thế, đối với người Eskimos đi săn không thể không mang theo súng, thế mà họ bỏ lại cả súng. Cũng giống như súng, chó được người Eskimos coi như của quý giá thậm chí còn coi nó như một thành viên trong gia đình, hàng ngày như hình với bóng không rời nhau nửa bước. Nhưng cảnh tượng mà Jo Laxiner nhìn thấy thật thương tâm: Mấy con chó bị buộc vào gốc cây cách nhà ở khoảng 200m, tất cả đều đã bị chết đói.
Đã xảy ra thiên tai nhân họa gì mà làm cho cả bộ tộc người Eskimos từ già trẻ lớn bé hơn 40 người trong một đêm mùa đông giá lạnh tuyết bỏ lại tất cả quần áo, lương thực thực phẩm, nồi niêu, súng ống và cả những con chó thân yêu... lặng lẽ ra đi?
Tất cả sỹ quan, chiến sỹ đồn kỵ binh đổ ra đi tìm, không một điều gì hé lộ hướng đi, không một vết tích về sự ra đi của người Eskimos. Họ đã đi đâu? Cho đến ngày nay người Eskimos vẫn chưa có ai quay lại quê hương. Nhà cửa, ruộng vườn của họ vẫn bị bỏ mặc trong hoang vắng tiêu điều, cả vùng bao phủ một không khí sợ hãi, bí hiểm.
Thành phố trên không Machu Picchu - Peru - 17/5/2006 7h:36
Tháng 6 năm 1011, đội khảo sát Trường đại học Giêru dưới sự lãnh đạo của nhà thám hiểm Mỹ halmebinquy đã xuất phát từ Cuzco đi tìm kiếm một cứ điểm bí mật mà bộ phận còn lại của Đế quốc Inca còn giữ được sau khi người Tây Ban Nha chinh phục Milu. Kết quả là cứ điểm không được tìm thấy nhưng không ngờ họ lại phát hiện ra một "Thành phố trên không" bị bỏ hoang.
Machu Picchu - Peru quanh năm mây mù bao phủ (Ảnh: karlgrobl)
Diện tích xung quanh "Thành phố trên không" rộng khoảng 1.400m2, độ cao so với mặt nước biển 2.300m, quanh năm bị mây mù che phủ. Môi trường xung quanh thành phố này rất cao và hiểm trở. Sông Urumbanba hung dữ từ Cusco chia cắt bởi vách núi hướng về phía Bắc nhập vào hệ thống sông Amazone. Lực đập của dòng nước đã hình thành vách đá dựng đứng nguy hiểm thẳng góc 700m. Ngọn núi Sa ReBan cao 6.264m so với mực nước biển được bao phủ bởi lớp tuyết trắng dày trải tới tận khe núi. Bệ đất đá hoa cương phía trên nơi nguy hiểm là thành cổ Machu Picchu - Thành phố này được xây dựa vào núi, 3 mặt giáp với sông, tựa như không có đường lên. Các gian phòng được xây lọt giữa núi trong đó có hàng trăm cột đá tự nhiên hoàn hảo, dễ dàng cho việc tu sửa và thuận tiện cho người ở. Trong thành có rất nhiều kiểu kiến trúc như: miếu thần Mặt trời, tế đàn, cung vua, dinh thự quý tộc, nơi ở của dân thường hoặc nô lệ, phường nghề, chợ,... Có một số gian phòng giao nhau giống như mê cung, vào thì dễ, quay ra thì khó.
Hầu hết các kiến trúc trong thành đều xếp bằng đá không dùng vôi vữa
(Ảnh: platinumandblack)
Hầu hết các kiến trúc trong thành đều xếp bằng đá không dùng vôi vữa. Các tảng đá được liên kết với nhau vô cùng chắc chắn, lưỡi dao cũng không thể lách vào được. Các bức tường đá xây nơi công cộng nặng hàng tấn. Chân tường được đục trực tiếp trên tầng đá. Di chỉ bãi khai thác đá rộng 30.000m2. Ở phía ngoài có thể chứng minh: Không ít nguyên liệu bằng đá được vận chuyển từ đâu đó đến, được kéo lên núi bởi sức người và đòn bẩy cứng. Nếu nô lệ không đem được đá lên sẽ bị đánh. Nếu như những mái nhà bằng cỏ của các ngôi nhà ở đây còn tồn tại thì Machu Picchu hoàn toàn xứng đáng là thành phố đẹp nhất Thế giới.
Để đáp ứng nhu cầu tự cấp tự túc, người Inca đã khai hoang hàng trăm ruộng bậc thang phía sau núi và mỏm núi nghiêng để trồng cây lương thực. Mỗi tầng vách đá cao khoảng 3m, dài hàng trăm mét trùng điệp đến tận đỉnh núi, mỗi lớp đều được đào rãnh dẫn nước tưới.
Trên một gò đất nhỏ của di chỉ cổ có một tấm đá hình chữ nhật lớn không gì so được. Bề mặt hòn đá ấy được mài nhẵn bóng, góc cạnh sắc nét, đặt hướng về phía Đông, trên đá cột một sợi dây thừng to bằng miệng bát. Qua khảo chứng của các nhà khảo cổ, đây là "Đá buộc Mặt trời" nổi tiếng, biểu đạt khát vọng không để Mặt trời rơi xuống của người Inca, để mãi mãi soi sáng tình cảm mộc mạc trên Trái đất. Ngoài ra, "Đá buộc Mặt trời" còn là một bộ thiên văn nhật dịch đặc trưng. Người Inca ngày ấy đã biết thông qua sự thay đổi của bóng nắng để xác định mùa, tạo ra lịch Mặt trời và dựa vào đó để làm nông nghiệp.
"Đá buộc Mặt trời" (Ảnh: econ.surrey)
Vậy, tòa thành này được xây dựng từ thời kỳ nào và bị vứt bỏ trong hoàn cảnh nào? Từ khi phát hiện thấy "Thành phố trên không" đến nay, người ta đã có nhiều phán đoán khoa học về sự tồn tại và mất đi của nó.
BinQuy - Người phát hiện đầu tiên nói: Các miếu thần của thành cổ đều lắp đặt 3 cửa thông gió, không giống với các di chỉ Inca khác. Do vậy, đây có thể là nơi sinh ra người tạo lập Đế quốc Inca - vị Quốc vương đầu tiên Mankekapark.
Có một vài học giả cho rằng, Machu Picchu là "Thành của nữ thần Mặt trời". Bởi vậy, tỷ lệ nam nữ của dân cư trong thành là 1/2. Những phụ nữ dung mạo đẹp đẽ được chọn làm nữ thần của Mặt trời đến từ khắp nơi trên đất nước được đưa về đây, sống cuộc sống ẩn dật. Xuất phát từ việc phải giữ bí mật cẩn thận, vì vậy các thần dân đều không biết đến sự tồn tại của tòa thành này.
Để lý giải sự mất đi của thành phố này, các nhà khảo cổ đã đề cập đến nền kỹ thuật lạc hậu ở thời kỳ cổ đại của người Inca. Họ cho rằng, việc cung cấp quần áo, lương thực cho vài vạn người thật không dễ dàng, ngẫu nhiên gặp phải thiên tai thì những người Inca cổ đại không có cách nào duy trì cuộc sống, chỉ có thể phân tán mọi nơi.
Machu Picchu không chịu sự phá hoại của tự nhiên thì lại gặp phải sự tấn công tàn bạo của các bộ lạc từ phía rừng rậm hoặc có lúc là nội chiến điêu tàn giữa những kẻ thống trị, của những người nô lệ đứng lên khởi nghĩa. Từ đó, cư dân phần lớn tử vong hoặc chạy trốn, thành phố trên không này bị bỏ hoang.
Vụ mất tích bức tượng thần Mặt trời ở đảo Rhodes - 21/12/2005 6h:31
Đảo Rhodes nằm trên biển Égée, phía Tây cách Hy Lạp (đất liền) 4.500m, phía Bắc cách Thổ Nhĩ Kỳ 19.000m. Đảo Rhodes thuộc lãnh thổ Hy Lạp có diện tích 14.000km2 với dân số hơn 7.000 người.
Thần Mặt trời Apollon
Đảo Rhodes được xem là một trong những nơi khởi nguồn của nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Trong truyền thuyết, thần thoại, ở thời kỳ cổ đại xa xưa, sau khi kết thúc cuộc chiến tranh giành ngôi vị giữa các vị thần Hy Lạp, thần Zeus trở thành chúa tể của các vị thần. Thần Zeus bèn phân lãnh địa cho các vị thần khác nhưng quên phân lãnh địa cho thần Mặt trời Apollon - người đã tìm ra thiên cung. Đến khi thần Apollon quay về, thần Zeus ban cho thần Apollon một tảng đá nằm sâu dưới biển Égée. Tảng đá vui vẻ nhô lên mặt biển đón thần Mặt trời đến cư trú. Thần Apollon rất hài lòng về lãnh địa mình được phân, thần đã dùng tên con gái Rhodes (con gái của nữ thần Tình yêu) đặt tên cho đảo. Ba người con trai của thần Mặt trời Apollon là Caminos, Maunosos, Limgos cũng được phong trên đảo này và mỗi ngày đều tự xây dựng vương quốc của riêng mình. Cuộc sống trên đảo Rhodes rất phồn vinh sung túc, đã thu hút các nước lớn như Athènes, Sparta, Macedonia, Ba Tư, La Mã lần lượt xâm lược phá hoại nhiều thành trì. Đến năm 227 trước Công nguyên, các thành phố trên đảo Rhodes một lần nữa bị trận động đất rất mạnh phá hủy.
Ba thành trì khác trên đảo sau khi bị động đất phá hủy không được xây dựng lại mà chỉ dựng lên những làng mạc tiêu điều gần đó nên vẫn bảo tồn được những nền tường trụ đá. Chỉ có thành Rhodes - nơi cứ trú của thần Mặt trời Apollon gần như được xây dựng lại và mở rộng nên không nhìn thấy dấu vết của vụ động đất phá hủy thành năm xưa. Ở đây chỉ thấy được những nét phồn hoa hiếm có xưa kia của thành phố này qua nhiều vặn vật khai quật dược như bức tường đá cẩm thạch, đầu tượng thần Apollon được tạc vào thế kỷ II và bức tượng khỏa thân nữ thần Tình yêu Aphrodite được tạc vào thế kỷ I. Nhưng bức tượng đồng vị thần Apollon được xem là "Đại kỳ tích thứ 7 của thế giới" thì không biết bị mất tích từ lúc nào.
Quá trình đúc tượng thần Mặt trời được diễn ra khoảng thế kỷ V trước Công nguyên. Khi người Ba Tư xâm lược đảo Rhodes, toàn bộ cư dân trên đảo rút về bảo vệ thành Limgos nằm đầu mũi phía Đông của đảo. Cuối cùng họ đã đánh lui được cuộc tiến công của người Ba Tư. Sau khi đánh thắng quân xâm lược Ba Tư, người ta đã đem toàn bộ số vũ khí giặc bỏ lại nung thành sắt. Nhà điêu khắc Litas đã đúc bức tượng đồng thần Mặt trời Apollon và đặt ở bến cảng hùng trấn lãnh hải. Bên cạnh đó nhà triết học La Mã cùng thời với thần Apollon tên là Antipot cũng được xem là "Đại kỳ tích thứ 7 của thế giới".
Trong trận động đất mạnh cách đây hơn 2.200 năm, bước tượng lớn thần Mặt trời đã bị sụp đổ. Có người nó, bức tượng đổ không thể đúc lại được và và thế kỷ VII đã bị nung đúc thành các loai khí giới khác. Nhưng có người lại nói bức tượng đồng đã bị mất trộm, bọn hải tặc đã bị chìm thuyền khi gặp bão trên biển. Bây giờ hậu thế chỉ có thể tưởng tượng mô hình bức tượng qua những lời ghi chép tóm tắt trong sử sách mà thôi. Bức tượng nữ thần Tự do ở New York (Mỹ) được đúc trên cơ sở liên tưởng mô hình tượng thần Mặt trời với tư thế tay cầm bó đuốc, đầu đội vương miện, tỏa ánh hào quang như ánh Mặt trời.
Vụ rò rỉ chất độc - Thảm án Bhopal - 19/3/2006 10h:16
Số người chết ở Bhopal nằm la liệt trên đường (Ảnh: dc.indymedia)
Trong khâu sản xuất, vận chuyển và sử dụng các chất độc, chỉ cần sơ ý một chút là để rò rỉ làm ô nhiễm môi trường, tác hại đến sức khỏe của con người.
Vụ rò rỉ nghiêm trọng nhất thế giới là "vụ thảm án Bhopal" ở Ấn Độ. Sáng sớm ngày 3 tháng 12 năm 1984, một xưởng nông dược của Công ty liên hợp Mỹ sản xuất các hợp chất cacbon ở ngoại ô Bhopal, Ấn Độ, 45 tấn chất độc chứa trong bình khí nén trong hầm ngầm, đó là chất iso cyanua methyl lỏng chảy ra hết trong vòng 3-4 tiếng đồng hồ. Những đám khói nồng nặc cuồn cuộn ô nhiễm quanh vùng làm cho 200.000 người bị ngộ độc, hơn 1.500 người chết ngay tại chỗ. Theo điều tra, sau hơn 1 năm xảy ra vụ này, cư dân Bhopal đã đẻ ra rất nhiều quái thai. Sau khi xảy ra, người ta gọi thành phố Bombay là thành phố chết.
Những vụ rò rỉ như vậy đôi khi cũng xảy ra ở các nước khác. Tháng 4 năm 1967, tại cảng Osaka - Nhật Bản, một chiếc tàu vạn tấn chở tetra ethyl chì đã rò rỉ ra ngoài, 12 công nhân làm vệ sinh đã bị ngộ độc, chết 8 người.
Tháng 6 năm 1967, một tàu chở thuốc trừ sâu rò rỉ làm chết 40 triệu con cá, đoạn sông dài 420km các sinh vật dưới nước hầu như chết hết.
Có những xưởng hóa dược đem chất thải đổ ra biển hoặc chôn xuống đất. Việc làm đó đều đe dọa con người. Năm 1978, một trận bão xảy ra ở bang New York làm bật tung những thùng chứa chất thải của một nhà máy hóa chất, chôn ở một lòng sông cũ, làm cho những thùng bị rỉ vỡ thủng, chất độc rò ra làm cho cây cỏ chết thối đen, trẻ em chơi nghịch ở đó bị bỏng tay chân mặt mũi, bệnh máu trắng tăng vọt trong dân cư ở đây, đồng thời phụ nữ có mang đã đẻ ra những quái thai
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com