Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Những lời dạy vượt thời gian của ngài Ajahn Chah (Từ chương 21 đến chương 25)

Chương 21

LIVING WITH THE COBRA - SỐNG CHUNG RẮN HỔ MANG

Chương 22

READING THE NATURAL MIND - HIỂU ĐƯỢC CÁI TÂM TỰ NHIÊN

Chương 23

JUST DO IT - CỨ LÀM NHƯ VẬY

Chương 24

QUESTIONS AND ANSWERS - HỎI VÀ TRẢ LỜI

Chương 25

RIGHT PRACTICE - STEADY PRACTICE - TU ĐÚNG ĐẮN, TU ĐỀU ĐẶN

***

Chương 21

LIVING WITH THE COBRA - SỐNG CHUNG RẮN HỔ MANG

This short talk is for the benefit of a new disciple who will soon be returning to London. May it serve to help you understand the teaching that you have studied here at Wat Pah Pong. Most simply, this is the practice to be free of suffering in the cycle of birth and death.

Đây là câu chuyện ngắn nói ra để lợi ích cho một vị đệ tử mới đến tu nhưng sắp quay về lại nước Anh. Mong rằng câu chuyện này sẽ giúp cho chị hiểu được giáo lý mà chị đã tu học ở chùa Wat Pah Pong này. Nói đơn giản hơn, đây là nói về cách tu tập để giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.

In order to do this practice, remember to regard all the various activities of mind, all those you like and all those you dislike, in the same way as you would regard a cobra. The cobra is an extremely poisonous snake, poisonous enough to cause death if it should bite us. And so, also, it is with our moods; the moods that we like are poisonous, the moods that we dislike are also poisonous. They prevent our minds from being free and hinder our understanding of the truth as it was taught by the Buddha.

Để tu tập cách này, chị cần phải coi tất cả mọi hành vi khác nhau của tâm, tất cả mọi thứ chị thích hay không thích, là như nhau, giống như cách chị coi một con rắn hổ mang vậy. Rắn hổ mang là rất độc, độc đủ để giết chết ta khi nó cắn ta. Và ở đây, rắn được ví như những trạng thái tâm của chúng ta; trạng thái ta thích cũng là độc hại, trạng thái ta không thích cũng là độc hại. Chúng cản trở, không cho tâm được tự do và cản trở sự hiểu biết của chúng ta về sự thật (chân lý) mà Phật đã chỉ ra.

Thus is it necessary to try to maintain our mindfulness throughout the day and night. Whatever you may be doing, be it standing, sitting, lying down, speaking or whatever, you should do with mindfulness. When you are able to establish this mindfulness, you'll find that there will arise clear comprehension associated with it, and these two conditions will bring about wisdom. Thus mindfulness, clear comprehension and wisdom will work together, and you'll be like one who is awake both day and night.

Do vậy, điều cần thiết là phải cố duy trì chánh niệm suốt ngày đêm. Dù chị đang làm gì, đang đứng, đang ngồi, đang nằm, đang nói, hay đang làm gì, chị phải làm với sự chánh niệm. Khi chị có thể thiết lập sự chánh niệm, chị sẽ thấy có "sự hiểu biết rõ ràng" (sự tự tỉnh giác) khởi sinh cùng chánh niệm. Và hai điều kiện chánh niệm (sati) và sự hiểu biết rõ ràng (sampajañña) sẽ tạo ra trí tuệ. Như vậy, chánh niệm, sự hiểu biết rõ ràng và trí tuệ sẽ cùng làm việc với nhau, và chị sẽ trở thành người tỉnh thức suốt cả thời gian ngày và đêm.

These teachings left us by the Buddha are not teachings to be just listened to, or simply absorbed on an intellectual level. They are teachings that through practice can be made to arise and known in our hearts. Wherever we go, whatever we do, we should have these teachings. And what we mean by ''to have these teachings'' or ''to have the truth'', is that, whatever we do or say, we do and say with wisdom. When we think and contemplate, we do so with wisdom. We say that one who has mindfulness and clear comprehension combined in this way with wisdom, is one who is close to the Buddha.

Những giáo lý của Phật đã để lại cho chúng ta hôm nay không phải là những giáo lý chỉ để nghe hay để hiểu cho biết, cho có kiến thức. Mà đó là những giáo lý dùng để tu tập để thấy biết tâm của mình. Dù chúng ta đi đâu hay làm gì, chúng ta luôn có những giáo lý này. "Có những giáo lý này" hoặc "có được sự thật" có nghĩa là dù chúng ta làm gì hay nói gì, chúng ta làm và nói bằng suy nghĩ và quán xét, chúng ta nghĩ và quán xét với trí tuệ. Chúng ta nói rằng ai có sự chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng được kết hợp với nhau với trí tuệ, thì người đó đang gần với Phật.

When you leave here, you should practice bringing everything back to your own mind. Look at your mind with this mindfulness and clear comprehension and develop this wisdom. With these three conditions there will arise a ''letting go''. You'll know the constant arising and passing away of all phenomena.

Khi chị rời khỏi đây, chị nên thực tập để mang mọi thứ về lại trong tâm. Nhìn vào tâm bằng sự chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng và phát triển trí tuệ. Với ba điều kiện đó thì sẽ khởi sinh sự "buông bỏ". Chị sẽ nhìn thấy sự khởi sinh và biến mất liên tục của tất cả mọi hiện tượng.

You should know that that which is arising and passing away is only the activity of mind. When something arises, it passes away and is followed by further arising and passing away. In the Way of Dhamma we call this arising and passing away ''birth and death''; and this is everything - this is all there is! When suffering has arisen, it passes away, and, when it has passed away, suffering arises again. There's just suffering arising and passing away. When you see this much, you'll be able to know constantly this arising and passing away; and, when your knowing is constant, you'll see that this is really all there is. Everything is just birth and death. It's not as if there is anything which carries on. There's just this arising and passing away as it is - that's all.

Chị sẽ biết được sự khởi sinh và biến mất (sinh diệt) chính là hoạt động của tâm. Khi có thứ gì khởi sinh thì nó biến mất, và theo sau là thứ khác khởi sinh và biến mất. Theo Cách của Giáo Pháp chúng ta gọi sự khởi sinh và biến mất là sự sinh và chết, là sự sinh-diệt; và đó chính là mọi sự– mọi sự chỉ là vậy! Khi khổ khởi sinh, nó biến mất, và, khi khổ biến mất, nó lại khởi sinh . Chỉ có khổ khởi sinh và biến mất. Khi chị nhìn thấy điều đó nhiều lần, chị sẽ có khả năng biết rõ lẽ sinh diệt đó một cách thường trực; và, khi sự thấy biết là thường trực, chị sẽ thấy lẽ thật đó luôn luôn có mặt. Mọi thứ chỉ là sinh và diệt, đến và đi. Chẳng có gì được mang theo, chỉ là sự khởi sinh và biến mất—tất cả chỉ là vậy.

This kind of seeing will give rise to a tranquil feeling of dispassion towards the world. Such a feeling arises when we see that actually there is nothing worth wanting; there is only arising and passing away, a being born followed by a dying. This is when the mind arrives at ''letting go'', letting everything go according to its own nature. Things arise and pass away in our mind, and we know. When happiness arises, we know; when dissatisfaction arises, we know. And this ''knowing happiness'' means that we don't identify with it as being ours. And likewise with dissatisfaction and unhappiness, we don't identify with them as being ours. When we no longer identify with and cling to happiness and suffering, we are simply left with the natural way of things.

Kiểu thấy biết như vậy sẽ làm khởi sinh một cảm giác tĩnh lặng buông bỏ đối với thế giới. Khi đã có được cảm giác buông bỏ thì chẳng còn gì đáng để ta tham muốn nữa; vì sự thật chỉ có sự dinh diệt, một người được sinh ra để rồi chết đi mà thôi. Đó là lúc tâm đạt đến chỗ "buông bỏ", buông bỏ mọi thứ để chúng diễn ra theo đường lối tự nhiên của chúng. Mọi thứ khởi sinh và biến mất trong tâm chúng ta, và chúng ta biết rõ điều đó. Khi sướng khởi sinh, ta biết rõ; khi khổ khởi sinh, ta biết rõ. Sự biết rõ về sướng, biết rõ về khổ đích thực là gì thì có nghĩa là ta không nhận chúng là của ta. Với sướng và khổ, chúng ta biết rõ chúng, và không nhận chúng là của chúng ta. Khi chúng ta không còn nhận lấy sướng khổ, không còn dính chấp vào sướng khổ, chúng ta chỉ đơn thuần để mọi thứ diễn ra theo cách tự nhiên của chúng.

So we say that mental activity is like the deadly poisonous cobra. If we don't interfere with a cobra, it simply goes its own way. Even though it may be extremely poisonous, we are not affected by it; we don't go near it or take hold of it, and it doesn't bite us. The cobra does what is natural for a cobra to do. That's the way it is. If you are clever you'll leave it alone. And so you let be that which is good. You also let be that which is not good - let it be according to its own nature. Let be your liking and your disliking, the same way as you don't interfere with the cobra.

Vậy chúng ta nói rằng hành vi của tâm giống như rắn độc. Nếu chúng ta đừng đụng gì đến nó, nó sẽ tự nhiên đi theo cách của nó. Dù nó là rất độc hại nhưng ta không bị ảnh hưởng gì; nếu chúng ta không đến gần hay nắm bắt nó, thì nó không cắn ta. Rắn hổ mang sẽ đi theo cách của nó. Chúng ta cứ làm như vậy. Đó là cách khôn ngoan nếu bạn để yên nó. Cứ để yên với mọi thứ tốt. Cứ để yên với mọi thứ xấu— để yên với mọi sự theo cách tự nhiên của nó. Để yên với mọi sự thích hay không thích của chị, cũng như cách chị để yên không động gì đến rắn hổ mang.

So, one who is intelligent will have this kind of attitude towards the various moods that arise in the mind. When goodness arises, we let it be good, but we know also. We understand its nature. And, too, we let be the not-good, we let it be according to its nature. We don't take hold of it because we don't want anything. We don't want evil, neither do we want good. We want neither heaviness nor lightness, happiness nor suffering. When, in this way, our wanting is at an end, peace is firmly established.

Vậy, người khôn ngoan sẽ giữ thái độ như vậy đối với những trạng thái khác nhau khởi sinh trong tâm. Khi sự tốt khởi sinh, cứ để yên nó tốt, nhưng ta biết rõ về nó. Ta hiểu rõ bản chất (sinh diệt) của nó. Khi có sự không tốt khởi sinh, cứ để yên nó không tốt, ta để yên với bản chất (sinh diệt) của nó. Đừng nắm bắt, dính líu theo nó, vì chúng ta chẳng tham muốn gì. Ta không muốn tốt, không muốn xấu, không muốn thiện, không muốn ác. Ta cũng không muốn nặng, không muốn nhẹ, không tham muốn sướng, không tham muốn khổ. Theo cách như vậy, khi sự tham muốn của chúng ta đã tận hết, sự bình an sẽ được thiết lập vững chắc.

When we have this kind of peace established in our minds, we can depend on it. This peace, we say, has arisen out of confusion. Confusion has ended. The Buddha called the attainment of final enlightenment an ''extinguishing'', in the same way that fire is extinguished. We extinguish fire at the place at which it appears. Wherever it is hot, that's where we can make it cool. And so it is with enlightenment. Nibbāna is found in samsāra. Enlightenment and delusion (samsāra) exist in the same place, just as do hot and cold. It's hot where it was cold and cold where it was hot. When heat arises, the coolness disappears, and when there is coolness, there's no more heat. In this way Nibbāna and samsāra are the same.

Khi chúng ta có được loại bình an như vậy được thiết lập, chúng ta có thể nương tựa vào đó. Chúng ta nói rằng sự bình an đó khởi sinh nhờ phá bỏ hết sự ngu mờ. Sự ngu mờ, ngu si, vô minh đã chấm dứt. Đức Phật gọi đó là sự đạt đến giác ngộ cuối cùng là "sự tắt ngấm", giống như cách ngọn lửa đã tắt ngấm. Ta đã dập tắt và làm nguội sạch lửa nóng. Đó là sự giác ngộ, niết-bàn. Niết-bàn được tìm thấy bên trong vòng luân hồi sinh tử samsāra. Giác ngộ và si mê (sinh tử) nằm trong cùng một chỗ, giác và mê cũng giống như nóng và lạnh. Mê nằm trong chỗ giác, giác có được từ chỗ mê. Khi đang mê, không có giác, khi có giác, mê không còn. Niết bàn và luân hồi sinh tử cũng vậy. Còn luân hồi sinh tử là không thấy Niết-bàn. Khi Niết-bàn thì không còn luân hồi sinh tử.

We are told to put an end to samsāra, which means to stop the ever-turning cycle of confusion. This putting an end to confusion is extinguishing the fire. When external fire is extinguished there is coolness. When the internal fires of sensual craving, aversion and delusion are put out, then this is coolness also.

Chúng ta được khuyên dạy để chấm dứt vòng luân hồi sinh tử, làm dừng lại cái vòng quay bất tận si mê và vô minh. Việc chấm dứt vô minh là dập tắt ngọn lửa. Khi lửa bên ngoài được dập tắt, nơi đó trở thành mát nguội. Khi lửa bên trong của tham, sân, si đã bị thổi tắt, nơi đó trở nên mát dịu.

This is the nature of enlightenment; it's the extinguishing of fire, the cooling of that which was hot. This is peace. This is the end of samsāra, the cycle of birth and death. When you arrive at enlightenment, this is how it is. It's an ending of the ever-turning and ever-changing, an ending of greed, aversion and delusion in our minds. We talk about it in terms of happiness because this is how worldly people understand the ideal to be, but in reality it has gone beyond. It is beyond both happiness and suffering. It's perfect peace.

Đó là tính chất của sự giác ngộ; đó là sự tắt ngấm của lửa, là sự làm mát dịu nơi cháy nóng. Đó là sự bình an. Đó là sự chấm dứt vòng luân hồi sinh tử. Khi chị đạt đến sự giác ngộ, mọi sự diễn ra như vậy. Đó là sự chấm dứt mọi tham, sân, si quay cuồng điên đảo trong tâm trong bao nhiêu kiếp sinh tử. Chúng ta thường gọi đây là nơi hạnh phúc (an lạc) để mọi người nhắm đến như lý tưởng để tu tập đạt đến, nhưng thực ra trạng thái đó cao hơn, vượt xa trên chữ hạnh phúc an lạc đó. Nó vượt trên cả lạc và khổ. Đó là một sự bình an hoàn hảo.

So as you go you should take this teaching which I have given you and contemplate it carefully. Your stay here hasn't been easy and I have had little opportunity to give you instruction, but in this time you have been able to study the real meaning of our practice. May this practice lead you to happiness; may it help you grow in truth. May you be freed from the suffering of birth and death.

Vậy, khi chị về nước, chị nhớ mang theo giáo lý này với chị và suy xét về nó một cách kỹ càng. Thời gian chị ở đây cũng không dễ dàng lắm và tôi cũng không có nhiều cơ hội để hướng dẫn cho chị, nhưng đó cũng là thời gian chị có thể học được của việc tu tập đích thực của chúng ta có nghĩa là gì. Cầu mong cho sự tu tập của chị sẽ dẫn chị đến an lạc; cầu mong những lời này giúp chị lớn lên cùng chân lý. Cầu mong chị mau thoát khỏi khổ đau của vòng sinh tử.


Chương 22

READING THE NATURAL MIND - HIỂU ĐƯỢC CÁI TÂM TỰ NHIÊN

Our way of practice is looking closely at things and making them clear. We're persistent and constant, yet not rushed or hurried. Neither are we too slow. It's a matter of gradually feeling our way and bringing it together. However, all of this bringing it together is working towards something, there is a point to our practice.

Cách thực hành của chúng ta là nhìn sâu sát vào mọi sự thể và thấy chúng một cách rõ ràng. Chúng ta tu chuyên cần và kiên trì, chứ không vội vã hay cố ép. Nếu làm ngược lại thì sẽ chậm tiến. Vấn đề là phải dần dần cảm giác bắt kịp cách tu của mình và hòa hợp với mọi thứ.

For most of us, when we first start to practice, it's nothing other than desire. We start to practice because of wanting. At this stage our wanting is wanting in the wrong way. That is, it's deluded. It's wanting mixed with wrong understanding.

Đối với hầu hết chúng ta, khi chúng ta bắt đầu tu thì chẳng có gì ngoài sự mong cầu. Chúng ta bắt đầu tu tập vì mong muốn. Lúc đó, sự mong cầu của chúng ta là một sự mong muốn sai lạc. Thực vậy, đó là do ngu mờ. Đó là sự mong cầu cộng với sự hiểu biết sai lạc.

If wanting is not mixed with wrong understanding like this, we say that it's wanting with wisdom (paññā). It's not deluded - it's wanting with right understanding. In a case like this we say that it's due to a person's pāramī or past accumulations. However, this isn't the case with everyone. Some people don't want to have desire, or they want not to have desires, because they think that our practice is directed at not wanting. However, if there is no desire, then there's no way of practice.

Ngược lại, khi sự mong cầu không đi kèm với sự hiểu biết sai lạc thì ta gọi đó là sự mong muốn bằng trí tuệ (paññā) . Đó không phải là ngu mờ– đó là sự mong muốn với một sự hiểu biết đúng đắn. Trong trường hợp này, chúng ta nói rằng đó là nhờ công đức ba-la-mật (pāramī) của mỗi người được tích lũy trong quá khứ. Tuy nhiên, không phải ai cũng được như vậy. Một số người không muốn có sự mong cầu, hoặc họ cũng chẳng muốn không có sự mong cầu. Tuy nhiên, nếu không có sự mong cầu thì không có gì để tu tập.

We can see this for ourselves. The Buddha and all his disciples practiced to put an end to defilements. We must want to practice and must want to put an end to defilements. We must want to have peace of mind and want not to have confusion. However, if this wanting is mixed with wrong understanding, then it will only amount to more difficulties for us. If we are honest about it, we really know nothing at all. Or, what we do know is of no consequence, since we are unable to use it properly.

Chúng ta có thể tự mình nhìn thấy điều này cho mình. Phật và các vị thánh đệ tử đã tu tập để diệt trừ những ô nhiễm của mình. Chúng ta cũng phải muốn tu tập và muốn diệt trừ những ô nhiễm của mình. Chúng ta phải mong cầu có được sự bình an của tâm và không muốn mình bị ngu mờ. Tuy nhiên, nếu sự mong cầu bị trộn lẫn với sự hiểu biết sai lạc (tà kiến), thì nó chỉ mang lại thêm khó khăn khó khổ cho chúng ta mà thôi.

Everybody, including the Buddha, started out like this, with the desire to practice - wanting to have peace of mind and wanting not to have confusion and suffering. These two kinds of desire have exactly the same value. If not understood then both wanting to be free from confusion and not wanting to have suffering are defilements. They're a foolish way of wanting - desire without wisdom.

Mọi người, kể cả Đức Phật, cũng bắt đầu tu như vậy, cũng bắt đầu tu bằng sự mong cầu— mong muốn có được sự bình an của tâm và mong muốn không bị ngu mờ, mong muốn không bị khổ. Hai cái mong muốn đó thực ra chỉ là một thứ. Nếu không hiểu biết đúng đắn, thì hai loại mong muốn đó, mong muốn không bị ngu mờ và mong muốn không bị khổ, chỉ là những loại ô nhiễm. Chúng chỉ là một cách mong muốn ngu si— đó là sự mong cầu không có trí tuệ.

In our practice we see this desire as either sensual indulgence or self-mortification. It's in this very conflict that our teacher, the Buddha, was caught up, just this dilemma. He followed many ways of practice which merely ended up in these two extremes. And these days we are exactly the same. We are still afflicted by this duality, and because of it we keep falling from the Way.

Khi tu tập, chúng ta nhận thấy sự mong cầu này là sự tham đắm hoặc sự hành xác. Đây chính là chỗ xung khắc mà vị thầy của chúng ta, Đức Phật, cũng đã từng bị dính; đây là chỗ khó khăn, chỗ dính danh, tiến thoái lưỡng nan. Ban đầu, Phật đã tu theo nhiều cách tu để rồi chỉ kết thúc bằng hai cực đoan như vậy. Và thời bây giờ chúng ta cũng bị dính y như vậy. Chúng ta vẫn còn dính vào hai mặt đối đãi (nhị nguyên), cứ chạy theo hai cực đoan, và rốt cuộc chúng ta cứ trồi lên, sụt xuống, liên tục bị rớt ra khỏi con đường Đạo.

However, this is how we must start out. We start out as worldly beings, as beings with defilements, with wanting devoid of wisdom, desire without right understanding. If we lack proper understanding, then both kinds of desire work against us. Whether it's wanting or not wanting, it's still craving (tanhā). If we don't understand these two things then we won't know how to deal with them when they arise. We will feel that to go forward is wrong and to go backwards is wrong, and yet we can't stop. Whatever we do we just find more wanting. This is because of the lack of wisdom and because of craving.

Tuy nhiên, đó là cách chúng ta phải trải qua lúc đầu tu tập. Chúng ta bắt đầu là những kẻ phàm tục, là những chúng sinh với đầy ô nhiễm bất thiện, với sự mong cầu không có trí tuệ đi kèm, với sự mong muốn mà không có sự hiểu biết đúng đắn. Nếu chúng ta không có sự hiểu biết đúng đắn (chánh kiến) thì hai thứ mong cầu nói trên sẽ cản trở chúng ta. Cho dù mong cầu hay không mong cầu, đó cũng là dục vọng (tanhā). Nếu chúng ta không hiểu biết đúng về hai điều đó thì chúng ta sẽ không biết xử lý khi chúng khởi sinh. Chúng ta sẽ cảm thấy đi tới cũng sai mà đi lùi lại cũng sai, và nhưng cũng không thể dừng lại. Chúng ta làm gì cũng thấy mình thêm mong muốn này nọ. Đó là do thiếu trí tuệ và do dục vọng.

It's right here, with this wanting and not wanting, that we can understand the Dhamma. The Dhamma which we are looking for exists right here, but we don't see it. Rather, we persist in our efforts to stop wanting. We want things to be a certain way and not any other way. Or, we want them not to be a certain way, but to be another way. Really these two things are the same. They are part of the same duality.

Ngay chính chỗ này, chỗ mong cầu và không mong cầu này, mà chúng ta có thể hiểu được Giáo Pháp. Giáo Pháp mà chúng ta đang tìm kiếm đang có mặt ở ngay đây, nhưng chúng ta không nhìn thấy nó. Hơn nữa, chúng ta kiên nhẫn nỗ lực để dừng tham muốn. Chúng ta muốn mọi thứ phải như vầy, như vậy, và không được khác đi. Hoặc chúng ta muốn mọi thứ không được như vầy, không được như vậy, và phải như cách khác. Thực sự hai cách mong muốn đều như nhau. Chúng chỉ là hai mặt của sự đối đãi. (Chúng ta muốn tâm được bình an và muốn tâm không bị ngu mờ chỉ là cách 'muốn' như nhau; muốn được giải thoát và không muốn bị khổ là cách 'muốn' như nhau).

Perhaps we may not realize that the Buddha and all of his disciples had this kind of wanting. However the Buddha understood regarding wanting and not wanting. He understood that they are simply the activity of mind, that such things merely appear in a flash and then disappear. These kinds of desires are going on all the time. When there is wisdom, we don't identify with them - we are free from clinging. Whether it's wanting or not wanting, we simply see it as such. In reality it's merely the activity of the natural mind. When we take a close look, we see clearly that this is how it is.

Có lẽ chúng ta không nhận ra rằng Phật và các vị thánh đệ tử cũng đã từng có loại mong muốn như vậy. Tuy nhiên, Phật hiểu rõ về sự mong cầu và không mong cầu. Phật hiểu được chúng chỉ là hành vi của tâm, chúng chỉ là những thứ chớp nhá, khởi sinh và biến mất. Những loại mong muốn đó diễn ra liên tục suốt thời gian. Khi có trí tuệ, chúng ta không nhận lầm mình với những sự mong muốn đó—chúng ta không bị dính mắc vào chúng. Dù đó là mong cầu hay không mong cầu, chúng ta chỉ đơn giản nhìn nó như vậy. Về thực tại, nó chỉ là hành vi (hoạt động) của cái tâm tự nhiên mà thôi. Khi chúng ta nhìn sâu sát, chúng ta sẽ nhìn thấy rõ ràng rằng đó chỉ là cách tự nhiên của nó.

The Wisdom of Everyday Experience

So it's here that our practice of contemplation will lead us to understanding. Let us take an example, the example of a fisherman pulling in his net with a big fish in it. How do you think he feels about pulling it in? If he's afraid that the fish will escape, he'll be rushed and start to struggle with the net, grabbing and tugging at it. Before he knows it, the big fish has escaped - he was trying too hard.

§ Trí Tuệ của Trải Nghiệm Hàng Ngày

Ngay tại đây việc thực hành thiền quán sẽ dẫn chúng ta đến sự hiểu biết. Lấy ví dụ có một ngư dân đang kéo lưới có một con cá lớn trong đó. Các thầy nghĩ ông ta cảm thấy ra sao về việc kéo con cá lớn đó? Nếu ông ta sợ con cá chạy mất, ông ta vội vã kéo nhanh lưới, chụp nắm tùm lum thì con cá sẽ tuột mất khỏi lưới—ông ta đã quá vội.

In the olden days they would talk like this. They taught that we should do it gradually, carefully gathering it in without losing it. This is how it is in our practice; we gradually feel our way with it, carefully gathering it in without losing it. Sometimes it happens that we don't feel like doing it. Maybe we don't want to look or maybe we don't want to know, but we keep on with it. We continue feeling for it. This is practice: if we feel like doing it, we do it, and if we don't feel like doing it, we do it just the same. We just keep doing it.

Ngày xưa người ta khuyên dạy chúng ta phải làm mọi sự một cách từ từ, chậm mà chắc. Việc tu hành cũng vậy, chúng ta tu tập từ từ và đều đặn, chúng ta dần dần "cảm giác được cách tu" của mình như vậy, từ từ tiến bộ, không bị lạc mất bước đi. Nhiều lúc chúng ta cảm thấy ta không muốn tu tập. Có thể chúng ta không muốn nhìn xem, hoặc không muốn biết, nhưng cứ nên kiên trì. Ta tiếp tục cảm nhận việc tu của mình. Đây là việc tu tập: nếu cảm thấy thích tu, thì ta tu tập và nếu không cảm thấy thích tu tập, thì ta vẫn cứ tu tập. Hứng hay không hứng chúng ta vẫn tu tập. Cứ kiên trì như vậy.

If we are enthusiastic about our practice, the power of our faith will give energy to what we are doing. But at this stage we are still without wisdom. Even though we are very energetic, we will not derive much benefit from our practice. We may continue with it for a long time and a feeling will arise that aren't going to find the Way. We may feel that we cannot find peace and tranquillity, or that we aren't sufficiently equipped to do the practice. Or maybe we feel that this Way just isn't possible anymore. So we give up!

Nếu chúng ta nhiệt thành trong việc tu tập, sức mạnh của lòng tin thành tín đó sẽ tạo năng lượng cho việc ta đang làm. Nhưng ở giai đoạn này chúng ta vẫn chưa có trí tuệ. Dù cho nỗ lực hết sức, việc tu tập vẫn chưa mang lại nhiều lợi ích. Có thể chúng ta còn phải tu tập một thời gian lâu và cảm giác rằng mình chẳng đi đến đâu, chẳng tìm thấy con đường Đạo. Ta cảm giác như mình không thể tìm thấy sự bình an và tĩnh lặng, hoặc như ta chưa được trang bị đầy đủ để tu hành. Hoặc ta cảm giác như con đường Đạo là điều không thể làm được nữa. Do vậy ta thoái chí và bỏ tu!

At this point we must be very, very careful. We must use great patience and endurance. It's just like pulling in the big fish - we gradually feel our way with it. We carefully pull it in. The struggle won't be too difficult, so without stopping we continue pulling it in. Eventually, after some time, the fish becomes tired and stops fighting and we're able to catch it easily. Usually this is how it happens, we practice gradually gathering it together.

Ngay lúc này, chúng ta phải rất rất cẩn thận. Chúng ta phải dùng sự kiên nhẫn và sự chịu khó rất lớn. Giống như việc kéo một con cá lớn vậy—ta phải từ từ cảm nhận từng bước tu. Phải cẩn thận. Không cần phải kéo mạnh, làm mạnh hay cố sức, chỉ cần từ từ cảm nhận, không ngừng, để cuối cùng chúng ta có thể kéo được con cá lớn. Chúng ta cứ tu tập từ từ, đều đặn, kiên trì, rồi sẽ đến lúc ta đạt đến mọi thứ.

It's in this manner that we do our contemplation. If we don't have any particular knowledge or learning in the theoretical aspects of the teachings, we contemplate according to our everyday experience. We use the knowledge which we already have, the knowledge derived from our everyday experience. This kind of knowledge is natural to the mind. Actually, whether we study about it or not, we have the reality of the mind right here already. The mind is the mind whether we have learned about it or not. This is why we say that whether the Buddha is born in the world or not, everything is the way it is. Everything already exists according to its own nature. This natural condition doesn't change, nor does it go anywhere. It just is that way. This is called the Sacca Dhamma. However, if we don't understand about this Sacca Dhamma, we won't be able to recognize it.

Đó là cách chúng ta quán niệm. Nếu chúng ta không có kiến thức hay học thức về những mặt lý thuyết của giáo lý, chúng ta cứ quán sát mọi sự theo trải nghiệm hàng ngày của ta. Chúng ta dùng kiến thức mà mình đã có được, kiến thức có được từ những kinh nghiệm hàng ngày. Loại kiến thức này là tự nhiên đối với tâm. Đúng thực ra, dù chúng ta có học về loại kiến thức này hay không, chúng ta đã có sẵn thực tại của tâm ngay tại đây rồi. Tâm là tâm cho dù chúng ta có học về nó hay chưa. Đó là lý tại sao chúng ta vẫn thường nói rằng dù Đức Phật có sinh ra trên thế gian này hay không thì mọi thứ vẫn diễn ra nhưng chúng là. Mọi thứ đều có mặt theo lẽ tự nhiên của chúng. Lẽ tự nhiên là tất hữu, nó không thay đổi hay khác đi cho dù có Phật hay không có Phật khám phá ra nó. Đó chỉ là cách tự nhiên của tự nhiên, của mọi pháp. Lẽ thật này được gọi là chân lý, tức chân pháp (Sacca Dhamma). Tuy nhiên, nếu ta chúng ta không hiểu biết về chân pháp, thì chúng ta không thể nào chứng ngộ chân pháp.

So we practice contemplation in this way. If we aren't particularly skilled in scripture, we take the mind itself to study and read. Continually we contemplate (lit. talk with ourselves) and understanding regarding the nature of the mind will gradually arise. We don't have to force anything.

Vậy chúng ta cứ quán niệm theo cách như vậy. Nếu cúng ta không giỏi về kinh điển, chúng ta cứ lấy tâm mình để học và đọc hiểu nó. Cứ quán niệm một cách liên tục [nguyên văn nói: cứ nói chuyện với bản thân mình] và sự hiểu biết về bản tính tự nhiên của tâm sẽ dần dần tăng lên. Đừng cố ép, đừng thúc ép thứ gì.

Constant Effort

Until we are able to stop our mind, until we reach tranquillity, the mind will just continue as before. It's for this reason that the teacher says, ''Just keep on doing it, keep on with the practice!'' Maybe we think, ''If I don't yet understand, how can I do it?'' Until we are able to practice properly, wisdom doesn't arise. So we say just keep on with it. If we practice without stopping we'll begin to think about what we are doing. We'll start to consider our practice.

§ Nỗ Lực Chuyên Cần

Cho đến khi nào chúng ta có khả năng dừng tâm lại, cho đến khi chúng ta đạt đến sự tĩnh lặng, tâm vẫn cứ tiếp diễn theo cách xưa nay của nó. Đó là lý do các sư thầy thường nói: "Cứ tu, cứ tiếp tục tu tập!". Có thể chúng ta nghĩ rằng: "Nếu ta chưa hiểu, làm sao ta tu được?". Nhưng nếu chúng ta không chịu tu tập một cách đúng đắn thì trí tuệ không khởi sinh (nên cũng chẳng hiểu biết gì về sự tu tập của mình sẽ đi đến đâu). Do vậy, chúng tôi vẫn cứ khuyên mọi người hãy tu tập và chuyên cần tu tập. Nếu chúng ta tu tập liên tục không ngừng, thì chúng ta sẽ bắt đầu nghĩ về việc mình đang tu cái gì. Chúng ta bắt đầu xem xét về việc tu tập.

Nothing happens immediately, so in the beginning we can't see any results from our practice. This is like the example I have often given you of the man who tries to make fire by rubbing two sticks of wood together. He says to himself, ''They say there's fire here''. and he begins rubbing energetically. He's very impetuous. He rubs on and on but his impatience doesn't end. He wants to have that fire. He keeps wanting to have that fire, but the fire doesn't come. So he gets discouraged and stops to rest for awhile. He starts again but the going is slow, so he rests again. By then the heat has disappeared; he didn't keep at it long enough. He rubs and rubs until he tires and then he stops altogether. Not only is he tired, but he becomes more and more discouraged until he gives up completely. ''There's no fire here!'' Actually he was doing the work, but there wasn't enough heat to start a fire. The fire was there all the time but he didn't carry on to the end.

Chẳng có gì xảy ra nhanh chóng, nên lúc đầu tu tập chúng ta không thể thấy được ngay kết quả. Việc tu tập phải kiên trì và liên tục giống như người xưa cọ sát hai thanh tre khô cho đến khi tạo ra lửa vậy. Tôi thường dùng ví dụ đó để dạy về cách tu. Người xưa nhìn thấy lửa bên trong các thanh tre khô. Nhưng nếu người ấy cố sức, vội vã cọ sát các thanh tre, lửa không phát sinh nhanh. Rồi nếu người ấy ngừng tay, sau đó lại cọ sát lại, thì cũng không tạo ra lửa, bởi khi ngừng tay gián đoạn người ấy phải bắt đầu lại với hai thanh tre nguội lạnh, và tất cả bắt đầu lại từ số không. Người xưa phải rất kiên nhẫn, cọ sát liên tục các thanh tre khô, không ngừng, đều đặn, cho đến khi các thanh tre tích nhiệt và tạo ra lửa. (Việc tu tập cũng vậy, nếu người tu vội vã, nôn nóng, thúc ép thì không tạo ra kết quả gì. Nếu người tu tu không chuyên cần, không liên tục, lúc tu lúc không, thì cũng chẳng tạo ra được kết quả gì. Chỉ có người tu chuyên cần, đều đặn, liên tục, không gián đoạn thì đến một lúc nào đó người ấy đạt đến kết quả, trí tuệ khởi sinh).

This sort of experience causes the meditator to get discouraged in his practice, and so he restlessly changes from one practice to another. And this sort of experience is also similar to our own practice. It's the same for everybody. Why? Because we are still grounded in defilements. The Buddha had defilements also, but He had a lot of wisdom in this respect. While still worldlings the Buddha and the arahants were just the same as us. If we are still worldlings then we don't think rightly. Thus when wanting arises we don't see it, and when not wanting arises we don't see it. Sometimes we feel stirred up, and sometimes we feel contented. When we have not wanting we have a kind of contentment, but we also have a kind of confusion. When we have wanting this can be contentment and confusion of another kind. It's all intermixed in this way.

Ai cũng mong muốn có được lửa nhanh, nhưng giục tất bất đạt. Loại kinh nghiệm này làm cho các thiền sinh nản chí tu tập, và do vậy họ cứ bất an thay đổi cách tu tập này sang cách tu tập khác. Và loại kinh nghiệm này cũng giống kinh nghiệm của chúng tôi. Ai cũng trải qua vậy. Tại sao? Tại vì chúng ta đều vẫn còn dính sâu trong những ô nhiễm. Phật ngày xưa cũng có những ô nhiễm, nhưng Phật có nhiều trí tuệ về chuyện này. Khi còn là những người phàm chưa giác ngộ, Phật và các vị A-la-hán thì cũng như chúng ta. Khi chúng ta còn là kẻ phàm phu thì chúng ta chưa nghĩ một cách đúng đắn. Do vậy, mỗi khi có tham muốn khởi sinh thì chúng ta không nhìn thấy nó, và khi không có tham muốn khởi sinh chúng ta cũng không nhìn thấy nó. Lúc thì chúng ta cảm thấy động vọng, lúc thì ta cảm thấy hài lòng. Khi chúng ta không có tham muốn, chúng ta có một kiểu hài lòng nhưng chúng ta cũng có một kiểu ngu mờ. Khi có tham muốn, nó có thể là sự hài lòng hoặc là sự ngu mờ. Tất cả cứ lẫn lộn qua lại như vậy.

Knowing Oneself and Knowing Others

The Buddha taught us to contemplate our body, for example: hair of the head, hair of the body, nails, teeth, skin... it's all body. Take a look! We are told to investigate right here. If we don't see these things clearly as they are in ourselves, we won't understand regarding other people. We won't see others clearly nor will we see ourselves. However, if we do understand and see clearly the nature of our own bodies, our doubts and wonderings regarding others will disappear. This is because body and mind (rūpa and nāma) are the same for everybody. It isn't necessary to go and examine all the bodies in the world since we know that they are the same as us - we are the same as them. If we have this kind of understanding then our burden becomes lighter. Without this kind of understanding, all we do is develop a heavier burden. In order to know about others we would have to go and examine everybody in the entire world. That would be very difficult. We would soon become discouraged.

§ Hiểu Biết Mình và Hiểu Biết Người

Đức Phật dạy chúng ta quán xét về thân, ví dụ: tóc, lông, móng, răng, da...toàn bộ cơ thể. Hãy nhìn thử! Chúng ta được dạy phải xem xét điều tra ngay tại chỗ này. Nếu chúng ta không nhìn thấy một cách rõ ràng những bộ phận đó ngay trong thân của mình, thì ta cũng chẳng hiểu biết gì về người khác. Chúng ta nhìn thấy gì về người khác và bản thân mình. Tuy nhiên, nếu chúng ta hiểu biết và nhìn thấy rõ ràng bản chất của thân ta, thì sự nghi ngờ và nghi vấn về người khác sẽ không còn. Điều này là bởi thân và tâm (sắc và danh, rūpa và nāma) của mọi người là tương tự như nhau, cùng một loại. Không cần phải đi xem xét, mổ xẻ người khác thì mới hiểu về họ, ta biết họ cũng giống như ta mà thôi, nếu ta hiểu biết rõ về bản thân ta. Nếu ta có loại hiểu biết như vậy, gánh nặng của ta sẽ vơi nhẹ đi. Không có loại hiểu biết này, tất cả mọi sự chúng ta làm đều làm cho gánh nặng càng thêm nặng. Không hiểu biết như vậy, ta cứ đi xăm soi, điều tra, xem xét về mọi người trên cả thế gian này để hiểu biết về họ. Điều đó quá khó làm. Rồi ta sẽ trở nên nản chí.

Our Vinaya is similar to this. When we look at our Vinaya (code of monks' discipline) we feel that it's very difficult. We must keep every rule, study every rule, review our practice with every rule. If we just think about it, ''Oh, it's impossible!'' We read the literal meaning of all the numerous rules and, if we merely follow our thinking about them, we could well decide that it's beyond our ability to keep them all. Anyone who has had this kind of attitude towards the Vinaya has the same feeling about it - there are a lot of rules!

Giới Luật (Vinaya) nhà Phật cũng tương tự như vậy. Khi chúng ta nhìn vào Giới Luật Tỳ kheo, chúng ta thấy quá khó để thực hiện. Chúng ta phải học từng giới luật, kiêng giữ từng giới luật, xem xét việc tu hành của chúng ta với từng giới luật. Nếu chúng ta cứ nghĩ như vậy, chúng ta sẽ la lên: "Ồ, không thể nào thực hiện được!". Khi chúng ta đọc từng điều luật được đánh số và ý nghĩa của chúng, nếu chúng ta cứ chạy theo suy nghĩ về chúng, chúng ta có thể cho rằng toàn bộ số lượng điều luật đó là vượt qua khả năng thực hiện của chúng ta. Mọi người ai cũng nghĩ vậy, khi nhìn số lượng các điều luật trong Giới Luật Tỳ kheo.

The scriptures tell us that we must examine ourselves regarding each and every rule and keep them all strictly. We must know them all and observe them perfectly. This is the same as saying that to understand about others we must go and examine absolutely everybody. This is a very heavy attitude. And it's like this because we take what is said literally. If we follow the textbooks, this is the way we must go. Some teachers teach in this manner - strict adherence to what the textbooks say. It just can't work that way.

Kinh điển nói rằng chúng ta phải xem xét chính mình so với từng mỗi giới luật và tuân giữ theo chúng một cách nghiêm khắc. Chúng ta phải hiểu biết hết các giới luật và tuân giữ theo chúng một cách hoàn hảo. Điều này cũng giống như nói rằng để hiểu biết hết tất cả mọi người chúng ta phải đi xăm soi, xem xét, điều tra tuyệt đối từng người. Đây là một thái độ quá nặng nề. Và điều nặng nề này là do bởi chúng ta cứ 'y kinh diễn nghĩa'. Điều này giống như chúng ta học sách giáo khoa thì chúng ta phải làm theo y như nó. Một số thầy cô dạy theo cách như vậy—phải làm như sách vở đã ghi. Nhưng thực tế thì điều đó không thực hiện được là mấy.

Actually, if we study theory like this, our practice won't develop at all. In fact our faith will disappear, our faith in the Way will be destroyed. This is because we haven't yet understood. When there is wisdom we will understand that all the people in the entire world really amount to just this one person. They are the same as this very being. So we study and contemplate our own body and mind. With seeing and understanding the nature of our own body and mind comes understanding the bodies and minds of everyone. And so, in this way, the weight of our practice becomes lighter.

Thực là, nếu chúng ta học lý thuyết theo kiểu đó thì sự thực hành của chúng ta cũng chẳng đi đến đâu. Thực tế, lòng tin của chúng ta sẽ biến mất, lòng tin vào con đường Đạo cũng bị tiêu diệt. Điều này là do chúng ta chưa hiểu rõ. Khi nào ta có trí tuệ, ta sẽ nhìn thấy toàn bộ thế gian này thực sự cũng giống một người mà thôi. Tất cả mọi người đều giống nhau. Do vậy, chỉ cần quán xét và hiểu biết về thân và tâm mình. Khi đã hiểu biết về bản chất của thân và tâm mình, thì ta có thể hiểu biết về bản chất của thân và tâm của người khác. Và nhờ vậy, theo cách đó, gánh nặng về sự tu tập của chúng ta trở nên nhẹ nhàng hơn.

The Buddha said to teach and instruct ourselves - nobody else can do it for us. When we study and understand the nature of our own existence, we will understand the nature of all existence. Everyone is really the same. We are all the same ''make'' and come from the same company - there are only different shades, that's all! Just like ''Bort-hai'' and ''Tum-jai''. They are both pain-killers and do the same thing, but one type is called ''Bort-hai'' and the other ''Tum-jai''. Really they aren't different.

You will find that this way of seeing things gets easier and easier as you gradually bring it all together. We call this ''feeling our way'', and this is how we begin to practice. We'll become skilled at doing it. We keep on with it until we arrive at understanding, and when this understanding arises, we will see reality clearly.

Đức Phật đã dạy phải tự mình dạy và hướng dẫn chính mình—không ai có thể làm điều đó cho ta. Khi ta quán xét và hiểu biết về bản chất sự sống của chính mình, thì ta có thể hiểu biết bản chất của tất cả mọi sự sống khác. Mọi người thực sự là như nhau. Chúng ta đều được 'tạo ra' như nhau và cùng một 'loại'—chỉ khác nhau một chút bóng dáng. Cũng giống như nhiều thứ thuốc giảm đau, thực ra có cùng dược chất, ví dụ chất paracetamol, chúng chỉ khác nhau về tên gọi, nhãn hiệu, hình dáng viên thuốc. Thực ra chúng chẳng khác nhau.

Các thầy sẽ thấy rằng cách nhìn này sẽ càng ngày càng dễ hơn khi các thầy biết quy về một mối để quán xét. Chúng tôi gọi điều này là "cảm giác được cách tu của mình" ("bắc" được cách tu), và đó là cách chúng ta bắt đầu tu tập. Chúng ta sẽ trở nên thiện thạo tu tập như vậy. Chúng ta cứ tu, liên tục tu cho đến khi nào sự hiểu biết này khởi sinh, và khi sự hiểu biết này khởi sinh, chúng ta có thể nhìn thấy hiện-thực một cách rõ ràng.

Theory and Practice

So we continue this practice until we have a feeling for it. After a time, depending on our own particular tendencies and abilities, a new kind of understanding arises. This we call investigation of Dhamma (dhamma-vicaya), and this is how the seven factors of enlightenment arise in the mind. Investigation of Dhamma is one of them. The others are: mindfulness, energy, rapture, tranquillity, concentration (samādhi) and equanimity.

§ Lý Thuyết và Thực Hành

Do vậy, chúng ta tiếp tục thực hành cho đến khi chúng ta có một cảm giác về điều đó. Sau một thời gian, tùy thuộc vào những căn cơ và khả năng của mỗi người, một loại hiểu biết mới sẽ khởi sinh. Điều này chúng ta gọi là sự điều tra về mọi sự, sự điều tra các pháp (trạch pháp, dhamma-vicaya), và đây là một trong bảy yếu tố giúp giác ngộ (thất giác chi) khởi sinh trong tâm. Điều tra pháp là một yếu tố trong bảy yếu tố đó. Các yếu tố khác là: chánh niệm, năng lực tinh tấn, hoan hỷ, tĩnh lặng, chánh định và buông xả.

If we have studied about the seven factors of enlightenment, then we'll know what the books say, but we won't have seen the real factors of enlightenment. The real factors of enlightenment arise in the mind. Thus the Buddha came to give us all the various teachings. All the enlightened ones have taught the way out of suffering and their recorded teachings we call the theoretical teachings. This theory originally came from the practice, but it has become merely book learning or words.

Nếu chúng ta học về bảy yếu tố giúp giác ngộ thì chúng ta biết kinh sách viết gì nói gì, nhưng chúng ta không thể nào thấy được những yếu tố giác ngộ đích thực là gì. Những yếu tố giác ngộ đích thực khởi sinh ở trong tâm. Do vậy, Phật đã chỉ cho chúng ta tất cả những giáo lý khác nhau. Tất cả các bậc giác ngộ đều dạy con đường thoát khỏi khổ và những lời dạy của họ đã được ghi chép lại được gọi là những giáo lý. Và những giáo lý đó được rút ra từ việc thực hành, nhưng sau khi được ghi chép lại thì chúng chỉ là sách vở.

The real factors of enlightenment have disappeared because we don't know them within ourselves, we don't see them within our own minds. If they arise they arise out of practice. If they arise out of practice then they are factors leading to enlightenment of the Dhamma and we can use their arising as an indication that our practice is correct. If we are not practicing rightly, such things will not appear.

Những yếu tố giác ngộ đích thực đã biến mất bởi chúng ta không biết về chúng bên trong chúng ta, chúng ta không nhìn thấy chúng bên trong tâm chúng ta. Nếu chúng có khởi sinh thì khởi sinh từ việc tu tập, thực hành. Mà nếu chúng khởi sinh từ việc tu tập thì chúng là những yếu tố dẫn đến giác ngộ Giáo Pháp và chúng ta có thể coi sự khởi sinh đích thực của chúng là dấu hiệu xác định việc tu tập của chúng ta là đang đúng hướng. Nếu chúng ta tu tập không đúng đắn, những yếu tố giác ngộ đó chẳng bao giờ khởi sinh.

If we practice in the right way, then we can see Dhamma. So we say to keep on practicing, feeling your way gradually and continually investigating. Don't think that what you are looking for can be found anywhere other than right here.

Nếu chúng ta tu tập đúng đắn, thì chúng ta có thể nhìn thấy Giáo Pháp. Do vậy, chúng tôi nói rằng cứ tu, cứ tu tập liên tục, và dần dần "cảm giác được cách tu của mình" thông qua sự tìm hiểu, điều tra các pháp. Ta cảm giác được việc tu tập của mình bằng việc trạch pháp liên tục. Tìm hiểu, suy xét, quán xét liên tục ngay chỗ này, trong thân tâm này, đừng nghĩ sẽ tìm thấy gì ở nơi khác.

One of my senior disciples had been learning Pāli at a study temple before he came here. He hadn't been very successful with his studies so he thought that, since monks who practice meditation are able to see and understand everything just by sitting, he would come and try this way. He came here to Wat Pah Pong with the intention of sitting in meditation so that he would be able to translate Pāli scriptures. He had this kind of understanding about practice. So I explained to him about our way. He had misunderstood completely. He had thought it an easy matter just to sit and make everything clear.

Một trong những đệ tử thâm niên của tôi đã từng học tiếng Pali ở một chùa trước khi đến đây tu. Thầy ấy đã không học giỏi tiếng Pali ở chùa đó nên thầy ấy nghĩ rằng chỉ có những người ngồi thiền mới có thể nhìn thấy và hiểu biết mọi pháp, do vậy thầy ấy đến đây tu thiền theo cách ở đây. Thầy ấy đến chùa Wat Pah Pong này với ý định ngồi thiền để sau đó có khả năng dịch các kinh điển Pali. Thầy ấy nghĩ như vậy. Tôi giải thích cách tu tập ở đây là vậy, nhưng thầy ấy hiểu lầm ý tôi hoàn toàn. Thầy ấy nghĩ rằng ngồi thiền là dễ dàng và sẽ nhìn thấy mọi pháp một cách rõ ràng.

If we talk about understanding Dhamma then both study monks and practice monks use the same words. But the actual understanding which comes from studying theory and that which comes from practicing Dhamma is not quite the same. It may seem to be the same, but one is more profound. One is deeper than the other. The kind of understanding which comes from practice leads to surrender, to giving up. Until there is complete surrender we persevere - we persist in our contemplation. If desires or anger and dislike arise in our mind, we aren't indifferent to them. We don't just leave them but rather take them and investigate to see how and from where they arise. If such moods are already in our mind, then we contemplate and see how they work against us. We see them clearly and understand the difficulties which we cause ourselves by believing and following them. This kind of understanding is not found anywhere other than in our own pure mind.

Nếu chúng ta nói về sự hiểu biết Giáo Pháp thì các tăng ni học giáo lý và các tăng ni thực hành đều dùng những ngôn từ giống nhau. Nhưng sự hiểu biết thực sự từ việc học giáo lý kinh điển và từ việc tu tập thực hành không phải là giống nhau, cái thứ hai là sâu sắc hơn. Đó là sự hiểu biết từ việc tu tập thực hành, nó sâu sắc hơn sự hiểu biết từ giáo lý. Sự hiểu biết từ việc tu hành dẫn đến sự từ bỏ, sự buông bỏ. Chúng ta đeo đuổi việc tu tập cho đến khi đạt đến sự buông bỏ hoàn toàn—khi nào còn chưa đạt đến đó, chúng ta vẫn kiên trì quán xét, quán niệm, thiền quán như vậy. Nếu tham, sân và ghét khởi sinh trong tâm, chúng ta không làm ngơ với chúng. Chúng ta không rời bỏ chúng mà đón nhận chúng, rồi điều tra quán xét xem nó khởi sinh cách nào và khởi sinh từ đâu. Nếu những trạng thái đó đã có trong tâm từ trước, thì chúng ta sẽ điều tra quán xét coi chúng làm khó chúng ta ra sao. Chúng ta nhìn thấy chúng một cách rõ ràng và hiểu rõ những khó khăn mà chúng ta tự gây ra cho chính mình khi chúng ta cứ chạy theo và tin theo những trạng thái đó. (Chúng ta làm khổ mình vì chạy theo những trạng thái vui, buồn, tham, sân, ghét, chán đó). Loại hiểu biết và nhìn thấy như vậy để đi đến buông bỏ không thể tìm thấy ở đâu khác hay ở bên ngoài, mà ngay bên trong cái chân tâm này của chúng ta.

It's because of this that those who study theory and those who practice meditation misunderstand each other. Usually those who emphasize study say things like this, ''Monks who only practice meditation just follow their own opinions. They have no basis in their teaching''. Actually, in one sense, these two ways of study and practice are exactly the same thing. It can help us to understand if we think of it like the front and back of our hand. If we put our hand out, it seems as if the back of the hand has disappeared. Actually the back of our hand hasn't disappeared anywhere, it's just hidden underneath. When we say that we can't see it, it doesn't mean that it has disappeared completely, it just means that it's hidden underneath. When we turn our hand over, the same thing happens to the palm of the hand. It doesn't go anywhere, it's merely hidden underneath.

Vì chỗ này mà những người giỏi giáo lý và những người tu tập thường hiểu lầm nhau. Thường thì người đề cao giáo lý hay nói theo kiểu: "Những tăng ni chỉ chuyên thiền tập là chỉ tu theo thiển ý của mình. Họ không có căn bản giáo lý". Thực là, theo một ý nghĩa, hai việc tu học giáo lý và tu tập thực hành chính xác là một. Chỉ giống như hai mặt của bàn tay mình mà thôi. Nếu lật bàn tay lên thì có vẻ như mu bàn tay không có; nếu úp bàn tay thì có vẻ như lòng bàn tay không có. Thực ra, mu bàn tay không biến mất, nó chỉ bị che khuất bên dưới bàn tay. Nhưng khi chúng ta nói chúng ta không nhìn thấy nó, điều đó không có nghĩa là nó không có hay biến mất, nó chỉ nằm khuất bên dưới mà ta không nhìn thấy. Khi trở bàn tay lại, thì điều tương tự cũng xảy ra với lòng bàn tay; ta chỉ nhìn thấy mu bàn tay, và tưởng rằng lòng bàn tay không có hay biến mất; thực ra lòng bàn tay chỉ bị che khuất bên dưới mà thôi.

We should keep this in mind when we consider practice. If we think that it has ''disappeared'', we'll go off to study, hoping to get results. But it doesn't matter how much you study about Dhamma, you'll never understand, because you won't know in accordance with truth. If we do understand the real nature of Dhamma, then it becomes letting go. This is surrender - removing attachment (upādāna), not clinging anymore, or, if there still is clinging, it becomes less and less. There is this kind of difference between the two ways of study and practice.

Chúng ta nên ghi nhớ trong tâm điều này khi chúng ta suy xét về sự tu tập của mình. Nếu chúng ta nghĩ sự tu tập của mình "không có" hay "biến mất", chúng ta sẽ từ bỏ thực hành và chuyển sang tu học theo giáo lý để mong có kết quả. Nhưng dù các thầy có tu học về Giáo Pháp đến đâu, thì các thầy cũng chẳng hiểu biết gì, bởi các thầy sẽ không hiểu biết đúng theo sự thật. Nếu chúng ta thực sự hiểu biết bản chất đích thực của Giáo Pháp, thì điều đó sẽ dẫn chúng ta đạt đến sự buông bỏ. Cốt lõi ở đây là sự buông bỏ, sự phá bỏ những kiến chấp và dính mắc (upādāna), không còn dính mắc, không còn chấp thủ nữa; hoặc nếu còn ít nhiều dính mắc thì nó sẽ càng ngày càng ít đi, ít đi, phai biến đi. Đó là sự khác biệt giữa hai cách tu học giáo lý và cách tu tập giáo lý. (Một cái là học giáo lý để mong hiểu biết Giáo Pháp; một cái là thực hành Giáo Pháp để tự tâm hiểu biết Giáo Pháp. Sự hiểu biết thứ hai nếu có được là sự hiểu biết dẫn đến sự buông bỏ).

When we talk about study, we can understand it like this: our eye is a subject of study, our ear is a subject of study - everything is a subject of study. We can know that form is like this and like that, but we attach to form and don't know the way out. We can distinguish sounds, but then we attach to them. Forms, sounds, smells, tastes, bodily feelings and mental impressions are all like a snare to entrap all beings.

Khi chúng ta nói về học, chúng ta có thể hiểu nôm na như vầy: mắt là một đề tài để học, tai là một đề tài để học— mọi thứ là đề tài để học. Chúng ta có thể biết hình sắc là như vầy và như vậy, nhưng chúng ta vẫn dính mắc vào sắc và không biết đường thoát ra. Chúng ta có thể phân biệt âm thanh, nhưng chúng ta vẫn dính mắc vào nó (hay, dở, ồn, êm dịu...). Những hình sắc, âm thanh, mùi hương, mùi vị, những chạm xúc và những tâm tưởng đều là cái bẫy bắt dính tất cả chúng sinh vào chúng.

To investigate these things is our way of practicing Dhamma. When some feeling arises we turn to our understanding to appreciate it. If we are knowledgeable regarding theory, we will immediately turn to that and see how such and such a thing happens like this and then becomes that... and so on. If we haven't learned theory in this way, then we have just the natural state of our mind to work with. This is our Dhamma. If we have wisdom then we'll be able to examine this natural mind of ours and use this as our subject of study. It's exactly the same thing. Our natural mind is theory. The Buddha said to take whatever thoughts and feelings arise and investigate them. Use the reality of our natural mind as our theory. We rely on this reality.

Điều tra, suy xét về những thứ đó là cách tu tập Giáo Pháp của chúng ta ở đây. Khi có một cảm giác (thọ) khởi sinh, chúng ta dùng sự hiểu biết để trân trọng nó. Nếu chúng ta có tu học giáo lý bài bản, chúng ta sẽ lập tức chuyển tâm qua nó và nhìn xem nó khởi sinh ra sao, từ đâu, rồi trở thành cái gì, như vầy, như vậy...vân vân. Còn nếu chúng ta không học giáo lý bài bản, thì chúng ta cứ để cho cái tâm tự nhiên xử lý với cảm thọ đó. Chỗ này là Giáo Pháp của chúng ta. Nếu chúng ta có trí tuệ, chúng ta có thể xem xét cái tâm tự nhiên này của chúng ta và dùng nó như một đối tượng để học. Đó cũng là một cách như nhau. Cái tâm tự nhiên của chúng ta là lý thuyết. Phật đã dạy chúng ta đón nhận tất cả mọi ý nghĩ và cảm thọ khởi sinh và điều tra suy xét về chúng. Dùng cái thực-tại của cái tâm tự nhiên của chúng ta làm lý thuyết. Chúng ta dựa vào thực-tại đó.

(Tâm tự nhiên xử lý theo cách của nó khi nó có một ý nghĩ hay cảm thọ. Ta cứ nhìn theo nó, lấy cái tâm tự nhiên đó để làm đề mục quán xét (thiền quán). Chúng ta cứ khách quan quan sát cái tâm tự nhiên đó hành vi theo cách tự nhiên của nó).

Insight Meditation (Vipassanā)

If you have faith it doesn't matter whether you have studied theory or not. If our believing mind leads us to develop practice, if it leads us to constantly develop energy and patience, then study doesn't matter. We have mindfulness as a foundation for our practice. We are mindful in all bodily postures, whether sitting, standing, walking or lying. And if there is mindfulness there will be clear comprehension to accompany it. Mindfulness and clear comprehension will arise together. They may arise so rapidly, however, that we can't tell them apart. But, when there is mindfulness, there will also be clear comprehension.

§ Thiền Minh Sát (Vipassanā)

Nếu chúng ta có lòng tin thì dù chúng ta có học hiểu về giáo lý hay không, điều đó không thành vấn đề. Nếu cái tâm tin-tưởng của chúng ta dẫn dắt chúng ta đến việc tu hành, dẫn dắt chúng ta thường xuyên tu dưỡng năng lực tinh tấn và tính kiên nhẫn, thì có học giáo lý hay không không là vấn đề. Chúng ta có sự chánh niệm là nền tảng cho việc tu tập của mình. Chúng ta chánh niệm vào tất cả mọi tư thế của thân, dù đang ngồi, đang đứng, đang đi, hay đang nằm. Và nếu có sự chánh niệm (sati) thì sẽ luôn có sự hiểu biết rõ ràng (sampajañña, tự tỉnh giác) đi theo nó. Sự chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng sẽ cùng khởi sinh với nhau. Tuy nhiên, chúng khởi sinh rất nhanh, chúng ta khó mà nói chúng là riêng nhau. Nhưng, khi nào có mặt sự chánh niệm, thì khi đó có mặt sự hiểu biết rõ ràng.

When our mind is firm and stable, mindfulness will arise quickly and easily and this is also where we have wisdom. Sometimes, though, wisdom is insufficient or doesn't arise at the right time. There may be mindfulness and clear comprehension, but these alone are not enough to control the situation. Generally, if mindfulness and clear comprehension are a foundation of mind, then wisdom will be there to assist. However, we must constantly develop this wisdom through the practice of insight meditation. This means that whatever arises in the mind can be the object of mindfulness and clear comprehension. But we must see according to anicca, dukkha, anattā. Impermanence (anicca) is the basis. Dukkha refers to the quality of unsatisfactoriness, and anattā says that it is without individual entity. We see that it's simply a sensation that has arisen, that it has no self, no entity and that it disappears of its own accord. Just that! Someone who is deluded, someone who doesn't have wisdom, will miss this occasion, he won't be able to use these things to advantage.

Khi tâm chúng ta vững vàng và ổn định, sự chánh niệm sẽ có mặt nhanh chóng và dễ dàng, và lúc đó cũng là lúc chúng ta có trí tuệ. Mặc dù vậy, đôi lúc trí tuệ không có đủ hoặc không khởi sinh đúng lúc. Nhiều lúc có mặt sự chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng, nhưng chỉ riêng hai thứ đó thì không đủ để kiểm soát tình huống. Thông thường, nếu sự chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng là một nền tảng của tâm, thì trí tuệ sẽ có mặt ở đó để trợ giúp. Tuy nhiên, chúng ta cần phải tu dưỡng trí tuệ đó một cách đều đặn, liên tục bằng phương cách thiền minh sát. Về thực hành là, bất kỳ sự gì khởi sinh trong tâm có thể là đối tượng của chánh niệm và của sự hiểu biết rõ ràng. Nhưng chúng ta phải nhìn thấy đúng theo lẽ thật 'vô thường, khổ và vô ngã' (anicca, dukkha, anattā). Lẽ thực về vô-thường là căn bản, là cơ sở của các lẽ thực kia. Khổ là chỉ về bản tính bất toại nguyện của mọi sự sống. Và vô-ngã có nghĩa là không có một bản ngã, không có một tự tính bên trong tất cả mọi hiện tượng và sự thể của sự sống. Chúng ta nhìn thấy đơn giản chỉ là một cảm nhận khởi sinh, rằng nó không có cái bản ngã hay tự tính nào trong đó, nó hiện lên rồi biến mất, nó khởi sinh và biến diệt theo cách tự nhiên của nó. (Chẳng có ai điều khiển cái sự khởi sinh và biến mất đó). Tất cả chỉ là vậy, sinh diệt, sinh diệt! Một số người còn ngu mờ, không có trí tuệ sẽ lỡ mất cơ hội đó, họ không biết tận dụng cái cảm nhận sinh diệt đó để phát huy trí tuệ hiểu biết về lẽ sinh-diệt của mọi sự sống.

If wisdom is present then mindfulness and clear comprehension will be right there with it. However, at this initial stage the wisdom may not be perfectly clear. Thus mindfulness and clear comprehension aren't able to catch every object, but wisdom comes to help. It can see what quality of mindfulness there is and what kind of sensation has arisen. Or, in its most general aspect, whatever mindfulness there is or whatever sensation there is, it's all Dhamma.

Nếu trí tuệ có mặt thì chắc chắn sự chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng đang có mặt ngay đó với nó. Tuy nhiên, trong thời gian tu tập ban đầu trí tuệ có thể không rõ rệt, không có mặt rõ ràng. Do đó, sự chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng chưa thể bắt kịp từng đối tượng, nhưng rồi trí tuệ sẽ có mặt để trợ giúp. Trí tuệ có thể nhìn thấy chất lượng của sự chánh niệm đang có ở đó (mạnh hay yếu) và nhìn thấy loại cảm thọ nào đã khởi sinh (sướng hay khổ, tham hay sân, thiện hay bất thiện, mạnh hay yếu...). Hoặc là, nói theo cách chung nhất, dù sự chánh niệm đang có mặt ở đó hoặc cảm thọ đang khởi sinh đó là thuộc loại gì, thì tất cả chúng đều là Giáo Pháp.

The Buddha took the practice of insight meditation as his foundation. He saw that this mindfulness and clear comprehension were both uncertain and unstable. Anything that's unstable, and which we want to have stable, causes us to suffer. We want things to be according to our own desires, but we must suffer because things just aren't that way. This is the influence of an unclean mind, the influence of a mind which is lacking wisdom.

Phật đã dùng cách tu thiền minh sát làm nền tảng của mình. Phật nhìn ra rằng chính sự chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng đều là không chắn chắn và không ổn định. Mọi thứ đều không ổn định, nhưng chúng ta cứ muốn mọi thứ ổn định và trường tồn cho nên chúng ta khổ. Chúng ta cứ muốn mọi sự như theo ý mình, rồi chúng ta phải bị khổ bởi mọi sự đâu diễn ra theo ý của mình, chúng diễn ra theo đường lối tự nhiên của chúng. Đó là do tác động của cái tâm chưa trong sạch, tác động của cái tâm chưa có trí tuệ.

When we practice we tend to become caught up in wanting it easy, wanting it to be the way we like it. We don't have to go very far to understand such an attitude. Merely look at this body! Is it ever really the way we want it? One minute we like it to be one way and the next minute we like it to be another way. Have we ever really had it the way we liked? The nature of our bodies and minds is exactly the same in this regard. It simply is the way it is.

Khi tu tập, chúng ta thường hay bị dính vào cái ý 'muốn việc tu được dễ dàng', muốn sự tu tập phải theo ý muốn hay mong cầu của mình. Chúng ta không cần đi đâu xa để hiểu được thái độ mong muốn kiểu này. Chỉ cần nhìn vào thân này! Đó có phải là cách chúng ta muốn nó như vậy không? Một phút ta muốn nó như vầy, phút sau ta muốn nó như kia. Nhưng, chúng ta có bao giờ có được nó như ý muốn của ta không? Bản chất của thân và tâm của chúng ta cũng như vậy, nó chẳng bao giờ theo ý ai. Đơn giản, nó diễn ra theo lẽ tự nhiên của nó.

This point in our practice can be easily missed. Usually, whatever we feel doesn't agree with us, we throw out; whatever doesn't please us, we throw out. We don't stop to think whether the way we like and dislike things is really the correct way or not. We merely think that the things we find disagreeable must be wrong, and those which we find agreeable must be right.

Điểm này trong tu tập rất dễ bị bỏ quên. Thói thường, bất cứ thứ gì ta cảm thấy không hòa hợp với ta, ta từ đẩy nó đi; bất cứ thứ gì không làm vui lòng chúng ta, chúng ta chối bỏ nó, kháng cự với nó. Chúng ta không chịu dừng (tâm) lại để suy nghĩ rằng cách mình thích hay không thích về mọi sự thể là thực sự đúng đắn hay không! Chúng ta cứ nghĩ (chấp thủ, tà kiến, ngu mờ) rằng thứ gì không hòa hợp với ta (không làm mình sướng, vui, dễ chịu) là sai, xấu, dở; và thứ gì hòa hợp với ta (làm ta sướng, vui, dễ chịu) thì là đúng, tốt, hay.

This is where craving comes from. When we receive stimuli by way of eye, ear, nose, tongue, body or mind, a feeling of liking or disliking arises. This shows that the mind is full of attachment. So the Buddha gave us this teaching of impermanence. He gave us a way to contemplate things. If we cling to something which isn't permanent, then we'll experience suffering. There's no reason why we should want to have these things in accordance with our likes and dislikes. It isn't possible for us to make things be that way. We don't have that kind of authority or power. Regardless of however we may like things to be, everything is already the way it is. Wanting like this is not the way out of suffering.

Chính đây là nơi dục vọng khởi sinh. Mỗi khi chúng ta nhận kích thích thông qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm, thì một cảm thọ thích hay không thích khởi sinh. Điều này cho thấy tâm còn đầy những dính mắc. Do vậy, Phật đã chỉ dạy cho chúng ta về lẽ "vô thường". Phật chỉ cho chúng ta cách quán xét về mọi sự thể và hiện tượng. Nếu chúng ta cứ chấp thủ vào một thứ gì là thường hằng bất biến, thì điều đó chỉ làm chúng ta khổ mà thôi, (bởi vì làm gì có thứ gì thường hằng bất biến trên thế gian này). Chẳng có lý do gì chúng ta cứ mong muốn có mọi thứ như theo ý của chúng ta; chẳng có lý do gì chúng ta phải nhìn nhận mọi sự thể theo ý thích hay không thích của chúng ta. (Mọi sự thể thì đang ở ngoài tự nhiên, chúng đang ở trong trạng thái biến đổi tự nhiên của chúng, nhưng chúng ta cứ bắt chúng lại, và nhận lầm chúng theo ý thích hay không thích của ta, theo dục vọng của chúng ta. Điều đó là sai với bản chất tự nhiên thực sự của chúng). Bắt mọi sự hay nhìn nhận mọi thứ theo ý của ta là điều không thể. Chúng ta đâu có cái 'quyền' đó hay 'năng lực' đó. Dù chúng ta có thích thứ gì theo ý mình, thì nó vẫn diễn ra theo cách tự nhiên của nó. Dù ta có ghét thứ gì, nó vẫn là nó, nó vẫn có mặt và biến đổi theo đường lối tự nhiên của nó như tự bao giờ. Cứ tham muốn, mong muốn, mong cầu, dục vọng theo kiểu như vậy thì không phải là cách để giải thoát khỏi khổ.

Here we can see how the mind which is deluded understands in one way, and the mind which is not deluded understands in another way. When the mind with wisdom receives some sensation for example, it sees it as something not to be clung to or identified with. This is what indicates wisdom. If there isn't any wisdom then we merely follow our stupidity. This stupidity is not seeing impermanence, unsatisfactoriness and not-self. That which we like we see as good and right. That which we don't like we see as not good. We can't arrive at Dhamma this way - wisdom cannot arise. If we can see this, then wisdom arises.

Ở đây chúng ta có thể nhìn thấy cách cái tâm ngu mờ hiểu biết theo một cách, và cách cái tâm không còn ngu mờ hiểu biết theo cách khác. Khi cái tâm có trí tuệ đón nhận một cảm nhận, ví dụ, nó sẽ nhìn thấy đó là thứ không đáng để dính chấp, không đáng để nắm giữ và không đáng để nhận lấy đó là cảm nhận 'của ta'. Cách này cho thấy trí tuệ có mặt. Nếu không có trí tuệ, chúng ta chỉ đơn thuần chạy theo sự ngu mờ của mình, (cứ chạy theo những cảm nhận đó và nhận lầm chúng là 'mình'). Sự ngu mờ đó là không nhìn thấy bản chất 'vô thường, khổ và vô ngã' (của cái cảm nhận đó). Ngu mờ là cứ coi những thứ mình thích là tốt và đúng; coi những thứ mình ghét là xấu và bậy. Cách như vậy chẳng bao giờ đạt đến Giáo Pháp—trí tuệ chẳng bao giờ khởi sinh. Nhưng nếu chúng ta nhìn thấy rõ sự ngu mờ của chúng ta thì trí tuệ khởi sinh.

The Buddha firmly established the practice of insight meditation in his mind and used it to investigate all the various mental impressions. Whatever arose in his mind He investigated like this: even though we like it, it's uncertain. It's suffering, because these things which are constantly rising and falling don't follow the influence of our minds. All these things are not a being or a self, they don't belong to us. The Buddha taught us to see them just as they are. It is this principle on which we stand in practice.

Đức Phật đã thiết lập vững chắc trong tâm cách tu tập thiền minh sát và dùng nó để điều tra quán xét tất cả những nhận thức khác nhau của tâm. Bất cứ thứ gì khởi sinh trong tâm, Phật điều tra quán xét như vầy: ngay cả khi ta thích nó, nó cũng là không chắn chắn. Nó là khổ, bởi mọi thứ đều luôn luôn khởi sinh và biến mất không theo tác động của tâm. Tất cả mọi thứ đều không phải là ta, không phải của ta, không thuộc về ta. Phật đã dạy chúng ta nhìn xem chúng đúng như chúng là. Đó là nguyên lý và nguyên tắc của thiền minh sát.

We understand then, that we aren't able to just bring about various moods as we wish. Both good moods and bad moods are going to come up. Some of them are helpful and some of them are not. If we don't understand rightly regarding these things, then we won't be able to judge correctly. Rather we will go running after craving - running off following our desire.

Sau đó chúng ta hiểu rằng ta không thể làm gì để tạo ra những trạng thái tâm theo ý muốn của ta. Cả trạng thái tốt và trạng thái xấu đều xảy đến. Có thứ hữu ích, có thứ không. Nếu chúng ta không hiểu biết một cách đúng đắn về mọi thứ thì chúng ta không thể nào phán đoán một cách đúng đắn. Do vậy, ta cứ chạy theo dục vọng hoặc trốn chạy vì dục vọng.

Sometimes we feel happy and sometimes we feel sad, but this is natural. Sometimes we'll feel pleased and at other times disappointed. What we like we hold as good, and what we don't like we hold as bad. In this way we separate ourselves further and further and further from Dhamma. When this happens, we aren't able to understand or recognize Dhamma, and thus we are confused. Desires increase because our minds have nothing but delusion.

Có lúc ta thấy vui, có lúc ta thấy buồn, nhưng điều đó là tự nhiên. Có lúc chúng ta thấy hài lòng, có lúc chúng ta thấy thất vọng. Cái gì ta thích ta chấp nó là tốt, và thứ gì ta không thích ta chấp nó là xấu. Cứ như vậy thì chúng ta càng ngày càng tự cách xa với Giáo Pháp. Khi có điều gì xảy đến, ta không thể hiểu ra hay nhận ra Giáo Pháp, và do vậy chúng ta cứ mãi ngu mờ về mọi thứ. Tham muốn càng tăng bởi tâm chúng ta chẳng có gì ngoài sự ngu mờ.

This is how we talk about the mind. It isn't necessary to go far away from ourselves to find understanding. We simply see that these states of mind aren't permanent. We see that they are unsatisfactory and that they aren't a permanent self. If we continue to develop our practice in this way, we call it the practice of vipassanā or insight meditation. We say that it is recognizing the contents of our mind and in this way we develop wisdom.

Đây là cách chúng ta bàn về cái tâm. Không cần phải đi đâu xa mới hiểu được. Đơn giản chúng ta nhìn vào tâm và thấy nó không phải là một thứ thường hằng, ổn định, nhất quán. Chúng ta thấy nó là vô thường, và do đó là khổ và bất toại nguyện, không phải là một 'cái gì' cố định (như kiểu một linh hồn như mọi người vẫn lầm tưởng). Nếu cứ tu tập theo phương pháp này, chúng ta gọi đó là phương pháp minh sát (có nghĩa là nhìn thấy mọi sự thể một cách rõ ràng, minh mẫn, thấu suốt). Đó là vipassanā, là thiền minh sát. Nói nôm na hơn, đó là nhận biết những gì có mặt trong tâm ta, và bằng cách nhận biết từng thứ có mặt trong tâm như vậy, chúng ta phát triển trí tuệ.

Samatha (Calm) Meditation

Our practice of samatha is like this: We establish the practice of mindfulness on the in-and out-breath, for example, as a foundation or means of controlling the mind. By having the mind follow the flow of the breath it becomes steadfast, calm and still. This practice of calming the mind is called samatha meditation. It's necessary to do a lot of this kind of practice because the mind is full of many disturbances. It's very confused. We can't say how many years or how many lives it's been this way. If we sit and contemplate we'll see that there's a lot that doesn't conduce to peace and calm and a lot that leads to confusion!

§ Thiền Định (Samatha)

Cách tu tập thiền định của chúng ta là như vầy: chúng ta thiết lập sự tu tập "sự chánh niệm vào hơi-thở vào ra" trở thành một nền tảng hay một phương tiện để kiểm soát tâm. Bằng cách đặt tâm chú tâm theo luồng hơi thở, thì tâm sẽ nó sẽ trở nên vững vàng, tĩnh lặng và tĩnh tại (mạnh mẽ, yên lặng và bất động). Cách tu tập làm cho tâm được tĩnh lặng như vậy được gọi là thiền định (samatha). Điều cần thiết là phải thực tập nhiều cách tu tập này, bởi tâm này luôn đầy sự động vọng và bất an. Nó rất là ngu mờ và lầm lẫn. Rất khó nói tâm đã ngu mờ và động vọng như vậy đã bao nhiêu năm hay bao nhiêu kiếp sống. Nếu chúng ta ngồi xuống và quán sát chúng ta sẽ thấy có cả đống thứ làm cho tâm không bình an và tĩnh lặng, cả đống thứ làm cho tâm lầm lẫn và ngu mờ!

For this reason the Buddha taught that we must find a meditation subject which is suitable to our particular tendencies, a way of practice which is right for our character. For example, going over and over the parts of the body: hair of the head, hair of the body, nails, teeth and skin, can be very calming. The mind can become very peaceful from this practice. If contemplating these five things leads to calm, it's because they are appropriate objects for contemplation according to our tendencies. Whatever we find to be appropriate in this way, we can consider to be our practice and use it to subdue the defilements.

Vì lẽ này, Phật đã dạy chúng ta phải tìm một đề mục thiền phù hợp với căn cơ của mình, tìm một cách tu tập phù hợp với tính khí của mình. Ví dụ, việc ngồi quán sát liên tục về những bộ phận của thân này: tóc, lông, móng, răng và da, là một cách làm cho tâm rất tĩnh lặng. Tâm có thể rất bình an với cách tu tập này. Nếu việc quán niệm về năm bộ phận đầu tiên đó của tâm giúp tâm được bình lặng, thì năm bộ phận đó hẳn là những đối tượng phù hợp cho việc quán niệm đối với căn cơ của ta. Cái gì phù hợp theo cách như vậy thì chúng ta có thể coi đó là cách tu tập của mình và dùng nó để chinh phục những ô nhiễm trong tâm. (Nếu làm cho tâm được bình lặng và bất động, thì trước nhất ta có thể khống chế những ô nhiễm không còn khởi sinh trong tâm. Đó là giá trị của thiền định).

Another example is recollection of death. For those who still have strong greed, aversion and delusion and find them difficult to contain, it's useful to take this subject of personal death as a meditation. We'll come to see that everybody has to die, whether rich or poor. We'll see both good and evil people die. Everybody must die! Developing this practice we find that an attitude of dispassion arises. The more we practice the easier our sitting produces calm. This is because it's a suitable and appropriate practice for us. If this practice of calm meditation is not agreeable to our particular tendencies, it won't produce this attitude of dispassion. If the object is truly suited to us then we'll find it arising regularly, without great difficulty, and we'll find ourselves thinking about it often.

Một ví dụ khác, theo kinh mà Phật đã chỉ dạy, đó là cách quán niệm hay quán tưởng về sự chết. Đối với những ai còn quá nặng tham, sân, si, khó ở, khó chịu với mọi thứ và mọi người, người đó nên lấy đề tài cái chết làm đề mục để thiền. Chúng ta đi đến hiểu biết mọi người đều phải chết, dù ai giàu hay nghèo, dù ai tốt hay xấu. Tất cả mọi người đều phải chết! Tu tập cách đó giúp hiểu biết về lẽ thực này sẽ giúp khởi sinh sự chán bỏ, sự không còn tham chấp vào cuộc đời này nữa. (Không còn bảo vệ cái 'ta' và chiến đấu bằng mọi giá cho cái 'ta' đoản mệnh này nữa). Càng tu tập (thiền quán) về lẽ thực này, tâm càng được tĩnh lặng. Đó là nhờ có cách tu tập phù hợp và đúng đắn. Nếu cách thiền định (đối tượng, đề mục thiền) không phù hợp với căn cơ của chúng ta, thì nó sẽ không tạo ra thái độ chán bỏ hay từ bỏ. (Ví dụ thiền về sự chết mà người thiền vẫn không "thấm nhuần" lẽ thực về cái chết thì làm sao người ấy chịu buông bỏ tham, sân, si hoặc chịu chán bỏ cái 'ta' và những cái 'của ta'). Nếu đối tượng thiền là đúng phù hợp với ta thì sự chán bỏ sẽ khởi sinh thường xuyên, không mấy khó khăn, và chúng ta sẽ luôn suy nghĩ và thấm nhuần về sự chán bỏ đó.

Regarding this we can see an example in our everyday lives. When lay people bring trays of many different types of food to offer the monks, we taste them all to see which we like. When we have tried each one we can tell which is most agreeable to us. This is just an example. That which we find agreeable to our taste we'll eat, we find most suitable. We won't bother about the other various dishes.

Về chỗ này, ta có thể nhìn thấy trong sự sống hàng ngày. Khi những Phật tử tại gia mang đồ ăn đến chùa cũng dường cho các tăng, chúng tôi nếm tất cả các món để biết những món nào chúng tôi thích. Và sau đó chúng tôi biết món nào phù hợp nhất với khẩu vị của chúng tôi. Ví dụ này, chúng tôi chọn những món chúng tôi thích, và sau đó chúng tôi chọn ra món nào là thích hợp nhất. Lúc đó chúng tôi không cần đụng đến những món còn lại (chẳng hạn, để nguyên cho người khác ăn, vì những món đó có thể rất phù hợp với khẩu vị của người khác).

The practice of concentrating our attention on the in-and out-breath is an example of a type of meditation which is suitable for us all. It seems that when we go around doing various different practices, we don't feel so good. But as soon as we sit and observe our breath we have a good feeling, we can see it clearly. There's no need to go looking far away, we can use what is close to us and this will be better for us. Just watch the breath. It goes out and comes in, out and in - we watch it like this. For a long time we keep watching our breathing in and out and slowly our mind settles. Other activity will arise but we feel like it is distant from us. Just like when we live apart from each other and don't feel so close anymore. We don't have the same strong contact anymore or perhaps no contact at all.

Việc tu tập thiền định bằng cách chú tâm vào hơi-thở vào và ra là ví dụ về một loại thiền phù hợp cho hầu hết tất cả chúng ta. (Giống như cơm là món chính phù hợp cho hầu hết mọi người vậy, bên cạnh những món khác nhau phù hợp cho mỗi người khác nhau). Dường như khi chúng ta cứ tu nhiều cách tu khác nhau, chúng ta không cảm thấy thấy tốt. Nhưng khi chúng ta ngồi xuống và quan sát hơi-thở chúng ta cảm thấy tốt, chúng ta có thể nhìn thấy hơi thở một cách rõ ràng. Không cần phải đi tìm ở đâu xa, chúng ta có thể dùng cái gần gũi nhất của ta, và cách đó chắc là tốt nhất. Chỉ cần quan sát hơi-thở. Nó đi vào, đi ra—chúng ta cứ quan sát nó. Chúng ta cứ liên tục quan sát hơi thở đi vào đi ra trong một thời gian thì tâm sẽ từ từ lắng lặn xuống. Những hành vi khác của tâm vẫn còn khởi sinh, nhưng chúng ta cảm thấy chúng ở xa. Giống như chúng ta đã sống cách xa khỏi chúng và không còn cảm thấy gần với chúng nữa. Chúng ta không còn tiếp xúc mạnh với chúng nữa, hoặc có lẽ không còn tiếp xúc với chúng nữa.

When we have a feeling for this practice of mindfulness of breathing, it becomes easier. If we keep on with this practice we gain experience and become skilled at knowing the nature of the breath. We'll know what it's like when it's long and what it's like when it's short.

Looking at it one way we can talk about the food of the breath. While sitting or walking we breathe, while sleeping we breathe, while awake we breathe. If we don't breathe then we die.

If we think about it we see that we exist only with the help of food. If we don't eat ordinary food for ten minutes, an hour or even a day, it doesn't matter. This is a course kind of food. However, if we don't breathe for even a short time we'll die. If we don't breathe for five or ten minutes we would be dead. Try it!

Khi chúng ta đã "bắc" được cách tu tập chánh niệm về hơi-thở như vậy, sự tu tập sẽ trở nên dễ dàng. Nếu chúng ta tiếp tục tu tập phương pháp này chúng ta sẽ đạt được những trải nghiệm và trở nên thiện thạo trong việc hiểu biết bản chất của hơi-thở. Chúng ta biết được hơi thở dài và hơi thở ngắn là gì.

Theo một cách nhìn khác, chúng ta có thể nói về hơi thở như thức ăn. Khi đang ngồi hoặc đang đi, chúng ta thở; khi đang ngủ, chúng ta thở; khi đang thức, chúng ta thở. Nếu chúng ta không thở, ta chết. Người ta thường chỉ nghĩ về những thứ thức ăn khác, nếu không ăn trong vài giờ, vài ngày, chưa chắc chúng ta phải chết. Nhưng nếu chúng ta không thở trong một chốc lát, hay trong năm mười phút, chúng ta chết ngay. Hãy thử đi!. Vậy "thức ăn hơi-thở" mới là quan trọng nhất.

One who is practicing mindfulness of breathing should have this kind of understanding. The knowledge that comes from this practice is indeed wonderful. If we don't contemplate then we won't see the breath as food, but actually we are ''eating'' air all the time, in, out, in, out... all the time. Also you'll find that the more you contemplate in this way, the greater the benefits derived from the practice and the more delicate the breath becomes. It may even happen that the breath stops. It appears as if we aren't breathing at all. Actually, the breath is passing through the pores of the skin. This is called the ''delicate breath''. When our mind is perfectly calm, normal breathing can cease in this way. We need not be at all startled or afraid. If there's no breathing what should we do? Just know it! Know that there is no breathing, that's all. This is the right practice here.

Người bắt đầu chú tâm đến hơi thở, bắt đầu tu tập chánh niệm vào hơi thở sẽ có được sự hiểu biết đó. Kiến thức có được từ sự tu tập này đúng thực là rất hay. Nếu chúng ta không quán xét theo (chánh niệm) về hơi thở, chúng ta sẽ không biết được hơi thở là một loại thức ăn quan trọng nhất, thực là, chúng ta phải "ăn" dưỡng khí liên tục liên tục, và không ngừng...thở vào, thở ra suốt mọi thời gian. Thêm nữa, ta nhận ra rằng khi chúng ta càng tu tập chánh niệm về hơi thở, ta càng thu được nhiều lợi lạc từ việc tu tập đó, và hơi thở càng lúc càng trở nên tế nhị. Hơi thở càng trở nên vi tế đến nỗi ta cứ nghĩ là ta ngừng thở, hoặc như hơi thở đã ngừng lại. Thực ra, hơi thở đi qua các lỗ chân lông trên da. Điều này chúng ta gọi là "sự thở vi tế". Khi tâm ta đã hoàn toàn tĩnh lặng, hơi thở bình thường sẽ 'ngừng' thở theo cách như vậy. Chúng ta không cần phải sợ hay hốt hoảng về điều này. Nếu hơi thở không còn thì ta nên làm gì? Chỉ cần nhận biết nó như vậy! Nhận biết rõ sự không còn hơi thở, chỉ cần làm vậy. Đây là cách tu tập đúng đắn.

Here we are talking about the way of samatha practice, the practice of developing calm. If the object which we are using is right and appropriate for us, it will lead to this kind of experience. This is the beginning, but there is enough in this practice to take us all the way, or at least to where we can see clearly and continue in strong faith. If we keep on with contemplation in this manner, energy will come to us. This is similar to the water in an urn. We put in water and keep it topped up. We keep on filling the urn with water and thereby the insects which live in the water don't die. Making effort and doing our everyday practice is just like this. It all comes back to practice. We feel very good and peaceful.

Ở đây chúng ta đang nói về phương pháp thiền định (samatha), cách tu để tạo ra sự tĩnh lặng của tâm, đó là sự định tâm. Nếu đối tượng thiền ta chọn là đúng đắn và phù hợp, nó sẽ dẫn chúng ta đến loại trải nghiệm như vậy. Đây là bước khởi đầu, nhưng tu tập như vậy cũng đủ để chúng ta tu tiến suốt con đường, hoặc ít nhất cũng đạt đến chỗ chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng và tiếp tục tu tập với một lòng tin tưởng về phương pháp tu tập này. Nếu chúng ta tiếp tục quán niệm theo phương pháp này, năng lượng sẽ sản sinh trong ta. Giống như nước trong lu. Chúng ta tiếp tục đổ nước vào và giữ nước đầy. Nỗ lực tu tập hằng ngày theo cách như vậy, đừng để nước bị lưng hay vơi cạn trong lu. Cứ luôn luôn quay lại tu tập. Chúng ta sẽ thấy rất tốt lành và bình an.

This peacefulness comes from our one-pointed state of mind. This one-pointed state of mind, however, can be very troublesome, since we don't want other mental states to disturb us. Actually, other mental states do come and, if we think about it, that in itself can be the one-pointed state of mind. It's like when we see various men and women, but we don't have the same feeling about them as we do about our mother and father. In reality all men are male just like our father and all women are female just like our mother, but we don't have the same feeling about them. We feel that our parents are more important. They hold greater value for us.

Sự bình an có được từ sự nhất-điểm của tâm. Tuy nhiên, trạng thái nhất-điểm này của tâm cũng rất nhiêu khê, rắc rối, bởi chúng ta không muốn những trạng thái tâm khác xen vào quấy nhiễu ta. Thực ra, trạng thái khác của tâm cũng xảy đến, mà bản thân nó cũng có thể là trạng thái nhất-điểm của tâm. Cũng giống như khi ta nhìn những đàn ông và phụ nữ khắp nơi, nhưng chúng ta không có cùng cảm giác mà chúng ta có đối với cha và mẹ mình. Thực là, mọi người đàn ông đều giống như cha mình và mọi người phụ nữ cũng giống như mẹ mình, nhưng do ta không cảm giác về họ như cảm giác về cha và về mẹ mình. Chúng ta cảm giác cha mẹ quan trọng hơn, vì cha mẹ có giá trị với ta nhiều hơn mọi người.

This is how it should be with our one-pointed state of mind. We should have the same attitude towards it as we would have towards our own mother and father. All other activity which arises we appreciate in the same way as we feel towards men and women in general. We don't stop seeing them, we simply acknowledge their presence and don't ascribe to them the same value as our parents.

Ta nên có cách nhìn khách quan và công bằng hơn đối với trạng thái nhất-điểm của tâm. Giống như cách chúng ta nên nhìn mọi người với cảm giác giống như cha mẹ mình. Tất cả mọi hành vi khởi sinh thì chúng ta trân trọng như nhau, mọi trạng thái tâm đều được coi như nhau. Chúng ta không ngừng xem xét từng mỗi trạng thái, xem xét từng cái một cách 'vô tư', đơn giản chúng ta nhận biết sự có mặt của chúng và đừng nên thiên vị trạng thái nào.

Undoing the Knot

When our practice of samatha arrives at calm, the mind will be clear and bright. The activity of mind will become less and less. The various mental impressions which arise will be fewer. When this happens great peace and happiness will arise, but we may attach to that happiness. We should contemplate that happiness as uncertain. We should also contemplate unhappiness as uncertain and impermanent. We'll understand that all the various feelings are not lasting and not to be clung to. We see things in this way because there's wisdom. We'll understand that things are this way according to their nature.

§ Tháo Gỡ Nút Thắt

Khi sự tu tập thiền định của chúng ta đạt đến sự tĩnh lặng, tâm sẽ được trong sáng và sáng tỏ. Hoạt động của tâm sẽ dần dần ít đi. Những nhận thức khác nhau của tâm (tâm tưởng) sẽ trở nên ít đi. Lúc này khởi sinh sự bình an và hạnh phúc lớn lao, nhưng chúng ta có thể bị dính mắc (tham đắm) vào niềm hỷ lạc đó. Chúng ta nên quán niệm rằng trạng thái hỷ lạc đó cũng là không chắc chắn. Hỷ lạc là không chắc chắn và vô thường, bất hạnh và khổ đau cũng là không chắc chắn và vô thường: chúng ta cũng nên quán niệm như vậy. Chúng ta hiểu biết rõ tất cả mọi cảm thọ khác nhau đều không tồn tại lâu và không đáng để chúng ta bám chấp vào chúng. Chúng ta nhìn thấy mọi thứ theo cách như vậy, bởi vì cách đó là trí tuệ. Chúng ta hiểu biết mọi sự theo cách như vậy đúng theo bản chất sinh-diệt tự nhiên của chúng.

If we have this kind of understanding it's like taking hold of one strand of a rope which makes up a knot. If we pull it in the right direction, the knot will loosen and begin to untangle. It'll no longer be so tight or so tense. This is similar to understanding that it doesn't always have to be this way. Before, we felt that things would always be the way they were and, in so doing, we pulled the knot tighter and tighter. This tightness is suffering. Living that way is very tense. So we loosen the knot a little and relax. Why do we loosen it? Because it's tight! If we don't cling to it then we can loosen it. It's not a permanent condition that must always be that way.

Nếu chúng ta có được loại hiểu biết như vậy thì điều đó giống như nắm chắc một đầu dây thừng tạo nên nút thắc. Nếu ta kéo ra đúng hướng, nút thắt sẽ lỏng ra, bung ra và bị tháo ra. Không còn bị thắt rối thắc chặt ở đó nữa. Điều này cũng sự hiểu ra rằng mọi thứ không phải nhất thiết luôn luôn là vầy, là vậy. Trước đó, chúng ta cứ nghĩ mọi thứ luôn luôn là như vậy, nên chúng ta cứ chấp cứng như vậy, và do đó cứ như càng ngày càng siết chặt thêm nút thắt, càng thêm khó gỡ. Những nút thắt là sự dính mắc và khổ ở trên đời. Sống theo kiểu bị dính mắc ràng buộc như vậy là khổ đau. Vì vậy, chúng ta phải tháo gỡ nút thắt để bớt bị xiết chặt, bớt bị khổ đau. Tại sao chúng ta cần phải tháo lỏng nút thắt? Bởi vì nó bị thắt chặt!. Nếu chúng ta không thắt chặt, không bị dính chặt vào chúng, chúng ta có thể tháo gỡ và tự do khỏi chúng. Mọi trạng thái đều là vô thường và có thể được thay đổi. Không phải các nút thắt là bế tắc, là bó tay, là khổ mãi mãi.

We use the teaching of impermanence as our basis. We see that both happiness and unhappiness are not permanent. We see them as not dependable. There is absolutely nothing that's permanent. With this kind of understanding we gradually stop believing in the various moods and feelings which come up in the mind. Wrong understanding will decrease to the same degree that we stop believing in it. This is what is meant by undoing the knot. It continues to become looser. Attachment will be gradually unrooted.

Chúng ta dùng giáo lý về vô thường làm căn bản tu hành. Chúng ta nhìn thấy sướng và khổ đều không cố định, luôn luôn thay đổi. Chúng ta thấy chúng không phải là thứ ổn định để chúng ta bám giữ. Tuyệt đối không có gì là thường hằng cả. Với loại hiểu biết này, chúng ta dần dần không còn tin vào (hay chạy theo) những trạng thái và những cảm thọ khác nhau xảy đến trong tâm. Sự hiểu sai lầm (tà kiến) cũng sẽ dần dần giảm bớt tương ứng với mức độ bớt tin của chúng ta. Điều này giống với ý nghĩa của việc tháo gỡ nút thắt. Nó sẽ càng lúc càng nới lỏng ra. Sự dính mắc, ràng buộc, chấp thủ, tà kiến sẽ dần dần được gỡ bỏ.

Disenchantment

When we come to see impermanence, unsatisfactoriness and not-self in ourselves, in this body and mind, in this world, then we'll find that a kind of boredom will arise. This isn't the everyday boredom that makes us feel like not wanting to know or see or say anything, or not wanting to have anything to do with anybody at all. That isn't real boredom, it still has attachment, we still don't understand. We still have feelings of envy and resentment and are still clinging to the things which cause us suffering.

§ Sự Chán Bỏ

Khi ta đi đến nhìn thấy tính 'vô thường, khổ và vô ngã' bên trong ta, trong tấm thân và tâm này, trong thế giới này, thì lúc đó chúng ta sẽ thấy một loại sự chán-bỏ khởi sinh trong tâm. Nó không phải là sự chán bỏ chán chường thông thường, không phải là sự chán nhìn, chán ăn, chán làm... mang tính tiêu cực theo nghĩa thông thường. Những cái chán đó không phải là sự chán bỏ thực sự, vì trong đó vẫn còn cả đống dính mắc và ràng buộc và tham chấp, vì trong đó người chán vẫn chưa hiểu biết gì về những lẽ thực của sự sống. Trong những cái chán thông thường, chúng ta vẫn còn tức giận, ghét bỏ, sân, si và vẫn còn dính chấp vào những thứ làm chúng ta khổ sở và chán chường.

The kind of boredom which the Buddha talked about is a condition without anger or lust. It arises out of seeing everything as impermanent. When pleasant feeling arises in our mind, we see that it isn't lasting. This is the kind of boredom we have. We call it nibbidā or disenchantment. That means that it's far from sensual craving and passion. We see nothing as being worthy of desire. Whether or not things accord with our likes and dislikes, it doesn't matter to us, we don't identify with them. We don't give them any special value.

Loại chán-bỏ mà Đức Phật đã nói là một tình trạng chán-bỏ không có sân giận, tham chấp hay tham dục gì trong đó. Sự chán-bỏ đó khởi sinh từ việc nhìn thấy mọi sự thể và mọi sự sống đều là vô thường. Khi cảm giác dễ chịu khởi sinh, chúng ta nhìn thấy và biết nó không tồn tại lâu. Đó là sự chán bỏ ta có được. Đó là sự chán-bỏ, sự từ bỏ (nibbidā), sự không còn mê chấp vài thứ gì trên thế gian. Điều đó có nghĩa là không còn dính líu với dục vọng và si mê nữa. Chúng ta nhìn thấy chẳng có thứ gì đáng để tham muốn nữa. Dù mọi sự có làm ta vui hay buồn, có làm ta sướng hay khổ, có diễn ra theo ý ta hay không... điều đó cũng chẳng ảnh hưởng gì đến ta, vì chúng ta không nhận chúng là gì của 'ta' cả. Chúng ta chẳng coi chúng là một chút giá trị nào. Đó chỉ là những thứ vô thường, có rồi mất, đến đi, sinh diệt, phù du, tạm bợ, bất toại nguyện.

Practicing like this we don't give things reason to cause us difficulty. We have seen suffering and have seen that identifying with moods can not give rise to any real happiness. It causes clinging to happiness and unhappiness and clinging to liking and disliking, which is in itself the cause of suffering. When we are still clinging like this we don't have an even-minded attitude towards things. Some states of mind we like and others we dislike. If we are still liking and disliking, then both happiness and unhappiness are suffering. It's this kind of attachment which causes suffering. The Buddha taught that whatever causes us suffering is in itself unsatisfactory.

Tu tập theo hướng tâm như vậy không tạo ra lý do để mọi thứ gây khó khổ cho chúng ta. Chúng ta đã nhìn thấy khổ đau và đã nhìn thấy sự chạy theo (dính chấp) những trạng thái tâm không thể nào tạo ra niềm hạnh phúc đích thực nào. Cách đó chỉ tạo ra sự dính mắc và ràng buộc và tham đắm vào những thứ hạnh phúc và bất hạnh, sướng và khổ, và dính chấp theo sự thích và không thích vốn là nguồn gốc của mọi sự khổ. (Còn dính chấp là còn khổ). Khi chúng ta còn chấp nê đối đãi như vậy, chúng ta không có được một thái độ bình-tâm và buông-xả đối với mọi sự. Ta cứ dính líu, thích trạng thái này, ghét trạng thái kia; tham chỗ này, sân chỗ kia. Nếu chúng ta cứ thích và không thích thì hạnh phúc và bất hạnh cũng đều là khổ. Đây là loại gông cùm tạo ra khổ đau. Đức Phật dạy bất cứ thứ gì bản thân nó là bất toại nguyện thì sẽ gây khó khổ cho chúng ta.

The Four Noble Truths

Hence we understand that the Buddha's teaching is to know suffering and to know what causes it to arise. And further, we should know freedom from suffering and the way of practice which leads to freedom. He taught us to know just these four things. When we understand these four things we'll be able to recognize suffering when it arises and will know that it has a cause. We'll know that it didn't just drift in! When we wish to be free from this suffering, we'll be able to eliminate its cause.

§ Tứ Diệu Đế

Chúng ta đã từng nghe giáo lý của Phật là hiểu biết về khổ và hiểu biết nguyên nhân tạo ra khổ. Và thêm nữa, chúng ta hiểu biết về sự tự do khỏi khổ và con đường dẫn đến sự tự do đó. Phật dạy chúng ta chỉ cần biết về bốn điều này. Khi chúng ta hiểu biết về bốn điều này, chúng ta sẽ có thể nhận biết khổ đau khi nó khởi sinh và biết rõ về nguyên nhân của nó. Chúng ta biết khổ không phải tự dưng mà có! Khi chúng ta muốn giải thoát khỏi khổ đau thì chúng ta phải trừ diệt nguyên nhân gây ra khổ.

Why do we have this feeling of suffering, this feeling of unsatisfactoriness? We'll see that it's because we are clinging to our various likes and dislikes. We come to know that we are suffering because of our own actions. We suffer because we ascribe value to things. So we say, know suffering, know the cause of suffering, know freedom from suffering and know the Way to this freedom. When we know about suffering we keep untangling the knot. But we must be sure to untangle it by pulling in the right direction. That is to say, we must know that this is how things are. Attachment will be torn out. This is the practice which puts an end to our suffering.

Vì sao chúng ta có cảm giác khổ, cảm giác bất toại nguyện? Chúng ta sẽ nhìn thấy: sở dĩ chúng ta khổ là do chúng ta còn dính mắc vào đủ loại sự thích và không thích liên tục liên tục. Chúng ta đi đến hiểu biết rằng chúng ta bị khổ là do những hành động (nghiệp) của chúng ta. Chúng ta khổ vì chúng ta gán này gán nọ, gán giá trị vào những thứ vô thường và vô giá trị. Do vậy chúng ta nói: Biết về khổ, biết về nguyên nhân khổ, biết về sự thoát khổ, và biết về con đường Đạo dẫn đến sự thoát khổ. Khi chúng ta hiểu biết về khổ, chúng ta tiếp tục tháo gỡ nút thắt. Nhưng chúng ta phải nhớ tháo gỡ nó bằng cách kéo ra theo hướng đúng đắn. Nói cách khác, chúng ta phải biết rõ đó là cách mọi sự có mặt, biết cách của nút thắt thì mới gỡ được nút thắt. Sự dính chấp, ràng buộc, tà kiến sẽ bị phá bỏ. Đây là cách tu tập để chấm dứt mọi sự khổ của chúng ta.

Know suffering, know the cause of suffering, know freedom from suffering and know the path which leads out of suffering. This is magga (path). It goes like this: right view, right thought, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration. When we have the right understanding regarding these things, then we have the path. These things can put an end to suffering. They lead us to morality, concentration and wisdom (sīla, samādhi, paññā).

Biết (sự thật) về khổ, biết nguyên nhân (nguồn gốc) khổ, biết về sự tự do (giải thoát) khỏi khổ, và biết về con đường (đạo) dẫn đến chấm dứt khổ. Đây là con đường đạo (magga). Con đường chánh đạo là có tám phần hữu quan với nhau: hiểu biết đúng đắn (chánh kiến), suy nghĩ đúng đắn (chánh tư duy), lời nói đúng đắn (chánh ngữ), hành động đúng đắn (chánh nghiệp), công việc nghề nghiệp đúng đắn (chánh mạng), tu tập sự chú tâm tỉnh giác đúng đắn (chánh niệm), và tu tập sự định tâm đúng đắn (chánh định). Khi chúng ta có cách nhìn đúng đắn (chánh kiến) về mọi sự vật và hiện tượng thì ta có được con đường (đạo). (Chánh kiến đi đầu trong chánh đạo. Tà kiến thì đi hoài trong tà đạo và vòng luân hồi sinh tử). Những phần trong Bát Chánh Đạo có thể dẫn đến chấm dứt mọi sự khổ và sinh tử luân hồi. Tám phần đó dẫn chúng ta đạt đến đức hạnh (giới), sự định tâm (định) và sự hiểu biết minh sát, trí tuệ (tuệ). Tám phần đó tạo thành ba mảng của con đường đạo, đó là giới-định-tuệ (sīla, samādhi, paññā).

We must clearly understand these four things. We must want to understand. We must want to see these things in terms of reality. When we see these four things we call this ''Sacca Dhamma''. Whether we look inside or in front or to the right or left, all we see is Sacca Dhamma. We simply see that everything is the way it is. For someone who has arrived at Dhamma, someone who really understands Dhamma, wherever he goes, everything will be Dhamma.

Chúng ta phải hiểu biết một cách rõ ràng về bốn điều. Ta phải muốn hiểu biết rõ. Ta phải muốn nhìn thấy bốn điều sự thật đó bằng thực-tại. Khi chúng ta nhìn thấy bốn sự thật đó trong thực-tại đúng là chân lý không thể chối cãi được, ta gọi bốn chân lý đó là Chân Pháp (Sacca Dhamma). Dù chúng ta có nhìn vào trong, nhìn trước, nhìn trái, hay nhìn phải, tất cả những gì ta nhìn thấy luôn là Chân Pháp. Có nghĩa là chúng ta chỉ nhìn thấy mọi sự đúng thực như chúng là, nhìn thấy mọi sự diễn ra theo cách tự nhiên của chúng. Đối với ai đã đạt đến Giáo Pháp (Dhamma), ai đã thực sự hiểu biết Giáo Pháp, thì dù người đó có đi đâu, mọi sự sẽ đều là Giáo Pháp.


Chương 23

JUST DO IT - CỨ LÀM NHƯ VẬY

Just keep breathing in and out like this. Don't be interested in anything else. It doesn't matter even if someone is standing on their head with their ass in the air. Don't pay it any attention. Just stay with the in-breath and the out-breath. Concentrate your awareness on the breath. Just keep doing it.

Cứ thực tập thở ra-thở vào như vầy. Đừng quan tâm đến thứ gì khác. Cho dù có ai đang chổng mông lên trời chống đầu xuống đất trước mặt bạn. Đừng thèm chú ý đến đó. Cứ ở yên với hơi thở-vào và hơi thở-ra. Tập trung sự chú tâm vào hơi thở. Cứ làm như vậy. Cứ tập như vậy.

Don't take up anything else. There's no need to think about gaining things. Don't take up anything at all. Simply know the in- breath and the out-breath. The in-breath and the out-breath. Bud on the in-breath; dho on the out-breath. Just stay with the breath in this way until you are aware of the in-breath and aware of the out-breath....aware of the in-breath....aware of the out-breath. Be aware in this way until the mind is peaceful, without irritation, without agitation, merely the breath going out and coming in. Let your mind remain in this state. You don't need a goal yet. It's this state that is the first stage of practice.

Đừng để ý thứ gì. Không cần phải phải nghĩ đến việc đạt được thứ gì. Đừng để ý thứ gì. Chỉ đơn thuần biết hơi thở-vào và hơi thở-ra. Hơi thở-vào và hơi thở-ra. Thầm đọc (niệm) chữ Bud khi thở vào; niệm chữ dho khi thở ra. (Giống niệm chữ Đức khi thở vào, niệm chữ Phật khi thở ra). Cứ an trú vào hơi thở theo cách như vậy cho đến khi bạn ý thức (tỉnh giác) được về hơi thở vào và ý thức được về hơi thở ra... tỉnh giác về hơi thở vào và tỉnh giác về hơi thở ra. Ý thức tỉnh giác theo cách như vậy cho đến khi tâm được bình an, không còn bị kích thích, không còn bị quấy động, chỉ còn lại hơi thở đi vào và đi ra. Để yên cho tâm ở trong trạng thái này. Chưa cần có mục tiêu gì cả. Đây chính là trạng thái đầu tiên của giai đoạn tu tập đầu tiên.

If the mind is at ease, if it's at peace then it will be naturally aware. As you keep doing it, the breath diminishes, becomes softer. The body becomes pliable, the mind becomes pliable. It's a natural process. Sitting is comfortable: you're not dull, you don't nod, you're not sleepy. The mind has a natural fluency about whatever it does. It is still. It is at peace. And then when you leave the samādhi, you say to yourself, 'Wow, what was that?' You recall the peace that you've just experienced. And you never forget it.

Nếu tâm được dễ chịu, nếu tâm được bình an thì tự nhiên nó sẽ tỉnh giác. Khi bạn cứ tiếp tục thực tập như vậy, hơi thở sẽ dần dần dịu êm, nhẹ đi. Thân trở nên dễ chịu, dễ ở; tâm trở nên dễ chịu, ngoan ngoãn. Đó là tiến trình tự nhiên. Sự ngồi cũng dễ chịu: bạn không đờ đẫn, không gục đầu, không buồn ngủ. Tâm có một sự trôi chảy, nhạy bén với bất cứ việc gì nó làm. Nó tĩnh tại. Nó được bình an. Và khi bạn rời khỏi trạng thái đạt định (samādhi), bạn tự hỏi mình rằng: 'Ồ, đó là cái gì vậy?'. Bạn tưởng nhớ lại trạng thái bình an mà bạn mới vừa trải nghiệm. Và bạn chẳng bao giờ quên trạng thái đó.

The thing which follows along with us is called sati, the power of recollection, and sampajañña, self-awareness. Whatever we say or do, wherever we go, on almsround or whatever, in eating the meal, washing our almsbowl, then be aware of what it's all about. Be constantly mindful. Follow the mind.

Hai thứ theo ta sau đó được gọi là sự nhớ, hay sự "niệm" (sati): khả năng tưởng nhớ, niệm lực, khả năng chú tâm và "sự hiểu biết rõ ràng" (sampajañña): sự tự tỉnh giác, sự luôn ý thức, sự thường biết. (Sati là niệm, vì chúng ta luôn nói về sự tu tập sự chú tâm một cách đúng đắn, nên thường dùng luôn chữ "chánh niệm"). Khi ta đang làm gì, khi ta đang nói, khi ta đang đi, khi ta đang đi khất thực, khi ta đang ăn, khi ta đang uống, khi ta đang rửa chén..., ta luôn ý thức (tỉnh giác) về điều đang làm. Chánh niệm một cách liên tục. Chú tâm liên tục. Thường biết, luôn ý thức rõ về mọi điều mình đang làm.

When you're practising walking meditation (cankama), have a walking path, say from one tree to another, about 50 feet in length. Walking cankama is the same as sitting meditation. Focus your awareness: ''Now, I am going to put forth effort. With strong recollection and self-awareness I am going to pacify my mind.'' The object of concentration depends on the person. Find what suits you. Some people spread mettā to all sentient beings and then leading with their right foot, walk at a normal pace, using the mantra 'Buddho' in conjunction with the walking. Continually being aware of that object. If the mind becomes agitated then stop, calm the mind and then resume walking. Constantly self-aware. Aware at the beginning of the path, aware at every stage of the path, the beginning, the middle and the end. Make this knowing continuous.

Khi thực tập cách đi thiền (đi kinh hành, cankama), hãy chọn một lối đi, ví dụ từ một cây này đến một cây kia, khoảng 20-30m. Đi thiền cũng tương tự như ngồi thiền. Tập trung sự chú tâm tỉnh giác: "Bây giờ tôi sẽ nỗ lực. Với sự chánh niệm mạnh mẽ và sự hiểu biết rõ ràng, tôi sẽ làm cho tâm tôi được bình an". Đối tượng tập trung là tùy chọn bởi mỗi người. Chọn đối tượng nào phù hợp với mình. Một số người phóng trải tâm từ (mettā) đến mọi người và chúng sinh, rồi bắt đầu nhấc bàn chân phải, bước đi theo bước bình thường, dùng chữ chú niệm 'Bud-dho' (Đức-Phật) theo mỗi nhịp bước chân. Tiếp tục chú tâm vào đối tượng đó. Nếu tâm bị kích thích, thì dừng lại, làm tâm an tĩnh lại, rồi tiếp tục bước đi. Tiếp tục và liên tục tự tỉnh giác, hiểu biết rõ ràng. Tỉnh giác từ vào chỗ bắt đầu đoạn đường, tỉnh giác vào từng chỗ của đoạn đường, từ bắt đầu, giữa, và kết thúc đoạn đường. Làm cho sự hiểu biết này liên tục và rõ ràng trong suốt đoạn đường đi thiền.

This is a method, focussing on walking cankama. Walking cankama means walking to and fro. It's not easy. Some people see us walking up and down and think we're crazy. They don't realize that walking cankama gives rise to great wisdom. Walk to and fro. If you're tired then stand and still your mind. Focus on making the breathing comfortable. When it is reasonably comfortable then switch the attention to walking again,

The postures change by themselves. Standing, walking, sitting, lying down. They change. We can't just sit all the time, stand all the time or lie down all the time. We have to spend our time with these different postures, make all four postures beneficial. This is the action. We just keep doing it. It's not easy.

Đây là một phương pháp, tập trung vào bước đi kinh hành. Đi thiền có nghĩa là đi qua và đi lại trên một đoạn đường. Thấy vậy chứ không dễ tập đâu. Nhiều người nhìn chúng ta đi thiền, đi qua đi lại, họ nghĩ chúng ta khùng. Họ không biết đi thiền giúp khởi sinh trí tuệ lớn lao. Đi qua và đi lại. Nếu mệt, ta cứ dừng lại và làm tâm an tĩnh. Tập trung vào làm cho hơi thở thoải mái, dễ chịu. Khi tâm được dễ chịu, thoải mái, thì ta chuyển sự chú tâm về lại bước chân.

Những tư thế thiền sẽ tự nhiên hoán đổi lẫn nhau. Đứng, đi, ngồi, nằm. Chúng ta tự thay đổi, thay phiên. Chúng ta không thể đứng hoài, hay ngồi hoài, hay nằm hoài, hay đi hoài. Chúng ta phải phân bổ thời lượng thích hợp cho những tư thế khác nhau, làm cho các tư thế thiền đều mang lại ích lợi cho việc tu thiền của mình. Đó là hành động, đó là hành thiền, thực hành thiền. Chúng ta thực hành liên tục. Đó là việc không dễ dàng lắm đâu.

To make it easy to visualise, take this glass and set it down here for two minutes. When the two minutes are up then move it over there for two minutes. Then move it over here for two minutes. Keep doing that. Do it again and again until you start to suffer, until you doubt, until wisdom arises. ''What am I thinking about, lifting a glass backwards and forwards like a madman.'' The mind will think in its habitual way according to the phenomena. It doesn't matter what anyone says. Just keep lifting that glass. Every two minutes, okay - don't daydream, not five minutes. As soon as two minutes are up then move it over here. Focus on that. This is the matter of action.

Để dễ hình dung, hãy lấy một cái ly và đặt xuống đây khoảng hai phút. Sau hai phút đặt cái ly ra trước. Sau hai phút, đặt cái ly về lại đây. Cứ làm như vậy. Cứ làm như vậy cho đến khi bạn bắt đầu thấy mệt chán, đến khi bạn nghi ngờ, đến khi trí tuệ khởi sinh. "Tôi đang nghĩ gì vậy, sao cứ đặt ly chỗ này, rồi đặt qua chỗ kia, rồi đặt lại chỗ này, giống như đồ khùng vậy". Tâm sẽ nghĩ theo cách thói quen chạy theo hiện tượng của nó. Nó không quan tâm ai nói gì. Nó chỉ liên tục cầm đặt cái ly ở đây, đặt lên trước, đăỵ lại ở đây. Cứ mỗi hai phút, ừ vậy—không phải năm phút. Ngay khi khoảng hai phút kết thúc, nó cầm ly đặt lại chỗ đây, sau hai phút nó cầm ly đặt lên phía trước. Tập trung vào đó. Đó là vấn đề hành động.

Looking at the in-breaths and out-breaths is the same. Sit with your right foot resting on your left leg, sit straight, watch the inhalation to its full extent until it completely disappears in the abdomen. When the inhalation is complete then allow the breath out until the lungs are empty. Don't force it. It doesn't matter how long or short or soft the breath is, let it be just right for you. Sit and watch the inhalation and the exhalation, make yourself comfortable with that. Don't allow your mind to get lost. If it gets lost then stop, look to see where it's got to, why it is not following the breath. Go after it and bring it back. Get it to stay with the breath, and, without doubt, one day you will see the reward. Just keep doing it. Do it as if you won't gain anything, as if nothing will happen, as if you don't know who's doing it, but keep doing it anyway. Like rice in the barn. You take it out and sow it in the fields, as if you were throwing it away, sow it throughout the fields, without being interested in it, and yet it sprouts, rice plants grow up, you transplant it and you've got sweet green rice. That's what it's about.

Nhìn vào hơi thở-vào và hơi thở-ra như nhau. Ngồi với bàn chân phải đặt lên chân trái, ngồi thẳng, quan sát hơi thở vào đến tận lúc nó biến mất dưới bụng. Sau khi hết hơi thở vào, để hơi thở ra đi ra cho đến khi không còn trong phổi. Đừng thúc hay ép hơi thở. Dù hơi thở có ngắn, có dài, có mạnh, hay mềm, cứ để nó tự nhiên như nó là. Cứ ngồi và quan sát sự thở vào và sự thở ra, làm cho thân tâm dễ chịu bằng sự quan sát đó. Đừng để tâm bị lạc đi chỗ khác. Nếu tâm bị lạc hay lăng xang qua thứ khác, thì dừng lại, xem nó đang chú tâm đến cái gì, xem tại sao nó không còn chú tâm theo hơi thở nữa. Theo hơi thở và kéo nó quay trở lại chú tâm vào hơi thở. Cứ luôn kéo tâm về lại hơi thở, và một điều chắc chắn, một ngày nào đó bạn sẽ thấy được phần thường cho việc tập luyện đó. Cứ tập luyện như vậy, cứ tu tập như vậy, cứ tập chú tâm vào hơi thở như vậy. Cứ làm một cách vô tư, vô sự, như thể bạn chẳng đạt được điều gì, như thể chẳng điều gì hay ho hay kỳ diệu sẽ xảy ra cả, như thể bạn không biết ai đang làm như vậy, nhưng, cứ thực tập như vậy!. Cứ như lúa ở trong bồ. Bạn cứ lấy lúa ra quăng rải khắp đồng, chẳng cần nghĩ ngợi gì cả. Rồi đến khi lúa mạ mọc lên, bạn nhổ và cấy xuống ruộng, cây lúa lớn lên, đến ngày nào đó lúa nở ra lúa gạo ngọt ngào. Chắc chắn là như vậy.

This is the same. Just sit there. Sometimes you might think, ''Why am I watching the breath so intently. Even if I didn't watch it, it would still keep going in and out.''

Well, you'll always finds something to think about. That's a view. It is an expression of the mind. Forget it. Keep trying over and over again and make the mind peaceful.

Việc thiền tập cũng vậy. Cứ ngồi xuống. Đôi lúc các bạn tự hỏi: "Tại sao ta cứ ngồi quan sát hơi thở một cách chú tâm như vậy. Dù có quan sát hay không, hơi thở vẫn tự thở vào thở ra như tự hồi nào đến giờ mà".

Là vầy, bởi bạn luôn luôn tìm kiếm thứ gì đó để suy nghĩ. Đó là một cách nhìn. Đó là một sự thể hiện của tâm. Quên nó đi, đừng tìm kiếm suy nghĩ gì nữa. Chỉ cần tập làm như vậy, tập chú tâm vào hơi thở liên tục, thì bạn sẽ thấy tâm được bình an.

Once the mind is at peace, the breath will diminish, the body will become relaxed, the mind will become subtle. They will be in a state of balance until it will seem as if there is no breath, but nothing happens to you. When you reach this point, don't panic, don't get up and run out, because you think you've stopped breathing. It just means that your mind is at peace. You don't have to do anything. Just sit there and look at whatever is present.

Khi tâm được bình an, hơi thở sẽ dần dần êm nhẹ và gần như biến mất, thân sẽ được thư giãn, tâm trở nên vi tế. Tất cả chúng đều ở trong trạng thái cân bằng cho đến lúc dường như không còn hơi thở, nhưng bạn chẳng bị sao cả. Khi bạn tu tập đến lúc này, hơi thở dường như biến mất, đừng hoảng hốt, đừng đứng dậy bỏ chạy vì nghĩ rằng mình đã ngưng thở. Tình trạng đó chỉ có nghĩa là tâm đang ở trong trạng thái bình an. Bạn không cần phải làm gì cả. Chỉ cần ngồi đó và nhìn, dù đó là gì.

Sometimes you may wonder, ''Eh, am I breathing?'' This is the same mistake. It is the thinking mind. Whatever happens, allow things to take their natural course, no matter what feeling arises. Know it, look at it. But don't be deluded by it. Keep doing it, keep doing it. Do it often. After the meal, air your robe on a line, and get straight out onto the walking meditation path. Keep thinking 'Buddho, Buddho'. Think it all the time that you're walking. Concentrate on the word 'Buddho' as you walk. Wear the path down, wear it down until it's a trench and it's halfway up your calves, or up to your knees. Just keep walking.

Đôi lúc bạn có thể phân vân: "Ê, ta có còn thở không?". Chỗ này là sai. Đó là cái tâm vẫn đang suy nghĩ. Bất cứ điều gì xảy ra, cứ để mặc nó xảy ra theo lẽ tự nhiên của nó, cảm giác khởi sinh ra sao cứ để mặc nó. Chỉ cần nhận biết nó, nhìn nó, quan sát nó. Nhưng đừng bị ngu mờ hay bị tác động bởi nó. Chỉ cần làm vậy, chỉ cần làm vậy. Chỉ cần tập luyện như vậy. Tập luyện một cách đều đặn, liên tục. Sau khi ăn, chỉnh y chỉnh áo một chút và bước ra đi thiền. Tiếp tục nghĩ và niệm 'Buddho, Buddho' (Đức Phật, Đức Phật). Nghĩ về chữ chú niệm đó suốt thời gian đi thiền. Tập trung vào chữ 'Buddho' (Đức Phật) khi bước đi. Bước mòn đường luôn, đi mòn đường cho đến khi nó trũng thành một cái mương, sâu đến ống chân ta, sâu đến đầu gối ta. Ta cứ bước đi. Ta cứ tập luyện đi thiền.

It's not just strolling along in a perfunctory way, thinking about this and that for a length of the path, and then going up into your hut and looking at your sleeping mat, ''How inviting!'' Then laying down and snoring away like a pig. If you do that you won't get anything from the practice at all.

Nói vậy không có nghĩa là cứ đi qua đi lại một cách nhàm chán, hãy suy nghĩ về điều này, hãy suy nghĩ việc đi thiền là gì mà bản thân Đức Phật cũng đã tu tập. (Phật cũng đã thường xuyên đi thiền ngay cả ngay sau khi Phật đã giác ngộ nơi gốc cây Bồ-Đề... và suốt mấy chục năm sau đó). Hãy nghĩ đến đoạn đường đi thiền, chứ đừng chạy vào phòng hay cốc của mình nhìn xuống tấm nệm êm ấm, quá hấp dẫn, và nằm xuống lăn ra ngủ như một con heo. Nếu ngủ như vậy thì việc tu tập của bạn sẽ chẳng đi đến đâu, vì đâu có làm gì đến nơi đến chốn. (Nếu tu tập chểnh mảng, không đều đặn, không liên tục, không nỗ lực, mau nản chí như vậy, thì chẳng ai đạt đến kết quả gì cả; tu như vậy cũng chẳng tốt hơn người không đi tu là bao nhiêu).

Keep doing it until you're fed up and then see how far that laziness goes. Keep looking until you come to the end of laziness. Whatever it is you experience you have to go all the way through it before you overcome it. It's not as if you can just repeat the word 'peace' to yourself and then as soon as you sit, you expect peace will arise like at the click of a switch, and when it doesn't then you give up, lazy. If that's the case you'll never be peaceful.

Cứ làm vậy cho đến khi nào bạn thấy chán ngán và thấy lười biếng đến mức nào. Cứ nhìn xem sự lười biếng đó cho đến khi chấm dứt được nó. Khi nào sự chán ngán và lười biếng có mặt, bạn phải trải qua nó từ đầu đến cuối thì mới có thể vượt qua được nó. Không phải như kiểu bạn chỉ cần nhẩm đọc chữ "bình an" và ngồi xuống thiền thì tâm sẽ được bình an trong tích tắc đâu, và khi sự bình an không có được, bạn chán chường, lười biếng, và bỏ cuộc. Nếu trường hợp tu tập của bạn như vậy, bạn sẽ chẳng bao giờ được bình an.

It's easy to talk about and hard to do. It's like monks who are thinking of disrobing saying, ''Rice farming doesn't seem so difficult to me. I'd be better off as a rice farmer''. They start farming without knowing about cows or buffaloes, harrows or ploughs, nothing at all. They find out that when you talk about farming it sounds easy, but when you actually try it you get to know exactly what the difficulties are.

Everyone would like to search for peace in that way. Actually, peace does lie right there, but you don't know it yet. You can follow after it, you can talk about it as much as you like, but you won't know what it is.

Nói thì dễ, làm thì rất khó. Cũng giống như những tu sĩ chuẩn bị bỏ y hoàn tục thì nói rằng: "Làm ruộng có vẻ dễ hơn đối với tôi. Thôi tôi thà quay về quê làm ruộng". Họ bắt đầu làm ruộng mà chẳng biết ất giáp gì về trâu bò, cái cày, cái cuốc, việc cày đất, bừa đất. Họ nhận ra họ đã nói làm ruộng có vẻ dễ, nhưng khi họ làm thiệt thì mới biết là quá khó nhọc.

Ai cũng muốn đi tìm sự bình an theo kiểu như vậy. Thực là, sự bình an có sẵn ở đó, chỉ là họ chưa biết thôi. Họ có thể chạy tìm kiếm nó, họ có thể nói về nó, nhưng thực là họ chẳng biết gì về nó.

So, do it. Follow it until you know in pace with the breath, concentrating on the breath using the mantra 'Buddho'. Just that much. Don't let the mind wander off anywhere else. At this time have this knowing. Do this. Study just this much. Just keep doing it, doing it in this way. If you start thinking that nothing is happening, just carry on anyway. Just carry on regardless and you will get to know the breath.

Do vậy, cứ làm, cứ thực hành. Tu tập như vậy như vậy cho đến khi bạn biết mình đã bắt nhịp hòa hợp với hơi thở, biết tập trung vào hơi thở dùng chữ niệm chú 'Buddho' (Đức Phật). Chỉ cần được như vậy. Đừng để cái tâm lăng xăng chỗ này chỗ nọ. Ngay lúc này, chỉ cần biết như vậy. Cứ tập luyện như vậy. Bạn có thể nghĩ làm vậy chẳng có kết quả gì đâu. Ngay cả khi nghĩ vậy, bạn cứ tiếp tục tập luyện. Cứ thực tập như vậy và bạn sẽ biết hơi thở sẽ ra sao.

Okay, so give it a try! If you sit in this way and the mind gets the hang of it, the mind will reach an optimum, 'just right' state. When the mind is peaceful the self-awareness arises naturally. Then if you want to sit right through the night, you feel nothing, because the mind is enjoying itself. When you get this far, when you're good at it, then you might find you want to give Dhamma talks to your friends until the cows come home. That's how it goes sometimes.

Được không, vậy cứ thử tập luyện!. Nếu bạn ngồi xuống tu tập theo cách như vậy và tâm chưa quen với việc đó, thì tâm vẫn đạt đến trạng thái tốt nhất của nó, tâm cũng 'tốt' thôi. Khi tâm được bình an thì sự hiểu biết rõ ràng (sự tự tỉnh giác) sẽ khởi sinh một cách tự nhiên. Rồi lúc đó bạn muốn ngồi thiền cả đêm, bạn cũng chẳng thấy gì khó, bởi vì tâm đang tự thưởng thức nó, (thưởng thức trạng thái bình an và tự tỉnh giác của nó). Khi bạn đã tu tập sâu hơn, khi bạn đã thuần thục về cách thiền này, có lẽ bạn thấy mình muốn nói chuyện tu tập với bạn bè mình từ sáng cho đến lúc tối người ta lùa bò về chuồng. Đó là cách sự tu tập như vậy diễn ra, đôi lúc bạn hứng thú đến vậy đó.

It's like the time when Por Sang was still a postulant. One night he'd been walking cankama and then began to sit. His mind became lucid and sharp. He wanted to expound the Dhamma. He couldn't stop. I heard the sound of someone teaching over in that bamboo grove, really belting it out. I thought, ''Is that someone giving a Dhamma talk, or is it the sound of someone complaining about something?'' It didn't stop. So I got my flashlight and went over to have a look. I was right. There in the bamboo grove, sitting cross-legged in the light of a lantern, was Por Sang, talking so fast I couldn't keep up.''

Giống chuyện trước đây khi Por Sang còn là người đang xin được thọ giới vào Tăng đoàn. Một đêm nọ sau khi anh ta đi thiền và bắt đầu ngồi xuống. Tâm của an ta trở nên sáng suốt và nhạy bén. Anh ta cứ muốn giảng bày về Giáo Pháp. Anh ta không thể cưỡng lại. Tôi nghe tiếng ai đó đang thuyết giảng ở trong khóm tre gần đó, thực sự như đang hát ra. Tôi nghĩ "Giờ này mà nghe như có ai đang thuyết pháp vậy, hay là tiếng ai đang rầy la điều gì?". Tiếng nói không ngừng. Do vậy, tôi cầm đèn pin và đi đến chỗ đó. Tôi đã đoán đúng. Trong khóm tre đó là Por Sang đang ngồi tréo chân bên ngọn đèn lồng và đang nói rất nhanh tôi không nghe theo kịp.

So I called out to him, ''Por Sang, have you gone crazy?''

He said, ''I don't know what it is, I just want to talk the Dhamma. I sit down and I've got to talk, I walk and I've got to talk. I've just got to expound the Dhamma all the time. I don't know where it's going to end.''

I thought to myself, ''When people practice the Dhamma there's no limit to the things that can happen.''

So keep doing it, don't stop. Don't follow your moods. Go against the grain. Practise when you feel lazy and practice when you feel diligent. Practice when you're sitting and practice when you're walking. When you lay down, focus on your breathing and tell yourself, ''I will not indulge in the pleasure of laying down.'' Teach your heart in this way. Get up as soon as you awaken, and carry on putting forth effort.

Tôi gọi anh ta: "Por Sang, anh bị điên hay sao vậy?". Anh ta trả lời: "Con không biết đó là gì, con cứ muốn nói về Giáo Pháp. Con ngồi xuống và cứ muốn nói, con đi và cứ muốn nói. Con chỉ muốn giảng bày về Giáo Pháp suốt đêm. Con không biết khi nào chuyện này mới hết".

Tôi tự nghĩ: "Khi người ta thực hành Giáo Pháp thì không có giới hạn nào cho những sự việc có thể xảy ra". (Có nhiều sự việc và trạng thái rất kỳ diệu đều có thể xảy ra đối với người tu).

Vậy, cứ tu tập, đừng ngưng, đừng bỏ dở. Đừng chạy theo những tâm trạng hay cảm giác của mình. (Đừng dính theo thói tâm là: nôn nóng, chán chường, lười biếng, bi quan, thấy khó, hứa hẹn ngày sau sẽ tu lại...). Cứ làm ngược lại với thói tâm của mình. Cứ tu tập khi mình thấy siêng năng và cứ tu tập cả khi mình thấy lười biếng, chán nản. (Đó là cách tu tập, chẳng có bí quyết nào khác!). Tu tập khi đang ngồi và tu tập khi đang đi. Tu tập khi đang nằm; khi nằm, tập trung sự chú tâm vào hơi-thở và tự nói với mình rằng: "Tôi sẽ không vùi mình vào cảm giác sướng khoái khi nằm". Dạy tâm mình như vậy. Khi nào thức dậy thì ngồi dậy ngay, và tiếp tục nỗ lực thực hành.

Eating, tell yourself, ''I eat this food, not with craving, but as medicine, to sustain my body for a day and a night, only in order that I may continue my practice.''

When you lay down then teach your mind. When you eat then teach your mind. Maintain that attitude constantly. If you're going to stand up, then be aware of that. If you're going to lie down, then be aware of that. Whatever you do, then be aware. When you lie down, lie on your right side and focus on the breath, using the mantra 'Buddho' until you fall asleep. Then when you wake up it's as if 'Buddho' has been there all the time, it's not been interrupted. For peace to arise, there needs to be mindfulness there all the time. Don't go looking at other people. Don't be interested in other people's affairs; just be interested in your own affairs.

Khi ăn, tự nói với mình: "Ta ăn thức ăn này, không phải vì tham dục thèm khát, mà coi nó như thuốc để nuôi dưỡng thân này một ngày và một đêm, chỉ để ta có thể tiếp tục tu tập".

Khi bạn nằm xuống thì dạy tâm mình ngay. Khi bạn bắt đầu ăn thì dạy tâm mình ngay. Giữ đúng thái độ đó một cách thường trực. Nếu bạn sắp đứng dạy thì tỉnh giác về việc đó. Nếu bạn sắp nằm xuống, tỉnh giác về việc đó. Khi đang làm bất cứ việc gì, tỉnh giác về việc đó. Khi nằm xuống để ngủ, nằm nghiêng bên phải và chú tâm vào hơi thở, dùng niệm chú 'Buddho' (Đức Phật) cho đến khi bạn ngủ đi. Làm như vậy thì khi bạn thức dậy thì cứ như Đức Phật vẫn luôn ở đó trong suốt thời gian bạn ngủ, không hề bị gián đoạn. Để có được sự bình an, để cho sự bình an khởi sinh, để cho tâm được bình an, ta cần phải luôn luôn chánh niệm mọi lúc mọi nơi (từ sau khi thức dậy cho đến trước khi ngủ). Đừng nhìn vào người khác. Đừng để ý hoặc xía vô chuyện người khác; chỉ cần để ý quan tâm đến việc của mình.

When you do sitting meditation, sit straight; don't lean your head too far back or too far forwards. Keep a balanced 'just-right' posture like a Buddha image. Then your mind will be bright and clear.

Endure for as long as you can before changing your posture. If it hurts, let it hurt. Don't be in a hurry to change your position. Don't think to yourself, ''Oh! It's too much. Take a rest.'' Patiently endure until the pain has reached a peak, then endure some more.

Khi bạn thực tập việc ngồi thiền, ngồi thẳng lưng; đừng chúi đầu về trước, đừng ngả đầu ra sau. Giữ một tư thế ngồi thăng bằng và cân bằng, giống như tượng Phật vậy. Tập làm như vậy rồi thì tâm ta sẽ trong sáng và sáng tỏ.

Cố chịu giữ tư thế ngồi càng lâu càng tốt cho đến khi không còn chịu được nữa thì mới nhích đổi tư thế. Nếu ngồi bị đau, cứ để nó đau. Đừng vội vàng loay hoay chuyển đổi tư thế. Đừng bao giờ lụp chụp, nản chí, đừng bao giờ nghĩ: "Ừm, vậy đủ rồi. Thôi đi nghỉ". Hãy cố kiên nhẫn cho đến khi sự đau đến lúc đau nhất, rồi cố chịu thêm nữa.

Endure, endure until you can't keep up the mantra 'Buddho'. Then take the point where it hurts as your object. ''Oh! Pain. Pain. Real pain.'' You can make the pain your meditation object rather than Buddho. Focus on it continuously. Keep sitting. When the pain has reached it's limit, see what happens.

Chịu đau, chịu đau cho đến khi ta không còn giữ được niệm chú 'Buddho' (Đức Phật), theo nhịp hơi thở. Sau đó, hãy lấy ngay cái trạng thái đau nhất đó làm đối tượng chú tâm của mình. "Ồ! Đau. Đau. Đau, Đau thiệt". Lúc đó ta có thể lấy sự đau đó làm đối tượng thiền thay vì hơi thở hay chữ chú 'Buddho' (Đức Phật). Tập trung chú tâm vào sự đau đó một cách liên tục. Tiếp tục ngồi. Khi sự đau đạt đến đỉnh đau nhất, hãy nhìn xem điều gì xảy ra.

The Buddha said that pain arises by itself and disappears by itself. Let it die; don't give up. Sometimes you may break out in a sweat. Big beads, as large as corn kernels rolling down your chest. But when you've passed through painful feeling once, then you will know all about it. Keep doing it. Don't push yourself too much. Just keep steadily practising.

Be aware while you're eating. You chew and swallow. Where does the food go to? Know what foods agree with you and what foods disagree. Try gauging the amount of food. As you eat keep looking and when you think that after another five mouthfuls you'll be full, then stop and drink some water and you will have eaten just the right amount.

Phật đã nói sự đau tự nó khởi sinh và tự biến mất. Nó tự sinh, tự diệt. Cứ để nó diệt; (rồi sẽ hết đau), đừng bỏ cuộc. Nhiều khi bạn đuối sức, đổ mồ hôi. Như có một chuỗi hột, như hột bắp, lăn xuống qua vùng đường ngực. Nhưng khi bạn trải qua sự đau một lần, thì bạn sẽ biết rõ về nó. Cứ làm vậy. Đừng cố thúc ép mình. Cứ luyện tập đều đặn và chắc như vậy.

Tỉnh giác khi đang ăn. Ta nhai và nuốt. Thức ăn đi đâu? Biết rõ thức ăn nào hợp với mình và thức ăn nào không hợp với mình. Cố lường lượng thức ăn. Khi ăn nhìn thức ăn và khi nghĩ rằng mình sẽ no sau khi đưa vào miệng năm lần nữa thì ta ngừng lại và uống nước; như vậy là ta đã ăn một lượng thức ăn vừa đủ.

Try it. See whether or not you can do it. But that's not the way we usually do it. When we feel full we take another five mouthfuls. That's what the mind tells us. It doesn't know how to teach itself.

The Buddha told us to keep watching as we eat. Stop five mouthfuls before you're full and drink some water and it will be just right. If you sit or walk afterwards, then you don't feel heavy. Your meditation will improve. But we don't want to do it. We're full up and we take another five mouthfuls. That's the way that craving and defilement is, it goes a different way from the teachings of the Buddha. Someone who lacks a genuine wish to train their minds will be unable to do it. Keep watching your mind.

Tập như vậy. Coi thử mình tập như vậy được không. Nhưng đó là cách mà ta thường không làm trước đó. Trước kia, khi mình cảm thấy no, mình lại thường ăn ráng 'lùa' thêm năm lần vào miệng nữa. Đó là do cái tâm xúi ta như vậy, đó là thói tâm. Tâm chẳng biết cách dạy bản thân nó.

Phật đã dạy chúng ta phải để ý khi chúng ta ăn. Nếu biết mình ăn thêm năm lần vào miệng nữa mình sẽ no thì ngừng lại, và uống nước. Như vậy là vừa đủ no. (Đừng để quá no rồi mới ngừng, và sau đó uống thêm nước thì sẽ bị no tức bụng). Ăn uống vừa đủ no thì sau đó ngồi hay đi cũng cảm thấy nhẹ người, không bị nặng bụng, mệt não. Ăn uống vừa phải như vậy giúp cho thân tâm thiền mau tiến bộ. Nhưng thói thường chẳng ai muốn làm điều tốt như vậy. Ai cũng muốn 'lùa' thêm năm lần bảy lượt nữa vào miệng sau khi đã cảm thấy no. Đó là những người vẫn còn tham dục và còn đầy ô nhiễm; còn tham ăn, tham uống là còn làm ngược lại lời khuyên dạy của Phật. Những người thường quên tâm nguyện và lý do tu tập của mình thì thường không thể giữ được sự ăn uống điều độ, vừa đủ. Các thầy hãy nên để ý cái tâm mình.

Be vigilant with sleep. Your success will depend on being aware of the skilful means. Sometimes the time you go to sleep may vary some nights you have an early night and other times a late night. But try practising like this: whatever time you go to sleep, just sleep at one stretch. As soon as you wake up, then get up immediately. Don't go back to sleep. Whether you sleep a lot or a little, just sleep at one stretch. Make a resolution that as soon as you wake up, even if you haven't had enough sleep, you will get up, wash your face, and then start to walk cankama or sit meditation. Know how to train yourself in this way. It's not something you can know through listening to someone else. You will know through training yourself, through practice, through doing it. And so I tell you to practice.

Nên cảnh giác với sự ngủ của mình. Sự thành công của bạn phụ thuộc vào sự tỉnh-giác của những phương tiện thiện xảo. Nhiều lúc giờ ngủ của bạn bị thay đổi khác nhau theo mỗi ngày, có đêm ngủ đúng giờ, có đêm ngủ trễ. Nhưng hãy cố tập như vầy: dù bạn đi ngủ mấy giờ, khi ngủ thì ngủ một giấc liền!. Và khi nào thức dậy, thì ngồi dậy ra khỏi giường ngay!. (Đừng để tâm tiếp tục thưởng thức, thèm muốn cái cảm giác nằm ngủ trên giường). Đừng bao giờ nằm ngủ lại. Dù mỗi lần đi ngủ ngủ nhiều hay ngủ ít, chỉ ngủ một giấc liền. Hạ quyết tâm rằng: ngay sau khi thức dậy, dù chưa ngủ đủ giấc, vẫn cứ ngồi dậy và ra khỏi chỗ nằm, rửa mặt, và bắt đầu đi thiền kinh hành hoặc ngồi thiền. Nên biết rõ cách luyện tập bản thân mình theo cách như vậy. Đó không phải là chuyện ta biết chỉ nhờ nghe người khác nói. Ta phải biết rõ nhờ vào việc tự mình luyện tập bản thân, nhờ tự thân thực hành, nhờ tu tập theo cách như vậy.

This practice of the heart is difficult. When you are doing sitting meditation, then let your mind have only one object. Let it stay with the in-breath and the out-breath and your mind will gradually become calm. If your mind is in turmoil, then it will have many objects. For instance, as soon as you sit, do you think of your home? Some people think of eating Chinese noodles. When you're first ordained you feel hungry, don't you? You want to eat and drink. You think about all kinds of food. Your mind is going crazy. If that's what's going to happen, then let it. But as soon as you overcome it, then it will disappear.

Việc tu tập cái tâm là việc khó làm. Khi bạn đang ngồi thiền, hãy để tâm mình với một đối tượng duy nhất!. Hãy để tâm an trú vào duy nhất là hơi thở vào và ra, và làm như vậy tâm sẽ dần dần được an tĩnh. Khi tâm ta đang lăng xăng động vọng là lúc nó đang có nhiều đối tượng. Ví dụ, ngay khi bạn ngồi xuống, bạn có nhớ nhà không?. Một số người bỗng nhớ (thèm) món mỳ kiểu Tàu. Ngày đầu sau khi thọ giới vào chùa, bạn cảm thấy rất đói bụng phải không? Bạn muốn ăn, muốn uống như bình thường. Bạn thèm nhớ đến rất nhiều món ăn ngon. Tâm trí bạn thèm nhớ như điên. Nếu điều đó xảy ra, cứ để tâm trí như vậy. Nhưng đến khi nào bạn vượt qua được sự thèm muốn đó, nó sẽ tự biến mất.

Do it! Have you ever walked cankama? What was it like as you walked? Did your mind wander? If it did, then stop and let it come back. If it wanders off a lot, then don't breathe. Hold your breath until your lungs are about to burst. It will come back by itself. No matter how bad it is, if it's racing around all over the place, then hold your breath. As your lungs are about to burst, your mind will return. You must energize the mind. Training the mind isn't like training animals. The mind is truly hard to train. Don't be easily discouraged. If you hold your breath, you will be unable to think of anything and the mind will run back to you of its own accord.

Cứ tu như vậy! Các thầy có từng đi thiền chưa? Khi đi thiền thì đi ra sao? Tâm của các thầy có lăng xăng không? Nếu nó lăng xăng thì đứng lại và để tâm quay về lại. Nếu nó lăng xăng quá nhiều thì đừng thở. Giữ hơi thở cho đến khi nào buồng phổi căng tức. Lúc đó tâm sẽ tự nó quay về hướng tâm vào đó. Không cần biết, nếu nó quá lăng xăng chạy nhảy khắp nơi, các bạn cứ nín thở. Khi phổi bắt đầu tức, tâm sẽ quay về lại. Các thầy phải tạo năng lượng cho tâm. Huấn luyện tâm không phải giống như huấn luyện thú. Tâm thực sự khó huấn luyện hơn nhiều. Đừng dễ bị nản chí, đừng để bị thất vọng. Khi nín giữ hơi thở, các thầy sẽ không thể nghĩ về bất cứ thứ gì khác, và tâm sẽ quay trở về lại với mình.

It's like the water in this bottle. When we tip it out slowly then the water drips out...drip...drip...drip. But when we tip the bottle up farther the water runs out in a continuous stream, not in separate drops as before. Our mindfulness is similar. If we accelerate our efforts, practice in an even, continuous way, the mindfulness will be uninterrupted like a stream of water. No matter whether we are standing, walking, sitting or lying down, that knowledge is uninterrupted, flowing like a stream of water.

Giống như nước trong chai này. Khi chúng ta đổ nghiêng từ từ thì nước nhỏ ra theo giọt. Nhưng nếu chúng ta dốc đứng chai đổ ra, nước sẽ chảy thành dòng liên tục, chứ không phải theo từng giọt riêng như lúc đầu. Sự chánh niệm của chúng ta cũng vậy. Nếu chúng ta gia tăng nỗ lực, tu tập một cách đều đặn và liên tục, thì sự chánh niệm của chúng ta sẽ 'chảy' liên tục như dòng nước. Dù chúng ta đang đứng, đang đi, đang nằm hay đang ngồi, trí hiểu biết của chúng ta sẽ không bị gián đoạn, giống như một dòng chảy liên tục.

Our practice of the heart is like this. After a moment, it's thinking of this and thinking of that. It is agitated and mindfulness is not continuous. But whatever it thinks about, never mind, just keep putting forth effort. It will be like the drops of water that become more frequent until they join up and become a stream. Then our knowledge will be encompassing. Standing, sitting, walking or laying down, whatever you are doing, this knowing will look after you.

Start right now. Give it a try. But don't hurry. If you just sit there watching to see what will happen, then you'll be wasting your time. So be careful. If you try too hard then you won't be successful, but if you don't try at all then you won't be successful either.

Sự tu tập tâm cũng giống như vậy. Sau một thời gian đầu tu tập, tâm chỉ là nghĩ này nghĩ nọ. Nó bị kích thích, bị kích động và sự chánh niệm không được liên tục. Nhưng dù lúc đó tâm cứ nghĩ gì, cứ mặc kệ nó, chỉ cần nỗ lực thực tập như đã nói. Cũng giống như những giọt nước đổ sẽ dần dần trở nên đều đặn cho đến khi chúng hợp lại với nhau trở thành một dòng nước chảy. Lúc đó, trí hiểu biết của chúng ta sẽ bao trùm. Đứng, ngồi, đi hay nằm, dù bạn đang làm gì, sự hiểu biết đó sẽ hộ phòng cho bạn.

Này các thầy (vừa mới thọ giới vào chùa), hãy bắt đầu ngay từ bây giờ. Hãy thử thực tập. Nhưng đừng hấp tấp, vội vã. Nếu chỉ ngồi không chờ nhìn thấy kết quả chỉ phung phí thời gian trôi qua mà thôi. Do vậy hãy chú tâm, hãy thận trọng. Nếu các thầy cố quá thì các thầy cũng không thành công, giục tốc bất đạt. Nhưng nếu cứ lơ là, chểnh mảng, trì hoãn, khất thời thì các thầy cũng không thành công gì.


Chương 24

QUESTIONS AND ANSWERS - HỎI VÀ TRẢ LỜI

Question:

I'm trying very hard in my practice but don't seem to be getting anywhere.

Answer:

This is very important. Don't try to get anywhere in the practice. The very desire to be free or to be enlightened will be the desire that prevents your freedom. You can try as hard as you wish, practice ardently night and day, but if it is still with the desire to achieve in mind, you will never find peace. The energy from this desire will be a cause for doubt and restlessness. No matter how long or how hard you practice, wisdom will not arise from desire. So, simply let go. Watch the mind and body mindfully but don't try to achieve anything. Don't cling even to the practice of enlightenment.

Hỏi:

Thưa thầy, con đang rất nỗ lực cố gắng tu tập nhưng dường như con chẳng đi tới đâu.

Trả lời:

Chỗ này rất quan trọng. Đừng cố đi đến đâu hay đạt đến đâu trong khi tu tập. Chính cái tham muốn được giải thoát hay được giác ngộ đã ngăn cản sự giải thoát của thầy. Thầy có thể nỗ lực hết sức theo ý mình, tu tập một cách nhiệt thành cả ngày lẫn đêm, nhưng nếu trong tâm vẫn còn tham muốn chứng đắc gì gì đó, thì thầy khó tìm thấy sự bình an. Năng lượng từ sự tham muốn đó sẽ là nguyên dân tạo ra sự nghi ngờ và bất an (là hai trong mấy thứ gông cùm chướng ngại cho việc tu tập). Dù cho thầy có cố công tu tập nhiều bao nhiêu hay lâu bao nhiêu, trí tuệ vẫn không bao giờ khởi sinh từ sự tham muốn chứng đắc. Do vậy, hãy buông bỏ. Chỉ cần ngồi quan sát cái tâm và thân một cách chánh niệm, nhưng đừng cố đắc đạt điều gì cả. Đừng dính danh theo mong muốn, ngay cả khi mục đích tu tập là để giác ngộ.

Q:

What about sleep? How much should I sleep?

A:

don't ask me, I can't tell you. A good average for some is four hours a night. What is important, though, is that you watch and know yourself. If you try to go with too little sleep, the body will feel uncomfortable and mindfulness will be difficult to sustain. Too much sleep leads to a dull or a restless mind. Find the natural balance for yourself. Carefully watch the mind and body and keep track of sleep needs until you find the optimum. If you wake up and then roll over for a snooze, this is defilement. Establish mindfulness as soon as your eyes open.

Hỏi:

Còn về việc ngủ thì sao? Con nên ngủ bao nhiêu?

Trả lời:

Đừng hỏi tôi, tôi không thể nói được cho thầy. Thời lượng trung bình tốt là khoảng bốn giờ trong một đêm. Nhưng điều quan trọng là thầy để ý và biết về bản thân mình. Nếu thầy cố ngủ quá ít thì thân sẽ không được khỏe và sự chánh niệm khó mà duy trì. Còn ngủ quá nhiều thì làm cho tâm bị đờ đẫn, ngu mờ và bất an. Hãy tự tìm ra thời lượng cân bằng tự nhiên của bản thân mình. Quan sát một cách kỹ càng thân và tâm và theo dõi nhu cầu ngủ của mình cho đến khi thầy tìm ra thời lượng nào là tốt nhất cho mình. Nếu thầy thức dậy nhưng lăn qua ngủ ráng thì đó là điều ô nhiễm. (Tâm vẫn còn thèm thích việc ngủ). Hãy lập tức thiết lập chánh niệm ngay sau khi mở mắt dậy.

Q:

How about eating? How much should I eat?

A:

Eating is the same as sleeping. You must know yourself. Food must be consumed to meet bodily needs. Look at your food as medicine. Are you eating so much that you only feel sleepy after the meal and are you getting fatter every day? Stop! Examine your own body and mind. There is no need to fast. Instead, experiment with the amount of food you take. Find the natural balance for your body. Put all your food together in your bowl following the ascetic practice. Then you can easily judge the amount you take. Watch yourself carefully as you eat. Know yourself. The essence of our practice is just this. There is nothing special you must do. Only watch. Examine yourself. Watch the mind. Then you will know what is the natural balance for your own practice.

Hỏi:

Còn về ăn thì sao? Con nên ăn bao nhiêu?

Trả lời:

Việc ăn cũng như ngủ thôi. Thầy phải tự biết nhu cầu của bản thân mình. Thức ăn được ăn để đáp ứng nhu cầu của thân. Hãy nhìn thức ăn như là thuốc. Nếu các thầy ăn nhiều quá thì các thầy chỉ thấy buồn ngủ sau khi ăn và các thầy mập lên từng ngày. Hãy bớt lại! Xem xét lại thân và tâm mình. Không phải là nhịn ăn hay kiêng cữ. Nhưng nên thử lượng thức ăn mình ăn vào bao nhiều là nhiều, là ít, là vừa. Tự tìm ra lượng thức ăn cân bằng tự nhiên của bản thân mình. Hãy lấy các loại đồ ăn bỏ vào bình bát theo cách người tu khất thực. Sau đó bạn có thể dễ dàng suy đoán lượng thức ăn vừa đủ để ăn. Hãy để ý quan sát mình một cách kỹ càng khi ăn. Biết rõ mình. Cốt lõi của việc tu tập chúng ta chỉ là như vậy. (Luôn quan sát mình một cách chánh niệm). Không cần phải làm những việc đặc biệt. Chỉ cần quan sát. Rồi các thầy sẽ biết rõ lượng thức ăn nào là cân bằng tự nhiên cho việc tu tập thân tâm của mình.

Q:

Are minds of Asians and Westerners different?

A:

Basically there is no difference. Outer customs and language may appear different, but the human mind has natural characteristics which are the same for all people. Greed and hatred are the same in an Eastern or a Western mind. Suffering and the cessation of suffering are the same for all people.

Hỏi:

Tâm của người Á Đông và người phương Tây có khác nhau không?

Trả lời:

Về căn bản thì không có khác nhau. Phong tục, lỗi sống và ngôn ngữ bề ngoài nhìn thì thấy khác nhau, nhưng tâm của nhân loại thì đều mang những tính chất giống nhau. Tham và sân thì xứ nào cũng có. Khổ và sự hết khổ ở mọi người thì cũng như nhau.

Q:

Is it advisable to read a lot or study the scriptures as a part of practice?

A:

The Dhamma of the Buddha is not found in books. If you want to really see for yourself what the Buddha was talking about, you don't need to bother with books. Watch your own mind. Examine to see how feelings come and go, how thoughts come and go. don't be attached to anything. Just be mindful of whatever there is to see. This is the way to the truths of the Buddha. Be natural. Everything you do in your life here is a chance to practice. It is all Dhamma. When you do your chores, try to be mindful. If you are emptying a spittoon or cleaning a toilet, don't feel you are doing it as a favor for anyone else. There is Dhamma in emptying spittoons. Don't feel you are practicing only when sitting still, cross-legged. Some of you have complained that there is not enough time to meditate. Is there enough time to breathe? This is your meditation: mindfulness, naturalness in whatever you do.

Hỏi:

Có nên học hay nghiên cứu nhiều kinh điển như là một phần cần thiết của việc tu hành?

Trả lời:

Giáo Pháp của Đức Phật không nằm trong sách vở. Nếu các thầy thực sự muốn tự mình nhìn thấy những điều Phật đã nói thì các thầy không cần phải lăng xăng lo học về kinh sách. Chỉ cần quan sát cái tâm của mình. Xem xét để thấy cách những cảm giác đến và đi, cách những suy nghĩ đến và đi, và đừng dính mắc theo thứ gì trong chúng nó. Chỉ cần chánh niệm vào bất kỳ thứ gì mình nhìn thấy nó đang khởi sinh và biến mất. Đây chính là cách đi đến những sự thật như Đức Phật đã nói. Cứ tự nhiên. Mọi thứ mình làm trong đời sống ngay tại đây chính là cơ hội để tu tập. Đây chính là Giáo Pháp. Giáo Pháp là ở đây. Khi làm những việc thường nhật, hãy cố chánh niệm. Khi đang chùi rửa nhà tắm, bồn cầu, hãy chánh niệm, đừng cảm giác là ta đang chùi rửa cho người khác. Ngay khi đang đổ bô phân, đang chùi rửa bồn cầu là có Giáo Pháp ngay đó. Đừng nghĩ chỉ có khi ngồi tréo nhân và thiền thì mới là tu hành. Một số các thầy thường than rằng mình không đủ thời gian để thiền tập. Vậy các thầy có đủ thời gian để thở không?. Chỗ này chính là sự thiền của các thầy, đó là: Sự chánh niệm, sự tự nhiên trong bất kỳ mọi việc mình đang làm.

Q:

Why don't we have daily interviews with the teacher?

A:

If you have any questions, you are welcome to come and ask them anytime. But we don't need daily interviews here. If I answer your every little question, you will never understand the process of doubt in your own mind. It is essential that you learn to examine yourself, to interview yourself. Listen carefully to the lecture every few days, then use this teaching to compare with your own practice. Is it still the same? Is it different? Why do you have doubts? Who is it that doubts? Only through self-examination can you understand.

Hỏi:

Tại sao chúng ta không có thảo luận hay hỏi đáp hằng-ngày với sư phụ hay sư huynh?

Trả lời:

Nếu có câu hỏi, thắc mắc thì các thầy cứ thoải mái đến hỏi các vị đó vào bất cứ lúc nào. Nếu tôi trả lời từng câu hỏi nhỏ của các thầy, thì các thầy sẽ chẳng bao giờ hiểu được tiến trình nghi ngờ trong tâm mình. Điều cốt lõi là thầy phải học cách xem xét chính mình, tự hỏi-đáp với chính mình và về chính mình. Lắng nghe kỹ càng lời giảng dạy trong vài ngày, sau đó dùng những giáo lý đó để đối chiếu, so sánh với sự tu tập của mình. Thấy nó có giống không? Hay nó khác? Tại sao mình có nghi ngờ? Chỉ có cách tự quán xét về chính mình thì thầy sẽ có thể tự mình hiểu được.

Q:

Sometimes I worry about the monks' discipline. If I kill insects accidentally, is this bad?

A:

Sīla or discipline and morality are essential to our practice, but you must not cling to the rules blindly. In killing animals or in breaking other rules, the important thing is intention. Know your own mind. You should not be excessively concerned about the monks' discipline. If it is used properly, it supports the practice, but some monks are so worried about the petty rules that they can't sleep well. Discipline is not to be carried as a burden. In our practice here the foundation is discipline, good discipline plus the ascetic rules and practices. Being mindful and careful of even the many supporting rules as well as the basic 227 precepts has great benefit. It makes life very simple. There need be no wondering about how to act, so you can avoid thinking and instead just be simply mindful. The discipline enables us to live together harmoniously; the community runs smoothly. Outwardly everyone looks and acts the same. Discipline and morality are the stepping stones for further concentration and wisdom. By proper use of the monks' discipline and the ascetic precepts, we are forced to live simply, to limit our possessions. So here we have the complete practice of the Buddha: refrain from evil and do good, live simply keeping to basic needs, purify the mind. That is, be watchful of our mind and body in all postures: sitting, standing, walking or lying, know yourself.

Hỏi:

Đôi lúc con thắc mắc về các giới luật Tỳ kheo. Liệu việc con vô tình giết chết những côn trùng là điều xấu ác hay không?

Trả lời:

Giới (sīla), giới luật và đức hạnh là căn bản không thể thiếu đối với việc tu hành, nhưng các thầy không nên dính chấp một cách mù quáng vào những điều luật đó. Đối với việc sát sanh hay việc phạm các giới khác, điều quan trọng là ý (tâm ý, ý định, ý muốn, ý hành). Biết về tâm mình là điều quan trọng. Biết giữ giới luật thì sẽ trợ giúp tốt cho việc tu tập, nhưng có một số thầy vì quá lo lắng, canh cánh, lo sợ về nhiều giới luật nên bị bất an, mất ngủ. Giới luật không nên bị mang vác như một gánh nặng. Đối với việc tu hành ở đây, giới luật là nền tảng, giới luật tốt cộng thêm những quy định và 13 giới luật khổ hạnh khất sĩ (13 điều luật dhutanga, giới đầu-đà). Cần luôn chú tâm chánh niệm về những quy định lớn nhỏ trong chùa cũng như 227 giới luật căn bản của Tỳ kheo, điều đó sẽ mang lại nhiều lợi ích cho việc tu hành nói chung. (331 giới luật đối với Tỳ kheo ni). Điều đó làm cuộc sống rất đơn giản. Không nên lo lắng về việc mình phải hành vi hành xử ra sao, nhờ đó thầy tránh khỏi các suy nghĩ này nọ và thay vì vậy, chỉ đơn thuần chánh niệm. Giới luật giúp chúng ta ở đây sống hòa hợp với nhau; cả tăng đoàn được êm xuôi. Tất cả mọi người đều hành xử như nhau. Giới luật và đức hạnh là những viên đá bậc cấp để bước lên đến thiền định và trí tuệ. Bằng cách áp dụng một cách phù hợp và đúng mực các giới luật Tỳ kheo và 13 giới khổ hạnh khất sĩ, chúng ta được "ghép" vào một lối sống giản dị, thanh đạm, không được có tài sản của cải gì để đáng lo. Do vậy, ở đây chúng ta có đầy đủ sự tu tập theo cách của Phật: tránh điều ác, làm điều thiện; sống thanh đạm, chỉ giữ những thứ cần thiết (nhu yếu); làm trong sạch tâm. Điều cốt lõi bàng bạc là, luôn để ý quán sát tâm và thân của mình trong mọi tư thế: ngồi, đứng, đi, nằm—hiểu biết rõ về bản thân mình.

Q:

What can I do about doubts? Some days I'm plagued with doubts about the practice or my own progress, or the teacher.

A:

Doubting is natural. Everyone starts out with doubts. You can learn a great deal from them. What is important is that you don't identify with your doubts: that is, don't get caught up in them. This will spin your mind in endless circles. Instead, watch the whole process of doubting, of wondering. See who it is that doubts. See how doubts come and go. Then you will no longer be victimized by your doubts. You will step outside of them and your mind will be quiet. You can see how all things come and go. Just let go of what you are attached to. Let go of your doubts and simply watch. This is how to end doubting.

Hỏi:

Con có thể làm gì khi có những nghi ngờ? Có nhiều ngày con bị suy sụp vì những nghi ngờ về cách tu tập, hoặc về sự tiến bộ của mình, hoặc về sư phụ của mình.

Trả lời:

Nghi ngờ là chuyện tự nhiên, thường tình. Mọi người đều bắt đầu bằng những nghi ngờ. Các thầy có thể học hỏi nhiều từ chúng. Điều quan trọng là mình không nên nhận lấy những nghi ngờ đó là mình: tức là, không bị dính mắc vào chúng. Nếu bị dính vào chúng, chúng sẽ cuốn tâm trí mình vào vòng xoáy bất tận. Thay vì vậy, hãy quan sát toàn bộ tiến trình nghi ngờ, toàn bộ quá trình thắc mắc phân vân đó. Nhìn coi nghi ngờ đó là ai. Nhìn coi nghi ngờ đó đến từ đâu. Nhìn coi nghi ngờ đến và đi. Rồi mình sẽ không còn bị là nạn nhân của những nghi ngờ đó nữa. Ta có thể nhìn thấy các tất cả mọi sự đến và đi. Buông bỏ hết những thứ mình bị dính vào. Buông bỏ những nghi ngờ và chỉ đơn thuần ngồi quan sát mọi thứ. (Quán sát, chỉ cần quán sát. Đừng nghĩ ngợi hay nghi ngờ rằng quán sát có đạt được gì hay không đạt được gì). Đó chính là cách chấm dứt nghi ngờ.

Q:

What about other methods of practice? These days there seem to be so many teachers and so many different systems of meditation that it is confusing.

A:

It is like going into town. One can approach from the north, from the southeast, from many roads. Often these systems just differ outwardly. Whether you walk one way or another, fast or slow, if you are mindful, it is all the same. There is one essential point that all good practice must eventually come to - not clinging. In the end, all meditation systems must be let go of. Neither can one cling to the teacher. If a system leads to relinquishment, to not clinging, then it is correct practice.
You may wish to travel, to visit other teachers and try other systems. Some of you have already done so. This is a natural desire. You will find out that a thousand questions asked and knowledge of many systems will not bring you to the truth. Eventually you will get bored. You will see that only by stopping and examining your own mind can you find out what the Buddha talked about. No need to go searching outside yourself. Eventually you must return to face your own true nature. Here is where you can understand the Dhamma.

Hỏi:

Còn về những phương pháp tu tập khác thì sao? Thời bây giờ dường như có rất nhiều sư thầy và rất nhiều pháp môn khác nhau về tu thiền nên nhiều người cũng bối rối.

Trả lời:

Chuyện đó giống như đi vào thành thị vậy. Chúng ta có thể vào thành từ hướng bắc, hướng nam, hướng đông nam, từ nhiều con đường khác nhau. Thường thì những pháp môn tu chỉ khác nhau về bên ngoài. Dù bạn có đi đường này hay đường kia, đi chậm hay đi nhanh, nhưng nếu bạn biết chánh-niệm thì tất cả đều như nhau. Một điều cốt lõi mà chúng ta phải nói đi nói lại nhiều lần đó là: Tất cả những cách tu tập tốt thì cuối cùng sẽ dẫn đến sự không-còn-dính-chấp. (Pháp môn nào không dẫn đến buông bỏ sự dính chấp thì có lẽ đó là không tốt). Rốt cuộc, tất cả mọi hệ thống (phương pháp, pháp môn) tu thiền đều phải nhắm đến sự buông-bỏ. Buông bỏ luôn cả sự dính chấp vào người thầy (sư phụ). Nếu môt pháp môn tu tập dẫn đến sự lìa bỏ, sự không còn dính chấp, thì đó là cách tu tập đúng đắn.

Các thầy có thể muốn đi xứ này xứ nọ, thăm viếng và học hỏi những sư thầy khác và những pháp môn khác. Một số các thầy chắc đã làm điều này. Sự mong muốn đó là điều tự nhiên, thường tình. Điều đó cũng tốt. Tốt vì trước sau gì các thầy cũng nhận ra rằng: dù ta có hỏi đáp một ngàn câu hỏi và dù ta có nhiều kiến thức của những pháp môn trường phái khác nhau, thì những thứ đó cũng chẳng hề dẫn dắt ta đến sự thật chân lý. Rồi cuối cùng ta cũng thấy chán ngán, bất mãn mà thôi. Cuối cùng các thầy cũng thấy rằng: chỉ bằng cách dừng lại và quán xét cái tâm của mình thì ta mới có thể tìm thấy những sự thật mà Đức Phật đã chỉ ra. Không cần phải đi tìm kiếm từ bên ngoài. Rốt cuộc rồi ta cũng phải quay lại đối diện và nhìn vào bản chất đích thực của chính mình. Chính tại đây ta mới có thể hiểu biết về Giáo Pháp.

Q:

A lot of times it seems that many monks here are not practicing. They look sloppy or unmindful. This disturbs me.

A:

It is not proper to watch other people. This will not help your practice. If you are annoyed, watch the annoyance in your own mind. If others' discipline is bad or they are not good monks, this is not for you to judge. You will not discover wisdom watching others. Monks' discipline is a tool to use for your own meditation. It is not a weapon to use to criticize or find fault. No one can do your practice for you, nor can you do practice for anyone else. Just be mindful of your own doings. This is the way to practice.

Hỏi:

Con thưa thầy, rất nhiều lần con thấy nhiều Tỳ kheo ở đây không tu tập gì. Họ có vẻ tà tà lơ là và không chánh niệm. Điều này làm con băn khoăn.

Trả lời:

Để ý dòm ngó đến những người khác là điều không đúng. Điều này sẽ không giúp thầy tu tập tốt. Nếu thầy thấy băn khoăn, khó chịu, hãy quán sát sự khó chịu đang có mặt trong tâm mình. Nếu những người khác không giữ tốt thanh quy giới luật thanh ở đây, hoặc họ không phải là những tu sĩ tốt thì điều đó cũng không phải để cho thầy phán xét. Thầy sẽ không phát huy được trí tuệ nào từ việc để ý dòm ngó những người khác. Giới luật Tỳ kheo là một công cụ dùng để trợ giúp cho việc tu thiền của chúng ta. Nó không phải là vũ khí chúng ta dùng để chỉ trích, phê bình hay bắt lỗi người khác. Không ai có thể tu tập giùm cho ta, hoặc ta cũng chẳng bao giờ tu tập tu sửa giùm cho người khác. Chỉ cần chánh niệm về những việc của mình. Đây mới chính là cách tu tập.

Q:

I have been extremely careful to practice sense restraint. I always keep my eyes lowered and am mindful of every little action I do. When eating, for example, I take a long time and try to see each touch: chewing, tasting, swallowing, etc. I take each step very deliberately and carefully. Am I practicing properly?

A:

Sense restraint is proper practice. We should be mindful of it throughout the day. But don't overdo it! Walk and eat and act naturally. And then develop natural mindfulness of what is going on within yourself. Don't force your meditation nor force yourself into awkward patterns. This is another form of craving. Be patient. Patience and endurance are necessary. If you act naturally and are mindful, wisdom will come naturally too.

Hỏi:

Thưa thầy, con đã cực kỳ cố gắng cẩn thận để tu tập sự kiềm chế giác quan (các căn). Con luôn giữ mắt nhìn thấp và chánh niệm vào mọi hành động nhỏ nhất của mình. Chẳng hạn, khi ăn con ăn chậm rãi và cố nhìn xem từng sự tiếp xúc: nhai, nếm, nuốt... Con chánh niệm từng bước một cách ý thức và kỹ càng. Như vậy con có đang tu tập đúng đắn không?

Trả lời:

Kiềm chế giác quan (phòng hộ các căn) là cách tu tập đúng đắn. Chúng ta nên chánh niệm về việc này trong suốt ngày. Nhưng đừng làm quá lố!. Cứ đi và ăn và làm một cách tự nhiên. Và sau đó tu tập phát triển sự chánh niệm tự nhiên về mọi thứ đang diễn ra bên trong mình. Đừng ép sự thiền của mình hay miễn cưỡng bản thân mình vào những khuôn khổ cứng nhắc, thiếu tự nhiên. Gượng ép theo khuôn khổ là một dạng khác của tham dục. Hãy kiên nhẫn. Kiên nhẫn và chịu khó là điều cần thiết. Nếu ta hành động một cách tự nhiên và luôn chánh niệm thì trí tuệ cũng sẽ khởi sinh một cách tự nhiên.

Q:

Is it necessary to sit for very long stretches?

A:

No, sitting for hours on end is not necessary. Some people think that the longer you can sit, the wiser you must be. I have seen chickens sit on their nests for days on end! Wisdom comes from being mindful in all postures. Your practice should begin as you awaken in the morning. It should continue until you fall asleep. Don't be concerned about how long you can sit. What is important is only that you keep watchful whether you are working or sitting or going to the bathroom.
Each person has his own natural pace. Some of you will die at age fifty, some at age sixty-five, and some at age ninety. So, too, your practice will not be all identical. Don't think or worry about this. Try to be mindful and let things take their natural course. Then your mind will become quieter and quieter in any surroundings. It will become still like a clear forest pool. Then all kinds of wonderful and rare animals will come to drink at the pool. You will see clearly the nature of all things (sankhārās) in the world. You will see many wonderful and strange things come and go. But you will be still. Problems will arise and you will see through them immediately. This is the happiness of the Buddha.

Hỏi:

Có cần thiết phải ngồi trong một khoảng thời gian rất lâu không?

Trả lời:

Không, ngồi nhiều tiếng đồng hồ là không cần thiết. Nhiều người vẫn hay nghĩ rằng ngồi thiền càng lâu thì càng thêm trí tuệ. Tôi đã từng thấy mấy con gà ngồi miết mấy ngày ở trong ổ mà có thấy con nào trở nên khôn ngoan hơn bình thường đâu! Trí tuệ khởi sinh từ việc chánh niệm trong tất cả mọi tư thế! Sự tu tập của chúng ta phải bắt đầu ngay sau khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng. Nó sẽ liên tục cho đến lúc ta ngủ vào buổi tối. Đừng quan trọng mình ngồi thiền được bao nhiêu. Điều quan trọng là phải luôn giữ mình quan sát chánh niệm cho dù mình đang làm gì hoặc mình đang đi vào phòng vệ sinh.

Mỗi người có nhịp độ riêng tự nhiên của mình. Có người sẽ chết vào độ tuổi năm mươi, số khác chết vào độ sáu mươi lăm, và có số chết vào độ tuổi chín mươi. Do vậy, tương tự, sự tu tập của mỗi người là không giống hệt nhau. Đừng lo về chuyện đó. Cố gắng chánh niệm và cứ để cho mọi sự diễn ra theo tiến trình tự nhiên của chúng. Làm vậy tâm ta sẽ trở nên tĩnh lặng hơn và tĩnh lặng hơn trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nó sẽ trở thành giống như một hồ nước trong suốt tĩnh lặng ở trong rừng. Rồi thì tất cả các loài thú kỳ diệu và quý hiếm sẽ đến uống nước ở hồ. Ta sẽ nhìn thấy một cách rõ rệt bản chất của tất mọi thứ [mọi thứ hữu vi, sankhārās] trên thế gian này. Ta sẽ nhìn thấy nhiều thứ kỳ diệu và kỳ lạ đến và đi. Nhưng ta thì vẫn luôn tĩnh lặng và tĩnh tại. Những thứ khó khổ sẽ khởi sinh và ta sẽ lập tức nhìn thấu rõ chúng. Đây chính là niềm hạnh phúc của Đức Phật.

Q:

I still have very many thoughts. My mind wanders a lot even though I am trying to be mindful.

A:

Don't worry about this. Try to keep your mind in the present. Whatever there is that arises in the mind, just watch it. Let go of it. Don't even wish to be rid of thoughts. Then the mind will reach its natural state. No discriminating between good and bad, hot and cold, fast and slow. No me and no you, no self at all. Just what there is. When you walk on alms-round, no need to do anything special. Simply walk and see what there is. No need to cling to isolation or seclusion. Wherever you are, know yourself by being natural and watching. If doubts arise, watch them come and go. It's very simple. Hold on to nothing.
It is as though you are walking down a road. Periodically you will run into obstacles. When you meet defilements, just see them and just overcome them by letting go of them. don't think about the obstacles you have passed already. Don't worry about those you have not yet seen. Stick to the present. Don't be concerned about the length of the road or about the destination. Everything is changing. Whatever you pass, do not cling to it. Eventually the mind will reach its natural balance where practice is automatic. All things will come and go of themselves.

Hỏi:

Thưa thầy, con cứ luôn có rất nhiều ý nghĩ. Tâm con cứ lăng xăng chạy nhảy liên tục ngay cả khi con đang cố gắng chánh niệm.

Trả lời:

Đừng lo lắng chuyện đó. Cứ cố giữ tâm mình có mặt trong hiện tại. Dù có bất cứ thứ gì (ý nghĩ nào) khởi lên trong tâm, chỉ cần nhìn nó. Mặc kệ nó, buông bỏ nó. Thậm chí đừng cố dẹp bỏ hay xua đuổi những ý nghĩ. Đừng làm gì hết. Rồi tâm sẽ đi đến trạng thái tự nhiên của nó. Không phân biệt xấu tốt, nóng lạnh, nhanh chậm. Không tôi, không anh, không có 'ai' cả. Khi ta đang đi khất thực, không cần phải làm gì đặc biệt. Chỉ đơn thuần bước đi và nhìn xem thứ gì đang có mặt. Không dính chấp vào việc ở cách ly hay sống ẩn dật. Dù đang ở đâu, cứ hiểu bằng cách hành sự một cách tự nhiên và luôn quan sát mình. Nếu có nghi ngờ khởi sinh, cứ nhìn xem nó đến và đi, nó sinh và diệt. Rất đơn giản như vậy. Không nắm giữ điều gì, không nắm chấp sự gì. Cứ như bạn đang bước đi trên đường. Đôi lúc bạn gặp phải những chướng ngại. Khi gặp những ô nhiễm ô trược, cứ nhìn chúng khởi sinh và vượt qua chúng bằng cách để mặc chúng biến qua. Chỉ nhìn xem, và buông bỏ. Đừng quay đầu nhìn lại hay nghĩ lại về những chướng ngại mình đã vượt qua. Đừng lo lắng về những thứ chướng ngại bạn chưa gặp phải. Bám vào hiện tại, an trú trong hiện tại, chỉ biết hiện tại. Đừng lo lắng về chiều dài của con đường hay suy nghĩ về đích đến của con đường. Mọi thứ đều luôn thay đổi. Cái gì mình đã đi qua, đừng dính chấp hay để ý đến nó nữa. Cứ làm như vậy, rồi cuối cùng cái tâm cũng sẽ đạt đến sự cân bằng tự nhiên của nó, đó là nơi sự tu tập trở nên tự động. Tất cả mọi thứ sẽ tự đến và tự đi như chúng là.

Q:

Have you ever looked at the Altar Sutra of the 6th Patriarch, Hui Neng?

A:

Hui Neng's wisdom is very keen. It is very profound teaching, not easy for beginners to understand. But if you practice with our discipline and with patience, if you practice not-clinging, you will eventually understand. Once I had a disciple who stayed in a grass-roofed hut. It rained often that rainy season and one day a strong wind blew off half the roof. He did not bother to fix it, just let it rain in. Several days passed and I asked him about his hut. He said he was practicing not-clinging. This is not-clinging without wisdom. It is about the same as the equanimity of a water buffalo. If you live a good life and live simply, if you are patient and unselfish, you will understand the wisdom of Hui Neng.

Hỏi:

Thầy có bao giờ coi qua giáo lý trong Pháp Bảo Đàn Kinh của ngài Lục Tổ Huệ Năng (Hui Neng) của Thiền Tông Trung Hoa chưa?

Trả lời:

Trí tuệ của ngài Huệ Năng là rất sắc bén, thấu suốt. Đó là giáo lý rất thâm sâu, không dễ gì hiểu được đối với người sơ cơ. Nhưng nếu các thầy tu tập theo pháp môn của mình và với sự kiên trì, nếu các thầy tu tập sự không-dính-chấp (phá chấp), thì cuối cùng các thầy cũng hiểu được nó thôi. Ngày trước tôi có một đệ tử sống trong túp lều tranh. Mùa mưa năm đó mưa dầm dề liên tục và một bữa kia gió mạnh thổi bay một nửa mái lều. Thầy ấy chẳng buồn sửa lại nó, cứ để mưa xối vào. Sau vài ngày, tôi hỏi thầy ấy về túp lều ra sao. Thầy ấy nói thầy ấy đang tu tập sự không-dính-chấp. (Nhưng theo tôi), đó thực ra là sự không-dính-chấp không có trí tuệ. (Sự cố tình không-dính-chấp, đó chỉ là sự dính danh). Điều đó cũng giống như sự không-thèm-phản ứng (sự bình thản vô trí) của một con trâu mà thôi (không trí tuệ). (Con trâu cứ bình thản nằm, đi, gặm cỏ, phớt lờ mọi chuyện xảy ra xung quanh, nhưng điều đó không có nghĩa là con trâu có trí tuệ phá chấp). Nếu bạn sống một đời sống tốt lành và sống một cách giản đơn, nếu bạn kiên nhẫn và không còn vị kỷ, thì bạn sẽ hiểu được trí tuệ của Huệ Năng.

Q:

You have said that samatha and vipassanā or concentration and insight are the same. Could you explain this further?

A:

It is quite simple. Concentration (samatha) and wisdom (vipassanā) work together. First the mind becomes still by holding on to a meditation object. It is quiet only while you are sitting with your eyes closed. This is samatha and eventually this samādhi-base is the cause for wisdom or vipassanā to arise. Then the mind is still whether you sit with your eyes closed or walk around in a busy city. It's like this. Once you were a child. Now you are an adult. Are the child and the adult the same person? You can say that they are, or looking at it another way, you can say that they are different. In this way samatha and vipassanā could also be looked at as separate. Or it is like food and feces. Food and feces could be called the same and they can be called different. Don't just believe what I say, do your practice and see for yourself. Nothing special is needed. If you examine how concentration and wisdom arise, you will know the truth for yourself. These days many people cling to the words. They call their practice vipassana. Samatha is looked down on. Or they call their practice samatha. It is essential to do samatha before vipassanā, they say. All this is silly. Don't bother to think about it in this way. Simply do the practice and you'll see for yourself.

Hỏi:

Thầy đã nói rằng thực ra thiền định (samatha) và thiền tuệ minh sát (vipassanā) chỉ là một. Xin thầy giải thích thêm cho chúng con?

Trả lời:

Điều này rất đơn giản. Sự định tâm hay thiền định (samatha) và thiền tuệ minh sát (vipassanā) cùng làm việc với nhau. Trước tiên tâm trở nên tĩnh tại nhờ việc hướng sự chú tâm vào một đối tượng thiền. Tâm được tĩnh lặng chỉ khi bạn đang ngồi thiền nhắm mắt. Sự tĩnh lặng hay sự định-tâm được tạo ra bằng cách này được gọi là thiền định. Thiền định (samatha) và cuối cùng đạt đến trạng thái định tâm (samādhi) như vậy sẽ là nguyên nhân giúp trí tuệ hay trí tuệ minh sát (vipassanā) khởi sinh. Sau khi đạt đến trí tuệ thì tâm bạn luôn tĩnh tại cho dù bạn đang ngồi thiền nhắm mắt hay đang đi quanh ngoài phố chợ. Giống như vầy. Lúc xưa bạn là đứa bé nhỏ. Giờ bạn đã thành người lớn. Đứa bé và người lớn đó là cùng một người phải không? Bạn có thể nói đúng vậy, nhưng bạn cũng có thể nhìn theo một cách khác và nói rằng đó là hai 'người' khác nhau. Tương tự, thiền định và thiền tuệ minh sát cũng có thể được coi là hai thứ khác nhau. Hoặc như thức ăn và phân, Thức ăn và phân có thể được coi là cùng một thứ, hoặc có thể coi là hai thứ khác nhau. Đừng vội tin vào lời tôi đang nói, hãy tu tập thiền tập và bạn sẽ tự mình hiểu ra điều đó. Không cần làm đặc biệt, không cần xác định cách này là thiền định hay thiền tuệ gì gì cả. Nếu bạn xem xét cách mà định và tuệ khởi sinh, bạn sẽ tự mình biết rõ. Thời bây giờ người ta cứ bám chấp vào từ ngữ. Họ gọi cách thiền của mình là thiền tuệ, thiền minh sát. Họ coi thường thiền định. (Đó là một phái). Hoặc họ tự gọi cách tu của mình là thiền định. Họ lại nói phải tu thiền định trước, rồi mới tu thiền tuệ minh sát. (Phái khác thì nói vậy). Tất cả những cách nói như vậy đều là ngớ ngẩn. Đừng để tâm đến những cách gọi như vậy. Cứ tu tập cái tâm một cách đúng đắn, và rồi bạn sẽ tự mình hiểu rõ cái gì là thiền định, cái gì là thiền tuệ, hay "thiền chỉ là thiền".

Q:

Is it necessary to be able to enter absorption in our practice?

A:

No, absorption is not necessary. You must establish a modicum of tranquillity and one-pointedness of mind. Then you use this to examine yourself. Nothing special is needed. If absorption comes in your practice, this is OK too. Just don't hold on to it. Some people get hung up with absorption. It can be great fun to play with. You must know proper limits. If you are wise, then you will know the uses and limitations of absorption, just as you know the limitations of children verses grown men.

Hỏi:

Trong cuộc tu tập, có phải điều cần thiết là chúng ta phải tu được khả năng chứng nhập tầng thiền định?

Trả lời:

Không, trạng thái tầng thiền định là không cần thiết phải có. Bạn phải thiết lập được mức độ tĩnh-lặng và nhất-điểm của tâm. Rồi bạn dùng nó để xem xét bản thân mình. Không cần làm điều gì đặc biệt. Nếu có đạt đến tầng thiền định, điều đó cũng tốt. Nhưng đừng cố chấp là phải tu được tầng thiền định. Một số người cứ cố chấp về điều này, nghĩ rằng cần phải đạt đến trạng thái tầng thiền định thì mới tu tiếp được đến trí tuệ được. Tầng thiền định là một trò chơi lớn. Nhưng bạn cần nên biết giới hạn đúng đắn của nó. Nếu bạn khôn khéo, có trí tuệ, thì bạn sẽ biết được những công dụng và giới hạn của tầng thiền định. Cũng như cách bạn biết rõ những giới hạn của những đứa trẻ so với một người lớn.

(Những đứa trẻ không cần phải phát triển đến mức độ siêu thường thì mới có thể trở thành một người trưởng thành tốt sau này. Những đứa trẻ quá siêu việt lạ thường chưa chắc sẽ trở thành một người lớn khôn, hiền trí sau đó).

Q:

Why do we follow the ascetic rules such as only eating out of our bowls?

A:

The ascetic precepts are to help us cut defilement. By following the ones such as eating out of our bowls we can be more mindful of our food as medicine. If we have no defilements, then it does not matter how we eat. But here we use the form to make our practice simple. The Buddha did not make the ascetic precepts necessary for all monks, but he allowed them for those who wished to practice strictly. They add to our outward discipline and thereby help increase our mental resolve and strength. These rules are to be kept for yourself. Don't watch how others practice. Watch your own mind and see what is beneficial for you. The rule that we must take whatever meditation cottage assigned to us is a similarly helpful discipline. It keeps monks from being attached to their dwelling place. If they go away and return, they must take a new dwelling. This is our practice - not to cling to anything.

Hỏi:

Tại sao chúng ta phải sống theo giới luật khất sĩ, chẳng hạn như chỉ ăn từ bình bát dùng để khất thực?

Trả lời:

Những giới luật khất sĩ (gồm 13 điều luật dhutanga) là để giúp chúng ta cắt bỏ những tham dục và ô nhiễm (từ những việc ăn, uống, ngủ, nghĩ, tư thế trong cuộc sống tu hành hàng ngày). Bằng cách tuân thủ theo những điều luật, ví dụ như phải ăn từ bình bát khất thực của mình, giúp cho chúng ta càng thêm chánh niệm về thức ăn như là thuốc để dưỡng thân (chứ không phải để thỏa mãn tham muốn ăn uống, khoái lạc). Nếu chúng ta không còn những ô nhiễm và thèm muốn khoái lạc, thì ăn cách nào cũng không còn là vấn đề. Nhưng ở đây chúng ta dùng hình thức này để giúp cho việc tu tập của chúng ta hiệu quả hơn. Thực ra Đức Phật đã không đưa 13 giới luật khất sĩ khổ hạnh vào Giới Luật Tỳ Kheo như là những điều bắt buộc; 13 giới khất sĩ khổ hạnh là nằm ngoài, là để tự chọn. Phật chỉ gợi ý và các Tỳ kheo nào thực sự muốn tu tập nghiêm túc và mau tiến bộ thì tự chọn thêm 13 giới luật khất sĩ khổ hạnh đó để kiềm chế các ô nhiễm trong các hành động ăn, uống, ngủ, nghỉ của mình. Nếu ai không thích chọn thì thôi. Đừng để ý người khác tu tập ra sao. Hãy tự quan sát tâm của mình và nhìn xem điều gì là lợi lạc cho mình. Ví dụ, điều luật rằng chúng ta ở đây phải chấp nhận bất kỳ căn lều (cốc) nào được phân cho mình là một quy định có ích cho người tu ở đây. Nó giúp các tu sĩ không bị dính chấp vào nơi ở của mình. (Khác với những nơi khác, các thầy tu coi cái cốc, cái phòng, hay chùa của mình như là 'nhà' của mình hay 'tài sản' của mình vậy. Họ thậm chí không muốn ai vào đó ở hoặc không muốn chia sẻ với bạn tu hoặc thậm chí không muốn rời đi khỏi chỗ đó. Điều đó là sự dính mắc ràng buộc, một dạng tham dục). Ở đây, nếu tu sĩ nào đi nơi khác (vì học hành, vì Phật sự) và quay về, họ phải nhận một kuti (cốc, phòng) khác. Đây là cách tu tập của chúng tôi ở đây—không dính mắc vào bất cứ thứ gì.

Q:

If putting everything together in our bowls is important, why don't you as a teacher do it yourself? Don't you feel it is important for the teacher to set an example?

A:

Yes, it is true, a teacher should set an example for his disciples. I don't mind that you criticize me. Ask whatever you wish. But it is important that you do not cling to the teacher. If I were absolutely perfect in outward form, it would be terrible. You would all be too attached to me. Even the Buddha would sometimes tell his disciples to do one thing and then do another himself. Your doubts in your teacher can help you. You should watch your own reactions. Do you think it is possible that I keep some food out of my bowl in dishes to feed the laymen who work around the temple?
Wisdom is for yourself to watch and develop. Take from the teacher what is good. Be aware of your own practice. If I am resting while you must all sit up, does this make you angry? If I call the color blue red or say that male is female, don't follow me blindly.
One of my teachers ate very fast. He made noises as he ate. Yet he told us to eat slowly and mindfully. I used to watch him and get very upset. I suffered, but he didn't! I watched the outside. Later I learned. Some people drive very fast but carefully. Others drive slowly and have many accidents. Don't cling to rules, to outer form. If you watch others at most ten percent of the time and watch yourself ninety percent, this is the proper practice. At first I used to watch my teacher Ajahn Tong Raht and had many doubts. People even thought he was mad. He would do strange things or get very fierce with his disciples. Outside he was angry, but inside there was nothing. Nobody there. He was remarkable. He stayed clear and mindful until the moment he died.
Looking outside the self is comparing, discriminating. You will not find happiness that way. Nor will you find peace if you spend your time looking for the perfect man or the perfect teacher. The Buddha taught us to look at the Dhamma, the truth, not to look at other people.

Hỏi:

Thưa thầy, quy định là phải bỏ tất cả thức ăn vào trong bình bát rồi mới ăn. Nếu quy định này là quan trọng, vậy tại sao thầy không làm theo đúng như vậy để làm gương cho các học trò ở đây?

Trả lời:

Đúng rồi, một sư thầy phải nên làm gương cho các học trò noi theo. Tôi không buồn gì khi thầy chỉ trích tôi như vậy. Thầy cứ việc hỏi những điều thầy thắc mắc. Nhưng điều quan trọng là đừng nên dính chấp vào sư thầy hay sư phụ. Nếu bề ngoài tôi tuyệt đối hoàn thiện, thì điều đó chắc sẽ là tệ hại. Vì nếu tôi tuyệt đối hoàn thiện thì mọi người sẽ quá ràng buộc theo tôi, suốt ngày dính chấp vào sư phụ. Ngay cả Đức Phật đôi lúc nói với các đệ tử làm như vầy, nhưng bản thân Phật thì lại làm khác đi. Sự nghi ngờ của thầy về sư phụ như vậy là có thể giúp ích cho thầy. Thầy nên quán sát phản ứng của mình. Theo thầy (theo giới luật) thì liệu tôi có thể lấy thức ăn từ trong bình bát để ra dĩa và đem đi mời những Phật tử tại gia đang làm việc xung quanh chùa này, hay không?

Trí tuệ là do mình tự quan sát và tu dưỡng. Học làm theo những điều gì tốt ở sư thầy. Quan trọng là phải luôn biết tỉnh giác về việc tu tập của mình. Nếu tôi nằm nghỉ trong khi tất cả các thầy phải ngồi, điều đó các thầy có bực tức hay không? Nếu tôi gọi màu xanh là đỏ, đàn ông là đàn bà, quý thầy có làm theo tôi một cách mù quáng như vậy không?. Một trong những sư phụ trước kia của tôi ăn rất nhanh. Sư phụ ấy còn nhai rộp rộp ra tiếng khi ăn. Nhưng sư phụ ấy lại bắt chúng tôi phải ăn một cách chậm rãi và chánh niệm. Tôi từng nhìn sư ấy ăn và tôi rất bực bội. Tôi tự thấy khổ, còn sư ấy thì không! Vì tôi cứ lo nhìn bên ngoài. Sau đó tôi học được bài học. Nhiều người lái xe rất nhanh, nhưng rất cẩn thận, vì họ đã rất thiện khéo. Nhiều người lái xe chậm rì, nhưng hay gây ra tai nạn. Đừng cố chấp vào những điều luật, quy định, vào những gì bên ngoài bản thân mình. Nếu chúng ta để ý nhìn xem người khác 10% thời gian và nhìn vào quan sát mình 90% thời gian thì có lẽ là cách tu tập phù hợp nhất. Trước kia, ban đầu tôi cứ để ý hòm ngó sư phụ tôi là Ajahn Tong Raht và có rất nghiều nghi ngờ về vị sư thầy của mình. Nhiều người thậm chí nghĩ sư ấy bị khùng. Sư ấy hay làm những điều lạ kỳ và hà khắc với những đệ tử của mình. Bên ngoài sư có vẻ như giận dữ, nhưng bên trong thì chẳng có gì. Chẳng có 'ai' ở trong đó. Sư ấy rất lỗi lạc. Sư luôn an trú sáng suốt và chánh niệm cho đến ngày sư chết.

Nhìn ra bên ngoài bản thân là phân biệt, so sánh, đối đãi. Ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy an lạc theo cách hướng ngoại đó. Hoặc chúng ta cũng chẳng tìm thấy lợi lạc gì nếu cứ bỏ phí thời gian để nhìn ngắm một người hoàn thiện hay một vị sư thầy hoàn thiện. Phật đã dạy kỹ chúng ta là phải nên hướng nội nhìn vào Giáo Pháp, sự thật, chứ không phải hướng ngoại nhìn ra người khác.

Q:

How can we overcome lust in our practice? Sometimes I feel as if I am a slave to my sexual desire.

A:

Lust should be balanced by contemplation of loathesomeness. Attachment to bodily form is one extreme and one should keep in mind the opposite. Examine the body as a corpse and see the process of decay or think of the parts of the body such as the lungs, spleen, fat, feces, and so forth. Remember these and visualize this loathesome aspect of the body when lust arises. This will free you from lust.

Hỏi:

Làm sao chúng con có thể vượt qua sắc dục trong thời gian tu tập? Đôi lúc con thấy mình như là kẻ nô lệ cho nhục dục của mình.

Trả lời:

Nhục dục nên được cân bằng bằng cách quán niệm về sự ghớm ghiếc của thân. Sự dính mắc vào sắc dục là một bên và chúng ta nên giữ trong tâm mình đầu bên kia. (Đầu nhục dục càng nặng thì ta càng phải kiềm giữ đầu bên này càng mạnh để tạo sự cân bằng, để ta khỏi bị hất tung lên). Hãy coi thân thể như một xác chết và nhìn vào tiến trình thối rửa của nó, hoặc nghĩ đến những thứ sẽ bị thối rửa như da, thịt, mỡ, phổi, phèo, phân cứt, và vân vân. Hãy ghi nhớ những điều đó và hình dung (quán tưởng) về sự ghớm ghiếc này của thân thể mỗi khi nhục dục nổi lên. Cách này sẽ giúp ta thoát khỏi nhục dục. (Quán niệm, quán tưởng, thiền quán về 32 bộ phận của thân và về tử thi).

Q:

How about anger? What should I do when I feel anger arising?

A:

You must use loving-kindness. When angry states of mind arise in meditation, balance them by developing feelings of loving-kindness. If someone does something bad or gets angry, don't get angry yourself. If you do, you are being more ignorant than they. Be wise. Keep in mind compassion, for that person is suffering. Fill your mind with loving-kindness as if he were a dear brother. Concentrate on the feeling of loving-kindness as a meditation subject. Spread it to all beings in the world. Only through loving-kindness is hatred overcome.
Sometimes you may see other monks behaving badly. You may get annoyed. This is suffering unnecessarily. It is not yet our Dhamma. You may think like this: ''He is not as strict as I am. They are not serious meditators like us. Those monks are not good monks''. This is a great defilement on your part. Do not make comparisons. Do not discriminate. Let go of your opinion as watch your opinions and watch yourself. This is our Dhamma. You can't possibly make everyone act as you wish or be like you. This wish will only make you suffer. It is a common mistake for meditators to make, but watching other people won't develop wisdom. Simply examine yourself, your feelings. This is how you will understand.

Hỏi:

Về sân giận thì sao? Con phải làm gì khi thấy sân giận khởi sinh?

Trả lời:

Thầy phải dùng tâm từ (metta). Khi có sân khởi sinh trong tâm trong khi thiền, hãy cân bằng nó bằng cách phát huy cảm giác về tâm từ. Nếu có người ta làm gì sai với mình hay đang nổi giận với mình, đừng tự mình nổi giận. Nếu mình nổi giận theo thì mình còn ngu si hơn cả họ. Hãy khôn ngoan. Giữ trong tâm lòng thương xót, bi mẫn dành cho họ, vì họ làm điều xấu hay sân giận là họ đang bị khổ. Đổ đầy trong tâm bằng lòng từ như thể họ là anh em ruột thịt của mình. Tập trung, chú tâm vào cái cảm-giác tâm từ như là một đối tượng thiền. (Thiền về cảm thọ đó). Phóng trải cảm giác từ tâm đó cho tất cả mọi chúng sinh trên thế gian. Lòng thù hận, sân giận chỉ có thể được chinh phục bằng tâm từ.

Đôi khi ta gặp những tăng khác đối xử một cách xấu. Ta có thể bị tức giận. Đây là sự khổ, khổ một cách không cần thiết. Đó không phải là Giáo Pháp của chúng ta. Các thầy có thể nghĩ như vầy: "Vị tăng đó có thể không nghiêm túc bằng ta. Những tăng đó không phải là những thiền sinh nghiêm túc. Những tăng đó là không phải là tăng tốt". Nghĩ như vậy thì đó là một đống ô nhiễm về phần mình. Đừng so sánh như vậy. Đừng phân biệt như vậy. Buông bỏ mọi ý kiến ngay khi mình quan sát sự ý kiến của mình, và hướng vào quan sát bản thân mình. Đây mới là Giáo Pháp của chúng ta. Ta không thể nào bắt, khiến, trông đợi hay muốn người khác hành sự mọi thứ giống mình hay theo ý mình. Sự muốn kiểu đó chỉ làm ta khổ mà thôi. Đó là lỗi thông thường mà các thiền sinh hay bị dính phải, và việc để ý phán xét người khác chẳng bao giờ tạo ra trí tuệ. Cứ đơn thuần quan sát bản thân mình, những cảm giác của mình. Đây là cách rồi các thầy sẽ hiểu.

Q:

I feel sleepy a great deal. It makes it hard to meditate.

A:

There are many ways to overcome sleepiness. If you are sitting in the dark, move to a lighted place. Open your eyes. Get up and wash your face or take a bath. If you are sleepy, change postures. Walk a lot. Walk backwards. The fear of running into things will keep you awake. If this fails, stand still, clear the mind and imagine it is full daylight. Or sit on the edge of a high cliff or deep well. You won't dare sleep! If nothing works, then just go to sleep. Lay down carefully and try to be aware until the moment you fall asleep. Then as you awaken, get right up. Don't look at the clock or roll over. Start mindfulness from the moment you awaken. If you find yourself sleepy everyday, try to eat less. Examine yourself. As soon as five more spoonfuls will make you full, stop. Then take water until just properly full. Go and sit. Watch your sleepiness and hunger. You must learn to balance your eating. As your practice goes on you will feel naturally more energetic and eat less. But you must adjust yourself.

Hỏi:

Con hay cảm thấy buồn ngủ. Điều đó làm cho con khó thiền tập.

Trả lời:

Có nhiều cách đối trị vượt qua sự buồn ngủ. Nếu bạn đang ngồi trong bóng tối, chuyển ra ngồi chỗ có ánh sáng. Mở mắt ra. Đứng dậy và đi rửa mặt hay đi tắm rửa. Nếu bị buồn ngủ, thay đổi tư thế. Đi thiền nhiều hơn. Đi lùi bước. Do sợ sẽ tông trúng nhiều thứ sẽ giữ bạn tỉnh táo. Nếu làm như vậy cũng buồn ngủ thì đứng yên, làm thông suốt cái tâm và tưởng tượng lúc đó là ban ngày sáng rỡ. Hoặc đến trên cạnh một mỏm đá hoặc trên thành một giếng sâu. Bạn sẽ không dám ngủ đâu! Nếu không còn cách nào có tác dụng, thì cứ đi ngủ. Nằm xuống một cách cẩn thận và cố gắng tỉnh giác cho đến lúc ngủ. Rồi ngay thức giấc, thì ngồi dậy ngay. Đừng nhìn đồng hồ hay lăn qua, nướng lại. Bắt đầu chánh niệm từ lúc bạn thứ dậy. Nếu thấy mình hay bị buồn ngủ suốt ngày thì cố gắng ăn ít lại. Xem xét bản thân mình. Ngay khi cảm thấy nếu ăn thêm năm muỗng nữa sẽ no thì nên ngừng ăn. Sau đó uống nước tráng miệng vào để vừa đủ no. Rồi ra ngồi nghỉ (để tiêu hóa thức ăn). Quan sát sự buồn ngủ và sự đói của mình. Hãy học cách cân bằng trong ăn uống. Khi sự tu tập của bạn càng tiến bộ thì tự nhiên bạn sẽ cảm thấy có thêm năng lượng và nhờ đó bạn sẽ tự động ăn ít lại. Nhưng trước mắt bạn phải luôn điều chỉnh bản thân trong việc ăn uống sao cho phù hợp, vừa đủ để tránh làm buồn ngủ và tránh những trở ngại khác cho việc tu tập hàng ngày.

Q:

Why must we do so much prostrating here?

A:

Prostrating is very important. It is an outward form that is part of practice. This form should be done correctly. Bring the forehead all the way to the floor. Have the elbows near the knees and the palms of the hands on the floor about three inches apart. Prostrate slowly, be mindful of your body. It is a good remedy for our conceit. We should prostrate often. When you prostrate three times you can keep in mind the qualities of the Buddha, the Dhamma and the Sangha, that is, the qualities of mind of purity, radiance and peace. So we use the outward form to train ourselves. Body and mind become harmonious. Don't make the mistake of watching how others prostrate. If young novices are sloppy or the aged monks appear unmindful, this is not for you to judge. People can be difficult to train. Some learn fast but others learn slowly. Judging others will only increase your pride. Watch yourself instead. Prostrate often, get rid of your pride.
Those who have really become harmonious with the Dhamma get far beyond the outward form. Everything they do is a way of prostrating. Walking, they prostrate; eating, they prostrate; defecating, they prostrate. This is because they have got beyond selfishness.

Hỏi:

Tại sao chúng ta phải quỳ lạy úp mặt xuống đất nhiều như vậy?

Trả lời:

Lễ lạy là rất quan trọng. Đó là một nghi thức bên ngoài, nhưng là một phần của việc tu tập ở đây. Nghi thức này nên được thực hiện một cách đúng đắn. Hạ trán xuống sàn nhà. Để hai khỷu tay gần hai đầu gối và lòng bàn tay úp lên sàn nhà cách mỗi bên đầu khoảng năm, sáu phân. Cúi lạy một cách chậm rãi, chánh niệm về thân. Đây là cách tốt để đối trị tính tự cao tự đại của mình. Chúng ta nên cúi lạy thường xuyên. Nên lễ lạy như vậy ba lần mỗi ngày thì có thể ghi nhớ trong tâm những phẩm hạnh của Đức Phật, Giáo Pháp, và Tăng Đoàn, đó là những phẩm hạnh của cái tâm trong sạch, sáng tỏ và bình an. Do vậy chúng ta dùng nghi thức ngoại biệt này để huấn luyện bản thân mình. Thân và tâm trở nên hòa hợp. Đừng có sai lầm chỉ lo nhìn ngó người khác vái lạy. Nếu có một sa-di lễ lạy không thẳng thóm, hoặc có một vị tăng già tỏ ra không chánh niệm khi lễ lạy Tam Bảo thì đó cũng không phải là chuyện để ta dòm ngó hay phán xét. Người ta có thể rất khó huấn luyện. Một số học hành rất nhanh, có người học chậm, hành cũng chậm. Phán xét người khác chỉ làm tăng tính tự cao tự đại của mình mà thôi. Thay vì vậy, chỉ cần hướng vào quan sát bản thân mình. Quỳ lạy thường xuyên (theo nghi thức ở chùa), dẹp bỏ tính tự cao tự đại của mình.

Những người đã thực sự chan hòa với Giáo Pháp thì sẽ vượt trên xa khỏi những nghi thức bên ngoài. Mọi thứ họ làm đều là một cách lễ lạy. Khi đi, họ lễ lạy; khi ăn, họ lễ lạy; khi đi tiêu, họ lễ lạy. Điều đó là do họ đã vượt qua tính vị kỷ bản thân.

Q:

What is the biggest problem of your new disciples?

A:

Opinions. Views and ideas about all things. About themselves, about practice, about the teachings of the Buddha. Many of those who come here have a high rank in the community. There are wealthy merchants or college graduates, teachers and government officials. Their minds are filled with opinions about things. They are too clever to listen to others. It is like water in a cup. If a cup is filled with dirty, stale water, it is useless. Only after the old water is thrown out can the cup become useful. You must empty your minds of opinions, then you will see. Our practice goes beyond cleverness and beyond stupidity. If you think, ''I am clever, I am wealthy, I am important, I understand all about Buddhism''. You cover up the truth of anattā or no-self. All you will see is self, I, mine. But Buddhism is letting go of self. Voidness, emptiness, Nibbāna.

Hỏi: Vấn đề khó khăn lớn nhất của các đệ tử mới của thầy là gì?

Trả lời:

Những ý kiến. Đó là những quan điểm và những ý tưởng về tất cả mọi sự. Về bản thân họ, về việc tu tập, về giáo lý của Đức Phật. Nhiều người đến đây tu họ xuất phát từ thành phần cao hơn (giàu có, trí thức...) ở ngoài đời. Đó là những thương gia giàu có, những cử nhân, tiến sĩ, những giáo sư và cả quan chức. Tâm của họ đầy ắp những ý kiến và tư tưởng khác nhau về mọi thứ. Họ đã quá khôn ngoan, lanh lợi, từng trải nên khó có thể nghe học liền từ người khác. Tâm của họ giống cái ly dính chứa đầy nước dơ, nước cũ, nên cái ly đó không dùng được. Chỉ khi nào trút bỏ và làm sạch cái ly đó thì nó mới dùng được để chứa thứ nước mới. Họ cần phải dẹp hết tất cả mọi ý kiến và thành kiến đang chứa đầy ở trong tâm, xả trống cái tâm, thì như vậy họ mới bắt đầu nhìn thấy. Sự tu tập của chúng ta là vượt trên sự khôn lanh và vượt trên sự ngu ngốc. Nếu bạn cứ nghĩ "Ta là người khôn ngoan, Ta giàu có, Ta là quan trọng, Ta hiểu biết mọi thứ về triết lý Phật giáo", thì đó là vấn đề khó khăn. Bạn đã che lấp sự thật bằng cái "ngã" của mình. Tất cả những gì bạn nhìn thấy là cái ngã, cái 'ta', cái 'của ta'. Nhưng đạo Phật là sự buông-bỏ cái 'ta', là tu tập để phá ngã. Đó là sự trống không, là tính không, Niết-bàn.

Q:

Are defilements such as greed or anger merely illusory or are they real?

A:

They are both. The defilements we call lust or greed, or anger or delusion, these are just outward names, appearances. Just as we call a bowl large, small, pretty, or whatever. This is not reality. It is the concept we create from craving. If we want a big bowl, we call this one small. Craving causes us to discriminate. The truth, though, is merely what is. Look at it this way. Are you a man? You can say ''yes''. This is the appearance of things. But really you are only a combination of elements or a group of changing aggregates. If the mind is free, it does not discriminate. No big and small, no you and me. There is nothing: anattā, we say, or non-self. Really, in the end there is neither atta nor anattā.

Hỏi:

Những ô nhiễm (trong tâm) như tham và sân chỉ là ảo hay chúng là có thực?

Trả lời:

Là cả hai. Những ô nhiễm chúng ta gọi là tham dục, hay sân giận, hay si mê (tham, sân, si), đó chỉ là những cái tên bề ngoài, là những biểu hiện. Đơn giản như khi chúng ta gọi cái bình bát là lớn, nhỏ, đẹp hay gì gì đó vậy. Đó không phải là thực tại. Đó chỉ là khái niệm mà chúng ta đã tạo ra từ dục vọng (tanha) của chúng ta.

(Vì chúng ta ý muốn về lớn nhỏ, đẹp xấu, này nọ, nên chúng ta tạo ra những khái niệm để uốn theo những dục vọng đó. Ví dụ, vì chúng ta nghĩ bình bát như vầy mới là đẹp theo ý ta, cho nên ta tạo ra khái niệm như vậy là đẹp, và những kiểu bình bát khác đó là xấu, chỉ là do ý muốn của chúng ta).

Khi chúng ta cái bình bát to hơn, ta gọi cái này là nhỏ. Dục vọng khiến ta phân biệt này nọ. Nhưng dù vậy, sự thật vẫn là sự thật, thực tại vẫn là thực tại, vẫn chỉ là như-nó-là. Nhìn theo cách như vậy. Bạn có phải là một 'người' không? Bạn có thể trả lời "Phải". 'Người' là cái bề ngoài. Nhưng thực ra bạn là một sự kết hợp của nhiều yếu tố (tứ đại) hoặc của năm tập hợp (uẩn) vốn luôn luôn thay đổi. Nếu tâm tự do, nó không phân biệt đối đãi gì cả. Không lớn và nhỏ, không anh và tôi, không này và nọ. Chẳng có gì cả: không có bản ngã nào cả, vô ngã (anattā). Nói đến tận cùng luôn, thực ra cũng chẳng có ngã hay vô ngã gì gì cả.

Q:

Could you explain a little more about karma?

A:

Karma is action. Karma is clinging. Body, speech, and mind all make karma when we cling. We make habits. These can make us suffer in the future. This is the fruit of our clinging, of our past defilement. All attachment leads to making karma. Suppose you were a thief before you became a monk. You stole, made others unhappy, made your parents unhappy. Now you are a monk, but when you remember how you made others unhappy, you feel bad and suffer yourself even today. Remember, not only body, but speech and mental action can make conditions for future results. If you did some act of kindness in the past and remember it today, you will be happy. This happy state of mind is the result of past karma. All things are conditioned by cause - both long term and, when examined, moment to moment. But you need not bother to think about past, or present, or future. Merely watch the body and mind. You must figure karma out for yourself. Watch your mind. Practice and you will see clearly. Make sure, however, that you leave the karma of others to them. Don't cling to and don't watch others. If I take a poison, I suffer. No need for you to share it with me! Take what is good that your teacher offers. Then you can become peaceful, your mind will become like that of your teacher. If you will examine it, you will see. Even if now you don't understand, when you practice, it will become clear. You will know by yourself. This is called practicing the Dhamma.
When we were young, our parents used to discipline us and get angry. Really they wanted to help us. You must see it over the long term. Parents and teachers criticize us and we get upset. Later on we see why. After long practice you will know. Those who are too clever leave after a short time. They never learn. You must get rid of your cleverness. If you think yourself better than others, you will only suffer. What a pity. No need to get upset. Just watch.

Hỏi:

Thầy có thể giải thích thêm về nghiệp (kamma) giùm các con?

Trả lời:

Nghiệp là hành động. Nghiệp là dính chấp. Thân, miệng và tâm đều tạo ra nghiệp khi chúng ta còn dính chấp. Chúng ta tạo ra những thói quen (tập khí). Những thói quen đó làm chúng ta khổ sau đó. Đó là kết quả của sự dính chấp của chúng ta, của những ô nhiễm trước đây và trước kia của chúng ta. Tất cả mọi sự dính chấp đều dẫn đến tạo nghiệp. Giả sử như bạn là một kẻ trộm trước khi bạn trở thành một Tỳ kheo. Bạn đã từng ăn cắp, làm cho người mất bị khổ, làm cho cha mẹ mình thấy khổ nhục. Bây giờ đã là một thầy tu, khi nghĩ lại về hành động ăn cắp đó bạn cảm thấy tồi tệ và đến giờ vẫn thấy khổ vì hành động ăn cắp đó. Nên nhớ, không phải chỉ có hành động của thân, mà lời nói và hành động của tâm (ý) cũng tạo điều kiện cho các nghiệp quả sau đó. Nếu bạn từng làm chuyện tốt trong quá khứ, giờ nhớ lại bạn sẽ thấy hạnh phúc. Trạng thái hạnh phúc này của tâm là kết quả của nghiệp đã làm. Tất cả mọi điều đều do nguyên nhân mà khởi sinh ngay trong tích tắc hay trong tương lai. Nhưng chúng ta không cần phải bận tâm suy nghĩ về quá khứ, hay hiện tại, hay tương lai. Chỉ đơn giản quan sát thân này và tâm này của chúng ta. Hãy tự mình hiểu rõ về nghiệp của mình. Quan sát cái tâm. Tu tập và bạn sẽ thấy được rõ ràng. Tuy nhiên, cũng nên chắc là bạn hãy để nghiệp của người khác cho họ, đừng dính vào hay xía vào nghiệp của người khác. Nếu tôi uống thuốc độc, tôi dính độc. Bạn không cần phải chia sẻ chất độc đó với tôi! Chỉ cần nhận lấy những gì tốt mà người thầy đã đưa ra. Rồi thì bạn sẽ được bình an, tâm bạn sẽ được như tâm của người thầy. Nếu sau này suy xét về chỗ này, bạn sẽ thấy rõ. Ngay cả bây giờ bạn không hiểu điều tôi đang nói, nhưng sau này tu tập, nó sẽ trở nên rõ ràng với bạn. Bạn sẽ tự mình biết rõ. Đây được gọi là Giáo Pháp.

Khi còn nhỏ, cha mẹ thường răn dạy, la rầy và nổi giận với chúng ta. Thực ra cha mẹ chỉ muốn tốt cho con. Lâu ngày lớn dần lên chúng ta mới hiểu được lẽ này. Khi cha mẹ và thầy cô la rầy, chúng ta thấy bực tức. Sau này lớn lên ta hiểu tại sao họ làm vậy. Cũng vậy, có những điều bạn sẽ hiểu ra sau một thời gian dài tu tập. Những người quá khôn lanh thường bỏ tu sau một thời gian ngắn. Bởi họ chẳng bao giờ chịu học (vì họ nghĩ họ biết nhiều rồi). Bạn phải dẹp bỏ cái khôn lanh và trí thức đó của mình. Nếu bạn nghĩ bạn giỏi hơn những người khác, bạn chỉ sẽ khổ và khổ hoài mà thôi. Thật là đáng thương. Không cần phải bực tức hay thất vọng nữa. Hãy bắt đầu tu tập thực sự. Đó là chỉ cần quan sát cái tâm và thân của mình.

Q:

Sometimes it seems that since becoming a monk I have increased my hardships and suffering.

A:

I know that some of you have had a background of material comfort and outward freedom. By comparison, now you live an austere existence. Then in the practice, I often make you sit and wait for long hours. Food and climate are different from your home. But everyone must go through some of this. This is the suffering that leads to the end of suffering. This is how you learn. When you get angry and feel sorry for yourself, it is a great opportunity to understand the mind. The Buddha called defilements our teachers.
All my disciples are like my children. I have only loving kindness and their welfare in mind. If I appear to make you suffer, it is for your own good. I know some of you are well-educated and very knowledgeable. People with little education and worldly knowledge can practice easily. But it is as if you Westerners have a very large house to clean. When you have cleaned the house, you will have a big living space. You can use the kitchen, the library, the living room. You must be patient. Patience and endurance are essential to our practice. When I was a young monk I did not have it as hard as you. I knew the language and was eating my native food. Even so, some days I despaired. I wanted to disrobe or even commit suicide. This kind of suffering comes from wrong views. When you have seen the truth, though, you are free from views and opinions. Everything becomes peaceful.

Hỏi:

Đôi lúc con cảm thấy dường như từ khi con trở thành một Tỳ kheo con càng có thêm nhiều khó khăn và khổ sở?. Hay đi tu là phải gặp khó khổ?

Trả lời:

Tôi biết một số các thầy ở đây xuất tân từ nơi có nhiều tiện nghi ăn ở và nhiều sự tự do bên ngoài. Nếu so với những điều kiện tiện nghi đó thì ở đây các thầy như đang sống trong điều kiện khắc khổ. Rồi trong việc tu hành, tôi lại bắt các thầy phải ngồi và đợi hàng nhiều giờ. Thức ăn thì khác với mọi thứ được ăn ở nhà mình. Nhưng mọi người đều phải cố trải qua những thứ ở đây. Đây là sự khổ dẫn đến mục tiêu chấm dứt khổ. Đây là cách chúng ta tu học. Khi các thầy thấy bực tức và thấy tiếc cho bản thân mình, thì đó là cơ hội để học hiểu tâm mình. Phật đã gọi chính những ô nhiễm là những người thầy của chúng ta.

Tất cả các học trò ở đây đều giống như con cháu của tôi. Tôi chỉ có lòng từ bi và sự tốt lành là ở trong tâm. Nếu sự có mặt của tôi làm cho các thầy khổ, điều đó tốt cho các thầy. Tôi biết một số các thầy từng là người học cao và trí thức. Những người có ít học vấn và ít kiến thức ngoài đời thì tu tập dễ dàng. Nhưng đối với những tu sĩ người phương Tây như các thầy thì gặp nhiều khó khăn hơn về tiện nghi, ăn ở, ngôn ngữ. Các thầy phải biết nhẫn nhục, kiên trì. Kiên nhẫn và chịu khó là cốt lõi của việc tu tập. Khi tôi còn là thầy tu trẻ tuổi tôi không gặp phải vấn đề khó khổ như vậy. Tôi nói tiếng Thái và ăn đồ Thái ở đây dễ dàng. Thậm chí như vậy mà cũng đã có đôi lúc tôi thấy tuyệt vọng. Tôi đã từng chán nản, mất kiêng nhẫn, muốn bỏ y hoàn tục, thậm chí muốn tự tử. Những điều đó chỉ là do suy nghĩ còn lầm lạc. Tuy nhiên, khi nào các thầy nhìn thấy sự thật thì các thầy không còn những suy nghĩ và thành kiến sai lầm như vậy nữa. Lúc đó mọi thứ sẽ trở nên bình an.

Q:

I have been developing very peaceful states of mind from meditation. What should I do now?

A:

This is good. Make the mind peaceful, concentrated. Use this concentration to examine the mind and body. When the mind is not peaceful, you should also watch. Then you will know true peace. Why? Because you will see impermanence. Even peace must be seen as impermanent. If you are attached to peaceful states of mind you will suffer when you do not have them. Give up everything, even peace.

Hỏi:

Thưa thầy, con đã tu tập lâu và đã phát triển những trạng thái rất bình an của tâm. Giờ thì con nên làm gì tiếp?

Trả lời:

Vậy là tốt. Cứ làm cho tâm được bình an và tập trung (định). Dùng sự định tâm đó để quán xét thân và tâm. Khi tâm không được bình an thì vẫn cứ quán sát nó. Rồi thầy sẽ biết sự bình an thực sự là gì. Tại sao? Bởi lúc đó thầy sẽ thấy được tính vô thường. Ngay cả sự bình an bạn cũng thấy ra nó là vô thường. Do vậy, nếu ta dính chấp vào trạng thái bình an của tâm thì chúng ta sẽ bị khổ mỗi khi tâm không được bình an. Ta sẽ bị khổ khi không có những trạng thái bình an đó. Cứ buông bỏ mọi thứ, ngay cả đó là sự bình an.

Q:

Did I hear you say that you are afraid of very diligent disciples?

A:

Yes, that's right. I am afraid. I am afraid that they are too serious. They try too hard, but without wisdom. They push themselves into unnecessary suffering. Some of you are determined to become enlightened. You grit your teeth and struggle all the time. This is trying too hard. People are all the same. They don't know the nature of things (sankhārā). All formations, mind and body, are impermanent. Simply watch and don't cling.
Others think they know. They criticize, they watch, they judge. That's OK. Leave their opinions to them. This discrimination is dangerous. It is like a road with a very sharp curve. If we think others are worse or better or the same as us, we go off the curve. If we discriminate, we will only suffer.

Hỏi:

Có lần con nghe thầy nói rằng thầy sợ nhất những đệ tử tu tập quá siêng năng, vậy là sao?

Trả lời:

Đúng rồi. Tôi sợ. Tôi sợ họ quá nghiêm túc, nghiêm trang. Họ cố tu hết sức, nhưng trí tuệ thì không có. Họ tự đẩy mình vào sự khổ một cách không cần thiết. Một số các thầy đã nhất tâm nhất nguyện phải tu để được giác ngộ. Họ nghiến răng, nhắm mắt, gồng mình tu tập suốt ngày đêm. Tu quá mức. Tất cả mọi người đều giống nhau: Họ không hiểu bản chất của mọi thứ hữu vi (sankhārā). Tất cả mọi thứ tạo-tác (hữu vi, hành), tâm và thân, đều là vô thường. Chỉ cần quan sát nhìn và không dính mắc vào mọi thứ. Những người khác nghĩ rằng họ hiểu biết. Họ khen chê, họ nhìn xem, họ đánh giá. Cũng chẳng sao. Họ có quyền có những ý kiến. Sự phân biệt đối đãi là nguy hiểm. Giống như con đường với nhiều khúc cua gấp. Nếu chúng ta cứ nghĩ những người khác là tốt hơn mình, tệ hơn mình, hay giống mình, thì chúng ta đã cua lệch bánh xe khỏi con đường. Nếu chúng ta còn phân biệt đối đãi, chúng ta sẽ còn khổ hoài.

Q:

I have been meditating many years now. My mind is open and peaceful in almost all circumstances. Now I would like to try to backtrack and practice high states of concentration or mind absorption.

A:

This is fine. It is beneficial mental exercise. If you have wisdom, you will not get hung up on concentrated states of mind. It is the same as wanting to sit for long periods. This is fine for training, but really, practice is separate from any posture. It is a matter of directly looking at the mind. This is wisdom. When you have examined and understood the mind, then you have the wisdom to know the limitations of concentration, or of books. If you have practiced and understand not-clinging, you can then return to the books. They will be like a sweet dessert. They can help you to teach others. Or you can go back to practice absorption. You have the wisdom to know not to hold on to anything.

Hỏi:

Con đã thiền tập nhiều năm. Tâm của còn mở rộng và bình an trong mọi hoàn cảnh sống. Bây giờ con muốn quay lại tu tập những tầng thiền định thâm cao. Như vậy có được không, thưa thầy?

Trả lời:

Vậy cũng tốt. Đó là cách luyện tập tâm có ích. Nếu thầy đã có trí tuệ, thầy sẽ không bị dính mắc hay tham đắm vào những tầng thiền định đó. Điều này cũng giống như cái sự muốn ngồi thiền tập lâu hơn vậy. Điều đó cũng tốt, nhưng việc thiền tập là khác với tư thế, nó không phải phụ thuộc vào một tư thế ngồi hay tư thế nào. Vấn đề cốt lõi là phải nhìn vào tâm. Chỗ này mới là trí tuệ. Khi ta đã quán xét tâm và hiểu được tâm, thì ta có trí tuệ để hiểu được những giới hạn của thiền định, hoặc của kinh sách nói chung. Nếu thầy đã tu tập lâu và đã hiểu rõ về sự không-dính-chấp, thì thầy có thể quay lại với kinh sách (đọc lại, coi lại, ôn lại). Lúc đó những kinh sách giống như những món tráng miệng ngọt ngào. Chúng có thể giúp thầy để thầy chỉ dạy giáo lý lại cho những người khác một cách bài bản hơn. Hoặc thầy có thể quay lại tu tập các tầng thiền định (như đã từng tu qua trước kia). Thầy có trí tuệ để biết không nên dính mắc hay tham đắm vào bất kỳ thứ gì. Như vậy là ổn.

Q:

Would you review some of the main points of our discussion?

A:

You must examine yourself. Know who you are. Know your body and mind by simply watching. In sitting, in sleeping, in eating, know your limits. Use wisdom. The practice is not to try to achieve anything. Just be mindful of what is. Our whole meditation is looking directly at the mind. You will see suffering, its cause and its end. But you must have patience; much patience and endurance. Gradually you will learn. The Buddha taught his disciples to stay with their teachers for at least five years. You must learn the values of giving, of patience and of devotion.
Don't practice too strictly. Don't get caught up with outward form. Watching others is bad practice. Simply be natural and watch that. Our monks' discipline and monastic rules are very important. They create a simple and harmonious environment. Use them well. But remember, the essence of the monks' discipline is watching intention, examining the mind. You must have wisdom. Don't discriminate. Would you get upset at a small tree in the forest for not being tall and straight like some of the others? This is silly. Don't judge other people. There are all varieties. No need to carry the burden of wishing to change them all.
So, be patient. Practice morality. Live simply and be natural. Watch the mind. This is our practice. It will lead you to unselfishness. To peace.

Hỏi:

Thưa thầy, thầy có thể nói lại một số điểm chính mà thầy đã giảng cho chúng con trong mấy buổi hôm nay?

Trả lời:

Chúng ta phải quán xét về chính mình. Biết mình là ai. Biết thân này và tâm này bằng cách chỉ cần quán xét. Khi ngồi, khi ngủ, khi ăn, ta biết những giới hạn (kiêng cữ, kiềm chế) của mình. Dùng trí tuệ. Tu hành không phải để đắc đạt được cái gì. Chỉ cần biết chánh niệm về mỗi mọi thứ đang diễn ra là gì. Toàn bộ sự thiền tập của chúng ta là nhìn trực chỉ vào cái tâm của mình.

Chúng ta sẽ nhìn thấy khổ, thấy nguyên nhân khổ, và sự chấm dứt khổ. Nhưng chúng ta phải có kiên-nhẫn; có nhiều sự chịu khó và kiên nhẫn. Dần dần, tiệm tiến, rồi ta sẽ học được. Phật đã dạy các đệ tử nên ở tu học với sư thầy ít nhất năm năm. Người tu phải biết học những giá trị của sự cho đi (bố thí), của tính kiên nhẫn và của sự tận tâm, hết lòng vì tu tập.

Đừng tu tập một cách quá khắc khe, khuôn khổ. Đừng dính chấp vào những nghi thức khuôn khổ bề ngoài. Quán xét về người khác là không tốt. Chỉ cần tự nhiên và đơn thuần quan sát mọi sự của mình. Những giới luật Tỳ Kheo và những thanh quy thiền môn ở đây là rất quan trọng. Chúng tạo ra một môi trường giản dị và hòa hợp để tu tập. Sử dụng các giới luật một cách tốt lành. Nhưng nhớ rằng, cốt lõi của Giới luật Tỳ kheo là quan sát tâm ý (ý hành), là quán xét cái tâm. Chúng ta cần có trí tuệ. Đừng phân biệt, đối đãi. Các thầy có thấy mình nên bực tức với một cái cây nhỏ trong rừng chỉ vì nó không cao, không to, hay không thẳng như những cây khác, hay không? Điều đó là lãng xẹt. Đừng phán đoán, đánh giá về người khác. Nhân loại khác biệt nhau, nhân loại chín người mười loại. Không cần phải mang cái gánh nặng chỉ vì muốn thay đổi hay đồng hóa tất cả họ. Do vậy, phải luôn nhẫn nhục, kiên nhẫn. Tu tập đức hạnh. Sống giản dị và tự nhiên. Quan sát cái tâm. Đó chính là cách tu tập của chúng ta. Nó sẽ dẫn bạn đến sự không còn ích kỷ. Dẫn đến sự bình an.


Chương 25

RIGHT PRACTICE - STEADY PRACTICE - TU ĐÚNG ĐẮN, TU ĐỀU ĐẶN

Wat Wana Potiyahn here is certainly very peaceful, but this is meaningless if our minds are not calm. All places are peaceful. That some may seem distracting is because of our minds. However, a quiet place can help to become calm, by giving one the opportunity to train and thus harmonize with its calm.

Chùa Wat Wana Potiyahn ở đây thực sự quá bình yên, nhưng điều đó là vô nghĩa nếu cái tâm chúng ta không được bình lặng. Nơi nào cũng yên bình. Một số nơi có vẻ làm lãng trí, nhưng thực ra đó chỉ là do cái tâm của ta động vọng mà thôi. Tuy nhiên, một nơi yên tĩnh có thể giúp người ta tĩnh lặng, giúp tạo ra cơ hội để tu tập và hòa quyện vào sự bình lặng ở nơi đó.

You should all bear in mind that this practice is difficult. To train other things is not so difficult, it's easy, but the human mind is hard to train. The Lord Buddha trained his mind. The mind is the important thing. Everything within this body-mind system comes together at the mind. The eyes, ears, nose, tongue and body all receive sensations and send them into the mind, which is the supervisor of all the other sense organs. Therefore it is important to train the mind. If the mind is well trained all problems come to an end. If there are still problems it's because the mind still doubts, it doesn't know in accordance with the truth. That is why there are problems.

Các bạn hãy nhớ trong tâm rằng việc tu tập là gian khó. Luyện tập thứ khác thì không quá khó, thậm chí là dễ, nhưng luyện tập cái tâm người là rất khó. Đức Phật đã luyện tập tâm mình. Tâm là thứ quan trọng. Mọi thứ bên trong hệ thân-tâm này đều chạy về chỗ tâm. Những mắt, tai, mũi, lưỡi và thân đều tiếp nhận những cảm giác và gửi về tâm, tâm là người giám sát tất cả những cơ quan giác quan khác. Do vậy, việc luyện tập cái tâm là rất quan trọng. Nếu tâm được tu tập tốt thì mọi khó khổ sẽ đi đến chấm dứt. Khi còn những khó khổ là do cái tâm vẫn còn những nghi ngờ, nó còn chưa hiểu biết theo đúng sự thật tự nhiên. Đó là lý do tại sao chúng ta luôn có những khó khổ.

So recognize that all of you have come fully prepared for practicing Dhamma. Whether standing, walking, sitting or reclining, the tools you need with which to practice are well-provided, wherever you are. They are there, just like the Dhamma. The Dhamma is something which abounds everywhere. Right here, on land or in water... wherever... the Dhamma is always there. The Dhamma is perfect and complete, but it's our practice that's not yet complete.

Giờ biết rằng tất cả các bạn đã đến đây sẵn sàng tu tập Giáo Pháp. Dù đang ngồi, đi, đứng hay đang nằm, những công cụ bạn cần phải có để tu tập phải được cung cấp đầy đủ, dù bạn đang ở đâu. Các công cụ luôn luôn có mặt với bạn, cũng giống như Giáo Pháp vậy. Giáo Pháp là thứ có mặt khắp nơi. Ngay tại đây, trên đất, trong nước... bất cứ ở đâu... Giáo Pháp luôn luôn có mặt. Giáo Pháp là hoàn hảo và toàn thể, chỉ có sự tu tập của chúng ta là chưa hoàn thiện và hoàn thành.

The Lord, Fully Enlightened Buddha taught a means by which all of us may practice and come to know this Dhamma. It isn't a big thing, only a small thing, but it's right. For example, look at hair. If we know even one strand of hair, then we know every strand, both our own and also that of others. We know that they are all simply ''hair.'' By knowing one strand of hair we know it all.

Đức Phật, người Giác Ngộ, đã truyền dạy những phương tiện để chúng ta tu tập và đi đến hiểu biết Giáo Pháp này. Giáo Pháp không phải là điều gì lớn lao cao xa, nó chỉ là thứ nhỏ nhặt, nhưng là thứ đúng đắn. Ví dụ, hãy nhìn vào tóc. Nếu chúng ta hiểu biết một sợi tóc thì chúng ta hiểu biết hết về tóc, tóc của mình và của người khác. Chúng ta biết rằng tóc chỉ là "tóc". Chỉ cần biết một sợi tóc, chúng ta biết về tất cả sợi tóc khác.

Or consider people. If we see the true nature of conditions within ourselves then we know all the other people in the world also, because all people are the same. Dhamma is like this. It's a small thing and yet it's big. That is, to see the truth of one condition is to see the truth of them all. When we know the truth as it is all problems come to an end.

Hoặc xem xét về người. Nếu chúng ta nhìn thấy bên trong bản thân chúng ta chỉ gồm những kết hợp giả tạm, thì chúng ta cũng biết thân của những người khác cũng giống như vậy. Giáo Pháp là như vậy. Nó chỉ là chuyện nhỏ như vậy, nhưng cũng là chuyện lớn. Đó là, nhìn thấy bản chất của một trạng thái thì sẽ nhìn thấy bản chất của những trạng thái tương tự. Khi chúng ta nhìn thấy sự thật đúng thực như nó là thì mọi vấn đề khó khổ sẽ chấm dứt.

Nevertheless, the training is difficult. Why is it difficult? It's difficult because of wanting, tanhā. If you don't ''want'' then you don't practice. But if you practice out of desire you won't see the Dhamma. Think about it, all of you. If you don't want to practice you can't practice. You must first want to practice in order to actually do the practice. Whether stepping forward or stepping back you meet desire. This is why the cultivators of the past have said that this practice is something that's extremely difficult to do.

Nói thì nói vậy, chứ tu tập là chuyện khó. Tại sao khó? Khó là do ta vẫn còn tham muốn dục vọng (tanhā). Nếu ta không muốn thì ta không tu. Nhưng nếu chúng ta tu vì tham muốn (chứng đắc gì gì đó) thì ta sẽ không nhìn thấy Giáo Pháp. Hãy nghĩ về điểm này, tất cả các bạn ở đây. Nhưng bạn không muốn tu, thì bạn không thể tu. Bạn phải muốn tu trước thì mới tu được. Dù có bước tới hay bước lui, bạn cũng gặp phải tham muốn. Giống như thế gậy ông đập lưng ông vậy. Chính vì lẽ này mà những bậc thầy tổ mới nói tu là một việc cực kỳ khó làm.

You don't see Dhamma because of desire. Sometimes desire is very strong, you want to see the Dhamma immediately, but the Dhamma is not your mind - your mind is not yet Dhamma. The Dhamma is one thing and the mind is another. It's not that whatever you like is Dhamma and whatever you don't like isn't. That's not the way it goes.

Bạn không nhìn thấy Giáo Pháp là do còn tham muốn. Nhiều lúc tham muốn rất mạnh mẽ: bạn tham muốn nhìn thấy ngay Giáo Pháp, nhưng Giáo Pháp chưa phải là tâm bạn— tâm bạn vẫn chưa là Giáo Pháp. Giáo Pháp là một chuyện, tâm là một chuyện. Không phải thứ gì bạn thích hay muốn là Giáo Pháp, còn thứ gì bạn không thích thì không phải là Giáo Pháp. Đó đâu phải là cách của Giáo Pháp.

Actually this mind of ours is simply a condition of nature, like a tree in the forest. If you want a plank or a beam it must come from the tree, but the tree is still only a tree. It's not yet a beam or a plank. Before it can really be of use to us we must take that tree and saw it into beams or planks. It's the same tree but it becomes transformed into something else. Intrinsically it's just a tree, a condition of nature. But in its raw state it isn't yet of much use to those who need timber. Our mind is like this. It is a condition of nature. As such it perceives thoughts, it discriminates into beautiful and ugly and so on.

Thực ra, tâm này của chúng ta chỉ là một trạng thái của tự nhiên, giống như một cái cây trong rừng. Nếu chúng ta muốn có tấm ván hay cột gỗ thì phải làm từ cây, nhưng cây thì vẫn đang là cây. Nó chưa thành cột gỗ hay tấm ván. Chúng ta phải chặt cây, cưa, xẻ... thành ván thành cột thì nó mới thành hữu dụng với chúng ta. Cũng là cây đó, nhưng nó đã chuyển dạng thành thứ khác. Những về bản cốt thực sự nó là một cây, một trạng thái sống của tự nhiên. Nhưng khi cây còn thô tế thì nó chưa hữu dụng cho con người, nó phải nên được chuyển dạng thành gỗ, ván, cột... để làm nhiều thứ khác có ích dụng cho ta. Tâm của chúng ta cũng vậy. Nó chỉ là một trạng thái của tự nhiên. Khi nó tiếp nhận những ý nghĩ nó cứ phân biệt thành xấu thành đẹp, thành tốt thành xấu, thành này thành nọ...

This mind of ours must be further trained. We can't just let it be. It's a condition of nature... train it to realize that it's a condition of nature. Improve on nature so that it's appropriate to our needs, which is Dhamma. Dhamma is something which must be practiced and brought within.

Cái tâm này của chúng ta cần phải được huấn luyện nhiều nữa. Chúng ta không thể để nó như vậy. Tâm là một trạng thái của tự nhiên...vậy chúng ta huấn luyện để nó nhận biết rằng nó là một trạng thái của tự nhiên. Cải thiện tự nhiên để cho nó phù hợp có ích cho nhu cầu của chúng ta. Đó là Giáo Pháp. Giáo Pháp là thứ cần phải được tu tập và hướng vào bên trong.

If you don't practice you won't know. Frankly speaking, you won't know the Dhamma by just reading it or studying it. Or if you do know it your knowledge is still defective. For example, this spittoon here. Everybody knows it's a spittoon but they don't fully know the spittoon. Why don't they fully know it? If I called this spittoon a saucepan, what would you say? Suppose that every time I asked for it I said, ''Please bring that saucepan over here,'' that would confuse you. Why so? Because you don't fully know the spittoon. If you did there would be no problem. You would simply pick up that object and hand it to me, because actually there isn't any spittoon. Do you understand? It's a spittoon due to convention. This convention is accepted all over the country, so it's spittoon. But there isn't any real ''spittoon.'' If somebody wants to call it a saucepan it can be a saucepan. It can be whatever you call it. This is called ''concept.'' If we fully know the spittoon, even if somebody calls it a saucepan there's no problem. Whatever others may call it we are unperturbed because we are not blind to its true nature. This is one who knows Dhamma.

Nếu bạn không tu thì bạn không biết. Thực tình mà nói, bạn không thể biết Giáo Pháp chỉ bằng việc đọc hay học từ kinh sách. Hoặc nếu như bạn có biết thì sự biết đó cũng vẫn là thiếu sót. Ví dụ có cái ly ngay đây. Ai cũng biết cái ly, nhưng chẳng ai hiểu biết hoàn toàn về cái ly. Tại sao họ không biết hoàn toàn về nó? Giả sử tôi gọi nó là cái chén, bạn nói sao? Giả sử mỗi lần tôi nhờ bạn: "Xin đưa giùm cái chén", chắc bạn sẽ ngạc nhiên. Tại sao vậy? Bởi bạn chưa hiểu biết hết về cái ly. Nếu bạn hiểu được cái chén là cái ly thì đâu còn gì khó. Lúc đó bạn chỉ cần cầm cái chén đưa tôi, bởi vì đích thực không có cái ly nào cả: tên cái đó là 'chén'. Tôi giả dụ như vậy các bạn có hiểu không? Cái ly chỉ là do quy ước, do chúng ta gọi mà thôi. Quy ước này được công nhận khắp đất nước này, cho nên nó là cái ly. Nhưng đích thực thì chẳng có cái "ly" thực nào cả. Nếu ai đó muốn gọi đó là cái chén, thì nó lại là cái chén. (Chẳng qua chỉ là cách gọi). Đó chỉ là "khái niệm". (Chỉ là giả danh, chỉ là danh nghĩa). Nếu chúng ta hiểu biết rõ về cái ly, thì nếu có ai gọi nó là cái chén, ta cũng chẳng sao. Dù ai có gọi nó là cái gì ta cũng không chấp, bởi ta đâu có ngu dốt hay mù mờ về bản chất đích thực của nó. Ngay đây, ta trở thành cái "người biết".

Now let's come back to ourselves. Suppose somebody said, ''You're crazy!'' or, ''You're stupid,'' for example. Even though it may not be true, you wouldn't feel so good. Everything becomes difficult because of our ambitions to have and to achieve. Because of these desires to get and to be, because we don't know according to the truth, we have no contentment. If we know the Dhamma, are enlightened to the Dhamma, greed, aversion and delusion will disappear. When we understand the way things are there is nothing for them to rest on.

Giờ quay lại bản thân chúng ta. Giả sử có ai nói: "Mày ngu!" hay "Mày điên". Dù điều đó là không đúng, nhưng ta vẫn thấy khó chịu. Mọi thứ đều trở nên khó khăn bởi chúng ta cứ muốn có và muốn được. Bởi do những tham muốn có và được, do chúng ta không hiểu biết theo đúng sự thật, cho nên chúng ta không hài lòng. Nếu chúng ta biết về Giáo Pháp, chúng ta giác ngộ Giáo Pháp, thì tham sân si sẽ biến mất. (Nguyên lý là như vậy). Khi chúng ta hiểu rõ đường lối (quy luật, bản chất, lẽ tự nhiên) của mọi thứ thì đâu còn gì chúng ta phải chấp có chấp không hay chấp được chấp mất làm chi nữa.

(Ví dụ, sau khi biết rõ nước tự do chảy từ cao xuống thấp thì ta đâu còn chấp hay muốn nước tự do chảy từ thấp lên cao nữa).

Why is the practice so difficult and arduous? Because of desires. As soon as we sit down to meditate we want to become peaceful. If we didn't want to find peace we wouldn't sit, we wouldn't practice. As soon as we sit down we want peace to be right there, but wanting the mind to be calm makes for confusion, and we feel restless. This is how it goes. So the Buddha says, ''Don't speak out of desire, don't sit out of desire, don't walk out of desire.... Whatever you do, don't do it with desire.'' Desire means wanting. If you don't want to do something you won't do it. If our practice reaches this point we can get quite discouraged. How can we practice? As soon as we sit down there is desire in the mind.

Tại sao việc tu hành lại khó khăn và tốn nhiều tâm huyết như vậy? Đó là do những tham muốn. Ngay khi ngồi xuống thiền, chúng ta muốn được bình an. Nếu không muốn được bình an thì ta đâu có ngồi thiền. Ngay khi vừa ngồi xuống đã muốn có ngay sự bình an, nhưng cái 'sự muốn' tâm được bình an đã làm bối rối, làm phân tán và ta cảm thấy bất an. Nó như vậy đó. Nên Phật đã dạy: "Đừng nói nói với tham muốn, đừng ngồi với tham muốn, đừng đi với tham muốn... Khi làm bất cứ điều gì, đừng làm với tham muốn". Tham muốn là dục vọng. Nếu bạn không muốn làm điều gì thì bạn không làm nó. Khi tu tập cho đến chỗ này, chúng thấy rất nản lòng vì thế bí, (nản lòng vì mình muốn tu để chứng đắc được tầng thiền định, muốn tu để đạt đến sự bình an mà cách tu thì là... không được muốn, là bằng cách dẹp bỏ cái muốn đó). Vậy tu làm sao? Ngay khi vừa ngồi xuống trong tâm đã khởi sự tham muốn.

It's because of this that the body and mind are difficult to observe. If they are not the self nor belonging to self then who do they belong to? It's difficult to resolve these things, we must rely on wisdom. The Buddha says we must practice with ''letting go,'' isn't it? If we let go then we just don't practice, right?... Because we've let go.

Suppose we went to buy some coconuts in the market, and while we were carrying them back someone asked:

''What did you buy those coconuts for?''

''I bought them to eat.''

''Are you going to eat the shells as well?''

''No.''

''I don't believe you. If you're not going to eat the shells then why did you buy them also?''

Well what do you say? How are you going to answer their question? We practice with desire. If we didn't have desire we wouldn't practice. Practicing with desire is tanhā. Contemplating in this way can give rise to wisdom, you know. For example, those coconuts: Are you going to eat the shells as well? Of course not. Then why do you take them? Because the time hasn't yet come for you to throw them away. They're useful for wrapping up the coconut in. If, after eating the coconut, you throw the shells away, there is no problem.

Bởi do điều đó nên rất khó mà quan sát thân và tâm. Giáo lý nói thân và tâm không phải là cái 'ta' hay không thuộc về 'ta', vậy thì chúng thuộc về 'ai'? Rất khó giải tỏa vấn đề này, chúng ta phải dựa vào trí tuệ. Phật đã dạy chúng ta phải tu tập bằng sự "buông-bỏ", đúng không? Mà nếu đã buông bỏ thì cũng không tu tập gì hết, đúng không? Bởi chúng ta đã buông bỏ mà.

Giả sử chúng ta đi mua mấy trái dừa ở chợ, và khi chúng ta mang về, có người hỏi:

"Anh mua mấy trái dừa đó làm gì?"

"Tôi mua để ăn"

"Thầy có ăn vỏ dừa không?"

"Không"

"Tôi không tin. Nếu anh không ăn vỏ dừa vậy anh mua nguyên trái còn vỏ làm gì?".

Người ta nói vậy mình nói gì bây giờ? Có cách nào trả lời họ nữa không? Chúng ta tu tập với sự mong muốn. Nếu chúng ta không mong muốn, chúng ta không tu làm gì. Tu với sự mong muốn tìm cầu là tu có dục vọng (tanhā). Suy xét kỹ theo cách như vậy mới có thể phát sinh trí tuệ, các bạn biết không. Ví dụ lại về mấy trái dừa đó. Bạn có định ăn mấy vỏ dừa đó không? Dĩ nhiên không. Vậy tại sao mang chúng về? Bởi chưa có thời gian lột bỏ chúng đi. Nó hiện thời vẫn có ích là vỏ bọc chứa phần cơm dừa và nước dừa bên trong. Sau khi ăn phần cơm dừa và nước dừa thì quăng bỏ vỏ dừa, cũng tốt thôi.

Our practice is like this. The Buddha said, ''Don't act on desire, don't speak from desire, don't eat with desire.'' Standing, walking, sitting or reclining... whatever... don't do it with desire. This means to do it with detachment. It's just like buying the coconuts from the market. We're not going to eat the shells but it's not yet time to throw them away. We keep them first. This is how the practice is. Concept and transcendence are co-existent, just like a coconut. The flesh, the husk and the shell are all together. When we buy it we buy the whole lot. If somebody wants to accuse us of eating coconut shells that's their business, we know what we're doing.

Việc tu tập của chúng ta là như vậy đó. Phật đã dạy : "Đừng làm với tham muốn, đừng nói với tham muốn, đừng ăn với tham muốn". Khi đang đi, đang đứng, đang ngồi hay đang nằm... bất cứ khi nào... đừng làm với tham muốn. Có nghĩa là làm nó với sự buông bỏ. Cũng giống như khi mua dừa ngoài chợ. Chúng ta không muốn ăn vỏ dừa, chỉ là chưa đến lúc chúng ta giục bỏ chúng đi. Trước mắt chúng ta tạm giữ nó. Đó là cách tu. Khái niệm và sự chuyển hóa cùng tồn tại đồng thời, giống như cơm dừa và vỏ dừa vậy. Cơm dừa, nước dừa, xơ dừa, vỏ dừa ở cùng nhau. Khi mua chúng ta phải mua nguyên trái. Nếu có ai nói chúng ta ăn vỏ dừa thì mặc kệ họ nói, chúng ta biết rõ mình đang làm gì.

Wisdom is something each of us finds for oneself. To see it we must go neither fast nor slow. What should we do? Go to where there is neither fast nor slow. Going fast or going slow are not the way.

Trí tuệ là thứ mỗi chúng ta phải tự tìm thấy cho mình. Để nhìn thấy nó, chúng ta không nên đi quá nhanh hay quá chậm. Vậy chúng ta phải làm gì? Phải đi đến nơi không chậm không nhanh. Còn đi nhanh hay đi chậm đều không phải cách.

But we're all impatient, we're in a hurry. As soon as we begin we want to rush to the end, we don't want to be left behind. We want to succeed. When it comes to fixing their minds for meditation some people go too far.... They light the incense, prostrate and make a vow, ''As long as this incense is not yet completely burnt I will not rise from my sitting, even if I collapse or die, no matter what... I'll die sitting.'' Having made their vow they start their sitting. As soon as they start to sit Māra's hordes come rushing at them from all sides.

Nhưng thường chúng ta đều nôn nóng, chúng ta vội vã. Ngay khi vừa mới bắt đầu chúng ta đã muốn chạy nhanh đến đích, chúng ta không muốn bị trễ, không muốn bị bỏ rơi lại đằng sau. Chúng ta muốn thành công, muốn 'đắc đạo' nhanh. Khi đưa cái tâm vào thiền tập, người ta thường đi quá xa, canh quá xa, nghĩ quá cao xa... Họ thắp nhang, lạy lục và thề nguyện: "Đến khi nào nhang chưa tàn hết thì tôi nhất quyết không đứng dậy khỏi chỗ ngồi thiền, dù cho tôi có ngã quỵ hay chết, dù chuyện gì có xảy ra... tôi thề chết ngồi chứ không bỏ cuộc...". Sau khi khấn nguyện, họ ngồi xuống thiền. Vừa ngồi xuống, đám quân của Ma Vương (Māra) đến bu từ mọi phía.

They've only sat for an instant and already they think the incense must be finished. They open their eyes for a peek... ''Oh, there's still ages left!''

They grit their teeth and sit some more, feeling hot, flustered, agitated and confused... Reaching the breaking point they think, ''It must be finished by now''.... Have another peek... ''Oh, no! It's not even half-way yet!''

Two or three times and it's still not finished, so they just give up, pack it in and sit there hating themselves. ''I'm so stupid, I'm so hopeless!'' They sit and hate themselves, feeling like a hopeless case. This just gives rise to frustration and hindrances. This is called the hindrance of ill-will. They can't blame others so they blame themselves. And why is this? It's all because of wanting.

Vừa ngồi xuống, đám quân của Ma Vương (Māra) đến bu từ mọi phía. Họ mới ngồi một chút là đã nghĩ đến chuyện nhang tàn hay chưa. Họ hé hé mắt nhìn cây nhang..."Trời, cả năm nữa cũng chưa chắc tàn!"

Họ nghiến răng và ngồi tiếp, cảm thấy nóng nực, thấy nôn nao, bực bội và rối trí... Đến lúc cuối họ nghĩ rằng: "Chắc giờ nhang tàn rồi"... Lại hé mắt nhìn... "Ô không, còn chưa cháy hết nửa cây nhang!".

Canh mấy lần như vậy mà nhang vẫn chưa tàn nên họ chán, bỏ cuộc luôn, không muốn làm gì nữa, chỉ ngồi tự ghét mình. "Ta thật là ngu, ta thật vô vọng!". Họ ngồi và ghét bản thân mình, cảm thấy vô vọng. Ngay lúc này chỉ sinh thêm bất mãn và những chướng ngại. Đây được gọi là chướng ngại ác ý. Ác ý là ác cảm với chính mình, không ghét ai được nên tự ghét mình. Và tại sao lại vậy? Tất cả là do tham muốn.

Actually it isn't necessary to go through all that. To concentrate means to concentrate with detachment, not to concentrate yourself into knots. But maybe we read the scriptures, about the life of the Buddha, how he sat under the Bodhi tree and determined to himself,

''As long as I have still not attained Supreme Enlightenment I will not rise from this place, even if my blood dries up.''

Thực ra không cần phải làm những việc như thắp nhang, thệ nguyện... theo kiểu như vậy. Tập trung (tâm) có nghĩa là gom tụ (hội tụ) tâm lại bằng cách buông bỏ, chứ không phải gom tụ bản thân mình vào những nút thắt như vậy. Có lẽ là do nhiều người đọc kinh điển viết về cuộc đời tu hành của Phật, về cách Phật quyết tâm ngồi thiền dưới gốc cây Bồ-đề: "Chừng nào ta chưa đạt đến Giác Ngộ Tối Thượng thì ta quyết sẽ không đứng dậy khỏi chỗ ngồi này, dù cho máu ta có khô cạn...", nên họ bắt chước làm theo thôi.

Reading this in the books you may think of trying it yourself. You'll do it like the Buddha. But you haven't considered that your car is only a small one. The Buddha's car was a really big one, he could take it all in one go. With only your tiny, little car, how can you possibly take it all at once? It's a different story altogether.

Nhiều người đọc kinh sách thấy nói vậy nên nhiều người muốn tự mình thử. Muốn làm giống như Phật. Nhưng họ không xem xét lại rằng cái cỗ xe của mình chỉ là cái xe xíu. Cỗ xe của Phật là cỗ xe thực sự lớn, xe của Phật có thể chất tất cả mọi thứ lên một chuyến cuối cùng. Còn xe của mỗi chúng ta thì nhỏ bé tí tẹo, làm sao chúng ta có thể dồn tất cả mọi thứ lên một chuyến cuối cùng để đi đến đích như vậy? Chuyện của Phật và chuyện của chúng ta là khác nhau.

Why do we think like that? Because we're too extreme. Sometimes we go too low, sometimes we go too high. The point of balance is so hard to find.

Now I'm only speaking from experience. In the past my practice was like this. Practicing in order to get beyond wanting... if we don't want, can we practice? I was stuck here. But to practice with wanting is suffering. I didn't know what to do, I was baffled. Then I realized that the practice which is steady is the important thing. One must practice consistently. They call this the practice that is ''consistent in all postures.'' Keep refining the practice, don't let it become a disaster. Practice is one thing, disaster is another. Most people usually create disaster. When they feel lazy they don't bother to practice, they only practice when they feel energetic. This is how I tended to be.

Tại sao chúng ta hay nghĩ hay thệ nguyện như vậy? Bởi vì chúng ta quá cực đoan. Nhiều lúc chúng ta quá chùng xuống, quá hạ thấp mình. Nhiều lúc chúng ta lại quá tự tin, với tay quá cao. Do vậy chúng ta chẳng bao giờ tìm thấy điểm cân bằng.

Giờ tôi chỉ nói từ kinh nghiệm. Trước kia, việc tu tập của tôi là như vầy. Tu tập để đạt được đến cái mình muốn có, đạt đến cái hơn cả ham muốn của mình..., bởi nếu không ham muốn thì làm sao ta tu được? Tôi bị kẹt chỗ đó. Nhưng tu tập với sự tham muốn là khổ. Tôi chẳng biết phải làm gì khác, tôi cứ dằn vặt, chèo chống. Rồi sau này tôi mới nhận ra rằng sự tu tập đều đặn mới là quan trọng. Người tu phải tu tập một cách ổn định, đều đặn. Người ta hay gọi đó "đều đặn trong mọi tư thế". Cứ liên tục làm trong sạch sự tu tập của mình, đừng để nó trở thành một tai nạn nào. Tu là để thoát nạn khổ chứ không phải để gây ra tai nạn. Hầu hết mọi người thường gây ra tai nạn. Khi họ lười biếng thì tự bỏ bê việc tu tập. Họ chỉ tu khi nào thấy có hứng, khi nào thấy thích mới tu. Tôi cũng đã từng có xu hướng như vậy.

All of you ask yourselves now, is this right? To practice when you feel like it, not when you don't: is that in accordance with the Dhamma? Is it straight? Is it in line with the teaching? This is what makes practice inconsistent.

Whether you feel like it or not you should practice just the same: this is how the Buddha taught. Most people wait till they're in the mood before practicing, when they don't feel like it they don't bother. This is as far as they go. This is called ''disaster,'' it's not practice. In the true practice, whether you are happy or depressed you practice; whether it's easy or difficult you practice; whether it's hot or cold you practice. It's straight like this. In the real practice, whether standing, walking, sitting or reclining you must have the intention to continue the practice steadily, making your sati consistent in all postures.

Tất cả các bạn đang ngồi đây hãy tự hỏi chúng mình: như vậy là đúng hay sai? Khi thấy thích tu thì tu, khi nào không thấy hứng thì không tu, như vậy là đúng với Giáo Pháp hay không? Như vậy là chánh trực hay không? Như vậy có đúng với giáo lý của Phật hay không? Cứ như vậy thì việc tu tập đâu được đều đặn, chuyên chú. Tu vậy là không chắc.

Dù có hứng hay không hứng mình cũng phải tu như nhau. Dù thấy thích hay không thích mình cũng phải tu như thường. Dù đang cảm thấy lười biếng hay hăng hái mình cũng tu nghiêm túc như nhau. Đó là điều Phật đã dạy. Hầu hết đều chờ đến lúc hứng tu thì mới tu, còn khi thấy không hứng thì không thèm tu. Họ lệch lạc đến mức độ như vậy. Điều này được gọi là "tai nạn" chứ không phải là tu để "thoát nạn". Sư tu tập đích thực là gì?: đó là dù vui hay buồn ta cũng tu; dù dễ hay khó ta cũng tu; dù trời nóng hay lạnh ta cũng tu. Phải chánh trực như vậy. Tu tập thực sự là gì?: là dù đang đứng, đang ngồi, đang đi hay đang nằm ta vẫn giữ ý chí liên tục tu tập một cách đều đặn, làm cho sự chú tâm chánh niệm (sati) luôn có mặt thường trực trong mọi tư thế.

At first thought it seems as if you should stand for as long as you walk, walk for as long as you sit, sit for as long as you lie down... I've tried it but I couldn't do it. If a meditator were to make his standing, walking, sitting and lying down all equal, how many days could he keep it up for? Stand for five minutes, sit for five minutes, lie down for five minutes... I couldn't do it for very long. So I sat down and thought about it some more. ''What does it all mean? People in this world can't practice like this!''

Hồi mới tập tu tôi cứ nghĩ rằng phải tu tập các tư thế thiền trong thời gian bằng đều như nhau, tức phải đứng lâu bằng đi, đi lâu bằng ngồi, ngồi lâu bằng nằm... Tôi đã cố tập thử nhưng không được. Nếu một người thiền phân đều thời gian cho bốn tư thế thiền đó thì đến bao giờ người đó mới làm được? Đứng thiền năm phút, ngồi thiền năm phút, nằm thiền năm phút, đi thiền năm phút... làm vậy tôi chẳng làm được mấy lần. Vì vậy, tôi đã ngồi lại và suy nghĩ thêm về điều đó. "Lời hướng dẫn chỗ tu này là gì? Chắc không ai trên đời có thể tu theo cách đó được!"

Rồi sau đó tôi nhận ra... "À, cách đó là sai, bởi nó không thể nào làm được. Đứng, đi, ngồi, nằm... phải tu tập đều đặn. Tu tập đều đặn không phải là phân đồng đều thời gian cho bốn tư thế, nếu hiểu kinh sách theo cách như vậy là sai, là không thể làm được".

Then I realized... ''Oh, that's not right, it can't be right because it's impossible to do. Standing, walking, sitting, reclining... make them all consistent. To make the postures consistent the way they explain it in the books is impossible.''

But it is possible to do this: the mind... just consider the mind. To have sati, recollection, sampajañña, self-awareness, and paññā, all-round wisdom... this you can do. This is something that's really worth practicing. This means that while standing we have sati, while walking we have sati, while sitting we have sati, and while reclining we have sati - consistently. This is possible. We put awareness into our standing, walking, sitting, lying down - into all postures.

When the mind has been trained like this it will constantly recollect Buddho, Buddho, Buddho... which is knowing. Knowing what? Knowing what is right and what is wrong at all times. Yes, this is possible. This is getting down to the real practice. That is, whether standing, walking, sitting or lying down there is continuous sati.

Nhưng có thể thực hiện như vầy: Tâm... chỉ là ngay chỗ tâm. Có sự chú tâm chánh niệm (sati), có sự rõ biết về mình (sampajañña), và có sự hiểu biết hay trí tuệ bao-trùm (paññā)... thì ta mới có thể làm được. Đây mới thực sự là cách đúng để tu tập. Điều này có nghĩa là khi đang đứng ta có chánh niệm (sati), khi đang đi ta có chánh niệm, khi đang ngồi ta có chánh niệm, khi đang nằm ta có chánh niệm—một cách đều đặn, ổn định. Điều này thì có thể làm được. Chúng ta đưa sự tỉnh-giác vào trong tư thế đang đứng, đi, ngồi, nằm—đưa vào trong tất cả tư thế. Luôn luôn có sự tỉnh giác trong tất cả mọi tư thế.

Khi tâm đã được tu tập như vầy thì nó luôn thường trực niệm (thường nhớ) Phật, Phật, Phật... đó là sự thấy-biết. Thấy biết cái gì? Thấy biết rõ điều gì sai và điều gì đúng mọi lúc mọi nơi. Thực vậy, cách này là có thể làm được. Đây là cách đi thẳng vào sự tu tập thực thụ. Đó là, dù đang đứng, đang đi, đang ngồi hay đang nằm, luôn luôn có mặt sự chánh niệm liên tục.

Then you should understand those conditions which should be given up and those which should be cultivated. You know happiness, you know unhappiness. When you know happiness and unhappiness your mind will settle at the point which is free of happiness and unhappiness. Happiness is the loose path, kāmasukallikānuyogo. Unhappiness is the tight path, attakilamathānuyogo. If we know these two extremes, we pull it back. We know when the mind is inclining towards happiness or unhappiness and we pull it back, we don't allow it to lean over. We have this sort of awareness, we adhere to the One Path, the single Dhamma. We adhere to the awareness, not allowing the mind to follow its inclinations.

Rồi ta sẽ hiểu những pháp (trạng thái, điều kiện, tâm tính) nào cần phải từ bỏ và những thứ nào cần phải được tu dưỡng. Khi ta biết rõ sự sướng, ta biết rõ sự khổ. Khi ta đã biết rõ về sướng và khổ thì tâm sẽ an trụ ở nơi cân bằng không có sự sướng và sự khổ. Sướng hay khoái lạc là con đường buông thả (kāmasukallikānuyogo). Khổ là con đường hành xác (attakilamathānuyogo). Đó là hai cực đoan. Nếu chúng ta biết rõ hai cực đoan, chúng ta kìm lại để khỏi rơi vào hai cực đó. Chúng ta biết rõ khi tâm mình đang ngã theo sự sướng hay khổ, chúng ta kìm nó lại, không để nó ngã luôn theo sướng hay theo khổ. Chúng ta có được loại tỉnh-giác này, chúng ta nhập vào Một Con Đường, một Giáo Pháp. Chúng ta nhập vào sự tỉnh giác, sự rõ biết và không để cho tâm mình ngã theo những thói tâm và khuynh hướng của nó.

But in your practice it doesn't tend to be like that, does it? You follow your inclinations. If you follow your inclinations it's easy, isn't it? But this is the ease which causes suffering, like someone who can't be bothered working. He takes it easy, but when the time comes to eat he hasn't got anything. This is how it goes.

So I've contended with many aspects of the Buddha's teaching in the past, but I couldn't really beat him. Nowadays I accept it. I accept that the many teachings of the Buddha are straight down the line, so I've taken those teachings and used them to train both myself and others.

Nhưng trong đời tu thiệt thì mọi sự thường ngược lại, có phải vậy không? Thường thì ta cứ ngã theo những thói tâm và khuynh hướng của ta. Nếu đi theo thói tâm của mình thì quá dễ, phải không? (Làm ngược với thói tâm và khuynh hướng của tâm thì mới khó, nhưng đó là tu đúng). Làm theo thói tâm thì dễ, nhưng cái dễ đó gây ra khổ đau, giống như kẻ ăn không ngồi rồi thì cũng dẫn đến khổ đau bạc nhược mà thôi. Anh ta thấy ở không thì dễ hơn đi làm, nhưng đến lúc đói khát thì không có gì để ăn, lúc đó mới khổ. Thói đời là như vậy, thói tâm của ta cũng như vậy.

Cũng do vậy, trước kia tôi hay bất đồng với nhiều giáo lý của Phật, nhưng thực sự tôi chẳng bao giờ đúng hơn Phật. Giờ thì tôi chấp nhận đủ những điều đó. Tôi chấp nhận rằng nhiều giáo lý của Phật là trực chỉ cách tu, do vậy tôi đã lấy những giáo lý đó và dùng chúng để tu tập bản thân và chỉ dạy cho người khác cùng tu.

The practice which is important is patipadā. What is patipadā? It is simply all our various activities, standing, walking, sitting, reclining and everything else. This is the patipadā of the body. Now the patipadā of the mind: how many times in the course of today have you felt low? How many times have you felt high? Have there been any noticeable feelings? We must know ourselves like this. Having seen those feelings can we let go? Whatever we can't yet let go of we must work with. When we see that we can't yet let go of some particular feeling we must take it and examine it with wisdom. Reason it out. Work with it. This is practice. For example, when you are feeling zealous, practice, and then when you feel lazy, try to continue the practice. If you can't continue at ''full speed'' then at least do half as much. Don't just waste the day away by being lazy and not practicing. Doing that will lead to disaster, it's not the way of a cultivator.

Điều quan trọng chỗ tu tập là con đường tu, là đạo (patipadā). Patipadā nghĩa là gì? Thứ nhất, đơn giản đó là tất cả mọi sinh hoạt khác nhau, sự đứng, đi, nằm, ngồi và nhiều hoạt động khác. Đó là đạo của thân. Còn đạo của tâm nữa: bao nhiêu lần bạn cảm thấy chùng xuống trong suốt khóa học bữa nay? Bao nhiêu lần bạn thấy hứng khởi trong khóa học bữa nay? Có những cảm giác nào nổi trội đáng lưu ý? Chúng ta phải rõ biết về mình theo cách như vậy. Sau khi nhìn thấy những cảm giác đó, ta có thể buông bỏ chúng được không? Cái nào chúng ta chưa buông bỏ được thì ta còn phải tiếp tục làm việc với nó, tiếp tục tu tập buông bỏ nó. Nếu nhìn thấy mình không thể buông bỏ một số cảm giác nào đó thì phải ta phải lấy ngay chỗ đó và xem xét nó bằng sự trí tuệ (để tìm ra nguyên nhân và giải pháp để tu sửa và buông bỏ chỗ đó). Tìm coi nó là vì lẽ gì, do những nhân duyên gì. Làm việc với nó. Tu tập ngay chỗ cảm giác đó. Đây chính là tu. Ví dụ, khi chúng ta có cảm giác nhiệt tâm, ta tu. Và khi ta có cảm giác lười biếng, cứ cố tiếp tục tu. Nếu chúng ta không thể giữ tiếp 'phong độ' tu như lúc nhiệt tâm, thì tối thiểu cũng cố tu được nửa 'phong độ' đó. Lúc thường tu miên mật, lúc thấy lười biếng mệt mỏi cũng nên cố tu một nửa mức độ đó. Đừng để lãng phí một ngày nào do lười biếng mà bỏ việc tu. Nếu cứ thấy mệt là bỏ, thấy lười biếng là bỏ, thấy muốn nghỉ xả hơi là bỏ thì sẽ dẫn đến tai nạn- đó không phải là cách của người tu hành.

Now I've heard some people say, ''Oh, this year I was really in a bad way.''

''How come?''

''I was sick all year. I couldn't practice at all.''

Oh! If they don't practice when death is near when will they ever practice? If they're feeling well do you think they'll practice? No, they only get lost in happiness. If they're suffering they still don't practice, they get lost in that. I don't know when people think they're going to practice! They can only see that they're sick, in pain, almost dead from fever... that's right, bring it on heavy, that's where the practice is. When people are feeling happy it just goes to their heads and they get vain and conceited.

Thời bây giờ tôi hay nghe mấy người nói rằng: "Ồ, năm nay con thực sự bết bát". "Sao vậy?"

"Con bệnh cả năm nay. Con không tu được gì hết".

À vậy hả, nếu họ không tu bây giờ đến lúc gần chết còn tu gì được nữa? Thử nghĩ khi thấy khỏe họ có tu không? Không, họ chỉ lạc tâm vào sự sướng (chỉ lo cảm thấy mình sướng khi khỏe mạnh). Còn khi họ khổ hay đau bệnh, họ cũng không tu tập gì, tâm họ chỉ dính theo sự khổ. Tôi chẳng biết khi nào họ mới chịu tu! Họ chỉ nhìn thấy mình đang bệnh, đang đau, đang sốt gần chết...đúng vậy, nhưng sao không lấy lúc bệnh đau đó mà tu tập, đó là chỗ tu. Khi họ cảm thấy sướng họ chỉ biết khoan khoái trong đầu, và ỷ lại tự mãn, rốt cuộc chẳng kết quả gì.

We must cultivate our practice. What this means is that whether you are happy or unhappy you must practice just the same. If you are feeling well you should practice, and if you are feeling sick you should also practice. Those who think, ''This year I couldn't practice at all, I was sick the whole time''... if these people are feeling well, they just walk around singing songs. This is wrong thinking, not right thinking. This is why the cultivators of the past have all maintained the steady training of the heart. If things are to go wrong, just let them be with the body, not in mind.

Chúng ta phải phát triển sự tu tập của mình. Điều này có nghĩa là dù đang sướng hay khổ chúng ta cũng nên tu tập như nhau. Khi thấy khỏe khoắn nhiệt thành hoặc thấy đau bệnh lười biếng thì cũng tu. Mọi người thường nói rằng: "Năm nay tôi chẳng tu được gì vì cứ bị bệnh hoài", nói vậy thôi chứ khi họ khỏe mạnh họ cũng đi dạo mát hát vui chứ đâu chịu tu. Cách than bệnh đâu không tu là cách nghĩ sai lầm. Nghĩ vậy là rất khó tu. Đây chính là lý do tại sao những thầy tổ ngày xưa đã luôn luôn duy trì sự tu tập đều đặn trong tim mình. Nếu thân có gì bất ổn, cứ mặc nó với thân; còn tâm là chuyện khác, tu tập cái tâm là chuyện khác.

There was a time in my practice, after I had been practicing about five years, when I felt that living with others was a hindrance. I would sit in my kuti and try to meditate and people would keep coming by for a chat and disturbing me. I ran off to live by myself. I thought I couldn't practice with those people bothering me. I was fed up, so I went to live in a small, deserted monastery in the forest, near a small village. I stayed there alone, speaking to no-one - because there was nobody else to speak to.

Hồi tôi mới bắt đầu bước vào thực hành khoảng năm năm tôi cảm thấy sống chung với người khác để tu là một chướng ngại. Tôi ngồi tu trong kuti (cốc) của tôi, nhưng lúc này lúc khác hay người đến ngồi chơi, nói chuyện này nọ, và điều đó làm quấy nhiễu tôi. Nên tôi bỏ đi ở một mình. Tôi nghĩ tôi khó tu nếu ở gần người khác. Tôi đến ở trong một cái chùa nhỏ vắng tanh trong rừng, gần một ngôi làng nhỏ. Tôi ở đó một mình, không nói chuyện với ai, bởi không có ai ở đó nói chuyện với tôi.

After I'd been there about fifteen days the thought arose, ''Hmm. It would be good to have a novice or pa-kow here with me. He could help me out with some small jobs.'' I knew it would come up, and sure enough, there it was!

''Hey! You're a real character! You say you're fed up with your friends, fed up with your fellow monks and novices, and now you want a novice. What's this?''

''No,'' it says, ''I want a good novice.''

''There! Where are all the good people, can you find any? Where are you going to find a good person? In the whole monastery there were only no-good people. You must have been the only good person, to have run away like this!''

...You have to follow it up like this, follow up the tracks of your thoughts until you see...

Ở được khoảng mười lăm ngày, tôi mới nghĩ: "À, phải chi có một sa-di hay một pa-kow[7] ở đây thì tốt. Chú ấy có thể giúp mình làm những việc lặt vặt". Tôi nhận ra việc đó là cần thiết và đến lúc cũng phải có người đến ở chung với mình!

"Í dạ! Thầy thiệt là một cá tính! Thầy đã chán ngán các với các bạn tu và sa-di, giờ thầy lại nói thầy cần một sa-di hay chú điệu. Vậy là sao?"

"Không", điều đó nghĩa là, "Tôi cần một sa-di tốt".

"Đó thấy chưa! Ở đâu chỉ có toàn người tốt vậy, thầy tìm đâu ra người tốt theo ý thầy? Trong chùa này chỉ toàn người không-tốt. Chắc chỉ có một mình thầy là người tốt đó, nên thầy mới bỏ đi như vậy!".

...Chúng ta cứ phải đi theo mọi sự như vậy, phải đi theo dấu vết của những ý nghĩ của mình cho đến khi ta nhìn thấy... (Tôi nghĩ ở một mình là tốt nên làm theo ý nghĩ của mình. Tôi cứ tu theo và làm theo ý nghĩ của mình, rồi lại thấy sai, rồi lại thay đổi, rồi cứ tiếp tục mày mò làm theo những ý nghĩ chủ quan của mình...).

''Hmm. This is the important one. Where is there a good person to be found? There aren't any good people, you must find the good person within yourself. If you are good in yourself then wherever you go will be good. Whether others criticize or praise you, you are still good. If you aren't good, then when others criticize you, you get angry, and when they praise you, you get pleased.

"À đúng, chỗ này là điều quan trọng. Tìm đâu ra người tốt ở đó? Chẳng có ai là tốt hoặc tốt cho mình hết, bạn phải tự tìm thấy người tốt ngay bên trong mình. Nếu bên trong bản thân mình tốt thì dù mình đi đâu ở đâu mình cũng tốt. Dù người khác có chê hay khen, ta vẫn tốt. Nếu ta không đủ tốt, khi có ai chê bai ta nổi giận nổi khùng và khi có ai khen nịnh ta vui lòng khoái chí.

At that time I reflected on this and have found it to be true from that day up until the present. Goodness must be found within. As soon as I saw this, that feeling of wanting to run away disappeared. In later times, whenever I had that desire arise I let it go. Whenever it arose I was aware of it and kept my awareness on that. Thus I had a solid foundation. Wherever I lived, whether people condemned me or whatever they would say, I would reflect that the point is not whether they were good or bad. Good or evil must be seen within ourselves. However other people are, that's their concern.

Lúc đó tôi đã suy xét nhiều về điều này và đã tìm thấy điều đó là đúng, đúng đến tận bây giờ. Sự tốt lành phải được tìm thấy ngay bên trong mình. Ngay khi tôi nhìn thấy điều này, cảm giác muốn bỏ đi khỏi những bạn tu đã biến mất hoàn toàn. Về sau đó, đôi khi những cảm giác đó lại khởi sinh thì tôi cũng lập tức buông bỏ cảm giác đó. Khi nó khởi sinh, tôi rõ biết về nó, tôi giữ chắc sự tỉnh giác về nó. Nhờ vậy tôi có được một nền tảng vững vàng. Khi tôi ở đâu, dù ai có chê bai hay nói này nói nọ, tôi sẽ quán chiếu rằng: điều quan trọng không phải là họ tốt hay xấu. Điều quan trọng là mình tốt hay xấu bên trong trái tim mình. Tốt hay xấu cũng phải được nhìn thấy ngay bên trong mình. (Nhìn vào trong thấy mình). Tuy nhiên đại đa số người tu cứ lo để ý về người khác tốt hay xấu. (Nhìn ra ngoài thấy người ta và thứ khác chứ không thấy mình).

Don't go thinking, ''Oh, today is too hot,'' or, ''Today is too cold,'' or, ''Today is....'' Whatever the day is like that's just the way it is. Really you are simply blaming the weather for your own laziness. We must see the Dhamma within ourselves, then there is a surer kind of peace.

So for all of you who have come to practice here, even though it's only for a few days, still many things will arise. Many things may be arising which you're not even aware of. There is some right thinking, some wrong thinking... many, many things. So I say this practice is difficult.

Đừng nghĩ kiểu như: "Bữa nay nóng quá" hay "bữa nay lạnh quá", hoặc "bữa nay này..., bữa nay nọ...". Bữa nay có ra sao thì chỉ là cách của nó. Nhiều người thiệt vô duyên, cứ chê bai thời tiết để viện lý cho sự lười biếng của mình! Cần phải tu để nhìn thấy Giáo Pháp ngay trong bên trong chúng ta thì ta mới có được loại bình an bền chắc hơn.

Vì vậy, đối với tất cả các bạn đang ngồi đây, các bạn đã đến đây để tu tập, dù chỉ đến tu mấy ngày, cũng có rất nhiều điều sẽ khởi sinh trong tâm. Rất nhiều điều khởi sinh nhưng các bạn không ý thức rõ biết về chúng. Có nhiều ý nghĩ đúng, nhiều ý nghĩ sai... nhiều, nhiều lắm. Bởi vậy tôi nói việc tu hành là gian khó.

Even though some of you may experience some peace when you sit in meditation, don't be in a hurry to congratulate yourselves. Likewise, if there is some confusion, don't blame yourselves. If things seem to be good, don't delight in them, and if they're not good don't be averse to them. Just look at it all, look at what you have. Just look, don't bother judging. If it's good don't hold fast to it; if it's bad, don't cling to it. Good and bad can both bite, so don't hold fast to them.

Một số các bạn đã tìm thấy ít nhiều sự bình an trong khi ngồi thiền, nhưng lúc này cũng đừng vội chúc mừng bản thân mình. Tương tự, một số bạn khác nếu có bị ngu mờ bất an trong khi ngồi thiền thì cũng đừng trách than hay tự ghét bản thân mình. Nếu mọi thứ có vẻ tốt lành, đừng mừng vui chạy theo chúng, và nếu mọi thứ xuất hiện không tốt lành, cũng đừng bực bội khó chịu với chúng. Chỉ cần nhìn vào tất cả những thứ đó, nhìn vào tất cả mọi thứ tốt và xấu mà mình có. Chỉ cần nhìn chứ đừng phán xử này nọ gì hết. Nếu nó tốt lành (sướng), đừng nắm giữ nó lâu; nếu nó xấu (khổ), đừng dính chấp nó. Tốt hay xấu, sướng hay khổ đều có thể 'cắn' ta, vậy nên đừng nắm giữ nó chút nào. (Như cách đừng nắm đầu rắn hay đuôi rắn vậy, dính đằng nào cũng bị nó cắn).

The practice is simply to sit, sit and watch it all. Good moods and bad moods come and go as is their nature. Don't only praise your mind or only condemn it, know the right time for these things. When it's time for congratulations then congratulate it, but just a little, don't overdo it. Just like teaching a child, sometimes you may have to spank it a little. In our practice sometimes we may have to punish ourselves, but don't punish yourself all the time. If you punish yourself all the time in a while you'll just give up the practice. But then you can't just give yourself a good time and take it easy either. That's not the way to practice. We practice according to the Middle Way. What is the Middle Way? This Middle Way is difficult to follow, you can't rely on your moods and desires.

Việc tu tập chỉ đơn giản là ngồi, ngồi và quan sát tất cả. Những trạng thái tốt và trạng thái xấu cứ đến và đi theo bản chất tự nhiên của chúng. Mọi thứ đến và đi. Đừng khởi tâm khoái thích với một trạng thái tốt nào, cũng đừng ghét bực với một trạng thái xấu nào; chỉ cần biết rõ chúng ngay khi chúng khởi sinh và biến qua. Khi nào cần chúc mừng thì cứ mừng, nhưng một xíu thôi, đừng mừng vui hoan hỷ quá nhiều. Cũng giống như việc dạy dỗ một đứa trẻ, đôi lúc cũng cần phải khen nó một chút, nhưng đôi lúc cũng cần phải đánh đít nó. Trong việc tu hành, đôi lúc chúng ta hay trách phạt bản thân mình, nhưng đừng cứ lúc nào cũng trách, phạt và ác cảm với bản thân mình. Nếu cứ lo trách phạt bản thân mình thì chẳng bao lâu bạn sẽ thoái chí và bỏ tu luôn. Nhưng cũng đừng quá dễ dàng với bản thân mình, nuông chiều một đứa trẻ quá cũng không tốt. Hai xu hướng đó đều không phải là cách tu đúng đắn. Chúng ta phải tu tập theo con đường Trung Đạo. Con đường Trung Đạo là gì? Con đường Trung Đạo này khó đi, phải biết chịu khó cực mới tu theo được, để tu theo đó thì ta không thể dựa theo những trạng thái và tham muốn của ta, ta phải buông bỏ chúng.

Don't think that only sitting with the eyes closed is practice. If you do think this way then quickly change your thinking! Steady practice is having the attitude of practice while standing, walking, sitting and lying down. When coming out of sitting meditation, reflect that you're simply changing postures. If you reflect in this way you will have peace. Wherever you are you will have this attitude of practice with you constantly, you will have a steady awareness within yourself.

Đừng nghĩ chỉ ngồi với hai mắt nhắm lại là tu. Nếu bạn đang nghĩ vậy thì lập tức thay đổi suy nghĩ ngay!. Sự tu tập đều đặn là có thái độ tu tập trong khi đang đứng, đang đi, đang ngồi và đang nằm. Khi hết giờ ngồi thiền và đứng dậy thì hãy nghĩ rằng ta chỉ thay đổi tư thế (chứ không phải hết thiền hay xả thiền gì gì đó). Nếu quán chiếu theo cách như vậy, bạn sẽ có được sự bình an. Dù bạn đang ở đâu bạn cũng có trong mình thái độ tu tập một cách đều đặn như vậy, bạn sẽ luôn có sự tỉnh giác bên trong mình.

Those of you who, having finished their evening sitting, simply indulge in their moods, spending the whole day letting the mind wander where it wants, will find that the next evening when sitting meditation all they get is the ''backwash'' from the day's aimless thinking. There is no foundation of calm because they have let it go cold all day. If you practice like this your mind gets gradually further and further from the practice. When I ask some of my disciples, ''How is your meditation going?'' They say, ''Oh, it's all gone now.'' You see? They can keep it up for a month or two but in a year or two it's all finished.

Mọi người thường có thói quen như vầy: sau khi hết giờ ngồi thiền buổi chiều, ai cũng giống như đã làm xong bổn phận, ai cũng quay lại thả mình vào những trạng thái khác nhau của tâm, nguyên cả ngày hôm sau cứ thả tâm đi lang thang lăng xăng theo thói thích của nó, rồi đến giờ ngồi thiền chiều hôm sau trong đầu họ chỉ toàn những ý nghĩ búa xua trong ngày, chúng "đổ ngược" lại trong đầu họ. Như vậy là không có một nền tảng để tĩnh lặng, bởi họ đã để nó nguội lạnh suốt cả một ngày. (Thái độ duy trì tĩnh lặng và chánh niệm đã không được giữ ngoài giờ ngồi thiền, họ nghĩ chỉ khi ngồi thiền mới là tu, hết giờ thiền là hết tu). Nếu các bạn cứ tu tập theo kiểu như vậy thì tâm các bạn sẽ càng lúc càng trôi xa khỏi việc tu tập. Khi tôi hỏi một số đệ tử của tôi: "Việc thiền tập ra sao?". Họ nói: "Dạ, xong rồi". Các bạn thấy không? Họ chỉ ngồi tu được một hay hai tháng, sau đó một hai năm thì coi như xong, không tu nữa.

Why is this? It's because they don't take this essential point into their practice. When they've finished sitting they let go of their samādhi. They start to sit for shorter and shorter periods, till they reach the point where as soon as they start to sit they want to finish. Eventually they don't even sit. It's the same with bowing to the Buddha image. At first they make the effort to prostrate every night before going to sleep, but after a while their minds begin to stray. Soon they don't bother to prostrate at all, they just nod, till eventually it's all gone. They throw out the practice completely.

Bởi vì sao? Bởi họ không đưa cái điểm quan trọng này vào việc tu tập của họ- đó là sự đều đặn và liên tục. Khi họ hết ngồi thiền họ cũng dẹp bỏ luôn sự chánh định (samādhi). Lần lần, họ cũng bắt đầu ngồi thiền trong những khoảng thời gian ngắn hơn. (Lúc đầu ngồi một giờ, sau đó nửa giờ, sau đó còn mười lăm phút, thậm chí mỗi lần chỉ vài phút). Rồi đến lúc nào đó, họ vừa bắt đầu ngồi xuống thì đã muốn kết thúc phiên thiền. Cuối cùng họ cũng chẳng thèm ngồi thiền gì nữa. Chuyện này cũng giống như việc lạy Phật. Trước kia họ cố gắng quỳ lạy tượng Phật một cách rất nghi lễ trước lúc đi ngủ, như dần dà sau này tâm họ bắt đầu chểnh mảng, thất niệm. Chỉ không lâu sau đó họ không còn lễ lạy gì nữa, họ chỉ gục cái đầu một cái để bái Phật. Cuối cùng họ cũng dẹp luôn nghi thức này. Họ đã giục bỏ toàn bộ việc tu hành.

Therefore, understand the importance of sati, practice constantly. Right practice is steady practice. Whether standing, walking, sitting or reclining the practice must continue. This means that practice, meditation, is done in the mind, not in the body. If our mind has zeal, is conscientious and ardent, then there will be awareness. The mind is the important thing. The mind is that which supervises everything we do.

Bởi vậy, các bạn phải hiểu rõ tầm quan trọng của sự chánh niệm (sati), phải tu tập một cách đều đặn, tu chắc chắn, tu không rớt. Sự tu tập đúng đắn là tu tập đều đặn, ổn định. Dù đang đứng, đang đi, đang ngồi hay đang nằm, sự tu tập phải liên tục. Điều này có nghĩa sự tu tập thiền tập được thực hiện trong tâm này, không phải trong thân. Nếu tâm có nhiệt huyết, tận tụy và nhiệt tình thì sẽ có được sự rõ biết về mình, tức sự tự tỉnh-giác. Tâm là thứ quan trọng. Tâm là cái giám sát tất cả mọi việc mình làm.

When we understand properly then we practice properly. When we practice properly we don't go astray. Even if we only do a little that is still all right. For example, when you finish sitting in meditation, remind yourselves that you are not actually finishing meditation, you are simply changing postures. Your mind is still composed. Whether standing, walking, sitting or reclining you have sati with you. If you have this kind of awareness you can maintain your internal practice. In the evening when you sit again the practice continues uninterrupted. Your effort is unbroken, allowing the mind to attain calm.

Khi chúng ta hiểu biết đúng đắn thì chúng ta tu tập đúng đắn. Khi chúng ta tu tập đúng đắn thì chúng ta không bị xao lãng lan man. Ngay cả khi chúng ta làm điều gì ít thì điều đó cũng hoàn toàn đúng. Ví dụ, ngay khi chúng ta xong giờ ngồi thiền, hãy luôn nhắc mình rằng: "thực sự chúng ta không phải ngưng thiền", chúng ta chỉ thay đổi tư thế của thân mà thôi. Tâm của ta vẫn còn tập trung và tĩnh lặng. Dù đang đứng, đang đi, đang ngồi hay đang nằm, phải luôn có chánh niệm với mình. Nếu chúng ta có loại tỉnh giác như vậy, chúng ta mới có thể duy trì sự tu tập bên trong. Đến chiều chúng ta ngồi thiền trở lại thì sự tu tập đó vẫn liên tục, không gián đoạn. Sự nỗ lực không bị gián đoạn giúp cho tâm đạt đến tĩnh lặng.

This is called steady practice. Whether we are talking or doing other things we should try to make the practice continuous. If our mind has recollection and self-awareness continuously, our practice will naturally develop, it will gradually come together. The mind will find peace, because it will know what is right and what is wrong. It will see what is happening within us and realize peace.

Đây được gọi là sự tu tập đều đặn. Dù chúng ta có đang nói hay đang làm những việc khác, chúng ta vẫn cố gắng giữ sự tu tập liên tục. Nếu tâm có được sự chánh niệm và sự rõ biết (tỉnh giác) về mình một cách liên tục thì sự tu của chúng ta sẽ tiến bộ theo lẽ tự nhiên, nó càng ngày càng hội tụ vào nhau, (tức mọi sự tu tập càng ngày càng đi đúng hướng và đến đúng nơi). Tâm sẽ tự nhiên tìm thấy sự bình an, bởi nó thấy biết cái gì đúng và cái gì sai. Nó sẽ nhìn thấy mọi điều đang diễn ra bên trong chúng ta và nhận thấy sự bình an.

If we are to develop sīla (moral restraint) or samādhi (firmness of mind) we must first have paññā (wisdom). Some people think that they'll develop moral restraint one year, samādhi the next year and the year after that they'll develop wisdom. They think these three things are separate. They think that this year they will develop, but if the mind is not firm (samādhi), how can they do it? If there is no understanding (paññā), how can they do it? Without samādhi or paññā, sīla will be sloppy.

Nếu chúng ta tu dưỡng giới hạnh (sīla) hay sự chánh định (samādhi, trạng thái định tâm, sự vững chắc của tâm), thì trước tiên chúng ta phải có sự hiểu biết, tức trí tuệ (paññā). Một số người cho rằng mình phải tu tập theo các bước, chẳng hạn tu dưỡng giới hạnh một năm, tu tập sự định tâm (thiền định) năm sau, và năm sau nữa tu tập trí tuệ (thiền tuệ). Họ nghĩ đó là ba phần khác nhau. Họ nghĩ năm nay họ tu dưỡng gì gì đó, nhưng nếu tâm chưa có khả năng đạt định (samādhi) thì làm sao mà tu được cái gì? Nếu không có sự hiểu biết trí tuệ (paññā) thì biết gì mà tu sửa? Không có định tâm (samādhi) hay trí tuệ (paññā) thì giới hạnh (sīla) sẽ xuống dốc.

In fact these three come together at the same point. When we have sīla we have samādhi, when we have samādhi we have paññā. They are all one, like a mango. Whether it's small or fully grown, it's still a mango. When it's ripe it's still the same mango. If we think in simple terms like this we can see it more easily. We don't have to learn a lot of things, just to know these things, to know our practice.

Thực tế thì ba phần đó diễn ra với nhau ở cùng một chỗ. Khi ta có giới hạnh thì ta có khả năng định tâm, khi có khả năng định tâm thì có khởi sinh trí tuệ. Tất cả chúng là một, giống như một trái xoài. Dù nó là còn nhỏ hay đã lớn, nó vẫn là trái xoài. Khi chín muồi nó vẫn là trái xoài. Nếu chúng ta nghĩ theo cách đơn giản như vậy thì ta có thể thấy điều đó dễ dàng hơn. Chúng ta không cần phải học quá nhiều thứ nhiều chiêu, chỉ cần biết những thứ đó, chỉ cần biết rõ sự tu tập của chúng ta.

When it comes to meditation some people don't get what they want, so they just give up, saying they don't yet have the merit to practice meditation. They can do bad things, they have that sort of talent, but they don't have the talent to do good. They throw it in, saying they don't have a good enough foundation. This is the way people are, they side with their defilements.

Khi mọi người đến với thiền, một số người không đạt được cái mình cầu, không chứng đắc cái mình muốn, cho nên họ bỏ cuộc, than rằng số mình chưa có đủ công đức để thiền tập. Họ có thể làm những điều xấu, họ cũng có tài đó, nhưng không phải tài làm những điều tốt. Họ quăng bỏ tọa cụ, nói rằng mình không có đủ căn cơ để tu thiền. Đó là cách phổ biến của những người tu, họ tự loại mình ra khỏi con đường, họ tự bỏ cuộc và mang theo những ô nhiễm của mình.

Now that you have this chance to practice, please understand that whether you find it difficult or easy to develop samādhi is entirely up to you, not the samādhi. If it is difficult, it is because you are practicing wrongly. In our practice we must have ''right view'' (sammā-ditthi). If our view is right then everything else is right: right view, right intention, right speech, right action, right livelihood, right effort, right recollection, right concentration - the Eightfold Path. When there is right view all the other factors will follow on.

Bữa nay các bạn đã có cơ hội đến đây để tu tập, vậy mong các bạn hiểu rằng: việc tu thiền đạt định (samādhi) dễ hay khó là do nơi các bạn, chứ không phải do trạng thái định (samādhi) là khó hay dễ. Khi tu tập, chúng ta cần có "sự hiểu biết đúng đắn" (tức cách nhìn đúng đắn, chánh kiến, sammāditthi). Nếu cách nhìn của chúng ta là đúng đắn thì mọi việc khác cũng đúng đắn: cách nhìn đúng đắn, ý hành đúng đắn, lời nói đúng đắn, hành động đúng đắn, nghề nghiệp đúng đắn, nỗ lực đúng đắn, quán niệm đúng đắn, thiền định đúng đắn—[chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định]—đó là con đường Bát Chánh Đạo. Chánh kiến dẫn đầu, giống như con mắt nhìn khi chúng ta bước đi hay làm bất cứ điều gì. Khi có chánh kiến thì tất cả những phần khác của con đường cũng đúng đắn theo.

Whatever happens, don't let your mind stray off the track. Look within yourself and you will see clearly. For the best practice, as I see it, it isn't necessary to read many books. Take all the books and lock them away. Just read your own mind. You have all been burying yourselves in books from the time you entered school. I think that now you have this opportunity and have the time, take the books, put them in a cupboard and lock the door. Just read your mind.

Dù chuyện gì xảy ra, đừng để tâm lệch lạc khỏi đường đi. Nhìn vào bên trong chính mình bạn sẽ thấy một cách rõ rệt. Để tu tập tốt nhất, theo thiển ý của tôi, các bạn không cần phải đọc quá nhiều kinh điển. Dọn tất cả sách vở đem đi cất hết thử. Chỉ cần đọc cái tâm của mình. Các bạn trước giờ đã vùi chôn mình trong đống sách vở từ thuở mới bước chân đến trường học. Giờ đã đến lúc thu dọn những đống sách vở với đống kiến thức thế gian qua một bên, thu dọn hết mớ kinh sách, đưa vô tủ và khóa tủ lại. Giờ chỉ lo đọc cái tâm mình.

Whenever something arises within the mind, whether you like it or not, whether it seems right or wrong, just cut it off with, ''this is not a sure thing.'' Whatever arises just cut it down, ''not sure, not sure.'' With just this single axe you can cut it all down. It's all ''not sure.''

Khi nào có thứ gì khởi sinh trong tâm, dù ta thích hay ghét, dù nó có vẻ đúng hay sai, cứ buông bỏ nó với tâm niệm: "điều này không chắc chắn". Bất cứ điều gì khởi sinh trong tâm: "không chắc, không chắc". Chỉ cần một lưỡi rìu như vậy, bạn có thể chặt nó rớt ngay, có thể chặt bỏ tất cả mọi thứ–không còn dính líu gì đến chúng.

For the duration of this next month that you will be staying in this forest monastery, you should make a lot of headway. You will see the truth. This ''not sure'' is really an important one. This one develops wisdom. The more you look the more you will see ''not sure''-ness. After you've cut something off with ''not sure'' it may come circling round and pop up again. Yes, it's truly ''not sure.'' Whatever pops up just stick this one label on it all... ''not sure.'' You stick the sign on... ''not sure''... and in a while, when its turn comes, it crops up again... ''Ah, not sure.'' Dig here! Not sure. You will see this same old one who's been fooling you month in, month out, year in, year out, from the day you were born. There's only this one who's been fooling you all along. See this and realize the way things are.

Từ giờ đến hết tháng sau, các bạn ở lại tu trong ngôi chùa trong rừng này, các bạn hãy cố tu tiến nhiều. Các bạn sẽ nhìn thấy sự thật. Cái rìu "không chắc chắn" này thực sự là thứ quan trọng cho các bạn. Thứ này có thể phát triển trí tuệ hiểu biết. Càng nhìn vào mọi thứ, các bạn càng nhìn thấy cái sự "không chắc chắn" này. Sau khi bạn đã chặt đứt một thứ khởi sinh bằng cái rìu "không chắc chắn" này, có thể thứ đó vẫn khởi sinh lại, nó lòng vòng quanh quẩn trở lại trong tâm ta. Khi nó khởi lên trở lại, bạn tiếp tục phủ tấm 'bùa' này lên nó luôn... "không chắc chắn"... và chẳng bao lâu nó lại khởi sinh, nó lại nổi lên lại trong tâm... thì vẫn tiếp tục tâm niệm: "À, không chắc chắn". Cứ vậy. Cứ xử gọn nó như vậy! Không chắc chắn. (Bạn sẽ thấy những thứ khởi sinh chỉ giống tựa nhau, chúng đều đến rồi đi, giả tạm, giả lừa, phù du, có rồi mất, không phải là thứ gì, chẳng là gì, như bọt nước mưa; vậy nên chúng ta đâu cần chạy theo chúng nữa; chỉ nhìn thấy chúng và nhớ/niệm rõ: nó là không chắc chắn. Vừa nhìn nó là nó đã mất rồi). Bạn sẽ thấy những thứ khởi sinh chỉ giống tựa như nhau, chỉ là một thằng cha cũ cứ đến chọc phá ta tự hồi nào đến giờ, tháng này, tháng nọ, năm này, năm nọ, kể từ ngày ta mới được sinh ra...Chỉ là một gã đó cứ đến chọc ghẹo kích thích ta. Nhìn thấy rõ điều này thì bạn có thể giác ngộ được cách mọi sự diễn ra theo bản chất tự nhiên của chúng.

When your practice reaches this point you won't cling to sensations, because they are all uncertain. Have you ever noticed? Maybe you see a clock and think, ''Oh, this is nice.'' Buy it and see... in not many days you're bored with it already. ''This pen is really beautiful,'' so you take the trouble to buy one. In not many months you tire of it again. This is how it is. Where is there any certainty?

Khi sự tu tập của bạn tiến bộ đến mức này rồi, thực đáng khen, thì bạn không còn dính chấp vào những cảm nhận nào nữa, bởi bạn đã biết tất cả chúng đều là không chắc chắn, không bền chắc, chẳng là cái gì thực thể, chỉ là phù du; những cảm nhận sướng khổ chỉ là những thứ đến và đi, có rồi mất.

(Cũng như những con sóng biển lớn nhỏ xô vào bờ cát, chúng đi vào rồi rút ra, đến rồi đi, đó chẳng là gì cả, chỉ là tác động của gió từ ngàn ngàn khơi xa, chẳng liên quan gì đến bờ ta; chúng cứ cuộn sóng lên chạm đến bờ, rồi mất đi. Cứ nhìn chúng như vậy. Chỉ là bản chất đến đi sinh diệt của tự nhiên).

If we see all these things as uncertain then their value fades away. All things become insignificant. Why should we hold on to things that have no value? We keep them only as we might keep an old rag to wipe our feet with. We see all sensations as equal in value because they all have the same nature.

When we understand sensations we understand the world. The world is sensations and sensations are the world. If we aren't fooled by sensations we aren't fooled by the world. If we aren't fooled by the world we aren't fooled by sensations.

The mind which sees this will have a firm foundation of wisdom. Such a mind will not have many problems. Any problems it does have it can solve. When there are no more problems there are no more doubts. Peace arises in their stead. This is called ''practice.'' If we really practice it must be like this.

Bạn có để ý hiểu điều này không? Có thể bạn nhìn một cái đồng hồ và thấy nó đẹp. Đẹp quá, nên bạn bỏ tiền mua để sở hữu và ngắm nhìn...nhưng chỉ được vài ngày bạn bắt đầu thấy chán. Cây viết này đẹp quá, bạn lại dính chấp vào rắc rối, bạn mua nó về để có nó và ngắm nó. Chỉ được vài tháng bạn thấy chán nó, thấy nó cũng thường thôi. Đó, mọi sự của chúng ta là vậy đó. Đâu có gì là chắc chắn phải không?

Nếu chúng ta nhìn thấy 'tất cả mọi thứ trên đời đều không chắc chắn, đều là giả lập và tạm bợ' thì giá trị của chúng đối với chúng ta sẽ mờ nhạt.

(Ngay cả quần áo đẹp, thức ăn ngon, mỹ nhân, anh hùng... cũng là thứ không bền lâu. Đồ ăn nào ngon nhất ta ăn vài bữa cũng phát chán. Đồ ăn chỉ là đồ ăn, ngon hay ngán chỉ là do cái tâm của ta dính chấp vào đó. Bởi vậy ý kiến "đồ ăn ngon" không phải là chắc chắn. Cái sự "ta thấy ngon" cũng không phải là chắc chắn. Chẳng có gì là chắc chắn).

Lúc này, mọi thứ đều trở thành không thực sự quan trọng đối với chúng ta, sau khi chúng ta nhìn ra bản chất thực của chúng. Vậy tại sao chúng ta còn tiếp tục nắm giữ những thứ không giá trị đó? Chúng ta giữ chúng cũng như giữ miếng giẻ rách rồi cuối cùng cũng vứt đi. (Những gì ta trân quý nắm giữ rồi cuối cùng cũng bỏ đi mà thôi). Huống hồ chi là những cảm nhận phù du có-mất trong một cái tích chưa-tắc. Chúng ta nhìn những cảm nhận cũng có cùng bản chất tự nhiên như mọi thứ khác: đến và đi, có và mất, không chắc chắn, vậy thì tâm chúng ta đâu cần phải dính chấp theo chúng để làm gì.

Khi chúng ta hiểu rõ những cảm nhận, chúng ta hiểu rõ thế giới. Thế giới là những cảm nhận và những cảm nhận là thế giới. (Thế giới của ta là do những cảm nhận của ta). Nếu chúng ta không bị kích dẫn bởi những cảm nhận, thì chúng ta không bị kích dẫn bởi thế giới. Nếu chúng ta không bị tác dẫn bởi thế giới, thì chúng ta không bị tác dẫn bởi những cảm nhận.

Cái tâm nhìn thấy điều đó là nó có được một nền tảng trí tuệ chắc chắn. Cái tâm như vậy sẽ không bị nhiều khó khổ. Nếu có khó khổ khởi sinh, cái tâm đó cũng tự nó xử lý được. Khi đã không còn những khó khổ thì không còn nghi ngờ. Sự bình an sẽ có mặt thay cho nghi ngờ. Đây chính là "tu". Nếu chúng ta thực sự tu, nó phải dẫn đến như vậy. Tu thiệt sẽ thành như vậy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com