Những Phê Phán về Chủ Nghĩa Tư Bản 1
Những Phê Phán về Chủ Nghĩa Tư Bản
Harry M. Cleaver, Jr.
Dịch Viên: Nhân Thụy
Karl Heinrich Marx (1818-1883) được sinh ra và lớn lên tại Đức, có trình độ đại học, vì những bài viết mang tính chính trị của mình mà ông phải sống tha phương, ban đầu là ở Đức, sau đó là Pháp, Bỉ, sau cùng ông định cư tại Anh và trở thành nhà phê bình chủ nghĩa tư bản và kinh tế sắc sảo và có ảnh nhất mọi thời đại.
Khi còn là sinh viên của trường đại học Đức, ông học về triết học tự biện (đặc biệt với Kant và Hegel), khi sống tha phương tại Pháp thì ông nghiên cứu về thuyết chính trị của những nhà xã hội chủ nghĩa Pháp, còn khi ở Anh ông lại nghiên cứu về lịch sử của Anh và kinh tế chính trị của các nước thuộc địa.
Khi còn ở Đức (ông đã nghiên cứu và viết về vấn đề tội phạm hoá cuộc sống thực tại của những người nông dân truyền thống trong việc lấy gỗ trong rừng) thì ông đã đam mê ngành "kinh tế học", nhưng ông chỉ thực sự đi sâu vào nghiên cứu ngành này vào những năm 1840 sau khi gặp gỡ Frederick Engels - người mà sau này trở thành người bạn đồng hành và cùng ông sát cánh trong những bài viết và hoạt động chính trị.
Marx với vấn đề Chủ Nghĩa Tư Bản và những tác phẩm của ông
Từ những nghiên cứu của mình về những nhà kinh tế học cổ điển, Marx đã rút ra kết luận rằng những tác gia như Smith, Ricardo đã hoàn toàn đúng khi dùng "thuyết giá trị lao động" để phân tích chủ nghĩa tư bản bởi vì họ đã nhận thức được một loại trật tự xã hội mà trong đó tầng lớp lao động nắm vai trò chủ đạo trong sản xuất của cải vật chất và trong cả toàn bộ tổ chức xã hội. Cũng giống như Smith, ít ra thì Marx đã nhận thấy rằng chính sự khắc nghiệt của công việc áp đặt lên công nhân do nhu cầu phân chia lao động sản xuất đang gia tăng đã huỷ hoại đi những người công nhân. Nhưng trái ngược với Smith và những người xem tư bản chủ nghĩa như một tổ chức cần thiết của xã hội với đầy ấp công việc (Owen cũng vậy), Marx dựa vào thuyết Hegel để phát triển những bài phê bình về công việc dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thêm sâu sắc.
Những bài phê bình đó đều nằm trong tập Bản Thảo Về Triết Học Và Kinh Tế Học được viết năm 1844. Trong phần "Ly Gián Lao Động[11]", Marx phát triển một lý thuyết về những tình trạng mà trong đó người lao động bị "xa lánh" và bị huỷ hoại bởi thái độ cá nhân và những mối quan hệ xã hội bởi vì bị ràng buộc trong một xã hội tư bản, người công nhân không thể kiểm soát được những gì mình làm. Phân tích này muốn nói rằng cách duy nhất để công việc không còn bị xa lánh nửa là loại bỏ đặc tính "bị ép buộc" của nó để công nhân có thể kiểm soát được quá trình làm việc của họ cũng như làm cho tiến trình này phục vụ nhu cầu của họ. Trong khi Marx có thể nhận ra rằng công việc luôn bị áp đặt cho những tầng lớp xã hội, cũng giống như người La Mã buộc nô lệ của họ phải làm việc cho họ, thì ông lại lập luận thêm, duy nhất với chế độ tư bản chủ nghĩa, sự áp chế công việc như thế diễn ra không có giới hạn và vô tận.
Vào những năm 1860, khi Marx viết tác phẩm chính của mình - cuốn Tư Bản[12], trong đó thông qua lịch sử quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, ông không chỉ chứng minh rằng những nhà tư bản đã lợi dụng công việc như một phương tiện để giúp họ trở thành kẻ thống trị trong xã hội, mà ông còn chỉ ra rằng một khi họ đã trở thành giai cấp thống trị thì giai cấp công nhân sẽ tự tập hợp với nhau đầu tiên là để chống lại việc áp đặt công việc của giai cấp tư sản và sau đó là để đạt được mục tiêu giảm giờ làm và giành lấy tự do từ những đặt công việc nặng nhọc được áp đặt lên họ suốt cả một đời. Marx lập luận rằng nếu như công việc giữ vai trò quan trọng trong xã hội tư bản, thì hệ thống xã hội đang phổ biến này không chỉ đơn thuần đòi hỏi áp đặt một số công việc để thoả mãn một số nhu cầu nào đó thôi mà còn mở rộng việc áp đặt này vô tận. Cũng như những nhà kinh tế chính trị cổ điển, ông nhận thấy rằng phương tiện để mở rộng áp đặt công việc một cách vô tận như thế chính là dùng lợi nhuận đầu tư ép buộc con người phải làm việc. (Ở đây ông gợi lại quan điểm của Godwin cho rằng công nhân không nên cảm thấy biết ơn đối với những người đã tạo ra công việc cho họ mà phải cảm thấy phẩn nộ khi họ càng bị lệ thuộc). Nhưng không giống như những nhà kinh tế cổ điển khác, đối với họ lợi nhuận vẫn còn là một ẩn số (cả Smith vẫn không thể giải thích được và Ricardo chỉ cho rằng đó là phần dư ra đang giảm dần) thì Marx đã phát triển lý thuyết về lợi nhuận bằng cách sử dụng "thuyết giá trị lao động[13]" của riêng mình.
Marx, từ Giá Tri đến Giá Trị Thặng Dư
Mặc dù Marx có cùng quan điểm với những nhà kinh tế học cổ điển về thuyết giá trị lao động, nhưng đối với vấn đề áp đặt công việc của chủ nghĩa tư bản thì ông lại đưa ra thêm vào một số quan điểm trong thuyết giá trị lao động của mình và từ đó hướng ông đến thuyết lợi nhuận. Một số điểm trọng tâm của thuyết này:
1. Chủ nghĩa tư bản tổ chức xã hội bằng cách thúc ép con người sản xuất hàng hoá, sau đó bán hàng hoá để kiếm lợi nhuận, và dùng số lợi nhuận đó để tái sản xuất và áp đặt thêm nhiều công việc.
2. Cần hiểu giá trị theo thuật ngữ "lao động", tức là sức lao động nói chung, bởi vì đối với những nhà tư bản chuyên thiết lập xã hội bằng cách áp đặt công việc, thì giá trị chỉ là vấn đề thứ yếu so với loại công việc mà họ áp đặt và loại hàng hoá được tạo ra từ công việc đó. Do vậy, "giá trị" hàng hoá có thể được đo bằng lượng thời gian lao động trung bình để làm ra nó. Và vì thế tiền và mệnh giá được sử dụng để thể hiện giá trị đó mặc dù trong thị trường mệnh giá của nó không luôn bằng với giá trị thực của nó. Một cách lý giải khác, để thấy rằng để đo lường giá trị của hàng hoá bằng số thời gian lao động trung bình cần thiết chính là do "giá trị" tư bản của hàng hoá là nó đã mang đến những phương tiện để ép buộc con người làm việc và do vậy tạo cơ hội cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh rộng khắp các tổ chức xã hội khác.
3. Loại hàng nắm vị trí chủ chốt trong chủ nghĩa tư bản là "năng lực lao động", đó là khả năng và sự sẵn lòng làm việc, con người bị ép buộc phải bán nó cho bọn tư sản. (Trong chương 27 và 28 tập I quyển Tư Bản có đề cập đến một số tiến trình lịch sử phát triển đã tạo ra xu thế này). Trong chương 6 quyển Tư Bản, ông lập luận rằng giá trị lao động được quyết định như giá trị của các loại hàng hoá khác, đó là thời gian cần thiết để sản xuất, tức là thời gian cần thiết để làm ra những phương tiện thiết yếu cho cuộc sống (hàng tiêu dùng). Chi phí lao động cho sinh sản, nuôi dạy con, huấn luyện là những thứ cần thiết nhưng không được ràng buộc hay không trả lương cho họ mà nó sẽ chỉ tính gián tiếp vào chi phí sản xuất của những nhà tư bản (thông qua "lương gia đình").
4. Giả sử rằng công nhân được trả lương theo đúng giá trị lao động mà họ bỏ ra, tức là họ nhận đủ lương để có khả năng phát triển như một giai cấp, (kinh tế giai cấp định nghĩa đây là "sinh kế[14]"), cũng giống như thế những nhà tư bản có thể bắt người công nhân làm việc quá số lượng thời gian cần thiết để sản xuất số phương tiện thiết yếu của cuộc sống (giá trị mức lương của họ), do đó sẽ có thặng dư, tức là lợi nhuận. Theo cách nói của Marx, nếu thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu phát triển của lực luợng lao động = V, nhưng số lượng công việc áp đặt cho công nhân (T) lại lớn hơn số này, thì sẽ xuất hiện thặng dư T-V=S. Hoặc giả, ta đặt công thức khác, tổng thời gian lao động sẽ bằng V+S. Trong thuật ngữ lao động thì S = mức lao động thặng dư, đó là mức lao động đã vượt qua mức lao động cần để phát triển lực lượng lao động. Trong thuật ngữ giá trị thì S = giá trị thặng dư, đó là giá trị vượt qua mức giá trị do tư bản đầu tư vào.
5. Do đó mục tiêu chiến lượt của tư bản để họ có thể mở rộng và quản lý xã hội một cách tối đa, là gia tăng giá trị thặng dư đạt được từ công nhân. Marx cho rằng để thực hiện nó tư bản đã đưa ra hai chiến lược chính: giá trị thăng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối. Ở chiến lượt thứ nhất, giá trị thặng dư tuyệt đối, nhà tư bản cố gắng tăng thêm thời gian lao động (thời của Marx gọi là ngày làm việc, còn thời nay gọi là tuần làm việc) để tăng giá trị của S thì tăng giá trị của T và giữ nguyên V. Ở chiến lượt thứ hai, giá trị thặng dư tương đối, nhà tư bản cố gắng sử dụng những kỹ thuật tiên tiến để gia tăng năng xuất và do đó giảm giá trị của V và tăng phần chung của S trong T. Thành công từ hai chiến lượt đó đã làm tăng tỉ số S/V hay làm tăng cái Marx gọi là tỷ số bốc lột. Thành công đó cũng có khuynh hướng làm tăng tỷ số lợi nhuận, S/(C+V) trong đó C là chi phí đầu tư vượt mức lao động, nghĩa là nhà xưởng, thiết bị, nguyên vật liệu, phương tiện sản xuất nói chung.
6. Đối với Marx, những hoạt động "thông thường" của tư bản bao gồm việc tạo ra lợi nhuận (dẫn đến phát sinh thặng dư) và việc tái đầu tư lợi nhuận đó, mọi người - những nhà kinh tế cổ điển, Marx và sau Marx, gọi đây là "tích luỹ". Bởi vì giá trị thặng dư tương đối đạt đuợc do thay thế sức lao động bằng máy móc ngày càng đươc phổ biến trong quá trình công nghiệp hoá (những người trước thời Marx như Owen cũng đã nhận ra điều này) sự thay thế số lao động được trả lương bằng "lao động dự bị" thất nghiệp và chưa được trả lương là toàn bộ phần tích luỹ và "tái sản xuất mở rộng" của chủ nghĩa tư bản.
Với lý thuyết này của mình, Marx đã có thể phê bình từng thuyết kinh tế quan trọng khác cũng như những nhà lý luận khác. Người ta đặt tên cho quyển Tư Bản của ông là "phê bình kinh tế chính trị" bởi vì nó đưa ra một lý thuyết miêu tả "kinh tế chính trị" như là "đầu não khoa học của tư bản", là tư duy chiến lượt của giai cấp tư bản. "Bài phê bình" của Marx đã phát hiện ra rằng mức độ thành công của tư duy đó trong việc nắm bắt bản chất của chế độ này và cả những cách mà chế độ này che dấu bản chất bốc lột của nó và chấp nhận nó như "bản chất tự nhiên".
Những phân tích của Marx, khuynh hướng tư bản áp đặt công việc vô hạn định, đặc tính xa lánh công việc bị áp đặt, và cách mà nó huỷ hoại con người, tất cả đã cho ông thấy rằng cuộc đấu tranh của công nhân để chống lại việc bị áp chế công việc và để giảm sự áp chế đó, cuộc đấu tranh đó không phải đơn thuần là những hiện tượng nhất thời mà chính là một hiện tượng không thể tránh khỏi và nó sẽ cứ tiếp tục tái diễn dù cho nó có bị đàn áp thế nào đi chăng nửa. Do vậy, chủ nghĩa tư bản không đơn thuần là một xã hội giai cấp như những nhà trọng thương và mọi người nghĩ, mà thực chất về cơ bản nó là những mối quan hệ giai cấp đối lập nhau và sự đối lập đó chỉ mất đi khi chủ nghĩa tư bản kết thúc. Vì vậy không giống như Smith, Owen hoặc Saint-Simon - những người nghĩ rằng công nhân có thể chấp nhận cam chịu những quy luật của chủ nghĩa tư bản, Marx quan niệm rằng công cuộc đấu tranh giai cấp chỉ chấp dứt khi chủ nghĩa tư bản được thay thế bằng một chế độ khác ưu việt hơn. Và ông lập luận rằng theo quy luật phát triển của lịch sử, chế độ ưu việt đó chính là của dân chúng, những người câm ghét và phải gánh chịu hậu quả từ khi bị áp đặt công việc không có giới hạn: họ là tầng lớp lao động hay còn gọi là giai cấp vô sản. Ông còn nói rằng tư bản đã tạo ra quần chúng, bắt họ làm việc cho mình, rồi đây chính quần chúng trở thành những người đào huyệt cho họ. Do đó tiến trình phát triển của chủ nghĩa tư bản sẽ đầy rẫy những xung đột đối kháng và khủng hoảng tái diễn không dứt.
Khủng Hoảng Kinh Tế và Cách Mạng Kinh Tế
Theo Marx, những cuộc xung đột đối kháng từ xung đột giai cấp của chế độ chủ nghĩa tư bản và những cuộc khủng hoảng tái diễn đều đặn đó gây trở ngại cho lịch sử phát triển của nó, và chúng có mối quan hệ gắn bó chặc chẽ với nhau. Như tôi đã nói ở đâu đó rồi, những người theo chủ nghĩa Marx đã giải thích những phân tích về khủng hoảng kinh tế của Marx dưới góc độ của những nhà kinh tế, nhưng thật không may, trong quá trình đó họ đã bỏ qua mối quan hệ mật thiết này. Ở đây tôi muốn đề cập đến ba khía cạnh trong tác phẩm của Marx về những cuộc khủng hoảng và qua đó đưa ra những lời giải thích mang tính lựa chọn.
Ở khía cạnh thứ nhất, Marx nối gót quan điểm của Malthus: sự nhận thức khả năng "khủng hoảng chung" do tổng mức cầu không tương xứng. Nhưng không giống như Malthus (nhưng giống Ricardo và John Maynard Keynes - ở thế kỷ sau) Marx nhận thấy rằng mức cầu đối với hàng sản xuất bổ sung vào mức cầu cho hàng tiêu dùng để cấu thành tổng cầu. Do vậy, những gì ông đồng tình với Malthus là khuynh hướng về những động lực phát triển của tư bản nhằm giữ nguyên mức lương phải trả cho công nhân và gia tăng mức cầu cho hàng tiêu dùng. Marx trình bày lại quan điểm đó như sau: tuy nhiên sự gia tăng dân số không kiểm soát không phải là động lực chính mà là sự trái ngược nhau giữa một bên là mức lương giảm thiểu hành vi của nhà tư bản và mặt khác lợi nhuận làm tối đa hoá những nổ lực mở rộng sản xuất và thị trường của họ. Nói cách khác, Marx là một "người chỉ tiếp nhận một phần" vì ông thấy được nhược điểm của giai cấp lao động và ưu điểm của giai cấp tư sản cũng như khuynh hướng sản xuất vượt nhu cầu tiêu thụ.
Khía cạnh thứ hai có liên quan mật thiết với những suy nghĩ của ông về các vấn đề khủng hoảng hình thức các mối quan hệ quyền lực giữa lao động và tư bản được thể hiện trong "vòng quay kinh doanh[15]". Trong những giai đoạn phát triển nhanh (trong giai đoạn phát triển và bùng nổ của chu kỳ) Marx nhận thấy được tăng mức đầu tư sẽ dẫn đến nhu cầu cần lao động vượt xa so với sự phát triển của mức cung lao động và do đó se dẫn đến tăng lương vì thị trường lao động khan hiếm và người công nhân sẽ có nhiều quyền lực hơn so với chủ của họ. Nếu mức lương tăng quá nhanh và cao hơn cả năng suất thì lợi nhuận sẽ bị giảm, đầu tư sẽ giảm và do đó sản xuất bị đình trệ vì tổng cầu bị thu hẹp lại. Nói cách khác, những điều kiện thích hợp trong đó người công nhân có nhiều quyền lợi là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế, đầu tiên là giảm tỷ suất lợi nhuận và sau đó là giảm phạm vi hoạt động.
Tuy nhiên, cũng có một giải pháp để đối phó với tình trạng khủng hoảng: ngừng hoặc giảm sản xuất và gia tăng thất nghiệp để giảm lương và lấy lại lợi nhuận. Điều này nghĩa là kinh doanh sẽ biến khủng hoảng của chính nó thành khủng hoảng cho người công nhân và qua đó nó có thể chiếm lại vị trí ưu thế. Lấy lại lợi nhuận sẽ có lại đầu tư mới, gia tăng tổng cầu và tạo ra vòng phát triển mới.
Quan điểm về "vòng đời" như trên của Marx đều mang tính bi quan lẫn lạc quan. Một mặt ông nhận thấy sự cắt giảm sản xuất sẽ triệt phá huỷ lợi nhuận do công nhân làm ra từ đó khiến cho những cuộc đấu tranh đòi tăng lương của họ phát triển mạnh thêm. Mặt khác, ông lập luận rằng cuộc đấu tranh đòi tăng lương không phải là vô nghĩa bởi vì nó sẽ giúp họ được trả lương cao hơn trong thời gian sản xuất bị giảm cũng như ngăn không cho lương cắt giảm trong giai đoạn đó so với mức lương trong giai đoạn giảm sản xuất mà chẳng có một cuộc đấu tranh nào cả. Hơn nữa ông cho rằng những cuộc đấu tranh như thế chính là "trường lớp đào tạo đấu tranh giai cấp", trong đó công nhân có thể học cách thức tổ chức và học cách đấu tranh - mang đến cho họ những kinh nghiệm để chuẩn bị cho công cuộc cách mạng sau này (xem phần sau). Và Marx thấy rằng cuộc cách mạng sẽ có thể xảy ra do những điều kiện công việc áp đặt quá khắc nghiệt trong suốt thời kỳ cắt giảm sản xuất, tỷ lệ thất nghiệp cao, lương giảm và tất cả những điều tồi tệ khác mà nó gây ra (giảm tiêu thụ, thậm chí gây ar nạn thiếu ăn và chết đói, bệnh tật,...) Vào thế kỷ 19, không biết đã có biết bao cuộc cách mạng nổi dậy trong những giai đoạn như thế. Do vậy, đối với Marx, không có một vòng quay kinh tế nào đảm bảo được tính chu kỳ của nó, và cũng không đảm bảo rằng tư bản sẽ thành công khi chuyển khủng hoảng của mình thành khủng hoảng cho giai cấp công nhân để có thể chiếm lại vị trí ưu thế của mình. Ngược lại, sẽ luôn có những mối nguy hiểm đối với công việc kinh doanh, cũng như những cơ hội cho người công nhân chuyển giai đoạn cắt giảm sản xuất thành công cuộc cách mạng và làm sụp đổ chế độ này.
Khía cạnh thứ ba là những suy nghĩ của Marx về cuộc khủng hoảng, cũng giống như ở khía cạnh thứ nhất, khía cạnh này bàn về những khuynh hướng lâu dài. Những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại ngày làm việc quá dài cũng đã đạt được những thành quả, ban đầu ngày làm giảm xuống còn 10 giờ, sau đó là 8 giờ, việc kinh doanh phản ứng lại vấn dề thua lỗ của nó do giờ làm việc giảm bằng đầu tư thêm vào khoa học kỹ thuật. Theo thuật ngữ lý luận của Marx, chiến lượt giá trị thặng dư tuyệt đối bị thất bại cùng với sự thắng lợi của chiến lượt giá trị thặng dư tương đối. Với những phương pháp tổ chức sản xuất mới nhằm tăng hiệu xuất, việc doanh nghiệp có thể giảm được chi phí sản xuất và do đó duy trì hay thậm chí tăng tỷ lệ khai thác và tỷ suất lợi nhuận.
Hình thức cơ bản của phương pháp gia tăng hiệu suất đó là cải cách kỹ thuật, đưa máy móc thiết bị vào sản xuất, tuy nhiên hình thức này lại kèm theo một mâu thuẫn vốn có, đó là sự đe doạ của nó đối với việc thống trị xã hội trong tương lai của giai cấp tư sản. Năng suất gia tăng đó thể hiện ở ba đặc điểm sau và chúng thường có mối liên quan với nhau. Thứ nhất, máy móc mới có thể làm tăng năng suất, do đó cũng công nhân đó nhưng điều hành loại máy mới này sẽ có thể đạt được sản lượng nhiều hơn trong một thời gian nhất định. Thứ hai, đưa vào những loại máy mới đồng nghĩa với việc tổ chức lại sản xuất bằng nhiều cách, trong đó bao gồm sa thải bớt công nhân và buộc người công nhân phải làm việc theo tốc độ hoạt động của máy. Loại máy mới điển hình là dây chuyền sản xuất, tốc độ của dây chuyền quyết định đến cường độ công việc, và doanh nghiệp điều chỉnh tốc độ hoạt động của dây chuyền vừa đủ nhanh nhằm ngăn ngừa công nhân có thòi gian ngắn nghĩ giải lao khi đổi sang làm nhiệm vụ khác. Thứ ba, đây cũng là đặc điểm quan trọng nhất về mặt giả thuyết khủng hoảng, những loại máy móc mới sẽ thay thế những công việc mà trước đây do công nhân đảm nhiệm và do vậy sẽ dẫn đến hậu quả là nguồn "lao động dự bị" càng tăng và tiếp tục "chờ thời".
Ở đây lại xuất hiện một mâu thuẫn. Một mặt, chủ nghĩa tư bản điều hành xã hội thông qua việc thúc ép mọi người làm việc và do đó nó có thể đạt được và duy trì sự thống trị của nó hay không là tuỳ thuộc vào khả năng nó có thể tạo ra công việc cho đại đa số quần chúng hay không. Mặt khác, chiến lượt giá trị thặng dư tương đối với phương pháp đưa vào các loại máy móc thiết bị mới nhằm tăng năng suất lại huỷ hoại đi những công việc mà doanh nghiệp cần. Khi chiến lượt giá trị thặng dư tuyệt đối với phương pháp ép buộc công nhân làm nhiều giờ một ngày đã bị giai cấp công nhân đánh bại, và nó đã chuyển sang chiến lượt giá trị thặng dư tương đối, và làm cho mâu thuẫn này càng trở nên trầm trọng. Trong tình trạng một ngành công nghiệp này nối tiếp một ngành công nghiệp khác, Marx nhận thấy rõ chúng cũng chỉ mô phỏng sao chép lẫn nhau và vì thế làm cho việc áp đặt công việc càng gặp nhiều trở ngại.
Marx gọi khuynh hướng dài hạn thay thế sức lao động và làm suy yếu những phương tiện quản lý xã hội cơ bản của tư bản là "khuynh hướng giảm lợi nhuận". Cách gọi này xuất phát từ phân tích của ông về chiến lượt giá trị thặng dư tương đối, nó làm cho những ai theo chủ nghĩa Max hiểu lệch đi ý nghĩa của nó. Như đã đề cập ở trên, Marx đã dùng học thuyết về giá trị của mình để phân tích giá trị thặng dư đạt được khi thay thế công nhân bằng máy móc. Sự gia tăng về những gì chúng ta gọi là tỷ lệ vốn trên lao động (K/L > ông ta gọi là gia tăng "bản chất cơ bản của tư bản" (C/V) trong đó C là giá trị đầu tư cho máy móc và nguyên vật liệu, V là giá trị đầu tư cho lao động. Mà ta có thể ước lượng được mức độ ảnh hưởng của việc gia tăng C/V lên tỷ suất lợi nhuận được định nghĩa dưới đẳng thức [S/(C/V)]. Marx cho rằng khi C/V tăng sẽ làm cho năng suất tăng và do đó làm cho tiêu thụ giảm, và về lâu dài, theo như lý thuyết thì tiến trình này không có giới hạn, nên V có khuynh hướng về 0. Trong trường hợp đó S/(C+V) giảm còn S/C. Mà theo giả thuyết thì C gia tăng không có mức giới trên, nên giá trị S/C sẽ tuỳ thuộc vào giá trị của S. Nhưng mức giá trị thặng dư lại tuỳ thuộc số công nhân được thuê và luợng thời gian họ làm. Do thời gian làm việc có giới hạn (24 giờ một ngày, nhưng thực tế thì thấp hơn nhiều) và do C/V tăng thay vì lao động chân tay bị thay thế, nên ta có thể xem S là có giới hạn. Khi S bị giới hạn và c không bị giới hạn thì tỷ số s/c sẽ phải giảm. Do đó tạo ra "khuynh hướng giảm lợi nhuận[16]" [Để tham khảo thêm bài phê bình chủ nghĩa Marx của Paul Sweezy về mặt học thuyết này của Marx và bài viết những phản bác của tôi, xin xem bài "Karl Marx: Nhà Kinh Tế Học Hay Là Nhà Cải Cách ?"]
Những giải pháp của những nhà tư bản đối với vấn đề mâu thuẫn giữa nhu cầu về việc làm và khuynh hướng đi đến loại bỏ chúng bao gồm hai hướng giải quyết, huớng giải quyết thứ nhất thì đã quá ư là rõ ràng trong thời của Marx rồi, còn cách thứ hai thì xuất hiện sau đó. Phương pháp giải quyết thứ nhất là tạo ra những ngành mới. Miễn là những ngành này sau khi phát triển sẽ cung cấp nhiều công việc hơn, những lao động bị máy móc thay thế, mà có lẽ phần lớn họ, có thể tìm thấy công việc ở một nơi nào khác (nhưng không phải là toàn bộ số lao động, "đội ngũ lao động dự bị" của Marx còn bao gồm không chỉ là số lao động thất nghiệp "thả nổi" do chuyển đổi công việc mà còn có cả số thất nghiệp "ứ đọng" và thất nghiệp "cấu trúc" những người không thể tìm cho mình một công việc mới. Giải pháp thứ hai là lệ thuộc hoá thời gian và cuộc sống của những lao động bị thay thế. Đó cũng chính là số phận của phụ nữ và trẻ em, họ bị loại ra khỏi lực luợng lao động do máy móc (hay do luật lao động quy định), họ nhận thấy rằng họ lại bị bó buộc vào trường học và những công việc gia đình không lương và tái sản sinh ra lực lượng lao động khác.
Từ lịch sử thế kỷ 17-19 - trong phạm vi phân tích tích của mình, Marx nghĩ rằng chủ nghĩa tư bản sẽ vượt qua được những cuộc khủng hoảng và cách mạng. Cách Mạng Anh những năm 1640, Cách Mạng Mỹ năm 1776-1812, Cách Mạng Pháp năm 1789, Cách Mạng Pháp năm 1830, những cuộc cải lớn ở Châu Âu năm 1848, cuộc nổi dậy ở Paris năm 1870, cách mạng chống thực dân ở vùng Caribê và châu Á, đây là những ví dụ điển hình cho những cuộc cách mạng không chỉ đem đến quyền lực cho giai cấp tư sản mà dẫn tới những thứ vũ khí huỷ diệt nó. Điều mong đợi này được thể hiện xuyên suốt trong cuộc sống chính trị và tư tưởng của ông, từ 1848 khi soạn thảo Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản, đến chương cuối của quyển Tư Bản (năm 1867) rồi đến những nghiên cứu của ông về Cuộc Nội Chiến Pháp sau khi ở khu tự trị Pháp xảy ra nổi loạn và bị đàn áp.
Quan điểm của mình về số lượng ít những nhà tư bản kia lại áp đặt công việc cho đại chúng, Marx hy vọng rằng cuộc chiến chống chế độ tư bản của giai cấp công nhân sẽ dễ dàng và ít bạo động hơn so với cuộc chiến trước đó, cuộc chiến lật đổ chế độ tiền tư bản của giai cấp tư sản - những người đã biết lợi dụng sức mạnh và sự câm giận của "những giai cấp thấp hơn". Trong những năm sau này, khi công nhân có quyền bầu cử, Marx và Engels - người bạn đồng hành bấy lâu nay của ông - đã tự hỏi rằng liệu con đường dẫn đến một chế độ tư bản siêu việt thông qua bầu cử những người đại diện cho gia cấp công nhân vào nghị viện có diễn ra suông sẽ hay không. (Một thời kỳ quá độ như Saint-Simon đã vạch ra trước đây cho giai cấp tư sản.)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com