Những vùng trời khác nhau
NHỮNG VÙNG TRỜI KHÁC NHAU
(Nguyễn Minh Châu)
Gíá không có đợt báo động lúc bốn giờ sáng thì Lê còn ngủ.
Trong giấc ngù "truy lĩnh" đêm qua, có lỗ bơm có nổ ngay bên lán cũng không biết, Lê nằm mơ thấy mình đang ngồi trên xe hành quân. Đoàn xe đại đội cao pháo chạy qua một đoạn đường phố lát gạch của thủ đô Hà Nội. Lê ngồi trên cái thùng xe chất đầy ván nằm, bạt làm tăng, xoong chảo, thùng xách nước.
Qua một ngôi nhà có cái núm cửa sơn đen, bậc thềm gạch xây sát đường phố, Lê thấy Sơn đang đứng bên bậc thềm. Sơn vẫn mặc chiếc sơ mi chít hông bằng vải bạt - thứ "áo giáp" bốn mùa của con nhà lính. Mà sao cái thằng Sơn lại trắng nõn ra thế, như một người chưa hề bao giờ biết thế nào là cái nắng ở trận địa cao xạ. Sơn giơ tay vẫy và Lê nhảy từ trên xe xuống. Hai người ôm lấy nhau, cứ nhè vai nhau mà đấm mãi. Khi buông bạn ra thì Lê đã không thấy cái núm cửa cùng bậc thềm xây bằng gạch trước nhà Sơn đâu cả. Sau lưng Sơn, một cô gái mặc áo choàng trắng bước ra, hai tay bưng chiếc khay đựng đầy chai lọ và những gói thuốc con con... Phải rồi, Sơn có ra ngoài này đâu. Sơn đang chiến đấu trong khu Bốn. Ngày nào Lê mới từ biệt Sơn trên trận địa pháo, bên kia sông là làng Lê. Hôm đó, Sơn mới ở Quân y viện về được hai ngày. Chao ôi, chẳng phải là lần đầu tiên Lê biết thế nào là nỗi buồn phải xa một người bạn chiến đấu và vùng trời quen thuộc, nhưng khi từ biệt Sơn để đưa đơn vị ra ngoài này, vội quá. Lê chẳng biết nói gì với Sơn mà trong bụng có rất nhiều điều muốn nói.
...Từ ngày đầu cuộc chiến tranh phá hoại của địch, Lê gặp Sơn ở một khẩu đội cao xạ bảo vệ một thị trấn miền Tây Quảng Bình. Đó là những ngày đánh nhau chưa có gì ác liệt nhưng mà lắm chuyện buồn cười. Hồi đó, các chiến sĩ trông thấy máy bay địch xì khói trắng cứ nhảy lên mà reo, và cán bộ thấy pháo thứ trèo lên mâm pháo thì kêu trời ầm ỹ, cứ sợ năm người cùng đứng một lúc sẽ đánh vỡ mất mâm pháo.
Cứ vài hôm, một tốp chiến sĩ bộ binh lại được điều động về đơn vị pháo mới thành lập. Lê không quên một buổi sớm khẩu đội anh đang làm nhiệm vụ trực ban thì có một tốp chiến sĩ khoác ba lô từ phía nhà ga bỏ hoang đi lên đồi. Lê ngồi ghế số 2
Qua ống kính, Lê chú ý ngay cậu chiến sĩ đi cuối cùng. Cậu ta dong dỏng cao, trắng trẻo, dáng đi mềm mại như con gái, cái ba lô khoác sau lưng đã to nhưng chiếc túi da kiểu du lịch rất sang trọng khoác bên hông còn to hơn, chẳng biết đựng những gì nặng đến nỗi kéo lệch một bên vai xuống. Nửa giờ sau, cậu chiến sĩ
"công tử" ấy trong đám báy pháo thủ mới tới đã đứng trước mặt khẩu đội của Lê. Phải nói rằng cậu ta đẹp trai thật, khuôn mặt trái xoan, đôi mắt thông minh, tận trong lòng mắt ẩn náu một ánh lòng đen vừa ngây thơ vừa kiêu kỳ. "Các đồng chí, đây là đồng chí Sơn mới bổ sung về. Từ nay đồng chí Sơn phụ trách số 1". Trung đội trưởng giới thiệu Sơn như thế rồi nhìn Lê, pháo thủ số 2, cái nhìn như ngụ ý hỏi: "Cậu thấy cậu Sơn thế nào?"
Khẩu đội trưởng sắp xếp hai người ở với nhau. Lê dẫn Sơn về lán. Sơn phải cúi gập cái lưng thon và dài mới chui lọt mái lán thấp lè tè, lợp bằng những cánh lá khuynh diệp. Lê hỏi Sơn bằng giọng lạnh nhạt:
- Cậu quê ở thành phố hử?
- Mình ở Hà Nội, còn cậu?
- Mình ở Nghệ An - Ở đây các cậu ấy gọi mình là số hai "cá gỗ"!
Trong chiếc túi da sang trọng của người pháo thủ mới nhét gọn một bộ đồ vẽ. Ngoài ra còn những vật kỷ niệm đúng là của một anh học sinh Hà Nội vừa từ giã gia đình: an bom, sách học, sách truyện, thư từ rất nhiều và những chiếc mùi soa có mùi nước hoa. Sơn tỏ ra hiểu biết rộng nhưng "tán" cũng khiếp. Sơn hay cười, hay hát, cười hát chán lại kêu ầm lên rằng nhớ nhà, nhớ Hà Nội đến không chịu được. Những lúc ấy, bất kỳ ngồi trong lán hay ngoài trận địa, khoé mắt đen ánh của Sơn phút chốc như mờ đi bởi nỗi nhớ thành phố.
Lê để ý xét nét từng cứ chỉ của người pháo thủ mới tới bằng cặp mắt lạnh lẽo và nghiêm khắc hết sức, như một vị quan tòà.
Sơn cũng cảm thấy như thế. Những lúc ngồi bên nhau trên pháo, Sơn thường bắt gặp con mắt người pháo thủ số 2 nhìn mình không lấy gì làm ưa thích cho lắm. Sao thế nhỉ? Sơn tự hỏi mình có làm điều gì sai không, nhưng anh không giải thích được, anh vẫn đối xử với Lê vui vẻ như mọi người. Thật ra, Sơn không hiểu cái điều bí ẩn trong tính cách người pháo thủ đồng đội ấy: Trong những năm đằng đẵng Sơn cắp sách đi học trên những đường phố Hà Nội mát mẻ thì Lê đã dắt trâu đi những đường cày thẳng tắp và sâu hoắm trên cánh bãi sông Lam. Từ nhỏ Lê là đứa bé vất và từng đi ở vì bố mẹ anh mất sớm, đã phải làm ruộng đi củi từ năm lên mười. Đôi gò má Lê sớm sạm nắng và dô cao như một nhát đất cày. Tính tình Lê cũng thế, anh không quen thói viển vông, lãng mạn. Cái nhìn của Lê bao giờ cũng nghiêm khắc như một con gió Lào - "Cái thằng Sơn ấy - những ngày đầu Lê nghĩ về Sơn như vậy - cái thằng Sơn ấy mới gặp thì chẳng ưa được, không biết sau này sống với nhau ra sao? Hắn đi bộ đội để con gái viết thư chắc? Sao có nhiều người viết thư cho hắn thế? Chả trách lúc nào hắn cũng kêu nhớ nhà, nhớ Hà nội. Dễ thường mình không có gia đình, làng xóm ư? Hắn là một cậu học trò ba hoa, hắn không phải là mình, là kẻ cầm súng!".
Đã ba năm, từ ngày đó, hai người sống với nhau cùng một đơn vị pháo nổi tiếng từng đánh hàng trăm trận.
Trên hai chiếc ghế sắt ngồi tưởng đít đã thành chai, Lê và Sơn đã cùng nhau đi khắp gầm trời miền Trung đầy sắt thép và khói lửa: Từ giới tuyến ra Quảng Bình, từ Quảng Bình lộn vào giới tuyến; từ bờ biển Đèo Ngang kéo pháo lên Bãi Hà, lại từ Bãi Hà kéo pháo xuống đồng bằng bảo vệ đường số 1. Gia tài của họ:
Hai người chung tấm giát nằm bằng sậy và cái ba lô đựng vài ba bộ quần áo đỏ quạch màu đất đôi Vĩnh Linh, vạt còn vạt cháy nham nhở.
Sau gần ba năm, bây giờ ngắm Sơn, trung đội trưởng, người ta thấy anh khác đi nhiều. Bom đạn, bùn đất và gió Lào đã nặn khuôn mặt anh sắt lại, hai gò má sạm nắng, tưởng anh đã già đi trước tuổi. Anh đã mất cái vẻ trắng trẻo và non nớt. Anh cũng đánh mất những vật kỷ niệm Hà Nội, cả bộ đồ vẽ lỉnh kỉnh và chiếc túi da kiểu du lịch sang trọng, thứ bị bom cháy, thứ đánh rơi dọc đường trong mỗi kỳ di chuyển trận địa.
Lê đã trở thành một cán bộ đại đội. Có lẽ trong những năm sống bên cạnh Sơn, Lê cũng đánh mất đi của mình một cái gì đó, một cái gì trong tính cách riêng của anh. Trong đơn vị Lê gắn bó bằng tình ruột thịt với mọi đồng chí nhưng vẫn có một người anh yêu mến nhất. Người đó lại chính là Sơn. Sơn ở với Lê từ lâu, cùng dự những trận ác liệt nhất, từng đứng sát bên nhau trong những giây phút lịch sử trong đời lính, những giây phút trong đời người ta sẽ mãi mãi trở thành kỷ niệm. Có lúc Lê chợt nhớ những ý nghĩ hẹp hòi đối với Sơn, ngày Sơn mới về. Những ý nghĩ ấy như ánh pháo sáng chiếu rọi qua mắt Lê, chỉ có riêng anh biết và tắt đi rất chóng. Ngày hôm sau, hai người đã ngồi song song trước hai chiếc ống kính của một khẩu pháo. Họ ở với nhau một tuần, cùng dự vài trận đánh và một hôm Lê thốt lên: "Thằng này đánh nhau được!". Thế là bắt đầu mối tình bạn.
Lê nhìn Sơn đã khác hẳn. Đôi mắt Lê, từ đó, nhìn mọi vật cũng khác hẳn: Đôi lúc ngồi bên Sơn, anh thường nghĩ một cách say mê rằng nếu không có vùng trời thiêng liêng là của chung của hai người trên đầu đang bị kẻ thù rạch nát, nếu không có hai chiếc ống kính lắp song song bên nhau trên một khẩu pháo bắn máy bay thì có lẽ không có hoàn cảnh nào anh và Sơn có thể gặp nhau, cùng chung tấm giát nằm, mặc chung nhau vài chiếc áo khét lẹt mùi thuốc đạn và mùi mồ hôi pha tạp. Bấy giờ anh mới chợt hiếu đó là tình đồng đội, là hàng ngũ những người lính chiến đấu bảo vệ Tố quốc.
Vào một đêm mùa hạ, gió Lào miền Trung thổi hừng hực, nóng bóng, người không quen cái gió ấy cứ ngỡ bầu trời trên đầu sắp bốc thành lửa. Vào một đêm đơn vị cao pháo của Lê nhận lệnh cấp tốc hành quân từ Quảng Bình ra Nghệ An. Những chuyến đi dài và hối hả như thế một hồi đối với lính nhà pháo là chuyện thường. Hồi đó chiến tranh phá hoại của bọn Mỹ đang mở rộng nhanh chóng. Đi đến đâu, những người lính pháo cũng có sẵn một cái mặt trận mới mẻ là bầu trời xanh ngắt trên đầu, và hậu phương mặt trận bắt đầu từ ngay bên càng pháo. Trên đường hành quân, các pháo thủ chính ngồi trên các mâm pháo lắc lư, thỉnh thoảng kéo vạt khăn vắt ngang cổ lên lau bầu má nóng bòng. Họ đang đưa mắt ngắm những đám rừng cháy kéo dài thành vệt đó bỗng ngạc nhiên nhận thấy không khí tự nhiên dịu xuống, một giọng hò và nhịp mái chèo nổi lên len giữa tiếng xích sắt của đoàn xe kéo pháo chạy rầm rập. Đoạn đường trước mặt nhô cao lên như một đoạn đê lớn. Trên thùng xe của chiếc xe đi đầu, thuộc trung đội một, đại đội phó Lê ngồi bên cạnh Sơn, trung đội trưởng. Sau lưng hai người chỉ huy, các pháo thủ phụ tán chuyện và cười nói ầm ỹ, họ ngồi thượng trên chồng lát giường, vải bạt, nồi niêu, gà chó và hàng trăm thứ tạp nhạp gọi là "doanh cụ" chất cao lênh khênh, mỗi lần xe chạy qua một lùm cây, mọi người lại vội vàng nằm rạp xuống cả một lượt.
Từ lúc đoàn xe hành quân bắt sang con đường đê, Lê không nghe tiếng cười của các chiến sĩ ở phía sau nữa. Giọng hò và nhịp mái chèo đâu đây vương vấn trong lòng anh. Cái âm thanh rất khẽ vọng lên từ sông nước không tắt mà nổi lên mỗi lúc một rõ, vòm trời trên đầu Lê hình như đã biến thành một con sông lớn dạt dào tiếng mái chèo. Lê tự trách mình: "Mày đã quen cách thằng Sơn, đã ăn phải bả mơ mộng của nó rồi!". Nhưng chỉ lát sau, nhận ra đúng phương hướng, Lê liền nắm lấy vai Sơn và kêu to:
- Làng tau đây rồi, Sơn ơi!
Sơn ngước nhìn bốn phía chân trời tối như mực:
- Đâu hả?
- Bên tê... Bên tê sông. Chỗ tiếng mái chèo hướng thẳng sang.
Sơn cố lắng tai nhưng anh kêu chỉ nghe được tiếng xích và thỉnh thoảng con chó súa gâu gâu dưới gầm. "Cái thằng đến là nặng tai và thô lỗ!", Lê đã trở thành một người mơ mộng thực sự. Anh nghe rất rõ tiếng mái chèo đặc biệt của con sông quê anh. Tiếng mái chèo đò dọc chậm rãi và uể oải xuôi sông Lam thuở lọt lòng Lê đã nghe rồi nhớ không dứt ra được, thường đêm nào cũng qua bến ngõ nhà Lê quãng một hai giờ sáng. Tầm ấy, từ hồi còn bé anh đã thức dậy thổi cơm ăn để đi chặt củi. Tiếng mái chèo chạm nhẹ vào mặt sông kia như có hồn, như chiếc khoá cửa chỉ khẽ đánh tách một tiếng nhỏ nhưng đủ cho hai cánh cửa gian nhà mở ra. Gian nhà ấy lâu nay vẫn đóng im im. Dù cuộc sống có nhiều vất và, Lê cũng có một cái gia đình. Gần ba năm ở bộ đội, bàn chân đã đạp khắp mọi nơi nhưng chưa bao giờ anh về qua nhà, cũng không có thì giờ nghĩ đến điều đó.
Đại đội cao pháo dừng trên đê, tháo pháo kéo vào trận địa làm sẵn trên dài gò đất cao. Đó là chỗ nhân dân các vùng xung quanh thường đồn tới trong những vụ lụt. Đại đội Lê nhận lệnh đứng ở đấy, bảo vệ cái đập nước và con đê. Nghiên cứu địa hình, hướng bay của địch và làm phương án tác chiến mất một ngày.
Ngày hôm sau, ban chì huy cử Lê và Sơn sang bên kia sông bàn với địa phương một vài việc, nhân tiện Lê sẽ tạt qua nhà.
Hạnh phúc người ta trên đời chẳng biểt đâu là cùng. Hồi hoà bình ở nhà, Lê mới đi đến cái thị trấn huyện ly, đó là chuyến anh phải rời nhà đi ở sau khi mẹ mất. Thế mà bây giờ anh khoác bộ quân phục, sau bao nhiêu ngày đánh giặc khắp nơi nay trở về trông thấy mái nhà ba gian lợp lá mía do chính tay mình dựng trước khi đi bộ đội, thấy mái tóc bạc và cái bóng xiêu xiêu của bà đi chống gậy đứng bên vại nước, anh cứ tưởng mình là người hạnh phúc nhất đời! Vợ Lê, đang cắt cỏ trâu ngoài bãi thoáng trông thấy bóng chồng đã vơ quàng đầy hai sọt có rồi cứ băng giữa bãi mía để người làng khỏi trông thấy, gánh gánh cỏ , về nhà. Vợ anh trước đen đủi nay đẹp hẳn ra. Lúc anh đứng bên vợ, giữa hai gánh có ướt đẫm, bên chái nhà, trông thấy khuôn mặt vợ đỏ ửng lên vì thẹn và sung sướng thì lúc đó, anh cảm thấy niềm hạnh phúc quá lớn đến nỗi sợ không dám giáp mặt quá gần với nó!
Hôm đó, Sơn nằm dài trên chiếc chiếu trải giữa nền nhà cho bà dì của Lê quạt. Chiếc áo vải bạt lắm đất vo tròn làm gối, Sơn nằm nhai từng cái nhân lạc bùi ngậy của đất bãi sông Lam, rồi Sơn lại kêu ầm lên rằng nhớ Hà Nội không thể nào chịu được.
- Này Lê - Sơn nói - đến bây giờ mình còn nhớ, trong tờ giấy ghi số ghế rạp chiếu bóng cạnh nhà mình, mình chỉ cho lão bán vé chấm vào ô nào trên dãy ghế hai hào thì đúng "tủ" chỗ ấy ngay trên đầu có quạt máy!
- Tớ chịu cậu! - Lê đáp, giữa lúc anh vừa trông thấy khẩu súng trường và chiếc bao đạn của vợ dựng bên góc nhà.
- Cả Hà Nội chi có phố nhà mình từ dưới lòng đường lên vỉa hè, cả trong các nhà đều lát toàn bằng một thứ gạch vuông, thứ gạch cổ bản to nung rất chín. Giờ mình có thể nhắm mắt tả hình dáng từng viên gạch ở các ngõ, các bậc cửa...
- Tớ chịu cậu! - Lê lại đáp và chợt nhận thấy đã lâu lắm, Sơn mới nổi lên một "cơn" nhớ Hà Nội da diết và bộc lộ như thế!
- Lê, cậu còn nhớ cô gái Hà Nội chúng mình gặp ở Bãi Hà dạo nào không? Hôm chúng mình hành quân qua cái "cua" có bom nổ chậm ấy!... Dạo ở nhà đi học, mình có gặp cô ta luôn, nhưng chẳng bao giờ hỏi han một câu. Nhà cô ta ở xế cửa nhà mình, chi cách vài nhà. Cô ta không đẹp, không xấu, giữa Hà Nội là một người con gái chẳng có gì đáng để ý. Thế mà hôm mình gặp, bất chợt trông thấy cô ta hiện ra trong bộ quần áo thanh niên xung phong ở một nơi cuối trời cuối đất, bom đạn như cơm bữa, mình thấy cô ta đẹp quá đi mất! Trông thấy mình, cô ta vứt cả cuốc, chạy bồ tới rồi rít: "Anh Sơn, anh Sơn!". Còn mình thì khi quá, mình chẳng biết tên người ta để mà gọi! Nhưng ngay lúc ấy mình lại trông thấy dưới hai bắp chân trắng nõn lắm ngập bùn Bãi Hà một cái bậc cửa bắng gạch. Cả Hà Nội đô sộ hình như thu lại trong cái bậc cửa nhà cô ta, cũng giống như cái bậc cửa nhà mình, cả hàng gạch lát thêm xen vào một viên gạch đỏ chót... Không hiểu sao có những viên gạch như thế?...
Hai người mài chuyện thì vợ Lê từ dưới bếp chạy lên thắt bao đạn, khoác súng lên vai và nói hấp tấp:
- Hình như bên trận địa đang khua kẻng báo động, hai anh ạ!
Lê vơ áo bật dậy như một chiêc lò xo. Hai người mặc áo đội mũ và chạy ra bãi, mang theo cả cái hơi mát của nền nhà. Bên mép Sơn còn dính một vệt trắng nhân lạc. "Mình chạy vội quá, chưa kịp bảo với vợ mình đi" - Lê chợt nghĩ thoáng qua trước mắt Lê khuôn mặt đỏ ửng của vợ lúc hai người đứng bên chái nhà.
Cái hình ảnh ấy chỉ vụt qua, loé lên như một chiếc lá mía xanh biếc. Không có đò, hai người nhảy xuống sông bơi trở về trận địa.
Thế là kết thúc một chuyến về phép của Lê sau ba năm xa nhà, từ đó về sau anh cũng không có dịp tạt qua nhà lần nào nữa.
*
* *
Sơn bị thương cuối trận đánh hôm ấy.
Suốt cuộc chiến đấu, Lê đứng bên hầm chỉ huy lúc nào cũng thấy cái dáng cao cao, chiếc mũ sắt đội hất ngược về phía trước để lộ khuôn mặt xương xương, đen bóng. Như nhiều trận đánh máy bay ác liệt nhất, hôm đó, bao giờ trên môi Sơn cũng có một mẩu thuốc lá cháy phì phèo. Sợi khói thuốc lẫn giữa khói đạn mù mịt, sặc sụa. Sau màn khói đen đặc những lúc bom địch vãi gần, Lê vẫn nghe giọng người chỉ huy hết sức bình tĩnh vang lên từ góc trận địa trung đội một. Cho đến lúc trông thấy hai cậu chiến sĩ khiêng một cái cáng tre chạy vụt qua, Lê hỏi: "Ai?", chỉ nghe cậu khiêng cuối đáp: "Đồng chí Sơn trung đội trưởng". -
"Còn sống không?" Lê hỏi tiếp như gắt nhưng chiếc cáng đã khuất dưới đoạn hào mé bãi lạc. Cái mà Lê trông thấy khi ấy, và đi sâu vào óc anh là đôi bàn chân đất của Sơn, rất dài, thò ra ngoài đoạn phên tre, lớp bùn vàng vàng của phù sa sông Lam bọc lấy hai bàn chân đến tận mắt cá!
Lê đứng giữa trận địa, vẫn sáng suốt theo đõi địch nhưng lòng đau như cắt. Sơn mất rồi ư? Chẳng lẽ hai người cùng nhau qua hàng trăm trận dưới đủ các vùng trời, chẳng lẽ mới vừa qua Sơn còn nằm trên chiếc chiếu trải giữa nền nhà Lê ăn lạc và say sưa nhắc chuyện Hà Nội, thế mà Sơn đã ngã xuống rồi sao?
Sơn chỉ bị thương vào bụng.
Anh nằm Quân y viện hơn hai tháng, vết thương vẫn chưa lành hẳn. Trong thời gian ấy, cá trung đoàn pháo đang trải qua rất nhiều biến đối. Đêm đêm tiếng xe pháo lại ầm ỳ mặt đê.
Những đại đội 37 mới về tăng cường hì hục đưa pháo vào chiếm lĩnh trận địa. Vài đại đội cũ chuyển sang trung đoàn mới. Các đại đội cao pháo tự nhiên phình ra. Tân binh Nghệ An mới bổ sung về quá nhiều, không đủ lán nằm đành tạm giải bạt ngủ quanh các lán đạn. Đại đội Lê cấp tốc tổ chức thành hai đại đội:
Một đại đội chưa rõ ai sẽ chỉ huy, vẫn đứng ở đây bảo vệ đập nước. Đại đội thứ hai do Lê phụ trách, sẽ hành quân ra miền ngoài. Các cán bộ đại đội trưởng cũ đều lên chỉ huy tiểu đoàn cả.
Một buổi sớm, Lê báo cáo công việc tố chức lại đơn vị với chính uý trung đoàn tại trận địa. Hai người ngồi dưới một chiếc lán lợp lá mía. Chính uỷ trung đoàn nheo đôi mắt đầy vết chân chim nhìn khối nước bạc trắng như đàn ngựa sổng cương từ ngàn sâu đồ về ngoài mặt sông Lam. Mùa hè đã qua. Ở đây, mùa lũ và mùa mưa bão muộn đã đến. Bên này và bên kia đê, phía làng Lê, thỉnh thoảng lại nổi lên một hồi trống thùm thùm, nghe bùng nhùng như dội xuống từ vòm trời đầy những đám mây xám mọng nước. Nghe tiếng trống hộ đê, chính uỷ gò gõ ngón tay xuống mặt chiếc hòm đạn trước mặt, vừng trán khẽ nhíu lại, đồng chí hỏi Lê:
- Làng cậu đâu ở quanh vùng này phải không?
- Vâng.
- Cậu đã về làng chưa?
- Rồi ạ!
- Mình hỏi thực cậu: Nhân dân có tin chắc rằng chúng ta sẽ bảo vệ được cái đập nước không?
- Bà con bên làng tôi đặt tin tường vào bộ đội cao xạ đấy, thủ trưởng ạ!
- Thế còn cậu, cậu có tin không? - Chính uỷ đột ngột hỏi tiếp.
Lê suy nghĩ và đáp thành thực:
- Các anh em đại đội 1 ở lại đây toàn những tay đánh nhau cừ cả, nhưng người chỉ huy cũng quan trọng. Không rõ trên sẽ cho ai xuống làm đại đội trưởng của họ?
- Một tay khá đấy - Chính uỷ gật gù trầm ngâm.
Cuối buổi nói chuyện, chính uỷ bỗng ngừng lên nhìn ra ngoài xa rất chăm chú - Kìa, đại đội trưởng đại đội bảo vệ đập nước đã về đây rồi!
Lê nhìn theo ngón tay chính uỷ trỏ ra ngoài đê. Anh đứng bật dậy, cụng cả đầu vào mái lán và gọi như reo lên:
- Sơn!
Sơn chống một đoạn gậy tre, từ ngoài đường đê đi băng qua những đám ruộng lạc trên trận địa. Sau hai tháng ở Quân y trông Sơn có trắng trẻo ra một ít, nhưng da vẫn còn xanh. Vẫn chiếc mũ sắt đen bóng đội hất về phía trước và một mẩu thuốc lá "Sông Lam" nặng đến khé cổ cháy phì phèo bên mép. Chiếc chăn và bộ quần áo độc nhất còn lại, Sơn đem bó lại và khoác bên hông, bó quần áo cứ lủng lắng, từ xa Lê trông thấy Sơn không hiểu sao liền nghĩ ngay đến một cậu học sinh thành phố khoác chiếc túi da sang trọng, đó là hồi Sơn đến gia nhập khẩu đội của Lê làm pháo thủ số 1...
Lê chạy ra đón Sơn từ trên dốc. Trước mặt Lê vẫn là người thanh niên Hà Nội - Cậu chiến sĩ "công tử" ba năm về trước có khoé mắt vừa ngây thơ và kiêu kỳ.
Lê hỏi thăm sức khoe của Sơn rồi nói nhỏ: "Cậu về mà nhận chức mới. Chính uý đang đợi cậu trong lán chi huy đấy!"
Sơn kéo vạt khăn đen nhém vắt ngang cổ lên lau má như một pháo thủ, hỏi Lê:
- Mình lại về trung đội một chứ?
- Không! Không còn cái trung đội một cũ của chúng mình nữa đâu, phen này hai đứa đi hai ngả rồi!
Tuy chưa được phổ biến chính thức nhưng chính uỷ cũng để lộ cho biết đại đội của Lê đi ra miền ngoài kỳ này sẽ được giao nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội. Hai hôm sau, trong một buổi họp ở ban tham mưu, nhiệm vụ của Lê đã rõ ràng: Anh có trách nhiệm chuẩn bị cuộc hành quân cho đơn vị kéo thẳng ra Hà Nội, sẽ sát nhập đơn vị mình trong lực lượng pháo bảo vệ Hà Nội.
Một đêm, Lê và Sơn đứng bên nhau rất lâu trên cái gò đất xung quanh ỳ ầm tiếng sấm và tiếng nước lũ đổ về. Trước mặt hai người chỉ huy, những pháo thủ của đại đội pháo cũ gặp nhau trên mảnh đất miền Tây Quảng Bình đang từ biệt nhau. Đại đội pháo của họ như một gốc cây đã lớn, nhựa cây ứ đầy tỏa ra thành hai nhánh.
Đại đội của Lê đã dàn xe pháo sẵn sàng trên mặt đê theo đội hình hành quân.
Lê ngửng lên ngắm một lần cuối vùng trời quê hương mình, nói với Sơn:
- Mấy hôm nay ngày nào chúng cũng cho máy bay trinh sát...
- Cậu cứ yên tâm. Chúng mình sẽ bảo vệ cái đập nước và vùng trời quê hương của cậu bằng mọi giá...
- Tớ rất tin... Tớ rất tin cậu!
Sau ba năm sống với nhau từ ngày hai người còn ngồi trên hai chiếc ghế sắt của một khẩu 37 cũ kỹ, lần này Lê và Sơn mỗi người nhận một nhiệm vụ. Họ chia nhau tấm giát nằm, vài tấm áo sặc mùi thuốc đạn và chia nhau bầu trời Tổ quốc trên đầu.
Tận trong những ý nghĩ sâu kín nhất của Lê, anh đã coi Sơn như một đồng chí thân thiết nhất trong đời lính - "Đi nhá!". Họ bắt tay nhau, từ biệt nhau chỉ có hai tiếng ấy.
Lê bắt đầu một cuộc hành quân dài. Những thùng xe chất đầy đồ đạc. Bên những nòng pháo chênh chếch chía lên trời lại bày ra trước mắt thiên hạ cả cuộc sống bình thường của con nhà lính. Hãy nhìn những người chiến sĩ cao xạ ngồi ngất ngường hai bên thành xe; có một trăm người lính thì có một trăm cuộc đời và vùng trời quê khác nhau. Họ đi qua cầu Bùng, cầu Hổ,
Hàm Rồng và Nam Định, Phú Lý, để lại phía sau rất xa những đèo Ngang, Quán Hầu, Bãi Hà... những vùng trời họ đã để lại một nửa tâm hồn ở đấy.
Đại đội Lê kéo vào thành phố Hà Nội giữa một buổi trưa nắng rất gắt. Từ dưới đường phố nhìn lên cao, bầu trời Hà Nội cũng chia thành từng đường phố, từng cửa ô và lấp lánh như lồng kính. Những pháo thủ từ miền Trung ra, anh nào cũng đen cháy và mặt mũi quần áo dính đầy bụi đường, đang lắng nghe tiếng bước chân của chính mình vang trên đường phố lớn. Đoàn xe xích kéo pháo ầm ầm rẽ vào một dấy phố hẹp: những mảnh tường đứng tựa vào nhau, những mái nhà mỏng mảnh cao thấp lô nhô, via hè và lòng đường không rải nhựa mà lát toàn bằng một thứ gạch cổ. Đến ngang ngôi nhà một tầng, núm cửa sơn đen và bậc thềm gạch xây chìa ra đường, Lê nhảy xuống. Đấy là nhà Sơn. Cửa khóa chặt. Lê cầm phong thư của Sơn gửi về nhà, chưa biết gửi vào đâu thì từ trên nóc ngôi nhà đối diện nhô ra một khuôn mặt trẻ mãng và đen nháy, vẫn khuôn mặt pháo thủ cao xạ cười tít chỉ thấy hai hàm răng là trắng. Cậu pháo thủ lạ mặt chào Lê:
- Chào người anh em, các cậu ở xa mới dọn về hứ?
Một cậu khác từ một nóc nhà bằng bên này đường mách xuống:
- Thư của chàng trai đi đánh Mỹ gửi về hử, cứ đút dưới khe cửa. Nếu là đồ đạc thì đem lên đây gửi chúng tớ.
Thế là hôm nay Lê đã đứng dưới bầu trời Hà Nội, cạnh những người đồng đội mới và cũ. Trời gần sáng. Sau lưng Lê,
Thủ đô đầy tiếng động như một cái tổ ong vừa thức giấc. Lê tựa lưng vào vách ụ pháo và nhớ lại giấc mơ vừa qua: Phải rồi, Sơn có ra ngoài này đâu? Sơn đang chiến đấu trong vùng trời quê hương của Lê. Ngày nào hai người mới từ biệt nhau trên gò đất trận địa của đại đội Sơn, những ụ pháo ở đấy đắp bằng phù sa sông Lam vàng tươi như nghệ, giữa một bãi sông trồng toàn lạc.
Đất phù sa sông Hồng chuyên sang người Lê một cảm giác mát lạnh - "Như thế là mình đã đứng ở đây - Lê chợt nghĩ một cách thú vị - bên cạnh Hà Nội, cái thành phố Thủ đô mà Sơn từng thân thuộc từng gốc cây, từng mảnh tường và cả từng sắc mây trên nóc phố".
Trời sáng hắn, Lê thấy trên đầu nòng pháo chiếu thắng hướng ngắm cơ bản, bầu trời rực lên một vệt đỏ như một đoạn hè phố lát toàn bằng gạch, trên mỗi bậc cửa đột nhiên hiện lên một viên gạch đỏ.
~Hết~
Bạn luỵ Lê Sơn, và tôi cũng thế.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com