Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 2 (1): Những rung động ngấm ngầm và bão tố

1969–1972:  Những rung động ngấm ngầm và bão tố

Ngày tháng ở thôn Thanh Thạch cứ thế lăn qua lăn lại dưới cối xay nặng nề, nghiến qua mùa đông khắc nghiệt năm 1968, rồi chầm chậm bước vào mùa xuân tưởng như ấm lại của năm 1969.

Mối quan hệ gắn kết bí mật giữa Tử Du và Hủ Ninh, tựa như mầm cỏ non liều lĩnh trồi lên từ tầng đất giá lạnh, lặng lẽ vươn những sợi rễ non yếu ớt trong góc khuất không người nhìn thấy.

Những giọt mực còn sót lại nơi Hủ Ninh, với Tử Du, sáng trong hơn cả dòng suối nơi khe núi.

Mỗi khi tan làm vào lúc hoàng hôn, ở mảnh rừng thưa sau làng, Hủ Ninh nhặt lấy một cành cây khô, vạch xuống nền đất ẩm mềm từng nét chữ ngang dọc.

"梓(Tử), là cây tốt."

Anh chỉ vào mặt đất, giọng trầm ấm, "渝 (Du) là giữ lời hứa. 梓渝 (Tử Du) nghĩa là kiên định, không bao giờ đổi dời, sống mãi không tắt."

Tử Du ngồi xổm bên cạnh, đôi mắt sáng dõi theo không chớp, ngón tay vụng về vẽ theo trong khoảng không. Gió núi khẽ xua mái tóc rối của cậu, cũng xua nhẹ nơi gò má xanh xao của Hủ Ninh, để lộ một thoáng dịu dàng khó thấy.

Ngón tay chai sần, dính chút bụi đất của Tử Du, rụt rè chạm vào bàn tay đang viết chữ của anh. Cảm giác lạnh lẽo, mang theo vết chai cứng, chạy qua như tia điện nhỏ, im lặng nối liền cả hai.

Hủ Ninh hơi khựng lại, song không rút về, mặc cho những đầu ngón tay nóng rực của cậu bé mải miết lần theo đường nét chữ, như thể đang vẽ một giấc mơ xa vời.

Đổi lại, Tử Du mang đến cho anh cả núi rừng đã nuôi lớn mình.

Cậu lôi Hủ Ninh ra suối bắt cá. Anh mặc chiếc quần cũ rộng thùng thình, lóng ngóng bước trên sỏi trơn, lạnh buốt đến hít hơi liên hồi. Trong khi đó, Tử Du như một con cá nhỏ, thoăn thoắt lao xuống nước, chỉ chốc lát đã vớt lên một con cá quẫy mạnh, giơ cao trong ánh hoàng hôn, những giọt nước loang loáng ánh vàng, chiếu sáng đôi mắt đen láy long lanh.

Cậu lại kéo anh đi nhận thuốc cỏ. Trên sườn núi rậm rạp, Tử Du thao thao bất tuyệt: "Đây là cỏ nối xương, giã ra đắp lên thì xương gãy cũng liền... Đây là mã đề, nấu nước uống vào sẽ hết đau bụng..."

Thấy một nhánh nhỏ, cậu quay đầu dặn: "Cái này gọi là rau sam. Hồi nhỏ tôi bị đánh, toàn lấy nó giã ra đắp, mau khỏi lắm. Anh nhớ kỹ đấy."

Hủ Ninh lặng lẽ nhìn, ngắm gương mặt ửng đỏ trong gió, ngắm bàn tay múa may phấn khích, ngắm ánh nắng loang vàng trên mái tóc ướt mồ hôi.

Cảnh tượng căng tràn sức sống ấy, rực rỡ hơn mọi vần thơ anh từng đọc, nóng bỏng khắc vào tim.

Xa xỉ nhất là những đêm trăng lặng gió.

Khi không khí ngột ngạt của các buổi đấu tố tan đi, xã viên* rơi vào giấc ngủ mệt mỏi, Tử Du lại kiếm cớ cho bò ăn đêm, lén chui vào chuồng gia súc nồng mùi hôi nồng.

Hủ Ninh cũng thường "tình cờ" bị ánh trăng đánh thức, bước ra dưới mái hiên.

Giữa những đống cỏ khô cao ngất, họ tìm một góc tối ngồi xuống. Ánh trăng chỉ kịp rắc vài sợi bạc qua lỗ thủng mái nhà, gượng gạo phác họa đường nét gương mặt nhau. Thế giới dường như chỉ còn tiếng bò ngựa thở phì phò, và tiếng nhai cỏ xào xạc.

Một sự tĩnh lặng lạ thường.

Khi ấy, Hủ Ninh sẽ lấy từ túi áo trong ra một tập thơ mỏng, được bọc bằng tờ báo cũ đã sờn mép. Đó là báu vật duy nhất chưa bị lục soát, cũng là tội chứng anh không dám để lộ.

Anh mở sách, mượn chút ánh trăng yếu ớt, cất giọng đọc, giọng lẫn chút âm sắc Sơn Đông, nhưng vẫn vang và sáng:

"Dã hỏa thiêu bất tận..." (*)

Anh đọc khẽ, như sợ cả thế giới ngoài kia nghe thấy.

Tử Du lập tức tiếp lời, với sự nồng nhiệt liều lĩnh của tuổi trẻ:

"Xuân phong xuy hựu sinh". (*)

Cậu ngẩng đầu, đôi mắt sáng bừng trong bóng tối, như chính vần thơ ấy đã hóa thành ngọn lửa nhỏ, đủ sức đẩy lùi mọi bóng đêm.

Gió lùa qua bụi tre thưa ngoài chuồng, lá tre cọ xát vào nhau, vang lên từng đợt xào xạc, mỏng mảnh như thủy triều, lại giống như hai trái tim đang đập dồn dập trong không gian chật hẹp, phát ra những tiếng vọng thật lớn.

Đôi khi, nghe trong sự yên ả ấy, Tử Du lại vô thức nghiêng đầu, tựa lên vai Hủ Ninh. Tấm áo bông cũ kỹ đã bạc màu, ngấm đậm mùi xà phòng đắng chát, khẽ cọ vào má cậu, mang lại một cảm giác yên lòng khó tả.

Cơ thể Hủ Ninh lập tức cứng đờ, như một dây cung bị kéo căng đến cực hạn, ngay cả hơi thở cũng nén lại.

Chỉ cần bên ngoài có tiếng động khẽ, có thể là tiếng gã gác đêm ho khan, hoặc một con mèo hoang chạy trên mái ngói phát ra tiếng lạch cạch, anh liền giật mình bật thẳng dậy, giống hệt một con chim sợ cung, lập tức kéo giãn khoảng cách mong manh giữa hai người.

Chỉ khi âm thanh ấy dần biến mất, chắc chắn không có nguy hiểm, bờ vai căng cứng của anh mới chậm rãi thả lỏng đôi chút, quay đầu nhìn lại, muốn kéo gần khoảng cách đã mất.

Nhưng Tử Du... từ lâu đã vì phản ứng hoảng loạn của anh mà lặng lẽ dịch người ra xa, chỉ để lại trên vai chút hơi ấm thoáng qua cùng sự trống trải lạnh lẽo trong lòng.

Thế nhưng, thôn Thanh Thạch quá nhỏ, nhỏ đến mức không chứa nổi một ánh mắt khác thường nào.

Hai người đàn ông - một kẻ bị "điều về từ thành phố" mang danh phần tử có vấn đề, một kẻ vốn dĩ ở tuổi này phải cưới vợ sinh con, lại cứ quấn lấy nhau, lặng lẽ tránh đám đông, thì thầm to nhỏ.

Ánh mắt trong thôn nhìn họ, từ hiếu kỳ và xa cách ban đầu, dần dần biến thành những tia soi mói đặc quánh, rồi thành sự ngờ vực trắng trợn.

Lời đồn không còn là hạt cát lẫn trong gió, mà thành hòn đá sắc nhọn có thể rạch nát da thịt.

"Chậc, cái tên họ Điền kia cho thằng Tử Du bùa mê thuốc lú gì vậy? Cứ bám theo như cái bóng!"

"Hai thằng đàn ông, tuổi không còn nhỏ, cứ rúc rích sát rạt thế kia, coi bộ ra thể thống gì?"

"Có khi là tật xấu từ thành phố mang về! Tư tưởng giai cấp tư sản đấy, hại con em nông dân nghèo chúng ta!"

"Thằng Tử Du trước đây bao nhiêu tươi tỉnh, giờ nhìn cũng ủ rũ, học được cái lối âm dương quái gở!"

Những lời rỉ rả ấy như hơi ẩm lạnh lẽo, len lỏi khắp kẽ nứt trong bức tường đất nhà Tử Du.

Sắc mặt mẹ cậu ngày một khó coi.

Rốt cuộc, một buổi chiều nọ, vừa đặt bát cơm xuống, Tử Du đã bị cha gọi nghiêm giọng vào buồng trong. Dưới ánh đèn dầu leo lét, gương mặt cha cậu khắc đầy nếp nhăn bởi gió núi và khổ cực, đen đặc, cứng rắn như sắt nguội.

"Từ nay, tránh xa thằng Điền Hủ Ninh đó một chút!"

Giọng ông không lớn, nhưng nặng nề, dứt khoát:

"Trong thôn lời đồn truyền ra nghe chướng tai! Nước bọt cũng có thể dìm chết người! Con còn cần danh dự không? Còn muốn cưới vợ yên ổn nữa không?"

Tử Du nghẹn cổ cãi:

"Chúng con có làm gì xấu đâu! Anh ấy dạy con học chữ, con dạy anh ấy nhận biết thảo dược..."

"Học chữ? Nhận biết thảo dược?"

Cha cậu đập mạnh xuống bàn, ngọn đèn dầu chao đảo bùng lên dữ dội:

"Học chữ có ăn được không? Nhận biết thảo dược có lấy công điểm được không? Nó, một thằng 'lão cửu' đeo kính, lai lịch chẳng rõ ràng, bám lấy thì được ích lợi gì? Hay mày muốn đội thêm cái mũ 'thối tha' kia, chồng lên cái mũ bần nông đang yên ổn trên đầu?"

Ông thở hồng hộc, đôi mắt đục ngầu khóa chặt lấy con trai:

"Nghe lời cha! Đừng bén mảng đến nó nữa! Đừng rước lấy mùi tanh thối vào người!"

Tử Du mím môi, định nói, nhưng thấy những nếp nhăn như dao khắc trên mặt cha mẹ, thấy trong mắt họ trĩu nặng một nỗi sợ không tên, lời như than hồng đỏ rực, mắc nghẹn nơi cổ họng, nói chẳng ra, nuốt cũng chẳng xong.

Cậu chỉ biết cắn chặt môi dưới, nếm rõ vị máu tanh ngai ngái.

___________

*Xã viên: tức là người dân trong hợp tác xã nông nghiệp (trong bối cảnh nông thôn thời đó, mọi hộ nông dân đều phải tham gia hợp tác xã).

(*)Dã hỏa thiêu bất tận...: Lửa đồng hoang đốt mãi không hết (sức sống, ý chí không thể bị hủy diệt hoàn toàn). Đây là câu mở đầu trong bài thơ "Phú đắc cổ nguyên thảo tống biệt" của Bạch Cư Dị, rất nổi tiếng.

Xuân phong xuy hựu sinh: Gió xuân thổi lại mọc lên. Ý nghĩa: Dù bị thiêu rụi bởi lửa hoang, nhưng chỉ cần gió xuân thổi qua, cỏ lại hồi sinh, tượng trưng cho sức sống bất diệt, tinh thần kiên cường trước nghịch cảnh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com