Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Ôn tập Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Câu 1: Mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc

- Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhất là thời kỳ trước khi nổ ra cách mạng tháng Mười Nga, luôn tồn tại quan điểm cho rằng, thắng lợi của cách mạng ở các nước thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Ý kiến này đã giảm tính chủ động sáng tạo của cách mạng thuộc địa.

- Theo HCM, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và CM vô sản ở chính quốc có mối liên hệ mật thiết với nhau, có tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kể thù chung là chủ nghĩa đế quốc.Đó là mối liên hệ độc lập, bình đẳng chứ không phải là mối liên hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính – phụ.

- Dựa vào quan điểm của Mác, “sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”. Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận: “công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân nhân dân thuộc địa”.Khối liên minh các dân tộc thuộc địa sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng thế giới.Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Theo Hồ Chí Minh, khối liên minh các dân tộc thuộc địa là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản.

- Người cho rằng cách mạng thuộc địa không bị động, có khả năng chủ động dành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc, tác động trở lại cách mạng vô sản chính quốc.

Câu 2: đặc trưng của CNXH

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội (CNXH) bao gồm:

- Một là, CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH.

“Làm chủ” được coi là bản chất và quyền tự nhiên của con người, bởi xã hội là xã hội của loài người, xã hội đó do con người tự xây dựng, tự quyết định sứ mệnh của mình.

Lịch sử đấu tranh cho tiến bộ của nhân dân các dân tộc trên thế giới chính là lịch sử đấu tranh giành và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.Chỉ đến chủ nghĩa xã hội, nhân dân mới thực sự có được quyền đó.Cho nên “nhân dân làm chủ xã hội” là đặc trưng quan trọng và quyết định nhất trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa.

- Hai là, CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.

Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều tiên quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển.Bởi vì kinh tế là lực lượng vật chất, nguồn sức mạnh nội tại của cơ thể xã hội, nó quyết định sự vững vàng và phát triển của xã hội.Nền kinh tế đó chỉ có thể phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại.

Mác đã khẳng định: chủ nghĩa xã hội chỉ thực hiện được bởi “một nền đại công nghiệp”.Nền đại công nghiệp phát triển trên cơ sở khoa học - công nghệ, là hiện thân và là yếu tố tạo nên lực lượng sản xuất hiện đại.Lực lượng sản xuất hiện đại quyết định việc nâng cao năng suất của nền sản xuất - yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ cao của phương thức sản xuất mới.Trên cơ sở đó thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

- Ba là, CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.

- Bốn là, CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi.

“Công bằng” là một phẩm chất và giá trị nhân quyền thể hiện trình độ phát triển và chất nhân văn cao của xã hội.Một đòi hỏi quan trọng của xã hội chủ nghĩa là bảo đảm bình đẳng không chỉ cho cá nhân người công dân, mà còn ở cấp độ cho tất cả các cộng đồng, các dân tộc trong một quốc gia.

- Năm là, CNXH là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành đất nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân dân; vì vậy, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Đây là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đảng mang bản chất, lý tưởng, nội dung xã hội chủ nghĩa, là đảng thực hiện mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Câu 3: Yếu tố thành lập Đảng cộng sản VN

-          Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quy luật hình thành Đảng cộng sản

Đảng cộng sản ra đời là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào công nhân

-          Hồ Chí Minh hiểu rõ đặc điểm tình hình Việt Nam là một nước thuộc địa nữa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Hồ Chí Minh  cho rằng nếu kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân thì chưa đủ, cần phải bổ sung yếu tố thứ 3 đó là phong trào yêu nước vì

o   một là: do phong trào công nhân ở việt nam chiếm số lượng ít ỏi (chiếm 10% trong tổng dân số việt nam cuối thế kỉ 19) nên HCM nghĩ đến lực lượng đông đảo hơn đó là phong trào yêu nước (nông dân, trí thức…)

o   Hai là, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc Việt . Phong trào yêu nước là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta, nó hình thành qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã kết thành chủ nghĩa yêu nước và nó đã trở thành giá trị văn hóa tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam.  Vì vậy phải kết hợp với phong trào yêu nước của đông đảo quần chúng.s

o   Ba là, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì hai phong trào đó đều có mục tiêu chung. (từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta làm cho mâu thuẫn dân tộc gay gắt đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc và tay sai. Do đó cả hai phong trào này đều có chung một kẻ thù chung và mục đích chung đó là: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được hoàn toàn độc lập)

o   Bốn là, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân, ngay từ đầu. Hơn 90% dân số là nông dân, họ là bạn đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân.

o   năm là, phong trào yêu nước của tri thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Như vậy  Đảng cộng sản Việt nam ra đời là sản phẩm của 3 yếu tố: một là chủ nghĩa Mác-Lênin; hai là phong trào công nhân; ba là phong trào yêu nước.

Câu 4: quan điểm của HCM về loại hình, tính chất và nhiệm vụ của thời kì quá độ lên CNXH ở VN

Các nhà kinh điển Mác – Lênin đã khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Theo các ông có hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội: con đường quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao; con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ở những nước tiền tư bản.

Quan nệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xây dựng trên cơ sở kế thừa quan niệm của các nhà kinh điển Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời có sự bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện Việt Nam.

- Trước hết, Hồ Chí Minh đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước để nhận rõ đặc trưng tính chất của thời kỳ quá độ của Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

- Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, trong đó đặc điểm bao trùm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp, chi phối toàn bộ tiến trình quá độ lên CNXH ở nước ta, từ đó phải tìm ra con đường với những hình thức, bước đi và cách làm phù hợp với đặc điểm Việt Nam.

Câu 5: Giải thích quan điểm Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước

a. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước

- Hồ Chí Minh luôn khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta.Người viết: “Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước biểu hiện nổi bật ở chỗ:

+ Nhà nước do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, chủ trương, định hướng chính sách và lãnh đạo thông qua tổ chức, cá nhân của mình trong Quốc hội, Chính phủ và các nghành, các cấp của Nhà nước.

+ Ở tính định hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội

+ Nguyên tắc tổ chức cơ bản của Nhà nước cũng là nguyên tắc tập trung dân chủ.

b. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước

- Theo Hồ Chí Minh, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta luôn thống nhất, hài hoà với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước.Sở dĩ có sự thống nhất đó vì lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của dân tộc.Giai cấp công nhân nước ta không thể giải phóng được mình nếu không tham gia và đi đầu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng các tầng lớp nhân dân khác.

- Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước ta thể hiện ở chỗ:

+ Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhiều thế hệ người Việt Nam.

+ Nhà nước ta luôn bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản.

+ Tổ chức bộ máy của Nhà nước luôn thể hiện tính đại đoàn kết dân tộc.

Câu 6: Quan điểm HCM về văn hóa, những chuẩn mực đạo đức cách mạng:

1.       Chuẩn mực đạo đức:

Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:

Một là, trung với nước hiếu với dân.

Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.

 Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.

“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau

Hai là, yêu thương con người

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột.

Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người.

Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm.

Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.

Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".

Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.

Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá".

Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.

Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.

Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.

Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".

Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.

2.       Những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hoá

- Định nghĩa: Theo nghĩa hẹp, văn hoá được Hồ Chí Minh xác định là đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Đây là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh kể từ sau Cách mạng Tháng Tám.

- Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của văn hoá

- Hồ Chí Minh đã xác định văn hoá là một trong bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội.Theo Người, văn hoá cũng quan trọng ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội.

- Người còn chỉ rõ bốn vấn đề đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời.Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng.Xây dựng kinh tế để tạo diều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hoá.Ngược lại, văn hoá phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.

- Quan niệm của Hồ Chí Minh về chức năng của văn hoá

- Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ những sai lầm và thấp hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm của mỗi người.

- Hai là, nâng cao dân trí. Đó là nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ kiến thức của người dân.Trình độ đó phải từ chỗ không biết chữ đến chỗ biết chữ, từ chỗ biết chữ đến chỗ hiểu biết các lĩnh vực khác cần thiết cho hoạt động cuả mỗi người như kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, thực tiễn Việt Nam và thế giới,v.v…

- Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh luôn hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ.

- Quan niệm của Hồ Chí Minh về tính chất của nền văn hoá mới

- Theo Hồ Chí Minh, nền văn hoá mới mà chúng ta chủ trương xây dựng là nền văn hoá có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.

+ Tính dân tộc của nền văn hóa thể hiện ở đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc của nền văn hóa.Nó là kết quả của sự kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo của dân tộc.

+ Tính khoa học của nền văn hóa thể hiện ở sự phù hợp của nền văn hóa dân tộc với sự tiến hóa chung của nền văn hóa nhân loại, ở khả năng đóng góp của văn hóa vào sự nghiệp cải tạo xã hội.

+ Tính đại chúng của nền văn hóa thể hiện ở chỗ nền văn hóa đó do quần chúng nhân dân vun trồng nên, quần chúng nhân dân vừa là chủ thể sáng tạo vừa là chủ thể hưởng thụ những giá trị của nền văn hóa đó.

- Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng hiện nay là nền văn hóa có tính chất tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Tiên tiến là khoa học, hiện đại, là xã hội chủ nghĩa, là biết tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đậm đà bản sắc dân tộc là biết kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với những điều kiện lịch sử mới của dân tộc.

Câu 7: giải thích ngắn gọn nội dung cốt lõi trong tư tưởng hcm về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

- Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội

Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa.Hai giai đoạn ấy không gắn bó chặt chẽ với nhau.

Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược: chống thực dân xâm lược và chống địa chủ phong kiến. Nhiệm vụ dân tộc và dân chủ quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt lên trên hết, trước hết, nhiệm vụ dân chủ cần thực hiện từng bước và phải phục tùng sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc dân chủ.Không phải bất kỳ độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải được thực hiện một cách triệt để.Đó là một nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn không lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào cả về đối nội, lẫn đối ngoại.

Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt Nam, một đòi hỏi có ý nghĩa sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.Nước Việt Nam là một khối thống nhất không thể phân chia.Đó là quan điểm nhất quán, mang tính nguyên tắc của Hồ Chí Minh.Không duy trì và phát triển được khối thống nhất đó thì không thể có độc lập dân tộc, càng không thể nói đến việc tạo cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Để tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do hạnh phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh "nếu nước được độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì".

- Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành quả của độc lập dân tộc

Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài.Theo lôgíc của sự phát triển, hai mục tiêu ấy quan hệ chặt chẽ với nhau.Vì vậy, nếu độc lập dân tộc tạo cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tốt nhất để giữ vững và phát triển lên một tầm cao mới - thành quả của độc lập dân tộc.

Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt, lâu dài.Giành độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội còn khó khăn hơn.Từ những khó khăn gian khổ ấy, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: #đình