Triết học 1
Câu 1: Tồn tại xã hội và ý thức xã hội
1. Khái niệm tồn tại xã hội- ý thức xã hội
a) Tồn tại xã hội:
Là toàn bộ các điều kiện sinh hoạt vật chất và các quan hệ vật chất của con người trong một giai đoạn lịch sử xã hội nhất định.
Các yếu tố chính tạo ra tồn tại xã hội bao gồm:
- Phương thức sản xuất
- Điều kiện dân số
- Hoàn cảnh địa lý
Ba yếu tố trên có vai trò không ngang bằng nhau đối với sự hình thành, vận động và phát triển của tồn tại xã hội trong đó phương thức sản xuất giữ vai trò chủ yếu, quan hệ sản xuất (một trong hai yếu tố cấu thành phương thức sản xuất) giữ vai trò quyết định trực tiếp.
b) Khái niệm của ý thức xã hội
* Khái niệm:
ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm hệ thống quan điểm lý luận và những tâm trạng, tập quán, tình cảm của con người, phản ánh ý thức xã hội trong những giai đoạn khác nhau của lịch sử.
* Về nguồn gốc của ý thức xã hội:
Do tồn tại xã hội sinh ra, chịu quy định của tồn tại xã hội.
Cơ sở lý luận của luận điểm: Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong đó ý thức do vật chất sinh ra, chịu sự quyết định của vật chất, tồn tại xã hội là các điều kiện vật chất, không có nó không thể có ý thức xã hội "chung chung trừu tượng" tách rời các điều kiện vật chất của tồn tại xã hội.
* Về bản chất của ý thức xã hội:
ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội vào bộ óc của con người. Tuy nhiên sự phản ánh đó không phải là máy móc, giản đơn thụ động mà là quá trình phản ánh tích cực, chủ động sáng tạo, gắn với hoạt động thực tiễn của con người.
* Kết cấu của ý thức xã hội:
Có thể xem xét vấn đề đó dưới góc độ khác nhau:
- Từ góc độ chủ thể nhận thức, ý thức xã hội tồn tại dưới các hình thức:
+ ý thức cá nhân;+ ý thức tập thể;+ ý thức giai cấp;+ ý thức dân tộc;+ ý thức nhân loại.
Các ý thức trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, là tiêu đề và là điều kiện của nhau, thúc đấy nhau trong sự vận động, phát triển.
- Xét về trình độ phản ánh, có thể chia theo hai cấp độ:
+ Bậc thấp (ý thức thông thường – Tâm lý xã hội);
+ Bậc cao (lý luận – hệ tư tưởng).
Hai trình độ trên cũng có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó ý thức xã hội bậc cao chi phối ý thức xã hội bậc thấp.
- Xét theo lĩnh vực phạm vi phản ánh theo ý thức xã hội, người ta chia ý thức xã hội thành các ý thức xã hội sau:
+ ý thức chính trị + ý thức pháp quyền + ý thức đạo đức+ ý thức tôn giáo
+ ý thức thẩm mỹ + Triết học+ Khoa học
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
YTXH là một phạm trù rất cơ bản của CNDVLS. Bản thân nó là sản phẩm của tồn tại XH luôn phản ánh TTXH trong những giai đoạn lịch sử cụ thể nhưng sau khi hình thành nó lại có tính độc lập tương đối, tác động trở lại tồn taị XH.
Tính độc lập tương đối của YTXH được thể hiện ở các nội dung cụ thể sau đây:
* Tính lạc hậu của YTXH:
Nói YTXH lạc hậu hơn tồn tại XH ta phải hiểu là nói đến sự biến đổi của YTXH thường chậm hơn so với sự biến đổi của tồn tại XH. Khi tồn tại XH đã có những phần, những bộ phận biến đổi thì YTXH thường phản ánh không kịp, biến đổi chậm hơn, cụ thể là thường tồn tại sau một thời gian nào đó.
Lý do: ý thức đó đã có một thời gian dài ăn sâu bám rễ vào cộng đồng người, trở thành tập quán, thói quan của hàng triệu con người. Muốn thay đổi cần phải có một thời gian nào đó.
Sự lạc hậu của YTXH một phần nào đó còn do g/c thống trị có tính duy trì YTXH bảo thủ, phản động, phản ánh lợi ích của chúng, duy trì lợi ích của chúng.
* Tính tiền tiến (tính vượt trội) của YTXH:
Bên cạnh phần lớn YTXH lạc hậu còn có một bộ phận nhỏ YTXH phản ánh đúng đắn tồn tại XH, phát hiện ra bản chất, quy luật vận động của tồn tại XH, hình thức các dự báo khoa học. Những dự báo đó có khả năng vượt trước, dẫn đường, hướng cho tồn tại XH phát triển đúng quy luật, từ đó có tác động thúc đẩy tồn tại XH phát triển.
Sự vượt trội dẫn đường của YTXH tiên tiến phụ thuộc rất lớn vào năng lực của chủ thể nhận thức. Cụ thể với các cá nhân thiên tài thì tư tưởng do họ đề ra có khả năng vạch thời đại, mở ra bước ngoặt lớn trong sự phát triển.
VD: Đầu thế kỷ 20, Anbu Anhxtanh dự báo một lượng vật chất dù rất nhỏ cũng chứa đựng tiềm năng nặng lượng lớn theo công thức:
E = m . V2 (m là khối lượng, V là vận tốc của ánh sáng)
Năm 1945 dự báo đó trở thành hiện thực. Ngày nay con người đã sử dụng rộng rãi năng lượng hạt nhân trong đời sống.
Giữa thế kỷ 19 "chủ nghĩa cộng sản" do Mác-Ăngghen khởi xướng bị giai cấp tư sản coi là bóng ma ám ảnh châu Âu. Năm 1917 cách mạng vô sản Nga thành công, mở ra thời đại mới. Đến nay CNXH giai đoạn đầu của CNCS đã trở thành hiện thực với hơn một tỷ người đang sống ở những nước có chế độ XHCN.
* Tính kế thừa:
Là một trong những biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối. Đó là "quy luật vận động nội tại" của YTXH.
Sự thể hiện: các thế hệ đi trước là người đặt nền móng, các thế hệ sau kế thừa tư tưởng đó và phát triển lên trình độ mới. Cứ như thế hệ thống tri thức của nhân loại ngày càng phong phú và phát triển không ngừng.
VD: Thuyết "Nguyên tử" do Lơxip đặt nền móng, trên cơ sở đó Đêmôcrit phát triển trong thời cổ đại. Ngày nay chúng ta đã biết thêm thuyết cấu tạo nguyên tử của Nuixơ Bo, Zuzơ Pho và thuyết nguyên tử hiện đại.
* Sự tác động lẫn nhau của các hình thái YTXH:
Do có liên hệ với nhau nên các hình thái YTXH luôn tác động qua lại lẫn nhau trong đó ý thức chính trị, pháp quyền tác động chi phối mạnh mẽ các hình thái YTXH khác. Các hình thái YTXH khác đều tác động lẫn nhau và tác động trở lại ý thức chính trị pháp quyền nhưng tác động đó yếu hơn và gián tiếp hơn ý thức chính trị, pháp quyền.
* YTXH có tác động trở lại tồn tại XH:
Cơ sở lý luận của vấn đề này từ sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất. Sự tác động trở lại của YTXH đối với tồn tại XH theo hai khuynh hướng.
YTXH tiên tiến, CM và khoa học có tác động thúc đẩy tồn tại XH phát triển. Sự thúc đẩy đó thông qua hoạt động thực tiễn, hoạt động cải tạo thế giới của con người.
YTXH lạc hậu phản động sẽ có tác động kìm hãm sự phát triển của tồn tại XH. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ ở trong một giới hạn nhất định. Quá trình phát triển đi lên của tiến bộ XH những tư tưởng đó sớm muộn sẽ bị loại bỏ.
* ý nghĩa:
- Tính độc lập tương đối của YTXH là cơ sở lý luận để chúng ta hiểu được vai trò và ý nghĩa của cuộc CM văn hoá tư tưởng do Đảng ta đề ra, đặc biệt là quan điểm: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc do NQTW5 khoá 8 xác định.
- Là cơ sở lý luận để tiến hành công tác giáo dục tư tưởng ở đơn vị cơ sở.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội luôn tác động trở lại đối với tồn tại xã hội.
Cơ sở lý luận của mối quan hệ này xuất phát từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; quan hệ tồn tại xã hội – ý thức xã hội được rút ra như một hệ quả của mối quan hệ vật chất – ý thức.
a) Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
- Tồn tại xã hội quyết định nguồn gốc, bản chất của ý thức xã hội:
ý thức xã hội do tồn tại xã hội sinh ra, là sự phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử cụ thể, ý thức xã hội không phải do chủ quan của con người hoặc do lực lượng thần bí nào sinh ra. Các yếu tố của tồn tại xã hội luôn được phản ánh vào ý thức của con người, để lại dấu ấn lâu dài qua các thế hệ, tồn tại trong tư tưởng, tình cảm của các cộng đồng con người.
Mác viết: Không phải ý thức của con người quyết định đời sống của họ, ngược lại chính tồn tại xã hội quyết định ý thức của họ.
- Tồn tại xã hội quyết định nội dung của ý thức xã hội:
Điều đó có ý nghĩa là nội dung của tồn tại xã hội như thế nào thì căn bản nó được phản ánh vào ý thức xã hội như thế đó.
Ví dụ: Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, mọi thành viên của thị tộc làm chung, ăn chung, chưa có chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất nên tư tưởng tư hữu chưa xuất hiện.
Đến xã hội chiếm hữu nô lệ, chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện, tư tưởng tư hữu ra đời. Chính tư tưởng tư hữu là sự phản ánh chế độ tư hữu trong xã hội chiếm hữu nô lệ.
- Tồn tại xã hội quyết định sự vận động và phát triển của ý thức xã hội:
ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội nhưng tồn tại xã hội không tĩnh tại mà luôn vận động, biến đổi. Quá trình vận động, phát triển của tồn tại xã hội sẽ làm cho ý thức xã hội vận động biến đổi theo. Đó là kết quả tất yếu nhưng không phải lúc nào ý thức xã hội cũng thay đổi ngay mà thường tồn tại trong một thời gian nhất định, điều đó thể hiện tính lạc hậu của ý thức XH.
b) ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội
ý thức xã hội sau khi ra đời có tính độc lập tương đối, tác động trở lại tồn tại xã hội theo hai khuynh hướng (được rút ra do tính chất độc lập tương đối của ý thức xã hội):
- ý thức tiên tiến cách mạng và khoa học thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển
Lý do: ý thức này trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan sẽ phát hiện ra bản chất, quy luật vận động của sự vật hiện tượng, khi vận dụng chỉ đạo thực tiễn nó hướng cho tồn tại xã hội phát triển theo quy luật. Từ đó thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển.
Ví dụ: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đang thúc đẩy sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Các tri thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn có tác động to lớn đến toàn bộ xã hội ngày nay.
- ý thức xã hội lạc hậu, phản khoa học kìm hãm sự phát triển của tồn tại XH
Do phản ánh sai lầm, xuyên tạc hiện thực khách quan nên không tìm ra bản chất, quy luật vận động của sự vật, không có giá trị chỉ đạo thực tiễn. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ ở trong một giới hạn nhất định, không phải là vĩnh viễn. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội còn phụ thuộc vào các điều kiện sau:
+ Vai trò lịch sử (tiến bộ hay phản động) của giai cấp đề ra tư tưởng đó.
+ Trình độ phù hợp của tư tưởng đối với hiện thực.
+ Mức độ truyền bá tư tưởng đó trong quần chúng.
* ý nghĩa:
- Muốn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải đồng thời tiến hành ở cả hai lĩnh vực: Tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó xây dựng tồn tại xã hội giữ vai trò quyết định, ý thức xã hội Slà quan trọng, không được xem nhẹ.
- Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là cơ sở lý luận để hiểu được đường lối xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ đó xây dựng niềm tin vào thắng lợi của đường lối do Đảng khởi xướng.
Câu 2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất
* Vị trí:
Là một trong quy luật rất cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nắm được quy luật này chúng ta sẽ hiểu rõ sự vận động và phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử xã hội loài người.
* Nội dung quy luật:
"Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX"
- Tính chất và trình độ của LLSX::
+ Tính chất của lực lượng sản xuất: đó là tính chất cá nhân hay xã hội của lực lượng sản xuất, cụ thể là tính xã hội hoá hoặc tính chất cá nhân riêng lẻ của tư liệu lao động, công cụ và sản phẩm lao động. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì LLSX chủ yếu có tính cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì LLSX có tính xã hội hóa.
Ví dụ: Người thợ thủ công đóng giày trong xã hội phong kiến để có được sản phẩm là một đôi giày anh ta phải làm tất cả các khâu, các công đoạn từ cắt, khâu, đóng...
Vẫn là đôi giày nhưng trong xã hội tư bản thì mỗi công nhân chỉ làm một khâu, một công đoạn, đôi giày là sản phẩm của nhiều người.
Ta nói: sản phẩm đôi giày trong xã hội phong kiến mang tính chất cá nhân, còn đôi giày trong xã hội tư bản mang tính chất xã hội hóa. Vấn đề đó còn thể hiện ở tư liệu lao động, công cụ lao động.
+ Trình độ của lực lượng sản xuất: là trình độ chinh phục tự nhiên, được quy định bởi trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ, trình độ của công cụ lao động, khả năng, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động, trình độ phân công lao động xã hội... Trình độ của lực lượng sản xuất có thể được đánh gía bằng những nấc thang phổ biến như: thủ công, cơ giới, nửa cơ khí hay cơ khí, bán tự động hay tự động...
- QHSX phù hợp với tính chất, trình độ của LLSX có nghĩa là: LLSX như thế nào thì QHSX như thế ấy. LLSX là nội dung thì QHSX là hình thức của nội dung đó. Hình thức ấy đòi hỏi luôn phù hợp với nội dung.
- Sự phù hợp của QHSX đối với tính chất, trình độ của LLSX được thể hiện bằng tiêu chí: sản xuất phát triển, năng suất lao động không ngừng tăng lên, người lao động hăng hái nhiệt tình, đời sống mọi mặt được cải thiện, xã hội ổn định và phát triển.
- Sự phù hợp của QHSX với tính chất, trình độ của LLSX thể hiện rõ trong sự tác động qua lại giữa LLSX – QHSX:
+ Trong mối quan hệ đó, LLSX bao giờ cũng giữ vai trò quyết định QHSX. Sự vận động, phát triển của LLSX quyết định và làm thay đổi QHSX cho phù hợp với nó:
+ LLSX quyết định sự xuất hiện, sự tồn tại và sự vận động, phát triển của các QHSX; chính sự phát triển tự nhiên, mang tính khách quan của LLSX đã làm cho các QHSX trong lịch sử lần lượt ra đời tiến bộ hơn QHSX trước đó.
+ LLSX phát triển đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của LLSX. Khi đó QHSX trở thành "xiềng xích" của LLSX, kìm hãm LLSX phát triển. LLSX phát triển tất yếu dẫn đến thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển mới của LLSX để thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển. Điều này cũng có nghĩa phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời.
+ QHSX chịu sự quyết định của LLSX, nhưng QHSX cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của LLSX
+ Nếu QHSX phù hợp nó sẽ thúc đẩy LLSX phát triển, nó quy định phương hướng, tính chất của LLSX thông qua quan hệ phân phối để tác động tới người lao động, làm cho con người xuất hiện động lực trong lao động thúc đẩy tiến bộ xã hội.
+ Nếu QHSX không phù hợp (quan hệ sản xuất đi sau hoặc vượt trước sự dòi hỏi của LLSX tức là "tiên tiến" một cách giả tạo) sẽ kìm hãm LLSX phát triển.
Sự kìm hãm đó chỉ trong một giới hạn nhất định, LLSX với tính chất cách mạng vốn có sẽ phá vỡ QHSX không phù hợp, hình thành QHSX mới, phù hợp với tính chất, trình độ của LLSX, thúc đẩy LLSX phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX với QHSX không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
- Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển của xã hội loài người nhưng bản thân nó lại chịu sự chi phối của một số quy luật khác như: quy luật về sự tác động qua lại giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, quy luật đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp.
3. ý nghĩa vận dụng
Quy luật là cơ sở lý luận để Đảng ta định ra đường lối xây dựng CNXH ở Việt Nam, đặc biệt là đường lối trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH giai đoạn hiện nay.
- Vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, là động thủ công là chủ yếu. Chính vì vậy chúng ta phải tiến hành CNH- HĐH đất nước nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang tiến hành sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Về thực chất của vấn đề này là phát triển lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó xác lập, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới (quan hệ sản xuất XHCN).
Một trong những vấn đề mang tính chiến lược của sự nghiệp CNH -HĐH là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển các thành phần kinh tế trong xã hội phấn đấu để kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đó chính là sự vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay.
Văn kiện Đại hội Đảng XI chỉ rõ: "Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối". "Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển".
"Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội".
(Đọc thêm: có 3 hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể, tư nhân; Theo VK Đại hội X có 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, KT tập thể, KT tư nhân, KT tư bản nhà nước, KT có vốn đầu tư nước ngoài. Đến đại hội XI Đảng ta xác định có 4 thành phần kinh tế: KT nhà nước, KT tập thể, KT tư nhân và KT có vốn đầu tư nước ngoài).
Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong gần 20 năm đổi mới chúng ta đã thu được những thành tựu vô cùng to lớn: kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ cao, xã hội ổn định và phát triển, đời sống về mọi mặt của nhân dân lao động đã được cải thiện. Uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường Quốc tế. Những thành tựu ấy nói lên vấn đề: Đảng ta đã lắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Là cơ sở để mỗi cán bộ, đảng viên thấy được tính đúng đắn của đường lối xây dựng CNXH ở nước ta, từ đó xây dựng lòng tin, kiên trì thực hiện đường lối do Đảng cộng sản Việt Nam đề ra.
Câu 3: Biện chứng giữa cơ sở hạ tâng và kiến trúc thượng tầng
1. Đặt vấn đề
SX là hoạt động đặc trưng của con người và XH loài người. Trong quá trình sx, QHSX được hình thành một cách khách quan tạo thành quan hệ vật chất của xã hội. Trên cơ sở QHSX hình thành nên các QH về chính trị và tinh thần của XH. Hai mặt đó của đời sống XH được khái quát thành cơ sở hạ tầng và kiến trú thượng tầng của xã hội. CSHT và KTTT có môi quan hệ biện chứng với nhau.
Mối quan hệ giữa CSHT và KTTT là một trong những mối quan hệ rất cơ bản trong một hình thái kinh tế xã hội. Xem xét và giải quyết đúng đắn mối quan hệ này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tiến bộ xã hội.
2. Giải quyết vấn đề
a) Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Cơ sở hạ tầng:
Là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm:
+ Quan hệ sản xuất thống trị
+ Quan hệ sản xuất mầm mống
+ Quan hệ sản xuất tàn dư
Trong các quan hệ sản xuất nói trên, quan hệ sản xuất thống trị là quan hệ sản xuất cơ bản, giữ vị trí chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác. Nó quy định xu hướng chung của đời sống KT- XH.
Ví dụ: Trong xã hội phong kiến có 3 loại quan hệ sản xuất:
- Quan hệ sản xuất phong kiến (quan hệ chủ đạo)
- Quan hệ sản xuất TBCN (quan hệ mầm mống)
- Quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ (quan hệ tàn dư)
Như vậy nếu xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì QHSX là hình thức phát triển của LLSX, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các QHSX "hợp thành" cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
- Kiến trúc thượng tầng:
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội v.v.. được hình thành trên cơ sở hạ tầng.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
* Vị trí:
Đây là một trong những mối quan hệ rất cơ bản trong một hình thái kinh tế xã hội. Xem xét và giải quyết đúng đắn mối quan hệ này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tiến bộ xã hội.
* Nội dung mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KKTT
CSHT và KTTT là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau trong đó CSHT đóng vai trò quyết định KTTT, song KTTT có tác động trở lại CSHT.
Mối quan hệ này có cơ sở lý luận từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đó vật chất quyết định ý thức, ý thức có tác động trở lại thế giới vật chất.
Vận dụng vào lĩnh vực xã hội thì các quan hệ về kinh tế quyết định các quan hệ về tinh thần, quan hệ tinh thần tác động trở lại quan hệ kinh tế.
- CSHT quyết định KTTT ở các nội dung sau:
+ CSHT quyết định tính chất của KTTT: Mỗi CSHT sẽ hình thành nên một KTTT tương ứng với nó. Tính chất của KTTT là do tính chất của CSHT quyết định. Nếu CSHT có đối kháng về lợi ích kinh tế thì KTTT có mâu thuẫn về chính trị, tư tưởng.
+ CSHT quyết định cơ cấu, bộ mặt của KTTT: nếu CSHT giản đơn thì kết cấu của KTTT cũng giản đơn, ngược lại CSHT phức tạp thì KTTT cũng phức tạp.
+ CSHT quyết định sự vận động, phát triển của KTTT: KTTT phản ánh CSHT nhưng CSHT không tĩnh tại, bất biến mà luôn vận động, biến đổi. Khi CSHT thay đổi thì sớm hay muộn KTTT cũng thay đổi theo. Mác nói: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái KTTT đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng".
(Đọc thêm: Quá trình đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn thay đổi từ hình thái KT-XH này xang hình thái KTXH khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái KT-XH. Sự thay đổi CSHT dẫn đến thay đổi KTTT diễn ra rất phức tạp, có yếu tố thay đổi nhanh như chính trị, pháp luật... có yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật hoặc có những yếu tố vẫn được kế thừa.
Sự thay đổi của KTTT cũng gắn liền với sự phát triển của LSSX, nhưng LLSX không trực tiếp làm thay đổi KTTT. Sự phát triển của LLSX làm thay đổi QHSX, tức trực tiếp làm thay đổi CSHT và thông qua đó làm thay đổi KTTT.)
- KTTT tác động trở lại đối với CSHT
KTTT được hình thành trên cơ sở CSHT, chịu sự quy định của CSHT nhưng KTTT sau khi hình thành lại có tính độc lập tương đối, tác động trở lại CSHT.
Tất cả các yếu tố cấu thành KTTT đều tác động trở lại CSHT. Tuy nhiên mỗi yếu tố có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố tác động mạnh nhất đối với CSHT vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị kinh tế.
Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT theo hai khuynh hướng sau:
+ Củng cố, hoàn thiện CSHT đã sinh ra nó: phương thức tác động là thông qua bộ phận quan trọng nhất của KTTT là nhà nước. Với hệ thống luật pháp và quyền lực của mình, nhà nước bao giờ cũng củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất thống trị, tạo ra cơ sở kinh tế để nhà nước tồn tại.
+ Ngăn chặn sự ra đời của CSHT mới đồng thời củng cố CSHT sinh ra nó, KTTT còn ngăn chặn sự ra đời của quan hệ sản xuất mầm mống đảm bảo cho quan hệ sản xuất thống trị tồn tại và phát triển với mục tiêu cao nhất là bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
3. ý nghĩa- vận dụng:
- Nắm vững quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT là cơ sở lý luận để hiểu được quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Trong xã hội, kinh tế quyết định chính trị nhưng chính trị lại tác động trở lại kinh tế. Chính trị tiến bộ thúc đẩy kinh tế phát triển, ngược lại hệ thống chính trị phản động sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
- Đồng thời cũng từ đó hiểu được đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo. Đổi mới chính trị trên cơ sở đổi mới về kinh tế, từ đổi mới kinh tế dần dần từng bước đổi mới hệ thống chính trị, giữ vững định hướng XHCN. Chính vì thế XHCN ở Việt Nam không những đứng vững mà còn phát triển với tốc độ cao, đem lại quyền lợi cho quảng đại quần chúng nhân dân lao động.
Câu 4. Quy luật phủ định của phủ định
* Vị trí:
Quy luật này là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, chỉ ra khuynh hướng chung của sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
* Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng:
- Phủ định:
Trong sự vận động, biến đổi của thế giới, ta thấy một sự vật hiện tượng trải qua các giai đoạn xuất hiện, tồn tại và đến một thời điểm nào đó nó bị thay thế bằng một sự vật khác, đó là sự phủ định.
=> Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
- Phủ định biện chứng:
Phủ định biện chứng là một phạm trù triết học để chỉ sự phủ định tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời của sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Đó là một dạng phủ định trong đó sự vật mới xuất hiện có kế thừa các yếu tố còn phù hợp, có tích cực trong lòng sự vật cũ.
Ví dụ: xã hội phong kiến xuất hiện phủ định xã hội chiếm hữu nô lệ. Nhưng quá trình đó không phải là phủ định sạch trơn mà có sự kế thừa các yếu tố của xã hội nô lệ đó là: công cụ, kinh nghiệm, lao động sản xuất, tri thức xã hội thu được trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới.
Đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là tính khách quan và tính kế thừa.
(Đọc thêm:
+ Phủ định biện chứng mang tính khách quan, vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là kết quả giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật (được thực hiện thông qua các cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật hiện tượng). Phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.
+ Phủ định biện chứng mang tính kế thừa vì phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực.
+ Quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt tốt, mặt tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực. Do đó, phủ định đồng thời cũng là khẳng định.
Như vậy, phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ mà còn là sự liên kết giữa cái cũ với cái mới, sự vật cũ với sự vật mới, giữa sự khẳng định với sự phủ định, quá khứ với hiện thực).
* Nội dung quy luật:
Khái quát khuynh hướng phát triển đi lên của sự vật là cái mới ra đời phủ định cái cũ, đó là sự phủ định biện chứng, chiều hướng phát triển cơ bản của quá trình phát triển la từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện, phát triển; không đơn giản theo đường thẳng mà quanh co phức tạp theo hình "xoáy ốc", cái mới ra đời và tất thắng.
- Phát triển là cái mới ra đời phủ định cái cũ:
Trong lòng cái cũ bao giờ cũng tồn tại các mặt đối lập. Các mặt đối lập đấu tranh với nhau đến một mức độ nhất định sẽ chuyển hoá thành cái mới. Những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng sẽ sảy ra, sự vật đó không còn nữa mà bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Người ta gọi đó là sự phủ định lần thứ nhất. Sau khi phủ định, sự vật hiện tượng trở thành mặt đối lập so với điểm xuất phát.
Ví dụ: Gieo hạt thóc xuống đất, sau một thời gian và tác động của môi trường, hạt thóc mọc thành cây lúa. Hạt thóc bị phủ định, cái mới là cây lúa được hình thành.
- Cái mới (cái trung gian, kết quả của phủ định lần thứ nhất) ra đời lại tiếp tục phát triển, theo quy luật nó lại bị phủ định bởi cái mới hơn, bản thân nó (cái trung gian) lại trở thành cái cũ. Người ta gọi đó là sự phủ định lần thứ hai.
Vẫn ví dụ trên ta thấy, cây lúa qua một thời gian sinh trưởng lại hình thành các hạt thóc mới. Khi hạt thóc chín, cây lúa bị chết đi. Cây lúa (cái mới, cái trung gian-kết quả của phủ định lần thứ nhất) lại bị phủ định, cái mới hơn sẽ xuất hiện là những hạt thóc. Kết quả của sự phủ định lần thứ hai lại cho ta là hạt thóc như ban đầu nhưng không phải chỉ là một hạt mà nhiều gấp mười, hai mươi, ba mươi lần.
- Qua hai lần phủ định nêu trên, sự vật hiện tượng "dường như" sẽ trở về cái ban đầu nhưng thực chất ở trình độ cao hơn, không phải là sự trùng lặp hoàn toàn, mà nó được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó (phủ định của phủ định).
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu cho chu kỳ phát triển tiếp theo. Trên hiện thực, một chu kỳ phát triển của sự vật cụ thể có thể bao gồm số lượng các lần phủ định nhiều hơn hai.
Như vậy, kết thúc chu kỳ "phủ định của phủ định" sự vật hiện tượng lại bắt đầu một chu kỳ mới nhưng không lặp lại nguyên xi chu kỳ cũ mà có sự phát triển mới. Qua các chu kỳ làm cho con người nhận thức được khuynh hướng phát triển của sự vật.
- Sự phát triển của sự vật hiện tượng không giản đơn theo đường thẳng mà quanh co, phức tạp theo hình xoáy ốc.
+ Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật đó là xu hướng phát triển. Song sự phát triển đó không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường "xoáy ốc".
+ Sự phát triển theo đường xoáy ốc là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên, tính vô tận, tính quanh co, phức tạp.... Song nhìn nhận một cách tổng thể vẫn thể hiện khuynh hướng phát triển đi lên.
* ý nghĩa phương pháp luận – Liên hệ:
- ý nghĩa phương pháp luận:
+ Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo một đường thẳng mà quanh co, phức tạp trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau, chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Cái mới bao giờ cũng tất thắng.
+ Trong hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức, con người phải biết kế thừa tinh hoa của cái cũ, tránh thái độ phủ định sạch trơn. Đồng thời cũng khắc phục thái độ bảo thủ, khư giữ lại cả những cái lỗi thời, cản trở sự phát triển của lịch sử.
+ Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để khẳng định tinh thần lạc quan cách mạng, xây dựng tư tưởng tiến công, biết phát hiện ra cái mới, đấu tranh cho cái mới ra đời và tạo điều kiện cho nó giành thắng lợi.
- Liên hệ:
Đảng ta khẳng định: "Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Luận điểm trên thể hiện sự nhận thức sâu sắc nhất, đầy đủ nhất về sự bỏ qua chế độ TBCN để tiến lên CNXH. Thực chất công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN là quá trình thực hiện sự phủ định xã hội cũ. Một nước chưa phát triển như nước ta đi lên CNXH, một mặt phải phủ định xã hội xuất phát- một nước tiểu nông, mặt khác phải bỏ qua con đường phát triển TBCN. Trước đây, do nhận thức chưa đúng, chúng ta hiểu sự bỏ qua như kiểu phủ định sạch trơn, máy móc. Nghĩa là chúng ta chỉ thấy mặt đối lập, đấu tranh với CNTB, rất ít khi thấy mặt cần học tập, tham khảo, hợp tác để sử dụng, chối bỏ tất cả những gì thuộc về CNTB, kể cả thành tựu khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế, xã hội .
a) Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn)
* Vị trí:
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó chỉ ra nguồn gốc, động lực phát triển của sự vật hiện tượng, được coi là hạt nhân của phép biện chứng duy vật.
* Một số quan điểm của triết học trước Mác:
- Hêraclit (nhà biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại) thừa nhận sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập nhưng trong các mối quan hệ khác nhau. Quá trình vận động của sự vật hiện tượng luôn có khuynh hướng chuyển thành mặt đối lập của mình.
- Lão Tử (người sáng lập học thuyết Đạo gia của triết học Trung Hoa cổ đại) cho rằng mỗi sự vật đều có các mặt đối lập, chúng dựa vào nhau để chuyển hoá, làm cho sự vật hiện tượng vận động.
- Hê Ghen (nhà biện chứng, nhà triết học duy tâm khách quan của triết học cổ điển Đức): Coi động lực của sự vận động là sự đấu tranh của các mặt đối lập. Tuy nhiên Hêghen lại giải quyết vấn đề dưới góc độ tư tưởng thuần tuý.
* Nội dung quy luật theo quan điểm của triết học Mác - Lênin:
Mọi sự vật hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời thay thế.
- Phạm trù mặt đối lập:
Là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ví dụ: Lực hút và lực đẩy giữa các thiên thể; Giai cấp thống trị và giai cấp bị trị trong xã hội; Chân lý và sai lầm trong nhận thức v.v...
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng:
+ Mâu thuẫn nằm trong mọi sự vật hiện tượng cũng như trong tất cả các giai đoạn phát triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú và đa dạng: có mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài; mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản; mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu; mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn không đối kháng v.v....
+ Mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, điều này sẽ được nghiên cứu làm rõ thông qua các phạm trù thống nhất, đấu tranh và mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh.
- Phạm trù thống nhất:
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, tồn tại không tách rời giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy mặt kia làm tiền đề.
Ví dụ: Trong tự nhiên có lực hút đồng thời có lực đẩy để duy trì khoảng cách giữa hai thiên thể. Trong xã hội có giai cấp thống trị cùng tồn tại với giai cấp bị trị. Có giai cấp này mới có giai cấp kia, không thể chỉ có một trong hai giai cấp.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là thống nhất trong mâu thuẫn, vừa bao hàm sự đồng nhất và sự khác biệt.
+ Đồng nhất: khi sự vật mới xuất hiện, các mặt đối lập có thể có những nhân tố giống nhau, chưa mâu thuẫn với nhau, đồng nhất là thoáng qua, tương đối.
+ Khác biệt: Quá trình phát triển, yếu tố này dần dần bộc lộ, hai mặt đối lập xuất hiện mâu thuẫn, từ đó dẫn đến sự đấu tranh của các mặt đối lập.
- Phạm trù đấu tranh của các mặt đối lập:
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định, gạt bỏ, khắc phục hoặc tiêu diệt lẫn nhau giữa các mặt đối lập; không chỉ đơn thuần là sự tiêu diệt lẫn nhau, đấu tranh diễn ra thường xuyên khi hai mặt đối lập trở nên mâu thuẫn.
+ Các mặt đối lập phát triển với khuynh hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau dẫn đến mâu thuẫn. Có mâu thuẫn là có đấu tranh.
Ví dụ: Trong xã hội phong kiến, giai cấp địa chủ không trực tiếp lao động sản xuất nhưng hưởng phần nhiều hơn, còn giai cấp nông dân là người trực tiếp lao động sản xuất nhưng chỉ được một phần ít ỏi. Mâu thuẫn về lợi ích xuất hiện dẫn đến đấu tranh.
+ Đấu tranh của các mặt đối lập diễn ra từ thấp đến cao, đến một giới hạn nhất định sẽ dẫn tới sự chuyển hoá. Sự vật cũ hoặc trình độ cũ của sự vật mất đi, sự vật mới hoặc trình độ mới của sự vật sẽ ra đời.
ăng ghen đã khái quát thành hai hình thức chuyển hoá: Một là hai mặt đối lập thâm nhập vào nhau chuyển hoá từ mặt này thành mặt kia; Hai là cả hai mặt chuyển hoá thành những mặt đối lập mới ở thể thống nhất cao hơn.
Sự chuyển hoá diễn ra khi mâu thuẫn giữa các mặt đối lập gay gắt đến cực độ, thông qua bước nhảy vọt dẫn đến trình độ mới của sự vật hoặc sự vật mới thay thế sự vật cũ.
- Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh:
+ Giữa chúng có mối quan hệ biện chứng trong đó thống nhất tạo ra tiền đề, cơ sở cho đấu tranh, đấu tranh phá vỡ thể thống nhất cũ, tạo nên thể thống nhất mới, thể thống nhất mới lại tạo ra cơ sở cho đấu tranh.
+ Khi mâu thuẫn được giải quyết thông qua đấu tranh nó làm cho sự vật hiện tượng vận động, biến đổi. Sự thống nhất và đấu tranh chính là động lực của sự vận động, biến đổi đó.
* ý nghĩa, phương pháp luận- liên hệ:
ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập giúp chúng ta có cơ sở để hiểu được nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.
- Khi xem xét cải tạo sự vật hiện tượng phải phát hiện được mâu thuẫn, phân tích cụ thể mâu thuẫn và đề ra cách giải quyết.
+ Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức là tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó.
+ Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí, mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn... có như thế mới hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu thế vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
+ Phải tìm mọi cách giải quyết mâu thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn. Việc giải quyết đấu tranh mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Một mặt phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi.
- Chống hai khuynh hướng: Né tránh mâu thuẫn; Tuyệt đối hoá mâu thuẫn hoặc điều hoà mâu thuẫn.
Liên hệ sự vận dụng quy luật của Đảng:
- CNDVBC cho rằng, mâu thuẫn là nguồn gốc và đấu tranh của các mặt đối lập là động lực của sự vận động phát triển. Đi lên CNXH ở nước ta thực chất là giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn khách quan của thời kỳ quá độ.
Trước đổi mới, Đảng ta xác định mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là mâu thuẫn giữa 2 con đường: XHCN và TBCN. Nhận thức đó đến nay vẫn cơ bản là chính xác, vì nó phản ánh thực chất mâu thuẫn chung của cả thời đại hiện nay: Thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH.
Tuy nhiên, sự khái quát đó chưa phản ánh thật đầy đủ tính đặc thù của những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước đang trong quá độ lên CNXH. Xuất phát từ chỗ cho rằng, mâu thuẫn cơ bản là loại mâu thuẫn qui định bản chất của xã hội ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH; mâu thuẫn này chỉ được giải quyết khi có sự thay đổi căn bản về chất, khi xây dựng thành công CNXH. Đồng thời, đó cũng là loại mâu thuẫn qui định sự nảy sinh tất cả các loại mâu thuẫn khác biểu hiện trong các lĩnh vực, các giai đoạn phát triển khác nhau của thời kỳ quá độ.
Trên tinh thần đó, Cương lĩnh xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định: "Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế kém phát triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết là các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và CNXH.
Đại hội X tiếp tục bổ sung phát triển các quan điểm về mâu thuẫn cơ bản, đồng thời nhận thức và giải quyết những mặt khác nhau của mâu thuẫn đó.
- Các loại mâu thuẫn cần nhận thức và giải quyếtt trong thời kỳ quá độ hiện nay:
+ Loại mâu thuẫn biểu hiện giữa trạng thái KTXH kém phát triển với yêu cầu xây dựng một xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
+ Loại mâu thuẫn giữa 2 khuynh hướng, 2 con đường TBCN và XHCN.
+ Mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH với các thế lực cản trở con đường phát triển của nước ta theo mục tiêu đó.
+ Loại mâu thuẫn giữa mặt nhân tố chủ quan và khách quan trong quá trình đi lên CNXH
Việc giải quyết mâu thuẫn xã hội nêu trên bao giờ cũng là sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan, song phương diện khách quan của mâu thuẫn qui định nội dung phương thức giải quyết chúng. Do đó, phải căn cứ vào bản chất mâu thuẫn, trạng thái chín muồi của mâu thuẫn, điều kiện khách quan của chủ quan, trong và ngoài nước, người ra còn liên quan đến thời điểm giải quyết mâu thuẫn để tìm ra phương thức giải quyết thích hợp. ĐH IX, X không những vạch ra nhiệm vụ cụ thể mà còn thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt trong việc lựa chọn các hình thức và phương thức giải quyết mâu thuẫn.
Câu 5. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn)
* Vị trí:
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó chỉ ra nguồn gốc, động lực phát triển của sự vật hiện tượng, được coi là hạt nhân của phép biện chứng duy vật.
* Một số quan điểm của triết học trước Mác:
- Hêraclit (nhà biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại) thừa nhận sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập nhưng trong các mối quan hệ khác nhau. Quá trình vận động của sự vật hiện tượng luôn có khuynh hướng chuyển thành mặt đối lập của mình.
- Lão Tử (người sáng lập học thuyết Đạo gia của triết học Trung Hoa cổ đại) cho rằng mỗi sự vật đều có các mặt đối lập, chúng dựa vào nhau để chuyển hoá, làm cho sự vật hiện tượng vận động.
- Hê Ghen (nhà biện chứng, nhà triết học duy tâm khách quan của triết học cổ điển Đức): Coi động lực của sự vận động là sự đấu tranh của các mặt đối lập. Tuy nhiên Hêghen lại giải quyết vấn đề dưới góc độ tư tưởng thuần tuý.
* Nội dung quy luật theo quan điểm của triết học Mác - Lênin:
Mọi sự vật hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời thay thế.
- Phạm trù mặt đối lập:
Là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ví dụ: Lực hút và lực đẩy giữa các thiên thể; Giai cấp thống trị và giai cấp bị trị trong xã hội; Chân lý và sai lầm trong nhận thức v.v...
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng:
+ Mâu thuẫn nằm trong mọi sự vật hiện tượng cũng như trong tất cả các giai đoạn phát triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú và đa dạng: có mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài; mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản; mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu; mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn không đối kháng v.v....
+ Mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, điều này sẽ được nghiên cứu làm rõ thông qua các phạm trù thống nhất, đấu tranh và mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh.
- Phạm trù thống nhất:
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, tồn tại không tách rời giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy mặt kia làm tiền đề.
Ví dụ: Trong tự nhiên có lực hút đồng thời có lực đẩy để duy trì khoảng cách giữa hai thiên thể. Trong xã hội có giai cấp thống trị cùng tồn tại với giai cấp bị trị. Có giai cấp này mới có giai cấp kia, không thể chỉ có một trong hai giai cấp.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là thống nhất trong mâu thuẫn, vừa bao hàm sự đồng nhất và sự khác biệt.
+ Đồng nhất: khi sự vật mới xuất hiện, các mặt đối lập có thể có những nhân tố giống nhau, chưa mâu thuẫn với nhau, đồng nhất là thoáng qua, tương đối.
+ Khác biệt: Quá trình phát triển, yếu tố này dần dần bộc lộ, hai mặt đối lập xuất hiện mâu thuẫn, từ đó dẫn đến sự đấu tranh của các mặt đối lập.
- Phạm trù đấu tranh của các mặt đối lập:
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định, gạt bỏ, khắc phục hoặc tiêu diệt lẫn nhau giữa các mặt đối lập; không chỉ đơn thuần là sự tiêu diệt lẫn nhau, đấu tranh diễn ra thường xuyên khi hai mặt đối lập trở nên mâu thuẫn.
+ Các mặt đối lập phát triển với khuynh hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau dẫn đến mâu thuẫn. Có mâu thuẫn là có đấu tranh.
Ví dụ: Trong xã hội phong kiến, giai cấp địa chủ không trực tiếp lao động sản xuất nhưng hưởng phần nhiều hơn, còn giai cấp nông dân là người trực tiếp lao động sản xuất nhưng chỉ được một phần ít ỏi. Mâu thuẫn về lợi ích xuất hiện dẫn đến đấu tranh.
+ Đấu tranh của các mặt đối lập diễn ra từ thấp đến cao, đến một giới hạn nhất định sẽ dẫn tới sự chuyển hoá. Sự vật cũ hoặc trình độ cũ của sự vật mất đi, sự vật mới hoặc trình độ mới của sự vật sẽ ra đời.
ăng ghen đã khái quát thành hai hình thức chuyển hoá: Một là hai mặt đối lập thâm nhập vào nhau chuyển hoá từ mặt này thành mặt kia; Hai là cả hai mặt chuyển hoá thành những mặt đối lập mới ở thể thống nhất cao hơn.
Sự chuyển hoá diễn ra khi mâu thuẫn giữa các mặt đối lập gay gắt đến cực độ, thông qua bước nhảy vọt dẫn đến trình độ mới của sự vật hoặc sự vật mới thay thế sự vật cũ.
- Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh:
+ Giữa chúng có mối quan hệ biện chứng trong đó thống nhất tạo ra tiền đề, cơ sở cho đấu tranh, đấu tranh phá vỡ thể thống nhất cũ, tạo nên thể thống nhất mới, thể thống nhất mới lại tạo ra cơ sở cho đấu tranh.
+ Khi mâu thuẫn được giải quyết thông qua đấu tranh nó làm cho sự vật hiện tượng vận động, biến đổi. Sự thống nhất và đấu tranh chính là động lực của sự vận động, biến đổi đó.
* ý nghĩa, phương pháp luận- liên hệ:
ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập giúp chúng ta có cơ sở để hiểu được nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.
- Khi xem xét cải tạo sự vật hiện tượng phải phát hiện được mâu thuẫn, phân tích cụ thể mâu thuẫn và đề ra cách giải quyết.
+ Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức là tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó.
+ Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí, mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn... có như thế mới hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu thế vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
+ Phải tìm mọi cách giải quyết mâu thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn. Việc giải quyết đấu tranh mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Một mặt phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi.
- Chống hai khuynh hướng: Né tránh mâu thuẫn; Tuyệt đối hoá mâu thuẫn hoặc điều hoà mâu thuẫn.
Liên hệ sự vận dụng quy luật của Đảng:
- CNDVBC cho rằng, mâu thuẫn là nguồn gốc và đấu tranh của các mặt đối lập là động lực của sự vận động phát triển. Đi lên CNXH ở nước ta thực chất là giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn khách quan của thời kỳ quá độ.
Trước đổi mới, Đảng ta xác định mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là mâu thuẫn giữa 2 con đường: XHCN và TBCN. Nhận thức đó đến nay vẫn cơ bản là chính xác, vì nó phản ánh thực chất mâu thuẫn chung của cả thời đại hiện nay: Thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH.
Tuy nhiên, sự khái quát đó chưa phản ánh thật đầy đủ tính đặc thù của những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước đang trong quá độ lên CNXH. Xuất phát từ chỗ cho rằng, mâu thuẫn cơ bản là loại mâu thuẫn qui định bản chất của xã hội ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH; mâu thuẫn này chỉ được giải quyết khi có sự thay đổi căn bản về chất, khi xây dựng thành công CNXH. Đồng thời, đó cũng là loại mâu thuẫn qui định sự nảy sinh tất cả các loại mâu thuẫn khác biểu hiện trong các lĩnh vực, các giai đoạn phát triển khác nhau của thời kỳ quá độ.
Trên tinh thần đó, Cương lĩnh xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định: "Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế kém phát triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết là các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và CNXH.
Đại hội X tiếp tục bổ sung phát triển các quan điểm về mâu thuẫn cơ bản, đồng thời nhận thức và giải quyết những mặt khác nhau của mâu thuẫn đó.
- Các loại mâu thuẫn cần nhận thức và giải quyếtt trong thời kỳ quá độ hiện nay:
+ Loại mâu thuẫn biểu hiện giữa trạng thái KTXH kém phát triển với yêu cầu xây dựng một xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
+ Loại mâu thuẫn giữa 2 khuynh hướng, 2 con đường TBCN và XHCN.
+ Mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH với các thế lực cản trở con đường phát triển của nước ta theo mục tiêu đó.
+ Loại mâu thuẫn giữa mặt nhân tố chủ quan và khách quan trong quá trình đi lên CNXH
Việc giải quyết mâu thuẫn xã hội nêu trên bao giờ cũng là sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan, song phương diện khách quan của mâu thuẫn qui định nội dung phương thức giải quyết chúng. Do đó, phải căn cứ vào bản chất mâu thuẫn, trạng thái chín muồi của mâu thuẫn, điều kiện khách quan của chủ quan, trong và ngoài nước, người ra còn liên quan đến thời điểm giải quyết mâu thuẫn để tìm ra phương thức giải quyết thích hợp. ĐH IX, X không những vạch ra nhiệm vụ cụ thể mà còn thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt trong việc lựa chọn các hình thức và phương thức giải quyết mâu thuẫn.
Câu 6: Phạm trù ý thức
1. Đặt vấn đề
ý thức là toàn bộ những hiện tượng thuộc về thế giới tinh thần của con người như: tâm trạng, tình cảm, tri thức, ý chí hành động... Vấn đề nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức là một vấn đề hết sức phức tạp của triết học, là trung tâm đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Dựa trên những thành tựu của triết học duy vật, của khoa học và thực tiễn xã hội, triết học Mác-Lê Nin đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên.
2. Giải quyết vấn đề
a) Nguồn gốc ý thức
* Quan điểm trước Mác:
- CNDT khách quan cho rằng: ý thức là một thực thể tinh thần, có trước thế giới vật chất, sinh ra vật chất. Ví dụ: Platon cho rằng thực thể đó là "ý niệm"; Hêghen cho rằng thực thể đó là "ý niệm tuyệt đối"
- CNDT chủ quan cho rằng ý thức là sự kết hợp của các dòng cảm giác vốn có bên trong con người.
Hai quan điểm trên có sự khác nhau nhất định về ý thức, song về thực chất họ khác nhau ở chỗ tách ý thức ra khỏi vật chất, phủ nhận nguồn gốc vật chất của ý thức, cho ý thức là những hiện tượng huyền bí, là quan niệm phản khoa học
- CNDV trước Mác: thừa nhận ý thức có nguồn gốc từ vật chất nhưng khi giải thích lại làm lẫn lộn giữa vật chất và ý thức. Chẳng hạn Đêmôcrit: linh hồn (ý thức) do nguyên tử tạo thành, là nguyên tử nhẹ hơn nguyên tử vật chất. Cabanít (nhà TH siêu hình Pháp): óc tiết ra ý thức giống như gan tiết ra mật.
* Quan điểm của CNDVBC:
CNDVBC khẳng định: ý thức không phải có nguồn gốc siêu tự nhiên, ý thức xuất hiện do hai nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên:
+ ý thức không phải có nguồn gốc siêu tự nhiên mà ý thức là thuộc tính của vật chất nhưng không phải là của mọi dạng vật chất mà là thuộc tính, là sản phẩm của một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao đó là bộ óc của con người.
Con người suy nghĩ bằng bộ óc: vấn đề này đã được khoa học thần kinh học chứng minh. Bộ óc của con người có cấu trúc vô cùng phức tạp khoảng từ 14 đến 15 tỷ tế bào thần kinh, chia thành 50 vùng khác nhau, mỗi vùng đảm nhiệm một chức năng, các vùng đều có liên quan chặt chẽ với nhau. Các tế bào thần kinh này có mối liên hệ với nhau và với các giác quan, tạo thành vô số những thu nhận, điều khiển hoạt động của cơ thể với thế giới bên ngoài qua các phản xạ không điều kiện và có điều kiện.
Khi trạng thái tâm lý của con người thay đổi thì các thành phần hoá học trong các tế bào thần kinh cũng thay đổi. Những người bị bệnh tâm thần là do một số vùng của não bị tổn thương. Khi bộ não bị tổn thương thì hoạt động của ý thức sẽ không bình thường. Vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc, ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.
Lý luận về phản xạ đã tìm ra cơ chế vận hành của hệ thần kinh: nhận kích thích => phân tích xử lý => ra quyết định hành động, cơ chế ấy chỉ có con người mới có.
+ Bộ óc của con người cùng với con người là sản phẩm vật chất cao nhất, là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất.
Học thuyết "nguồn gốc sự sống" đã chứng minh rằng: sự vận động của các vật chất vô cơ dưới điều kiện của môi trường đã hình thành các hợp chất hữu cơ. Chúng tiếp tục tiến hoá đến cấp độ đại phân tử tiền tế bào (côaxecva), từ đó hình thành vật chất có sự sống.
Học thuyết "tiến hoá giống loài" của Đacuyn chỉ ra con đường tiến hoá của động vật. Từ đơn bào đến đa bào, từ bậc thấp lên bậc cao, con người là động vật bậc cao nhất.
- Sự phản ánh của bộ óc con người là cơ sở tự nhiên của sự hình thành ý thức.
+ Phản ánh là sự tái tạo đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật (vật tác động và vật bị tác động), trong quá trình đó vật bị tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc của ý thức.
Phản ánh là thuộc tính phổ biến trong mọi dạng vật chất. Quá trình đó có nhiều trình độ. Đơn giản nhất là hình thức phản ánh của vật chất vô cơ (phản ánh vật lý, hoá học), đây là dạng phản ánh máy móc thụ động chưa có định hướng sự lựa chọn. Phản ánh sinh học đặc trưng cho giới tự nhiên sống là bước phát triển mới về chất của các hình thức phản ánh. Hình thức phản ánh của các sinh vật đơn giản nhất là biểu hiện ở tính kích thích, tức là phản ứng trả lời tác động của môi trường bên ngoài. Hình thức phản ánh tiếp theo của động vật chưa có hệ thần kinh là tính cảm ứng, tính nhạy cảm đối với sự thay đổi của môi trường. Hình thức phản ánh của động vật có hệ thống thần kinh là phản xạ. Hình thức phản ánh của động vật bậc cao có hệ thần kinh trung ương là tâm lý, tâm lý của động vật chưa phải là ý thức, nó mới chỉ là phản ánh có tính chất bản năng. ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực. ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với sự xuất hiện con người. ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không tách rời con người.
Như vậy, ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất- thuộc tính phản ánh.
Tóm lại, bộ óc người (cơ quan phản ánh về thế giới vật chất xung quanh) cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
- Nguồn gốc xã hội:
Để ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, xong chưa đủ; điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc xã hội đó là nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
+ Lao động: là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của mình. Đây chính là sự khác biệt căn bản của con người với động vật (động vật sử dụng các sản phẩm có sẵn trong tự nhiên). Thông qua lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người mới phản ánh được thế giới khách quan để hình thành ý thức về thế giới đó.
Vai trò của lao động:
Làm cho loài vượn tiến hoá thành loài người với bộ óc phát triển ở trình độ rất cao là tiền đề của sự hình thành ý thức.
Làm cho tự nhiên bộc lộ các thuộc tính, bản chất, các thuộc tính, bản chất đó tác động vào bộ óc con người. Nhờ đó mà con người phát triển nhận thức và tư duy sáng tạo.
Làm cho các giác quan của con người ngày càng hoàn thiện, hỗ trợ cho việc thu thập tri thức cung cấp tài liệu cho tư duy con người.
Ngoài ra, chính lao động sản xuất ra của cải vật chất là điều kiện để con người, xã hội loài người tồn tại và phát triển.
+ Ngôn ngữ: do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành.
Vai trò của ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là tín hiệu mang nội dung ý thức. Nhờ có ngôn ngữ mà ý thức biểu hiện được sự tồn tại của nó.
Ngôn ngữ là công cụ, là phương tiện để con người tư duy.
Ngôn ngữ là phương tiện để con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi tri thức kinh nghiệm, lưu trữ tri thức qua các thế hệ của con người.
b) Bản chất của ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:
ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người một cách tích cực, chủ động, sáng tạo.
- ý thức là sự phản ánh là cái phản ánh còn vật chất là cái được phản ánh. Vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài và độc lập với cái phản ánh tức ý thức. ý thức là hiện thực chủ quan, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, lấy cái khách quan làm tiền đề, bị cái khách quan quy định, ý thức không có tính vật chất.
- Khi nói cái phản ánh- ý thức- là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan thì đó không phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật. ý thức là của con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực tiễn xã hội.
- Tính sáng tạo được thể hiện: không phải là sự phản ánh máy móc, nguyên xi hiện thực khách quan mà có sự chọn lọc cải tiến. Trên cơ sở cái đã có trước, ý thức có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật; có thể tưởng tượng cái chưa có trong hiện thực, có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những giả thuyết khoa học trừu tượng và khái quát cao v.v... => cho thấy tính chất phức tạp, phong phú của ý thức ở con người mà khoa học cần phải đi sâu nghiên cứu...
- Quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động, sáng tạo thống nhất 3 mặt sau:
- Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, sự trao đổi này mang tính chất 2 chiều, có định hướng, có chọn lọc thông tin.
- Hai là, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình sáng tạo lại hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hoá các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
- Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hoá tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại.
=> cho thấy: tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức để ra vật chất.
3. ý nghĩa phương pháp luận- Liên hệ vận dụng
* ý nghĩa phương pháp luận:
- Nguồn gốc bản chất của ý thức là cơ sở lý luận để giải thích những hiện tượng thuộc về thế giới tinh thần của con người. Chống các quan niệm duy tâm phản khoa học.
- Từ đó thấy được vai trò quan trọng của vấn đề lao động, có thái độ đúng đắn với hoạt động lao động.
* Liên hệ:...
Câu 7....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Câu 8: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1. Đặt vấn đề
Nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ này tạo ra tiền đề, cơ sở để giải quyết các vấn đề khác trong triết học. Từ thời cổ đại đến nay đã tồn tại nhiều quan điểm khác nhau:
Chủ nghĩa duy tâm: tuyệt đối hoá ý thức, cho rằng ý thức là tính thứ nhất, sinh ra và quyết định thế giới vật chất.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác cho rằng: vật chất là tính thứ nhất, là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định ý thức nhưng chưa thấy được sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
2. Giải quyết vấn đề
Triết học Mác Lênin khẳng định: vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, ý thức có tác động to lớn trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Vì vậy, con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.
* Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức:
Thế giới vật chất tồn tại vốn có, vận động và phát triển theo quy luật tự nhiên. Quá trình tiến hoá của thế giới vật chất làm xuất hiện sự sống, qua các bậc thang tiến hoá, xuất hiện con người có ý thức. ý thức là thuộc tính, sản phẩm của một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao, đó là bộ óc của con người, nếu không có dạng vật chất đặc biệt này thì ý thức không thể xuất hiện. ý thức luôn gắn với vật chất (bộ óc con người).
- Vật chất có trước, ý thức có sau thể hiện:
+ Khoa học tự nhiên khẳng định: trước khi con người có ý thức xuất hiện trên trái đất thì thế giới vật chất đã tồn tại khách quan, vận động theo các quy luật khách quan vốn có. Hệ mặt trời xuất hiện cách đây 7-10 tỷ năm, trái đất 5-7 tỷ năm, sự sống 2-3 tỷ năm, con người xuất hiện cách đây không quá 5 triệu năm.
+ ở góc độ phản ánh ta thấy: thế giới vật chất là đối tượng được phản ánh; ý thức là cái đi phản ánh. Theo logic đối tượng được phản ánh có trước, cái đi phản ánh có sau, đó là một điều hiển nhiên, không thể đảo ngược.
- Vật chất quyết định ý thức trên các nội dung sau đây:
+ Vật chất quyết định nguồn gốc bản chất của ý thức: ý thức là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của thế giới vật chất, là sự phản ảnh thế giới khách quan vào trong bộ óc con người một cách tích cực chủ động, sáng tạo. Không thể có một ý thức chung chung, trừu tượng mà không gắn với một dạng vật chất cụ thể đó là bộ óc con người.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Nội dung của thế giới vật chất như thế nào thì căn bản nó được phản ảnh vào ý thức của con người là như vậy. Nội dung của ý thức phụ thuộc vào nội dung của vật chất, chịu sự quy định của vật chất.
Ví dụ: Thời cộng sản nguyên thuỷ, xã hội chưa có chế độ tư hữu nên tư tưởng tư hữu chưa xuất hiện. Chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, trong xã hội xuất hiện chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Chính vì thế trong tư duy con người cũng xuất hiện tư tưởng tư hữu.
- Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức: ý thức của con người phản ảnh thế giới vật chất nhưng thế giới vật chất luôn vận động, phát triển không ngừng nên ý thức của con người cũng luôn vận động, phát triển. Sự vận động, phát triển của ý thức phụ thuộc vào sự vận động phát triển của vật chất.
Tuy nhiên, ý thức cũng có quy luật vận động nội tại (tính vượt trước, tính kế thừa) nhưng suy đến cùng vẫn chịu sự quy định của vật chất đang vận động.
* ý thức luôn có tác động to lớn trở lại đối với vật chất:
ý thức thức là sản phẩm của vật chất nhưng với bản chất phản ảnh tích cực, chủ động, ý thức sau khi ra đời lại có tính độc lập tương đối. Tác động trở lại vật chất theo hai khuynh hướng:
- ý thức tiên tiến, cách mạng, khoa học sẽ thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật hiện tượng: Lý do, ý thức đó phản ảnh đúng đắn hiện thực khách quan, từ đó phát hiện ra các quy luật khách quan. Khi vận dụng chỉ đạo thực tiễn nó hướng cho thực tiễn vận động theo quy luật. Từ đó thúc đẩy sự phát triển của sự vật hiện tượng.
- ý thức lạc hậu, phản khoa học sẽ kìm hãm sự phát triển của các sự vật hiện tượng: Những ý thức này phản ảnh sai lệch, xuyên tạc hiện thực khách quan, không có giá trị chỉ đạo thực tiễn. Ngoài ra, ý thức đó còn được giai cấp thống trị duy trì để bảo vệ quyền lực của chúng. Tuy nhiên, sự kìm hãm ấy chỉ có trong một giới hạn nhất định.
Điều kiện để ý thức tác động trở lại thế giới vật chất là thông qua hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo thế giới của con người.
Mác viết: "Tư tưởng căn bản không thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện được tư tưởng cần phải có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn".
3. ý nghĩa phương pháp luận- liên hệ vận dụng
* ý nghĩa phương pháp luận:
- Thấy được quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ tác động qua lại. Nếu không sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường và bệnh bảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động.
- Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, ngồi chờ ...
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ khách quan, tôn trọng khách quan, lấy khách quan làm tiền đề để đề ra chủ trương biện pháp hành động. Đây là vấn đề quan trọng trước tiên, có như vậy mới tránh được những sai lầm do chủ quan duy ý chí.
* Liện hệ:
- Trước đại hội Đảng lần thứ 6, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta đã phạm những sai lầm trong xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế. "Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí vi phạm quy luật khách quan" (Cương lĩnh Đại hội VII). Đảng đã rút ra bài học "Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, phải tôn trọng quy luật khách quan". Hiện nay, Đảng ta chủ trương "lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, bền vững" v.v....
- .....
- Trong lĩnh vực quân sự hậu cần: Mọi chủ trương biện pháp trong hoạt động QS-HC đều phải xuất phát từ điều kiện khách quan (địch, địa hình, thời tiết...) phản ánh khách quan đúng như nó có, không được thêm bớt theo chủ quan. Trên cơ sở đó phát huy các yếu tố chủ quan (phẩm chất, năng lực, ý chí hành động...) của cán bộ, chiến sỹ, biến khả năng thành hiện thực để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Câu 9: giai cấp và đấu tranh giai cấp
1. Định nghĩa giai cấp
Lê Nin định nghĩa: Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hay nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ KTXH nhất định.
Với ĐN trên Lênin đã làm rõ g/c có các đặc trưng cơ bản sau:
- G/c là những tập đoàn người to lớn, với tư cách là một lực lượng XH, không phải là số ít cá nhân đơn lẻ trong XH.
- G/c bao giờ cũng gắn với một hệ thống sản xuất XH nhất định, là sản phẩm của hệ thống sản xuất XH đó. Đây là đặc trưng quan trọng để phân việt g/c vì có thể có những tập đoàn người to lớn nhưng không gắn với một hệ thống sản xuất XH nên không được coi là g/c, chỉ là tầng lớp như: tiểu tư sản, trí thức...
- G/c là những tập đoàn người khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất XH: đây là đặc trưng quan trọng nhất để phân biệt g/c. Sự khác nhau về địa vị của giai cấp trong hệ thống sản xuất là do:
+ Thứ nhất, khác nhau về quan hệ của họ đối với việc sở hữu những TLSX của xã hội: Đây là sự khác nhau cơ bản nhất, chủ nô, địa chủ, tư bản là những tập đoàn giữ địa vị thống trị trước hết do các tập đoàn này chiếm hữu TLSX xã hội. Những tập đoàn người bị mất TLSX (nô lệ, nông nô, vô sản) buộc phải phụ thuộc về kinh tế vào các tập đoàn thống trị.
+ Thứ hai, khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức quản lý sản xuất, tổ chức quản lý lao động xã hội. Tập đoàn nào chiếm hữu về TLSX đương nhiên giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy hoạt động sản xuất và lưu thông trên toàn xã hội cũng như từng đơn vị kinh tế. Các giai cấp lao động là những tập đoàn người trực tiếp sản xuất dưới sự điều khiển bởi giai cấp thống trị trong phương thức sản xuất.
+ Thứ 3, khác nhau về phương thức và quy mô thu nhập những sản phẩm lao động của xã hội. Là người chiếm hữu TLSX và tổ chức lãnh đạo sản xuất, tập đoàn thống trị đủ điều kiện thực hiện mục đích của mình trong sản xuất kinh tế là chiếm đoạt lao động thặng dư của các giai cấp lao động. Chế độ phân phối lao động trong các giai cấp đối kháng là chế độ phân phối bất công vì nó bảo đảm cho giai cấp thống trị (chiếm thiểu số trong dân cư) chiếm hữu phần lớn của cải xã hội, giai cấp lao động chỉ nhận phần ít ỏi còn lại
Trong các sự khác nhau trên, sự khác nhau của họ về sở hữu đối với TLSX có ý nghĩa quyết định. Tập đoàn người nào nắm TLSX sẽ trở thành giai cấp thống trị xã hội và tất yếu sẽ chiếm đoạt những sản phẩm lao động của cácc tập đoàn khác. Đó là bản chất của những xung đột giai cấp trong các xã hội có giai cấp đối kháng.
Trong xã hội có giai cấp, ngoài giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, còn có các giai cấp và tầng lớp trung gian khác. Bộ phận này không có vị trí cơ bản trong phương thức sản xuất, nó thường xuyên bị phân hóa. Nhân tố chi phối sự phân hóa là lợi ích. Các giai cấp và tầng lớp trung gian ngả về giai cấp thống trị hay giai cấp bị trị tùy thuộc vào vị trí lợi ích mà họ có được.
ý nghĩa nghiên cứu khái niệm giai cấp:
- Những đặc trưng cơ bản của g/c là cơ sở để xem xét, phân chia các g/c trong XH.
- Muốn xoá bỏ g/c phải xoá bỏ sự khác nhau về địa vị của các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất XH. Để làm được điều đó phải xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thiết lập chế độ công hữu, làm cho vai trò của các tập đoàn người bình đẳng đó là con đường đúng đứn nhất để xoá bỏ sự phân hoá g/c trong XH.
- Thực chất ĐN g/c của Lênin là: chỉ ra sự đối lập giữa g/c bóc lột và g/c bị bóc lột trong một hệ thống sản xuất xã hội.
- Từ việc chỉ ra sự đối lập nhau giữa g/c thống trị và g/c bị trị CNDVLS đã tiến tới việc xem xét nguồn gốc của các cuộc đấu tranh g/c diễn ra trong lịch sử XH loài người, vai trò của đấu tranh g/c đối với sự phát triển của các XH có g/c và sứ mệnh lịch sử của g/c vô sản trong cuộc đấu tranh chống g/c tư sản để xây dựng một trật tự XH mới.
( Đọc thêm: Nguồn gốc hình thành giai cấp
Mác chỉ rằng: "Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử của sản xuất". Sự phân chia một xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế.
Trong xã hội nguyên thủy, LLSX chưa phát triển, năng xuất lao động rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thủy. Để tồn tại họ phải nương tựa vào nhau theo bầy đàn và lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, giai cấp lúc này chưa xuất hiện.
Sản xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của LLSX, đặc biệt là sự phát triển công cụ sản xuất. Công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá " năng xuất lao động tăng lên đáng kể, phân công lao động xã hội từng bước hình thành " sản phẩm lao động làm ra bắt đầu dư thừa, những người có chức quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm đoạt của cải dư thừa làm của riêng " chế độ tư hữu ra đời " bất bình đảng về kinh tế nảy sinh trong nội bộ công xã. Đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.
Do có của cải dư thừa " tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị giết như trước. Họ được sử dụng làm nô lệ phục vụ những người giàu và có địa vị trong xã hội " chế độ có giai cấp chính thức hình thành từ đó.
Như vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời của giai cấp.
Sự tồn tại các giai cấp đối kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa. CNTB phát triển cao lại tạo tiền đề khiến cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu, cái cơ sở kinh tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển xã hội. Đó là lôgic khách quan của tiến trình phát triển lịch sử).
2. Đấu tranh giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp
Lịch sử phát triển của XH loài người từ khi có g/c xuất hiện đến nay là lịch sử của các cuộc đấu tranh g/c. Vậy đấu tranh g/c là gì, vì sao nó xảy ra và vai trò của đấu tranh g/c trong sự phát triển của XH có g/c như thế nào, đó là nội dung mà chúng ta phải nghiên cứu.
* Đấu tranh giai cấp:
Trong xã hội có giai cấp tất yếu sẽ có đấu tranh giai cấp. Lê Nin định nghĩa: "Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản.
- Như vậy, thực chất của đấu tranh g/c là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt quyền lợi tức là đấu tranh giữa g/c này chống lại một g/c khác có quyền lợi căn bản đối lập nhau trong một phương thức sản xuất nhất định. Phát triển đầy đủ là đấu tranh chính trị để giải quyết vấn đề chính quyền nhà nước.
- Đấu tranh g/c là tất yếu: XH có sự phân hoá g/c, các g/c trong XH có quyền lợi khác nhau, đối lập nhau dẫn tới mâu thuẫn. Có mâu thuẫn sẽ có đấu tranh. Cuộc đấu tranh thường xảy ra giữa g/c thống trị và g/c bị trị.
+ Đấu tranh g/c có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính XH hoá ngày càng sâu rộng của LLSX với quan hệ chiếm hữu tư nhân về TLSX. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện XH : Mâu thuẫn giữa một bên là g/c c/m tiến bộ, đại diện cho phương thức SX mới, với một bên g/c thống trị, bóc lột, đại biểu cho lợi ích gắn với QHSX lỗi thời, lạc hậu.
+ G/c bị trị trong XH thường là những người trực tiếp làm ra của cải vật chất nhưng chỉ được hưởng phần ít hơn, đời sống rất cực khổ, ngược lại g/c thống trị không trực tiếp sản xuất nhưng lại chiếm đoạt đa số sản phẩm lao động, không những thế chúng còn có nhiều đặc quyền, đặc lợi khác. g/c bị trị không cam chịu ách thống trị, g/c thống trị với bản chất ngoan cố không bao giờ tự bỏ quyền lợi. Cuộc đấu tranh ấy tất yếu xảy ra.
Mác-Ăngghen viết: "Lịch sử tất cả các XH cho đến ngày nay là lịch sử đấu tranh g/c. Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả của phường hội và thợ bạn... đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng... một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc bằng một cuộc CM cải tạo toàn bộ XH hoặc bằng sự diệt vong của cả hai g/c đấu tranh với nhau".
* Vai trò của đấu tranh giai cấp:
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển xã hội
- Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn.
+ Trong một PTSX bao giờ cũng có mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX, đó là hai mặt đối lập tồn tại trong một thể thống nhất. XH có g/c mâu thuẫn đó được biểu hiện ra thông qua mâu thuẫn g/c: G/c bị trị là đại biểu của LLSX mang tính CM, tiến bộ, có lợi ích gắn bó thiết lập QHSX mới tiến bộ; G/c thống trị là đại biểu của QHSX lỗi thời lạc hậu, có quyền lợi gắn với việc duy trì QHSX đó, chúng luôn tìm cách duy trì, bảo vệ QHSX cũ.
+ Trong cuộc đấu tranh g/c ấy g/c thống trị nhất định sẽ bị đánh đổ, QHSX lỗi thời bị xoá bỏ, một XH mới tiến bộ hơn sẽ ra đời.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh: Cuộc đấu tranh giữa g/c chủ nô và g/c nô lệ đã là sụp đổ XH chiếm hữu nô lệ, đấu tranh g/c giữa địa chủ - nông dân trong XH phong kiến, đã làm cho XH đó bị thay thế bằng XH TBCN. Ngày nay cuộc đấu tranh g/c vô sản - tư sản đã làm cho nhân loại bước vào thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH và CNCS.
=> Khi phương thức xã hội mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.
- Đấu tranh giai cấp góp phần xóa bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài người đạt được không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp.
- Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó khác về chất so với các cuộc đấu tranh khác. Bời vì mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.
Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng xuất xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, công bằng, dân chủ, văn minh.
Vì vậy trong khi khẳng định đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản", Mác cũng chỉ rõ "bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp"
* ý nghĩa- vận dụng:
(Có thể tóm lược Mục 3 cho phần liên hệ này: đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay).
3. Đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay
* Tính tất yếu:
Thời kỳ quá độ đi lên CNXH là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, là thời kỳ mà bất kỳ nước nào tiến lên CNXH đều phải trải qua. Tuân thủ quy luật chung đó, Việt Nam đi lên CNXH phải trải qua thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ này cuộc đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra gay go, phức tạp và quyết liệt vì:
- Giai cấp tư sản Việt Nam đã bị đánh đổ nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn, với bản chất ngoan cố chúng luôn tìm cách phục hồi địa vị đã mất.
- Trong thời gian dài của thời kỳ quá độ những cơ sở để nảy sinh và phân hoá giai cấp vẫn còn tồn tại: đó là chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ở các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, là nền sản xuất nhỏ phát triển một cách tự phát có khuynh hướng đi lên CNTB.
- Các tàn dư tư tưởng văn hoá lạc hậu của chế độ cũ vẫn còn tồn tại trong phong tục tập quán của nhân dân lao động, kẻ thù chống phá trên mặt trân tư tưởng một cách tinh vi, xảo quyệt.
- Bọn phản động người Việt lưu vong luôn cấu kết với bọn phản động trong nước phá hoại thành quả cách mạng, chủ nghĩa đế quốc luôn có âm mưu diễn biến hoà bình nhằm xoá bỏ CNXH ở nước ta.
- Những lực lượng cản trở con đường đi lên CNXH ở nước ta đó là những cán bộ, nhân viên nhà nước thoái hoá biến chất, tệ nạn tham nhũng buôn lậu làm giảm lòng tin của nhân dân lao động.
Chính vì thế cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam vẫn tiếp tục diễn ra trong điều kiện mới với nội dung và hình thức mới.
* Đấu tranh g/c trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH diễn ra dưới điều kiện, nội dung và hình thức mới:
- Điều kiện mới:
+ Giai cấp vô sản ở Việt Nam từ địa vị một giai cấp bị trị nay đã nắm chính quyền Nhà nước, làm chủ xã hội, tạo ra so sánh tương quan lực lượng có lợi cho giai cấp vô sản. Khối liên minh công, nông, trí thức đã hình thành trong đấu tranh cách mạng có vai trò quyết định trong sự nghiệp xây dựng CNXH.
+ Tuy nhiên, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn do lịch sử để lại như: Hậu quả chiến tranh, nền sản xuất nhỏ còn phổ biến, cơ cấu kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, quản lý kinh tế trên quy mô toàn xã hội (điều mà giai cấp vô sản Việt Nam chưa có kinh nghiệm).
- Nội dung mới:
Cơ bản và xuyên suốt trong thời kỳ quá độ là giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa hai con đường CNXH và CNTB.
Hiện nay nội dung đó được cụ thể hoá thành 2 nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã cụ thể hoá nội dung này cũng như trình bày các phương hướng cụ thể (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH-Văn kiện Đại hội Đảng XI):
"Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới".
"Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đảng ta khẳng định: "Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen" (Cương lĩnh... Đại hội XI).
Như vậy, quan niệm về nội dung của đấu tranh g/c của Đảng ta có sự đổi mới quan trọng, chỉ ra nội dung rõ ràng, đầy đủ hơn. Đặc biệt, Đảng ta nhấn mạnh đấu tranh g/c chủ yếu là đấu tranh thực hiện sự nghiệp CNH HĐH, khắc phục tình trạng một nước nghèo, kém phát triển. Điều đó cho thấy Đảng ta đã vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo nguyên lý đấu tranh g/c của cnMLN. Đấu tranh g/c xét đến cùng là nhằm giải phóng LLXS, đảm bảo phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân. Nội dung đấu tranh g/c hiện nay không phải cuộc đấu tranh chính trị thuần tuý nhằm lật đổ g/c thống trị như trong giai đoạn c/m giành độc lập, dân chủ, mà đấu tranh g/c trong điều kiện nhân dân lao động làm chủ, xây dựng đất nước thì nội dung kinh tế nổi lên hàng đầu. Mục tiêu giải phóng LLSX, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất là nội dung căn bản.
- Hình thức mới:
Phong phú đa dạng nhưng có thể khái quát thành 3 hình thức cơ bản sau đây:
+ Đấu tranh kinh tế: Xác lập, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN, phát triển lực lượng sản xuất theo hướng CNH- HĐH, xây dựng cơ sở vật chất cho XHCN.
- Đấu tranh chính trị: Bảo vệ vững chắc Nhà nước chuyên chính vô sản, bảo vệ chế độ XHCN, kiên định con đường XHCN, chống đa nguyên, đa đảng.
- Đấu tranh tư tưởng: Bảo vệ chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống các trào lưu cơ hội xét lại, tư tưởng tư sản, làm cho chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ địa vị chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.
Ngoài ra còn vận dụng linh hoạt các biện pháp như: Bạo lực trấn áp và hoà bình, giáo dục và hành chính, sử dụng các chính sách kinh tế.
* ý nghĩa:
- Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam là cơ sở lý luận để mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức tính chất gay go ác liệt, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp, từ đó mài sắc tinh thần cảnh giác cách mạng, không mơ hồ về cuộc đấu tranh giai cấp.
- Là cơ sở để các thành viên lực lượng vũ trang nói chung và quân đội nói riêng xác định nhiệm vụ, vai trò của mình trong cuộc đấu tranh giai cấp giai đoạn hiện nay.
Câu 10
(Có thể tách ra thành 2 vấn đề: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và Nguyên lý phát triển)
1. Đặt vấn đề
Phép BCDV được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó, NL về mối liên hệ phổ biến và NL về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Như Ăngghen đã khảng định phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.
2. Giải quyết vấn đề
a) Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
* Vị trí:
Nguyên lý này là nền tảng đầu tiên của phép biện chứng duy vật, chỉ có trên cơ sở thừa nhận nguyên lý này chúng ta mới hiểu được sự liên hệ ràng buộc, tác động lẫn nhau của các sự vật hiện tượng và sự vận động phát triển của chúng.
Nói cách khác, nguyên lý liên hệ phổ biến được xem như là nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn
* Nội dung nguyên lý:
- Đặt vấn đề, triết học luôn đặt ra hai câu hỏi:
Thứ nhất: Các sự vật hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau?
Thứ 2: Nếu chúng có mối liên hệ qua lại, cái gì quy định mỗi liên hệ đó?
- Một số quan niệm của triết học trước Mác.
+ Trả lời câu hỏi thứ nhất, phép siêu hình cho rằng: các sự vật hiện tượng tồn tại cô lập, cái này bên cạnh cái kia, không có sự liên hệ, ràng buộc lẫn nhau. Nếu có chỉ là những mối liên hệ hời hợt bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên.
Ví dụ: giới vô cơ và giới hữu cơ không có liên hệ gì với nhau, chúng tồn tại độc lập và không xâm nhập lẫn nhau.
Bên cạnh đó, cũng có một số quan điểm siêu hình cho rằng, các sự vật hiện tượng có mối quan hệ đa dạng, phong phú với nhau nhưng lại phủ nhận khả năng chuyển hoá lẫn nhau giữ các hình thức liên hệ khác nhau
+ Trả lời cả hai câu hỏi, phép biện chứng duy tâm chỉ thừa nhận mối liên hệ về tinh thần, tư tưởng phủ nhận các mối liên hệ trong hiện thực; cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (trời, chúa trời) hay ở ý thức, cảm giác của con người.
Béc cơ ni cho rằng, cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Hê Ghen cho rằng "ý niệm tuyệt đối" là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
Như vậy, các quan điểm trên đều sai lầm, thiếu khách quan. Hay nói như Ăngghen họ xem xét SVHT không toàn diện, chỉ thấy cây mà không thấy rừng.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:
Mọi SV-HT tồn tại trên thế giới dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng không tách rời nhau mà luôn có mối liên hệ, ràng buộc, tác động, chuyển hoá lẫn nhau. Mối liên hệ đó là: khách quan, phổ biến, phong phú, đa dạng, rất phức tạp, không ngang bằng nhau.
- Tính chất của mối liên hệ:
+ Các mối liên hệ của sự vật hiện tượng là khách quan, vốn có, thuộc về các SV-HT, tồn tại ngay trong lòng SVHT do sự thống nhất vật chất quy định, không phải do chủ quan của con người, dù con người muốn hay không muốn thì các mối liên hệ đó vẫn tồn tại.
Ví dụ: các vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của các SVHT khác như ánh sáng, nhiệt độ, đô ẩm, áp suất không khí...
+ Mối liên hệ là phổ biến:
Đó là mối liên hệ mang tính phổ biến giữa các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào và ở bất kỳ không gian, thời gian nào cũng có mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác.
Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì các mặt, thuộc tính bên trong nó luôn có mối liên hệ lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau. Một SVHT trong quá trình vận động, phát triển ở mỗi giai đoạn khác nhau nảy sinh các quan hệ khác nhau.
Mối quan hệ mặc dù biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định. Song dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
+ Các mối liên hệ phong phú, đa dạng: sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia mối liên hệ thành nhiều loại:
Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài;
Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu;
Mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất;
Mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên;
Mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối liên hệ riêng bao quát một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực của thế giới v.v....
Chú ý: sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một bộ phận, một mắt xích trong mối liên hệ phổ biến. Mỗi mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa cho nhau.
+ Các mối liên hệ diễn biến phức tạp: trong nhận thức chúng ta có thể phân biệt được một số mối liên hệ, còn trong thực tế các mối liên hệ chằng chịt, đan xen, thâm nhập vào nhau rất khó xác định.
+ Các mối liên hệ không ngang bằng nhau, có mối liên hệ giữ vai trò quyết định, có mối liên hệ giữ vai trò ảnh hưởng.
Ví dụ: mối quan hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự quy định, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của một sự vật => mối liên hệ này giữ vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của sự vật. Trong khi đó, mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, nó không giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, phát triển của SVHT. Mối liên hệ bên ngoài phải thông qua mối liên hệ bên trong mới có thể tác động tới sự tồn tại của SVHT.
- Sự liên hệ tác động qua lại của các sự vật hiện tượng làm cho các sự vật luôn vận động phát triển. Quá trình đó thông qua sự chuyển hoá lẫn nhau sự vật mới ra đời thay thế cho SV-HT cũ.
* ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý mối liên hệ phổ biến- Liên hệ:
ý nghĩa phương pháp luận:
Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn của nguyên lý mối liên hệ phổ biến chúng ta cần chú ý:
- Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.
+ Quan điểm toàn diện: đòi hỏi phải nhận thức về sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ, liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật đó với sự vật khác.
+ Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ: MLH bên trong, mối liên hệ, bản chất, chủ yếu, tất nhiên... và chú ý đến sự chuyển hóa của các MLH để hiểu rõ bản chất của SVHT và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.
+ Quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật, chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. ứng với mỗi con người, mỗi thời đại, trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ nhận thức được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy tri thức đạt được về SVHT cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. Từ đó, chúng ta phải tránh việc tuyệt đối hóa tri thức đã có, tránh xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối không thể bổ sung, không thể phát triển.
+ Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ nó chú ý tới nhiều mặt, nhiều mỗi liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của SVHT vẫn có thể là phiến diện nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những thuộc tính, những tính quy định khác nhau của sự vật được thể hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó.
Như vậy, quan điểm toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau của SVHT; nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của SVHT
+ Trong hoạt động thực tế, khi tác động vào SVHT phải sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
+ Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn cũng đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ giữa chính sách dàn đều và chính sách có trọng điểm.
- Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử, cụ thể
Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú, SVHT khác nhau, không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biêu hiện khác nhau...
Quan điểm lịch sử, cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về SVHT và tác động vào SVHT cần chú ý đến điều kiện hoàn cảnh lịch sử, cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Chân lý sẽ trở thành sai lầm nếu nó bị đẩy ra ngoài giới hạn tồn tại của nó.
Liên hệ:
- Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cũng đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về CNXH là khâu đột phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị, coi đổi mới kinh tế là trọng tâm.
- Khi khẳng định phải tôn trọng quan điểm lịch sử, cụ thể, để xác định đúng đường lối, chủ chương của từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất nước, Đảng ta bao giò cũng phân tích cụ thể tình hình đất nước cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ....
Ví dụ: khi đánh giá về mô hình hợp tác hoá nông nghiệp ở miền Bắc những năm 60-70 của thế kỷ XX phải đặt trong bối cảnh lịch sử lúc đó: miền Bắc phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược; chúng ta thiếu kinh nghiệm trong xây dựng CNXH; chúng ta bị ảnh hưởng bởi quan niệm về mô hình CNXH đã được xác lập ở một số nước XNCH đi trước v.v... Đánh giá như vậy chúng ta sẽ thấy được một số giá trị tích cực của mô hình hợp tác xã trong điều kiện lúc đó.
- ......
a) Nguyên lý về mối liên hệ phát triển
* Vị trí:
Nguyên lý này là một trong những nền tảng quan trọng của phép biện chứng duy vật, cho phép chúng ta hiểu được khuynh hướng chung nhất của sự vận động của sự vật, luôn gắn với nguyên lý liên hệ phổ biến.
* Nội dung nguyên lý:
- Quan niệm của triết học trước Mác.
+ Quan điểm siêu hình cho rằng sự phát triển chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về số lượng, về khối lượng, không thấy được đó là quá trình phát triển đi lên. Họ cho rằng sự phát triển chỉ là quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp.
+ Quan điểm duy tâm cho rằng nguồn gốc của sự phát triển là do thần linh, thượng đế, ở các lực lượng siêu tự nhiên hoặc ở ý thức của con người.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
(Trong khi vận động là một phạm trù triết học để chỉ mọi sự biến đổi nói chung, không phụ thuộc vào khuynh hướng hay kết quả).
+ Phát triển là trường hợp đặc biệt của vận động. Sự phát triển không bao quát toàn bộ vận động nói chung, nó chỉ khái quát xu hướng chung của vận động là xu hướng vận động đi lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ.
+ Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều vận động biến đổi không ngừng, chúng chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác. Sự biến đổi ấy là vô cùng vô tận, có nhiều tính chất và khuynh hướng khác nhau nhưng phát triển đi lên là khuynh hướng chung nhất.
+ Nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn nằm trong bản thân sự vật quy định. Nói cách khác là quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó cũng là quá trình tự thân của mỗi sự vật
- Tính chất của sự phát triển:
+ Sự phát triển luôn mang tính khách quan, như trên đã trình bày, nguồn gốc của sự phát triển luôn luôn nằm trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật, nhờ đó sự vật luôn phát triển (sự đấu tranh của các mặt đối lập bên trong bản thân sự vật). Sự phát triển không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự vật vẫn luôn phát triển theo khuynh hướng chung của thế giới vật chất.
+ Sự phát triển mang tính phổ biến: diễn ra ở mọi lĩnh vực tự nhiên, XH, tư duy; ở bất cứ sự vật hiện tượng nào của thế giới khách quan...
+ Sự phát triển có tính đa dạng, phong phú, phát triển là xu hướng chung của mọi SVHT nhưng mỗi SVHT lại có quá trình phát triển không giống nhau, tồn tại trong không gian khác nhau, thời gian khác nhau. Quá trình phát triển của SVHT còn chịu sự tác động của các SVHT khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện....
* ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý phát triển- Liên hệ:
ý nghĩa phương pháp luận:
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải tôn trọng quan điểm phát triển.
- Khi xem xét SVHT phải luôn đặt chúng ở trong trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển.
- Phải thấy được khuynh hướng phát triển của SVHT trong tương lai, thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất tụt lùi. Tuy nhiên, phải thấy được khuynh hướng phát triển là chính.
- Phải biết phân chia quá trình phát triển của SVHT thành những giai đoạn để tác động vào SVHT cho quá trình phát triển của SVHT diễn ra nhanh hơn.
- Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư.
Câu 12: Quan điểm cơ bản của triết học Mác- Lê Nin về vấn đề con người
Những vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử triết học nhân loại. Đó là những vấn đề: con người là gì? Bản tính, bản chất của con người? Mối quan hệ giữa con người với thế giới? Con người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do v.v... Đây cũng chính là một nội dung quan trọng của nhân sinh quan, một nội dung cấu thành thế giới quan triết học.
1. Bản chất con người
a) Một số quan điểm triết học về con người trước quan điểm duy vật lịch sử
* Quan điểm triết học phương Đông:
- Triết học cổ đại Trung Hoa: vấn đề bản tính con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu.
+ Nho gia và Pháp gia kết luận: bản tính con người là Thiện (nho gia), bản tính con người là Bất Thiện (Pháp gia).
+ Đạo gia kết luận: bản tính con người là bản tính Tự Nhiên
- Triết học Ân Độ: trường phái Đạo Phật cho rằng con người có bản tính Vô Ngã, Vô Thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ. Đây là một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật.
* Quan điểm triết học phương Tây:
- Triết học duy vật : ngày từ thời cổ đại đã đưa ra quan niệm về bản chất tự nhiên của của con người, coi con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất. Quan điểm này tiếp tục được phát triển trong thời kỳ Phục hưng và Cận đại mà tiêu biểu là các nhà duy vật nước Anh và Pháp thế kỷ XVIII. Nó cũng là tiền đề lý luận cho chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Trong một phạm vi nhất định, nó cũng là tiền đề lý luận của quan niệm duy vật về con người trong triết học Mác.
- Triết học duy tâm : lại chú trọng giác ngộ hoạt động lý tính của con người, đã lý giải bản chất lý tính của con người từ giác độ siêu tự nhiên. Với Platon, đó là bản chất bất tử của linh hồn thuộc thế giới ý niệm tuyệt đối, với Đêcáctơ, đó là bản tính phi kinh nghiệm của lý tính, đối với Hêghen đó chính là bản chất lý tính tuyệt đối....
b) Những quan niệm cơ bản của triết học Mác- Lê Nin về con người
* Khái niệm: Con người là một loại động vật có tính XH, vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của XH, sáng tạo ra toàn bộ nền văn hoá vật chất và tinh thần trên trái đất.
* Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội (nguồn gốc của con người):
- Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài của nó.. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói, giới tự nhiên là 'Thân thể vô cơ của con người'; con người là một bộ phận của tự nhiên, là kết quả của quá trình phát triển và tiến hóa lâu dài của môi trường tự nhiên.
- Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất của con người. Đặc trưng quy định bản chất của con người khác với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó.
+ Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. 'Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình- đó là một bước tiến do tổ chức con người quy định'
+ Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên.
+ Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất ; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ, tư duy ; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
- Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi 3 hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau :
+ Hệ thống các quy luật tự nhiên như: quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa v.v...quy định phương diện sinh học của con người.
+ Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức (hình thành và vận động phát triển trên nền tảng sinh học của con người): tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí.
+ Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu tái sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu của tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được 'nhân hóa' để mang giá trị văn minh của con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của mặt sinh học.
b) Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các những quan hệ xã hội.
Con người vượt lên trên thế giới loài vật ở cả 3 phương diện khác nhau : quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với chính bản thân con người.
Cả ba mối quan hệ trên, suy đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Chính vì vậy, Mác đã nêu lên một luận đề nổi tiếng : 'Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội'.
Từ luận đề trên cho thấy :
+ Không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần để tồn tại và phát triển. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế ; quan hệ cá nhân, gia đình xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
+ Luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống xã hội con người. Song ở con người, mặt tự nhiên tồn tại thống nhất với mặt xã hội. Ngay cả việc thực hiện nhu cầu sinh vật ở con người cũng mang tính xã hội.
2. Vấn đề xây dựng con người Việt Nam hiện nay
Vận dụng sáng tạo cnMLN vào lãnh đạo c/m nước ta, Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc về con người và nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VNXHCN.
Những định hướng về phẩm chất, những chuẩn giá trị mới cho việc xây dựng con người VN được đề cập trong tất cả các Văn kiện của Đảng, được pá rõ nét trong việc Đảng ta luôn đẩy mạnh và đổi mới công tác giáo dục đào tạo. Đây là điều kiện để hình thành và phát triển các thế hệ con người VN khoẻ mạnh về thể chất, có nhân cách tốt đẹp, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao để phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp xây dựng CNXH, Đảng ta khẳng định con người là vốn quý nhất và muốn xây dựng thành công CNXH thì phải có con người XHCN..
Trước đổi mới, trong hoàn cảnh đất nước vừa giải phóng, chúng ta bước vào xây dựng CNXH trong bối cảnh nền kinh tế đất nước bị tàn phá, trong XH tồn tại nhiều hủ tục, tệ nạn XH cần phải khắc phục, cải tạo nhân phẩm cho 1 bộ phận người sống dưới chế độ cũ...Vấn đề xây dựng con người mới ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm. Chúng ta đã xây lên những thế hệ con người VN có lý tưởng c/m vững vàng, đạo đức c/m trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, trí, công vô tư; có ý thức rõ ràng về độc lập dân tộc và CNXH... Những chuẩn giá trị mới này là động lực thúc đẩy con người VN chiến đấu, lao động, học tập tự giác, sáng tạo đem lại những thành tựu đáng tự hào trong công cuộc xây dựng CNXH ở VN.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta còn mắc những sai lầm lớn như chủ quan duy ý chí; quản lý Nhà nước theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp-đây là môi trường tạo ra tính đặc quyền, đặc lợi của những người quản lý, làm giảm tính chủ động sáng tạo của người lao động...; chế độ KT một thành phần KT XHCN với hình thức sở hữu toàn dân và tập thể đã tạo ra tình trạng cha chung không ai khóc, quá đề cao lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân hầu như không được quan tâm nên không tạo ra động lực hoạt động của mỗi người.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện, vấn đề con người luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Bởi chúng ta hiểu rằng: đổi mới là gì nếu như không phải bắt đầu từ việc đổi mới con người, sẽ không có sự đổi mới XH nào nếu không có sự đổi mới bắt đầu từ con người. Đổi mới bắt đầu từ con người không phải được xây dựng một cách chung chung, trừu tượng mà hướng vào từng con người, phát triển nhân cách phong phú. Đây là nền tảng sâu xa để XH phát triển.
Chính vì những lẽ đó, Văn kiện đại hội XI khẳng định : Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. .... chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hoá, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính.
Văn kiện đại hội XI cũng chỉ ra các biện pháp cụ thể xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa:
+ Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân.
+ Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người.
+ Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách.
+ Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hoá Việt Nam.
Câu 13. Trình bày nội dung quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại? Ý nghĩa phương pháp luận?
* Khái niệm
- Khái niệm chất
Chất là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính, những đặc trưng... để phân biệt sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác.
+ Chất tồn tại khách quan bên trong sự vật hiện tượng
+ Chất biểu hiện tính thống nhất, tính nhiều vẻ của sự vật hiện tượng
+ Chất biểu hiện sự đứng im tương đối của sự vật
+ Các sự vật khác nhau thì căn bản chất của chúng cũng khác nhau
Đọc thêm:
+ Mỗi SVHT trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ đó mới khác với các SVHT khác.
Thuộc tính của SV là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật...., đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó.
+ Những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ thông qua sự tác động qua lại với các sự vật hiện tượng khác.
Ví dụ: muốn biết được nhiệt độ cao hay thấp của không khí thông qua sự tác động qua lại của nó với các cơ quan xúc giác của chúng ta. Như vậy, muốn nhận thức đúng đắn về những thuộc tính của sự vật, chúng ta phải thông qua sự tác động qua lại của sự vật đó với bản thân chúng ta hoặc thông qua quan hệ, mối liên hệ qua lại của nó với các sự vật khác.
+ Mỗi sự vật hiện tượng có rất nhiều thuộc tính; mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của sự vật, do vậy mỗi sự vật có rất nhiều chất.
Chất của sự vật biểu hiện qua thuộc tính của nó, nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật. Chính chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi. Tuy nhiên cần chú ý sự phân chia thuộc tính thành cơ bản hay không có bản chỉ mang tính tương đối vì thuộc tính của sự vật chỉ đượ bộc lộ khi có mối liên hệ cụ thể với các sự vật khác.
+ Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật.
Trong hiện thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, xong chất của chúng lại khác nhau.
Ví dụ: Kim cương, than chì đều có cùng thành phần hóa học do các nguyên tố tạo Cac bon tạo nên, nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tử Các bon là khác nhau vì thế chất của chúng hoàn toàn khác nhau. Kim Cương thì cứng mà Cac bon thì rất mềm.
Từ đó cho thấy, sự thay đổi về chất của sự vật phụ thuộc cả vào sự thay đổi các yếu tố cấu thành sự vật lẫn sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố ấy.
- Khái niệm lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
+ Lượng bao gồm cả lượng vật chất và lượng vận động, lượng tồn tại khách quan như chất.
+ Sự vật đơn giản thì các thông số về lượng đơn giản và ngược lại, sự vật phức tạp thì thông số về lượng của nó cũng phức tạp.
+ Chất và lượng phải đặt trong mối quan hệ hoàn toàn xác định. Một thuộc tính nào đó của sự vật hiện tượng có thể đặt trong mối quan hệ này là chất nhưng trong mối quan hệ khác có thể là lượng.
Đọc thêm
+ Lượng là cái vốn có của sự vật, song lượng chưa làm cho sự vật là nó, chưa làm cho nó khác với những cái khác. Lượng tồn tại cùng với chất của sự vật và cũng tồn tại khách quan như sự vật.
+ Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp độ nhanh hay chậm...
+ Trên thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể; bên cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị trừu tượng và khái quát như trình độ tri thức khoa học của một con người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân...
+ Có những lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật (VD: Số lượng nguyên tử hợp thành phân tử hóa học); có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (VD: chiều dài, rộng, cao của sự vật).
+ Sự phân biệt chất và lượng chỉ mang tính tương đối. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại (VD: Số lượng học viên giỏi của một lớp phản ánh chất lượng học tập của lớp đó).
* Nội dung quy luật
Từ những thay đổi dần dần về lượng đến một mức độ nhất định dẫn đến sự biến đổi về chất, chất mới ra đời tạo ra điều kiện cho lượng mới phát triển.
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và lượng. Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn tại nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và phát triển của sự vật. Những thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay đổi về chất của nó và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với thay đổi về lượng của nó.
- Sự chuyển hoá từ những thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất
Lượng biến đổi dần dần, nhỏ nhặt, khó thấy. Sự biến đổi đó có thể tăng hoặc giảm về kích thước, quy mô, trình độ, trạng thái.
Sự thay đổi về lượng có thể chưa làm thay đổi ngay về chất của sự vật. ở một giới hạn nhất định, lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Khi lượng của sự vật được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Khoảng giới hạn đó được gọi là độ.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Như vậy, khi lượng biến đổi vượt quá giới hạn độ đến điểm nút làm cho chất biến đổi, chất cũ (sự vật hiện tượng, trình độ cũ, trạng thái cũ)... mất đi chất mới ra đời (sự vật hiện tượng mới, trình độ, trạng thái mới). Sự biến đổi về chất là bước nhảy vọt trong quá trình biến đổi.
Ví dụ: Nước đá (trạng thái rắn) ta tăng nhiệt độ (tích luỹ lượng) đến trạng thái tan chảy (0oC) nước thay đổi trạng thái từ rắn sang lỏng, được coi là sự biến đổi về chất.
Giới hạn mà đến đó xảy ra bước nhảy vọt gọi là điểm nút. Trong tự nhiên thường gặp đó là các hằng số vật lý (điểm nóng chảy, điểm sôi, khối lượng tới hạn...). Trong xã hội dễ nhận thấy đó là cách mạng xã hội, sự chuyển hoá mang tính nhảy vọt làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt xã hội.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên tục của sự vật. Có thể nói, trong quá trình phát triển của sự vật, gián đoạn là tiền đề cho sự liên tục, liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt gián đoạn.
Tóm lại: Sự phát triển của bất cứ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích lũy về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất.
- Chất mới ra đời tạo điều kiện cho lượng mới phát triển
+ Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động ấy thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
Khi chất mới ra đời, sự vật hiện tượng có những biến đổi về căn bản, có thể trở thành sự vật hiện tượng mới, có thể lên một trình độ mới.... Sự xuất hiện của chất mới đồng thời có sự xuất hiện của lượng mới; lượng mới có sự phát triển cao hơn lượng cũ.
VD: Nước ở trạng thái lỏng chuyển xang trạng thái hơi thì vận tốc của các phân tử nước cao hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi cao hơn khi ở trạng thái lỏng với cùng một khối lượng...
Học viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp (thực hiện bước nhảy), học viên sẽ nhận bằng cử nhân, được phong hàm sĩ quan, sĩ quan có trình độ văn hóa cao hơn học viên và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy mô và trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
- Đọc thêm: các hình thức cơ bản của bước nhảy
Lượng mới theo quy luật khách quan vốn có của sự vật hiện tượng lại tiếp tục phát triển nhưng sự phát triển này không đơn thuần lặp lại như cũ nữa mà có sự phát triển mới về quy mô, trình độ, trạng thái... Chính sự phát triển mới của lượng là do chất mới quy định, chất và lượng luôn tồn tại trong một thể thống nhất, quy định lẫn nhau trong mỗi sự vật hiện tượng.
Cũng trong quá trình đó, lượng mới tiếp tục phát triển, đến một giới hạn nhất định lại làm cho chất mới thay đổi thông qua bước nhảy vọt mới. Cứ như thế,, sự vật hiện tượng vận động biến đổi không ngừng.
+ Dựa vào nhịp điệu bước nhảy có thể chia bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần. Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật (VD: Khối lượng Uranium 235 được tăng đến khối lượng tới hạn sẽ tạo ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát). Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện một cách từ từ, từng bước bằng cách tích lũy dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần mất đi (VD: quá trình chuyển hóa từ vượn thành người được diễn ra rất lâu dài, hàng vạn năm).
+ Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Thực tế, muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ.
VD: Sự quá độ đi lên CNXH của nước ta đang thực hiện các bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội v.v... để đi đến bước nhảy toàn bộ là xây dựng thành công CNXH ở nước ta.
* ý nghĩa
- Quy luật này là cơ sở lý luận để xây dựng tinh thần triệt để cách mạng, kiên trì tích luỹ về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng bước tích lũy về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật.
Trong hoạt động thực tiễn ông cha ta đã từng nói, tích tiểu thành đại, năng nhặt, chặt bị, góp gió thành bão.... Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường của con người đó.
Phương pháp này giúp chúng ta tránh được bệnh chủ quan, duy ý trí, nôn nóng, đốt cháy giai đoạn, chỉ muốn thực hiện những bước nhảy liên tục...
- Là cơ sở lý luận để xây dựng tinh thần cách mạng tiến công, xây dựng lực lượng, nằm và tạo thời cơ, khi có điều kiện sẽ thực hiện bước nhảy vọt chiến lược.
Do đó, khi đã tích lũy đủ về lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy vọt, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hóa xang những thay đổi mang tính cách mạng.
Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển của SV chỉ đơn thuần là sự thay đổi về lượng.
- Trong hoạt động thực tiễn của con người phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy. Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan và những nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể
Vấn đề 16: Tồn tại xã hội và ý thức xã hội
1. Khái niệm tồn tại xã hội- ý thức xã hội
a) Tồn tại xã hội:
Là toàn bộ các điều kiện sinh hoạt vật chất và các quan hệ vật chất của con người trong một giai đoạn lịch sử xã hội nhất định.
Các yếu tố chính tạo ra tồn tại xã hội bao gồm:
- Phương thức sản xuất
- Điều kiện dân số
- Hoàn cảnh địa lý
Ba yếu tố trên có vai trò không ngang bằng nhau đối với sự hình thành, vận động và phát triển của tồn tại xã hội trong đó phương thức sản xuất giữ vai trò chủ yếu, quan hệ sản xuất (một trong hai yếu tố cấu thành phương thức sản xuất) giữ vai trò quyết định trực tiếp.
b) Khái niệm của ý thức xã hội
* Khái niệm:
ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm hệ thống quan điểm lý luận và những tâm trạng, tập quán, tình cảm của con người, phản ánh ý thức xã hội trong những giai đoạn khác nhau của lịch sử.
* Về nguồn gốc của ý thức xã hội:
Do tồn tại xã hội sinh ra, chịu quy định của tồn tại xã hội.
Cơ sở lý luận của luận điểm: Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong đó ý thức do vật chất sinh ra, chịu sự quyết định của vật chất, tồn tại xã hội là các điều kiện vật chất, không có nó không thể có ý thức xã hội "chung chung trừu tượng" tách rời các điều kiện vật chất của tồn tại xã hội.
* Về bản chất của ý thức xã hội:
ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội vào bộ óc của con người. Tuy nhiên sự phản ánh đó không phải là máy móc, giản đơn thụ động mà là quá trình phản ánh tích cực, chủ động sáng tạo, gắn với hoạt động thực tiễn của con người.
* Kết cấu của ý thức xã hội:
Có thể xem xét vấn đề đó dưới góc độ khác nhau:
- Từ góc độ chủ thể nhận thức, ý thức xã hội tồn tại dưới các hình thức:
+ ý thức cá nhân;+ ý thức tập thể;+ ý thức giai cấp;+ ý thức dân tộc;+ ý thức nhân loại.
Các ý thức trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, là tiêu đề và là điều kiện của nhau, thúc đấy nhau trong sự vận động, phát triển.
- Xét về trình độ phản ánh, có thể chia theo hai cấp độ:
+ Bậc thấp (ý thức thông thường – Tâm lý xã hội);
+ Bậc cao (lý luận – hệ tư tưởng).
Hai trình độ trên cũng có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó ý thức xã hội bậc cao chi phối ý thức xã hội bậc thấp.
- Xét theo lĩnh vực phạm vi phản ánh theo ý thức xã hội, người ta chia ý thức xã hội thành các ý thức xã hội sau:
+ ý thức chính trị + ý thức pháp quyền + ý thức đạo đức+ ý thức tôn giáo
+ ý thức thẩm mỹ + Triết học+ Khoa học
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
YTXH là một phạm trù rất cơ bản của CNDVLS. Bản thân nó là sản phẩm của tồn tại XH luôn phản ánh TTXH trong những giai đoạn lịch sử cụ thể nhưng sau khi hình thành nó lại có tính độc lập tương đối, tác động trở lại tồn taị XH.
Tính độc lập tương đối của YTXH được thể hiện ở các nội dung cụ thể sau đây:
* Tính lạc hậu của YTXH:
Nói YTXH lạc hậu hơn tồn tại XH ta phải hiểu là nói đến sự biến đổi của YTXH thường chậm hơn so với sự biến đổi của tồn tại XH. Khi tồn tại XH đã có những phần, những bộ phận biến đổi thì YTXH thường phản ánh không kịp, biến đổi chậm hơn, cụ thể là thường tồn tại sau một thời gian nào đó.
Lý do: ý thức đó đã có một thời gian dài ăn sâu bám rễ vào cộng đồng người, trở thành tập quán, thói quan của hàng triệu con người. Muốn thay đổi cần phải có một thời gian nào đó.
Sự lạc hậu của YTXH một phần nào đó còn do g/c thống trị có tính duy trì YTXH bảo thủ, phản động, phản ánh lợi ích của chúng, duy trì lợi ích của chúng.
* Tính tiền tiến (tính vượt trội) của YTXH:
Bên cạnh phần lớn YTXH lạc hậu còn có một bộ phận nhỏ YTXH phản ánh đúng đắn tồn tại XH, phát hiện ra bản chất, quy luật vận động của tồn tại XH, hình thức các dự báo khoa học. Những dự báo đó có khả năng vượt trước, dẫn đường, hướng cho tồn tại XH phát triển đúng quy luật, từ đó có tác động thúc đẩy tồn tại XH phát triển.
Sự vượt trội dẫn đường của YTXH tiên tiến phụ thuộc rất lớn vào năng lực của chủ thể nhận thức. Cụ thể với các cá nhân thiên tài thì tư tưởng do họ đề ra có khả năng vạch thời đại, mở ra bước ngoặt lớn trong sự phát triển.
VD: Đầu thế kỷ 20, Anbu Anhxtanh dự báo một lượng vật chất dù rất nhỏ cũng chứa đựng tiềm năng nặng lượng lớn theo công thức:
E = m . V2 (m là khối lượng, V là vận tốc của ánh sáng)
Năm 1945 dự báo đó trở thành hiện thực. Ngày nay con người đã sử dụng rộng rãi năng lượng hạt nhân trong đời sống.
Giữa thế kỷ 19 "chủ nghĩa cộng sản" do Mác-Ăngghen khởi xướng bị giai cấp tư sản coi là bóng ma ám ảnh châu Âu. Năm 1917 cách mạng vô sản Nga thành công, mở ra thời đại mới. Đến nay CNXH giai đoạn đầu của CNCS đã trở thành hiện thực với hơn một tỷ người đang sống ở những nước có chế độ XHCN.
* Tính kế thừa:
Là một trong những biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối. Đó là "quy luật vận động nội tại" của YTXH.
Sự thể hiện: các thế hệ đi trước là người đặt nền móng, các thế hệ sau kế thừa tư tưởng đó và phát triển lên trình độ mới. Cứ như thế hệ thống tri thức của nhân loại ngày càng phong phú và phát triển không ngừng.
VD: Thuyết "Nguyên tử" do Lơxip đặt nền móng, trên cơ sở đó Đêmôcrit phát triển trong thời cổ đại. Ngày nay chúng ta đã biết thêm thuyết cấu tạo nguyên tử của Nuixơ Bo, Zuzơ Pho và thuyết nguyên tử hiện đại.
* Sự tác động lẫn nhau của các hình thái YTXH:
Do có liên hệ với nhau nên các hình thái YTXH luôn tác động qua lại lẫn nhau trong đó ý thức chính trị, pháp quyền tác động chi phối mạnh mẽ các hình thái YTXH khác. Các hình thái YTXH khác đều tác động lẫn nhau và tác động trở lại ý thức chính trị pháp quyền nhưng tác động đó yếu hơn và gián tiếp hơn ý thức chính trị, pháp quyền.
* YTXH có tác động trở lại tồn tại XH:
Cơ sở lý luận của vấn đề này từ sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất. Sự tác động trở lại của YTXH đối với tồn tại XH theo hai khuynh hướng.
YTXH tiên tiến, CM và khoa học có tác động thúc đẩy tồn tại XH phát triển. Sự thúc đẩy đó thông qua hoạt động thực tiễn, hoạt động cải tạo thế giới của con người.
YTXH lạc hậu phản động sẽ có tác động kìm hãm sự phát triển của tồn tại XH. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ ở trong một giới hạn nhất định. Quá trình phát triển đi lên của tiến bộ XH những tư tưởng đó sớm muộn sẽ bị loại bỏ.
* ý nghĩa:
- Tính độc lập tương đối của YTXH là cơ sở lý luận để chúng ta hiểu được vai trò và ý nghĩa của cuộc CM văn hoá tư tưởng do Đảng ta đề ra, đặc biệt là quan điểm: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc do NQTW5 khoá 8 xác định.
- Là cơ sở lý luận để tiến hành công tác giáo dục tư tưởng ở đơn vị cơ sở.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội luôn tác động trở lại đối với tồn tại xã hội.
Cơ sở lý luận của mối quan hệ này xuất phát từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; quan hệ tồn tại xã hội – ý thức xã hội được rút ra như một hệ quả của mối quan hệ vật chất – ý thức.
a) Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
- Tồn tại xã hội quyết định nguồn gốc, bản chất của ý thức xã hội:
ý thức xã hội do tồn tại xã hội sinh ra, là sự phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử cụ thể, ý thức xã hội không phải do chủ quan của con người hoặc do lực lượng thần bí nào sinh ra. Các yếu tố của tồn tại xã hội luôn được phản ánh vào ý thức của con người, để lại dấu ấn lâu dài qua các thế hệ, tồn tại trong tư tưởng, tình cảm của các cộng đồng con người.
Mác viết: Không phải ý thức của con người quyết định đời sống của họ, ngược lại chính tồn tại xã hội quyết định ý thức của họ.
- Tồn tại xã hội quyết định nội dung của ý thức xã hội:
Điều đó có ý nghĩa là nội dung của tồn tại xã hội như thế nào thì căn bản nó được phản ánh vào ý thức xã hội như thế đó.
Ví dụ: Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, mọi thành viên của thị tộc làm chung, ăn chung, chưa có chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất nên tư tưởng tư hữu chưa xuất hiện.
Đến xã hội chiếm hữu nô lệ, chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện, tư tưởng tư hữu ra đời. Chính tư tưởng tư hữu là sự phản ánh chế độ tư hữu trong xã hội chiếm hữu nô lệ.
- Tồn tại xã hội quyết định sự vận động và phát triển của ý thức xã hội:
ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội nhưng tồn tại xã hội không tĩnh tại mà luôn vận động, biến đổi. Quá trình vận động, phát triển của tồn tại xã hội sẽ làm cho ý thức xã hội vận động biến đổi theo. Đó là kết quả tất yếu nhưng không phải lúc nào ý thức xã hội cũng thay đổi ngay mà thường tồn tại trong một thời gian nhất định, điều đó thể hiện tính lạc hậu của ý thức XH.
b) ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội
ý thức xã hội sau khi ra đời có tính độc lập tương đối, tác động trở lại tồn tại xã hội theo hai khuynh hướng (được rút ra do tính chất độc lập tương đối của ý thức xã hội):
- ý thức tiên tiến cách mạng và khoa học thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển
Lý do: ý thức này trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan sẽ phát hiện ra bản chất, quy luật vận động của sự vật hiện tượng, khi vận dụng chỉ đạo thực tiễn nó hướng cho tồn tại xã hội phát triển theo quy luật. Từ đó thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển.
Ví dụ: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đang thúc đẩy sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Các tri thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn có tác động to lớn đến toàn bộ xã hội ngày nay.
- ý thức xã hội lạc hậu, phản khoa học kìm hãm sự phát triển của tồn tại XH
Do phản ánh sai lầm, xuyên tạc hiện thực khách quan nên không tìm ra bản chất, quy luật vận động của sự vật, không có giá trị chỉ đạo thực tiễn. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ ở trong một giới hạn nhất định, không phải là vĩnh viễn. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội còn phụ thuộc vào các điều kiện sau:
+ Vai trò lịch sử (tiến bộ hay phản động) của giai cấp đề ra tư tưởng đó.
+ Trình độ phù hợp của tư tưởng đối với hiện thực.
+ Mức độ truyền bá tư tưởng đó trong quần chúng.
* ý nghĩa:
- Muốn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải đồng thời tiến hành ở cả hai lĩnh vực: Tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó xây dựng tồn tại xã hội giữ vai trò quyết định, ý thức xã hội Slà quan trọng, không được xem nhẹ.
- Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là cơ sở lý luận để hiểu được đường lối xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ đó xây dựng niềm tin vào thắng lợi của đường lối do Đảng khởi xướng.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com