Năng lượng hành tinh
Với một tầm nhìn xa rộng, FFFR đã nhận ra rằng năng lượng hóa thạch không thể là động lực vĩnh viễn cho sự phát triển. Để đảm bảo một tương lai bền vững, họ đã đầu tư mạnh mẽ vào năng lượng tái tạo và công nghệ hạt nhân tiên tiến, tạo ra một nền tảng vững chắc cho nền kinh tế mới. Năng lượng Mặt Trời và Mặt Trăng được khai thác sớm nhất bằng pin Sumon. Trên các sa mạc lớn phủ pin Sumon perovskite và xây dựng các trạm năng lượng mặt trời trên quỹ đạo. Năng lượng từ các trạm quỹ đạo liên tục truyền năng lượng về thông qua sóng vi ba hoặc laser. Tiếp theo là năng lượng gió với hàng triệu tuabin gió khổng lồ được lắp ở trên các dãy núi, bờ biển và biển. Thiết kế Unéole sử dụng turbine gió trục đứng và các tấm pin Sumon perovskite nhẹ bổ sung kỹ thuật biến dạng tinh thể và bổ sung ion chloride, được tối ưu hóa bằng thuật toán để đáp ứng nhu cầu năng lượng cụ thể được lắp trên khắp các dải phân cách chia hai làn đường (cùng chiều và ngược chiều) trong thành phố để lấy gió từ các phương tiện giao thông biến thành điện và nhận năng lượng từ hai thiên thể trên bầu trời. Chúng có thể khả năng tự động di chuyển hướng về phía ánh sáng giống như đặc tính của hoa hướng dương không cần sự can thiệp của con người hoặc các cấu trúc bổ sung. Thiết kế 12 cánh hoa có khả năng cụp – xòe và xoay trục để luôn ở góc tối ưu. Các tấm pin tự động gập lại khi gặp thời tiết xấu. Nó còn có tính năng làm mát đối lưu, cho phép nó hoạt động hiệu quả và đảm bảo độ tin cậy ở nhiều nhiệt độ khác nhau. Trên các phương tiện điện, khu vực chờ xe buýt, ghế công viên, mái nhà và đỉnh nhà cao tầng phủ pin Sumon. Trong các công viên hay vỉa hè đan xen giữa cây xanh là cây điện gió. Khác với những tuabin cồng kềnh, những cái "cây" này được chế tạo từ những vật liệu siêu nhẹ và bền vững. Thân và cành bằng c-BC2N, một loại vật liệu tên là kim cương dị loại (heterodiamond) cứng hơn cả thép. Chiều cao cây 10m, chiều rộng 7.5m có 63 chiếc lá được gọi là Aeroleaf.
Cây điện gió sử dụng tuabin trục đứng Savonius có dạng hình elip, với hai trục trái ngược nhau để tạo ra các miếng giống hình xoắn cong giống hình chữ S có khả năng bắt gió và quay quanh trục tạo ra mô-men xoắn. Từng Aeroleaf được làm từ Aerographite, vật liệu siêu nhẹ và xốp nhưng lại có độ bền đáng kinh ngạc, cho phép chúng xoay đón gió nhẹ nhàng mà không tạo ra tiếng động. Kích thước Aeroleaf theo bề rộng được xác định là 376mm. Mỗi Aeroleaf có một tỷ lệ tối ưu hóa giữa tốc độ quay, vận tốc gió và bên trong máy phát điện của Aeroleaf phát có 16 nam châm trên một roto. Các nam châm di chuyển cùng với sự quay của lá với cuộn dây trên một PCB tạo ra một điện áp ba pha tỷ lệ thuận với tốc độ quay của tuabin và từ trường trong khoảng cách khe hở. Nguồn điện tạo ra từ Aeroleaf sẽ được lưu trữ trong các hệ thống pin sinh học nằm sâu dưới rễ. Khi màn đêm buông xuống, Aeroleaf sẽ phát ra ánh sáng bằng đèn QDEL. Trên các vỉa hè lắp đặt mặt đường động học tương tự như gạch áp điện nhưng được thiết kế để tạo ra nhiều năng lượng hơn. Mặt đường động học thường được làm bằng vật liệu composite có chứa sợi áp điện. Các sợi này được nhúng vào mặt đường và tạo ra điện khi chúng bị uốn cong bởi trọng lượng của người hoặc phương tiện đi qua. Cầu thang tạo năng lượng tạo ra điện nhờ động năng do hành khách đi lên và xuống. Năng lượng này sau đó được lưu trữ trong pin và được sử dụng để cung cấp điện. Bên cạnh đó, năng lượng hạt nhân không còn bị giới hạn trong các lò phản ứng nguy hiểm mà đã được cải tiến thành các nhà máy năng lượng nhỏ gọn, an toàn, có thể cung cấp điện năng bền vững mà không gây ô nhiễm môi trường. Trong khi năng lượng Mặt Trời, Mặt Trăng và gió được xem là trụ cột của năng lượng tái tạo, thì địa nhiệt lại là một nguồn năng lượng bền vững và liên tục có thể khai thác ở mọi thời điểm. FFFR sở hữu địa hình đa dạng, đã triển khai một hệ thống nhà máy địa nhiệt quy mô lớn, đặc biệt tại các khu vực có hoạt động núi lửa hoặc vết nứt kiến tạo.
Nhà nước này cũng tiến tới việc khai thác năng lượng bền vững của biển và sông. Nhờ sở hữu đường bờ biển dài, sông lớn và nền công nghệ tiên tiến, FFFR đã tận dụng năng lượng sóng như một phần trong chiến lược độc lập năng lượng. Năng lượng sóng khai thác sự chuyển động bề mặt thì năng lượng dòng hải lưu khai thác các dòng chảy ngầm của đại dương một nguồn năng lượng cực kỳ ổn định. Phát triển thủy điện toàn diện với thủy điện truyền thống, thủy điện biển, chênh lệch nhiệt độ biển (OTEC), thủy điện nhân tạo, deuterium từ nước biển, nhiệt thủy nhiệt (tại các khe nứt đại dương), gió xoáy đại dương (xoáy nước khổng lồ xuất hiện ở các đại dương), sóng hạ âm đại dương (thường được tạo ra bởi các trận động đất hoặc hoạt động của núi lửa dưới đáy biển), chênh lệch áp suất do thủy triều lên xuống, áp suất biển sâu, sinh khối biển (tảo), sự bay hơi của nước biển, kết tinh của muối (kết hợp với các nhà máy điện mặt trời hoặc các nhà máy sử dụng năng lượng mặt trời để tạo ra hơi nước và sau đó thu năng lượng từ quá trình kết tinh), dòng chảy sâu và dòng chảy ven bờ để quay tua-bin dưới nước tạo ra điện. Khai thác Helium-3, Boron-11, Liti-6, Liti-7, Berili-9, Samarium và Neodymium từ nước biển. Trong khi năng lượng truyền thống có thể gây tác động tiêu cực đến nông nghiệp và môi trường, thì năng lượng sinh khối sử dụng chất thải đô thị, công nghiệp và nông nghiệp tạo ra nguồn năng lượng tái tạo ổn định. Công nghệ Sports Energy Generation (SEG) tích hợp hệ thống Smart Exercise Energy Harvesting Equipment (SEHE) vào tất cả dụng cụ thể thao và khu vực tập luyện.
Các máy chạy bộ, xe đạp tập, máy tập tạ, xà đơn, xà kép được trang bị bộ phát điện từ động cơ servo chuyển đổi trực tiếp chuyển động cơ bắp thành điện năng. Sàn tập thể dục áp điện (PGF) ử dụng công nghệ tương tự mặt đường IMEH với các tấm metamaterials áp điện nhỏ gọn thu năng lượng từ mỗi bước chân, nhảy múa, và động tác aerobic. Thiết bị tập ngoài trời như thanh xà, cầu trượt, xích đu được nâng cấp với hệ thống cảm biến chuyển động và máy phát điện li tâm. Các sân tập nhỏ, thao trường, sân tập đoàn thể sử dụng mặt đường động học thu năng lượng (KREC) phiên bản thu nhỏ, thu gom năng lượng từ đội hình chạy bộ tập thể và các hoạt động huấn luyện. Bể bơi năng lượng (ESP) trang bị tua-bin nước siêu nhỏ trong hệ thống lọc nước, biến chuyển động bơi lội thành điện năng. Toàn bộ hệ thống được kết nối qua mạng IoT thể thao (STN), tự động theo dõi và tối ưu hóa việc thu năng lượng từ mọi hoạt động thể chất, biến mỗi lần tập luyện thành nguồn điện sạch đóng góp vào lưới điện thông minh. Một trong những công nghệ tiên tiến nhất mà FFFR đã nghiên cứu là pin graphene, thể rắn, nước, natri-ion, dựa trên phản ứng tổng hợp lạnh, ống nano (những cấu trúc ống siêu nhỏ có diện tích bề mặt lớn được làm bằng tungsten trioxide (WO3) hoặc các vật liệu nano khác), tự sạc (bằng cách thu thập năng lượng từ môi trường xung quanh) và thủy tinh. FFFR không chỉ là một trong những quốc gia đầu tiên đạt được nền năng lượng sạch toàn diện, mà còn xuất khẩu điện ra toàn thế giới, đưa nhân loại bước vào một thời đại hoàn toàn mới. Nước thải từ hệ thống điều hòa tại các trung tâm thương mại không bị bỏ phí. Chúng được thu gom, lọc và đưa vào hệ thống tưới cho cây xanh, bổ sung nước làm mát, vệ sinh sàn với điều kiện hệ thống thu gom sạch, không dùng cho cây ăn trái và cần bổ sung dinh dưỡng cho cây vì loại nước này hầu như không chứa khoáng chất.
Cũng trong thời đại này, máy tính, đèn chiếu sáng, hệ thống truyền thông và các thiết bị điện tử đã trở thành xương sống của xã hội hiện đại. FFFR đã đạt được những bước tiến vượt bậc trong việc số hóa mọi lĩnh vực, đưa công nghệ vào từng ngóc ngách của đời sống. Máy tính cá nhân xuất hiện trong mỗi gia đình, giúp con người tiếp cận với nguồn tri thức khổng lồ. Hệ thống truyền hình và mạng lưới thông tin số giúp tin tức, giáo dục, văn hóa và giải trí lan tỏa đến mọi vùng của đất nước, kết nối hàng triệu con người chỉ trong nháy mắt. Trí tuệ nhân tạo và robot tự động hóa bắt đầu thay thế con người trong những công việc lặp đi lặp lại, tạo ra một xã hội nơi lao động trí tuệ được coi trọng hơn lao động chân tay. Cuộc sống của người dân FFFR chưa bao giờ tiện nghi và kết nối như thế này. Họ có thể giao tiếp, làm việc, mua sắm và giải trí chỉ bằng một cú chạm trên những thiết bị kỹ thuật số tiên tiến. Đồng thời, sự bùng nổ của ngành công nghiệp giải trí đã tạo ra một nền văn hóa đa dạng và sâu sắc, nơi mà điện ảnh, âm nhạc, và nghệ thuật số trở thành những ngành công nghiệp mũi nhọn, đưa FFFR trở thành trung tâm văn hóa của thế giới. Những cuộc cải cách y tế đã diễn ra trên toàn quốc, biến hệ thống chăm sóc sức khỏe thành một mô hình mà cả thế giới phải học hỏi. Bệnh viện thông minh có thể tự động phát hiện bệnh và đưa ra phác đồ điều trị nhanh chóng. Công nghệ sinh học tiên tiến cho phép sửa chữa gen, tái tạo tế bào, giúp con người chống lại các căn bệnh hiểm nghèo. Y tế miễn phí cho toàn dân, đảm bảo rằng không một ai bị bỏ lại phía sau, bất kể địa vị xã hội hay tài sản. Các công nghệ y học hiện đại như chẩn đoán bằng trí tuệ nhân tạo, phẫu thuật bằng robot, và điều trị bệnh bằng công nghệ sinh học đã giúp tăng tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của người dân. Song hành với sự phát triển của công nghiệp, ngành nông nghiệp cũng bước vào một thời kỳ hoàn toàn mới. Nhờ vào công nghệ sinh học, trí tuệ nhân tạo, và tự động hóa, FFFR đã chuyển đổi từ một nền nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp công nghệ cao, nơi mà máy móc và thuật toán thay thế sức lao động của con người.
Các trang trại tự động với cảm biến và hệ thống điều khiển thông minh có thể dự đoán thời tiết, theo dõi chất lượng đất và điều chỉnh lượng nước tưới một cách tối ưu. Công nghệ sinh học giúp cây trồng phát triển mạnh mẽ hơn, giảm sự phụ thuộc vào phân bón hóa học và thuốc trừ sâu, đảm bảo một nền nông nghiệp bền vững và không gây ô nhiễm môi trường. Sản lượng thực phẩm tăng vượt trội, giúp FFFR trở thành một trong những nhà xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới, đồng thời chấm dứt hoàn toàn nạn đói trong nước. Hệ thống giao thông của FFFR đã đạt đến trình độ tiên tiến bậc nhất thế giới với sự phổ biến hàng loạt của xe điện, xe tự lái, mô tô bay, máy bay cá nhân, tàu điện treo, tàu đệm từ, hệ thống Hyperloop (trên mặt đất, dưới lòng đất) và hệ thống giao thông độc lập "Self-driving shuttles" và xe cứu hỏa có tính năng di chuyển theo lộ trình đặt sẵn và hú còi khi tới gần đối tượng có khả năng gây cháy trong vòng 3 ngày.
Năm 1268 vệ tinh Nadia của Liên bang được phóng đi bằng tên lửa Spear thành công vào tầng nhiệt quyển với nhiệm vụ đo thời tiết mở ra kỷ nguyên chinh phục vũ trụ. Lực lượng Hàng không – Vũ trụ Tự do Đệ nhất Liên bang được thành lập vào 3/10/1268. Đến năm 1270 tên lửa Rishima đưa 4 phi hành gia Tự do Liên bang đổ bộ thành công lên bề mặt Mặt Trăng. Thời gian đến năm 1279 dự án Hera chế tạo bom hạt nhân được khởi động. Các nhân tài về chuyên ngành liên quan được chiêu mộ và được Liên bang tuyển từ khắp nơi trên thế giới về bí mật nghiên cứu và phát triển. Sau 10 năm nghiên cứu vất vả thì vụ thử đầu tiên đã diễn ra tại điểm Nemo với mật danh U-V235. Máy bay ném bom Varium-24 được nâng cấp, sơn và sửa chữa để có thể chống lại tác động của vụ nổ. 9 giờ sáng ngày 14/5/1289 thời tiết quang đãng phù hợp để thử nghiệm. Một quả bom mang tên Freedom đã được thả xuống với một chiếc dù để giữ cho nó rơi chậm lại để cho máy bay có thời gian rời đi. Khi còn cách mặt biển 1 km thì được kích nổ từ xa. Một ánh sáng chói lóa xé toạc bầu trời.
Trong vòng 1 phần triệu giây đầu tiên, vụ nổ tạo ra một quả cầu lửa khổng lồ với nhiệt độ lên tới 10 triệu độ C nóng hơn cả bề mặt Mặt Trời. Bức xạ nhiệt từ vụ nổ có thể nhìn thấy từ khoảng cách hàng trăm km. Toàn bộ nước biển ngay bên dưới quả cầu lửa lập tức bốc hơi, để lại một khoảng trống khổng lồ. Không có âm thanh ngay lập tức. Trong chân không tạm thời mà vụ nổ tạo ra, âm thanh chưa thể truyền đi. Nhưng chỉ vài giây sau sóng xung kích bùng phát với áp suất hàng trăm atm, đập mạnh xuống mặt biển, tạo ra một cơn động đất nhân tạo trên mặt nước. Vận tốc của sóng xung kích lên tới 1.000 km/h, nghiền nát mọi thứ trong bán kính hàng chục km. Cột lửa bốc lên từ vụ nổ đã hút cạn nước ngay bên dưới, tạo ra một hố hơi nước đường kính khoảng 3-5 km. Chỉ trong một phần tư giây, nước từ xung quanh bị hút vào khoảng trống này với lực cực mạnh, tạo ra một cột nước cao tới 2-3 km, trước khi sụp xuống.
Những con sóng thần nhân tạo bắt đầu hình thành, cao hơn 50 mét gần tâm vụ nổ. Tuy nhiên, vì vụ nổ diễn ra trên không (ở độ cao 1 km) thay vì dưới nước, phần lớn năng lượng bị tiêu tán vào không khí, khiến sóng thần không mạnh bằng các vụ nổ dưới đáy biển. Khi di chuyển xa hơn, sóng thần suy yếu dần, chỉ còn 1-2 mét khi đến các bờ biển xa xôi hàng nghìn km. Trên cao, đám mây hình nấm khổng lồ bắt đầu vươn lên, cuộn xoáy dữ dội. Trong vòng 1 phút, nó đã đạt độ cao hơn 30 km, xuyên qua tầng đối lưu và tiến vào tầng bình lưu. Ở vùng trung tâm, sự ion hóa không khí khiến các phân tử oxy và nitơ bị xé rách, tạo ra một hiện tượng quang học đặc biệt, bầu trời đổi màu thành tím nhạt trong thoáng chốc trước khi trở lại màu xanh. Vì vụ nổ xảy ra ở độ cao 1 km, phần lớn bụi phóng xạ sẽ bị đẩy lên cao thay vì rơi ngay xuống mặt nước. Tuy nhiên, gió tầng bình lưu mang bụi phóng xạ đi xa hàng ngàn km, ảnh hưởng đến sinh vật biển và các đảo xa.
Các hạt phóng xạ đã theo các dòng hải lưu và gió đến tận Nam Mỹ hoặc Úc trong 6 tuần. Dưới mặt biển, một số đồng vị phóng xạ như Strontium-90 và Cesium-137 có thể tích tụ trong sinh vật biển, gây hậu quả lâu dài cho chuỗi thức ăn đại dương. Các nhà khoa học đã ước tính được vụ nổ có sức công phá khủng khiếp tương đương 14,8 triệu tấn TNT dù đây mới chỉ là lần đầu tiên FFFR nghiên cứu và thử nghiệm. Sau vụ thử nhiều tổ chức và cơ quan cả trong và quốc tế lên án dữ dội về tính an toàn, cam kết bảo vệ môi trường của Tự do Liên bang ngày trước và sợ hãi trước việc nhà nước này sẽ phát triển bom hạt nhân làm vũ khí răn đe gây mất ổn định và hòa bình thế giới. Nhưng FFFR cũng nhận thấy việc sử dụng vũ khí hạt nhân quá nguy hiểm nên đã quyết định hủy đi dự án nghiên cứu vũ khí hạt nhân mà thay vào đó là tập trung vào việc nghiên cứu bom plasma, nhiệt hạch, khinh khí, tên lửa sóng xung kích plasma và phản ứng nhiệt-lạnh. 15/2/1335 lực lượng Tên lửa chiến lược được lập ra.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com