PHẬT GIÁO, KHOA HỌC VÀ THẦN HỌC
**Phật giáo, khoa học và những yếu tính của nền thần học độc thần giáo
Trần Chung Ngọc - 08 tháng 8, 2009
Cách đây hơn 25 thế kỷ, vào khoảng 560 năm Trước Tây Lịch (TTL), còn được gọi là "thời đại hoang mang" (560 B(efore) C(onfusion): từ của LLoyd M. Graham trong cuốn Deceptions and Myths of the Bible), một nhân vật lịch sử với một tiểu sử rõ ràng đã sinh ra đời để mở đường cho chúng sinh thấy, giác ngộ và hội nhập cái biết và thấy của Phật (Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến). Nhân vật lịch sử này chính là Thái Tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn ở miền Nam Népal ngày nay.
Khi sinh ra đời, về bản chất, con người của Thái Tử Tất Đạt Đa không khác gì con người của bất cứ ai trong chúng ta: nước mắt cùng mặn, máu cùng đỏ v..v.. Tuy nhiên, trước những cảnh khổ hiển nhiên của con người: sinh, lão, bệnh, tử, Thái tử Tất Đạt Đa, với một nghị lực phi thường, đã từ bỏ nơi quyền quý giàu sang vật chất, đi tìm con đường giải thoát cho chúng sinh qua một quá trình tu tập gian khổ kiên trì trong 6 năm, cuối cùng đã tìm ra chân lý và trở thành Phật, nghĩa là Bậc Giác Ngộ hay Bậc Tỉnh Thức: tổng hợp của một kiến thức siêu việt với một tâm từ bi vô lượng. Trong lịch sử loài người, chúng ta khó có thể thấy trên thế gian một khuôn mặt nào đặc biệt và cao cả như Đức Phật.
Đặc biệt và cao cả vì Đức Phật là vị Giáo Chủ tôn giáo duy nhất trên thế gian đưa ra một khẳng định tuyệt đối bình đẳng: "Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành", nghĩa là về bản chất, Giáo Chủ và tín đồ không có gì khác nhau. Đặc biệt và cao cả vì Đức Phật đã không hề bắt buộc bất cứ ai phải tin vào Phật hay những điều giảng dạy của Phật một cách mù quáng, không cần biết, không cần hiểu. Đặc biệt hơn cả là Đức Phật đã thấy rõ sự vận hành của vạn Pháp (Như Thực tri Kiến: to see things as they really are) và đã để lại cho hậu thế một giáo lý không có giáo lý nào hơn, không có giáo lý nào bằng. Đây không phải là nhận định vô căn cứ của một tín đồ Phật Giáo để khoa trương tán tụng tôn giáo của mình, mà là kết quả khảo sát tư tưởng, giáo lý Phật Giáo trong sự tiến hóa tư tưởng của nhân loại. Luận cứ này sẽ được chứng minh trong những phần sau. Trong phần chứng minh này, chúng ta sẽ thấy, giá trị của một tôn giáo không thể dựa trên số tín đồ của tôn giáo đó đông hay không đông, mà dựa trên những tư tưởng hoặc phúc lợi mà tôn giáo đó đã mang đến cho nhân loại.
Thường thì giới Phật tử thông thường chúng ta chỉ biết đến vài giáo lý căn bản của Phật Giáo xuyên qua các triết lý về Tam Độc, Tam Pháp Ấn (Vô Thường, Khổ, Vô Ngã), Tứ Diệu Đế, Tứ Niệm Xứ, Bát Chánh Đạo. Nếu chúng ta để tâm nghiên cứu và tìm hiểu về Phật Giáo thì chúng ta sẽ khám phá ra rằng, tư tưởng Phật Giáo và "tri kiến" của Đức Phật đã đi trước sự tiến hóa tư tưởng và sự hiểu biết của nhân loại khá lâu, và, tuy rằng với một tinh thần khoa học, Phật Giáo sẵn sàng chấp nhận những sai lầm, nếu có, nhưng cho tới ngày nay, Phật Giáo chưa từng phải xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những tiến bộ về tư tưởng cũng như những khám phá mới của khoa học.
Sau đây tôi sẽ đưa ra một số kiến thức Phật Giáo để quý độc giả thấy rõ tư tưởng Phật Giáo đã đi trước sự tiến hóa tư tưởng của nhân loại như thế nào. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ có thể liệt kê một số vấn đề điển hình một cách ngắn gọn chứ không thể khai triển để chứng minh vì mỗi vấn đề đòi hỏi một sự trình bày sâu xa và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, trước hết, chúng ta cần biết một điều căn bản: Đức Phật không phải là một khoa học gia, Người không có theo các phương pháp khoa học như thu thập dữ kiện, đặt giả thuyết hay lý thuyết, rồi dựa vào những dụng cụ trong phòng thí nghiệm để kiểm nghiệm và thực chứng lý thuyết đó. Tất cả những hiểu biết của Người là từ Thiền quán.
Chúng ta đều biết rằng, khi xưa Đức Phật thường khuyên các đệ tử trước khi uống nước hãy niệm chú để phổ độ cho các vi chúng sinh có trong nước. Người còn khẳng định trong mỗi bát nước có tới 84000 sinh vật nhỏ nhoi mà mắt thường chúng ta không thể nhìn thấy được. Chúng ta nên hiểu con số 84000 trong Phật Giáo có nhiều ý nghĩa và một trong những ý nghĩa này là tượng trưng cho một con số lớn chứ không phải là một con số chính xác. Hơn 22 thế kỷ sau, vào cuối thế kỷ 17, các khoa học gia đã phát minh ra cái kính hiển vi đầu tiên và nhờ đó đã có thể nhìn thấy trong một giọt nước có một số lớn các vi sinh vật.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo là trong đó có vô số những thế giới có hình dạng khác nhau với vô số chúng sinh khác nhau. Hơn 21 thế kỷ sau, vào cuối thế kỷ 16, Giordano Bruno cũng đưa ra quan niệm về một vũ trụ bao la vô cùng tận trong đó, ngoài thế giới của chúng ta, có thể còn có vô số các thế giới khác nhau với vô số dạng sống (life-forms) khác nhau. Chúng ta đã biết, quan điểm này trái với những lời gọi là “mạc khải” trong thánh kinh mà các tín đồ Ki Tô Giáo tin rằng không thể sai lầm của Thiên Chúa Ki Tô Giáo, một vị thần mà theo niềm tin của những tín đồ Ki Tô, là bậc Toàn Năng, nghĩa là làm gì cũng được, và Toàn Trí, nghĩa là cái gì cũng biết. Do đó, Bruno đã phải trả một giá rất đắt cho kiến thức rất đúng của mình. Ông ta bị định chế Công giáo trong đó có giáo hoàng, vị đại diện của Chúa trên trần, và các linh mục, những người được Chúa dạy là phải thương yêu kẻ thù [Bruno không phải là kẻ thù của Giáo hội] như chính mình, lên án và chính các linh mục đã đưa ông lên giàn hỏa để thiêu sống. Thế kỷ 16 mở đầu cho cuộc cách mạng khoa học. Sự phát minh ra kính thiên văn của Galileo Galilei ở đầu thế kỷ 17, và khoa vũ trụ học ngày nay đã chứng minh quan điểm của Phật Giáo về vũ trụ cũng như của Giordano Bruno 21 thế kỷ sau là đúng. Một trong 10 danh hiệu mà người đời tôn vinh Đức Phật khi Người còn tại thế : Thiên Nhân Sư (Teacher of Gods and men), bậc Thầy của các Thiên Chúa và của con người, không phải là không có giá trị thuyết phục.
Thuyết Duyên Sinh hay Duyên Khởi là thuyết căn bản nhất trong Phật Giáo. Giữa thế kỷ 19, Charles Darwin đưa ra thuyết Tiến Hóa, và ngày nay, càng ngày chúng ta càng thấy thuyết này rất phù hợp với thuyết Duyên Sinh. Vạn Pháp trong vũ trụ đều do đủ duyên mà thành, hết duyên thì diệt, và đây cũng là căn bản của thuyết Tiến Hóa, từ sự xuất hiện của các cây cỏ cho đến con người. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận viết trong cuốn “L'Infini Dans La Paume de la Main”: "Tiến hóa từ những cát bụi của những ngôi sao, chúng ta chia sẻ cùng một lịch sử vũ trụ với những con sư tử trong những vùng hoang mạc và những bông hoa tỏa mùi thơm" (Poussières d'étoiles, nous partageons la même histoire cosmique avec les lions des savanes et les fleurs de lavande). Tôi sẽ nói thêm về cuốn sách rất có giá trị này trong một đoạn sau.
Thuyết Vô Thường của Phật Giáo là một hệ luận của thuyết Duyên Sinh. Các tín đồ Ki Tô Giáo thường cho rằng Thiên Chúa của họ là bậc thường hằng (omnipresent), nghĩa là có mặt khắp nơi. Đây chỉ là một niềm tin tôn giáo chứ không phải là một sự hiểu biết dựa trên những sự thật bất khả phủ bác. Ngày nay, tuyệt đại đa số các khoa học gia đã gạt bỏ quan niệm về một Thiên Chúa sáng tạo ra muôn loài, cho rằng vai trò "sáng tạo" của Thiên Chúa không cần thiết, cũng như ngày xưa, khi hoàng đế Napoléon hỏi Pierre Simon de Laplace là sao trong tác phẩm nghiên cứu khoa học về Cơ Học Các Thiên Thể (Celestial Mechanics) của ông ta không thấy nói gì đến Thiên Chúa, Laplace đã trả lời: "Tôi không cần đến cái giả thuyết đó". Điều rõ ràng là trên thế giới và trong vũ trụ ngày nay, cái thường hằng, có mặt khắp nơi, chính là tính vô thường của vạn pháp. Từ một vi sinh vật nhỏ nhoi như một vi khuẩn cho đến con người, một ngôi sao, một thiên hà trong vũ trụ, không có gì có thể đi ra ngoài luật vô thường. Thiên Chúa của Ki Tô Giáo cũng không thoát khỏi luật vô thường, vì quan niệm về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo đã thay đổi rất nhiều qua thời gian với những lý luận thần học khác nhau. Thật vậy, định luật “vô thường” có thể áp dụng cho chính Thiên Chúa của Ki Tô Giáo và có thể kiểm chứng qua nhiều lần than phiền của Giáo hoàng Benedict XVI, rằng: “Âu Châu [cái nôi của Thiên Chúa Giáo] ngày nay sống như là không có Thiên Chúa và cũng chẳng cần đến Chúa Giê-su nữa.” Ngoài ra, “Trong một Hội Nghị đặc biệt vào năm 1999, các Giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như là Thiên Chúa không hề hiện hữu”. (JOHN CORNWELL, in Breaking Faith: The Pope, The People, and the Fate of Catholicism At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.)
Phật Giáo đưa ra những thuyết Tương Duyên, Tương Tức, Dung Thông Vô Ngại, Một là Tất Cả v..v.., đặc biệt là trong Kinh Hoa Nghiêm. Khoa học ngày nay, nhất là khoa Vật Lý Nguyên Lượng (Quantum Physics), nghĩa là môn vật lý khảo sát thế giới của các hạt "Tiềm Nguyên Tử" (Subatomic particles) cũng đã chứng minh rằng mọi vật đều liên hệ tới nhau, không có cái gì có thể có tự tính, nghĩa là độc lập, không tùy thuộc bất cứ cái gì khác. Đây cũng là căn bản thuyết Vô Ngã của nhà Phật.
Chúng ta đều biết Phật Giáo là một tôn giáo trị liệu, nghĩa là một tôn giáo chữa những căn bệnh gốc của thế gian. Luận Tỳ Bà Đạt Ma cũng như Duy Thức Luận và nhiều Kinh Điển khác, tất cả đều có tính cách trị liệu. Không ai có thể phủ nhận Thiền là một phương pháp trị liệu tâm thần hữu hiệu mà ngày nay nhiều người Ki Tô Giáo, Do Thái Giáo v..v.. áp dụng. Tôi muốn nhắc lại lời của nhà phân tâm học nổi tiếng của Anh Quốc, Tiến sĩ Graham Howe: "Đọc một chút về Phật Giáo ta cũng có thể nhận thức được rằng: từ 2500 năm trước, các Phật tử đã biết những vấn đề hiện đại về tâm lý nhiều hơn là chúng ta thường đánh giá họ. Phật Giáo nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức giải quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ khám phá lại trí tuệ thông thái cổ xưa của Đông Phương" (To read a little Buddhism is to realize that the Buddhists knew, 2500 years ago, far more about modern problems of psychology than they have yet been given credit for. They studied these problems long ago and found answers too. We are now rediscovering the ancient wisdom of the East).
Chúng ta đã thấy, qua vài tư tưởng điển hình của Phật Giáo, cái biết của Phật Giáo đã đi trước cái biết của nhân loại như thế nào. Lẽ dĩ nhiên, các tư tưởng Phật Giáo không chỉ có vậy, mà còn vô số các điều khác nằm trong rừng Kinh Điển Phật Giáo. Nhưng hiển nhiên, trong khuôn khổ một bài viết, không ai có thể trình bày tất cả những tư tưởng của Phật Giáo cho đầy đủ.
Sau đây tôi xin trình bày một khía cạnh khác thuộc loại "đi trước thời gian" của Phật Giáo, đó là khía cạnh tôn giáo và xã hội.
Phật Giáo là tôn giáo nhân bản và nhân chủ
Trong các tôn giáo lớn trên thế giới, chỉ có Phật Giáo là tôn giáo nhân bản và nhân chủ. Các tôn giáo khác như Ấn Độ Giáo, Hồi Giáo, và Ki Tô Giáo đều là Thần giáo. Nhân bản là đặt căn bản trên con người, và nhân chủ là con người làm chủ chính mình, tự mình tu tập để đi đến giải thoát chứ không trông ngóng hay nương tựa ở bất cứ Thần quyền nào. Vì vậy, Phật Giáo quan tâm đến những chuyện thực tế của con người chứ không suy luận viển vông đến những vấn đề siêu hình không có ích lợi thiết thực cho con người ngay trong đời sống này. Từ bản chất nhân bản và nhân chủ, giáo lý Phật Giáo là, theo như một số học giả, một cuộc cách mạng tư tưởng. Tôi thấy danh từ cách mạng không đúng, vì cách mạng có nghĩa chống lại cái cũ thay bằng cái mới. Theo tôi, chúng ta phải nói rằng tư tưởng Phật Giáo rất đặc thù và trên thực tế đã mở đường cho những cải cách tư duy trong các Thần giáo cùng những khám phá khoa học về vũ trụ. Thật vậy, các học giả Tây phương nghiên cứu đứng đắn về Phật Giáo đều công nhận Phật Giáo là một tôn giáo thực nghiệm (empirical), khoa học (scientific), thực tế (pragmatic), và nhất là dân chủ (democratic). Những đặc tính này của Phật Giáo là những đặc tính mà chúng ta không thể thấy trong các Thần Giáo. Tại sao? Vì các Thần giáo đều phải dựa vào 4 đặc tính chung như sau để tồn tại: quyền lực; sự hiện hữu và quyền năng, ân huệ của một vị Thần hay Thiên Chúa; truyền thống tôn giáo; và những huyền bí và siêu nhiên trong tôn giáo.
Chúng ta hãy xét từng đặc tính một ở trên để xem quan điểm của Phật Giáo đối với các đặc tính trên như thế nào.
1. Vấn đề Quyền Lực.
Quyền Lực thường được tạo trên đám tín đồ kém hiểu biết. Trong các Thần Giáo, giới giáo sĩ, thí dụ Linh Mục trong Công Giáo, Mục Sư trong Tin Lành Giáo, các giáo sĩ trong Hồi Giáo, các Rabbi trong Do Thái Giáo, giai cấp Bà La Môn trong Ấn Độ Giáo, đều là những người tự cho mình là thông thái hơn đám tín đồ ở dưới, chỉ có họ mới đủ khả năng để hiểu và diễn giải Kinh Điển trong tôn giáo của họ. Từ điều này họ tạo thành một quyền lực trên đám tín đồ và tạo nên giáo điều "quên mình trong vâng phục" mà các tín đồ phải tin theo.
Cấu trúc toàn trị của Công Giáo là một thí dụ, dù rằng lịch sử đã chứng minh rằng sự hiểu biết và diễn giải Thánh Kinh của các giới lãnh đạo Công giáo, từ Giáo Hoàng trở xuống, nhiều khi rất sai lầm, luôn luôn ở trong tình trạng "sửa đâu sai đó". Bởi vậy cho nên nền thần học Ki Tô Giáo đã phải thay đổi rất nhiều qua thời gian. Lịch sử Ki Tô Giáo đã chứng tỏ những sai lầm thần học là nguyên nhân của những tác hại mà Ki Tô Giáo đã mang đến cho nhân loại trong gần 20 thế kỷ, điển hình là những cuộc Thánh Chiến, những Tòa Án Xử Dị Giáo, những cuộc săn lùng và thiêu sống phù thủy, những cuộc chiến tranh tôn giáo, những liên minh với thực dân để đi truyền đạo trong các nước kém mở mang v..v... Vụ xưng thú 7 núi tội lỗi của Công Giáo gần đây là một bằng chứng hiển nhiên nhất. Tuy vậy mà các tín đồ vẫn luôn luôn được dạy giáo hội Công giáo là giáo hội duy nhất, thánh thiện, tông truyền, và giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, nên các tín đồ phải "quên mình trong vâng phục".
Quyền lực của Tin Lành nằm trong Thánh Kinh. Tin Lành chủ trương "Chỉ bằng vào Đức Tin vào Giê-su, con người sẽ được Thiên Chúa coi như người công chính và do đó được sống trên thiên đường vĩnh hằng trong Chúa Ki Tô” [Justification by faith = The just (justified, saved) shall live [have eternal life] by faith [in Christ]” (Rom 1: 17)] và Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa nên không thể sai lầm. Trên thực tế Tin Lành đã áp dụng đức tin trên để “biện minh cho tất cả" những việc ác ở trên đời như săn lùng phù thủy, thiêu sống thổ dân Mỹ vì không chịu theo Tin Lành, gọi là để cứu vớt linh hồn họ. Vì tin rằng Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa, nên không thể sai lầm, cho nên, đối với Tin Lành, nếu thực tế sai với Thánh Kinh thì phải loại bỏ thực tế, dù rằng ngày nay nhiều nhà nghiên cứu Thánh Kinh đã chứng minh rằng trong Thánh Kinh có vô số những điều sai lầm về Thần Học cũng như Khoa Học. Tin Lành không ngăn cấm tín đồ đọc và tìm hiểu Thánh Kinh Ki Tô Giáo nhưng chỉ được hiểu theo sự diễn giảng của giới Mục Sư. Cũng vì vậy mà cho đến tận ngày nay phái bảo thủ Tin Lành vẫn còn chống đối thuyết Tiến Hóa, phát minh ra những lý thuyết thần học quái gở như “khoa học sáng tạo” (creation science) và rồi “thiết kế thông minh” (intelligent design) để biện minh cho tác phẩm sáng tạo của Thiên Chúa của họ.
Địa vị và quyền lực của các giáo sĩ trong Hồi Giáo là một thí dụ khác. Chúng ta không còn lạ gì những đạo luật rất khắc nghiệt của Hồi Giáo đối với giới phụ nữ và đối với những vi phạm luân lý nhỏ nhoi không đáng kể trong những xã hội Tây phương.
Đức Phật đã đưa ra một giáo lý trong đó không có quyền lực. Từ hơn 25 thế kỷ về trước, Đức Phật đã đi tiên phong trong vấn đề bác bỏ quyền lực tôn giáo, không những quyền lực của cá nhân mà còn của cả Kinh Điển nữa. Trong mục 3, Vấn Đề Truyền Thống, tôi sẽ khai triển thêm điều này. 21 thế kỷ sau, Martin Luther của Ki Tô Giáo đã theo gót Đức Phật, bác bỏ quyền lực trong cấu trúc toàn trị của Công giáo để lập ra đạo Tin Lành. Nhưng thực tế là Tin Lành đã thay thế quyền lực của Giáo Hoàng Công giáo bằng quyền lực của Thánh Kinh. Cho nên, người ta bảo rằng các tín đồ Công giáo là nô lệ của giáo hoàng, còn các tín đồ Tin Lành là nô lệ của Thánh Kinh. Phật giáo quan niệm, dù nô lệ vật chất hay nô lệ tinh thần cũng đều là nô lệ, làm mất phẩm giá con người.
2. Vấn đề hiện hữu và quyền năng, ân huệ của một Thiên Chúa.
Mỗi Thần giáo đều có một quan niệm riêng về Thiên Chúa của mình. Về bản chất, những Thiên Chúa này không khác gì những Thần linh trong dân gian, thí dụ như thần cây đa, thần sông, thần núi của dân Việt Nam khi xưa, vì tất cả đều nằm trong niềm tin của con người chứ không phải là một thực thể. Những cuốn sách khảo cứu về quan niệm các Thiên Chúa trên thế gian, thí dụ như cuốn Một Lịch Sử Về Thiên Chúa (A History of God) của Nữ Tu Ca-Tô Karen Armstrong, cuốn Một Thế Giới Đầy Những Thiên Chúa (A World Full of Gods) của Keith Hopkins v..v.. đã chứng minh sự kiện này. Cho nên, quan niệm Thiên Chúa này hay Thiên Chúa kia là duy nhất, là toàn năng, là lòng lành vô cùng v..v.. là một quan niệm đã lỗi thời. Để thấy rõ vấn đề hơn, có lẽ chúng ta cũng nên biết quan niệm về Thiên Chúa quyền phép vô cùng từ đâu mà ra.
Chúng ta hãy đi ngược trở lại thời tiền sử. Khi đó con người cảm thấy yếu đuối và sợ hãi trước thiên nhiên, từ những cơn bão tố sấm sét, những cuộc động đất, lụt lội, những kỳ núi lửa phun ra nham thạch v..v.. những hiện tượng con người khi đó không thể giải thích vì chưa đủ trí tuệ để hiểu. Ngoài ra con người còn phải đối diện với trăm thứ bệnh tật, bất an trong cuộc đời. Cho nên, thật là dễ hiểu khi chúng ta thấy con người thời đó nghĩ rằng, chắc những thiên tai, bệnh tật kể trên phải có một nguyên nhân sâu xa nào đó nằm ngoài sự hiểu biết của họ, và họ đã qui mọi hiện tượng thiên nhiên cho hoạt động của những bậc siêu nhiên mà họ gọi là Thần (Gods) (Người Ki Tô giáo gọi Thần của họ (Christian God) là Thượng Đế hay Thiên Chúa). Thí dụ, sét được coi như là những lưỡi gươm của Thiên Chúa giáng xuống nhân loại, sấm được coi như là tiếng nói trong cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, những bệnh dịch tả, dịch hạch, vì có tính truyền nhiễm nên làm chết hại nhiều ngàn người vì chưa có thuốc phòng ngừa hay chữa chạy, cũng được coi như là họa của Thiên Chúa giáng xuống đầu con người để trừng phạt con người vì tội đã làm phật ý Thiên Chúa. Nhưng con người lại không chịu dậm chân tại chỗ, cho nên ngày nay, chúng ta đã hiểu, và hiểu rất rõ, bệnh tật từ đâu mà ra, tại sao có sấm, sét, và tiên đoán được khi nào có sấm, sét và có ở đâu v...v... Do đó, những quan niệm thuộc loại mê tín như Thiên Chúa có thể ban phúc, giáng họa cho nhân loại là những quan niệm đã lỗi thời, không phù hợp với những thực tế ở ngoài đời. Ngày nay, khi trời sấm sét, chó và mèo còn cúp đuôi chạy trốn, nhưng con người thì bình thản ngồi viết bài chống mê tín dị đoan, chống những chuyện hoang đường phản khoa học, phi lý trí.
Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao ngày nay vẫn còn nhiều người tin vào một Thiên Chúa toàn năng, toàn trí? Phật Giáo đã nhìn thấy rõ vấn đề này. Đức Phật đã thấy rõ chúng sinh thì vô lượng, nhưng căn trí thì bất đồng. Bởi vậy giáo lý của người là để khai sáng, chuyển hóa con người chứ không chống đối bất cứ niềm tin nào của con người. Vì căn trí bất đồng nên có người theo được con đường Bi, Trí, Dũng của Phật Giáo, tự mình bước đi những bước chân vững chãi trên con đường giải thoát, mở mang trí tuệ, tự tu, tự chứng. Và cũng có những người hoặc do truyền thống tôn giáo, gia đình, hoặc từ khi sinh ra đã sống trong môi trường khép kín về trí tuệ, tư duy, nên được nhào nặn để dựa trên một cặp nạng Thần quyền lê lết tạm bợ trên trường đời, chốn chim muông cầm thú, chờ ngày về quê thật với ông Thánh David (Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm, trg. 73: "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn muông chim cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật hiệp làm một cùng vua David." (Trích dẫn từ Kinh Nhựt Khóa của Công Giáo)). Thật là tội nghiệp, những tín đồ Công giáo Việt Nam đầu óc mù mịt bị những ông linh mục xứ, đầu óc cũng không hơn họ bao nhiêu, nhồi sọ từ nhỏ và chưa hề biết đến cuốn Thánh Kinh nên không biết rằng trong Thánh Kinh, David chẳng qua chỉ là một tên tướng cướp, đến khi lên làm Vua thì hoang dâm vô độ, vô đạo đức, cướp vợ của thuộc hạ v..v… Người Do Thái tôn vinh David vì hắn có công với Do Thái chứ chẳng liên quan gì đến dân ViệtNam. Tín đồ Công giáo ViệtNamđược bề trên dạy sao thì tụng vậy, chứ có biết gì về David và tại sao lại phải về quê thật với một tên Vua Do Thái vô đạo đức, xuất thân từ một tên tướng cướp.
Chúng ta cũng nên biết, nền Thần Học Ki Tô Giáo, để theo kịp sự tiến hóa của nhân loại, đã phải giải thích lại nhiều lần quan niệm về một Thiên Chúa. Nhưng ngày nay những giải thích này đều bị bác bỏ, vì nền Thần Học Ki Tô Giáo đặt tiền đề trên sự hiện hữu của một Thiên Chúa toàn năng, toàn trí, toàn thiện rồi dùng lý luận thần học để thuyết phục con người là một Thiên Chúa với những thuộc tính như vậy hiện hữu. Nhưng nền thần học Ki Tô Giáo không thể thuyết phục được những người có đầu óc trong thời đại này vì nó chứa rất nhiều mâu thuẫn và phi lý. Nó chỉ còn hợp với những người mà đầu óc so với đầu óc của những người cách đây trên 2000 năm cũng chưa tiến bộ được bao nhiêu. Thật vậy, chúng ta đều biết đến lời phát biểu của vật lý gia nổi tiếng nhất thế kỷ 20 là Albert Einstein như sau:
Tôi không thể quan niệm được một Thiên Chúa thưởng phạt những tạo vật của mình.. Ý tưởng về một đấng can thiệp vào những sự việc xảy ra trong thế gian thì tuyệt đối không thể nào có.
(I cannot conceive of a God who rewards and punishes his creatures.. The idea of a being who interferes with the sequences of events in the world is absolutely impossible.)
Nhận định sau đây của James A. Haught trong cuốn 2000 years of Disbelief: Famous People with the Courage to Doubt, trang 324, có thể cho chúng ta thấy rõ vấn đề hơn:
Qua luận lý, chúng ta có thể thấy quan niệm của giáo hội về một Thiên Chúa ở trên trời với lòng thương yêu nhất mực không đứng vững. Nếu có một đấng thần linh sáng tạo ra muôn loài thì ông ta đã làm ra ung thư vú cho phái nữ, bệnh hoại huyết cho trẻ con, bệnh cùi, bệnh AIDS, bệnh mất trí nhớ (Alzheimer), và hội chứng Down (khuyết tật tinh thần). Ông ta ra lệnh cho những con cáo cắn xé nát những con thỏ ra từng mảnh, những con báo giết những hươu nai. Không có một con người nào độc ác đến độ hoạch định những sự khủng khiếp như vậy. Nếu một đấng siêu nhiên làm như vậy, ông ta là một con quỷ, không phải là một người cha nhất mực nhân từ.
(Through logic, you can see that the church concept of an all-loving heavenly creator doens't hold water. If a divine Maker fashioned everything that exists, he designed breast cancer for women, childhood leukemia, leprosy, AIDS, Alzheimer's disease, and Down's syndrome. He mandated foxes to rip rabbits apart and cheetahs ro slaughter fawns. No human would be cruel enough to plan such horrors. If a supernatural being did so, he's a monster, not an all-merciful father.)
Chúng ta hãy tự đặt một câu hỏi, trong thời đại này, chúng ta còn có thể tin được luận điệu thần học Ki Tô Giáo cho rằng, chỉ vì Adam và Eve cưỡng lời Thiên Chúa ăn một trái trên cây hiểu biết để có trí tuệ bằng Thiên Chúa nên cả nhân loại đều bị Thiên Chúa đày đọa? Điều hiển nhiên là trí tuệ loài người ngày nay đã vượt xa về hiểu biết cũng như về đạo đức của Thiên Chúa trong Thánh Kinh. Hơn nữa, người ViệtNamchúng ta có câu "Con hơn cha là nhà có phúc", nếu không như vậy thì thế giới làm gì có tiến bộ? Nếu cứ như ý định của Thiên Chúa thì loài người sẽ triền miên sống trong sự tối tăm, trí tuệ và đạo đức thấp kém. Bởi vậy, nếu chúng ta đọc những cuốn sách viết về cuộc chiến giữa khoa học và nền thần học Ki Tô Giáo trong hơn một thế kỷ nay thì chúng ta sẽ thấy nền thần học Ki Tô Giáo đã không còn chỗ đứng trong giới trí thức, ở trong cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo, khoan kể đến tuyệt đại đa số các khoa học gia. Ngoài ra, nếu chúng ta đọc những cuốn nghiên cứu phê bình Thiên Chúa điển hình như cuốn Những Phê Bình về Thiên Chúa (Critiques of God), biên tập bởi Peter A. Angeles, trong đó có 16 tác giả phê bình về mọi lý luận thần học của Ki Tô Giáo; hoặc cuốn Thiên Chúa là Cái Gì? (What is God?), biên tập bởi Kenneth G. Lucey, trong đó có những bài khảo luận của Richard R. La Croix, thì chúng ta sẽ thấy mọi lý luận thần học về sự hiện hữu của một Thiên Chúa với những thuộc tính toàn năng, toàn trí, toàn thiện, thí dụ như của Thomas Aquinas, Augustine, Descartes v..v.. đều đã bị bác bỏ dứt khoát. Thật vậy, trong phần Tựa của cuốn Critiques of God, trang xiii, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây:
Những niềm tin vào những đấng siêu nhiên đã biến khỏi nền văn hóa của chúng ta. Bất cứ niềm tin chắc đại cương nào về Thiên Chúa cũng đang trỏ thành mờ nhạt trong nền văn hóa của chúng ta. Thiên Chúa đã mất đi trụ xứ trong không gian như là một nước trên Thiên đàng. Ông ta cũng mất đi chỗ đứng trong vũ trụ như là đấng đã sáng tạo ra nó từ hư vô. Không phải là Thiên Chúa bị đẩy ra một vùng xa lắc xa lơ. Không phải vì ông ta trở thành một trừu tượng vô thân thể (không đực không cái). Mà vì chúng ta nhận thức ra rằng chẳng làm gì có Thiên Chúa để mà nói tới.
(Beliefs in supernatural beings have vanished from our culture. Any general serious belief in God is fading in our culture. God has lost his spatial location as a monarch in heaven. He has lost his temporal precedence to the universe as its Creator ex nihilo. It is not God is being relegated to a remote region. It is not that God has become a bodiless abstraction (a sexist It). It is te realization that there is no God to which to relate.)
Sau đây là một đoạn trong phần Dẫn Nhập trong cuốn A History of God của nữ tu Công giáo Karen Armstrong:
Thiên Chúa là một khuôn mặt khá mù mờ, được định nghĩa trong những trừu tượng trí thức thay vì những hình ảnh rõ ràng. Khi tôi mới lên chừng 8 tuổi, tôi phải nhớ câu trả lời theo giáo lý của câu hỏi, "Thiên Chúa là cái gì?: "Thiên Chúa là Thần Linh cao nhất, tự hiện hữu và vô cùng hoàn hảo trên mọi phương diện." Không lạ gì, lời giải thích trên chẳng có mấy ý nghĩa đối với tôi, và tôi phải nói rằng ngày nay định nghĩa trên cũng chẳng có gì hấp dẫn. Đó vẫn là một định nghĩa đơn thuần khô khan, huênh hoang, và kiêu căng. Tuy nhiên, từ khi tôi viết cuốn sách này, nay tôi đã tin rằng định nghĩa trên cũng còn sai lầm nữa.
(God…was a somewhat shadowy figure, defined in intellectual abstractions rather than images. When I was about eight years old, I had to memorize this catechism answer to the question, "What is God?": "God is the Supreme Spirit, Who alone exists of Himself and is infinite in all perfections." Not surprisingly, it meant little to me, and I am bound to say that it still leaves me cold. It has always seemed a singularly arid, pompous and arrogant definition. Since writng this book, however, I have come to believe that it is also incorrect.)
Và trong cuốn Sự Vô Tận Ở Trong Lòng Bàn Tay (L'infini Dans La Paume de la Main) của Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận (tôi sẽ trở lại 2 tác giả này trong đoạn kết), trang 51, Matthieu Ricard đưa ra nhận định:
Mọi tôn giáo (thần giáo) và mọi triết thuyết đều thất bại trên vấn đề sáng tạo...Khoa học đã loại bỏ sự sáng tạo bằng cách bỏ đi khái niệm về Thiên Chúa Sáng Tạo mà khoa học không cần đến và Phật Giáo cũng vậy, loại bỏ sự sáng tạo bằng cách bỏ đi khái niệm về một sự bắt đầu.
(Toutes les religions et les philosophies ont buté sur ce problème de la création. La science s'en est débarrassée en éliminant la notion de dieu créateur dont elle n'a pas besoin et le bouddhisme en éliminant la notion même d'un début.)
Như vậy, 25 thế kỷ sau thời Phật tại thế, con người mới dần dần đi đến sự nhận thức là chẳng làm gì có Thiên Chúa toàn năng toàn trí, sáng tạo ra muôn loài và có quyền thưởng phạt con người. Đức Phật đã nhận thức được như vậy, do đó Phật Giáo, từ hơn 2500 năm nay, là tôn giáo không chấp nhận thuyết sáng tạo cũng như thần quyền thưởng phạt hoang đường. Quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo là vô thỉ vô chung. Đức Phật cũng đã thấy rõ sự vận hành của thuyết Tiến Hóa. Người đã biết chúng sinh căn tính bất đồng cho nên Người đã đưa ra nhiều Pháp môn để dẫn dắt con người, tùy theo căn trí, tiến tới giác ngộ. Chúng ta thường nhắc đến con số 84000 Pháp môn, tượng trưng cho một con số lớn. Người đời thường cho Đức Phật là một vị lương y giỏi, tùy bệnh mà cho thuốc. Không có gì hoang đường và phản khoa học bằng quan niệm chỉ cần có một phương thuốc, bất kể nó tên là gì, "Đức Tin" hay "Cứu rỗi", là có thể chữa được mọi căn bệnh của chúng sinh với căn tính bất đồng.
3. Vấn đề truyền thống.
Truyền thống, nói một cách đại cương, là những gì thuộc trí tuệ, kinh nghiệm, nếp sống v..v.. mà con người trong một xã hội, một nền văn hóa, truyền lại từ đời này sang đời khác. Qua thời gian, do sự mở mang trí tuệ, do những sáng kiến mới của con người, truyền thống có thể thay đổi, cải tiến, để phù hợp với sự tiến hóa của nhân loại. Tuy nhiên, trong các thần giáo, truyền thống lại thường là những giây xích buộc chặt con người trong vòng "quên mình trong vâng phục" và do đó, thường có tác dụng ngăn chận sự tiến bộ của con người.
Truyền thống trong Công Giáo Rô-ma được tóm tắt trong câu (J. Sheatsley, The Pope's Catechism, p.80):
Tín đồ Ca-Tô phải tin tất cả những gì Thiên Chúa đã mạc khải và tất cả những gì Giáo hội Công giáo dạy, bất kể là những điều đó có hay không có trong Thánh Kinh.
Vì Truyền Thống Công giáo (nghĩa là những gì giáo hội dạy) và Thánh Kinh đều do Thiên Chúa mạc khải.
(A Catholic must believe all that God has revealed and the Catholic Church teaches, whether it is contained in Holy Scripture or not. Because Catholic Tradition and Holy Scripture were alike revealed by God)
Bởi vậy mà khi giáo hội Công giáo dạy Đức Mẹ, sau khi sinh nở ít nhất là 7 lần, vẫn còn đồng trinh, hay Đức Mẹ cả hồn lẫn xác bay lên trời, hay giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, nắm trong tay chìa khóa mở cửa thiên đường, không thể sai lầm v..v..thì giáo dân cũng bắt buộc phải tin, dù những điều này không hề có trong Thánh Kinh. Và, khi vào Việt Nam, giáo hội bắt giáo dân phải dẹp bàn thờ ông bà, tổ tiên trong hơn 400 năm, thì giáo dân cũng phải tin theo và làm đúng như vậy. Sau Công Đồng Vatican II, giáo hội "cho phép" thờ cúng tổ tiên để nhặt thêm tín đồ thì giáo dân cũng lác đác tin theo, vì vẫn có ông linh mục cho rằng cúng giỗ là "làm chay cúng ruồi".
Truyền thống trong Tin Lành là phải tuyệt đối tin rằng Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa nên không thể sai lầm. Nếu khoa học mà phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học tốt (Good science). Nếu khoa học mà không phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học xấu (Bad science). Truyền thống trong Tin Lành cũng là phải tuyệt đối tin rằng con người sinh ra trong tội lỗi (born in sin) và do bản chất đó, con người không thể làm gì tốt (by nature, incapable of doing good), phải bị đày đoạ vĩnh viễn (To be a sinner is to be destined to eternal damnation), và cách duy nhất để được cứu rỗi là phải tin vào quyền năng của Giê-su (Justification by Faith). (Xin đọc Rubem Alves, Protestantism and Repression, p. 34)
Truyền thống trong Ấn Độ Giáo là phải tôn trọng sự phân chia giai cấp.
Truyền thống trong Hồi Giáo thì tôi xin miễn bàn.
Đức Phật đã thấy trước sự tai hại của các truyền thống tôn giáo như trên nên Người đã đưa ra một giáo lý trong đó không có truyền thống. Chúng ta hãy đọc "Kinh Nền Tảng Đức Tin" của Phật Giáo, thường được biết là Kinh Phật thuyết cho người dân Kalama (Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, Kinh Tụng Hằng Ngày, Đạo Phật Ngày Nay, Phật Lịch 2546, trang 98-99):
...Này các thiện nam tín nữ Ka-la-ma, nhân đây Như Lai sẽ giảng giải về 10 nền tảng của đức tin chân chánh:
Một là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
Hai là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
Ba là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
Bốn là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở.
Năm là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình.
Sáu là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.
Bảy là, chớ vội tin một điều gì, khi mà điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.
Tám là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.
Chín là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.
Mười là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.
Này các thiện nam tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quán sát, suy tư và thể nghiệm, chỉ khi nào, sau khi kiểm nghiệm, quý vị thực sự nhận thấy: "Lời dạy này tốt lành, đạo đức, hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán, nếu sống và thực hiện lời dạy này sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc ngay hiện tại và về lâu, về dài" thì lúc ấy quý vị hãy đặt niềm tin bất động và thực hành theo.
Với Kinh Nền Tảng Đức Tin này, người đời bảo rằng Phật Giáo là đạo của trí tuệ quả nhiên không sai. Vì đây mới chính là nền tảng đức tin mà theo tôi, tuyệt vời nhất trong mọi nền tảng đức tin khác, vì nền tảng này đã tôn trọng phẩm giá và trí tuệ của con người đúng nghĩa là một con người. Nếu con người từ bỏ thân phận làm người của mình để "cúi đầu trong vâng phục", "bảo sao nghe vậy", "chỉ đâu đi dó", "tin mà không cần biết, không cần hiểu", thì thực chất không khác gì một con cừu, rút cuộc cũng chỉ bị đưa vào lò sát sinh mà thôi.
Kinh Nền Tảng Đức Tin của Phật Giáo đã mở một chân trời mới cho người Tây phương. Bắt đầu từ đây, người Tây phương đã có thể, theo như Mục sư Harry Willson, tháo gỡ những ngón tay bóp chặt yết hầu họ, cất đi gánh nặng Thượng đế trên vai họ, để được hít thở bầu không khí trong sạch. Và cũng từ đây, tâm thức Tây phương đã mở để đón nhận một luồng gió tư tưởng mới từ Đông phương thổi tới. Luồng gió này chính là các tư tưởng từ bi hỉ xả, vị tha, nhân bản, rộng rãi, khoan dung, tiến bộ, và phù hợp với các suy lý khoa học của Phật Giáo.
Đến đây chúng ta đã hiểu tại sao trong quá trình truyền đạo của Phật Giáo không hề có một giọt máu đổ. Với Kinh Kalama như trên thì Phật Giáo không thể nào có những cuộc Thánh Chiến, những Tòa Án Xử Dị Giáo, những cuộc xâm lăng để cưỡng bách người ngoại đạo phải theo đạo, những vết nhơ không bao giờ có thể rửa sạch trong lịch sử loài người. Với Kinh Kalama như trên thì Phật Giáo không bao giờ có thể có được chế độ giáo hoàng, chế độ của các giáo sĩ Hồi giáo, Rabbi Do Thái Giáo, giai cấp Bà La Môn, hay quyền lực của Kinh điển.
Như trên đã nói, Phật Giáo dứt khoát phá đổ chế độ giai cấp trong các Thần Giáo, chế độ xây dựng trên niềm hoang tưởng, cho rằng giáo sĩ là giai cấp ở trên, thông thái, độc quyền diễn giải Kinh điển và do đó là giai cấp ngự trị, các tín đồ ở dưới chỉ có quyền vâng phục. Thật vậy, trong Kinh Duy Ma, Cư sĩ Duy Ma Cật là bậc có trí tuệ vượt hơn nhiều đệ tử xuất gia của Phật, và trong Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử đi cầu đạo đã gặp 53 vị Thiện-Tri-Thức, gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, và được dạy cho 53 Pháp môn tiến tới giải thoát khác nhau. Ngày nay, có nhiều dấu hiệu cho thấy các Thần giáo cũng đang dần dần chuyển hóa đến tinh thần dân chủ trong Phật Giáo.
4. Vấn đề Huyền Bí và Siêu Nhiên.
Trong các Thần Giáo bao giờ chúng ta cũng thấy không ít thì nhiều những sắc thái thuộc loại huyền bí hay huyền nhiệm, nghĩa là những điều không thể giải thích được mà tín đồ chỉ có việc tin, không cần biết, không cần hiểu. 7 bí tích trong Công Giáo Rô-ma và 2 bí tích trong Tin Lành thuộc loại này. Ngoài ra còn những phép lạ hay tác dụng lạ lùng của những thánh tích, phần lớn là ngụy tạo, cũng thuộc loại này. Huston Smith, giáo sư triết tại đại học nổi tiếng MIT, đã đưa ra một nhận định sâu sắc trong cuốn The Religions of Man, trang 104, về tác dụng của những sự huyền bí trong tôn giáo. Giáo sư Smith cho rằng những cái gọi là huyền nhiệm và phép lạ đã biến tôn giáo trở thành "một kỹ thuật để phỉnh phờ hay ép buộc vô số những đứa trẻ ít hiểu biết trong vũ trụ làm những điều mà người ta muốn chúng làm" (a technique for cajoling or coercing innumerable cosmic bellhops to do what you wanted them to).
Chúng ta đều biết rằng Phật Giáo không coi trọng những chuyện huyền bí và siêu nhiên. Có 2 câu chuyện thú vị trong Phật Giáo chứng tỏ điều này. Câu chuyện thứ nhất là có một đệ tử trổ tài đi trên nước qua sông, cũng như gần 600 năm sau Chúa Giê-su trổ tài đi vài bước trên nước, hay Thánh Francois de Salle đi trên sóng. Đức Phật chỉ nhẹ nhàng nói: "Thật là tội nghiệp cho ngươi quá, mất công tập luyện nhiều năm chỉ để làm như vậy. Ta chỉ cần bỏ ra vài đồng tiền là ông lái đò có thể chở ta qua sông." Chuyện thứ hai là có một đệ tử trổ tài nhào lộn trên cây, Đức Phật bèn quở trách đệ tử đó. Trong cả hai chuyện, Đức Phật đã cho rằng những hành động siêu nhiên chẳng nói lên được điều gì, chẳng chứng tỏ được gì, và cũng chẳng có ích lợi gì cho việc tu tập trên con đường giải thoát, nhiều nhất chỉ là để mê hoặc những người trí tuệ thấp kém.
Giới giáo sĩ trong các Thần giáo thường dạy các tín đồ là kinh điển trong tôn giáo của họ chứa những điều huyền nhiệm mà chỉ có họ là hiểu được, và chỉ có họ là có thể diễn giảng đúng tinh thần của kinh điển. Và, để giữ độc quyền này, họ không muốn cho tín đồ tự mình đọc những kinh điển, sợ rằng tín đồ sẽ hiểu sai. Điều này rõ ràng nhất trong Công giáo Rô-ma. Lịch sử Công giáo cho biết, giáo hội cấm không cho dịch Thánh Kinh từ tiếng La-Tinh ra tiếng địa phương, và cấm luôn cả tín đồ không được tự mình đọc Thánh Kinh. Vi phạm điều này có thể bị tuyệt thông, hoặc tịch thu tài sản, hoặc bị xử tử. Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ cho rằng Giáo hội sợ tín đồ nhận ra những điều sai lầm và mâu thuẫn trong Thánh Kinh.
Phật Giáo trái hẳn lại. Đức Phật đã khuyên các đệ tử nên dùng ngôn ngữ, văn tự địa phương để truyền bá đạo Phật. Đi đến đâu, Kinh điển Phật Giáo cũng đều được dịch ra tiếng địa phương. Điển hình là ở Trung Hoa, Nhật Bản v..v.., ngay từ những thế kỷ đầu của thời đại này, các kinh điển Phật Giáo đã được dịch ra tiếng địa phương. Ở Âu Châu, đến thế kỷ 16, Martin Luther mới theo gót tinh thần khai phóng và dân chủ của Phật Giáo, chống lại chế độ giáo hoàng toàn trị của Công giáo và bắt đầu dịch Thánh Kinh sang tiếng Đức. Và từ đó, Ki-Tô giáo mới có những cuốn Thánh Kinh bằng tiếng địa phương, và cũng từ đó mà Ki Tô Giáo bắt đầu suy thoái vì đầu óc tiến bộ của con người không còn có thể chấp nhận những chuyện hoang đường ở trong Thánh Kinh không còn phù hợp với sự hiểu biết của nhân loại ngày nay.
Vài Lời Kết.
Viết bài này, tôi chỉ có mục đích duy nhất là trình bày cùng quý độc giả sự kiện là về các lãnh vực khoa học, tôn giáo và xã hội, nhiều tư tưởng Phật Giáo đã đi trước nhân loại khá xa. Bài viết này không có mục đích chống đối niềm tin của bất cứ ai trong bất cứ tôn giáo nào. Hiểu rõ là chúng sinh thì căn trí bất đồng nên tôi không có lý do gì để chống niềm tin của người khác mà tôi cho đó là quyền tuyệt đối của con người. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng, trong thời đại này, chúng ta không thể tự cho phép quay trở về thời Trung Cổ, làm ngơ trước những tiến bộ tư tưởng của con người. Cho nên bài viết này chẳng qua chỉ là trình bày phần nào một khía cạnh tiến hóa của tư duy nhân loại, dựa trên những kết quả nghiên cứu đáng tin cậy của những bậc thức giả trong mọi tôn giáo và trong khoa học.
Thay vì có vài lời kết luận, tôi xin giới thiệu cùng quý độc giả một cuốn sách có giá trị cao, đó là cuốn Sự Vô Tận Nằm Trong Lòng Bàn Tay: Từ Big Bang đến sự Tỉnh Thức (L'Infini Dans La Paume De La Main: Du Big Bang à L'Éveil) của Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận, xuất bản năm 2000 tại Pháp. Cuốn sách này nay đã được dịch sang tiếng Anh với tên: Một Cuộc Hành Trình Tới Những Tận Cùng Kiến Thức Ở Đó Khoa Học và Phật Giáo Gặp Nhau: Nguyên Lượng và Hoa Sen (A Journey To The Frontiers Where Science and Buddhism Meet: The Quantum and the Lotus) với đôi chút thay đổi trong bố cục và văn tự, xuất bản tại Mỹ năm 2001. Tuy nhiên, tôi phải nói ngay rằng, giá trị của cuốn sách này tùy thuộc trình độ hiểu biết của người đọc trong cả hai lãnh vực: khoa học và tôn giáo, nhất là Phật Giáo. Matthieu Ricard là đồng tác giả với ông bố Jean-Francois Revel trong cuốn sách nổi tiếng Le Moine et le Philosophe xuất bản năm 1998 ở Pháp. Cuốn sách này đã được dịch sang tiếng Việt: Tăng Sĩ và Triết Gia, và sang tiếng Anh: The Monk and the Philosopher. Matthieu là một khoa học gia trở thành một tăng sĩ Phật Giáo. Còn Trịnh Xuân Thuận, sinh trưởng trong một gia đình Phật Giáo, là giáo sư khoa học nghiên cứu các thiên thể (thiên văn học) , đại họcVirginia. Nội dung cuốn L'Infini Dans La Paume de la Main là những trao đổi ý kiến giữa Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận về khoa học Tây phương và triết lý Phật Giáo. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã cho rằng cuốn sách này là một đóng góp lớn lao cho sự hiểu biết rõ hơn bản chất thật của thế giới của chúng ta và đạo chúng ta sống trong đó.
Trong phần kết luận, khoa học gia Trịnh Xuân Thuận cho chúng ta biết rằng, tuy đã biết và đánh giá cao khía cạnh thực hành của Phật Giáo, giáo sư Thuận không tin rằng có thể có sự đối chiếu giữa khoa học và Phật Giáo, vì con đường thực nghiệm của khoa học và con đường quán chiếu nội tâm của Phật Giáo hoàn toàn khác nhau, cho nên Phật Giáo chẳng có gì mấy để nói về thế giới các hiện tượng, đối tượng nghiên cứu của khoa học.
(Je n'étais donc pas du tout sur qu'une démarche consistant à confronter la science et le bouddhisme puisse avoir un sens. Je redoutais que le bouddhisme n'ait que peu à dire sur la nature du monde phénoménal, car ce n'est pas sa préoccupation principale, alors que c'est fondamentalement celle de la science.)
Tuy nhiên, sau khi trao đổi ý kiến với Matthieu Ricard, giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã thay đổi ý kiến và ông viết:
Trong cuộc trao đổi ý kiến của chúng tôi, tôi đã nhận ra rằng sự e ngại của tôi là vô căn cứ: không những Phật Giáo suy tư về bản chất của thế giới, mà còn suy tư một cách sâu sắc và đặc thù...
Điều chính mà tôi học được từ cuộc đối thoại này là, không còn nghi ngờ gì nữa, có một sự hội tụ và cộng hưởng giữa hai cách nhìn thực tại của Phật Giáo và của khoa học. Một vài khẳng định của Phật Giáo về thế giới các hiện tượng đã đem đến một cách kỳ lạ những ý tưởng tiềm ẩn trong khoa học vật lý hiện đại, đặc biệt là hai lý thuyết vĩ đại, cột trụ của vật lý hiện đại: cơ học nguyên lượng - khoa vật lý về những vật vô cùng nhỏ - (nguyên tử và các hạt tiềm nguyên tử như điện tử, quark v..v.. TCN) và thuyết tương đối - khoa vật lý về những vật vô cùng lớn (vũ trụ học: sao, thiên hà v..v... TCN).
(À mesure que nos conversations se sont poursuivies, je me suis rendu compte que mes craintes n'étaient pas fondées: non seulement le bouddhisme a réfléchi sur la nature du monde, mais il l'a fait de facon profonde et original..
L'enseignement principal que j'en ai retiré est qu'il existe une convergence et une résonace certaines entre les deux visions, bouddhiste et scientifique, du réel. Certains énoncés du bouddhisme à propos du monde des phénomènes évoquent de manière étonante telles ou telles idées sous-jacentes de la physique moderne, en particulier des deux grandes théories qui en constituent les piliers: la mécanique quantique - physique de l'infiniment petit -, et la relativité - physique de l'infini grand.)
Tôi nghĩ, có lẽ chúng ta cũng không nên quên rằng, những tư tưởng và hiểu biết của Phật Giáo về thế giới các hiện tượng đã có từ cách đây trên 25 thế kỷ, trong khi hai thuyết vĩ đại nhất trong vật lý hiện đại, thuyết nguyên lượng và thuyết tương đối, mới chỉ được trí tuệ Tây phương nghĩ ra trong thế kỷ 20.
Trên đây tôi đã trình bày những quan niệm của Phật Giáo về vũ trụ nhân sinh, cùng những tư tưởng khai phóng của Phật Giáo về tôn giáo, xã hội và chứng minh là nhiều tư tưởng của Phật Giáo đã đi trước tôn giáo và khoa học Tây phương như thế nào. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi càng ngày thế giới, nhất là các xã hội văn minh tiến bộ Âu Mỹ, càng nhận ra chân giá trị của Phật Giáo. Một câu hỏi được đặt ra: Làm sao mà những tư tưởng Phật Giáo lại có thể đi trước khoa học Tây phương khi mà Phật Giáo không hề có và không hề dùng đến những dụng cụ đo lường khoa học? Làm sao mà Phật Giáo lại có thể đi trước những Thần Giáo trong đó có cả tôn giáo được thần linh mạc khải? Thật khó mà có thể trả lời nếu chúng ta không tin rằng do Thiền và Quán Chiếu nên Đức Phật đã nắm được bản chất, sự vận hành của vạn pháp, nghĩa là đã đạt đến mức "Như thực tri kiến". Đây là cách nhìn sự vật của Đức Phật mà mọi giáo lý Phật Giáo đều hướng đến mục đích dẫn dắt chúng ta đạt đến. "Như thực tri kiến" cũng là mục đích tối hậu của khoa học. Điểm hội tụ của Phật Giáo và Khoa Học chính là ở điểm này. Tuy nhiên, Phật Giáo còn đi xa hơn nữa, vì trong Phật Giáo, "Như thực tri kiến" không không đủ, mà chúng ta còn phải có một tâm từ bi vô lượng. Không có tâm từ bi thì không có Phật Giáo. Không có tâm từ bi thì Đức Phật đã không để lại cho chúng ta một giáo lý vô thượng vô đẳng. Từ là cho vui, và Bi là cứu khổ. Từ bi trong Phật Giáo tuyệt đối không có nghĩa là nếu người ta tát má này thì đưa má kia cho người ta tát thêm. Phật Giáo không có dạy chúng ta áp dụng từ bi để dung dưỡng bất công và bạo hành. Từ bi cũng không có nghĩa là hiểu sai "ái ngữ", nói lên những lời giả dối, sai sự thật, ve vuốt người khác với ảo tưởng là có thể gây sự hòa hợp một chiều. Một trong 5 giới căn bản của một Phật tử là không được nói sai sự thật. Đức Phật, sau khi giác ngộ, chẳng làm gì hơn là nói lên những sự thật liên hệ đến con người ngay trong đời sống này, giúp cho con người thấy được sự vật như chúng là như vậy, từ đó sẽ thoát khổ. Đây chính là cho vui và cứu khổ.
Viết bài này, tôi cũng không làm điều gì khác hơn là, trong phạm vi hiểu biết của tôi, cố gắng trình bày những điều mà tôi đã để tâm nghiên cứu và tin rằng ít ra chúng cũng không xa sự thật là bao.
http://sachhiem.net/TCNtg/TCN81.php
**Phật Giáo và Cuộc Cách Mạng Khoa Học
Trần Chung Ngọc
Cuộc cách mạng khoa-học phát khởi ở Tây phương từ thế kỷ thứ 16, phát triển mạnh trong thế kỷ thứ 17, mở đầu bằng những tư tưởng và công trình khảo cứu của Nicolaus Copernicus (1473-1543), Giordano Bruno (1548-1600), Galileo Galilei (1564-1642), Johannes Kepler (1571-1630) v...v...Người ta gọi đó là 1 cuộc cách mạng khoa học, bởi vì nhờ đó mà Tây phương thoát ra khỏi cảnh tăm tối đã kéo dài gần 1000 năm, từ năm 476 tới năm 1473. Thời gian này thường được gọi là thời Trung Cổ và cũng còn được gọi là thời kỳ tăm tối hay thời kỳ hắc ám (Dark Ages). Chính trong khoảng thời gian này, Tây phương đã bị thống trị bởi một ý thức hệ tôn giáo độc tôn. Những giáo điều, tín lý của Gia Tô Giáo, tôn giáo của Tây phương, cộng với quyền hành của các lãnh tụ tôn giáo ở địa vị nắm quyền, hay liên kết với những chính quyền đương thời, đã ngăn chặn sự phát triển khoa học và tự do tư tưởng của con người. Mọi khám phá khoa học, mọi tư tưởng trái ngược với Thánh Kinh đều bị lên án là 'tà đạo" (heretics), phải diệt trừ. Do đó, cũng chính trong khoảng thời gian này, Tây phương phải chịu đựng 8 cuộc Thánh Chiến (Crusades) và hàng trăm ngàn các vụ xử án dị giáo (Inquisitions), với kết quả là nhiều triệu người gồm già, trẻ, lớn, bé, trai, gái đã bỏ mạng vì, hoặc bị tàn sát, có khi tập thể; hoặc bị tra tấn bởi những dụng cụ tra tấn kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại (Hơn 40 dụng cụ tra tấn dã man này hiện được trưng bầy trong 1 bảo tàng viện nhỏ tên là Medieval Dungeon trên đường Jefferson, khu Fisherman Warf, tại San Francisco); hoặc bị treo cổ, hoặc bị đốt sống v...v..., tất cả chỉ vì họ không chấp nhận hay có những tư tưởng ngược với Thánh Kinh. Thánh chiến và tòa án xử dị giáo là những sản phẩm đặc thù của Gia Tô Giáo Âu Châu, vì người ta không thể tìm thấy những thứ này trong lịch sử của bất cứ tôn giáo nào ở Đông phương, nhất là Phật Giáo. Đó là những vết tỳ ố không sao tẩy xóa được trong lịch sử loài người, dù Giáo hội Gia Tô đã làm hết sức để quảng cáo cái bộ mặt "thánh thiện" ngụy trang dưới những chiêu bài như nhân quyền, từ thiện v..v.. với hi vọng làm cho thế giới ngày nay quên đi cái lịch sử tàn bạo của Giáo hội, đẫm máu và nước mắt của hàng triệu người vô tội. Nhưng trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, giáo hội Gia Tô không thể cứ mãi mãi che dấu tội lỗi trải dài suốt 2000 năm nay, cho nên, ngày 12 tháng 3, 2000, Giáo Hoàng John Paul II cùng 5 Hồng Y và 2 Tổng Giám Mục, trong một "thánh lễ" tại "thánh đường" Phê-rô, đã phải "xưng thú 7 núi tội lỗi" của "hội thánh", và "xin được tha thứ" .
ẢNH HƯỞNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC
Cuộc cách mạng khoa học đã gây nên hai ảnh hưởng to lớn: Trong giới khoa học, đó là khởi điểm của các tiến bộ khoa học hiện đại, vì từ đó các khoa học gia đã thoát ra khỏi sự thống trị tư tưởng của tôn giáo ; trong xã hội đại chúng, đó là khởi điểm của sự đạp đổ nền độc tài tôn giáo và những giáo điều lỗi thời, vì những khám phá khoa học mới đã có tác dụng mở mang dân trí, chấm dứt 1000 năm tăm tối, giải phóng con người khỏi sự chuyên chế độc tài của giới giáo sĩ Gia Tô, điển hình là cuộc cách mạng năm 1789 tại Pháp mà kết quả là tước bỏ quyền hành của giới giáo sĩ lãnh đạo Gia Tô giáo trong quần chúng. Để có một nhận định khách quan và trung thực về vấn đề trên, có lẽ chúng ta nên duyệt sơ sự diễn tiến của cuộc cách mạng khoa học, một cuộc cách mạng vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Tây phương, được viết trong các sách giáo khoa mà bất cứ sinh viên đại học nào học về khoa học cũng phải biết.
Trong thời Trung Cổ, tuy cũng có những tiến bộ về khoa học và toán học, nhưng về nhân chủng học và vũ trụ học, tất cả đều dựa trên Cựu Ước trong Thánh Kinh, một cuốn sách viết bởi nhiều người thuộc nhiều môn phái và trong nhiều thế kỷ. Ngoài ra, Tân Ước cũng được viết bởi nhiều người trong nhiều thế kỷ sau khi Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập giá. Tuy ngày nay, nhiều học giả nghiên cứu Thánh Kinh, và ngay cả những tín đồ Gia Tô tiến bộ, có đầu óc suy luận và kiến thức về khoa học, đều công nhận là cuốn Thánh Kinh chứa đầy những huyền thoại cóp nhặt từ các huyền thoại dân gian, đầy những sai lầm và mâu thuẫn, những tư tưởng dã man của thời bán khai với những cảnh giết chóc, tàn sát tập thể, loạn luân v...v... và hoàn toàn trái nghịch với những khám phá mới nhất đã được kiểm chứng của khoa học. Nhưng vào thời Trung Cổ, cuốn Thánh Kinh đã được giới lãnh đạo Gia Tô coi như chính là những lời của Thần Gia Tô, do đó không thể sai lầm.
Theo sự đoan quyết của các nhà thần học Gia Tô, dựa trên Thánh Kinh, thì thế giới mà chúng ta đang sống là thế giới duy nhất do Thượng Đế tạo ra, và trái đất là trung tâm của thế giới này. Mặt trời và các hành tinh khác đều do các thiên thần xoay vần xung quanh trái đất. Trên trái đất là 1 vòm trời cứng để giữ nước ở phía trên, có những cánh cửa mở để nước rơi xuống thành mưa theo hứng của Thượng Đế. Những sao trên trời là những ngọn đèn mà tối tối Thượng Đế mang ra treo. Vì đó là những lời của Thượng Đế trong Thánh Kinh nên bất cứ quan niệm nào không phù hợp với Thánh kinh đều bị coi là "tà thuyết" và, theo Thánh Philastre, đương nhiên "sai lầm đối với đức tin Gia-Tô" (Any other view, St. Philastrius declared "false to the Catholic faith" ("Science and Theology" by Andrew Dickson White)).
Nhưng vào đầu thế kỷ 16, Nicolaus Copernicus, một nhà thiên văn người Ba Lan, đã đưa ra một khám phá mới: đó là, không phải là mặt trời và các hành tinh quay xung quanh trái đất, mà chính là trái đất và các hành tinh quay xung quanh mặt trời. Copernicus không dám phổ biến khám phá này như là một sự thực khoa học. Nhưng cuối cùng ông cũng xuất bản một cuốn sách: "Chuyển động quay của các thiên thể" (Revolutions of the Heavenly Bodies) trong đó có ghi những khám phá của ông. Để tránh cho Copernius những hậu quả khó có thể lường trước được, trong phần đề Tựa cuốn sách, bạn của Copernicus là Osiander đã khéo léo trình bày công trình khảo cứu của Copernicus như là một giả thuyết (hypothesis) hay là một nghịch lý (paradox). Nhưng, khi cuốn sách vừa được xuất bản thì Copernicus qua đời, vào năm 1543. Do đó Tòa Thánh cũng làm ngơ và cho phép các nhà thần học thỉnh thoảng được bàn tới "giả thuyết" của Copernicus. Sự chống đối trong giới khoa học tuy có nhưng chỉ ngấm ngầm, không ai dám lên tiếng coi thuyết của Copernicus là một chân lý, vì sợ bị kết án là tà đạo, tra tấn, mang ra xử tại tòa án xử dị giáo, và đưa đi thiêu sống.
Tuy nhiên, có một triết gia thuộc loại "uy vũ bất năng khuất", đó là Giordano Bruno, một Linh mục dòng Dominique người Ý. Bruno không những đồng ý với Copernicus mà còn táo bạo hơn, đưa ra quan niệm là ngoài thế giới chúng ta đang sống có thể còn có nhiều thế giới tương tự khác nữa. Điều này trái với lời của Thượng Đế trong Thánh Kinh: "Trái đất là trung tâm của thế giới duy nhất mà chúng ta đang sống." Do đó, Bruno bị bắt giam trong 6 năm. Sau cùng, vì từ chối không chịu chấp nhận những điều trái với niềm tin mà ông cho là đúng, dù rằng nếu chấp nhận chúng ông sẽ được tự do, ông bị đưa ra tòa án xử dị giáo, kết án là có tội, dứt phép thông công và bị tuyên án tử hình bằng cách thiêu sống. Ông bị các linh mục, những người được Chúa dạy là phải thương yêu kẻ thù, dẫn từ nhà tù ra nơi hành hình. Ông bị cột vào một cọc xung quanh có chất củi. Rồi các linh mục, đệ tử của Chúa Ki-Tô, châm lửa và thiêu sống vị Thánh tử đạo vĩ đại nhất, hoàn hảo nhất này.
(He believed in a plurality of worlds, in the rotation of this, in the heliocentric theory. For these crimes, and for these alone, he was imprisoned for six years. He was offered his liberty, if he would recant. Bruno refused to stain his soul by denying what he believed to be true. He was tried, condemned, excommunicated and sentenced to be burned. He was taken from his cell by the priests, by those who loved their enemies, led to the place of execution..He was chained to a stake and about his body the wood was piled. Then priests, followers of Christ, lighted the fagots and flames consumed the greatest, the most perfect martyr, that ever suffered death. ("Ingersoll The Magnificient" By Joseph Lewis)).
Năm 1616, kính thiên văn đầu tiên của Galilei đã làm cho vòm trời trong Thánh Kinh rớt ra từng mảng. Công cuộc khảo cứu của Galileo Galilei dựa trên sự quan sát thiên văn qua hàng loạt những kính thiên văn ngày càng tân kỳ hơn, đã thực chứng quan niệm của Bruno và đồng thời khẳng định thuyết của Copernicus như là một chân lý khoa học. Chúng ta đã biết, năm 1633, dưới triều Giáo Hoàng Urban VIII, tòa án xử dị giáo đã buộc Galilei phải sửa đổi khám phá khoa học của ông cho phù hợp với Thánh Kinh, nghĩa là mặt trời quay xung quanh trái đất, và dù vậy vẫn biệt giam ông tại nhà cho đến khi ông chết vào năm 1642.
Ngoài ra, cùng thời với Galilei còn có nhà thiên văn và toán học người Đức là Johannes Kepler. Không những Kepler đồng ý với Copernicus và Galilei mà ông còn đưa ra 3 định luật về cơ học các thiên thể (celestial mechanics) để mô tả một cách vô cùng chính xác sự chuyển động của các hành tinh, trong đó có trái đất, xung quanh mặt trời. Đó là:
1. Quỹ đạo của các hành tinh quay xung quanh mặt trời là hình ellip (bầu dục) thay vì hình tròn.
2. Các hành tinh quét những khoảng không gian bằng nhau trong những khoảng thời gian bằng nhau.(Nghĩa là tùy theo vị trí của hành tinh trên quỹ đạo ellip, vận tốc chuyển động của hành tinh khác nhau)
3. Bình phương chu kỳ quay T (thời gian quay được một vòng quỹ đạo) thì tỷ lệ thuận với lập phương khoảng cách trung bình R giữa hành tinh và mặt trời. (T^2 tỷ lệ thuận với R^3).
Kepler cũng bị Tòa Thánh chỉ trích, hành hung và bắt bớ giam cầm trong nhiều năm, nhưng các khoa học gia khác như Descartes, Fermat,Newtonv...v...đều ủng hộ ông cùng góp phần phát minh ra những khám phá mới. Sau cùng, giáo hội Gia Tô chỉ còn biết đưa ra sắc lệnh lên án các kết quả khảo cứu của Copernicus và Galilei là sai lầm, thí dụ như: "Điểm thứ nhất, nói rằng mặt trời là trung tâm và không quay xung quanh trái đất, là điên rồ, vô nghĩa, sai lầm về thần học, và là tà thuyết vì trái ngược hẳn với Thánh Kinh; và điểm thứ hai, nói rằng trái đất không phải là trung tâm mà lại quay xung quanh mặt trời , là vô nghĩa, sai lầm về triết lý, và ít nhất từ quan điểm thần học, đối nghịch với đức tin chân thật" (The first proposition, that the sun is the centre and does not revolve about the earth, is foolish, absurd, false in theology, and heretical, because expressely contrary to the Holy Scriptures; and the second proposition, that the earth is not the centre but revolves about the sun, is absurd, false in philosophy, and from a theological point of view at least, opposed to the true faith. ("The Scientific Revolution" Edited by Vern L. Bullough.)) và cấm các giáo sĩ và con chiên đọc sách của Copernicus và Galilei. Lệnh cấm này kéo dài suốt 278 năm cho tới năm 1821 mới được Giáo Hoàng Pius VII thu hồi. Nhưng cấm thì cứ cấm, giới trí thức cùng người dân đọc thì vẫn cứ đọc. Dần dần quyền hành tôn giáo ở Âu Châu không còn địa vị độc tôn và giữ quyền sinh sát như trước nữa, vì cuộc cách mạng khoa học và các phát triển khoa học về sau trong mọi ngành, nhất là về nhân chủng học và di truyền học, và phương pháp định tuổi của vật chất bằng phóng xạ đồng vị của Carbon và của vài nguyên tố khác đã làm sụp đổ tận gốc rễ thuyết sáng tạo trong Thánh Kinh, căn bản tín ngưỡng của Gia Tô giáo . Đó là ảnh hưởng trực tiếp to lớn của cuộc cách mạng khoa học trên xã hội Tây phương. Ngày nay, những người còn tin ở thuyết sáng tạo là do lòng tin lập thành trong tôn giáo chứ không phải lòng tin qua suy lý khoa học.
Nhiều trí thức khoa học hiện đại đã đặt vấn đề: trong một bối cảnh lịch sử cách mạng khoa học như trên, thái độ của Phật Giáo sẽ ra sao? Cũng có vài trí thức Tây phương cho rằng có thể thái độ của Phật Giáo cũng tương tự như của Thiên Chúa Giáo (Some Western writers on religion seem to have assumed that this was so ("Buddhism and the Scientific Revolution" By K. N. Jayatilleke)), nhưng những người hiểu biết chút ít về Phật Giáo thì lại bác bỏ hoàn toàn luận cứ này.
PHẬT GIÁO VÀ TINH THẦN KHOA HỌC
Thật vậy, giáo lý căn bản của Phật giáo là chứng nghiệm bản thân, cho nên rất phù hợp với tinh thần khoa học. Hơn nữa, Phật Giáo không có Thánh Kinh, không có "bí tích" bắt buộc phật tử phải tin, không có thần quyền, không có giáo điều khô cứng, cho nên chúng ta có thể đoan chắc rằng Phật giáo sẽ rất hòa hợp với những sáng tạo trong khoa học đừng nói đến chuyện đối kháng hay tìm cách ngăn chặn, diệt trừ.
Về phương diện thuyết lý, quan niệm về vũ trụ của Bruno rất phù hợp với quan niệm của Phật Giáo cách đây đã hơn 2500 năm về trước, rằng ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có hằng hà sa số thế giới khác. Nếu Bruno sống trong một xứ Phật Giáo thì Bruno sẽ được tôn vinh thay vì đưa lên giàn hỏa để thiêu sống. Quan niệm tương đối trong các Kinh Phật không có gì trái nghịch với quan niệm của Copernicus và Galilei về các chuyển động của trái đất và các hành tinh xung quanh mặt trời. Thật vậy, theo Phật Giáo thì mọi sự vật trên thế gian đều chỉ là tương đối. Điều này có nghĩa là hình sắc, tính chất của mọi sự vật luôn luôn biến đổi tùy theo cảnh giới trong đó sự vật thể hiện. Nói một cách giản dị thì tương đối có nghĩa là "thấy vậy mà không phải vậy", bởi lẽ tùy theo quan điểm và vị thế quan sát của mỗi người, danh từ khoa học gọi là "hệ thống qui chiếu", hình sắc và tính chất của một vật có thể khác nhau (Kinh Thủ Lăng Ngiêm). Cho nên, một Thiền Sư hay một phật-tử có thể hiểu rất rõ rằng trong Thái Dương Hệ thì trái đất quay xung quanh mặt trời, nhưng hàng ngày thì vẫn thấy mặt trời "mọc" ở phương Đông và "lặn" ở phương Tây. Hai điều này không có gì là trái ngược nhau, vì một thuộc Chân Đế và một thuộc Tục Đế.
Cuộc cách mạng khoa học đã mở đầu cho một kỷ nguyên mới cho nền khoa học tân tiến hiện đại, và cho tới ngày nay khoa học đã đạt được nhiều thành quả ngoạn mục trong mọi ngành. Song song với sự phát triển của khoa học, càng ngày các khoa học gia càng nhận ra sự tương đồng giữa những quan niệm xa xưa của Phật Giáo và những khám phá mới của Khoa học, và trong nhiều vấn đề tư tưởng Phật Giáo đã đi trước khoa học khá xa. Không những vậy,trong nhiều trường hợp, các khoa học gia đã phải mượn những tư tưởng trong Phật Giáo để giải thích những hiện tượng khoa học. Lẽ dĩ nhiên, trong một bài báo ngắn ngủi tôi không thể nào kể ra hết những sự tương đồng, dù chỉ ở ngoài mặt, giữa khoa học và Phật Giáo. Sau đây tôi chỉ xin nêu ra vài thí dụ quen thuộc.
Sự phát minh ra kính hiển vi rồi kính hiển vi điện tử đã giúp con người nhìn thấy những vật nhỏ li ti như các vi khuẩn mà mắt thường không thể nhìn thấy được. Nhưng ngày xưa, Đức Phật đã dạy các đệ tử mỗi khi uống nước hãy niệm chú để phổ độ cho các chúng sinh nhỏ nhoi ở trong nước và ngài còn khẳng định trong mỗi giọt nước có tới 84000 vi vật. Chúng ta nên hiểu con số trên, tuy có nhiều ý nghĩa, nhưng trong trường hợp này tượng trưng cho một con số lớn chứ không phải là một con số chính xác. Điều Đức Phật dạy như trên ngày nay chúng ta có thể kiểm chứng bằng kính hiển vi. Đọc Kinh Phật càng ngày tôi càng thấy nhiều điều kỳ lạ. Ở một thời chưa có những dụng cụ khoa học tinh vi, nền khoa học Tây phương còn phôi thai, mà Đức Phật đã biết những điều mà hơn 2000 năm sau khoa học tiến bộ Tây phương mới kiểm chứng được, tôi nghĩ không có cách giải thích nào khác ngoài sự tin tưởng rằng Đức Phật đã biết rõ cơ cấu huyền bí của vũ trụ. Thí dụ sau đây sẽ chứng tỏ luận cứ trên không phải là hoang đường.
Chúng ta đã biết, về thời gian thì Phật giáo có quan niệm "vô thỉ, vô chung", không có bắt đầu và cũng không có tận cùng. Và khi được hỏi là vũ trụ hữu hạn hay vô hạn, hay vừa hữu hạn vừa vô hạn, hay vừa không hữu hạn vừa không vô hạn, thì Đức Phật giữ yên lặng, không trả lời. Có người diễn giảng là: sự hiểu biết về những vấn đề này không ích lợi gì cho sự tu tập trong Phật giáo nên Đức Phật không trả lời để cho hành giả khỏi vướng mắc vào những sự viển vông mà lo vấn đề tu tập, thực tế hơn. Cũng có người giảng giải là Đức Phật giữ yên lặng để hiển dương tính vô chấp trong Phật Giáo. Nhưng nếu chúng ta tìm hiểu ít nhiều về những tiến bộ của khoa học hiện đại thì có thể chúng ta sẽ thấy rằng Đức Phật không trả lời vì Người đã nắm vững cơ cấu huyền bí của vũ trụ, và thái độ của Người cách đây hơn 2500 năm hoàn toàn phù hợp với những khám phá hiện đại nhất của khoa học.
Thật vậy, các khoa học gia, tuy chưa đạt tới kết luận chung cùng về nguồn gốc loài người và nguồn gốc vũ trụ, nhưng tất cả đều đồng ý là thuyết sáng tạo có rất nhiều mâu thuẫn, vô lý, và phản khoa học. Thí dụ như ánh sáng là những sóng điện từ và màu sắc của ánh sáng tùy thuộc tần số dao động của ánh sáng. Ta có thể phân một loại ánh sáng, thí dụ như ánh sáng trắng, ra làm nhiều ánh sáng màu sắc khác nhau qua một chiếc lăng kính chẳng hạn, nhưng ánh sáng không phải là một "vật" mà ta có thể chia làm 2 phần, sáng và tối, như Thượng Đế đã làm trong ngày thứ nhất của thuyết sáng tạo. Tối là vì không có ánh sáng chứ tối không phải là một phần của ánh sáng. Thí dụ thứ hai là khoa di truyền học ngày nay đã chứng tỏ rằng các giống người khác nhau là do di truyền. Không có một cặp vợ chồng người ViệtNamnào có thể sinh ra một đứa con Phi Châu. Vậy nếu nhận Adam và Eve là tổ tông loài người thì một câu hỏi được đặt ra là Adam và Eve là người giống nào, da đen? da trắng? da đỏ? da vàng? Và những sắc dân khác nhau này từ đâu mà ra? Chúng ta nên nhớ rằng, theo Thánh Kinh thì Thần Gia Tô mới tạo ra thế giới và Adam cách đây 6000 năm, trong khi khoa học đã chứng minh rằng trái đất của chúng ta đã có tuổi ít ra là 4 tỷ rưỡi năm, và tổ tiên loài người đã xuất hiện trên trái đất cả gần 2 triệu năm nay rồi. Đọc Cựu Ước, chúng ta thấy rõ là Adam và Eve là tổ tiên của giống người Do Thái, vậy làm sao mà Adam và Eve có thể là tổ tông của những giống người khác như da đen hay da vàng v..v.. Người ViệtNamchúng ta tuyệt đối không liên hệ gì tới những nhân vật hoang đường như Adam và Eve trong lịch sử Do Thái. Charles Darwin đã đưa ra thuyết tiến hóa, và càng ngày những bằng chứng tràn ngập trong mọi bộ môn khoa học càng chứng tỏ thuyết tiến hóa củaDarwinlà đúng. Phật giáo và khoa học đều không chấp nhận thuyết sáng tạo. Đặc biệt, thuyết tiến hóa củaDarwinkhông xa với thuyết duyên sinh của Phật Giáo bao nhiêu. Tôi sẽ bàn tới sự tương đồng này ở một nơi khác. Hi vọng trong tương lai khoa học sẽ đưa ra một thuyết phù hợp với những quan niệm về nghiệp chuyển, vô thỉ vô chung, và duyên sinh của Phật giáo.
THỜI GIAN VÀ VỦ TRỤ
Sau đây tôi xin trình bày hết sức sơ lược quan niệm về thời gian và vũ trụ của khoa học hiện đại. Chúng ta sẽ thấy những quan niệm này cũng là những quan niệm xa xưa của Phật giáo. Vấn đề khá phức tạp nhưng phần lớn những điều tôi viết sau đây đều có thể chứng minh bằng toán học.
Thuyết tương đối suy rộng (general theory of relativity) của Albert Einstein đã vô cùng thành công trong việc giải thích thuyết về trọng trường, nghĩa là vạn vật hấp dẫn (theory of gravitation). Trong những thập niên 1960 và 1970, các khoa học gia đã làm nhiều thí nghiệm để kiểm chứng những sự tiên đoán dựa vào thuyết này, và trong mọi trường hợp, thuyết tương đối suy rộng đã được công nhận là đúng. Thuyết tương đối, tuy rất thành công trong việc tiên đoán các hiện tượng ở cấp thô đại, nhưng lại gặp nhiều khó khăn chưa giải quyết được khi áp dụng thuyết này vào những trường hợp ở cấp cực vi, tiềm nguyên tử (subatomic), cấp vật chất thuộc lãnh vực khảo sát của cơ học nguyên lượng (quantum mechanics). Tuy nhiên, thuyết tương đối của Einstein đã cho chúng ta một hình ảnh chính xác về vũ trụ: " vũ trụ có thể có 3 cấu hình, hoặc mở, hoặc đóng, hoặc phẳng dẹt." (Einstein's theory tell us that there are three possible configurations that the universe might have. It is either open, or closed, or flat. ("The Edges of Science" By Richard Morris)). Nhưng dù theo cấu hình nào thì vũ trụ cũng phát khởi từ một sự bùng nổ lớn (big bang). Thuyết "big bang" ngày nay đã được mọi người chấp nhận kể cả Gia Tô giáo như tôi sẽ trình bày hết sức sơ lược sau đây. Tôi sẽ viết kỹ hơn và đầy đủ hơn về thuyết Big Bang trong một bài khác.
Thuyết "big bang" bắt nguồn từ sự khám phá ra hiện tượng "vũ trụ nở rộng" (expansion of the universe) của Edwin Hubble vào năm 1929. Hubble quan sát được rằng, các thiên hà (galaxy) cứ di chuyển mỗi ngày một xa trái đất hơn, và thiên hà nào càng ở xa trái đất thì di chuyển càng nhanh, và khoảng cách giữa các thiên hà cũng càng ngày càng xa dần. Điều này chứng tỏ vũ trụ không cố định mà càng ngày càng nở rộng. Tính ngược thời gian thì tại một thời điểm nào đó, cách đây khoảng 15 tỉ năm, vũ trụ chỉ là một dị điểm (singularity) vô cùng nóng và vô cùng đặc theo nghĩa dị điểm này có 1 chất lượng vô tận (infinite mass). Dị điểm này bùng nổ và biến đổi dần dần thành vũ trụ hiện nay. Sự bùng nổ lớn này (big bang) được coi như là nguồn gốc của vũ trụ, và vũ trụ có cấu hình nào, đóng, hay mở, hay phẳng dẹt, là do số lượng vật chất có trong vũ trụ. Không đi vào chi tiết, vũ trụ đóng là một vũ trụ hữu hạn trong đó không gian tự khép lại trên chính nó nhưng không có biên giới. Khuôn mẫu này khá trừu tượng nhưng có thể mô tả được bằng toán học và người ta có thể tìm hiểu tính chất của nó một cách khá chi tiết. Lượng vật chất trong vũ trụ đóng này sẽ làm cho vũ trụ ngưng nở rộng trong tương lai và vũ trụ lại co lại dần dần thành 1 dị điểm như lúc đầu, danh từ khoa học gọi là sự "tới hạn lớn" (big crunch). Vũ trụ mở thì vô hạn (infinite), luôn luôn nở rộng vì lượng vật chất trong đó không đủ để làm ngưng sự nở rộng này. Trọng trường có thể làm cho sự nở rộng càng ngày càng chậm nhưng không bao giờ ngưng. Vũ trụ phẳng dẹt là vũ trụ trong đó lượng vật chất đã tới hạn, nghĩa là vừa đủ để làm cho sự nở rộng hầu như ngưng lại mà không phải là ngưng.
Như trên đã nói, thuyết "big bang" đã được hầu như mọi người đều chấp nhận kể cả Gia Tô Giáo La Mã. Thật vậy, Stephen Hawking, một vật lý gia nổi tiếng nhất hiện nay về những thuyết vũ trụ của ông đã kể như sau:
"Năm 1981, khi dự một cuộc hội thảo về vũ trụ học do các cha dòng Tên tổ chức ở Vatican, tôi lại quan tâm tới vấn đề nguồn gốc và số phận của vũ trụ. Giáo hội Gia Tô đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng đối với Galileo khi đặt luật lệ tôn giáo trên 1 vấn đề khoa học, rằng mặt trời quay xung quanh trái đất. Nay, nhiều thế kỷ sau, giáo hội quyết định mời một số chuyên gia để cố vấn cho họ về vũ trụ học. Cuối cuộc hội thảo, các tham dự viên được hội kiến với Giáo hoàng. Ông ấy bảo chúng tôi rằng có thể nghiên cứu về sự tiến hóa của vũ trụ sau sự nổ bùng lớn, nhưng không nên tìm hiểu về chính sự bùng nổ lớn vì đó là lúc sáng tạo và đó là sáng tạo của Thượng Đế. Tôi rất mừng vì ông ta không biết đến đề tài mà tôi mới trình bày trong cuộc hội thảo - có thể là miền không-thời gian hữu định nhưng không có biên giới, nghĩa là không có bắt đầu, không có lúc Sáng Tạo."
(In 1981 my interest in questions about the origin and fate of the universe was reawakened when I attended a conference on cosmology organized vy the Jesuits in theVatican. The Catholic Church had made a bad mistake with Galileo when it tried to lay down the law on a question of science, declaring that the sun went around the earth. Now, centuries later, it had decided to invite a number of experts to advise it on cosmology. At the end of the conference the participants were granted an audience with the pope. He told us that it was all right to study the evolution of the universe after the big bang, but we should not inquire into the big bang itself because that was the moment of Creation and therefore the work of God. I was glad then that he did not know the subject of the talk I had just given at the conference - the possibility that space-time was finite but had no boundary, which means that it had no beginning, no moment of Creation. ("A Brief History of Time" By Stephen Hawking, p. 116)).
Theo Stephen Hawking thì "điều kiện biên của vũ trụ là không có biên giới". Vũ trụ có tính cách hoàn toàn tự có sẵn và không bị ảnh hưởng của bất cứ gì ở ngoài nó. Vũ trụ chẳng sanh chẳng diệt. Nó là như vậy. ("The boundary condition of the universe is that it has no boundary." The universe would be completely self-contained and not affected by anything outside itself. It would neither be created nor destroyed. It would just be. (Ibid., p. 136)).
Một câu hỏi liên quan đến quan niệm về thời gian là: Trước sự bùng nổ lớn thì thời gian ra sao? Theo khoa học thì khi vũ trụ là một dị điểm thì tất cả những định luật vật lý, kể cả quan niệm về thời gian đều không áp dụng được. Vì khi đó thời gian không còn tính chất của thời gian nữa, ít nhất là theo nghĩa chúng ta thường hiểu về thời gian. Cho nên, không thể nói là vũ trụ bắt đầu từ đâu, sanh ra từ đâu. Thuyết này đã được kiểm chứng bằng toán học và hoàn toàn phù hợp với những sự kiện trong khuôn mẫu nở rộng của vũ trụ (inflationary paradigm). Theo Hawking, nếu vũ trụ chẳng sanh thì tất nhiên nó cũng chẳng diệt, vì thời gian cũng trở thành vô biên (no boundary in time). Nếu thuyết của Hawking đúng thì vũ trụ có cấu hình đóng như đã mô tả ở trên, nghĩa là tới một thời điểm nào đó thì vũ trụ ngưng dãn thêm và bắt đầu co dần trở lại thành 1 dị điểm. Vậy sau đó thì sao? Câu hỏi này không thích hợp vì không có gì có thể gọi là "sau đó". "Sau đó" nằm trong quan niệm về một dòng thời gian, nhưng thời gian lại mất thời gian tính khi vũ trụ là một dị điểm, cho nên những thắc mắc về "trước big bang" và "sau big crunch" là những thắc mắc vô nghĩa.
Chúng ta thấy rằng, những thuyết mới nhất về vũ trụ trong khoa học hiện đại rất phù hợp với quan niệm "vô thỉ vô chung", "vô thường" của Phật Giáo, và thái độ giữ yên lặng của đức Phật trước những câu hỏi về siêu hình đã phản ánh sự kiện nắm vững cơ cấu huyền bí của vũ trụ của Người. Cho nên, chúng ta có thể nói, đối với cuộc cách mạng khoa học, Phật giáo không có gì phải chống đối, vì thật ra cuộc cách mạng khoa học đã nằm trong các tư tưởng Phật giáo rồi. Kinh điển Phật giáo là một rừng tư tưởng vĩ đại, rất phù hợp với tính chất thực tế của khoa học, tự hợp (self-consistent), tự giải (self-explained), hoàn toàn không có chút nào huyền hoặc, viển vông. Tâm Kinh viết rằng: "Không tướng của mọi Pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng tăng chẳng giảm" chẳng phải đã nói lên tính chất không phụ thuộc vào thời gian, không gian, mà còn đi xa hơn, không phụ thuộc vào cả tính chất vật lý nữa? Các Thiền sư thường nói: thực chứng được Tính Không của mọi Pháp là thực chứng được Phật Tánh. Nay chúng ta đã hiểu tại sao một số luận gia đã so sánh Phật Tánh, Chân Như với Vũ Trụ vì ngoài đặc tính chẳng sanh chẳng diệt, chẳng tăng chẳng giảm (lượng vật chất trong vũ trụ luôn luôn như vậy bất kể vũ trụ co hay dãn), ngày nay, một số khoa học gia còn quan niệm phải nhìn vũ trụ một cách toàn ký (holographic view of the universe). Cách nhìn toàn ký vũ truà nội dung của Kinh Hoa Nghiêm, hiển nhiên không thuộc phạm vi đề tài của bài viết này.
http://www.buddhismtoday.com/viet/kh/004-cachmangKH.htm
**Những đặc tính khoa học trong Phật Giáo
Trần Chung Ngọc
ĐPNN: Chân thành cảm ơn giáo sư Trần Chung Ngọc đã ưu ái dành cho ĐPNN nhiều bài viết về Phật giáo và Khoa học. Bài này là một trong loạt bài viết về cùng đề tài của giáo sư Trần Chung Ngọc, sẽ được Giao Điểm xuất bản trong tương lai gần. Mục đích của tác giả khi viết về chủ đề này là nhằm khẳng định tính tương thích và tiên phong của Phật giáo trong khoa học, và hơn hết cho thấy các giới hạn của khoa học trong việc phục vụ đời sống đạo đức hướng thượng và tâm linh cho con người, so với giáo pháp của đức Phật. Các bài viết này, trên cơ sở đó, sẽ giúp người Phật tử xóa bỏ các mặc cảm, nếu có, đối với khoa học, và xác lập niềm tin chân chánh trên đường thực hành lời Phật dạy. Kính mời quý độc giả đón đọc quyển sách bằng tiếng Việt tiên phong trong lãnh vực mới mẻ này.
Cách đây hơn 20 năm, Fritjof Capra xuất bản cuốn Đạo của Vật Lý (The Tao of Physics). Cuốn này tức thời nổi tiếng, cả hai giới khoa học và bình dân đều tán thưởng cuốn sách này. Phản ứng trên thật ra cũng dễ hiểu, vì có thể nói đây là lần đầu tiên một vật-lý-gia đã viết một cách bình dân dễ hiểu để đưa ra và so sánh khá nhiều những sự giống nhau giữa những quan niệm mới của khoa vật-lý-học các hạt nhỏ và triết lý tôn giáo Đông Phương, đặc biệt nhất là Đạo Phật. Sau đó Gary Zukav xuất bản cuốn Điệu Vũ Của Các Thầy Vật-Lý (The Dancing of Wu-Li Masters), và Michael Talbot, cuốn Huyền Nhiệm học và Vật-Lý Mới (Mysticism and the New Physics). Hai cuốn này viết theo đường hướng giống như của Capra nhưng không có gì đặc biệt hơn, và cũng không nổi tiếng bằng cuốn The Tao of Physics.
Có một điểm chung trong cả ba cuốn sách nêu trên: muốn giải thích một số hiện tượng trong ngành Vật- Lý các hạt nhỏ ở mức năng lượng cao (high energy particle physics), các khoa học gia phải nhờ vào những quan niệm xa xưa của các tôn giáo Đông Phương, nhất là Đạo Phật. Nói cách khác, triết lý Phật-Giáo đã giúp các khoa học gia giải quyết được một số khó khăn trong ngành vật-lý mới. Trong khi đó, gần đây, một số phật-tử, có lẽ có mặc cảm trước những hào quang tiến bộ của khoa học vật chất, lại theo con đường ngược lại, tìm cách dùng khoa học để "chứng minh" một số quan niệm trong Phật Giáo, cho rằng như vậy là để làm tăng uy tín của Phật Giáo. Tôi cho rằng đấy là một hành động ngược chiều.
Trong bài này tôi sẽ cố gắng trình bày để các độc giả thấy rõ phần nào một sự thực: những căn bản, phương pháp khảo cứu khoa học, những tiêu chuẩn khảo cứu trong khoa học thực nghiệm v..v.. đều có thể tìm thấy trong những kinh điển Phật Giáo, chưa kể tới một số thành quả trong khoa học tân tiến ngày nay chẳng qua cũng chỉ là khám phá lại những điều mà đức Phật và các đệ tử truyền thừa đã khám phá ra từ hơn 2000 năm về trước. Nhưng trước hết, có lẽ chúng ta cũng nên duyệt qua vài nhận định về Phật Giáo và Khoa-Học của một số người có tên tuổi trong cộng đồng quốc tế.
Vài nhận định về Phật Giáo và Khoa-Học
1. Albert Einstein, nhà khoa-học nổi tiếng nhất thế kỷ 20 về thuyết tương đối trong vật-lý, đã phát biểu như sau:
"Nếu có một tôn giáo nào thích nghi được với những nhu cầu khoa học tân tiến thì đó là Phật Giáo."
(If there is any religion that would cope with modern scientific needs it would be Buddhism).
2. Sir Edwin Arnold, người nổi tiếng về cuốn thơ Ánh Sáng Á Châu (The Light of Asia), khẳng định rằng:
"Tôi thường nói, và tôi sẽ còn nói hoài, là giữa Phật-Giáo và Khoa- học tân tiến có một mối liên hệ trí thức mật thiết."
(I have often said, and I shall say again and again, that between Buđhism and modern Science there exists a close intellectual bond.)
3. Bertrand Russell, nhà triết-học và toán-học nổi tiếng hoàn cầu, trong cuốn Lịch sử triết học Tây Phương (History of Western Philosophy) đã viết:
"..Phật-Giáo là một tổ hợp của triết lý suy cứu và triết lý khoa học. Phật Giáo ủng hộ phương pháp khoa học và theo phương pháp này để tới một cứu cánh có thể gọi là thuần lý. Phật Giáo còn tiếp tục tiến xa hơn khoa học nơi khoa học không thể tiến thêm vì khoa học bị giới hạn bởi những dụng cụ vật lý."
(..Buddhism is a combination of both speculative and scientific philosophy. It advocates the Scientific method and pursues that to a finality that may be called rationalistic...It takes up where science cannnot lead because of the limitations of the latter's physical instruments.)
4. Tiến sĩ Radhakrishnan:
"Nếu Phật Giáo hấp dẫn đối với trí óc tân tiến đó là vì Phật Giáo có tinh thần khoa học, thực nghiệm, chứ không phải là dựa trên bất cứ tín điều nào"
(If Buddhism appealed to the modern mind it was because it was scientific, empirical and not based on any dogma.)
5. Tiến sĩ Graham Howe, nhà Phân Tâm Học nổi tiếng của Anh Quốc. đã nói như sau:
"Đọc một chút về Phật Giáo ta cũng có thể nhận thức được rằng, từ 2500 năm trước, Phật Giáo đã biết về những vấn đề mới về tâm lý nhiều hơn là chúng ta thường biết tới. Họ nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức giải quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ khám phá lại trí tuệ thông thái cổ xưa của Đông phương."
(To read a little Buddhism is to realize that the Buddhists knew, 2,000 years ago, far more about modern problems of psychology than they have been given credit for. They studied these problems long ago and found the answers also. We are now rediscovering the ancient wisdom of the East.)
Chúng ta hãy tìm hiểu tại sao những nhân vật nổi danh trên, và nhiều nhân vật khác nữa mà tôi không thể kể hết ra đây, lại đưa ra những nhận định như vậy.
A) Chúng ta biết rằng đối tượng khảo sát của khoa vật-lý-học là vật chất. Khi khảo sát vật chất, các khoa học gia thường dùng năm giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân để biết về những đối tượng của giác quan như hình tướng, âm thanh, mùi, vị, cảm giác qua sự tiếp xúc, và những thứ còn lưu lại trong ý thức. Ngoài ra những khảo sát khoa học thường được đặt trong những khái niệm về thời gian, phương hướng, vận tốc di chuyển, thứ tự, và số lượng, cộng với những dụng cụ đo lường do con người phát minh để đáp ứng những nhu cầu khảo sát. Nếu chúng ta biết về Duy-Thức Học trong Phật Giáo thì chúng ta thấy rằng các khoa học gia chỉ dùng có 16 phần trăm của số 100 Pháp được phân loại thành 8 Tâm Pháp, 51 Tâm-Sở-Hữu Pháp, 11 Sắc Pháp, 24 Tâm-Bất-Tương-Ưng Hành Pháp, và 6 Vô-Vi Pháp (Xin đọc Đại-Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận), nghĩa là các khoa-học-gia chỉ xử dụng tới 11 Sắc Pháp trong đó có 5 căn là nhãn căn, nhĩ căn, tỉ căn, thiệt căn, và thân căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân thể); và 6 trần là sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trần, và Pháp trần (hình tướng, âm thanh, mùi, vị, cảm giác do tiếp xúc, và bóng dáng của 5 trần trên còn lưu lại trong ý thức khi các căn không còn tiếp xúc trực tiếp với trần nữa), cộng với 5 tâm pháp trong số 21 tâm-bất-tương-ưng hành pháp là thời gian, phương hướng, vận tốc di chuyển, số lượng, và thứ tự (thời, phương, thế tốc, số, và thứ đệ). Ở đây tôi không có ý định đi sâu vào thiên luận 100 Pháp đại thừa mà chỉ muốn nói lên điểm cốt yếu như sau: khi mà khoa học không thể tiến hơn được nữa vì những giới hạn tự tại của 5 căn 6 trần và của những dụng cụ đo lường thì Phật Giáo vẫn tiếp tục đi xa hơn, bởi lẽ Phật Pháp, ngoài sự khảo sát những đối tượng vật chất còn chú trọng nhiều đến những vấn đề tâm linh, cho nên đã vượt qua, đi ra ngoài những giới hạn vật lý của khoa-học. Do đó chúng ta có thể nói Phật Giáo là một Siêu-Khoa-Học (Super-science) được thành lập trên căn bản trí tuệ Bát Nhã (trí tuệ nhận thức được thực tướng của vạn Pháp). Trong Phật Giáo, Duy-Thức Học cho chúng ta một hệ thống triết lý, phân tâm học rất đầy đủ và tiến bộ hơn bất cứ hệ thống nào trong khoa học hiện đại.
B) Nếu chúng ta đã quen với cách viết một bản phúc trình khoa học thì chúng ta thấy rằng, ngay ở phần đầu của bản phúc trình chúng ta phải liệt kê những điểm sau đây: tên người phụ trách chính và các phụ tá nếu có, thời gian và nơi làm thí nghiệm, đối tượng của thí nghiệm, những vật liệu và dụng cụ máy móc dùng để làm thí nghiệm, trước khi viết phần chính của bản phúc trình. Điều này hầu như là một mẫu mực chung trong giới khoa học.
Nay ta thử đi vào cấu trúc của các kinh điển Phật Giáo.
Kinh điển Phật Giáo
Tất cả kinh Phật đều được bắt đầu bằng một phần thông tự mà ngay đầu tiên là 6 điều tin chứng hay 6 điều thành tựu (lục-chủng-chứng-tín hay lục-chủng-thành-tựu): Tín, Văn, Thời, Chủ, Xứ, Chúng. Muốn hiểu rõ hơn chúng ta hãy lấy một thí dụ: Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm bắt đầu bằng: "Tôi nghe như vậy, một thời nọ, Phật ở tại tịnh xá Kỳ Hoàn, thành Thất La Phiệt, cùng 1250 đại Tỳ Khưu ..." "Như vậy" biểu thị một khẳng định đáng tin (Tín), "Tôi nghe" biểu thị nguồn gốc của sự hiểu biết (Văn), "Một thời nọ" chỉ định thời gian tính (Thời), "Phật" chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vị hóa chủ của đại chúng và là người thuyết Kinh (Chủ), "Tại ..." chỉ nơi thuyết Kinh (Xứ), "Cùng với ...." chỉ những người nghe Phật thuyết Kinh (Chúng). Như vậy, phần thông tự chứng tỏ tính chất xác thực của Kinh, và 6 điểm kể trên đã dự phần bố trí hệ thống của toàn Kinh và biện chứng để dẫn khởi lòng tin tưởng của người học Phật, cho nên được gọi là 6 điểm thành tựu. Cái tinh thần chính xác, rõ ràng, minh bạch của Kinh Phật cũng là cái tinh thần mà các khoa học gia ngày nay đòi hỏi phải hội đủ trong bất cứ một công cuộc thí nghiệm nào.
C) Đi thêm vào chi tiết, nếu chúng ta đọc cuốn huấn thị cho khoa học (Instruction Book of Science) chúng ta thấy phương pháp khảo cứu khoa-học được đặt trên một số tiêu chuẩn như sau:
1. Đối tượng của thí nghiệm (The objects of the experiment)
2. Vật liệu, dụng cụ cần thiết để làm thí nghiệm (The materials, instruments and tools necessary for the experiment)
3. Lý thuyết về thí nghiệm (The theory of the experiment)
4. Phương pháp và tiến trình thí nghiệm (Methods and steps to work out the experiment)
5. Kết quả thí nghiệm (Results of the experiment)
6. Những điều cần để ý và coi chừng khi làm thí nghiệm (Requisites for attention and precautions in working out the experiment)
7. Kết luận để kiểm chứng giá trị của lý thuyết và những kết quả thực dụng của nó (Conclusion to verify the validity of the theory and its practical results)
Đọc Kinh Lăng Nghiêm, chúng ta thấy trong Kinh có những phần sau đây:
1. Nguyên nhân Phật thuyết Kinh (Phần Thông Tự)
2. Đối tượng của tu chơn-tâm (7 thường trụ xứ của Tâm)
3. Lý thuyết tu chơn-tâm (Chỉ rõ Tính Thấy, Tóm thu 4 Khoa và 7 Đại về Như-Lai Tạng để phát khởi chỗ chơn-ngộ)
4. Phương pháp và các trình độ tu chứng (25 phương pháp viên thông và 7 Thánh vị).
5. Lợi ích của sự tu tập, đối với cá nhân và chúng sinh (Tuyên nói Tâm Chú, khai thị những lợi ích)
6. Những điều cần để ý và coi chừng khi tu tập (Khai thị chỗ hư vọng của 7 loài để khuyến khích tu hành chánh Pháp và phân biệt các Ấm ma)
7. Kết luận (Phần lưu thông, công đức trì Kinh, được Phúc, tiêu tội, trừ ma)
Chúng ta có thể thấy ngay những điểm giống nhau về phần cấu trúc của cuốn huấn thị về khoa học và của cuốn Kinh Phật.
Làm bảng so sánh trên, tôi không có ý định chứng tỏ Khoa Học và Phật Giáo giống nhau cả về hình thức lẫn nội dung, mà chỉ muốn tỏ rõ một điều: Kinh Phật được xếp đặt một cách rất khoa học. Điều này thật ra cũng dễ hiểu, vì những phương pháp tu tập trong Phật Giáo và những phương pháp khảo cứu khoa học đều đặt trên những căn bản giống nhau:
1. Không để cho tình cảm chi phối.
2. Hoàn toàn khách quan.
3. Phân tách mọi vấn đề một cách có hệ thống.
4. Kết quả dựa trên thực nghiệm.
Ngoài ra Jeremy W. Hayward, một vật-lý-gia nổi tiếng về những thuyết trình của ông về Phật Giáo và tương quan của Phật Giáo với những truyền thống Tây Phương và khoa học, trong cuốn Shifting Worlds, Changing Minds: Where the Sciences and Buddhism Meet cũng đưa ra 4 tiêu chuẩn mà một hệ thống tín ngưỡng cần hội đủ để cho con người có thể chấp nhận với một tinh thần khoa học. Tôi không có ý định bàn luận về những tiêu chuẩn này nên không đi vào chi tiết, mà chỉ liệt kê sau đây 4 tiêu chuẩn của Hayward:
1. Ý thức được sự tương đối của các hệ thống tín ngưỡng và sự tương quan giữa "vũ trụ" và "tâm".
2. Có thể vạch rõ chi tiết về sự hiện hành của "tâm" và "thực tại", nghĩa là có thể đưa ra một lý thuyết duyên khởi về sự biểu hiện của những đối đãi nhị nguyên trong phạm trù nhất nguyên.
3. Có một kỹ thuật, phương pháp để thực chứng chân lý "Không hai" này.
4. Nhưng cùng lúc không nằm ngoài vòng đối đãi nhị nguyên.
Và, Hayward chứng tỏ rằng Phật Giáo đã hội đủ 4 tiêu chuẩn trên.
Chúng ta đã thấy, khoa-học và Phật-Giáo có nhiều điểm giống nhau. Nhưng thực ra thì đó chỉ là giống nhau phần nào về phương diện hình thức, còn căn bản thì vẫn khác nhau, vì đối tượng của khoa học khác với đối tượng của Phật Giáo. Kiến thức khoa học là về thế giới bên ngoài, đặc biệt là thế giới vật chất, cho nên bị buộc trong không gian và thời gian. Trong khoa học, cho tới bây giờ, chân lý chưa đạt được, vì khoa học luôn luôn thay đổi để phù hợp với những hiểu biết mới của con người. Khoa học chỉ có thể cung cấp cho con người những dữ kiện tương đối. Trái lại, trong Phật Giáo, chân lý đã được thể hiện và có tính cách tuyệt đối, bởi vì Phật Giáo chú trọng đến cái "biết" bên trong do thực chứng. Phật Giáo đi thẳng tới chân lý tuyệt đối chứ không cần qua ngả các phát minh tương đối. Do đó, nhiều khoa-học-gia đã đồng ý rằng: Phật Giáo bắt đầu nơi khoa học tận cùng (Buddhism begins where science ends.) Khoa học có thể cung cấp cho chúng ta những tiện nghi thoải mái vật chất và trí thức, nhưng không phải là chân lý, vì bản chất tương đối tự tại của khoa học. Chỉ khi nào con người tiếp xúc được với tuyệt đối và sống trong chân lý, khi đó con người mới có thể có được chân hạnh phúc, một thứ hạnh phúc vượt ra ngoài mọi đối đãi nhị nguyên. Và đây chính là cứu cánh chung cùng của Phật Giáo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sir Edwin Arnold, "The Light of Asia", The Theosophical Publishing House, Illinois, USA, 1971.
2. Wang Chi Buu, "A Scientist's Report on Study of Buddhist Scriptures", Published by the Corporate Body of the Buddha Educational Foundation, Taipei, Taiwan R.O.C.
3. Fritjof Capra, "The Tao of Physics", Shambhala, Boulder, 1975.
4. K. Sri Dhammananda, "Great Personalities on Buddhism", B.M.S. Publication,
Malaysia, 1965.
5. Thích Nhất Hạnh, "Vấn Đề Nhận Thức Trong Duy Thức Học", Phật-Học-Viện Quốc Tế, Sepulveda, CA., 1980.
6. Jeremy W. Hayward, "Shifting Worlds, Changing Minds: Where the Science and Buddhism Meet", Shambhala, Boston & London, 1987.
7. Thích Thiện Hoa, "Phật Học Phổ Thông, Khóa thứ VI-VII và IX", Phật-Học-Viện Quốc-Tế, Sepulveda, CA., 1981.
8. Hsuan Hua, "Shastra on the Door to Understanding the Hundred Dharmas", Talmage, CA. 1983.
9. Tâm Minh, "Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm", Phật-Học-Viện Quốc-Tế, Sepulveda, CA., 1981.
10. Robert Powel, "Zen and Reality", The Viking Press, New York, 1974.
11. Michael Talbot, "Mysticism and The New Physics", Bantam Books, 1981.
12. Gary Zukav, "The Dancing Wu-Li Masters", Bantam Books, 1979.
http://www.buddhismtoday.com/viet/kh/006-dactinh.htm
**Phật giáo và khuôn mẫu toàn ký trong khoa học
Trần Chung Ngọc
Quan niệm nhìn vũ trụ một cách toàn ký (The holographic view of the universe) là một quan niệm mới trong khoa học hiện đại, bắt nguồn từ sự khám phá ra kỹ thuật chụp hình toàn ký vài thập niên trước đây. Kỹ thuật chụp hình toàn ký này đã giúp cho một số khoa học gia giải quyết được một số khúc mắc trong những công cuộc khảo cứu của họ về ký ức của con người cũng như trong ngành vật lý các hạt nhỏ (particle physics). Các khoa học gia này, từ những kết quả khảo cứu mới nhất, đã đưa ra những bằng chứng và đề nghị rằng thế giới của chúng ta ngày nay và mọi thứ trong đó chẳng qua chỉ là những hình ảnh không thực, là những dự phóng của một thực thể vượt ra ngoài thực thể của con người và vượt ra ngoài không gian và thời gian.
Hai khoa học gia được biết đến nhiều nhất trong quan niệm mới này là nhà vật-lý học David Bohm, rất nổi tiếng trong ngành vật lý nguyên lượng (quantum mechanics), thuộc đại học Luân Đôn, Anh quốc, và Karl Pribam, một nhà thần-kinh sinh-lý-học (neurophysiologist) thuộc đại học Stanford, California. Điều đặc biệt là Bohm và Pribam, tuy khảo cứu về hai ngành hoàn toàn khác biệt, cùng phải dựa vào quan niệm toàn ký để giải thích những kết quả khảo cứu của mình. Bohm khảo sát về sự tương tác của các hạt nhỏ trong ngành vật lý tiềm nguyên tử (subatomic physics), và Pribam khảo sát về ký ức của con người trong ngành thần-kinh sinh-lý học. Không đi vào chi tiết, hai khoa học gia trên đều nhận thấy rằng các lý thuyết cũ trong khoa học không đủ để giải thích mọi vấn đề trong các ngành khảo cứu của họ, và khuôn mẫu toàn ký (holographic paradigm) đã giúp họ giải thích một cách hợp lý các kết quả khoa học của họ.
Nghiên cứu kỹ vấn đề, chúng ta có thể nói ngay rằng khuôn mẫu toàn ký chẳng qua chỉ là sự thuyết giải khoa học của một phần nhỏ những quan niệm đặc thù trong Phật Giáo đã có từ nhiều thế kỷ trước như tương duyên, tương túc, tương nhập, tương liên, một là tất cả v...v... Nhưng trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu đại cương thế nào là khuôn mẫu toàn ký.
Toàn ký (holography) là một kỹ thuật tạo hình ảnh bằng một loại ánh sáng đặc biệt thường được biết tới tên quen thuộc là ánh sáng LASER và hiện tượng giao thoa (interference) quen thuộc của các sóng. LASER là những chữ đầu của "Light Amplification by Stimulated Emission of Radiation", có nghĩa là "ánh sáng khuếch đại do phát xạ kích thích của bức xạ", hay gọn hơn: "ánh sáng khuếch đại do bức xạ kích thích".
Một phim ảnh toàn ký được tạo ra khi một tia sáng LASER đơn sắc được tách ra làm hai tia riêng biệt. Tia thứ nhất được chiếu trên vật muốn chụp hình, thí dụ một bức tượng Phật, dội lại và hợp với tia thứ hai tạo thành một mô thức giao thoa và được ghi trên một tấm phim ảnh.
Dùng mắt thường mà nhìn thì hình giao thoa trên tấm phim không có gì là giống bức tượng Phật cả, mà chỉ là một số mô hình gồm những vòng đồng tâm tương tự như những vòng sóng lăn tăn trên mặt nước khi ta ném một nắm sỏi xuống nước. Nhưng khi ta chiếu qua tấm phim này bằng một tia LASER khác, hoặc đôi khi chỉ cần một ngọn đèn thật sáng, một cái hình nổi của bức tượng Phật sẽ hiện ra. Hình này trông y như thật, ta có thể đi vòng xung quanh hình tượng Phật này và thấy đó là một bức tượng thật, bất kể nhìn dưới góc cạnh nào. Nhưng nếu ta muốn nắm bắt hình tượng Phật này thì ta sẽ không thành công bởi vì khi ta đưa tay vào chỗ hình tượng Phật này thì sẽ không thấy gì, vì thật ra đó chỉ là một ảo ảnh. Ngày xưa Phật đã chẳng nói, Phật thì vô hình vô tướng, làm sao mà nắm bắt được, và Tâm Kinh đã chẳng dạy là "Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc chính là không, không chính là sắc" hay sao?
Nhưng điểm kỳ diệu của kỹ thuật toàn ký là, nếu ta cắt tấm phim ảnh ra làm hai, rồi chiếu lên mỗi nửa tấm phim này bằng một tia LASER, ta sẽ thấy mỗi nửa tấm phim sẽ lại tạo ra hình ảnh của toàn phần tượng Phật. Cứ tiếp tục chia cắt như vậy, mỗi mảnh nhỏ của tấm phim vẫn tạo ra nguyên hình của toàn thể bức tượng tuy càng ngày càng mờ nếu mảnh phim càng ngày càng nhỏ hơn. Nói tóm lại, kỹ thuật toàn ký đã khám phá lại một phần của một quan niệm rất quen thuộc trong Phật Giáo: một là tất cả. Để cho sự so sánh được rõ ràng hơn, có lẽ chúng ta nên đi thêm vào vài chi tiết trong công cuộc khảo cứu của Pribam và Bohm.
Pribam khám phá ra rằng, ký ức của con người được phân bố đều trong bộ óc và mỗi phần của bộ óc chứa trọn vẹn những thông tin mà bộ óc ghi nhận. Nếu ta cắt bỏ một phần các vùng ký ức, có khi là một phần khá lớn, ở trong óc một người thì ký ức của người đó không bao giờ mất đi một phần, và nếu người đó nhớ một cái gì đó thì bao giờ cũng nhớ trọn vẹn chứ không bao giờ chỉ nhớ một phần, thí dụ như chỉ nhớ 1 phần những người trong gia đình, hay một phần của một khuôn mặt quen thuộc, hay một phần của một câu chuyện mà người đó đã được kể cho nghe.
Khảo sát về sự tương tác giữa các hạt nhỏ trong ngành vật lý tiềm nguyên tử, Bohm đưa ra nhận định như sau: Thuyết tương đối, quan trọng hơn nữa, cơ học nguyên lượng (quantum mechanics) đề nghị rằng, người ta không thể phân tích thế giới thành những phần riêng biệt và độc lập. Hơn nữa, mỗi phần có vẻ như bằng cách nào đó liên hệ tới mọi phần khác: chứa đụng lẫn nhau hoặc bao hàm nhau.
Chúng ta thấy rằng kỹ thuật toàn ký đã tạo ra một căn bản giải thích những kết quả khảo cứu của Pribam và Bohm. Và Pribam đã đặt một câu hỏi: Nếu các hình ảnh của thực tại ghi trong óc của chúng ta không phải là một hình ảnh như chúng ta thường thấy mà là một toàn ký đồ (hologram), vậy thì toàn ký đồ là cái gì?
Vấn đề khúc mắc là ở chỗ nếu ta chụp hình toàn ký một cảnh, thí dụ một đám người ngồi quanh một cái bàn, và khi rửa phim ra ta thấy không phải là một đám người mà lại là những hình giao thoa, vậy thì thực tại là cái gì? Là những hình ảnh thông thường chúng ta thấy ở ngoài đời ghi nhận bởi quan sát viên/nhiếp ảnh viên hay là những hình mờ ảo giao thoa ghi bởi máy chụp hình/óc con ngườỉ? Pribam ý thức được rằng cái mẫu về "óc toàn ký" với những các kết luận hợp lý của nó đã dẫn đến một vấn nạn về thế giới của thực tại khách quan; thế giới của sông, núi, cây cỏ có thể là không hiện hữu, ít ra là không hiện hữu như chúng ta thường tưởng là hiện hữu. Phải chăng quan niệm về ảo tưởng (maya) của những huyền nhiệm gia cách đây nhiều thế kỷ là đúng, và những cảnh xum la vạn tượng chẳng qua chỉ là vùng rộng lớn các tần số (vast frequency domain) biến đổi thành những sự vật SAU KHI nhập vào các giác quan của con người. Nhưng lãnh vực khảo cứu của Pribam chỉ về ký ức con ngưòi, và khi biết được những kết quả khảo cứu của Bohm, không những Pribam tìm ra được giải đáp cho những thắc mắc trên mà còn biết được rằng, theo Bohm, toàn thể vũ trụ chỉ là một toàn ký đồ (hologram).
Nói một cách vắn tắt thì quan niệm về vũ trụ của Bohm như sau: thực tại mà chúng ta thấy hàng ngày thực ra chỉ là một loại ảo tưởng, giống như một hình ảnh toàn ký. Đằng sau cái thực tại này là một sự xếp đặt sâu sắc hơn của sự hiện hữu mà ta có thể coi như là bản chất rộng lớn của một thực tại từ đó sinh ra mọi sự vật tạo thành thế giới vật chất của chúng ta, giống như một mảnh phim toàn ký tạo ra một toàn-ký-đồ. Bohm gọi cái thực tại sâu sắc này là cấp ẩn (implicate order) hay sự xếp đặt ẩn và những thứ chúng ta thấy thường ngày thuộc cấp hiện (explicate order) hay sự xếp đặt hiện của mọi vật. Nói một cách tóm tắt dễ hiểu thì mọi vật đều sinh ra từ một căn bản chung, và căn bản chung này khi nhập vào giác quan của con người thì sinh ra mọi sai biệt mà chúng ta thường thấy ở ngoài đời.
Nhưng có ai ngờ rằng, những quan niệm về vũ trụ dựa trên khuôn mẫu toàn ký trên đã là những quan niệm đặc thù của Phật Giáo từ bao thế kỷ trước đây. Thật vậy, quan niệm về Chân Không Diệu Hữu, hay quan niệm về Chân Đế và Tục Đế của Bồ Tát Long Thọ trong Đại Trí Độ Luận, và quan niệm về Tâm Chân Như và Tâm Sai Biệt của Bồ Tát Mã Minh trong Đại Thừa Khởi Tín Luận không khác gì quan niệm toàn ký của Bohm ở trên, nếu không muốn nói là còn sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. Và, nếu chúng ta quen thuộc với kinh điển Phật Giáo, nhất là kinh Hoa Nghiêm, thì chúng ta sẽ thấy rằng khuôn mẫu toàn ký và những quan niệm của Pribam và Bohm thực sự đã chậm mất 25 thế kỷ. Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng ta hãy đọc phớt qua chút ít về Kinh Hoa Nghiêm.
Trước hết, chúng ta hãy đọc vài lời tựa của Hòa Thượng Thích Đức Niệm ở đầu mỗi cuốn trong bộ kinh Hoa Nghiêm do Thích Trí Tịnh dịch:
"Kinh Hoa Nghiêm là bộ Kinh Đại Thừa, là vua trong các Kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện Pháp thân, tư tưởng và tâm nguyện của Phật.
...Tư tưởng Hoa Nghiêm trình bày vạn pháp do tâm sanh. Tâm là thực thể của vạn pháp. Tâm vọng thì vạn pháp hoạt hiện sai biệt, hình hình sắc sắc, trùng trùng duyên khởi, cái này có cái kia có và ngược lại, như lưới đế châu. Tâm chơn thì pháp giới tánh với tâm là một, vạn vật đồng nhất thể....Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật chỉ cho chúng sanh thấu rõ cội nguồn của xum la vạn tượng do mê thức vọng tưởng nghiệp duyên hình thành, các pháp hiện hành trong vũ trụ là huyễn hóa, như hoa trong gương, như trăng dưới nước. Tất cả vạn pháp trong pháp giới đều từ tâm sanh. Tâm trùm khắp cả pháp giới. Tất cả vạn hữu vũ trụ có thể nằm gọn trong hạt cải. Hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ vạn pháp. Thể tánh của tâm nhiếp thâu tất cả. Tất cả là một, một là tất cả."
Vài lời trên đã tóm tắt phần nào những tinh túy của Kinh Hoa Nghiêm. Thật vậy, chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong Phẩm Nhập Pháp Giới, lời của nữ nhân Thích Ca Cù Ba giảng một pháp môn giải thoát cho Thiện Tài đồng tử:
"Này Thiện Nam Tử!..Ta quán thân của Bồ Tát, nơi mỗi lỗ chân lông, mỗi niệm thấy vô lượng vô biên thế giới rộng lớn, những sự an trụ, trang nghiêm, hình trạng, những núi, đất, mây, danh hiệu, Phật xuất thế, những đạo tràng, chúng hội, diễn thuyết những khế kinh, những sự quán đảnh, các thừa, những phương tiện, những thanh tịnh.
Lại mỗi niệm nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát thường thấy vô biên phật hải, những sự ngồi đạo tràng, những thần biến, thuyết pháp, thuyết kinh hằng không gián đoạn.
Lại nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát thấy vô biên chúng sanh hải: những trụ xứ, hình mạo, tác nghiệp, căn tánh...."
Với lời tựa của Hòa Thượng Thích Đức Niệm và lời trích dẫn trong kinh Hoa Nghiêm chúng ta thấy rằng quan niệm toàn ký của các khoa học gia đã dựa vào các tư tưởng của Phật Giáo rất nhiều. Nhưng xét cho kỹ thì quan niệm toàn ký trong khoa học chỉ có tác dụng giải thích một số khúc mắc trong khoa học một cách đại cương trong khi quan niệm về tương thông, tương túc, hay dung thông vô ngại bao trùm mọi pháp giới. Nếu chúng ta đọc đoạn cuối của Kinh Hoa Nghiêm , khi Thiện Tài đồng tử vào trong lâu các Tỳ Lô Giá Na và rồi sau đó gặp Phổ Hiền Bồ Tát thì chúng ta sẽ thấy quan niệm về một vi trần chứa đủ thiên sai vạn biệt trong vũ trụ đã được trình bày với đầy đủ chi tiết và kèm vào đó những công hạnh của Bồ Tát. Và đây chính là điểm vi diệu của Kinh Phật vì ngoài việc dùng để giải thích những sự việc ngoài đời như khoa học , điểm chính yếu là cái dụng của Kinh Phật như sẽ được tóm tắt sau đây.
Chúng ta biết rằng kinh căn bản trong Hoa Nghiêm Tông là Kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm bao gồm toàn bộ giáo lý Phật Giáo một cách hòa hợp, đa dạng; đó là một kinh được coi là cao nhất trong mọi kinh Phật ở Á Châu. Kinh trình bày một môn siêu hình học vô cùng tiến bộ và là một tập hợp phát triển tư tưởng một cách kỹ lưỡng, tinh tế để dẫn con người tới toàn giác.
Nhưng muốn nhận định đúng giá trị của Kinh Hoa Nghiêm chúng ta phải xét đến cái mặt dụng của Kinh này. Vì chúng ta đã biết, trong Phật Giáo, Kinh Phật thật là vô ích nếu chúng ta chỉ để ý tới phần lý thuyết mà không áp dụng chúng vào đời sống thường ngày. Các thiền sư thường ví những người tìm hiểu kinh mà không thực hành như là những người "đọc thực đơn mà không ăn" hay là "đếm tiền của thiên hạ trong ngân hàng".
Nói một cách ngắn gọn, Kinh Hoa Nghiêm cho chúng ta một tập hợp những phương thức tu tập - một lối nhìn sự vật trên mọi góc cạnh, từ đó khám phá ra sự hòa hợp và bổ túc lẫn nhau tiềm ẩn sau những khác biệt và mâu thuẫn biểu kiến của mọi sự vật ở trên đời. Giá trị của sự tu tập này là sự phát triển một quan điểm tròn đầy, lành mạnh, giúp ta khám phá ra sự thống nhất của mọi Pháp nhưng không phủ nhận sự khác biệt của các Pháp. Từ quan điểm này, con người vượt qua được những ngăn ngại tâm linh do sự chấp vào các sai biệt của vạn vật mà sinh ra. Từ đó, với sự phát triển bồ đề tâm, cái quan điểm viên dung này vận hành bất tuyệt trên cách hành xử của các bồ tát trong công cuộc tự giác, giác tha. Một khi hội nhập được vào ý tưởng dung thông vô ngại của Kinh Hoa Nghiêm, với căn bản là bồ đề tâm, hành giả sẽ không còn bị ngăn ngại bởi bất cứ cái gì về cách hành xử trong Bồ Tát Đạo.
Bài trên đây chỉ có mục đích chứng tỏ rằng các tư tưởng trong Phật Giáo đã đi trước và sâu sắc hơn các quan niệm của khoa học hiện đại nhiều, hiển nhiên tôi không thể đi vào chi tiết của khoa học cũng như Kinh điển Phật Giáo trong một bài báo. Bạn đọc nào muốn hiểu thêm về bồ đề tâm hay những quan niệm như tương duyên, tương túc, dung thông vô ngại trong Phật Giáo xin hãy chăm đi lễ Chùa và thụ huấn quý Thày. Tôi bảo đảm là các bạn sẽ không cảm thấy lãng phí thì giờ trong việc tìm hiểu kinh Phật vì Kinh Phật là một kho tàng vô giá và vô tận để phát triển trí tuệ con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Capra, Fritjof, Uncommon Wisdom, Bantam Books, New York 1988
Cleary, Thomas, Entry Into the Inconceivable, University of Hawai Press, 1983
Hayward, Jeremy W., Shifting Worlds Changing Minds, Where The Sciences and Buddhism Meet, Shambala, Boston & London, 1987
Talbot, Michael, The Holographic Universe, Harper Collins Publishers, New York, 1991
Thích Thiện Hoa, Luận Đại Thừa Khởi Tín, Phật Học Phổ Thông Khóa Thứ X,XI, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, 1981
Thích Trí Tịnh, Kinh Hoa Nghiêm, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, Phật lịch 2532 (1988)
Vân Nguyên, Luận Đại Trí Độ, Viện triết lý Việt Nam và triết học thế giới xuất bản, 1992
Wilber, Ken, The Holographic Paradigm, New Science Library, Shambala, Boulder & London, 1982.
http://www.buddhismtoday.com/viet/kh/002-khuonmau.htm
**VÀI NÉT VỀ : PHẬT GIÁO & KHOA HỌC
Trần Chung Ngọc
ngày 14 tháng 9, 2008
Trước hết tôi cần phải nói rõ rằng: “Phật Giáo là một chủ đề vĩ đại, vô cùng vĩ đại với một rừng Kinh Sách, Giáo lý và Triết lý. Hiếm có người có thể tự nhận là mình đã thông suốt toàn bộ Giáo lý của Đức Phật. Thứ đến, Khoa Học cũng là một chủ đề rộng lớn, quá rộng lớn, và tôi tin rằng không một người nào dám nói là mình đã biết hết về Khoa Học. Cho nên, tôi chỉ xin cố gắng trình bày vài nét về đề tài “Phật Giáo & Khoa Học” theo sự hiểu biết của tôi, nhưng tôi tin chắc chắn cũng còn nhiều thiếu sót.
Nói về Phật Giáo & Khoa Học thì trước hết chúng ta cần biết rõ một sự kiện: Hiện nay, không ai có thể phủ nhận là Phật Giáo đang phát triển mạnh trên toàn thế giới, nhất là trong những xã hội Âu Mỹ, những xã hội được coi là tiến bộ nhất về khoa học, kỹ thuật. Điều này phản ánh một sự kiện: trong những xã hội này, con người đã quen với tính chất chính xác và hợp lý của khoa học, và họ ngả theo Phật Giáo vì tinh thần Phật Giáo rất phù hợp với tinh thần khoa học. Hơn nữa, trong lịch sử Phật Giáo, họ không tìm thấy một dấu vết tỳ ố nào về vấn đề chống khoa học hay đàn áp khoa học gia bằng bạo lực, chưa kể là Phật Giáo đã giúp họ giải quyết được một số vấn đề trong thời đại khoa học tân tiến ngày nay. Và hay hơn cả là, trong suốt giòng lịch sử truyền đạo hơn 2500 năm, Phật Giáo chưa hề làm đổ một giọt máu của người vô tội và cũng chưa hề cưỡng bức ai phải theo Phật Giáo. Chủ trương hòa bình của Phật Giáo là điều mà thế giới tranh chấp hỗn loạn ngày nay cần hơn gì hết.
Thật vậy, Joseph L. Daleiden, một học giả Công Giáo, trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition), xuất bản năm 1994, sau khi phân tích và đánh giá cái di sản Do Thái - Ki Tô (A Critical and Evaluation of the Judeo-Christian Legacy), đã đề nghị những Tín Ngưỡng Khác Thay Cho Thần Giáo (Alternatives to Theism). Về Phật Giáo tác giả viết, trang 424:
Lời giới thiệu hay nhất về Phật Giáo là, giống như Khổng giáo, hệ thống tín ngưỡng này đã hiện hữu trong 25 thế kỷ mà không hề có một cuộc Thánh Chiến, một Tòa Án Xử Dị Giáo, hay một toan tính đế quốc nào nhằm xâm chiếm và phá hủy nền văn hóa của một dân tộc khác. ác.
(The best recommendation for Buddhism is that, like Confucianism, this belief system has existed for twenty-five centuries without a single Crusade, Inquisition, or imperialist attempt to invade and destroy the culture of another people.)
Chúng ta đã biết, Thánh Chiến, Tòa Án Xử và Thiêu Sống Dị Giáo, Săn Lùng Tra Tấn Và Thiêu Sống Phù Thủy, Toan tính Đế Quốc nhằm xâm chiếm và phá hủy nền văn hóa của một dân tộc khác v…v… đều là những núi tội ác của Công giáo mà Giáo hoàng John Paul II đã xưng thú cùng thế giới ngày 12 tháng 3, năm 2000.
Sự phát triển của Phật Giáo vào các xã hội tân tiến Âu Mỹ đã làm cho một số người vô minh trong những xã hội này lo sợ, lo sợ vì ánh sáng trí tuệ và đạo đức của Phật Giáo đã làm cho bóng tối của những mê tín phi lý, phi đạo đức phải lùi dần, và những người xây dựng quyền lực trên bóng tối của vô minh cảm thấy bị đe dọa vì quyền lực thế gian cũng như những đặc quyền vật chất của mình cứ mất dần. Cho nên, đã có bậc chủ chăn của một tôn giáo lớn ở Tây phương đã phải dùng đến hạ sách là viết sách xuyên tạc Phật Giáo để mong vớt vát phần nào niềm tin đã lung lay còn sót lại trong số tín đồ phần lớn ở trong các quốc gia nghèo khổ và kém mở mang. Ngoài ra, cũng có một số người trong Phật Giáo, đưa ra những tương đồng giữa Phật Giáo và Khoa Học với mục đích đề cao Phật Giáo trong thời đại tiến bộ của khoa học. Do đó, đã có một số người lên tiếng chê bai và cho rằng, làm như vậy là "Thấy sang bắt quàng làm họ, dùng những giả thiết trong khoa học để biện hộ cho niềm tin Phật Giáo."
Theo thiển ý, những người dùng khoa học để đề cao Phật Giáo cũng như những người phê phán là “Phật Giáo thấy sang bắt quàng làm họ v..v..” có lẽ chưa hiểu rõ, dù chỉ là đại cương, hoặc về Phật Giáo, hoặc về Khoa Học, hoặc về cả hai, cho nên mới bị cái hào quang của Khoa Học làm cho mờ mắt và đánh giá sai lầm thực chất của Khoa Học. Họ không thấy được những giới hạn của khoa học vì bản chất tương đối của khoa học và cũng không hiểu được cái niềm tin Phật Giáo là niềm tin về sự thực chứng, kết quả của sự tu tập, mang phúc lợi tới mọi chúng sinh, chứ không phải là một niềm tin mù quáng vào vài giáo thuyết hoang đường. Thật vậy, thực tế là một số Khoa học gia trong vài thập niên gần đây đã phải dùng những tư tưởng trong Phật Giáo để giải quyết những bế tắc trong việc diễn giải những hiện tượng khoa học mà họ khám phá ra, thí dụ như quan niệm "vạn pháp qui nhất", quan niệm "tương duyên, tương tức", quan niệm "dung thông" v..v.. của Phật Giáo. Và cũng thực tế là, trong nhiều bộ môn khoa học, tư tưởng Phật Giáo đã đi trước khoa học khá xa. Cho nên, phê bình là "Thấy sang bắt quàng làm họ" thì có thể đúng với tôn giáo khác, nhưng đối với Phật Giáo thì là một sự phê phán ngược chiều.
Vấn đề tinh thần Phật Giáo không xa lạ với tinh thần Khoa Học đã rõ ràng. Để vấn đề được rõ ràng hơn, chúng ta hãy duyệt qua nhận định của một vài khoa học gia nổi tiếng nhất trong Thế Kỷ 20:
Albert Einstein, cha đẻ của thuyết tương đối, đã phát biểu như sau:
“Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt trên mọi ý nghĩa về Thượng đế và tránh nói đến những giáo lý và thần học. Tôn giáo ấy sẽ bao quát tất cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên cơ sở đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể mà không rời nhất thể. Phật giáo đáp ứng được những yêu cầu ấy. Nếu có một tôn giáo nào có thể đương đầu được với những nhu cầu hiện đại của khoa học thì đó là Phật Giáo”
[The religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend personal God and avoid dogma and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense arising from the experience of all things natural and spiritual as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that could cope with modern scientific needs it would be Buddhism.]
Ngoài ra, Einstein cũng cò đưa ra những nhận xét sau đây:
" PHẬT GIÁO KHÔNG CẦN XÉT LẠI QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CẬP NHẬT HÓA VỚI NHỮNG KHÁM PHÁ MỚI CỦA KHOA HỌC. PHẬT GIÁO KHÔNG CẦN TỪ BỎ NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CHẤP NHẬN KHOA HỌC, BỞI VÌ PHẬT GIÁO BAO GỒM KHOA HỌC, ĐỒNG THỜI CŨNG VƯỢT QUA KHOA HỌC. Phật Giáo là một chiếc cầu nối liền tôn giáo và những tư tưởng khoa học. Chiếc cầu Phật Giáo đã kích thích con người khám phá ra những tiềm năng lớn lao nằm sâu kín trong chính con người và trong môi trường sống chung quanh. PHẬT GIÁO SIÊU VIỆT THỜI GIAN VÀ MÃI MÃI CÓ GIÁ TRỊ."
Trong nhận định của Albert Einstein, có một điểm quan trọng nói lên những sắc thái đặc thù của PG:
PG KHÔNG CẦN XÉT LẠI QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CẬP NHẬT HÓA VỚI NHỮNG KHÁM PHÁ MỚI CỦA KHOA HỌC. PHẬT GIÁO KHÔNG CẦN TỪ BỎ NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CHẤP NHẬN KHOA HỌC, BỞI VÌ PG BAO GỒM KHOA HỌC, ĐỒNG THỜI CŨNG VƯỢT QUA KHOA HỌC.
Tại sao Einstein lại nói như vậy? Chúng ta nên biết rằng Einstein đã được sinh ra và nuôi dưỡng trong cái nôi của tôn giáo Tây phương. Và một bộ óc như của Einstein thì không thể không biết đến cái lịch sử của tôn giáo Tây phương và các luận cứ mà các nhà Thần học bảo vệ tín lý của tôn giáo này đã phải đưa ra để giải thích lại hay từ bỏ những lời mà trước đây họ khẳng định đó là lời của Thượng Đế, không thể sai lầm, để đưa ra một lý thuyết phù hợp với những tiến bộ của khoa học, nhưng thật ra chỉ nhằm mê hoặc số tín đồ với những đầu óc "bảo sao tin vậy". Sau đây là vài thí dụ:
a) Quan niệm trái đất là trung tâm của vũ trụ, trái đất là thế giới duy nhất, mặt trời quay xung quanh trái đất. Đây là những lời của Thượng Đế trong Thánh Kinh nên không thể sai lầm. Cũng vì vậy mà trong thế kỷ 17 Giordano Bruno bị thiêu sống chỉ vì đưa ra một nhận định khoa học rất chính xác là ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có nhiều thế giới khác nữa, và Galileo Galilei, tuy là bạn của Giáo Hoàng Urban VIII, cũng bị biệt giam cho đến chết vì dám khẳng định một sự kiện khoa học là trái đất quay xung quanh mặt trời chứ không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất như lời Thượng Đế không thể sai lầm được như trong Thánh Kinh. Sau đó khi mà giáo hội không còn quyền lực để đốt người hay giam người nữa thì các nhà Thần học liền tuyên bố: “Kinh Thánh không có ý định dạy về thiên văn, chỉ dạy về sự sáng tạo của Thượng Đế.”
b) Theo Thánh kinh thì vũ trụ được tạo dựng ra trong 6 ngày, cách đây khoảng từ 6000 tới 10000 năm, tùy theo Thánh Kinh. Ngày nay, những khám phá của khoa học cho biết tuổi của trái đất là vào khoảng 4.5 năm, và tuổi của vũ trụ là vào khoảng 13.7 tỷ năm. Các nhà Thần học bảo vệ tín lý bèn diễn giải rằng một ngày trong sự tạo dựng có thể là nhiều ngàn năm chứ không phải là ngày 24 tiếng đồng hồ như chúng ta thường biết. Đây chỉ là luận điệu ngụy biện để nuôi dưỡng các tín đồ trong vòng ngu dốt chứ đối với những người hiểu biết thì lời ngụy biện trên chỉ chứng tỏ sự xảo quyệt của các người chăn chiên. Vì Thánh Kinh viết rõ là mỗi ngày đều có sáng và tối. Và sáng và tối trên trái đất là do chuyển động quay xung quanh trục Nam Bắc của trái đất đối với mặt trời. Mặt khác, dựa trên chương Sáng Thế Ký trong Thánh Kinh, các khoa học gia bèn hỏi lại: Cây cối được tạo ra trong ngày thứ ba và mặt trời ngày thứ tư. Làm sao cây cối có thể sống được nhiều ngàn năm mà không có ánh sáng mặt trời? Các nhà Thần học bèn giải thích: Thượng đế là bậc toàn trí toàn năng, quyền phép vô cùng làm gì chẳng được. Các khoa học gia chơi khăm bèn hỏi lại: “Nếu Thượng Đế là bậc toàn năng thì tại sao lại phải nghỉ xả hơi vào ngày thứ Bảy sau khi hoàn thành sự tạo dựng trong 6 ngày? Và bắt con người cũng phải nghỉ ngày thứ bảy như Thượng đế? Nhưng con người ngày nay, một số người Việt chúng ta làm 2,3 “job” nghĩa là “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày chủ nhật”.” Câu hỏi này chưa có ai trả lời. Một mặt khác, trước khi tạo dựng ra vũ trụ ngày nay thì trong dòng thời gian vô tận trước lúc tạo dựng Thượng Đế làm gì và dùng cái gì, để tạo dựng ra vũ trụ? Các nhà Thần học bèn nổi sùng và bảo, trước khi tạo dựng cả thiên thu thì Thượng đế còn bận sáng tạo ra hỏa ngục cho những kẻ nào dám hỏi những câu hỏi xúc phạm đến quyền năng của Thượng đế như vậy. Tuy rằng hầu hết các khoa học gia và những người có đầu óc suy luận chỉ cón có cách cười trước những lời giải thích quanh co cuồng tín trên, nhưng đa số tín đồ vẫn tin và rất lấy làm an tâm và hài lòng về những lời giải thích mà họ bắt buộc phải tin là hợp lý.
Trong khi đó các khám phá mới của khoa học không có ảnh hưởng trái ngược hay mâu thuẫn đối với tư tưởng Phật Giáo, chưa kể là trong nhiều bộ môn các tư tưởng PG còn đi trước khoa học khá xa.
Học Giả Egerton C. Baptist (1915-1983), viết trong cuốn “Siêu Khoa Học của Đức Phật” (Supreme Science of the Buddha) như sau:
Phật Giáo bắt đầu ở chỗ khoa học chấm dứt. Khoa học không cho chúng ta sự bảo đảm gì ở nơi đây. Nhưng Phật Giáo có thể đáp ứng sự thách thức của thuyết nguyên tử, vì kiến thức ở trên mức bình thường của Phật Giáo bắt đầu ở nơi mà khoa học chấm dứt. Và điều này khá rõ ràng cho bất cứ ai đã nghiên cứu về Phật Giáo. Bởi vì, qua thiền định, những cấu tử cỡ nguyên tử tạo thành vật chất đã được thấy và cảm nhận, và những sự khổ, với sự sinh và diệt của chúng, đã tự tạo ra trong cái mà chúng ta gọi là linh hồn hay ngã - ảo tưởng của chấp ngã, như giáo lý của Đức Phật dạy.
[Buddhism begins where science ends
“Science can give no assurance herein. But Buddhism can meet the Atomic Challenge, because the supramundane knowledge of Buddhism begins where science leaves off. And this is clear enough to anyone who has made a study of Buddhism. For, through Buddhist Meditation, the atomic constituents making up matter have been seen and felt, and the sorrow, or unsatisfactoriness (or Dukkha), of their 'arising and passing away' has made itself with what we call a 'soul' or 'atma' - the illusion of Sakkayaditthi, as it is called in the Buddha's teaching.” ]
J Robert Oppenheimer ( 1904-1967), Vật Lý Gia Mỹ, nói rằng:
“Thí dụ, nếu chúng ta hỏi, phải chăng vị trí (electron) không thay đổi? chúng ta phải trả lời “không”; phải chăng vị trí của điện tử thay đổi với thời gian? chúng ta phải trả lời “không”; phải chăng điện tử đứng yên? chúng ta phải trả lời “không”; phải chăng điện tử đang di chuyển? chúng ta phải trả lời “không”. Đức Phật đã trả lời như vậy khi được hỏi về tình trạng của cái ngã của con người sau khi chết; nhưng những câu trả lời này không quen thuộc trong truyền thống của khoa học trong thế kỷ 17 và 18.”
[If we ask, for instance, whether the position of the electron remains the same, we must say 'no'; if we ask whether the electron's position changes with time, we must say 'no'; if we ask whether the electron is at rest, we must say 'no'; if we ask whether it is in motion, we must say 'no'. The Buddha has given such answers when interrogated as to the conditions of a man's self after his death; but they are not familiar answers for the tradition of seventeenth and eighteenth century science.]
Sir Edwin Arnold, người nổi tiếng về cuốn thơ Ánh Sáng Á Châu (The Light of Asia), khẳng định rằng:
"Tôi thường nói, và tôi sẽ còn nói hoài, là giữa Phật-Giáo và Khoa- học tân tiến có một mối quan hệ trí thức gần gũi."
(I have often said, and I shall say again and again, that between Buđhism and modern Science there exists a close intellectual bond.)
Bertrand Russell, nhà triết-học và toán-học nổi tiếng hoàn cầu, trong cuốn Lịch sử triết học Tây Phương (History of Western Philosophy) đã viết:
"..Phật-Giáo là một tổ hợp của triết lý suy cứu và triết lý khoa học. Phật Giáo ủng hộ phương pháp khoa học và theo phương pháp này để tới một cứu cánh có thể gọi là thuần lý. Phật Giáo còn đi xa hơn khoa học vì khoa học bị giới hạn bởi những dụng cụ vật lý."
(..Buddhism is a combination of both speculative and scientific philosophy. It advocates the Scientific method and pursues that to a finality that may be called rationalistic...It takes up where science cannnot lead because of the limitations of the latter's physical instruments.)
Tiến sĩ Radhakrishnan:
"Nếu Phật Giáo hấp dẫn đối với trí óc tân tiến đó là vì Phật Giáo có tinh thần khoa học, thực nghiệm, chứ không phải là dựa trên bất cứ giáo điều nào"
(If Buddhism appealed to the modern mind it was because it was scientific, empirical and not based on any dogma.)
Tiến sĩ Graham Howe, nhà Phân Tâm Học nổi tiếng của Anh Quốc. đã nói như sau:
"Đọc một chút về Phật Giáo ta cũng có thể nhận thức được rằng, từ 2500 năm trước, Phật Giáo đã biết về những vấn đề mới về tâm lý nhiều hơn là chúng ta thường biết tới. Họ nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức giải quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ khám phá lại trí tuệ thông thái cổ xưa của Đông phương." (To read a little Buddhism is to realize that the Buddhists knew, 2,500 years ago, far more about modern problems of psychology than they have been given credit for. They studied these problems long ago and found the answers also. We are now rediscovering the ancient wisdom of the East.)
Và Paul Carus, tác giả cuốn sách nổi tiếng "The Gospel of Buddha" , một cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Nhật, Trung Hoa, Đức, Pháp, Tây Ba Nha v...v...và là người đã bảo trợ cho Daisetz Suzuki sang Mỹ để truyền bá đạo Phật mà ông gọi là "Tôn Giáo của Khoa Học" tuy ông không phải là một Phật tử. Paul Carus cho rằng: "Nếu các tôn giáo cổ Tây Phương được tinh khiết hóa bằng cách bỏ đi những sai lầm, nghĩa là những mê tín và điều vô lý trong đó, thì có thể hòa hợp được với Khoa học”. Paul Carus đã tán tụng Đức Phật như là: "Người đầu tiên thực chứng; người đầu tiên phát triển chủ nghĩa nhân đạo; người đầu tiên có tư tưởng tự do cấp tiến; người đầu tiên đả phá Thần tượng; và là nhà tiên tri đầu tiên về tôn giáo của khoa học."
Chúng ta hãy tìm hiểu tại sao những nhân vật nổi danh trên, và nhiều nhân vật khác nữa mà tôi không thể kể hết ra đây, lại đưa ra những nhận định như vậy.
Nói về Phật Giáo [PG] và Khoa Học [KH] thì trước hết chúng ta cần biết những định nghĩa của PG và của KH. Ở đây, chúng ta bị kẹt vì KH thì có thể định nghĩa được chứ PG thì khó mà có thể có một định nghĩa xác đáng. Vậy thì, trước hết chúng ta hãy xét đến định nghĩa của KH và rồi xem xem trong cái định nghĩa này nó có những tương quan gì với Phật Giáo.
ĐỊNH NGHĨA CỦA KHOA HỌC.
Mở cuốn tự điển Merriam Webster ra chúng ta thấy có 5 định nghĩa về KH:
1. Kiến thức thâu thập được bằng khảo sát và thực hành (Knowledge obtained by study and practice)
2. Bộ kiến thức được hệ thống hóa (Department of systematized knowledge)
3. Nghệ thuật hay sự khéo léo (Art and Skill)
4. Một ngành học liên hệ đến sự quan sát và hệ thống hóa các sự kiện, nhất là liên hệ với sự thiết lập những định luật tổng quát có thể kiểm chứng được, chủ yếu bằng quy nạp và giả thiết (A branch of study concerned with observation and classification of facts, especially with the establishment of verifiable general laws, chiefly by induction and hypotheses)
5. Kiến thức chuyên biệt tích tụ được hệ thống hóa và công thức hóa dựa vào sự khám phá ra những chân lý tổng quát hay sự vận hành của các định luật tổng quát (Specifically, accumulated knowledge systematized and formulated with reference to the discovery of general truths or the operation of general laws)
Những kiến thức liên hệ tới thế giới vật chất : Khoa học thiên nhiên (Natural Science)
TINH THẦN KHOA HỌC:
- Dùng đầu óc, luận lý và thực nghiệm để ra khỏi sự ngu tối. (Phật Giáo dùng trí tuệ và thực chứng để phá bỏ vô minh: Người ta thường bảo rằng Phật giáo có một lưỡi gươm duy nhất để diệt một kẻ thù duy nhất: lưỡi gươm này là lưỡi gươm trí tuệ, và kẻ thù này là vô minh.)
- Tinh thần rộng rãi. Gửi học trò đi học các Thầy giỏi. (Khi xưa, các bậc cao Tăng trong Phật Giáo thường gửi đệ tử của mình đi học thêm từ các bậc cao Tăng khác ở Tông phái khác)
- Tinh thần khách quan, tôn trọng sự thật, không để cho thiên kiến chi phối. (Như thực tri kiến)
- Thảo luận hòa hoãn để đi tới chân lý, không khích bác nhau (Khẩu Hoà vô tranh)
- Dung hòa ý kiến, tham khảo để cùng đưa ra một kết luận (Ý hòa đồng duyệt)
- Chia sẻ những kiến thức để đi tới chân lý (Kiến hòa đồng giải)
Nhưng lẽ dĩ nhiên trong giới khoa học gia không có những chủ trương như sau của Phật Giáo:
- Thân Hòa Đồng Trú
- Giới Hòa Đồng Tu
- Lợi Hòa Đồng Quân
VÀI THÍ DỤ VỀ TƯ TƯỞNG PG ĐÃ ĐI TRƯỚC KHOA HỌC:
Ở trên tôi đã trích dẫn nhận định của Tiến sĩ Graham Howe, nhà Phân Tâm Học nổi tiếng của Anh Quốc. như sau:
"Đọc một chút về Phật Giáo ta cũng có thể nhận thức được rằng, từ 2500 năm trước, Phật Giáo đã biết về những vấn đề về tâm lý nhiều hơn là về những vấn đề hiện đại về tâm lý học chúng ta thường biết tới. Họ nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức giải quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ khám phá lại trí tuệ thông thái cổ xưa của Đông phương."
(To read a little Buddhism is to realize that the Buddhists knew, 2,500 years ago, far more about modern problems of psychology than they have been given credit for. They studied these problems long ago and found the answers also. We are now rediscovering the ancient wisdom of the East.)
Không phải vô căn cứ mà Tiến sĩ Graham Howe viết như vậy. Nếu chúng ta biết về Duy-Thức Học trong Phật Giáo thì chúng ta thấy rằng các khoa học gia chỉ dùng có 16 phần trăm [16%] của số 100 Pháp được phân loại thành 8 Tâm Pháp, 51 Tâm-Sở-Hữu Pháp, 11 Sắc Pháp, 24 Tâm-Bất-Tương-Ưng Hành Pháp, và 6 Vô-Vi Pháp (Xin đọc Đại-Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận), nghĩa là các khoa-học-gia chỉ xử dụng tới 11 Sắc Pháp trong đó có 5 căn là nhãn căn, nhĩ căn, tỉ căn, thiệt căn, và thân căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân thể); và 6 trần là sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trần, và Pháp trần (hình tướng, âm thanh, mùi, vị, cảm giác do tiếp xúc, và bóng dáng của 5 trần trên còn lưu lại trong ý thức khi các căn không còn tiếp xúc trực tiếp với trần nữa), cộng với 5 tâm pháp trong số 21 tâm-bất-tương-ưng hành pháp là thời gian, phương hướng, vận tốc di chuyển, số lượng, và thứ tự (thời, phương, thế tốc, số, và thứ đệ). Ở đây tôi không có ý định đi sâu vào thiên luận 100 Pháp đại thừa mà chỉ muốn nói lên điểm cốt yếu như sau: khi mà khoa học không thể tiến hơn được nữa vì những giới hạn tự tại của 5 căn 6 trần và của những dụng cụ đo lường thì Phật Giáo vẫn tiếp tục đi xa hơn, bởi lẽ Phật Pháp, ngoài sự khảo sát những đối tượng vật chất còn chú trọng nhiều đến những vấn đề tâm linh, cho nên đã vượt qua, đi ra ngoài những giới hạn vật lý của khoa-học. Do đó chúng ta có thể nói Phật Giáo là một Siêu-Khoa-Học (Super-science) như học giả Ergeton Baptist đã nhận định, được thành lập trên căn bản trí tuệ Bát Nhã (trí tuệ nhận thức được thực tướng của vạn Pháp). Trong Phật Giáo, Duy-Thức Học cho chúng ta một hệ thống triết lý, phân tâm học rất đầy đủ và tiến bộ hơn bất cứ hệ thống nào trong khoa học hiện đại.
Sau đây, tôi xin nêu thêm vài thí dụ về cái biết của Phật Giáo như được viết trong Kinh Điển Phật Giáo:
1.Về thế giới vô cùng nhỏ:
Chúng ta đều biết rằng, khi xưa Đức Phật thường khuyên các đệ tử trước khi uống nước hãy niệm chú để phổ độ cho các vi chúng sinh có trong nước. Người còn khẳng định trong mỗi bát nước có tới 84000 sinh vật nhỏ nhoi mà mắt thường chúng ta không thể nhìn thấy được. Chúng ta nên hiểu con số 84000 trong Phật Giáo có nhiều ý nghĩa và một trong những ý nghĩa này là tượng trưng cho một con số lớn chứ không phải là một con số chính xác. Hơn 21 thế kỷ sau, vào cuối thế kỷ 16, năm 1595, các khoa học gia đã phát minh ra cái kính hiển vi đầu tiên và nhờ đó đã có thể nhìn thấy trong một giọt nước có một số lớn các vi sinh vật mà mắt thường không thể nhìn thấy được.
Kính Hiển Vi Meiji Techno MT4200
2. Về Thế Giới Vô Cùng Lớn:
Quan niệm của Phật Giáo về vũ trụ như sau: thế giới chúng ta đang sống không phải là duy nhất và cũng không phải là trung tâm vũ trụ. Ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có rất nhiều thế giới khác, và Phật giáo phân loại các thế giới thành 3 loại: Tiểu Thiên Thế Giới, Trung Thiên Thế Giới, và Đại Thiên Thế Giới. Danh từ thế giới trong Phật -giáo chỉ một thiên thể (thí dụ như trái đất) hoặc một tập hợp các thiên thể được coi như thuộc một nhóm (thí dụ như thái-duơng-hệ mà trái đất là một hành tinh trong đó). Vậy, một ngàn thế giới họp thành một Tiểu Thiên Thế Giới, một ngàn Tiểu Thiên Thế Giới họp thành một Trung Thiên Thế Giới, và một ngàn Trung Thiên Thế Giới họp thành một Đại Thiên Thế Giới. Vậy, lấy đơn vị là một hệ thống tương tự như hệ thống Thái Dương Hệ và gọi là thế giới thì Tiểu Thiên Thế Giới gồm có khoảng một ngàn thế giới, Trung Thiên Thế Giới gồm khoảng một triệu thế giới , Đại Thiên Thế Giới gồm khoảng một tỷ thế giới v..v.. Đó là quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo từ hơn 2500 năm về trước. Nhưng sau đó 22 thế kỷ, vào thế kỷ thế 17, Tây phương vẫn còn chưa thoát khỏi quan niệm sai lầm về trời tròn đất vuông, trái đất được coi là trung tâm vũ trụ, và rằng mặt trời quay xung quanh trái đất như đã viết trong Thánh Kinh.
Trở lại quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo, chúng ta thấy rằng quan niệm này hầu như tương hợp hoàn toàn với những kiến thức ngày nay của những nhà thiên văn (astronomers) hay những nhà vật-lý-học về thiên thể (astrophysicists), và đã đi trước khoa-học nhiều thế kỷ. Một Tiểu Thiên Thế Giới có thể so sánh với quan niệm hiện đại về một thiên hà (galaxy) gồm có cả triệu ngôi sao và những hành tinh có thể có sinh vật trên đó. Thí dụ như giải ngân hà (Milky Way) hay M31, hay chòm sao (constellation) Andromeda. Một Trung Thiên Thế Giới có thể so sánh với một chùm thiên hà (galactic cluster) thí dụ như chùm Coma Berenices, và một Đại Thiên Thế Giới có thể so sánh với cái mà Hannes Alfven gọi là siêu thiên hà (metagalaxy) ở trong Đại Vũng (Big Dipper) của Tiểu Ursa (Minor Ursa) trong đó có ít ra là cả triệu thiên hà. Cho tới nay, vì những giới hạn tự tại của những dụng cụ quan sát cho nên các khoa học gia chưa thể đi xa hơn trong việc khảo sát vũ trụ. Nhưng không phải vì những giới hạn kỹ thuật này mà vũ trụ cũng bị giới hạn theo, và nay chúng ta đã hiểu tại sao Đức Phật lại "bỏ ngỏ" quan niệm về vũ trụ hữu hạn hay vô hạn. Điều này chứng tỏ Đức Phật đã thấy rõ khả năng vô tận của con người, và rằng Phật Pháp không phải là những giáo điều cứng ngắc không bao giờ thay đổi. Và đây cũng chính là tinh thần khoa học hiện đại, không có gì có thể coi như là vĩnh cửu, bất biến.
Bức hình trên do NASA ghép một số các mảnh thiên hà trong vũ trụ. Từ bên trái hàng trên đên bên mặt hàng dưới: M61, NGC 4449, NGC 4725, NGC 5068, NGC 5247, and NGC 5775/5774. Đa số hình xoắn ốc gần giống như giải ngân hà Milky Way của chúng ta.
Nói đến quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo thì chúng ta không thể bỏ qua Kinh Hoa-Nghiêm, phẩm Thế Giới Thành Tựu. Trong phẩm này, Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết về 10 đặc tính của các thế giới: nhân duyên khởi, chỗ trụ nương, hình trạng, thể tánh, trang nghiêm tánh, thanh tịnh tánh, Phật xuất hiện, kiếp trụ, kiếp chuyển biến sai biệt, và môn vô sai biệt. Để cho vấn đề tương hợp với khoa học được rõ ràng, sau đây tôi xin luận về hai điểm : hình trạng và kiếp trụ các thế giới. Chúng ta hãy xét đoạn kinh văn sau đây:
Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Thế giới hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn....hoặc hình như nước xoáy....hoặc hình như hoa ... có vi trần số hình sai khác như vậy."
Rồi trong phẩm tiếp theo, phẩm Hoa Tạng Thế Giới, Phổ Hiền Bồ Tát lại tuyên thuyết: "Chư Phật tử! Tất cả thế giới chủng đó hình trạng đều khác nhau: hoặc hình núi Tu Di, hoặc hình sông, hoặc hình xoay chuyển, hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục xe...hoặc hình hoa sen...có vi trần số hình trạng như vậy." ("Kinh Hoa-Nghiêm", Thích Trí Tịnh, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản)
So sánh với những hình trạng của các chòm sao, giải thiên hà, ngân hà khám phá bởi khoa học ngày nay chúng ta thấy Phật giáo đã mô tả hình trạng của chúng một cách vô cùng chính xác. Thí dụ như các hình như bánh xe, nước xoáy chúng ta có thể quan sát được trong các chòm sao như Cetus, Pegasus và Hercules, hình sông là giải ngân hà (Milky Way) và nhiều thiên hà khác, hình dạng như hoa là những khối tinh vân trong khoảng không gian liên-thiên-hà (intergalactic clouds of gas) có chứa hàng tỷ ngôi sao v...v... Thật tôi không thể tưởng tượng được ở một thời chưa hề có kính thiên văn, dù thô sơ nhất, mà Đức Phật và các Đại Bồ Tát đã có những hiểu biết chính xác về vũ trụ như trên. Có cách giải thích nào khác là chúng ta phải tin rằng, do Thiền Định và vì đã giác ngộ hoàn toàn, cho nên các Ngài đã nắm vững được cơ cấu huyền bí của vũ trụ, nếu không thì làm sao có thể biết được những điều như trên. Và chúng ta cũng nên nhớ là những điều đức Phật và các Bồ Tát chọn để tuyên thuyết cho người đời chẳng qua cũng chỉ là một nắm lá trong tay so với số lá cây trong rừng.
Sau đây, tôi xin đưa ra vài hình ảnh mà các khoa học gia đã chụp được trong vũ trụ, và quý vị sẽ thấy những mô tả về hình trạng thế giới trong Kinh Hoa Nghiêm chính xác như thế nào.
Hình xoay chuyển của Thiên Hà NGC 523 Sculptor
Hình bánh xe của Thiên Hà Andromeda
Hình nước xoáy của Thiên Hà [The Spiral Galaxy NGC 2997]
Hình hoa nở của Thiên Hà Trifid
Hình vòng nhẫn của khối tinh vân 250px-M57_The Ring Nebula
Hình núi Tu Di của Thiên Hà M104: The Sombrero Galaxy
Kiếp trụ của các thế giới
Tiếp theo, về kiếp trụ của các thế giới, Kinh văn viết rằng:
"Lúc đó Phổ Hiền Bồ-Tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Nên biết thế giới hải có thế giới hải vi trần số kiếp trụ, hoặc có a-tăng-kỳ kiếp trụ, hoặc có vô-lượng kiếp trụ, hoặc có vô biên kiếp trụ, hoặc có vô đẳng kiếp trụ, hoặc có bất-khả-sổ kiếp trụ, hoặc có bất khả xưng kiếp trụ, hoặc có bất khả tư kiếp trụ, hoặc có bất khả lượng kiếp trụ, hoặc có bất khả thuyết kiếp trụ, ..có vi trần số kiếp trụ như vậy."
Rồi trong bài kệ để tuyên lại nghĩa này Bồ Tát Phổ Hiền có giải thích bằng một câu: "Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô số, Bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng." Chỉ một câu "bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng" cũng đã giải quyết vấn đề "thiên sai vạn biệt" trong vũ trụ. Thật là đầy đủ, thật là rốt ráo, thật là chính xác. Nếu chúng ta đi sâu vào một chút trong đoạn kinh văn trên, chúng ta sẽ thấy Phật Giáo đã đi trước khoa học như thế nào.
Phật giáo phân biệt: Tiểu Kiếp có 16 triệu 8 trăm ngàn năm, Trung Kiếp có 336 triệu năm, và Đại Kiếp có 1 tỷ 344 triệu năm. Theo khoa học hiện nay thì một ngôi sao (coi như là một thế giới) mà chất lượng (mass) càng nặng thì đời sống của ngôi sao càng ngắn. Do đó có những ngôi sao chỉ "sống" được từ 1 tới vài tỷ năm và người ta đã tính được rằng một ngôi sao có chất lượng nhẹ hơn những ngôi sao trên khoảng 90 phần trăm thì ngôi sao này có thể sống tới hàng ngàn tỷ năm. Điều này rất phù hợp với câu kệ trên của Phổ Hiền Bồ Tát, có thế giới chỉ tồn tại một kiếp, có thế giới tồn tại vô số kiếp v...v....
Thứ đến, những danh từ như a-tăng-kỳ, vô lượng, vô biên,...bất khả thuyết có vẻ như mơ hồ và không rõ ràng như những con số trong thời đại khoa học. Thật ra không phải vậy, vì trong phẩm A-Tăng-Kỳ, Kinh Hoa Nghiêm ta đọc được như sau, tôi xin đánh số cho nó rõ ràng hơn:
Phật nói: Này thiện nam tử!
1. Một trăm Lạc Xoa làm một Câu Chi.
2. Câu Chi lần Câu Chi làm một A-Giu-Đa
3. A-giu-Đa lần A-Giu-Đa làm một Na-Do-Tha
4. Na-Do-Tha lần Na-Do-Tha làm một Tần-Bà-La
và tiếp tục như vậy tất cả là 123 lần, trong đó số 104 là A-Tăng-Kỳ, số 106 là Vô Lượng, số 108 là Vô Biên, số 110 là Vô Đẳng, số 112 là Bất-Khả-Sổ, số 114 là Bất-Khả-Xưng, số 116 là Bất-Khả-Tư, số 118 là Bất-Khả-Lượng, và số 120 là Bất-Khả-Thuyết.
Chúng ta biết rằng khoa học ngày nay dùng ký hiệu lũy thừa để viết những con số lớn. Thí dụ như 1 triệu là con số 1 với 6 con số 0 đằng sau, 1 000 000, theo ký hiệu điện toán được viết như sau: 10^6 và đọc là 10 lũy thừa 6; 1 tỷ gồm có 9 số 0 và được viết là 10^9 (billion), lớn hơn nữa là 10^12 (1 ngàn tỷ hay trillion), 10^15 (1 triệu tỷ hay zillion) và khoa học chưa có những danh từ riêng để chỉ những con số lớn hơn. Tiếng Việt thì chỉ tới số tỷ là cao nhất.
Theo Kinh Phật thì 1 Lạc Xoa là 100 ngàn, nghĩa là 10^5. Như vậy 1 Câu Chi là 10 triệu, nghĩa là 10^7; 1 A-Giu-Đa là 100 ngàn tỷ, nghĩa là 10^14; 1 Na-Do-Tha là 10 tỷ tỷ tỷ, nghĩa là 10^28. Tiếp tục tính ra ta sẽ thấy 1 A-Tăng-Kỳ là khoảng, 10^(7.09… x 10^31), nghĩa là con số 1 tiếp theo bởi hơn 7000 tỷ tỷ tỷ con số 0 ở đằng sau, một con số vô cùng lớn nhưng vẫn có một tên riêng. Chúng ta có thể suy ra:
Vô Lượng = 10^(2.83… x 10^32), Vô Biên = 10^(1.13… x 10^33),...
và Bất-Khả-Thuyết = 10^(4.65… x 10^36) nghĩa là con số 1 tiếp theo bởi khoảng hơn 4 tỷ tỷ tỷ tỷ con số 0 đứng đằng sau.
Những con số khoa học hiện đại dùng tới có lẽ chỉ vào khoảng 10^40 nghĩa là chỉ có 40 con số 0 đứng sau. Chúng ta thấy ngay rằng, ngay cả về phương diện toán số, Phật giáo đã đi trước khoa học khá xa về sự biểu thị chính xác những con số và đã có quan niệm về những con số vô cùng lớn, lớn ngoài mức tưởng tượng của các khoa học gia hiện đại.
Quan niệm nhìn vũ trụ một cách toàn ký
Quan niệm nhìn vũ trụ một cách toàn ký (The holographic view of the universe) là một quan niệm mới trong khoa học hiện đại, bắt nguồn từ sự khám phá ra kỹ thuật chụp hình toàn ký vài thập niên trước đây. Kỹ thuật chụp hình toàn ký này đã giúp cho một số khoa học gia giải quyết được một số khúc mắc trong những công cuộc khảo cứu của họ về ký ức của con người cũng như trong ngành vật lý các hạt nhỏ (particle physics). Các khoa học gia này, từ những kết quả khảo cứu mới nhất, đã đưa ra những bằng chứng và đề nghị rằng thế giới của chúng ta ngày nay và mọi thứ trong đó chẳng qua chỉ là những hình ảnh không thực, là những dự phóng của một thực thể vượt ra ngoài thực thể của con người và vượt ra ngoài không gian và thời gian.
Hai khoa học gia được biết đến nhiều nhất trong quan niệm mới này là nhà vật-lý học David Bohm, rất nổi tiếng trong ngành vật lý nguyên lượng (quantum mechanics), thuộc đại học Luân Đôn, Anh quốc, và Karl Pribam, một nhà thần-kinh sinh-lý-học (neurophysiologist) thuộc đại học Stanford, California. Điều đặc biệt là Bohm và Pribam, tuy khảo cứu về hai ngành hoàn toàn khác biệt, cùng phải dựa vào quan niệm toàn ký để giải thích những kết quả khảo cứu của mình. Bohm khảo sát về sự tương tác của các hạt nhỏ trong ngành vật lý tiềm nguyên tử (subatomic physics), và Pribam khảo sát về ký ức của con người trong ngành thần-kinh sinh-lý học. Không đi vào chi tiết, hai khoa học gia trên đều nhận thấy rằng các lý thuyết cũ trong khoa học không đủ để giải thích mọi vấn đề trong các ngành khảo cứu của họ, và khuôn mẫu toàn ký (holographic paradigm) đã giúp họ giải thích một cách hợp lý các kết quả khoa học của họ.
Nghiên cứu kỹ vấn đề, chúng ta có thể nói ngay rằng khuôn mẫu toàn ký chẳng qua chỉ là sự thuyết giải khoa học của một phần nhỏ những quan niệm đặc thù trong Phật Giáo đã có từ nhiều thế kỷ trước như tương duyên, tương tức, tương nhập, tương liên, một là tất cả v...v... Nhưng trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu đại cương thế nào là khuôn mẫu toàn ký.
Toàn ký (holography) là một kỹ thuật tạo hình ảnh bằng một loại ánh sáng đặc biệt thường được biết tới tên quen thuộc là ánh sáng LASER và hiện tượng giao thoa (interference) quen thuộc của các sóng. LASER là những chữ đầu của "Light Amplification by Stimulated Emission of Radiation", có nghĩa là "ánh sáng khuếch đại do phát xạ kích thích của bức xạ", hay gọn hơn: "ánh sáng khuếch đại do bức xạ kích thích".
Một phim ảnh toàn ký được tạo ra khi một tia sáng LASER đơn sắc được tách ra làm hai tia riêng biệt. Tia thứ nhất được chiếu trên vật muốn chụp hình, thí dụ một bức tượng Phật, dội lại và hợp với tia thứ hai tạo thành một mô thức giao thoa và được ghi trên một tấm phim ảnh.
Dùng mắt thường mà nhìn thì hình giao thoa trên tấm phim, có tên khoa học là “toàn ký đồ”, không có gì là giống bức tượng Phật cả, mà chỉ là một số mô hình gồm những vòng đồng tâm tương tự như những vòng sóng lăn tăn trên mặt nước khi ta ném một nắm sỏi xuống nước. Hình sau đây chỉ là một thí dụ về toàn ký đồ chứ không phải là toàn ký đồ của bức tượng Phật.
Một Toàn Ký Đồ [A Hologram Pattern]
Nhưng khi ta chiếu qua tấm phim này bằng một tia LASER khác, hoặc đôi khi chỉ cần một ngọn đèn thật sáng, một cái hình nổi của bức tượng Phật sẽ hiện ra. Hình này trông y như thật, ta có thể đi vòng xung quanh hình tượng Phật này và thấy đó là một bức tượng thật, bất kể nhìn dưới góc cạnh nào. Nhưng nếu ta muốn nắm bắt hình tượng Phật này thì ta sẽ không thành công bởi vì khi ta đưa tay vào chỗ hình tượng Phật này thì sẽ không thấy gì, vì thật ra đó chỉ là một ảo ảnh. Ngày xưa Phật đã chẳng nói, Phật thì vô hình vô tướng, làm sao mà nắm bắt được, và Tâm Kinh đã chẳng dạy là "Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc chính là không, không chính là sắc" hay sao?
Nhưng điểm kỳ diệu của kỹ thuật toàn ký là, nếu ta cắt tấm phim ảnh ra làm hai, rồi chiếu lên mỗi nửa tấm phim này bằng một tia LASER, ta sẽ thấy mỗi nửa tấm phim sẽ lại tạo ra hình ảnh của toàn phần tượng Phật. Cứ tiếp tục chia cắt như vậy, mỗi mảnh nhỏ của tấm phim vẫn tạo ra nguyên hình của toàn thể bức tượng tuy càng ngày càng mờ nếu mảnh phim càng ngày càng nhỏ hơn. Nói tóm lại, kỹ thuật toàn ký đã khám phá lại một phần của một quan niệm rất quen thuộc trong Phật Giáo: một là tất cả. Để cho sự so sánh được rõ ràng hơn, có lẽ chúng ta nên đi thêm vào vài chi tiết trong công cuộc khảo cứu của Pribam và Bohm.
Pribam khám phá ra rằng, ký ức của con người được phân bố đều trong bộ óc và mỗi phần của bộ óc chứa trọn vẹn những thông tin mà bộ óc ghi nhận. Nếu ta cắt bỏ một phần các vùng ký ức, có khi là một phần khá lớn, ở trong óc một người thì ký ức của người đó không bao giờ mất đi một phần, và nếu người đó nhớ một cái gì đó thì bao giờ cũng nhớ trọn vẹn chứ không bao giờ chỉ nhớ một phần, thí dụ như chỉ nhớ 1 phần những người trong gia đình, hay một phần của một khuôn mặt quen thuộc, hay một phần của một câu chuyện mà người đó đã được kể cho nghe.
Khảo sát về sự tương tác giữa các hạt nhỏ trong ngành vật lý tiềm nguyên tử (subatomic physics), Bohm đưa ra nhận định như sau: Thuyết tương đối, quan trọng hơn nữa, cơ học nguyên lượng (quantum mechanics) đề nghị rằng, người ta không thể phân tích thế giới thành những phần riêng biệt và độc lập. Hơn nữa, mỗi phần có vẻ như bằng cách nào đó liên hệ tới mọi phần khác: chứa đựng lẫn nhau hoặc bao hàm nhau.
Toàn ký đồ là cái gì?
Chúng ta thấy rằng kỹ thuật toàn ký đã tạo ra một căn bản giải thích những kết quả khảo cứu của Pribam và Bohm. Và Pribam đã đặt một câu hỏi: Nếu các hình ảnh của thực tại ghi trong óc của chúng ta không phải là một hình ảnh như chúng ta thường thấy mà là một toàn ký đồ (hologram), vậy thì toàn ký đồ là cái gì?
Vấn đề khúc mắc là ở chỗ nếu ta chụp hình toàn ký một cảnh, thí dụ một đám người ngồi quanh một cái bàn, và khi rửa phim ra ta thấy không phải là một đám người mà lại là những hình giao thoa, vậy thì thực tại là cái gì? Là những hình ảnh thông thường chúng ta thấy ở ngoài đời ghi nhận bởi quan sát viên/nhiếp ảnh viên hay là những hình mờ ảo giao thoa ghi bởi máy chụp hình/óc con ngườỉ? Pribam ý thức được rằng cái mẫu về "óc toàn ký" với những các kết luận hợp lý của nó đã dẫn đến một vấn nạn về thế giới của thực tại khách quan; thế giới của sông, núi, cây cỏ có thể là không hiện hữu, ít ra là không hiện hữu như chúng ta thường tưởng là hiện hữu. Phải chăng quan niệm về ảo tưởng (maya) của những huyền nhiệm gia cách đây nhiều thế kỷ là đúng, và những cảnh xum la vạn tượng chẳng qua chỉ là vùng rộng lớn các tần số (vast frequency domain) biến đổi thành những sự vật SAU KHI nhập vào các giác quan của con người. Nhưng lãnh vực khảo cứu của Pribam chỉ về ký ức con ngưòi, và khi biết được những kết quả khảo cứu của Bohm, không những Pribam tìm ra được giải đáp cho những thắc mắc trên mà còn biết được rằng, theo Bohm, toàn thể vũ trụ chỉ là một toàn ký đồ (hologram).
Nói một cách vắn tắt thì quan niệm về vũ trụ của Bohm như sau: thực tại mà chúng ta thấy hàng ngày thực ra chỉ là một loại ảo tưởng, giống như một hình ảnh toàn ký. Đằng sau cái thực tại này là một sự xếp đặt sâu sắc hơn của sự hiện hữu mà ta có thể coi như là bản chất rộng lớn của một thực tại từ đó sinh ra mọi sự vật tạo thành thế giới vật chất của chúng ta, giống như một mảnh phim toàn ký tạo ra một toàn-ký-đồ. Bohm gọi cái thực tại sâu sắc này là cấp ẩn (implicate order) hay sự xếp đặt ẩn và những thứ chúng ta thấy thường ngày thuộc cấp hiện (explicate order) hay sự xếp đặt hiện của mọi vật. Nói một cách tóm tắt dễ hiểu thì mọi vật đều sinh ra từ một căn bản chung, và căn bản chung này khi nhập vào giác quan của con người thì sinh ra mọi sai biệt mà chúng ta thường thấy ở ngoài đời.
Nhưng có ai ngờ rằng, những quan niệm về vũ trụ dựa trên khuôn mẫu toàn ký trên đã là những quan niệm đặc thù của Phật Giáo từ bao thế kỷ trước đây. Thật vậy, quan niệm về Chân Không Diệu Hữu, và quan niệm về Tâm Chân Như và Tâm Sai Biệt của Bồ Tát Mã Minh trong Đại Thừa Khởi Tín Luận không khác gì quan niệm toàn ký của Bohm ở trên, nếu không muốn nói là còn sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. Và, nếu chúng ta quen thuộc với kinh điển Phật Giáo, nhất là kinh Hoa Nghiêm, thì chúng ta sẽ thấy rằng khuôn mẫu toàn ký và những quan niệm của Pribam và Bohm thực sự đã chậm mất 25 thế kỷ. Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng ta hãy đọc phớt qua chút ít về Kinh Hoa Nghiêm.
Trước hết, chúng ta hãy đọc vài lời tựa của Hòa Thượng Thích Đức Niệm ở đầu mỗi cuốn trong bộ kinh Hoa Nghiêm do Thích Trí Tịnh dịch:
"Kinh Hoa Nghiêm là bộ Kinh Đại Thừa, là vua trong các Kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện Pháp thân, tư tưởng và tâm nguyện của Phật.
...Tư tưởng Hoa Nghiêm trình bày vạn pháp do tâm sanh. Tâm là thực thể của vạn pháp. Tâm vọng thì vạn pháp hoạt hiện sai biệt, hình hình sắc sắc, trùng trùng duyên khởi, cái này có cái kia có và ngược lại, như lưới đế châu. Tâm chơn thì pháp giới tánh với tâm là một, vạn vật đồng nhất thể....Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật chỉ cho chúng sanh thấu rõ cội nguồn của xum la vạn tượng do mê thức vọng tưởng nghiệp duyên hình thành, các pháp hiện hành trong vũ trụ là huyễn hóa, như hoa trong gương, như trăng dưới nước. Tất cả vạn pháp trong pháp giới đều từ tâm sanh. Tâm trùm khắp cả pháp giới. Tất cả vạn hữu vũ trụ có thể nằm gọn trong hạt cải. Hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ vạn pháp. Thể tánh của tâm nhiếp thâu tất cả. Tất cả là một, một là tất cả."
Vài lời trên đã tóm tắt phần nào những tinh túy của Kinh Hoa Nghiêm. Thật vậy, chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong Phẩm Nhập Pháp Giới, lời của nữ nhân Thích Ca Cù Ba giảng một pháp môn giải thoát cho Thiện Tài đồng tử:
"Này Thiện Nam Tử!.. Ta quán thân của Bồ Tát, nơi mỗi lỗ chân lông, mỗi niệm thấy vô lượng vô biên thế giới rộng lớn, những sự an trụ, trang nghiêm, hình trạng, những núi, đất, mây, danh hiệu, Phật xuất thế, những đạo tràng, chúng hội, diễn thuyết những khế kinh, những sự quán đảnh, các thừa, những phương tiện, những thanh tịnh.
Lại mỗi niệm nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát thường thấy vô biên phật hải, những sự ngồi đạo tràng, những thần biến, thuyết pháp, thuyết kinh hằng không gián đoạn.
Lại nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát thấy vô biên chúng sanh hải: những trụ xứ, hình mạo, tác nghiệp, căn tánh...."
Với lời tựa của Hòa Thượng Thích Đức Niệm và lời trích dẫn trong kinh Hoa Nghiêm chúng ta thấy rằng quan niệm toàn ký của các khoa học gia đã dựa vào các tư tưởng của Phật Giáo rất nhiều. Nhưng xét cho kỹ thì quan niệm toàn ký trong khoa học chỉ có tác dụng giải thích một số khúc mắc trong khoa học một cách đại cương trong khi quan niệm về tương thông, tương tức, hay dung thông vô ngại bao trùm mọi pháp giới. Nếu chúng ta đọc đoạn cuối của Kinh Hoa Nghiêm , khi Thiện Tài đồng tử vào trong lâu các Tỳ Lô Giá Na và rồi sau đó gặp Phổ Hiền Bồ Tát thì chúng ta sẽ thấy quan niệm về một vi trần chứa đủ thiên sai vạn biệt trong vũ trụ đã được trình bày với đầy đủ chi tiết và kèm vào đó những công hạnh của Bồ Tát. Và đây chính là điểm vi diệu của Kinh Phật vì ngoài việc dùng để giải thích những sự việc ngoài đời như khoa học, điểm chính yếu là cái dụng của Kinh Phật như sẽ được tóm tắt sau đây.
Chúng ta biết rằng kinh căn bản trong Hoa Nghiêm Tông là Kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm bao gồm toàn bộ giáo lý Phật Giáo một cách hòa hợp, đa dạng; đó là một kinh được coi là cao nhất trong mọi kinh Phật ở Á Châu. Kinh trình bày một môn siêu hình học vô cùng tiến bộ và là một tập hợp phát triển tư tưởng một cách kỹ lưỡng, tinh tế để dẫn con người tới toàn giác.
Nhưng muốn nhận định đúng giá trị của Kinh Hoa Nghiêm chúng ta phải xét đến cái mặt dụng của Kinh này. Vì chúng ta đã biết, trong Phật Giáo, Kinh Phật thật là vô ích nếu chúng ta chỉ để ý tới phần lý thuyết mà không áp dụng chúng vào đời sống thường ngày. Các thiền sư thường ví những người tìm hiểu kinh mà không thực hành như là những người "đọc thực đơn mà không ăn" hay là "đếm tiền của thiên hạ trong ngân hàng".
Nói một cách ngắn gọn, Kinh Hoa Nghiêm cho chúng ta một tập hợp những phương thức tu tập - một lối nhìn sự vật trên mọi góc cạnh, từ đó khám phá ra sự hòa hợp và bổ túc lẫn nhau tiềm ẩn sau những khác biệt và mâu thuẫn biểu kiến của mọi sự vật ở trên đời. Giá trị của sự tu tập này là sự phát triển một quan điểm tròn đầy, lành mạnh, giúp ta khám phá ra sự thống nhất của mọi Pháp nhưng không phủ nhận sự khác biệt của các Pháp. Từ quan điểm này, con người vượt qua được những ngăn ngại tâm linh do sự chấp vào các sai biệt của vạn vật mà sinh ra. Quan niệm về Chân Đế và Tục Đế của Bồ Tát Long Thọ trong Đại Trí Độ Luận sẽ giúp chúng ta tu tập trong Chân Đế nhưng không quên Tục Đế. Từ đó, với sự phát triển bồ đề tâm, cái quan điểm viên dung này vận hành bất tuyệt trên cách hành xử của các bồ tát trong công cuộc tự giác, giác tha. Một khi hội nhập được vào ý tưởng dung thông vô ngại của Kinh Hoa Nghiêm, với căn bản là bồ đề tâm, hành giả sẽ không còn bị ngăn ngại bởi bất cứ cái gì về cách hành xử trong Bồ Tát Đạo. Hành giả sẽ tự do hành xử để giúp chúng sinh ra khỏi chỗ mê mờ của những giáo lý những điều mê tín không còn thích hợp với sự tiến bộ tri thức của con người ngày nay.
Bài trên đây chỉ có mục đích chứng tỏ rằng các tư tưởng trong Phật Giáo đã đi trước và sâu sắc hơn các quan niệm của khoa học hiện đại nhiều, hiển nhiên tôi không thể đi vào chi tiết của khoa học cũng như Kinh điển Phật Giáo trong một bài viết ngắn. Bạn đọc nào muốn hiểu thêm về bồ đề tâm hay những quan niệm như tương duyên, tương tức, dung thông vô ngại trong Phật Giáo xin hãy chăm đi lễ Chùa và thụ huấn quý Thày. Tôi bảo đảm là các bạn sẽ không cảm thấy lãng phí thì giờ trong việc tìm hiểu kinh Phật vì Kinh Phật là một kho tàng vô giá và vô tận để phát triển trí tuệ con người thay vì giam hãm đầu óc con người trong những ngục tù tâm linh¨
**Vấn Đề Đạo Đức Trong Khoa Học
[Nhân Đọc Những Bài Viết Về Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh]
Trần Chung Ngọc
đăng ngày 28 tháng 9, 2007
Gần đây, một số trang nhà đồng loạt lên tiếng ca tụng khoa học gia Dương Nguyệt Ánh. Trước đây, tôi cũng đã đọc bài Trương Sĩ Lương phỏng vấn nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh. Nhân danh là một người cũng làm công tác khoa học, trong bài này tôi xin bày tỏ vài ý kiến cá nhân về khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, và tôi tin rằng tuyệt đại đa số người dân Việt, người dân Việt hiền hòa yêu chuộng hòa bình, ở trong nước cũng như ở hải ngoại, sẽ đồng ý với tôi.
Trong bài phỏng vấn của Trương Sĩ Lương, khoa học gia Dương Nguyệt Ánh được giới thiệu bằng một đoạn dài nhưng tôi chỉ xin trích dẫn vài lời sau đây:
- Nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh chính thức được quốc hội Hoa Kỳ trao tặng Huy Chương Phục Vụ Quốc Gia về An Ninh (Service to America Medal for National Security)
- Cô [Năm nay Dương Nguyệt Ánh đã 47 tuổi và đã có 4 con] đã tốt nghiệp trung học, Kỹ Sư Hóa Học, Điện Toán và Cao Học Quốc Gia Hành Chánh, tất cả đều với hạng danh dự.
- Nguyệt Ánh đã đóng góp hơn 24 năm cho Khoa Học và Kỹ Thuật Quốc Phòng. Cô là một trong những chuyên gia chất nổ hàng đầu của Hoa Kỳ, với danh tiếng ở tầm vóc quốc tế.
- Trong thập niên 90, cô từng lãnh đạo toàn bộ chương trình nghiên cứu và chế tạo chất nổ của Hải Quân, và đã đem lại 10 chất nổ mới cho 18 loại vũ khí được trang bị cho Hải, Lục, Không Quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ
- Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh được nhiều người biết đến qua thành quả chế tạo bom Áp Nhiệt cho chiến trường A Phú Hãn.
- Gần đây nhất, đài truyền hình Discovery và Military Channel đã cho trình chiếu thành quả khoa học của vũ khí Áp Nhiệt và tường thuật về KHG Dương Nguyệt Ánh trong loạt phim tài liệu về những bộ óc đàng sau những vũ khí tương lai của thế giới (“Future Weapons”).
Ngoài những thành tích ở trên, chế tạo chất nổ và bom đạn, những vũ khí giết người, để giúp cho sách lược xuất cảng dân chủ của Mỹ thành công, đọc bài phỏng vấn của Trương Sĩ Lương, chúng ta biết Dương Nguyệt Ánh còn là một “chiến sĩ dân chủ” nổi tiếng trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Sau đây là vài tư tưởng của bà với vài ghi nhận của Trần Chung Ngọc trong dấu ngoặc:
- Nguyệt Ánh thấy giới trẻ, nếu có cơ hội, nên tích cực tham gia vào sinh hoạt chính trị và chính giới Hoa Kỳ hay tại các quốc gia đang sinh sống. Càng có nhiều dân biểu nghị sĩ trong ngành lập pháp và công chức cao cấp trong các cơ quan hành pháp thì chúng ta càng dễ vận động cho những nguyện vọng của cộng đồng Việt [nguyện vọng của cộng đồng Việt ở Mỹ là nguyện vọng như thế nào, có thể có một nguyện vọng chung không?], và vận động hậu thuẫn quốc tế trong công cuộc đấu tranh dành Tự Do Dân Chủ [của Mỹ??] cho Việt Nam. [nghĩa là nhờ quốc tế can thiệp vào nội bộ Việt Nam, vi phạm chủ quyền của Việt Nam?]
- Điểm bất lợi là họ sinh ra hoặc lớn lên trên xứ người, nên thiếu hiểu biết về lịch sử và nhất là cuộc chiến tranh VN. Muốn giúp cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ ở Việt Nam thì họ cần phải có lập trường dân tộc vững chắc và hiểu rõ lịch sử để có thể đối thoại được với người CS và không bị CS lung lạc bằng lý luận tuyên truyền. [Đây là lập trường dân tộc vững chắc và hiểu rõ lịch sử của Dương Nguyệt Ánh !] Điều cần nhấn mạnh là các phụ huynh nên tự mình hướng dẫn con em trong lãnh vực này vì sách vở giáo khoa ở trường học và phim ảnh phần nhiều là tài liệu thiên tả, với mục đích xuyên tạc và bôi nhọ chính nghĩa và quân đội VNCH. [Mỹ là nước thiên hữu bậc nhất, cực hữu, thế mà sách vở giáo khoa ở trường học và phim ảnh phần nhiều lại là tài liệu thiên tả, Dương Nguyệt Ánh có ý nói rằng những gì không đúng với ý kiến của những người chống Cộng như Dương Nguyệt Ánh thì đều là tả hết. Dương Nguyệt Ánh nói như vậy có phải là quá ngớ ngẩn không? Mặt khác, Dương Nguyệt Ánh muốn các bậc phụ huynh phải nhồi vào đầu óc con em nhiệm vụ tiếp nối cuộc chiến Quốc-Cộng của trên 30 năm về trước, vinh danh chính nghĩa của VNCH qua hai chính quyền Diệm, Thiệu, và uy dũng của quân đội VNCH trong cuộc tháo chạy vì bị Mỹ phản bội. Xin lỗi nhé, tôi không bao giờ muốn nghe theo Dương Nguyệt Ánh để đầu độc, làm ô nhiễm đầu óc con em tôi đâu]
Vấn đề then chốt của chúng ta là làm sao để chúng ta tạo cho con em mình cái ý muốn tham gia vào công cuộc tranh đấu giành tự do dân chủ cho VN. [Nhưng vấn đề chính là “chúng ta” đã hiểu thế nào là tự do dân chủ ngay trên một đất nước tự do dân chủ chưa] Theo thiển ý của NA, điều trước tiên là cần tạo cho con em chúng ta niềm hãnh diện về nguồn gốc VN của họ bằng cách dạy cho họ biết lịch sử VN. Thí dụ: ông cha chúng ta từng đánh bại Mông Cổ, một đoàn quân bách chiến bách thắng nhất trong lịch sử thế giới, cả ba lần họ xâm lăng VN, trong khi họ đông và mạnh gấp mười chúng ta. Sự kiện chúng ta bị người Tàu đô hộ cả ngàn năm, bị người Pháp đô hộ gần 100 năm mà chúng ta vẫn giữ đươc ngôn ngữ, văn hoá và cuối cùng cũng giành lại được độc lập và chủ quyền. [Thế lực nào đã giành lại được độc lập và chủ quyền từ thực dân Pháp? Và thế lực nào đã làm tay sai cho thực dân Pháp chống lại cuộc tranh đấu của dân tộc ?] Rồi những câu chuyện về hai Bà Trưng, Bà Triệu, vua Quang Trung, v.v... Một khi họ hãnh diện mình là người VN thì họ mới có những quan tâm đến đất nước và dân tộc VN. [Dương Nguyệt Ánh cũng có thể nói là thuộc sử đấy nhưng thiếu mất đoạn chót, vì không hề nhắc đến chuyện Mỹ đã giúp cho Pháp 80% quân phí để tái lập nền thuộc địa ở Việt Nam, rồi khi Pháp thất trận lại phá Hiệp Định Geneva và xâm lăng Việt Nam bằng một chính sách diệt chủng tàn bạo. Dương Nguyệt Ánh cũng không nhớ tới số lượng bom Mỹ, may mà khi đó loại bom Áp Nhiệt chưa được phát minh bởi Dương Nguyệt Ánh, đã thả trên đất nước Việt Nam, số lượng chất khai quang Agent Orange đã trải trên miền Nam, song song với những vùng oanh kích tự do và chiến dịch Phụng Hoàng v..v..]
Đọc tiếp cuộc phỏng vấn chúng ta thấy rõ Dương Nguyệt Ánh đã bị thế hệ trước nhồi sọ về lịch sử Việt Nam và về Cộng sản bởi vì giờ này mà còn nói Cộng sản “duy trì chính sách “hồng hơn chuyên””; “thẳng tay đàn áp giới trí thức, bắt bớ giam cầm liên miên những người đứng dậy đòi tự do dân chủ.”; “Người Việt hải ngoại đang sống trong tự do, cơm no cơm áo ấm, đâu cần phải tranh giành quyền lợi gì với nhà cầm quyền CSVN mà gọi là hận thù?” [Sai! Hận thù là hận thù, và là động cơ để trả thù, không dính dáng gì đến tranh giành quyền lợi, tranh dành quyền lợi bằng cách nào? Chửi lộn? và 80 triệu người dân trong nước có để cho đám người này tranh giành quyền lợi ở trong nước hay không?] Chúng ta đòi tự do dân chủ cho VN là vì nghĩa vụ đối với 80 triệu đồng bào trong nước. [Cũng lại nói bậy, 80 triệu đồng bào trong nước, cũng như hơn hai triệu đồng bào Việt ở hải ngoại, trao cái nghĩa vụ đó cho thiểu số đám người “chúng ta” của Dương Nguyệt Ánh từ bao giờ?? Có về Việt Nam mà tìm hiểu và quan sát mới biết được người dân trong nước đánh giá những hoạt động của vài nhóm chống Cộng dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền là như thế nào.] Họ không nói được thì chúng ta phải nói giùm cho họ. [Ai mướn??] Họ đứng lên tranh đấu thì chúng ta phải tìm cách hỗ trợ họ. [Họ là ai? Một thiểu số dựa hơi ngoại quốc, lãnh tiền từ ngoại quốc, hay là thế lực đen đã từng nổi tiếng là “hễ phi dân tộc thì thể nào cũng phản bội dân tộc, để chống phá dân tộc nấp sau chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền??.]
Trên đây chỉ là vài tư tưởng vĩ đại của một khoa học gia vĩ đại (!) Để kết luận bài phỏng vấn, Trương Sĩ Lương đã bốc thơm thêm vài câu mà không hiểu là mình đã viết những gì:
Không ai khen công chúa mặc áo đẹp và cũng không ai khen các nhà khoa học là tài giỏi, thông minh, vì những lời khen đó thiết nghĩ dư thừa. Riêng KHG Nguyệt Ánh, ngoài tài năng xuất chúng mà bất cứ ai cũng phải công nhận, chị còn là một phụ nữ Việt đoan trang, hiền hậu, [đoan trang hiền hậu ở tài phát minh ra những vũ khí giết người?], rất dễ cảm tình khi tiếp xúc qua cung cách bình dị của chị. Chị không chỉ là một người vợ hiền, một người mẹ gương mẫu làm hãnh diện gia đình anh Hữu Thọ, mà chúng tôi tin rằng, bất cứ người Việt tỵ nạn nào cũng cảm thấy được hãnh diện lây. Chị quả thật là một phụ nữ Việt Nam làm rạng danh con Rồng cháu Lạc trên đất người.
[Trương Sĩ Lương viết bậy. Đây là một khẳng định vô trách nhiệm (affirmation gratuite) vì cho rằng bất cứ người Việt tỵ nạn nào cũng cảm thấy được hãnh diện lây trong khi trên thực tế không phải người Việt tỵ nạn nào cũng hãnh diện về một người đàn bà Việt Nam phát minh ra những loại vũ khí có tính cách hủy diệt sinh mạng con người, bất kể với lý do nào, nếu không muốn nói là ghê tởm trước những hoạt động gián tiếp giết người của Dương Nguyệt Ánh. Trong số này, ít ra cũng có Giáo sư Trịnh Xuân Thuận, một khoa học gia nổi tiếng trong cộng đồng người Việt hải ngoại và cả ở trong nước, nếu chúng ta đã đọc cuốn “L’Infini Dans La Paume De La Main” xuất bản năm 2000, hay bản tiếng Anh “The Quantum And The Lotus”, xuất bản năm 2001, của Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận. Hơn nữa, đa số người Việt tỵ nạn là Phật tử, ít nhất cũng chiếm một tỷ lệ trên 50%, và tôi tin rằng tuyệt đại đa số Phật tử không lấy gì làm hãnh diện về Dương Nguyệt Ánh. Hãy hỏi bất cứ một Phật tử nào, rằng họ có cảm thấy hãnh diện về một người, dù người đó là một phụ nữ Việt Nam, đã “sáng tạo” ra những vũ khí giết người một cách kinh khủng không. Tôi tin chắc tuyệt đại đa số sẽ lắc đầu và thở dài, tội nghiệp cho một con người đang lặn ngụp trong ma đạo, trong ác nghiệp. Tại sao? Đây chính là điều tôi muốn viết về Vấn Đề Đạo Đức Trong Khoa Học trong phần tiếp theo.]
Ở trên cõi đời này, hầu như có ba hạng người: hạng người có đầu óc [theo nghĩa có khả năng chuyên môn và biết suy tư] và có một trái tim; hạng người có đầu óc và không có trái tim; và hạng người có một trái tim nhưng không có đầu óc. Muốn biết Dương Nguyệt Ánh thuộc hạng người nào, chúng ta chỉ cần duyệt qua vài tư tưởng của chính thị. Bỏ qua những lời ca tụng lố bịch, mâu thuẫn của đám người vừa không có đầu óc vừa không có trái tim như: Dương Nguyệt Ánh là người đoan trang, hiền hậu; tài sắc vẹn toàn; đầy đủ tài đức; là gương sáng cho lớp trẻ v..v.., chúng ta có hai bài viết về Dương Nguyệt Ánh, qua đó chúng ta có thể thấy phần nào con người của khoa học gia nổi tiếng (tiếng gì?) này. Cũng như ở trên, tôi xin có vài nhận định ngắn để trong dấu ngoặc.[…]
Bài thứ nhất của Andrew Lam, viết ngày 8 tháng 4, 2004, với nhan đề mà tôi dịch thoát như sau: Bà Bom: Người Mỹ Gốc Việt Làm Bom cho Cuộc Chiến Chống Khủng Bố. [Bom là một vũ khí siêu khủng bố. TCN] (Bom Lady: Vietnamese American makes tools for war on terror)
Bài thứ hai do Nguyên Anh Chuyển Ngữ của Robin Tierney (Sunday, April 30, 2006 ; Page M03), không thấy có đầu đề.
Bà Bom: Người Mỹ Gốc Việt Làm Bom cho Cuộc Chiến Chống Khủng Bố.
Bài của Andrew Lam mở đầu bằng câu: “Bà ta sợ máu, nếu không bà ta đã trở thành một bác sĩ. Bà ta hầu như sỉu đi trong một lớp học về vạn vật ở trung học khi phải mổ một con vật nhỏ nào đó, bà ta nói vậy. Để giữ điểm trung bình cao nhất, bà ta đã bỏ lớp học trên.” [Dương Nguyệt Ánh sợ máu, không dám mổ cả một sinh vật nhỏ nhoi trong lớp học, nhưng lại chế tạo bom để thiêu thành than con người, và chắc chắn trong số nạn nhân không phải chỉ có những người Hồi Giáo khủng bố mà còn có các thường dân vô tội, gồm cả ông già, bà cả, phụ nữ và trẻ con. Lẽ dĩ nhiên thiêu thành than thì không đổ máu, và Dương Nguyệt Ánh ở xa, không hề trực tiếp nhìn thấy những sự tàn phá khủng khiếp của loại bom mà bà đã góp phần quan trọng trong việc chế tạo ra nó, nhưng chắc chắn đã nhìn thấy những hình ảnh về thành quả phát minh của mình. Cho nên bà cảm thấy hãnh diện và rất an tâm. Nhớ khi xưa, trong thời đại hắc ám, giáo hội Công Giáo cũng đã thiêu sống khoa học gia Giordano Bruno và các phù thủy vì không muốn đổ máu, và cũng vì tin rằng Chúa ở trên trời thích hít hà mùi thịt khét, như một mục sư gần đây đã phán. Sau vụ 9-11 ở New York, trước ngày lễ Halloween, 31 tháng 10 hàng năm, Mục sư Tin Dữ Deacon Fred, trong một bài giảng cho các tín đồ, cho rằng bổn phận của người Ki-tô là phải giết phù thủy ngay trong thời đại này: “Thiên Chúa rất rõ ràng ở đây, thưa quý vị, ông ta không muốn cho các phù thủy sống. Chúng ta phải giết các phù thủy! Nếu không, chúng ta đang bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Chúa Jesus sẽ vui mừng đến chảy nước mắt nếu ông ta từ trên đám mây cúi xuống và hít hà lên mùi thịt nướng của một phù thủy trong ngày lễ Halloween này. [Trong ngày lễ Halloween vào 31 tháng 10 mỗi năm, rất nhiều người ăn mặc giả làm phù thủy kéo ra chật đường phố] (God is very clear here, folks, he doesn't want witches to live. We are supposed to be killing witches! If we don't, we are disobeying God. Jesus would weep tears of joy if He leaned down off His cloud and sniffed up the burning flesh of a witch this Halloween.) Nhưng hình như, đối với các phù thủy, trước khi mang đi thiêu sống đều có màn tra tấn rất dã man để lấy cung thú tội, và tra tấn với các hình cụ khủng khiếp, sắc bén mà không đổ máu thì quả thật là một phép lạ.]
Điều này chúng ta có thể thấy rõ con người của Dương Nguyệt khi bị đặt trước vấn đề:
Mọi loại bom đều được làm ra để giết . Dương Nguyệt Ánh làm thế nào có thể hòa hợp công việc của mình với những hậu quả của sự sáng tạo của mình? (But all bombs are designed to kill. How does Duong reconcile her job with the consequences of her creation?) Bà ta đã trả lời mau lẹ và nhấn mạnh: “Tôi không ở phía hành quân (nghĩa là tôi không đích thân đi ném bom này), chúng tôi không quan ngại đến sự tử vong của con người.” (“I’m not on the operation side,” she says quickly, not missing a beat. “We don’t deal with human fatality.”) Đó là lập trường của một người mẹ Việt Nam đoan trang hiền hậu, tài sắc vẹn toàn, đầy đủ tài đức như một số người đã ca tụng. Tôi nghĩ Dương Nguyệt Ánh thuộc hạng người có đầu óc nhưng thiếu mất một trái tim, trái tim của con người đúng nghĩa là một con người.
Đến đây chúng ta cần trích dẫn quan niệm của một khoa học gia trở thành một tu sĩ Phật Giáo, Matthieu Ricard, và của một Phật tử cũng là một khoa học gia, Giáo sư Vật Lý Các Thiên Thể (Astrophysicist) Trịnh Xuân Thuận trong cuốn The Quantum and the Lotus, trang 16:
Matthieu Ricard:
Một số nhà khoa học cho rằng công việc của họ hoàn toàn chỉ là tìm hiểu và khám phá, và họ không có trách nhiệm gì về việc sử dụng những phát minh của họ. Một lập trường như vậy chỉ là sự nhận thức sai lầm, chủ tâm mù quáng, hay tệ hơn nữa, hoàn toàn bất lương. Kiến thức đưa tới quyền lực, và quyền lực đòi hỏi một ý niệm về trách nhiệm và một ý tưởng là chúng ta phải chịu trách nhiệm về những hậu quả trực tiếp hay gián tiếp của những hành động của chúng ta.
(Some scientists think that their work consists entirely of exploring and discovering, and that they aren’t responsible for the use of their results are put to. Such a position is mere illusion, willful blindness, or, at worst, just plain dishonesty. Knowledge gives power, and power requires a sense of responsibility and an idea that we are accountable for the direct or indirect consequences of our actions.)
Trịnh Xuân Thuận:
Thật không thể tha thứ được cho bất cứ khoa học gia nào biết rõ là mình đang phát triển những dụng cụ giết người và giết người tập thể. Trong cuộc chiến Việt Nam, tôi bị sốc khi biết rằng nhiều khoa học gia Mỹ nổi tiếng, gồm một vài người đã lãnh giải Nobel, là thành viên của “đơn vị Jason” – một ủy ban thành lập bởi Ngũ Giác Đài để cố vấn cho quân đội về sự phát triển những vũ khí. Tôi cảm thấy ghê tởm và kinh sợ những bộ óc thông thái này hàng tháng họp nhau để đưa ra những vũ khí có thể giết người càng nhiều càng hay.
(It is inexcusable for any scientist to work knowingly on the development of instruments of death and mass destruction. During the Vietnam war, I was shocked to hear that several great American scientists, including some Nobel laureates, were members of the “Jason Division” - a committee set up by the Pentagon to advise the military in the development of new weapons. I found it revolting that these great minds would meet each month in order to come up with weapons that would kill a many people as possible.)
Hiển nhiên là Matthieu Ricard cũng như Trịnh Xuân Thuận là những khoa học gia vừa có đầu óc và vừa có một trái tim, trái tim của một con người đúng nghĩa là một con người.
Trong cuốn What Buddhists Believe?, Dr. K. Sri Dhammananda viết một đoạn về Khoa Học Mà Không Có Tôn Giáo (Science Without Religion), trang 275-276, như sau:
Không có những ý tưởng đạo đức, khoa học là một mối đe dọa nguy hiểm cho toàn thể nhân loại.. Những viên đạn và trái bom là những món quà của khoa học cho số người nhỏ nhoi nắm quyền lực mà định mệnh của thế giới tùy thuộc vào họ. Trong khi đó thì phần còn lại của nhân loại ở trong cảnh phập phồng lo sợ, không biết lúc nào những vũ khí hạt nhân, những khí độc, những vũ khí giết người – tất cả những hoa trái của sự nghiên cứu khoa học nhằm giết người một cách hữu hiệu – sẽ được sử dụng trên đầu họ..
Khoa học mà không có đạo đức chỉ nói lên sự tàn phá: nó trở thành một con quỷ hà khắc mà con người khám phá ra. Và bất hạnh thay, chính cái con quỷ này lại trở thành có quyền năng hơn là con người.
(Without having moral ideals, science poses a danger to all mankind…The bullets and bombs are the gifts of science to the few in power on whom the destiny of the world depends. Meanwhile the rest of mankind waits in anguish and fear, not knowing when the nuclear weapons, the poisonous gases, the deadly arms – all fruits of scientific research designed to kill efficiently – will be used on them…
Science devoid of morality spells only destruction: it becomes the draconian monster man discovered. And unfortunately, this very monster is becoming more powerful than man himself.)
Nhưng tại sao một phụ nữ Việt Nam “đoan trang, hiền hậu, tài sắc vẹn toàn, đầy đủ tài đức” như Dương Nguyệt Ánh lại đi vào ma đạo để tạo ra những vũ khí giết người một cách khủng khiếp: loại bom mà khi nổ sẽ tạo ra một vầng mây hóa chất và một làn sóng chấn động có khả năng hủy diệt tất cả những gì ở trong tầm sát hại của nó.? Chúng ta hãy nghe Dương Nguyệt Ánh giải thích khi được hỏi “Động cơ nào đã thúc đẩy bà bước vào ngành kỹ sư hoá học và chế tạo vũ khí?”
Còn tại sao lại đi vào ngành chế tạo vũ khí? Bởi vì tôi muốn phục vụ cho nền an ninh quốc phòng Hoa Kỳ. Là một người tỵ nạn chiến tranh, tôi không bao giờ quên được những người chiến sĩ Hoa Kỳ và VNCH đã từng bảo vệ cho tôi có một cuộc sống an toàn .
Và trong bài của Andrew Lam bà ta nói: Chế tạo chất nổ là để đền đáp lại quốc gia đã cho tôi quá nhiều [Making explosives “is something to give back to the country that gave me so much.”]
Câu trả lời này chứng tỏ Dương Nguyệt Ánh hiểu biết rất ít về chiến tranh Việt Nam vì khi đào thoát ra khỏi Việt Nam năm 1975 bà ta mới có 15 tuổi. Hơn nữa, bà ta có một nhận thức sai lầm về nghĩa vụ đền đáp quốc gia đã bao dung bà. Đền đáp cho một quốc gia đã bao bọc mình và cho mình một kiến thức có rất nhiều cách: làm một công dân tốt, góp phần giáo dục, y tế v..v.. như bao người Việt tỵ nạn đã làm. Nhưng đền đáp bằng cách sáng chế ra những vũ khí giết người man rợ thì chỉ có Dương Nguyệt Ánh “hiền hậu, đoan trang” mới nghĩ ra mà không hiểu rằng như vậy thật ra đã phụ lòng tinh thần bao dung và nhân ái của người dân Mỹ. Đó là đền đáp cho một tập đoàn cai trị hiếu chiến Mỹ ở Ngũ Giác Đài và Bush với tư tưởng thánh chiến (lời của Bush = Crusades) đổi máu của binh sĩ cho dầu xăng vì thế người dân Mỹ đã phản đối: “No blood for Gas.” Ngũ Giác Đài không phải là dân Mỹ. Guồng máy chiến tranh của Mỹ cũng không phải là quốc gia Mỹ hay người dân Mỹ. Và chính sách xâm lược đế quốc của tập đoàn cai trị Mỹ từ xưa tới nay càng ngày càng làm cho thế giới ghê sợ và dè bỉu. Người Mỹ đã thả trên đất Việt mấy triệu tấn bom, dùng B52 thả bom ngoài Bắc bừa bãi, giết hại dân lành, thí dụ như thả bom vào nhà thương Bạch Mai nhân dịp Chúa giáng sinh năm 1972, vậy mà Dương Nguyệt Ánh lại đền đáp ơn trên của Mỹ bằng cách làm bom ác liệt hơn để cho Mỹ đi thả trên đầu người dân Afghanistan v.. v.., thật là một lối đền đáp ơn trên một cách kỳ lạ, vượt ra ngoài sự tưởng tượng của một con người đúng nghĩa là một con người.
Mặt khác, câu trên đã chứng tỏ một tâm cảnh ích kỷ, chỉ biết đến mình, vì , “tôi không bao giờ quên được những người chiến sĩ Hoa Kỳ và VNCH đã từng bảo vệ cho tôi có một cuộc sống an toàn.” [cho đến khi tôi 15 tuổi và chạy ra khỏi Việt Nam]
Thế Dương Nguyệt Ánh có biết rằng những người chiến sĩ Hoa Kỳ và VNCH đã gây ra sự chết chóc khủng khiếp cho hàng trăm ngàn đồng bào vô tội của bà ấy hay không? Sau đây là một vài con số thống kê để mở mắt Dương Nguyệt Ánh về cuộc chiến.
Theo tài liệu trong cuốn The Vietnam War Almanac, General Editor: John S. Bowman, Barnes & Noble, Inc., New York, 2005, trang 358, hi vọng Dương Nguyệt Ánh có thể nghĩ lại và hiểu rõ hơn bộ mặt thật của cuộc chiến, bỏ qua sự chết chóc của người ngoại quốc, riêng với Việt Nam thì :
- Nam Việt Nam: Chết 185528; bị thương 499026.
- Bắc Việt: Chết 924048; số bị thương ước tính ít nhất gấp đôi.
- Cả hai miền: 415000 thường dân chết; 936000 bị thương.
Đây chỉ là những con số ước tính khiêm tốn, con số thật có thể cao hơn. Ngoài ra, Mỹ còn thả 8 triệu tấn bom xuống Việt Nam, Cambod, và Lào (vào khoảng gấp hơn 2 lần tấn bom mọi phe dùng trong đệ nhị Thế Chiến.). Tiếc rằng Dương Nguyệt Ánh sinh sau đẻ muộn, chứ vào thời đó thì với loại bom “thermo-barbaric” của Dương Nguyệt Ánh phát minh để đền đáp những chiến sĩ Hoa Kỳ đã bảo vệ cho bà một cuộc sống an toàn, thì dân Việt Nam còn khốn khổ hơn nữa, vì Hoa Kỳ đâu có coi người Việt Nam là người. [Loại bom mà Dương Nguyệt Ánh góp phần sáng chế ra có tên là thermobaric (thermo là nói về nhiệt, và baric là nói về áp suất, nhưng nhiều người đã gọi đó là thermo-barbaric, barbaric có nghĩa là man rợ]
Nhưng chưa đủ đâu, Hoa Kỳ cũng đã trải trên đất nước Việt Nam 76.954.806 lít hóa chất trong đó có 49.268.937 lít chất độc màu da cam (Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam Và Cuộc Chiến Việt Nam, Giao Điểm 2005, trang 52). Tác hại lâu dài của các loại hóa chất, nhất là chất độc Da Cam, trên môi sinh và con người Việt Nam là một sự kiện không ai có thể phủ nhận.
Vì sự an toàn của cá nhân trong số hàng triệu người khác luôn luôn sống trong cảnh sợ hãi vì bom rơi, vì chất độc da cam, Dương Nguyệt Ánh đã quên đi tất cả những thảm họa của chiến tranh trên đất nước Việt Nam và đặc biệt góp phần lớn lao vào việc chế tạo ra những vũ khí giết hại con người, và không tránh được giết hại phụ nữ và trẻ con vô tội, để báo đáp “ơn trên” của Hoa Kỳ. Tôi cho đây là một sự sỉ nhục cho cộng đồng Việt Nam tỵ nạn chứ không phải là chuyện đáng khoa trương ca tụng. Ai không đồng ý, xin lên tiếng. Những ai yêu chuộng hòa bình chắc chắn sẽ đồng ý với tôi. Còn những ai có máu lạnh, hiếu chiến, xin cứ ủng hộ Dương Nguyệt Ánh. Đừng có nại cớ chống khủng bố. Hãy tìm hiểu “Why They Hate Us?”
Khoa Học Về Thiện Và Ác
Hoa Kỳ đã dùng chiến trường Việt Nam như là một phòng thí nghiệm để phát minh ra những vũ khí mới. Thật vậy, trong một bài viết của Nick Turse, TomDispatch, ngày Thứ Sáu, 26 tháng 3, 2004, chúng ta có thể đọc được một đoạn như sau:
Trở lại 1965, Jack Raymond của tờ New York Times đã viết một bài với đầu đề khá đúng “Việt Nam Cung Cấp Cho Hoa Kỳ “Phòng Thí Nghiệm Chiến Tranh.”. Và trong giai đoạn lịch sử đó, có vài vị chỉ huy Hoa Kỳ đã nói công khai như vậy. Thì dụ như, Tướng Maxwell Taylor, Chủ tịch Bộ Tổng Than Mưu và rồi làm Đại sứ ở Nam Việt Nam, ghi nhận là: “Chúng ta phải nhận thức được tầm quan trọng của vùng này (Việt Nam) như là một phòng thí nghiệm. Chúng ta có những toán tới đó để tìm ra những đòi hỏi về quân cụ để đối phó với loại chiến tranh du kích này”
(Back in 1965, Jack Raymond of the New York Times wrote a piece aptly headlined, "Vietnam Gives U.S. 'War Laboratory.'" And in that era, there were a couple of American commanders who publicly said as much. For instance, General Maxwell Taylor, who served as the Chairman of the
Joint Chiefs of Staff and then U.S. ambassador to South Vietnam, noted that "we have recognized the importance of the area [Vietnam] as a laboratory. We have teams out there looking at equipment requirements of this kind of guerilla warfare." )
Và chúng ta đã biết Mỹ đã sử dụng bom Napalm (tiền thân của loại bom FAE = Fuel-Air Explosive mà loại bom “thermo-barbaric” của Dương Nguyệt Ánh là một version “tiến bộ” của loại chất nổ này.) ở Việt Nam. Hình ảnh một bé gái trần truồng, thân hình bị dính chất keo trắng của bom Napalm đang âm ỉ cháy, kinh hoàng chạy giữa đường, vẫn chưa phai nhạt trong đầu óc của những người ở lớp tuổi đã từng chứng kiến những cảnh tàn bạo vô nhân tính của chiến tranh ở Việt Nam.
Và ngày nay, Mỹ lại dùng chiến trường Afghanistan và Iraq như những phòng thí nghiệm, sử dụng và ca tụng ban huân chương cho những người như Dương Nguyệt Ánh, để nghiên cứu phát minh ra những vũ khí mới, có tầm hủy diệt lớn hơn, để làm hậu thuẫn cho sách lược thống trị hoàn cầu bằng kinh tế và quân sự của Mỹ, nấp sau chiêu bài xuất cảng dân chủ, tranh đấu cho nhân quyền, trong khi Mỹ có một hồ sơ khủng khiếp nhất về vi phạm nhân quyền.
Phát minh ra những vũ khí để hủy diệt sinh mạng con người thì không thể phát xuất từ một tâm thiện. Trong cuốn Khoa Học Về Thiện Và Ác (The Science of Good and Evil) của Michael Shermer chúng ta có sự phân tích về thế nào là Ác. Ác ở đây nên hiểu hoặc là Tâm Ác hoặc là hành động ác, và có khi cả hai. Làm bom hội đủ cả hai, tâm ác và hành động ác.. Chúng ta hãy đọc vài dòng phân tích về Cái Ác (Tâm ác and/or hành động ác):
- Cái Ác luôn luôn là có ý định (người làm Ác bao giờ cũng có lý do để biện minh cho việc làm của mình).
- Cái Ác có động cơ là sự thích thú trong đó.
- Nạn nhân của Cái Ác thường là vô tội và người tốt.
- Cái ác được làm bởi những người hoàn toàn khác với chúng ta [có máu lạnh].
- Cái Ác không chỉ đối nghịch với cái Thiện, mà còn đối nghịch với trật tự, hòa bình, và sự ổn định.
- Những người Ác là những người ích kỷ chỉ biết đến mình, và bị thúc đẩy làm ác để tăng uy tín của mình.
Michael Shermer, The Science of Good and Evil, Times Books, New York, 2004, p.80:
Evil is always intentional (perpetrators always have a justification)
Evil is motivated by pleasure.
The victims of evil is innocent and good.
Evil is conducted by people completely different from us, wholly other.
Evil is the opposite not only of good but of order, peace, and stability.
Evil people are selfish egoists driven to improve their self-esteem by evil acts.
Làm ác nhưng vẫn tin rằng mình là thiện, là tốt, đây chính là một huyền thoại, huyền thoại về làm ác với ý thiện. Nghiên cứu về huyền thoại này, Baumeister đã kết luận là huyền thoại về Cái Ác này có thể đưa đến sự bạo hành lớn lao hơn: “Huyền thoại này kích thích con người tin rằng họ là thiện, là tốt và sẽ như vậy bất kể chuyện gì xảy ra, ngay cả họ đã làm tổn hại trầm trọng đến những đối thủ của họ. Do đó huyền thoại về cái ác với ý thiện ban cho những người tin như vậy một loại miễn nhiễm về đạo đức.. Nó cho phép Cái Ác ngụy trang như là Cái Thiện.”
(Ironically, Baumeister concludes, the myth of evil itself may lead to greater violence: “The myth encourages people to believe they are good and will remain good no matter what, even if they perpetrate severe harm on their opponents. Thus the myth of pure evil confers a kind of moral immunity on people who believe in it… It allows evil to masquerade as good.”)
Khi xưa, ông Nguyễn Văn Trung cũng dựa vào huyền thoại này để biện minh cho Công Giáo với luận điệu: “Sự truyền đạo Công Giáo vào Việt Nam bằng bạo lực, làm ác v..v.. là do cái “chước cám dỗ làm điều thiện””, điều thiện của Công Giáo là mang sự cứu rỗi của một người Do Thái đã chết cách đây 2000 năm ở Jerusalem đến cho dân tộc Việt Nam.
Trên Internet có rất nhiều ý kiến về loại bom thermo-barbaric và chính sách xâm lược của Mỹ. Ở đây, chúng ta hãy điểm qua vài quan niệm về loại bom thermo-barbaric.
1. Những vũ khí Áp Nhiệt là một sự tiến bộ của kỹ thuật chiến tranh nhưng chúng gây ra khó khăn rắc rối vì chúng có chiều hướng giết và làm tàn phế thường dân – giống như những vũ khí hóa học và bom chùm. Nếu chúng ta dùng vũ khí để giết thường dân bừa bãi có phải là chúng ta đang hành động như những kẻ khủng bố không?
[Thermobaric weapons are an advance in war technology but they are troubling because of their propensity to kill and maim civilians - like chemical weapons or cluster bombs. If we use weapons that kill civilians indiscriminately aren't we behaving like terrorists?
Posted by: Bruce at September 11, 2007 01:57 AM]
2. Nước Mỹ hầu như đi vào giai đoạn kết cục suy tàn của mọi đế quốc đã dùng cường lực để đi ăn hiếp các nước khác. Những vị lãnh đạo của các người đã nói láo để kéo các người vào chiến tranh vì quyền lực và lợi nhuận kinh tế, thí dụ như ở Việt Nam, A Phú Hãn, Iraq, giết cả triệu người. Khi bạo lực tới nội địa (vụ 9/11) các người giận dữ. Các người có 700 căn cứ quân sự trên khắp thế giới. Các người thực sự tin rằng các người cần những căn cứ đó để bảo vệ quốc gia của các người? Người Mỹ xuất sinh từ cái kho Thanh Giáo (Tin Lành Anh), kêu khóc trong đêm giữa rừng, sợ hãi mọi bóng cây. Điều này thực sự đã tỏ rõ trong lịch sử của các người.
[USA is almost over as all bully empires always finish. Your leaders lie you into war over and over for financial gain and power, i.e., Vietnam, Afhganistan, Iraq, killing millions. When the violence comes home you are outraged. You have over 700 military bases around the world. Do you really believe you need them to protect your "country?" Americans are from Puritan stock, crying in the night at the great forests, afraid of every shadow. It really shows in your history. ie Peoples History of the United States by Howard Zinn
Posted by: Dr.J. Gobbler at August 24, 2007 12:02 PM]
3. Chúng ta xâm lăng một nước khác, rồi chúng ta phát điên lên vì họ giết một số người của chúng ta. Thật là kỳ! Người Mỹ là những tên đồ tể kiêu căng, ngu dốt của thế giới. Hi vọng là, một ngày nào đó cùng những thứ mà chúng ta đã giáng lên đầu người dân trong thế giới thứ ba sẽ giáng lên đầu chúng ta, theo tinh thần có vay có trả. Hãy tưởng tượng là có một quả bom Napalm nhỏ dùng trên các thành phố, thị trấn Mỹ, giống như chúng ta đã dùng ở Việt Nam, hoặc một trái bom thuộc loại chính xác (như bom thermo-barbaric) 500 pounds thả vào trung tâm thị trường chứng khoán ở New York giống như chúng ta đã thả trên các làng mạc ở Afghanistan và Iraq, hoặc một trong những loại “chất nổ mới” [thí dụ như loại bom thermo-barbaric] dùng trên khán đài coi football, thay vì một công sự ở Iraq. Tôi đoán rằng như vậy là không công bằng vì chỉ có chúng ta và cái bọn Do Thái mới được dùng những vũ khí đó.
[We invade someone else's country, then get mad because they kill some of us! Amazing! Americans are arrogant, ignorant butchers of the world. Hopefully, someday the same things we have been inflicting on third world people will be inflicted on our people, in the spirit of what goes around, comes around. Imagine a little napalm used on american cities and towns, the way we used it in Vietnam, or a 500 pound precision bomb dropped on the NY stock exchange the way we drop them all over villages in Iraq and Afghanistan, or one of the above "novel exposives" used at a football stadium, rather than a building in Iraq. I guess that would be unfair, as only we and the Is-piss jews get to use those weapons.
Posted by: Pauli at July 12, 2006 08:14 PM]
Và sau cùng, tôi có một bài thơ chính trị trên Internet để tặng Dương Nguyệt Ánh và những người đã ca tụng bà ta là “hiền hậu, đoan trang, tài sắc vẹn toàn, đầy đủ tài đức”. Dương Nguyệt Ánh và độc giả trên Giao Điểm chắc chắn hiểu tiếng Anh, nên tôi không cần phải dịch, đúng ra là không muốn dịch, bài thơ này:
POLITICAL POEM:
Thermobaric weapons ? 'Thermobarbaric' is a better Description !
The ThermoBARBARIC bomb
Sucks air from caves,
Collapses lungs,
Ruptures the liver and spleen,
Bursts eardrums.
The ThermoBARBARIC bomb
Is deployed with great glee
By the men of the West
From the Land of the Free
In support of their Great Democracy.
The ThermoBARBARIC bomb
Joins the Daisy cutter
That destroys a small village
And it joins
Special Forces firing into a compound
In a massacre they wouldn't allow Amnesty to check up on
And it joins
Rockets fired into dungeons
(After the burning oil)
In a great
Dehumanisation
That just doesn't fit with the warm, kindly,
Caring image
That America and Britain have of themselves.
The ThermoBARBARIC bomb is, in fact,
A more accurate indication
Of our civilization
Trần Chung Ngọc, Ph.D
Đôi hàng về tác giả
Sinh năm 1931 tại Hà-Nội.
1952: Tốt nghiệp trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định với cấp bậc Thiếu Úy.
1956: Xin giải ngũ.
1957: Quy Y Tam Bảo, Chùa Văn Thánh, Thị Nghè, Thượng Tọa Tuệ Đăng chứng minh
1962: Cử Nhân Giáo Khoa Khoa Học, Khoa Học Đại Học Saigon.
1962: Bị gọi tái ngũ.
1962-1965: Trưởng Khoa Khoa Học (Vật Lý và Hóa Học), Văn Hóa Vụ, Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Đồng thời dạy thực tập Vật Lý ở Đại Học Đà Lạt, và dạy Vật Lý lớp 12 ở Collège d’Adran, Đà Lạt.
1965: Được giải ngũ
1965-1967: Giảng Nghiệm Viên, Ban Vật Lý, Khoa Học Đại Học Saigon.
1967: Được học bổng đi Mỹ học về ngành Vật Lý ở Đại Học Wisconsin - Madison.
1972: Tốt nghiệp Ph.D., Vật Lý, Đại Học Wisconsin - Madison.
1972-1975: Giảng sư, Ban Vật Lý, Khoa Học Đại Học Saigon. Giáo sư thỉnh giàng: Đại Học Vạn Hạnh, Trường Kỷ Thuật Thủ Đức (1), Trường Kỹ Thuật Cao Thắng. Đồng thời, cùng với các Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Ích (M.I.T), Vũ Thượng Quát (Cal.Tech), Huỳnh Văn Quảng (S.I.U), được tuyển làm ChuyênViên Đại Học, trực thuộc Thứ Trưởng Giáo Dục, trước là Đỗ Bá Khê, sau là Bùi Xuân Bào, đặc trách xét văn bằng ngoại quốc tương đương với các văn bằng Việt Nam, cùng nghiên cứu cải tổ chương trình giáo dục đại học.
1975-1977: Post Doctorate Fellow, Physics Department, University of Wisconsin- Madison.
1977-1996: Manager, Surface Analysis Laboratory, Materials Center, University of Wisconsin – Madison. Direct and conduct research in the field of Surface Analysis using new techniques such as AES (Auger Electron Spectroscopy); ESCA (Electron Spectroscopy for Chemical Analysis); SEM (Scanning Electron Microscopy); SIMS (Secondary Ion MassSpectroscopy) etc…
1989: Tháng 11: Được mời sang Singapore làm Cố Vấn Kỹ Thuật ở SISIR (Singapore Institute of Standards and Industrial Research)
1996 - To date: Về hưu. Nghiên cứu Đạo Phật, Thiên Chúa Giáo, Lịch sử v..v..
(1) niên khóa 1973-1974, chỉ có vài giờ ở đây, không nhớ chính xác tên trường là Kiểu Mẫu Thủ Đức hay Đại Học Kỷ Thuật Thủ Đức.
Tác phẩm đã xuất bản:
• Công Giáo Chính Sử (1998; Tái bản lần 2: 2000)
• СXTin Công Giáo (2000)
• Chúa Giê-su Là Ai? Giảng Dạy Những Gì? (2002)
• Con Người Và Vũ Trụ. Phật Giáo Và Khoa Học (sẽ xuất bản)
• Công Giáo Hắc Sử (1998; Tái bản lần 2: 2000)
Tác Phẩm Viết Chung Với Một Hay Nhiều Tác Giả Khác:
• Bản Chất Các Phản Ứng Về Bài Giảng Của HT Nhất Hạnh (2001)
• Dialogue With Pope John Paul II (1997)
• СXThoại Với Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II (1995; Tái bản lần 3: 2000)
• Ki Tô Giáo Và Kế Hoạch Cải Đạo Á Châu (2005)
• LM Trần Lục, Thực Chất Con Người Và Sự Nghiệp (1999)
• Nguyễn Trường Tộ, Thực Chất Con Người Và Di Thảo (1998)
• Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước ?? (2002)
• Người Việt Nam & Đạo Giêsu (2007)
• Phật Giáo Trong Thế Kỷ Mới; Tuyển Tập I (1996)
• Phật Giáo Trong Thế Kỷ Mới; Tuyển Tập II (1997)
• Phê Bình Những Bài Phê Bình Cuốn Đối Thoại…[Tập 1, Phê Bình Ông Dương Ngọc Dũng; Tập 2, Phê Bình Ông Đỗ Mạnh Tri] (1997)
• Tôn Giáo Và Tổ Quốc (2003)
• Tuyển Tập: 1963-2003: Bốn Mươi Năm Nhìn Lại (2003)
• Vạch Trần Âm Mưu Phá Ngầm Phật Giáo (2000)
• Vatican: Thú Tội Và Xin Lỗi (2000)
• Võ Văn Ái: Con Nội Trùng Của Phật Giáo Việt Nam (2005)
Các Bài Viết:
• Hơn 100 bài viết về tôn giáo, lịch sử, khoa học, thời sự v..v.. đăng trên các báo Nguồn Sống [Tu viện Kim Sơn], Phật Giáo Hải Ngoại [Phật Học Viện Quốc Tế], Sen Trắng [Chùa Giác Lâm], Giao Điểm, và trên các trang nhà Giao Điểm, Sách Hiếm v..v..
Các bài đã đăng xếp theo mẫu tự:
Đối thoại:
"Sản Phẩm Trí Tuệ" của Nguyễn Anh Tuấn (Trần Chung Ngọc)
Ai Dám Tấn Công Đạo Chúa ? (TCN & NMQ)
Chiến Tranh ... Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ (Trần Chung Ngọc)
Chu Tất Tiến: Here We Go Again (Trần Chung Ngọc)
Chuyện "Hòa Đồng Tôn Giáo” - "Cha Chung" là ai? (Trần Chung Ngọc)
Chuyện "Hòa Đồng Tôn Giáo” - Các Vấn Nạn Cần Giải Quyết (Trần Chung Ngọc)
Chuyện "Hòa Đồng Tôn Giáo” - Căn Bản Đức Tin (Trần Chung Ngọc)
Chuyện "Hòa Đồng Tôn Giáo” - Kết Luận (Trần Chung Ngọc)
Chuyện "Hòa Đồng Tôn Giáo” - Lợi Ích ? (Trần Chung Ngọc)
Comments On John Paul II's Crossing the Threshold of Hope (Trần Chung Ngọc)
Cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar
Eh! Lữ Giang, alias Tú Gàn, Here we go again! (Trần Chung Ngọc)
Giáo Dân Nguyễn Phúc Liên đả đảo Vatican!(Phúc Lâm)
Khổ Thân Củ Khoai Tôi (Trần Chung Ngọc)
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Nguyễn Văn Lục
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ Về Tiến Sĩ Nguyễn Học Tập (Trần Chung Ngọc)
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Tú Gàn (1)
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Tú Gàn (2)
Lại Chuyện Ruồi Bu của Trần Trung Đạo (Trần Chung Ngọc)
Một Trí Thức Không Biết Ngượng (1) - Trần Chung Ngọc
Một Trí Thức Không Biết Ngượng (2)- Trần Chung Ngọc
NHÂN ĐỌC MẤY CÂU TRẢ LỜI VƯƠNG V
Nhân Đọc Bài "Nhà Chúa hay Nhà Chùa" của LM Thiện Cẩm (Trần Chung Ngọc)
Nhân Đọc Bài "Niềm Tin ..." Của Trần Thị Hồng Sương - 2 (Trần Chung Ngọc)
Nhân Đọc Bài "Niềm Tin ..." Của Trần Thị Hồng Sương -1 (Trần Chung Ngọc)
Nhân Đọc Mấy Câu Trả Lời của Ông Mục Sư NQM (Trần Chung Ngọc)
Phiếm Luận Về "Phê Bình Và Đối Thoại" (Trần Chung Ngọc)
Phải Chăng GS Quang Quá Lo Xa ? (Trần Chung Ngọc)
Quả Đúng Là Chu Tất Tiến (Trần Chung Ngọc)
Thiền Sư Nhất Hạnh
Thư Gửi Bạn: Những Người Tin Có Thiên Chúa (Trần Chung Ngọc)
Thầy Nhất Hạnh
Thử Phân Tích Một Đoạn Văn của André Masson (Trần Chung Ngọc)
Trả Lời Ông Lưu Á Ni (Trần Chung Ngọc)
Tôi Đọc "Đất Việt" & "Hành Hương Đất Phật" của Phan Thiết (Trần Chung Ngọc)
Tôi Đọc BS Ngyễn Thị Thanh Trả Lời Câu Hỏi Don Lê... (Trần Chung Ngọc)
Tôi Đọc Bài "Nhận Thức..." của ông Nguyễn Văn Thắng (Trần Chung Ngọc)
Tôi Đọc: “Từ Dieu et César đến Thập Giá và Lưỡi gươm” Của Nguyễn Văn Lục: (Trần Chung Ngọc)
Tại Sao Không Thể Lương Thiện Đi Một Chút ! (Trần Chung Ngọc)
Tản Mạn Về "Thói Đời Đối Kháng"(Trần Chung Ngọc)
Viết Mà Chơi Về Đối Thoại (Trần Chung Ngọc)
Vài Nhận Xét về bài...của Nguyễn Tường Tâm (Trần Chung Ngọc)
Vài Ý Kiến Về Bài "Giáo Hội Công Giáo Roma" của ông Nguyễn Học Tập (Trần Chung Ngọc)
Về Bức Thư Ngỏ của ông Chu Tất Tiến (Trần Chung Ngọc)
Về một bài báo...
Vụ Án Nguyễn Văn Lý
Đáp Thư của Bác Gửi Cháu TTVN (Trần Chung Ngọc)
Đôi Lời Kính Cáo Cùng Độc Giả (Trần Chung Ngọc)
Đọc bài ... của Nguyễn Văn Trung
“Sản Phẩm Trí Tuệ” Mới Của Nguyễn Anh Tuấn Về "Giáo Hội Tiên Khởi..." (Trần Chung Ngọc)
“Tự Do Tín Ngưỡng” của Minh Võ (Trần Chung Ngọc)
Khoa học:
Charles Darwin và Thuyết Tiến Hóa (Trần Chung Ngọc)
Con Người và Vũ Trụ - Dẫn Nhập
Con Người và Vũ Trụ - Phần I (Mục 1)
Con Người và Vũ Trụ - Phần I (Mục 2)
Con Người và Vũ Trụ - Phần I (Mục 3)
Con Người và Vũ Trụ - Phần II (kết)
Con Người và Vũ Trụ - Phần II (Mục 1)
Con Người và Vũ Trụ - Phần II (Mục 2)
Con Người và Vũ Trụ - Phần II (Mục 3)
Con Người và Vũ Trụ - Phần II (Mục 4)
Con Người và Vũ Trụ - Phần II (Mục 5)
Con Người và Vũ Trụ - Phần II (Mục 6)
Nguồn Gốc Con Người - Thuyết Tiến Hóa (Trần Chung Ngọc)
Nguồn Gốc Vũ Trụ - Thuyết Big Bang (Trần Chung Ngọc)
Thiết Kế Thông Minh hay Ngu Đần (Trần Chung Ngọc)
VietCatholic & Thuyết Tiến Hóa (Trần Chung Ngọc)
Vấn Đề Đạo Đức Trong Khoa Học (Trần Chung Ngọc)
Lịch sử:
Ai Là Ác Nhân Nhất Thế Kỷ 20 ? (Trần Chung Ngọc sưu tầm)
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” (Trần Chung Ngọc)
Nguyễn Trường Tộ - Từ Huyền Thoại Đến Thực Chất (Trần Chung Ngọc)
Nhận Định Về DVD "Sự Thật Về Hồ Chí Minh" (Trần Chung Ngọc)
Thư mục để tham khảo (Trần Chung Ngọc)
Vài Nét Về Cụ Diệm (Trần Chung Ngọc)
Vài Nét Về Cụ Hồ -1 (Trần Chung Ngọc)
Vài Nét Về Cụ Hồ -2 (Trần Chung Ngọc)
Xét Lại Huyền Thoại Nguyễn Trường Tộ - Nhân Đọc... (Trần Chung Ngọc)
ĐIỆN BIÊN PHỦ, hay Đâu Là “Sự Thật Lịch Sử” Của Lữ Giang (Trần Chung Ngọc)
Tôn giáo:
"Ngày Tận Thế" của Ki Tô Giáo (Trần Chung Ngọc)
AMEN ! - Dẫn nhập (Trần Chung Ngọc)
AMEN ! Các cơ sở "bác ái" của Công Giáo (Trần Chung Ngọc)
AMEN ! Nội dung và phản ứng của Giáo hội CG (Trần Chung Ngọc)
Amen! (Là Như Thế Đó!) (Trần Chung Ngọc)
Anh ngữ: What is Buddhism? (Trần Chung Ngọc)
Bộ Mặt Thật Của Benedict XVI (Trần Chung Ngọc)
Chương Trình "Cứu Rỗi" của Chúa Giêsu (Trần Chung Ngọc)
Con Đường Chuyển Hóa (Trần Chung Ngọc)
Cuộc Đối Thoại giữa Phật và Chúa (Trần Chung Ngọc)
Các danh nhân Âu Mỹ nghĩ gì về GOD (Trần Chung Ngọc)
Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo (Trần Chung Ngọc)
Có “Christian God” Hay Không? (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo & Tin Lành (2)- Đức tin và quyền lực
Công Giáo & Tin Lành (3) - Sự suy thoái
Công Giáo & Tin Lành -Sự khác biệt (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - 5 Chương Sử Đặc Biệt Của Ca-Tô Rô-Ma Giáo (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Abraham tổ phụ các đạo Chúa(Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Dẫn Nhập (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Học Thuật Gia Tô (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Nhận Định Tổng Quát(Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Quanh Vấn Đề TCG Vào Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Sách Lược Bành Trướng (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Thay Lời Kết(Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Thánh Kinh (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Tài Liệu Tham Khảo(Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Từ Huyền Thoại Đến Thực Chất (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Maria (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Hắc Sử - Dẫn Nhập
Darwin Hay Thượng Đế? Tiến Hóa Hay Sáng Tạo? (Trần Chung Ngọc)
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” (Trần Chung Ngọc)
GH BENEDICT XVI nói "cực kỳ xấu hổ"
Giáo Hoàng CG và Giáo Chủ HG (Trần Chung Ngọc)
Giê Su Là Ai ? - Chương 2
Giê Su Là Ai ? - Giêsu và quốc gia
Giê Su Là Ai ? - kết chương 1
Giê Su Là Ai ? - lời nói đầu (Trần Chung Ngọc)
Giê Su Là Ai ? - tiếp chương 2
Giê Su Là Ai ? - Vài Lời "Giảng Dạy"
Giê Su Là Ai ? -Bài Giảng Trên Núi
Giê Su Là Ai ?- Ba bằng chứng ngụy tạo
Giê Su Là Ai ?- Chương 1
Giê Su Là Ai ?- dẫn nhập
Giê Su Là Ai ?- kết luận
Giê Su Là Ai ?- Phụ lục
Hiểm họa Ki-tô là có thực (Trần Chung Ngọc)
Hiểm Họa Tin Lành -1 (Trần Chung Ngọc)
Hiểm Họa Tin Lành -2 (Trần Chung Ngọc)
Hiểm Họa Tin Lành -3 (Trần Chung Ngọc)
Hiểm Họa Tin Lành -4 (Trần Chung Ngọc)
HIỆN TƯỢNG H.Y. PHẠM MINH MẪN (Trần Chung Ngọc)
Huyền Thoại Cứu Rỗi (Trần Chung Ngọc dịch)
Huyền Thoại Lộ Đức (Trần Chung Ngọc)
Hãy Tạ Ơn Chúa ! (Trần Chung Ngọc)
Linh mục là ai (2)
Linh mục là ai (Trần Chung Ngọc)
Lịch Sử các Giáo Hoàng (Trần Chung Ngọc)
Lời Truyền Phép Thánh Thể (Trần Chung Ngọc)
Mười Điều Chính Để Nhận Biết Ai .. (Trần Chung Ngọc)
Một Bản Án Chống Công Giáo (Trần Chung Ngọc)
Một Hình Ảnh Cần Dẹp Bỏ (Trần Chung Ngọc dịch)
Người Việt Nam & Đạo Giêsu: Giê-su Sinh Ra Đời Để Làm Gì? (TCN&NMQ)
Người Việt Nam & Đạo Giêsu: Lời Kết (TCN&NMQ)
Người Việt Nam & Đạo Giêsu: Lời Tòa Soạn (TCN & NMQ)
Người Việt Nam & Đạo Giêsu: Người Việt Nam theo Đạo Giêsu Là Vì Cái Gì? (TCN&NMQ)
Người Việt Nam & Đạo Giêsu: Nhiệm Vụ Truyền Giáo Của Đạo Giê-su Trên Thế giới (TCN&NMQ)
Người Việt Nam & Đạo Giêsu: Thánh Kinh Ki Tô Giáo Viết Những Gì? (TCN&NMQ)
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma (Trần Chung Ngọc)
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 (Trần Chung Ngọc)
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 (Trần Chung Ngọc)
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 (Trần Chung Ngọc)
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 (Trần Chung Ngọc)
Nhân đọc bức thư của GH .. (Trần Chung Ngọc)
Nhìn Lại Ca-Tô Giáo (Trần Chung Ngọc)
Nhìn lại cuộc tranh đấu Phật Giáo (Trần Chung Ngọc)
Những Sự Thật Xung Quanh Vụ Đức Mẹ Hiện Ra ở Fatima (Trần Chung Ngọc)
Phản Ứng của Phật Giáo ... (Trần Chung Ngọc)
Phật Giáo Thiền Chứ Không Ngủ (Trần Chung Ngọc)
Phật Giáo Việt Nam trong thời đại mới (Trần Chung Ngọc)
Phật Giáo VN trong thế giới đa văn hóa (1)
Phật Giáo VN trong thế giới đa văn hóa (2)
Quanh Chuyện Chúa Chết (Trần Chung Ngọc)
Quanh vấn đề JOSEPH RATZINGER được bầu làm GH (Trần Chung Ngọc)
SÁCH: "LỘT MẶT NẠ CA-TÔ GIÁO" (dịch phẩm)
Sự Suy Thoái Của Ki-tô Giáo
Thiên Chúa của những khoảng trống (Trần Chung Ngọc)
Thư Ngỏ gửi Cám Ơn TGM (Trần Chung Ngọc)
Thắc Mắc Cần Được Giải Đáp: 1. Về Ca-tô giáo (Trần Chung Ngọc)
Tin Tức Hình Ảnh Đại Lễ VESAK Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
Trai đàn chẩn tế (Trần Chung Ngọc)
Trả lời Nguyễn Hữu Thống về Hiệp định Geneva (Chính Đạo)
Tôi đọc Đường Xưa Mây Trắng
Tương Lai Giáo Hội Ca-Tô Rô Ma ở VIỆT NAM (Trần Chung Ngọc)
Tại Sao Tín Đồ Ki Tô Giáo Âu Châu Mở Chiến Dịch “Sửa Bỏ Rửa Tội”? (Trần Chung Ngọc)
Tản mạn về "NGÀY LỄ TẠ ƠN" (Trần Chung Ngọc)
Tản Mạn Về Mùa Giáng Sinh (Trần Chung Ngọc)
Tản Mạn Về Ngày "Giêsu Sinh Ra Đời" (Trần Chung Ngọc)
Tổng Giám mục Stanislaw
Việt Nam, Vesak Liên Hiệp Quốc 2008 (Trần Chung Ngọc)
Vài Nét Về Phật Giáo và Khoa Học (Trần Chung Ngọc)
Vô Thần - Hữu Thần (Trần Chung Ngọc)
Về Ba Ngôi Thiên Chùa (Trần Chung Ngọc)
Về Cuốn "Sống Theo Mục Đích" của Mục Sư RICK WARREN -1 (Trần Chung Ngọc)
Về Cuốn "Sống Theo Mục Đích" của Mục Sư RICK WARREN -2(Trần Chung Ngọc)
Về Cuốn "Sống Theo Mục Đích" của Mục Sư RICK WARREN -3(Trần Chung Ngọc)
Về Một Cuốn Sách ()Trần Chung Ngọc
Xmas (Trần Chung Ngọc)
Ông Già Noel Dưới Mắt Kỷ Sư (Trần Chung Ngọc)
Đâu Là Sự Thực! (Trần Chung Ngọc)
Đâu Là Sự Thực? - Những "Danh Ca" của Công Giáo (Trần Chung Ngọc)
Đâu Là Sự Thực? - Thánh Mẹ Teresa (Trần Chung Ngọc)
Đâu Là Sự Thực? -"Khuôn Mặt Siêu Việt" của GH John Paul II ra sao? (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Cha - Nhập Đề (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Cha Của Những Người Theo Đạo Thiên Chúa! (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Con Giêsu Của Những Người Theo Đạo Giêsu! (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Giêsu - Lời Kết (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Giêsu - Mục Đích Giáng Trần (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Giêsu - Trí Tuệ (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Giêsu - Vào Đề (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Giêsu - Vấn Đề Đạo Đức (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Ma - Ngôi Ba Trong "Bộ Ba Thiên Chúa (Trần Chung Ngọc)
Đây, Thiên Chúa - Đặc Tính Chúa Cha (Trần Chung Ngọc)
Đây, Thánh Ma - Ngôi Ba Thiên Chúa (Trần Chung Ngọc)
Đây, Thánh Ma - Ngôi Ba Trong “Bộ Ba Thiên Chúa” (Trần Chung Ngọc)
Đây, Thánh Ma - Thủ tục và ý nghĩa của lễ rửa tội (Trần Chung Ngọc)
Đối Chiếu Phật Giáo & Kitô Giáo - Lời Nói Đầu (Trần Chung Ngọc)
Đối Chiếu Phật Giáo & Kitô Giáo - Phần I (Trần Chung Ngọc)
Đối Chiếu Phật Giáo & Kitô Giáo - Phần II (Trần Chung Ngọc)
Đức Tin Công Giáo- Bí Tích (Trần Chung Ngọc)
Đức Tin Công Giáo-Chú Thích, Tài Liệu (Trần Chung Ngọc)
Đức Tin Công Giáo-Dẫn Nhập (Trần Chung Ngọc)
Đức Tin Công Giáo-Kết (Trần Chung Ngọc)
Đức Tin Công Giáo-Nguồn Gốc Ki-Tô Giáo (Trần Chung Ngọc)
Thời sự:
30 tháng 4: Nhìn Lại Cuộc Chiến Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
Bang Giao "Bắc Kinh-Vatican" (?) Một Kinh Nghiệm Quý Giá Cho Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
Chống Cộng Theo Gương David (Trần Chung Ngọc)
Chủ Nghĩa Khủng Bố và Diệt Chủng (Trần Chung Ngọc)
Cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar
Dư Luận Quần Chúng
Linh tinh Thời sự, Viết mà chơi
Ma Quân Quấy Nhiễu Sư Tăng - Nhưng Thất Bại (Trần Chung Ngọc)
MỘT CHUYẾN VỀ VIỆT NAM - 2
MỘT CHUYẾN VỀ VIỆT NAM - 3
MỘT CHUYẾN VỀ VIỆT NAM -1
Một trong ba thứ (Trần Chung Ngọc)
NED và Lê Quốc Quân
Nguyễn Cao Kỳ và Việt Weekly
NGÀY 30/4/1975 (Trần Chung Ngọc)
Ngáp Lớn Trong Tòa Mỹ Bị Tù - Còn Nguyễn Văn Lý ? (Trần Chung Ngọc)
Nhân chuyện ông Triết đi Mỹ
Nhân Quyền của Mỹ & Dự Luật H.R. 3096 (Trần Chung Ngọc)
Những Người Máy Chống Cộng (Trần Chung Ngọc)
Noam Chomsky & Robert McNamara (Trần Chung Ngọc)
Phiếm Luận Về "Cộng Sản" Hải Ngoại (Trần Chung Ngọc)
Phải Chăng Chiếc Khăn Quàng Là Giải Pháp Cho Tòa Khâm Sứ? (Trần Chung Ngọc)
Thắc Mắc Cần Được Giải Đáp: 3. Về Chiến Tranh Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
Thắc Mắc Cần Được Giải Đáp: 3. Về Lá Cờ Vàng (Trần Chung Ngọc)
Thử Phân Tích Vài Đoạn Trong Bài Diễn Văn Nhậm Chức (Trần Chung Ngọc)
Tâm Thư Gửi Những Ai Quan Tâm (Trần Chung Ngọc)
Tại Sao Lại Việt Nam ? (Trần Chung Ngọc)
Tản Mạn về Chống Cộng (Trần Chung Ngọc)
Tản Mạn Xung Quanh Cuộc Chiến Ở Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
VAALA - Nghệ Thuật Lên Tiếng [Nhưng Bị Bóp Nghẹt] (Trần Chung Ngọc)
Viết Mà Chơi - Ai Chống Cộng Và Ai Không Chống ? (Trần Chung Ngọc)
Vài Nhận Định Khi Đọc Lời Phát Biểu Của Ông Ngô Quang Kiệt (Trần Chung Ngọc)
Vài Ý Kiến Về Vấn Đề Bang Giao VớiVatican(Trần Chung Ngọc)
Vấn Đề Nhân Quyền Trước Luật Pháp Quốc Gia (Phúc Lâm sưu tầm)
ĐÒI ĐẤT ! ĐẤT NÀO ? ĐẤT CỦA AI ? (Trần Chung Ngọc)
Đôi Hàng Về Chuyện Cờ Vàng Cờ Đỏ (Trần Chung Ngọc)
Đôi Điều Chung Quanh Cuốn Le Livre Noir (Trần Chung Ngọc)
ĐĐ Thích Nhật Từ và Xóm Đạo (Trần Chung Ngọc)
“Religulous” Điểm Phim Cuối Tuần (Trần Chung Ngọc)
“Sư Chính Trị” của MARK MOYAR
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com