I.
Đàn kêu tích tịch tình tang
Ai đem sợi đỏ quấn ngang ta mình
Đàn kêu tích tịch tang tình
Ai người cắt phéng sợi mình sợi ta
Sắp tàn canh ba.
Liên ngồi dưới hiên nhà, miệng khẽ ngâm nga một giai điệu man mác. Ánh trăng bàng bạc rọi xuống khoảng sân, phủ lên cả dáng hồng trơ trọi, thêm tiếng ca buồn, thêm phần tịch mịch. Trên bàn, chiếc đàn thập lục nằm im lìm, bên cạnh còn có một cây sáo trúc, vậy mà chẳng biết vì cớ gì nàng chỉ ngẩn người nhìn ra vô định rồi hát mộc, chưa màng đụng đến hai món ấy. Mãi lúc lâu sau, khi lời ca đã bị đêm đen nuốt vào thật sâu, nàng mới tần ngần sờ lên dây đàn gảy vài phím dạo, đoạn ngước mắt trông ra ngọn núi phía xa xa - nơi có ngôi chùa nhỏ đơn sơ, thầm mượn gió vẽ nên dáng hình của người nọ trong tâm tưởng. Bờ vai rộng, vóc lưng cao, cùng một tà áo lam sờn cũ.
Chàng... đã ngủ chưa?
Không lời đáp. Nàng chỉ đành cúi đầu gảy tiếp khúc nhạc vừa định chơi ban nãy, như tự đáp chính mình. Âm sắc cất lên vô cùng thánh thoát, xoang điệu rất mực dịu êm, mỗi đoạn rung dây đều như muốn đưa người nghe thẳng đến chốn tiên Phật. Lạ! Người trông ủ dột thế kia, nhưng tiếng đàn lại chẳng vương sầu.
Có lẽ do hằng ngày thường đàn những thứ này hầu khách nhân nên dẫu vui dẫu buồn nàng cũng quen tay mà gảy xuống. Hoặc, chỉ đơn giản là muốn mượn chút vị thanh nhã để giải bớt não trần ai. Dường như chưa một gã quan viên nào từng nghe nàng đàn hay hát những giai điệu ảm đạm, thê lương. Chính nàng dù ở nơi riêng tư cũng chẳng mấy khi tự trút muộn phiền bằng cách ấy. Đêm nay là ngoại lệ, là một lần hiếm hoi nàng chịu buông lòng cất lên vài câu ca thoáng buồn, dù chỉ khẽ thôi.
Không dưng mà người ái mộ nàng đa phần toàn những kẻ có thú tiêu dao, nặng tình với trời mây non nước và nuôi ý lánh đời. Bởi trong tiếng hát cung đàn của nàng, họ nghe ra cái khí vị u nhã hiếm thấy giữa một rừng bẽ bàng, khắc khoải. Đấy là còn chưa kể đến cái phong tư như sương như tuyết dễ thu hút bậc trí giả của nàng, dẫu nhan sắc chưa đến độ nghiêng thành nghiêng nước. Nếu không đủ kề cận để trông thấy những lần chau mày, rũ mi lẫn tiếng thở dài lặng lẽ mỗi đêm vắng, hẳn người ta sẽ đinh ninh rằng chẳng thứ gì trên đời có thể khiến nàng dao động.
Theo như lời Mai - chị họ của nàng ở giáo phường - thuật lại, người ta kháo nhau rằng vì nàng vốn sùng Phật, từ nhỏ đã năng lễ bái chùa chiền, hiểu đạo hiểu đời nên mới sinh ra vẻ thoát tục ấy. Liên nghe vậy thì chớp mắt phì cười:
- Là họ thuần hậu dễ lừa hay là em giỏi ngụy tạo đây?
- Vờ vĩnh thế này mãi cô không mệt à? - Mai thở hắt ra chiều bất lực - Thi ca nhạc họa vốn là những thứ để người ta gửi gắm tiếng lòng, giải tỏa niềm u uẩn, cô thì lạ đời, đến đường tỏ bày duy nhất cô cũng khép nốt, cứ mãi dồn nén chẳng chịu trút ra, nhỡ đến một ngày không kham nổi nữa thì làm sao? Hay là muốn vỡ thành bọt nước?
Liên cười rầu:
- Kiếp xướng ca vốn có khác gì bọt nước đâu...
Vả, nếu không vờ vịt thì còn có thể làm gì? Cứ trưng vẻ u buồn lên mặt để người ta nhận ra nàng đang mang bệnh tương tư? Cứ kệ giọt tình đong đưa nơi đáy mắt để họ thấu được nàng năng lễ chùa không phải vì sùng Phật? Giá mà miệng đời bớt cay nghiệt, luật nước lệ làng bớt khắt khe thì nàng đã chẳng nhọc lòng che đậy.
- Cô cứ chơi mãi thứ mười sáu dây kia thế, hôm nay đổi gió xem nào! Chơi một dây thôi. - Mai bước ra từ gian nhà, tay ôm theo độc huyền cầm, cất tiếng giật Liên ra khỏi dòng suy tưởng miên man.
Nàng ngừng bặt cung đàn, ngoảnh lại nhìn thị.
- Chị chưa ngủ ạ?"
- Ngủ là ngủ thế nào! Ai đời Bá Nha gảy đàn, Tử Kỳ đi ngủ.
Nghe vậy nàng chỉ biết nhoẻn cười. Ngẫm kỹ thì ví von này của thị cũng không phải ngoa, tuy chẳng dám so tiếng đàn mình với Bá Nha nhưng mối tâm giao giữa nàng và thị quả chẳng kém Nha Kỳ.
Thấy thị bước tới toan nhấc chiếc đàn tranh của nàng ra khỏi bàn, Liên vội đưa tay ngăn lấy.
- Em không chơi được đâu, bỏ lâu lắm rồi.
- Thì cứ thử đi, lúc nhỏ tập đàn bầu cô chơi khá nhất bọn còn gì! Phải cô chịu giữ luôn đến giờ, biết chừng hạng nhất độc huyền cầm đã không tới phiên chị. - Thị hấp háy con mắt nhìn Liên, như thách thức, như dọ ý.
Nàng lắc đầu, không thốt thêm lời thừa, nhưng đủ để Mai hiểu nàng đã quyết khước từ. Bất kì người nào biết đến giáo phường Giang và mến mộ cô đầu Liên đều chẳng lạ gì việc nàng kị đàn bầu. Nàng bảo tiếng nó sầu thảm quá, không hợp với mình. Khách nhân đã nghe quen thanh sắc đàn tranh sáng sủa, tao nhã của nàng cũng nghiễm nhiên đồng tình với điều ấy. Nhưng Mai thì khác, thị biết, rằng không phải không hợp mà là không dám, không phải không được mà là không muốn.
Thực ra, Liên từng thích độc huyền cầm lắm chứ. Nhưng khổ nỗi lòng nàng là bãi bùn lầy, mà tiếng đàn bầu lại như mưa mùa hạ, mưa dội xuống bùn, nhão nhoét, cố hong khô chẳng nổi, cố nặn chẳng thành hình. Nét tiên vẻ hạc, nàng khó dùng đàn bầu để ngụy tạo. Đàn tranh và sáo ít ra còn có thể cho nàng tiện lèo lái buồn vui, dùng quang đãng để khỏa lấp miền âm u nội tại.
Tình đã thế, đời đã thế, vậy thì nàng chỉ cần giấu thôi, giấu cho thật kỹ, chàng sẽ yên ổn và nàng cũng dễ sống phần nào.
***
Lắm lúc Liên trộm nghĩ, giá mà nàng ngang tàng thêm một chút, mù quáng thêm một chút, lẳng lơ và thủ đoạn thêm một chút, biết đâu giờ này đã có thể cùng chàng má áp vai kề ở nơi chân mây góc bể nào đó cũng nên. Nhưng tiếc là nàng nhu nhược quá, chẳng đủ ích kỷ, chẳng đủ tham lam để đoạt chàng về cạnh.
"Phật dạy, yêu là cho đi, yêu là chắp cánh, yêu nào phải chiếm giành về làm của riêng ta."
Lời giảng từ dạo nảo nao của vị sư già ở chùa Vô Ưu cứ văng vẳng trong đầu khiến Liên không kiềm được mà buông tiếng thở dài, tay dừng ngòi bút. Lại một đêm nữa Liên thức trắng. Đêm nay trăng vẫn vằng vặc trên cao, sương vẫn giăng đầy mái ngói rêu phong cùng tiếng côn trùng rền rĩ, chỉ khác là Liên không thiết đem đàn ra hiên gảy nữa. Nàng thấy tâm mình loạn động quá, thứ âm sắc giả thiên tiên kia không khiến tơ lòng thôi rối rắm, những lúc thế này nàng thường nhốt mình nơi buồng hương đặt bút chép kinh, cậy chút thiền ngữ làm yên sóng lòng. Nhưng dường như càng gần ngày rời đi, dạ càng ngổn ngang trăm mối, kinh Phật cũng chẳng còn tác dụng.
Xếp gọn lại mớ giấy trên bàn vào một góc, nàng dời bước đến bên song cửa ngửa mặt hứng trăng. Gió hiu hiu thổi vào làm mớ tóc tơ phơ phất, phủ chồng lên mi mắt khẽ run. Buồng không đốt nến, thế nên chỉ đặc một màu sáng lạnh của vầng nguyệt, bóng liễu trong đêm bỗng đâu bị nhận chìm vào hoang hoải.
Im ắng và cô độc, ấy là thứ thường dễ làm cuộn trào kí ức.
Nhớ lại chuyện xưa, cũng khó nói duyên này nghiệt hay lương...
"Chú tiểu tên gì?"
"Tôi tên Nguyên Định."
Cô bé xòe ra những viên kẹo bọc giấy trên tay đưa cho chú tiểu, tươi cười: "Cho Nguyên Định này!"
Chú tiểu chắp tay niệm hai tiếng "mô Phật" rồi cúi người nhận lấy: "Cảm ơn thí chủ... Vậy, thí chủ...?"
"Tôi tên Liên. Hồng Liên."
Duyên, hầu như đều giản đơn chớm mầm như thế. Năm đó nàng bảy tuổi, gia nhập giáo phường Giang, lần đầu tiên theo tin nữ đi lễ Phật. Chùa ở chốn vắng nên nhỏ và nghèo, cả thảy chỉ có bốn vị tăng và một chú tiểu trạc tuổi nàng tu tập. Nghe nói chú cũng vừa được sư trụ trì "nhặt" về dăm hôm trước. Có lẽ vì đều là trẻ con như nhau, lại còn lạ nước lạ cái nên cả hai nhanh chóng kết thân. Cô bé biết chú tiểu thích ngọt, từ đấy ngày nào cũng chạy lên chùa cho chú kẹo bánh, sau này còn khéo học được món chè sen làm cho chú ăn đến nghiện.
"Phần này cúng Phật, phần này cho chú." Nàng xướng nhi nhỏ giở vỉ buồm, lấy từ trong thúng trấu ra hai cái nồi đất con đưa cho chú tiểu.
Mỗi lần mang chè đến Liên đều chu đáo cắt đặt riêng phần như thế, vừa kính Phật vừa không để chú tiểu phải đợi lâu. Nguyên Định tuy trong lòng rất vui nhưng ngoài mặt lại cố kiềm vẻ hớn hở, chú cảm tạ rồi bưng hai cái nồi đất lon ton chạy đi tìm sư phụ.
"Sư phụ ơi sư phụ! Thí chủ Liên dâng chè sen cúng Phật ạ!" Vừa nói chú vừa đưa cho thầy nồi đất bên tay trái, đoạn ôm cái bên tay phải vào ngực rồi khều khều chân, bẽn lẽn thưa: "Còn phần này... thí chủ cho riêng con."
Chú ngoan và kính sợ sư phụ lắm, chẳng bao giờ dám tự tiện làm gì, dù việc Liên mang chè đến không phải mới ngày một ngày hai nhưng lần nào chú cũng phải đợi ông cho phép rồi mới an tâm kéo cô bé ra gốc bồ đề ngồi ăn. Mà, cái cách chú ăn làm Liên thích lạ. Chú không múc một thìa đầy mà chỉ vớt từng hạt cho vào miệng nhai từ tốn, nhai như thể nâng niu và muốn nếm được đến tận cùng hương vị. Lưng chú tựa vào gốc cây, chân duỗi thẳng, những ngón chân con con vô thức luẩy nguẩy vì vui sướng. Vừa ăn, chốc chốc chú lại vừa quay sang Liên cười hì hì. Liên cũng tít mắt cười. Lúc nhỏ gặp nhau họ cứ hay cười như thế, đôi khi chẳng vì một điều gì.
Nhưng phàm thì món nào ăn hoài cũng ngán dù có thích nhiều đến đâu chăng nữa. Biết ý, Liên cũng cách dần cữ mang chè dâng Phật, thay vào đó là hoa hoặc bánh trái tùy hôm. Có khi nàng chẳng mang gì, chỉ tay không đến giúp các sư thầy làm vài việc vặt trong chùa, lúc rỗi rãi thì cùng Nguyên Định ra sân nhặt lá bồ đề kết thành áo. Cả hai thích trò này lắm, suốt buổi cứ hi hả không thôi. Thoạt đầu họ chỉ đơn giản dùng thẳng lá tươi nên thành phẩm chẳng giữ được lâu, nhưng về sau nhờ các sư thầy hướng dẫn, hai đứa nhóc bắt đầu biết ngâm lá lấy xương, áo làm ra có màu trắng ngà nom càng thích mắt.
Một hôm, trong lúc cắm cúi nhặt lá, Nguyên Định vô tình làm trồi mặt ngọc đeo ở cổ ra khỏi áo, Liên nhìn thấy thì bất giác reo lên:
"A, ngọc đẹp thế! Cho tôi xem một lát được không?"
Chú tiểu hơi ngần ngừ nhưng rồi cũng vui vẻ tháo xuống đưa cho cô bé.
Vân vê miếng ngọc trên tay, Liên trầm trồ. Đoạn nhìn vào hai chữ khắc bên trên, rặn đọc: "Trần... Trần gì thế?"
"Trần Kha. Sư phụ nói đó là tên tục của tôi."
Trần Kha...
Dù chẳng hiểu lắm ý nghĩa nhưng nàng cứ thấy hay hay, thế là luôn miệng lẩm nhẩm "Trần Kha, Trần Kha..." hết ngày này qua tháng nọ.
Kể từ đó Liên không còn gọi người ấy là Nguyên Định thêm một lần nào nữa. Mỗi khi bị nhắc nhở không được gọi tục danh, nàng chỉ bĩu môi: "Thì... chú tiểu, chú là chú tiểu, được chưa?"
Kha bắt chước vẻ nghiêm khắc của sư thầy, đầu mày non nớt nhíu lại, đôi mắt tròn nheo nheo. "Sư phụ dạy, đã là con Phật thì dùng tên của Phật. Nhớ đấy, thí chủ phải gọi tôi bằng pháp danh mới là tôn trọng, là phải phép."
Câu cửa miệng của chàng ngày bé lúc nào cũng là "sư phụ dạy". Sau này lớn lên một chút thì đổi thành "Phật dạy". Mỗi khi hứng chí, chàng thường làm ra bộ dáng ông cụ non, kể cho nàng nghe những câu chuyện trong kinh sách. Dần dà, Liên cũng học Phật trong vô thức, tâm trí sớm thấu suốt nhiều điều, và rồi trở nên nặng lòng vì nhiều lẽ.
Phật đạo là lối sáng cứu rỗi chúng sinh, nàng biết. Nàng sinh ra không ở chốn gấm nhung, tí tuổi đầu đã lạc vào nẻo bình khang; qua hai mươi cái xuân, tuy chưa xem là trải hết đời người ấm lạnh nhưng cũng kinh qua không ít bẽ bàng để hiểu rằng lời Phật dạy chẳng sai.
Gian trần là cõi mộng, và ái dục là gốc rễ của vô minh. Nếu chàng thật sự muốn tìm đến Niết Bàn thì cớ gì nàng lại níu chàng trở về cõi ta bà phiền lụy? Cố yêu một kiếp để trầm luân muôn kiếp, đáng không?
Từ nhỏ đã bén duyên nơi cửa Phật, ấy là căn lành, là gốc sâu, là phát nguyện thuở sinh tiền. Thà chẳng biết, nhưng đã biết rồi nàng làm sao đang tâm cắt đứt. Gặp gỡ, nếu chỉ là một ải tu hành, thôi thì đành giúp người dọn lối.
Từ dạo trổ mã thiếu nữ trở đi, Liên không còn một mình đến thăm chú tiểu nữa. Thi thoảng nán lại nghe chàng kể chuyện nhà Phật cũng cần có Mai ở cạnh nghe cùng. Những nô đùa hồn nhiên thuở ấu thơ rồi cũng đến lúc chìm lại dưới đáy thời gian, chỉ có thể hoài niệm, chẳng thể tìm về.
Con người ta, đôi khi càng tỉnh táo càng đau lòng, càng tỏ tường càng tuyệt vọng.
***
Gần vãn canh năm. Gà gáy sáng, văng vẳng nơi góc nhà tiếng thạch sùng tặc lưỡi. Giữa vùng tối xẩm, bình minh uể oải cựa mình.
Liên nằm lặng trên giường, mắt vẫn mở thao láo, gương mặt không có phấn son che phủ nên càng lộ rõ xanh xao. Chốc chốc nàng lại hít vào một hơi thật sâu để lồng ngực căng ứ rồi đẩy ra tiếng thở dài rất khẽ, tựa hồ chỉ cần như thế là có thể làm buồng tim mình nhẹ bớt và những tạp niệm trong đầu sẽ được tống hết đi. Song đến khi gà đã gáy khàn cổ và thạch sùng mỏi miệng ngừng kêu Liên vẫn cảm thấy tảng đá vô hình còn nguyên đấy.
Nhấc chân xuống giường, nàng nghĩ mình cần một chung chè ấm để lấy lại tươi tỉnh, dù sao cũng chẳng thể nằm lì ở đây đến mòn xương. Không biết Mai dậy từ lúc nào mà vừa qua gian bếp Liên đã thấy thị lục đục đun nước pha chè. Ngó ngang bộ dáng uể oải cùng đôi mắt ráo hoảnh của nàng, thị lơi hỏi:
- Không ngủ à?
Liên khẽ gật đầu, đoạn bước đến ngồi cạnh thị, đối mặt với bếp lửa đang phả ra từng luồng nóng ấm. Không ai nói với ai thêm câu gì, suốt khoảng lặng dài chỉ còn mỗi tiếng củi nỏ lách tách kêu đều. Ánh đỏ táp vào đôi vóc hạc, hắt lên cả bốn bề vách gỗ, chập chờn, rung rinh, bồi nên từng vùng phân tranh sáng tối. Hồi lâu, Mai chợt đánh tiếng như để phá tan đi bầu không khí trầm mặc thị chẳng quen.
- Ngày mai đi rồi, có định thưa gửi gì người ta không?
Bàn tay đang đẩy thanh củi của Liên bất giác dừng lại ở lưng chừng. Nhìn sâu vào lửa đỏ một thoáng, nàng đáp:
- Em... chưa biết chị ạ.
Vài ba năm trước, nhóm chị em ở giáo phường bàn nhau chuyện mở ca quán trên kinh, phải mất một thời gian nàng mới quyết định được nên đi hay ở, quyết định được rồi lại chẳng biết có nên nói với người kia. Đến nay khi mọi việc trước sau thảy đã thu xếp xong xuôi và ngày khởi hành cũng gần kề, nàng hãy còn dùng dằng câu từ tạ. Trần đời có trăm ngàn cái không nỡ, một chốc quay lưng, một lời cáo biệt, lắm lúc còn khó hơn lội suối băng đèo. Nào phải người ta ngại báo tin hay dè kiệm chi lần nhìn nhau sau cuối, chỉ là người ta sợ, sợ câu tiễn biệt, cũng sợ luôn lời níu kéo. Âm thầm, vậy mà dứt khoát hơn để ra đi.
- Khó quá thì thôi vậy, đằng nào cô đi rồi anh ta chả biết. - Mai đứng lên nhấc ấm nước vừa sôi ra khỏi bếp, thốt nhẹ bẫng.
Đáp lời thị vẫn là cái rũ mắt im lặng thường khi. Dường như bao giờ Liên cũng kiệm lời như thế, nếu không có cái kỳ nghệ bên mình, hẳn người ta sẽ thấy nàng chán ngắt. So với đám chị em trong phường, luận mặn mà, luận sắc sảo, luận phong tình chẳng thứ nào nàng hơn ai.
Dời bước theo Mai đến chiếc bàn gỗ tròn cạnh đó, Liên vẫn cứ thế im thít trông thị hãm chè, mãi đến khi hương vị ngọt bùi là lạ chạm vào đầu lưỡi nàng mới khẽ cau mày lên tiếng:
- Chè mới à chị?
- Ừ, quà biếu của anh Lâm.
- Lâm nào hở chị?
- Trương Lâm, cái anh nhân ngãi ngày xưa của cô Phương con cụ bá Tranh ấy. Anh ta bảo muốn đi xa lập nghiệp, chắc không về đây nữa, biếu chị ít chè mạn sen gọi là quà chia tay. Hình như sáng nay là đi đấy.
Liên hơi nghiêng đầu ra chiều ngạc nhiên, ánh mắt lộ vẻ bận tâm hiếm thấy đối với một người chẳng mấy liên quan:
- Có phải cái anh hay bảo chị đàn bài Ly Tao không ạ?
- Ừ, đúng.
- Thế... cô Phương có biết không chị?
Khựng lại chén chè đương định đưa lên môi, Mai lắc đầu:
- Chả biết nữa.
Bỗng dưng Liên thấy trong lòng bứt rứt lạ lùng, nước chè vốn thanh ngọt chảy trôi xuống hầu họng chợt hóa ra vị chan chát miết dài. Nàng không phải hạng thích ngóng chuyện người, song đối với những kẻ đồng cảnh ngộ vẫn có đôi phần nao dạ. Nàng từng nghe qua sự trái ngang của hai người nọ, cũng như bao đôi uyên ương mệnh khổ khác, quả tình son bị bóp chết bởi định kiến sang hèn, bởi mối thù hằn gia tộc từ tận đẩu đâu vài đời trước. Để rồi cuối cùng một người nước mắt theo chồng, một người chơi vơi trong vụn vỡ. Có điều, "đồng cảnh ngộ" của Liên thật ra chỉ là việc kẻ ở người đi sau ngần ấy năm họ đối mặt nhau trong sượng sùng, chịu đựng.
Những tưởng lại thêm một câu hỏi bị bỏ ngỏ giữa ngàn vạn vướng mắc trong đời người. Ấy mà run rủi thế nào, ngay trưa hôm ấy Liên lại bắt gặp thị Phương ngang qua đầu ngõ. Dáng thị nhỏ thó, chân thất thểu bước trên con đường đá sỏi, váy áo lụa là mà trông cùng túng, xác xơ. Đến đoạn có lũy tre chênh chếch đối diện cửa nhà Liên, thị bất giác dừng lại ngoảnh nhìn về phía cổng làng, và rồi cứ lặng người như thế suốt buổi. Cảnh đó khiến Liên ngờ ngợ về chuyện hỏi Mai ban sáng. Ngần ngừ bước ra chỗ thị, nàng lên tiếng hỏi:
- Cô Phương mới đi đâu về đấy à?
Phương giật mình, ngơ ngác nhìn lại với đôi mắt hãy còn đỏ hoe, lúng túng đáp:
- À... ừ, tôi vừa đi có việc về, tự dưng thấy đầu hơi váng nên là...
- Chắc do trời nắng quá. Hay cô tạt vào nhà tôi xơi chén chè, ngồi nghỉ một chốc cho khỏe rồi hẵng về.
Thị từ chối, có lẽ vì ngại, vì chẳng thân, hoặc là một điều thầm kín khác. Liên cũng đoán được thị sẽ không vào, cốt nàng chỉ muốn lại gần để nhìn cho rõ ánh mắt của người đàn bà nọ, nơi mà nàng trông ra được tia bàng hoàng như vừa tỉnh cơn mộng dữ, và thăm thẳm một niềm đau âm ỉ kéo dài.
- Cô mới vừa biết thôi, đúng không? - Liên nói với theo khi thị vừa quay lưng rời đi.
Sững lại, thị nhìn nàng một thoáng rồi ngoảnh đầu bước thẳng. Không đáp, nhưng đủ để nàng biết được câu trả lời. Nhìn chiếc bóng liêu xiêu của người thiếu phụ dần khuất xa giữa vùng nắng cháy, lòng nàng chợt se lại, tê tái cơn đau chẳng rõ thuộc về ai. Rồi hốt nhiên, có cái gì đó đánh xoảng trong óc Liên, bung vỡ, làm lộ ra một ngọn đèn le lói.
Ngẩng đầu ngó lên vầng dương chói lóa trên cao, nàng nhẩm tính thời gian, đoạn đi vội vào nhà vớ lấy chiếc thúng rồi chạy ào ra ao sen gần đó.
Phải kịp trước hoàng hôn.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com