Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lý
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
ThôngThiên Học Giảng Lược
mục lục chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
MỤC LỤC
Chương I Thông Thiên Học là gì ?
Chương VI Sau cái Chết.
Chương II Từ Tuyệt Ðối đến Con Người.
Chương VII Sự Luân Hồi.
Chương III Sự thành lập Thái Dương Hệ.
Chương VIII Mục đích của Ðời Sống.
Chương IV Sự tiến hóa của Sự Sống.
Chương IX Các Dãy Hành Tinh.
Chương V Sự cấu tạo Con Người.
Chương X Kết quả của sự nghiên cứu TTH.
mục lục chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
CHƯƠNG NHẤT
THÔNG THIÊN HỌC LÀ GÌ ?
Hiện giờ có một trường phái triết học mà những người trí thức của thời đại chúng ta không còn biết đến. Do những lời nhận xét đó mà ông A. P. Sinnett khởi dẫn quyển sách của ông tựa đề : Thế giới huyền bí. Sách này là bài thuyết minh bình dân đầu tiên vì Thông Thiên Học được xuất bản cách đây 30 năm. Từ đó đến nay, nhờ trường phái này có cả triệu người đã biết được sự minh triết. Nhưng đa số dân chúng chưa được biết những lời dạy của nó, vì vậy nhiều giải đáp mơ hồ được nêu ra để trả lời một cách tổng quát câu hỏi : Thông Thiên Học là gì?
Hai quyển sách trả lời câu hỏi này đã được viết ra : Phật Giáo bí truyền của ông Sinnett và Minh Triết cổ thời của bà Besant. Tôi không có ý tranh đua với những tác phẩm cổ điển ấy. Tôi chỉ muốn làm một bài thuyết minh về Thông Thiên Học vừa rõ ràng vừa giản dị, có thể được coi như là đại cương của những quyển sách tôi vừa kể trên.
Thông Thiên Học thường được coi không phải như một tôn giáo chính thống, mà như một chơn lý được gặp ở nền tảng của tất cả những tôn giáo lớn. Ý kiến ấy không thể biện bác được. Nhưng nếu chúng ta nhìn ở một khía cạnh khác, Thông Thiên Học sẽ vừa là một nền triết học vừa là một tôn giáo và một khoa học. Nó là một triết lý ở chỗ nó giải thích rành mạch cơ tiến hóa của những linh hồn và của những hình thể trong Thái dương hệ. Nó là một tôn giáo vì vừa chứng minh bước đi của sự tiến hóa thông thường, nó vừa chỉ cho chúng ta và hiến cho chúng ta một phương tiện thâu ngắn con đường mà chúng ta phải đi, để chúng ta có thể, nhờ một cố gắng có ý thức, mà tiến bộ và đạt được mục đích trực tiếp hơn. Nó là một khoa học vì nó nghiên cứu câu hỏi trên, không phải bằng tín ngưỡng thần học mà bằng những hiểu biết thực nghiệm. Những hiểu biết thực nghiệm này người ta có thể đạt được do sự làm việc và xuyên qua những cuộc nghiên cứu tìm tòi cá nhân. Nó quả quyết rằng con người không cần căn cứ một cách mù quáng vào đức tin vì con người đã có sẵn nơi mình những quyền năng tiềm tàng có thể giúp y. Khi y khởi động được chúng nó, y sẽ thấy và quan sát được những lý thuyết đã đưa ra. Nó còn chứng minh cho con người bằng cách chỉ những phương pháp giúp con người phát triển những tiềm năng đó. Thông Thiên Học cũng là kết quả của sự khởi động tiềm năng của những người đã đi trước chúng ta; vì những lời dạy hiến cho chúng ta đều căn cứ trên sự quan sát trực tiếp có thể vói tới được do sự phát triển các tiềm năng ấy.
Với tính cách là một triết lý, Thông Thiên Học dạy chúng ta rằng Thái dương hệ là một bộ máy được điều chỉnh một cách tỉ mỉ. Ðó chẳng qua là sự biểu hiện của cuộc sống huy hoàng mà con người chỉ là một bộ phận nhỏ bé hiện ra trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Thông Thiên Học nói với chúng ta về hiện tại bằng cách mô tả thế nào là con người do cách quan sát nhờ những tiềm năng đã phát triển. Người ta thường nói rằng con người có một linh hồn. Kết quả của sự nghiên cứu trực tiếp dẫn con người Thông Thiên Học lật đổ châm ngôn đó và cho biết con người LÀ MỘT LINH HỒN, có một thể xác. - Thật ra là nhiều thể được dùng như những khí cụ và những phương tiện vận chuyển trong nhiều thế giới - Các thế giới đó không xa cách nhau trong không gian. Tất cả đều bao phủ chúng ta trong không gian và thời gian. Ở mọi nơi và bất kỳ lúc nào chúng ta cũng có thể học hỏi chúng. Chúng cấu tạo các thứ vật liệu hữu hình và vô hình trong thiên nhiên. Chúng có những mật độ kết cấu khác nhau, từ thô sơ đến hết sức tinh vi. Chúng ta sẽ giải nghĩa các điều đó trong chi tiết. Con người đang sống trong nhiều thế giới một lượt. Nhưng bình thường họ chỉ ý thức được thế giới vật chất mà thôi; mặc dù đôi khi họ nhận thấy thoáng qua những thế giới cao hơn trong giấc mộng hay trong lúc xuất thần. Cái mà ta gọi là sự chết chỉ là sự cổi bỏ một cái thể thuộc thế giới hồng trần. Còn linh hồn hay con người thật không thay đổi, không bị ảnh hưởng gì cả và vẫn y nguyên trên thế giới riêng của nó; giống như người ta cổi một cái áo ngoài. Ðây không phải là một sự suy luận mà là kết quả của quan sát tìm tòi và kinh nghiệm.
Thông Thiên Học cấp cho chúng ta những tài liệu quí giá về dĩ vãng của con người, về cách thế tiến hóa để họ trở thành trạng thái hiện thời của họ. Ðây cũng là một sự quan sát thông thường; vì có rất nhiều niên giám không thể xóa nhòa đã ghi chép tất cả sự việc trải qua trong quá khứ; có thể nói đây là một thứ ký ức của THIÊN NHIÊN. Khi quan sát các niên giám ấy, người nghiên cứu có thần nhãn thấy diễn ra trước mắt y lần lượt tất cả các quang cảnh của cuộc tiến hóa xa xôi đã qua đúng như các quang cảnh ấy đã thật sự diễn ra trong quá khứ. Y sẽ biết rằng con người có nguồn gốc thiêng liêng. Trải qua thời gian rất dài trong quá khứ, con người đã phát triển song song hình thể bên ngoài và linh hồn hay sự sống bên trong. Sự sống của linh hồn con người kể như vô tận. Cái mà chúng ta thường kể là một đời người thật ra chỉ là thời gian một ngày của cuộc sống thật ấy. Chúng ta đã sống những ngày tương tự. Chúng ta còn phải trải qua nhiều ngày như thế. Bạn muốn hiểu mục đích thật của cuộc sống không ? Ðừng thu ngắn nó lại bằng cái ngày duy nhất hiện giờ, là ngày kể từ lúc chúng ta còn trong nôi để chấm dứt lúc chúng ta xuống mồ. Chúng ta hãy nghĩ đến những ngày xảy ra trước đây và những ngày sẽ nối tiếp sau ngày hôm nay. Chúng ta có thể học hỏi được nhiều kiến thức chính xác về tương lai dành cho chúng ta. Ðầu tiên, chúng ta nhờ những người đã tiến trước chúng ta trên con đường chúng ta phải theo. Những người đó đã kinh nghiệm vì đã quen con đường ấy. Nhờ vậy, chúng ta rút ra được những kết luận thuộc giai đoạn đã dẫn dắt họ đến sự hoàn thiện.
Một trong những cái lợi đáng kể của Thông Thiên Học là ánh sáng bao trùm chúng ta; nó giải quyết một phần lớn những bài toán đã làm chúng ta thắc mắc, nó san bằng những nỗi khó khăn, nó giải nghĩa lý các sự bất công bề ngoài của cuộc đời. Và ở mọi phía, nó đem lại trật tự cho những gì mà chúng ta xem là rối loạn.
Thật ra, một vài sự chỉ dạy của Thông Thiên Học dựa trên sự quan sát những sức mạnh mà sự học hỏi trực tiếp không nằm ở tầm tay người thường. Tôi nhìn nhận điều đó. Nhưng, người nào đã nhận những chỉ dạy ấy như một giả thuyết tạm thời, sẽ đồng ý rằng giả thuyết ấy tốt, vì chỉ riêng một mình nó cũng cung cấp ý nghĩa đầy đủ và có lý về thảm kịch của đời sống.
Trong những chơn lý mới và nổi bật mà Thông Thiên Học mang lại cho Âu châu, chúng tôi có thể kể trước tiên là chắc chắn có hiện hữu những người trọn lành mà chúng ta có thể gần gũi và theo học được. Kế đó quả quyết rằng thế giới này không thể là vô trật tự, vô chánh phủ. Trái lại, thế giới này được điều khiển bởi một Hệ thống đẳng cấp có tổ chức hẵn hòi và sự thất bại dù của một đơn vị nhỏ nhoi nhất của nó cũng không thể có được. Một cái nhìn tổng quát về sự hoạt động Hệ thống đẳng cấp ấy cũng dẫn chúng ta đến ý muốn cộng tác với nó, dù trong chức vụ khiêm nhường nhất, để trong một tương lai xa, chúng ta xứng đáng được tiếp xúc các cấp bậc nhỏ nhoi nhất của Hệ thống đẳng cấp ấy. Ðiều này dẫn chúng ta đến trạng thái Thông Thiên Học mà chúng tôi gọi là khía cạnh tôn giáo của nó. Những ai đã nhận thức được tầm quan trọng của các chơn lý ấy đều nóng lòng về bước đi chậm chạp ở những chặng đường của cuộc tiến hóa. Họ sẽ ước ao trở thành hữu ích càng sớm càng tốt và bước lần đến con đường đạo trực tiếp hơn và cũng chông gai khó khăn hơn : vì không thể trốn khỏi công việc mà chúng ta phải thực hiện. Chúng ta có thể so sánh việc này với gánh nặng phải mang lên chót núi. Nếu phải mang nó trên con đường dốc đứng hay mang từ từ trên con đường ít dốc hơn, số sức lực dùng vào hai trường hợp đều như nhau. Phải một cố gắng nhất định để thực hiện công việc trong số thời gian nhỏ hơn. Những người đã đến chót núi đều đồng ý rằng mình sẽ được thưởng công nhiều vì đã ra công nhiều. Sự hạn chế của các thể sẽ lần lần được chế ngự và người được giải phóng là một sự giúp đỡ sốt sắng và thông minh trong hệ thống vĩ đại của sự tiến hóa tất cả sinh vật.
Thay vì đặt căn cứ lẽ sống trên những luật lệ tưởng tượng truyền lại từ xưa, Thông Thiên Học, với tính cách tôn giáo, hiến cho chúng ta những lời khuyên đạo đức căn cứ trên lẽ phải và trên những dữ kiện mà nó quan sát được. Thái độ của những người Thông Thiên Học đối với những lời khuyên ấy là phải hiểu lời khuyên nào chúng ta muốn áp dụng trong đời sống hằng ngày. Phải coi những lời khuyên ấy như những qui tắc vệ sinh chớ không phải như những giáo điều tôn giáo. Thật ra, các luật thiên nhiên là sự biểu lộ ý chí của Thượng Ðế, người đã xếp đặt khôn khéo mọi việc. Sự vi phạm các điều luật ấy dẫn đến sự xáo trộn lối tiến đều đặn của kế hoạch chung, đến sự chậm trễ hoặc sự ngưng trệ tạm thời của một đoạn hoặc một đơn vị nhỏ. Hành động như thế, chúng ta tự gây ra nhiều đau khổ cho chúng ta và cho kẻ khác. Người khôn ngoan và sáng suốt tránh vi phạm các luật lệ ấy, không phải tự y sợ gây ra sự giận dữ của một vị thần linh nào bị xúc phạm.
Nhưng, nếu chúng ta tự đặt mình vào một phương diện đặc biệt, chúng ta có thể xem Thông Thiên Học như một tôn giáo. Chúng ta phải lưu ý đến hai điều; nó phân biệt Hội Thông Thiên Học với các tôn giáo bên Âu châu.
Trước hết hội không bắt buộc các hội viên phải tuân theo những giáo điều nó trình bày và không gán cho từ �tin tưởng� cái nghĩa mà người ta thường gán cho nó. Sinh viên Huyền bí học hoặc BIẾT rõ một điều hoặc hoãn sự tin tưởng của y lại đến chừng nào y thật biết, vì hệ thống tư tưởng của y không chấp nhận một đức tin mù quáng.
Tự nhiên, người nghiên cứu Thông Thiên Học không bị bắt buộc phải biết gì cả; người ta chỉ đòi hỏi y đọc các kết quả của sự quan sát khác nhau đã thực hiện và xem đó như những giả thuyết, tạm nhận các giả thuyết ấy, hành động hợp theo đó đến chừng nào y đạt được các bằng chứng xác đáng của chúng.
Ðiều thứ hai, Thông Thiên Học không bao giờ thử cải hóa một người mà không nghĩ đến tín ngưỡng của y. Nó giải thích tôn giáo của y, chỉ cách hiểu biết tôn giáo ấy, làm theo tôn giáo ấy một cách trung thành hơn và nó giúp y phát hiện trong ấy một ý nghĩa thâm sâu mà y không ngờ. Trong nhiều trường hợp, nó mang lại cho y trên bình diện cao sâu hơn và thông minh hơn cái đức tin mà y tưởng chừng đã mất.
Thông Thiên Học còn có một phương diện khoa học nữa. Sự thật nó còn là một khoa học của sự sống, một khoa học của linh hồn. Nó áp dụng cho mọi việc phương pháp khoa học của một quan sát tỉ mỉ và thường lập lại. Nó ghi các kết quả và từ đó rút ra các kết luận.
Như thế, các cõi thiên nhiên và các điều kiện của tâm thức con người, trong lúc sống và sau khi chết, đều được tham cứu. Cần luôn luôn nhắc lại rằng những tiết lộ của Thông Thiên Học về các vấn đề ấy không phải là những phỏng đoán hay những giáo điều của đức tin thông thường mà chúng nó được căn cứ trên sự quan sát trực tiếp, được luôn luôn lập lại nhiều lần các hiện tượng của thiên nhiên. Các nhà nghiên cứu cũng chú ý trong một phạm vi nào đó các bài toán của khoa học thông thường. Những người đọc quyển Hóa học huyền bí mới vừa xuất bản sẽ đồng ý về điều ấy.
Như vậy, chúng ta thấy Thông Thiên Học gồm nơi nó một vài đặc điểm của triết học, của tôn giáo và của khoa học. Người ta cũng tự hỏi phúc âm, thánh huấn nào mà nó mang lại cho thế giới chúng ta đầy đau khổ này? Ðiểm chính yếu của sự nghiên cứu nó là gì? Những sự kiện lớn nào mà nó trình bày cho nhân loại?
Các vấn đề ấy có thể gom dưới ba đầu đề chính sau đây:
Có ba chân lý tất yếu và bất biến, có lúc bị bỏ im lặng vì không có tiếng nói nào để tuyên bố chúng:
-Linh hồn con người thì bất diệt, trường tồn và tương lai của nó là tương lai của một điều mà sự phát triển và sự huy hoàng không có giới hạn.
-Nguồn gốc của sự sống ngự ở trong ta và ngoài ta, nó không bao giờ mất, nó luôn luôn từ thiện, nó không thể thấy, nghe hay cảm xúc, mà nó chỉ được nhận thức bởi người nào muốn có sự cảm nhận.
-Một cách tuyệt đối, mỗi người đối với tự mình là người làm luật, người ban ra sự vinh quang và sự sự tăm tối, người trọng tài về sự sống và sự thưởng phạt của chính mình.
Các chân lý đó cũng vĩ đại như sự sống mà cũng giản dị như nét giản dị nhất của trí thông minh con người.
Nói một cách thông thường, con người là bất tử, Thượng Ðế là tốt lành và con người gặt hái những gì nó đã gieo. Tất cả đều được điều khiển dưới quyền của một hệ thống nhất định, dưới sự kiểm soát của một chỉ huy thông minh và hoạt động dưới những định luật bất di bất dịch. Con người choán một vị trí trong hệ thống đó và sống dưới các luật đó. Nếu nó hiểu các luật đó và hợp tác với chúng, nó sẽ tiến bộ mau chóng và sẽ hạnh phúc. Nếu nó không nắm được tầm quan trọng của chúng và cố ý hay vô tình vi phạm các luật ấy, nó sẽ làm chậm trễ sự tiến bộ và sẽ đau khổ. Ðây không phải là lý thuyết mà là những dữ kiện đã được chứng minh. Ai đó hoài nghi hãy đọc những điều sau đây rồi sẽ thấy.
mục lục chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
CHƯƠNG HAI
TỪ TUYỆT ÐỐI ÐẾN CON NGƯỜI
Ở vị trí tiến hóa hiện nay của chúng ta, ta không biết gì cả về Tuyệt đối, về Vô tận, về Ðấng bao trùm mọi vật, nhưng chúng ta biết rằng có Thượng Ðế. Chúng ta không thể nói gì mà không gặp một sự hạn chế và do đó sẽ gặp cái không chính xác.
Trong Thượng Ðế có biết bao nhiêu vũ trụ, không sao đếm được. Trong mỗi vũ trụ có biết bao nhiêu Thái dương hệ, cũng không sao đếm được. Mỗi Thái dương hệ là sự biểu hiện của một Sinh vật mạnh mẽ. [Người ta gọi là Thượng Ðế, là Ngôi Lời, là Thần Mặt Trời]. Ngài đối với hệ thống của Ngài là tất cả gì mà ta gọi là Trời. Ngài sanh hóa và thấu triệt hệ thống đó; không có gì không thuộc về Ngài. Trước mặt chúng ta, Ngài tự biểu lộ trong các phần nhỏ nhất mà chúng ta thấy được. Nhưng ngoài và trên hệ thống, Ngài còn là một hiện hữu kỳ diệu giữa các Ðấng Ðồng đẳng với Ngài. Trong kinh thánh Ðông phương có câu: Ở bất cứ một mảnh nào trong vũ trụ của Ta, Ta ngụ tại đó.
Về đời sống cao siêu của Ngài, ta không biết gì hết. Nhưng việc nghiên cứu các cõi dưới của sự biểu hiện sẽ cho ta vài tài liệu về một phần của sự sống làm linh hoạt hệ thống của Ngài. Không thấy, nhưng chúng ta có thể nhận thức kết quả của sức mạnh tác động của Ngài. Không một người có thần nhãn nào mà vô thần; đây là một sự rõ ràng nhất; điều ngược lại rất quái lạ.
Bằng thể chất của chính Ngài, Ngài tạo ra hệ thống kỳ diệu này. Chúng ta là những thành phần của hệ thống đó. Chúng ta là từng phần của sự sống đang phát triển từ những tia của ngọn lửa thiêng liêng. Từ Ngài chúng ta đến đây và chúng ta sẽ trở về Ngài.
Nhiều người đã tự hỏi mục đích của sáng tạo là gì ? Do nguyên nhân nào Thượng Ðế đã cho phát xuất cả một hệ thống và do nguyên nhân nào Ngài đã dẫn chúng ta chạm trán với những giông tố của sự sống? Chúng ta không thể trả lời những câu hỏi ấy, mà chính những câu hỏi ấy cũng không mang lại một lợi ích thực tiễn. Sự hiện hữu và hành động tích cực của chúng ta không đủ sao ? Nhiều triết gia đã suy luận và đã đưa ra nhiều giả thuyết về vấn đề này. Cái lý thuyết đẹp nhất mà tôi biết là lý thuyết sau đây của một nhà hiền triết thuộc phái duy trí:
Thượng Ðế là Tình thương, nhưng tình thương tự nó không thể hoàn hảo nếu không có những sinh vật mà tình thương ấy ban rải cho và biết đáp lại. Chính vì tình thương đó mà Thượng Ðế tự biểu lộ trong vật chất và tự hạn chế sự huy hoàng của Ngài để cho chúng có thể hiện diện qua quá trình tự nhiên và chậm chạp của sự tiến hóa. Tới phiên chúng ta, chúng ta phải tự phát triển theo ý của Ngài đến chừng nào chúng ta đạt đến trình độ của Ngài. Chừng ấy tình thương của Ngài trở nên hoàn hảo vì nó được ban rải cho con cháu Ngài, là những người hiểu và đáp đền lại đầy đủ. Kế hoạch của Ngài được thành tựu và ý muốn của Ngài được thi hành trọn vẹn.
Chúng ta không biết tâm thức của Ngài siêu việt đến mức độ nào và cũng không rõ thực chất biểu hiện ở mức độ đó ra sao. Nhưng khi Ngài tự hạ xuống ngang tầm tri thức của chúng ta thì sự biểu hiện của Ngài mang ba trạng thái. Vì vậy tất cả các tôn giáo đều diễn tả Ngài như Tam vị nhất thể.
Tuy Ba nhưng căn bản là Một, một Thượng Ðế biểu hiện ra dưới ba trạng thái. Ba là đối với tầm thấy biết của chúng ta từ bên dưới, mỗi trạng thái hoạt động mỗi khác; Một là đối với Ngài vì Ngài hiểu thấu đáo các mặt của chính Ngài.
Ba trạng thái ấy thuộc phạm vi sự tiến hóa của Thái dương hệ. Chúng cũng tham dự vào sự tiến hóa của con người. Sự tiến hóa ấy là ý chí của Ngài; lịch sử là kế hoạch của Ngài đó.
Liền dưới Ðức Thái dương Thượng Ðế và tùy thuộc mật thiết vào Ngài, phải kể đến bảy Bộ trưởng mà chúng ta gọi là các vị Hành tinh Thượng Ðế. Dùng phương pháp loại suy rút ra từ sinh vật học của cơ thể con người, chúng ta có thể so sánh sự liên hệ của các vị Hành tinh Thượng Ðế đối với Ðức Thái dương Thượng Ðế giống như sự liên hệ các hạch hay trung tâm thần kinh đối với bộ não. Tất cả sự tiến hóa phát xuất từ Ðức Thái dương Thượng Ðế phải qua trung gian các vị Hành tinh Thượng Ðế.
Dưới các vị ấy có cả đoàn hay cấp bực những vị thần tâm linh mà chúng ta gọi là Thiên thần. Chúng ta còn dốt về chức năng mà các vị ấy đảm nhận trong hệ thống kỳ diệu đó. Nhưng chúng ta nhận ra một số Thiên thần mà chức năng liên hệ chặt chẽ với sự cấu tạo của cả hệ thống và với sự sống phát triển trong đó. Thế giới chúng ta còn có một Ðấng thay mặt cho Ðức Thái dương Thượng Ðế. Tất cả cuộc tiến hóa trên hành tinh này đều dưới quyền kiểm soát, săn sóc của Ðấng ấy. Chúng ta có thể coi Ngài là vua của địa cầu này, có dưới quyền mình các vị Bộ trưởng đứng đầu các phân bộ. Một trong các phân bộ ấy phụ trách về sự tiến hóa của các giống dân, vì mỗi giống dân chánh được thành lập và khác các giống dân khác bởi một vị thủ lãnh chăm lo sự phát triển của nó. Tôn giáo và giáo dục thành một phân bộ khác. Do phân bộ này xuất hiện các giáo chủ của lịch sử và do đó các tôn giáo mới ra đời. Vị cầm đầu phân bộ này đích thân Ngài giáng trần hoặc gởi một vị đệ tử nào cần để sáng lập một tôn giáo mới.
Vì lý do đó mới có sự đồng nhất về giáo lý căn bản của tất cả các tôn giáo, ngay từ lúc sáng lập. Sự trình bày giáo lý ấy có thể bị thay đổi. Nếu chúng ta ý thức được những cái khác biệt giữa các sắc dân, những điều kiện khác nhau trong trạng thái văn minh và trình độ tiến hóa của họ, chúng ta sẽ hiểu rằng tốt hơn chân lý nên mang nhiều hình thức để có thể áp dụng vào những nhu cầu riêng rẽ. Nhưng chân lý bên trong hay nguồn gốc của nó vẫn luôn luôn là một, mặc dù các các giáo lý có thể xem dường như mâu thuẩn nhau. Thật là điên rồ nếu con người cứ cãi vã về vấn đề siêu việt của vị giáo chủ này hay phương cách giáo lý của một tôn giáo khác. Vị giáo chủ luôn luôn thuộc về một Ðại đoàn Huynh đệ Tiên Thánh mà Ngài chỉ là người đại diện. Trên các quan điểm chính cũng như trong các nguyên tắc đạo đức, các giáo huấn không thay đổi.
Toàn bộ chân lý được thấy ở nền tảng của tất cả các tôn giáo và được diễn tả trong những dữ kiện của thiên nhiên, như con người ở thời đại này đã biết. Những người không biết các chân lý ấy cãi lẩy về sự hiện hữu của các vị Thượng Ðế, về sự sống của con người sau khi chết, về sự hoàn thiện và về vị trí phải dành cho con người trong vũ trụ. Thay vì không mang lại giải đáp như nhiều người lầm tưởng, các chân lý ấy ở tầm tay của kẻ nào hướng dẫn các sự tìm kiếm của mình về hướng đó, vì các chân lý ấy đều thuộc về những người đã cố gắng thật sự để đạt được.
Trong những giai đoạn đầu của nhân loại, các Ðấng của Hệ thống Ðẳng cấp đã kể trên từ các hành tinh khác đến; nghĩa là từ những hành tinh tiến bộ hơn địa cầu chúng ta. Nhưng từ khi con người đã phát triển được toàn vẹn về quyền năng và minh triết, các chức năng ấy đều do con người tự nắm giữ.
Muốn ở đúng chiều cao của một trách nhiệm tương tự, con người phải vói lên một trình độ cao để trở nên một vị thông suốt giáo lý (Chơn tiên), một con người thật tốt, có quyền năng và minh triết, một vị mạnh mẽ hơn phần còn lại của nhân loại, vì y đã đạt đỉnh cao của sự tiến hóa; người ấy đã thực hiện trình độ mà Trời giao cho y trong kỷ nguyên này. Nhưng sự tiến hóa của y phải còn cao hơn cấp bực hiện thời để sau này y thành một Ðấng Thiêng Liêng.
Nhiều người đã tiến đến trình độ hoàn thiện (Chơn tiên). Họ không thuộc một quốc gia nào, mà thuộc các quốc gia tiến bộ dìu dắt hoàn cầu. Ðó là những linh hồn hiếm hoi, can đảm phi thường đã vào thành trì của thiên nhiên, chiếm được những bí mật sâu kín nhất và xứng đáng danh vị con người thánh thiện. Trong hàng ngũ của họ, có rất nhiều cấp bực và nhiều ngành hoạt động khác nhau. Nhưng một vài người của họ luôn luôn liên lạc trực tiếp với địa cầu chúng ta trong tính cách là thành viên của hệ thống đẳng cấp đang quản trị mọi công việc ở địa cầu và mọi mặt tiến hóa của nhân loại chúng ta.
Cái trung tâm uy nghiêm ấy chúng ta gọi là Ðại đoàn Huynh đệ Tiên Thánh ( Quần Tiên Hội). Nhưng những thành viên của Ðại đoàn ấy không sống tập thể. Mỗi vị Chơn tiên ấy thường sống xa con người, nhưng luôn luôn liên lạc với các bạn đạo đồng đẳng và với Ðấng Giáo chủ Tối cao. Sự hiểu biết của họ về các cõi cao sâu sắc đến nỗi họ không cần gặp các đồng đạo trên cõi vật chất. Trong nhiều trường hợp, họ tiếp tục sống nơi quê hương của họ; các người sống chung quanh họ không biết đến các quyền năng của họ. Mọi người trong chúng ta có thể gây sự chú ý của họ với điều kiện là phải tỏ ra xứng đáng. Không ai nên cho rằng sự cố gắng của mình sẽ không được chú ý đến. Sự lầm lẫn ấy không thể có được vì kẻ nào tận tâm phụng sự nhân loại sẽ tách ra khỏi phần còn lại của nhân loại như ngọn lửa lớn trong đêm tối âm u. Một vài vị Chơn tiên làm việc cho hạnh phúc của nhân loại bằng lòng thâu nhận làm đệ tử những người đã hi sinh trọn vẹn để phụng sự nhân loại. Các vị thánh thiện ấy chúng ta gọi là các Chơn sư.
Bà Helena Petrowna Blavatsky là một trong các đệ tử đó, một đại linh hồn được phái đến cách đây ba mươi lăm năm, để giáo huấn và giác ngộ nhân loại. Bà lập Hội Thông Thiên Học với Ðại tá Henry Steele Olcott để truyền bá những kiến thức bà đạt được. Trong những người được tiếp xúc ở ngày đầu của Hội, phải kể ông A. P. Sinnett, người xuất bản tạp chí Pioneer. Sự thông minh sâu sắc và tế nhị của ông giúp ông tiếp thu ngay sự vĩ đại và tầm quan trọng của những giáo lý mà bà Blavatsky trình bày cho ông. Mặc dù trước đó bà đã viết quyển Isis dévoilée , quyển này ít gây sự chú ý. Chính ông Sinnett là người đầu tiên đem giáo lý xuống ngang tầm hiểu biết của người Âu châu qua hai quyển sách Thế giới huyền bí (le Monde occulte) và Phật giáo bí truyền (le Bouddhisme ésotérique).
Qua trung gian các quyển sách này, tôi biết được tác giả của nó và bà Blavatsky. Nhờ các sách ấy tôi được biết qua các kiến thức mới. Khi tôi hỏi bà Blavatsky bằng cách nào người ta học đạo mau và thực hiện được tiến bộ xác định trên đường đạo mà bà đã chỉ cho chúng ta, bà trả lời rằng những sinh viên khác có thể được nhận làm đệ tử các Chơn sư như bà; phương tiện duy nhất đưa sinh viên đến đó là sự làm việc tận tâm, chân thành và vị tha. Bà tuyên bố rằng một người muốn đạt mục đích phải tuyệt đối trong sự quyết định của mình, rằng người nào có ý muốn vừa phụng sự Thượng Ðế vừa vì tư ngã thì không có hi vọng thành công. Một trong các vị Chơn sư cũng nói rằng : Một đệ tử muốn thành công phải bỏ đời theo đạo.
Ðiều này có nghĩa là người đệ tử không theo những kẻ chỉ sống vì tiền bạc, danh vọng và quyền thế, chỉ theo thiểu số người mà các điều ấy không quyến rũ được. Mục đích của thiểu số người này là tận tâm với nhân loại bằng sự hi sinh quên mình vì lý tưởng. Bà Blavatsky cũng báo trước với chúng ta rằng con đường đạo này rất khó theo và những người đi con đường ấy sẽ bị đồng loại không hiểu và bị nói xấu. Công việc của chúng ta là việc làm bị vong ân bội nghĩa và mặc dù kết quả chắc chắn, nhưng không ai đoán được thời gian bao lâu mới đạt được. Một vài người trong chúng ta nhận chịu các điều kiện ấy một cách vui vẻ và chúng ta không bao giờ hối tiếc quyết định can đảm ấy.
Sau vài năm làm việc tôi được đặc ân tiếp xúc với các Chơn sư minh triết. Các Ngài dạy bảo tôi về rất nhiều vấn đề và chỉ cho tôi phương pháp tự tôi chứng minh các giáo lý mà tôi nhận được. Cho nên đến nay, đối với tôi, khi tôi muốn nói gì về các vấn đề này, tôi chỉ viết theo điều tôi đã biết rõ và chính tôi thấy tận tường. Tuy nhiên, muốn chứng minh sự chính xác của một vài điều cao siêu trong giáo lý của các Chơn sư, cần phải có những khả năng cao hơn khả năng của tôi hiện có. Nhưng đối với các quyền năng ấy, tôi có thể nói chúng nó phù hợp với những gì tôi biết. Trong nhiều trường hợp chúng nó có thể dùng làm giả thuyết để giải quyết những gì tôi đã thấy. Những giáo lý, cũng như toàn bộ hệ thống Thông Thiên Học mà tôi học được đều căn cứ trên uy tín của các Chơn sư. Từ đó, tự tôi tập quan sát phần lớn các giáo lý đã dạy tôi và tôi nhận thấy rằng các lời giáo huấn đều đúng về mọi điểm. Tôi nhận rằng những điều tôi chưa quan sát cũng đều đúng như những cái đã quan sát, trước khi tôi kiểm minh được chúng.
Sự hân hạnh được nhận làm đệ tử Chơn sư là mục đích của mỗi học viên Thông Thiên Học thành thật muốn đạt được. Nhưng điều đó đòi hỏi một cố gắng nhất định. Thời buổi nào cũng có những người sẵn sàng và đạt được ánh sáng của giác ngộ. Kiến thức này có tính cách siêu việt và người đã đạt được sẽ hiểu biết hơn người thường; y vượt khỏi tất cả các giới hạn được biết.
Nhưng có những giai đoạn trong sự chiếm hữu các hiểu biết đó và nếu chúng ta muốn biết rõ các điều ấy chúng ta nên học ở những người đã tiến bộ. Thang tiến hóa có nhiều bậc : người dã man tiền sử ở bậc thấp nhất, chúng ta là người văn minh đã leo lên được một phần các nấc thang đó. Chúng ta có thể nhìn xem những nấc thang mà chúng ta đã vượt qua, chúng ta cũng có thể nhìn xem những nấc thang cao mà chúng ta chưa đạt. Sự nghiên cứu các trình độ đó giải thích cho ta bằng cách nào con người sẽ vượt qua các bậc ấy trong tương lai. Chúng ta sẽ biết rằng sự leo lên các nấc thang tiến hóa sẽ dẫn đến một danh vọng huy hoàng không thể tưởng tượng được, và tất cả chúng ta sẽ tham gia vào đó một ngày kia. Những người nào cao hơn chúng ta quá xa được chúng ta xem như bậc thánh trong kiến thức và quyền năng của họ. Họ nói với chúng ta rằng không lâu về trước họ cũng ở vào vị trí của chúng ta hiện nay và họ chỉ rõ cho chúng ta các bậc cao mà chúng ta phải vựot qua, nếu chúng ta muốn giống họ.
mục lục chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
CHƯƠNG BA
SỰ THÀNH LẬP THÁI DƯƠNG HỆ.
Sự bắt đầu của vũ trụ (nếu có cái bắt đầu) nằm ngoài tầm quan niệm của con người. Kể từ thời lịch sử xa xưa nhất mà chúng ta có thể nghiên cứu được, chúng ta thấy có hai sức mạnh đối chọi nhau: tinh thần và vật chất, sự sống và hình thể. Ý kiến chung về vật chất cần ôn học lại. Cái mà người ta gọi là tinh thần và vật chất chẳng qua chỉ là kết quả của hai sự phát lộ khác nhau của tinh thần trong hai thời kỳ khác nhau; chớ vật chất thật sự hay căn bản của vạn vật thì chưa biết rõ.
Một nhà thông thái Pháp vừa nói: Không có vật chất, chỉ có những lổ trống trong dĩ thái.
Giả thuyết ấy phù hợp với thuyết danh tiếng của giáo sư Osborne Reynolds. Những tìm kiếm, quan sát của huyền bí học chứng minh rằng quan niệm mới về vật chất ấy đúng. Những sự nghiên cứu này còn soi sáng ý kiến của các thánh kinh Ðông phương cho rằng vật chất chỉ là ảo tưởng.
Theo trình độ hiểu biết của chúng ta hiện nay, nguồn gốc của vật chất sơ đẳng chỉ là cái mà các nhà thông thái gọi là chất dĩ thái không gian. Không gian hình như trống rỗng đối với mắt ta, nhưng theo giáo sư Osborne Reynolds, tỉ trọng của nó tính ra bằng 10.000 lần tỉ trọng của nước. Sức ép của nó được giáo sư tính ra bằng 750.000 tấn trên một tấc vuông Anh.
Chất ấy chỉ có thể thấy được bằng một khả năng thần nhãn cực kỳ phát triển. Chúng ta có thể giả thuyết rằng vào một thời kỳ xa xôi nào đó (mà chúng ta không thể trực tiếp biết được), chất dĩ thái ấy lấp đầy không gian. Một đấng cao cả hơn Ðức Thái Dương Thượng Ðế rất nhiều đã đổi thay tình trạng ổn định bằng cách xạ tư tưởng hay thần lực của Ngài vào một phần không gian; phần này bằng không gian của một vũ trụ. Luồng thần lực được đưa vào như thế có thể so sánh với một hơi thở cực kỳ mạnh. Nó biến chất dĩ thái của không gian thành vô số bọt tròn [những bọt này được mô tả trong quyển Giáo lý bí truyền của bà Blavatsky như những lổ mà Fohat đào trong không gian. Những bọt này có tên là Koilon, có nghĩa là trống ruột]. Các bọt ấy là những nguyên tử sơ đẳng đầu tiên để tạo thành vật chất. Những bọt này chưa phải là nguyên tử hóa học, mà cũng chưa phải là nguyên tử căn bản hồng trần của huyền bí học. Chúng chỉ được thấy ở cõi thật cao, thật tinh vi. Cái mà chúng ta gọi là nguyên tử hóa học ngày nay là một khối do một số cực kỳ to lớn của những bọt ấy kết hợp lại.
Bây giờ đến giai đoạn của Ðức Thái Dương Thượng Ðế. Khi Ðức Thái Dương Thượng Ðế định sáng tạo hệ thống của Ngài, Ngài thấy cái khối vô tận của những bọt Koilon đã sẵn sàng. Trước tiên, Ngài vạch giới hạn của tầm hoạt động của Ngài. Hễ hào quang của Ngài chiếu tới đâu thì ở đó là biên cương nước Ngài. Biên cương này vượt rất xa hơn quỉ đạo của hành tinh xa nhất sẽ thành lập. Trong giới hạn của nước Ngài, Ngài cho chuyển động một luồng quay cuồng khổng lồ để quét và gom lại các bọt thành một khối trung ương; đó là bản thể của một tinh vân sẽ sinh ra.
Khối kết hợp các bọt càng ngày càng phức tạp. Ngài xạ vào luồng quay cuồng khổng lồ nói trên liên tiếp nhiều xung động của sức mạnh để tạo thành bảy thế giới hay bảy cõi khổng lồ và đồng tâm, gồm các vật chất có tỉ trọng khác nhau, choán cùng một không gian và cõi này xuyên qua cõi kia.
Qua trung gian của trạng thái thứ ba, Ngài phát luồng năng lực thứ nhất, gây ra trong toàn ranh giới của Ngài những luồng quay cuồng nhỏ hấp dẫn 49 bọt và sắp xếp chúng một cách đặc biệt. Các nhóm bọt này làm thành nguyên tử của cõi thứ hai. Một phần các bọt còn ở tình trạng cũ và còn tồn tại một cách thưa thớt ở cõi thứ nhất, cao hơn cõi thứ hai.. Ðúng thời kỳ luồng năng lực thứ hai được xạ vào và nó chiếm gần hết các khối gồm 49 bọt nói trên (chỉ bỏ ra một số ít để tạo thành cõi thứ hai). Nó hút chúng vào, nó đẩy chúng ra làm chuyển động những sự quay cuồng, mỗi cái chứa 2.401 bọt ( 492 ). Ðó là nguyên tử của cõi thứ ba. Sau một thời gian, năng lực thứ ba đến, cũng một cách đó, chiếm các khối 2.401 bọt, hút các khối ấy vào, đẩy các khối ấy đi, tạo thành các nguyên tử của cõi thứ tư; các nguyên tử này gồm 117.649 bọt (49 x 49 x49 = 493 ). Sự diễn tiến được lập lại như vậy cho đến luồng năng lực thứ sáu tạo thành nguyên tử của cõi thứ bảy là cõi thấp nhất nguyên tử này chứa 496 bọt nguyên thủy.
Nguyên tử của cõi thứ bảy là nguyên tử căn bản vật chất hồng trần; nó không phải là nguyên tử mà các nhà khoa học đã nói. Chúng ta đến giai đoạn này trong điều kiện là vũ trụ hình cầu bao la quay cuồng chứa đựng bảy kiểu vật chất, giống nhau trong căn bản, vì tất cả đều làm thành bởi những bọt giống nhau, nhưng khác nhau về tỉ trọng. Các kiểu ấy xen lẫn nhau tự do, người ta có thể gặp những mẩu của mỗi thứ trong một phần nhỏ của địa cầu, không quên đề cập đến ý hướng ly tâm của những nguyên tử nặng nhất.
Luồng năng lực thứ bảy do trạng thái thứ ba của Ðức Thái Dương Thượng Ðế không kéo các bọt trở lại trạng thái đầu tiên như các luồng năng lực trước. Các nguyên tử vật chất cấu tạo sau hết, trái lại, nó tập hợp thành sự kết hợp tạo những nguyên tử khác nhau mà người ta có thể gọi là tiền nguyên tố. Các tiền nguyên tố nầy tới phiên mình sẽ tập hợp lại thành nhiều hình thể khác nhau mà khoa học gọi là nguyên tố hóa học. Sự cấu tạo các nguyên tố này kéo một thời gian dài và nhờ sự tác động của nhiều sức mạnh, chúng nó được cấu tạo theo một trật tự xác định như bài báo của giáo sư William Crookes nói đúng trong quyển Khởi nguyên của các nguyên tố . Thật ra, quá trình cấu tạo của chúng chưa có kết luận cuối cùng. Chất uranium là nguyên tố nặng nhất và sau cùng mà người ta tìm thấy đến nay. Nhưng có thể còn có nhiều nguyên tố phức tạp hơn sẽ được tìm thấy trong tương lai.
Ðộ đông đặc tăng gia với thời gian và tinh vân bao la cháy rực. Vừa luôn luôn quay cuồng mau lẹ, nó trở nên giẹp và nguội lần lần. Nó có hình dáng của một cái dĩa bao la và từ từ chia ra từng khoen bao quanh một trung tâm, giống như sự sắp xếp mà chúng ta thấy ở Thổ tinh, mặc dù kích thước nhỏ hơn nhiều. Khi cần các hành tinh làm môi trường tiến hóa, Ðức Thái Dương Thượng Ðế dấy lên trong bề dầy của mỗi hình tròn một sự quay cuồng phụ. Trong ấy, một phần vật chất của mỗi khoen được gom lại. Sự va chạm của các phần hợp lại gây ra một sự tăng nhiệt mới và trong một thời gian lâu dài là một khối lửa. Từ từ nó nguội dần cho đến chừng nào nó có thể dùng làm môi trường cho sự sống, giống như sự sống của chúng ta. Các hành tinh đều được cấu tạo như thế đó.
Gần như toàn thể các chất của những cõi, cái này xuyên qua cái kia, lớp này xuyên qua lớp kia, được tập trung trong các hành tinh vừa mới thành lập và gồm tất cả các loại khác nhau. Ðịa cầu chúng ta không phải chỉ là một hình cầu bao la của vật chất hữu hình, gồm những nguyên tử của cõi thấp nhất. Nó còn gồm vật chất của cõi thứ sáu, thứ năm, thứ tư và của tất cả những cõi khác. Các sinh viên khoa học đều hiểu rõ rằng những phần nhỏ nhất của vật chất không đụng nhau bao giờ, dù cho đó là phần nhỏ nhất của chất cứng rắn nhất. Khoảng cách giữa các phần nhỏ ấy tương ứng lớn hơn rất nhiều, thật nhiều đối với kích thước của chúng. Nguyên tử của các cõi khác chẳng những có thể chen vào giữa các vật chất nguyên tử hữu hình, mà chúng còn có thể di động tự do giữa những nguyên tử đó nữa. Ðịa cầu chúng ta không phải là một cõi (một thế giới), mà là của bảy thế giới hay bảy cõi xuyên qua nhau, cùng nhau chiếm một khoảng không gian duy nhất. Chúng ta đừng quên rằng các chất tế vi có khuynh hướng ly tâm, trái hẳn với các chất đặc.
Chúng ta đã đặt tên cho các cõi, các thế giới ấy để dễ nhận ra chúng. Không có từ ngữ cần thiết bắt buộc để gọi cõi thứ nhất, vì con người đến ngày nay chưa tiếp xúc được với cõi ấy. Nếu cần nói đến, ta chỉ gọi đó là cõi tối thiêng liêng. Cõi thứ nhì được gọi là cõi chơn thần, vì trong thế giới có những tia sáng của đời sống thiêng liêng mà chúng ta gọi là Chơn thần của con người. Cả hai cõi trên ấy (thứ nhất và thứ nhì) chưa cõi nào được nghiên cứu bằng thần nhãn cao nhất mà chúng ta có thể thực hiện được cho đến ngày nay. Cõi thứ ba là cõi mà các nguyên tử chứa 2401 bọt Koilon và được gọi là thế giới tâm linh. Tâm linh cao của con người thuộc về cõi này. Cõi thứ tư là cõi của trực giác hay cõi bồ đề theo cách gọi của Thông Thiên Học. Ở đó chúng ta có những trực giác cao siêu nhất. Cõi thứ năm là cõi của trí tuệ, địa hạt của tư tưởng của con người. Cõi thứ sáu là cõi của cái vía hay cõi tình cảm. Ở đây các cảm xúc, tình cảm làm rung động các vật chất của cõi này. Cõi này dường có ánh sáng chớp lòe như sao trên trời, nếu chúng ta so sánh nó với vật chất hữu hình. Tính chất này làm cho các nhà luyện kim thời Trung cổ gọi cõi này là cõi của cái vía. Cõi thứ bảy gồm vật chất mà chúng ta thấy được là cõi hồng trần, cõi hữu hình.
Vật chất cấu thành các cõi ấy căn bản giống nhau, nhưng chúng nó được sắp xếp khác nhau và có mức độ tỉ trọng khác nhau. Vì lẽ đó các rung động của các kiểu vật chất phải khác nhau. Chúng có thể xem như một âm giai vĩ đại của những làn sóng gồm nhiều nhịp điệu. Vật chất hữu hình rung động theo một bát độ thấp. Vật chất của cõi vía rung động theo một bát độ cao hơn. Vật chất cõi trí tuệ rung động mau hơn nữa và cứ tiếp tục như thế.
Vì vậy các cõi hay thế giới ấy chẳng những có kiểu vật chất riêng cho mình mà chúng còn có những chất riêng biệt và một nhóm kết hợp đặc biệt nữa. Chúng ta chia vật chất các cõi thành bảy thứ, tùy theo cách rung động của những phân tử riêng biệt. Sự dao động chậm đòi hỏi một phân tử nặng kết quả của một sự sắp xếp đặc biệt của những phân tử nhỏ của một tế phần cao kế đó .Trường hợp này không phải luôn luôn tuyệt đối. Sự tác dụng của sức nóng làm tăng kích thước của các phần tử, làm hoạt động và khuếch đại những làn sóng của chúng. Chúng choán nhiều chỗ hơn và khi giãn nở như vậy, các mức độ kết hợp của chúng bị phá vỡ. Ðiều này đưa chúng đi từ trạng thái thấp sang trạng thái cao hơn kế trên. Những tế phần của cõi hữu hình này được biểu lộ dưới bảy độ tỉ trọng vật chất mà chúng ta gọi từ thấp lên cao :thể đặc, thể lỏng, thể hơi, thể dĩ thái, thể trên dĩ thái, thể dưới nguyên tử và thể nguyên tử.
Các hình thể thuộc về tế phần nguyên tử đều do sự nén ép các nguyên tử hữu hình thành hình trạng khác, khỏi phải thành lập trước các khối hay các phân tử. Nếu chúng ta tượng trưng nguyên tử căn bản hồng trần bằng một viên gạch, chúng ta sẽ có một phân tử nào đó của tế phần nguyên tử khi chúng ta kết hợp vài miếng gạch vào một hình thể nào đó, một cách đặc biệt. Nếu chúng ta muốn tạo vật chất thuộc về tế phần dưới nguyên tử, chúng ta phải gom lại một số gạch, bốn, năm, sáu hay bảy viên chẳng hạn thành khối. Các khối này tới phiên nó kết hợp lại thành vật chất của tế phần trên dĩ thái và cứ tiếp tục như vậy đến tế phần dĩ thái, tế phần hơi, tế phần lỏng và tế phần đặc.
Ngược lại, khi ta muốn đưa một chất đặc sang thể lỏng (nghĩa là làm tan chảy) ta tăng sự rung động của những phân tử đã kết hợp, chúng nó trở thành phân tử đơn giản trước khi tạo ra phân tử kết hợp. Thí nghiệm này có thể lập đi lập lại nhiều lần và tất cả chất rắn đều có thể trở thành nguyên tử căn bản hồng trần.
Mỗi cõi hay thế giới vừa kể đều có người cư ngụ. Giác quan của những người này chỉ có thể đáp ứng với những rung động của chính cõi ấy mà thôi. Một sinh vật cõi trần hữu hình thấy, nghe và cảm nghĩ nhờ những rung động liên quan đến vật chất hữu hình xung quanh. Chung quanh những người này (như chúng ta chẳng hạn) cũng có cõi (hay thế giới) vía , trí, xuyên qua chúng, nhưng thường chúng không ý thức được vì giác quan của chúng không tiếp nhận làn sóng rung động thuộc vật chất của các cõi ấy.
Vì vậy, mắt ta không thể cảm nhận những rung động của ánh sáng cực tím, mặc dù theo khoa học, các ánh sáng đó có thật. Các sinh vật khác chúng ta có những cơ quan có thể thấy nhờ các rung động ấy. Một người sống ở cõi vía choán cùng một không gian của người sống ở cõi trần. Nhưng cả hai đều không thấy nhau; họ không cản trở các hành động của nhau. Các cõi khác cũng thế.
Ðể kết luận, chúng ta có thể nói chúng ta bị bao quanh bởi các cõi tế nhị, cũng ở sát chúng ta như thế giới hữu hình mà chúng ta thấy được. Những người cư trú trên các cõi ấy cũng bao quanh chúng ta, mặc dù chúng ta không ý thức được về sự hiện hữu của họ.
Bởi vì sự tiến hóa của chúng ta hiện nay tập trung ở Ðịa cầu, chúng ta chỉ đề cập đến những cõi hay thế giới cao có liên hệ với hành tinh này mà thôi. Tôi dùng từ cõi vía để chỉ nói đến phần vía của địa cầu mà thôi, chớ không nói đến phần vía của Thái dương hệ.
Quả cầu vía của địa cầu cũng choán một khoản không gian chung với địa cầu hữu hình. Nhưng thể chất hay tinh chất loãng của nó ló ra khỏi trung tâm xa hơn bầu khí quyển của địa cầu rất nhiều. Nó ló ra xa gần bằng khoảng cách trung bình từ địa cầu đến mặt trăng, mặc dù hai quả cầu hữu hình này cách xa nhau khoản 240000 dặm. Phần vía của hai quả cầu này gần giáp nhau khi mặt trăng tiến đến gần địa cầu nhất chớ không phải lúc mặt trăng ở viễn điểm. Tôi dùng từ �cõi trí� để chỉ thế giới lớn hơn nữa của chất trí. Ðịa cầu hữu hình của chúng ta cũng choán trung tâm cõi này.
Khi chúng ta liên hệ đến các cõi cao, chúng ta sẽ gặp những bầu vô hình mà chu vi đều tiếp cận chu vi các cõi tương ứng của những hành tinh khác trong Thái dương hệ. Các thế giới có thể chất loãng biểu thị một phần chúng ta và di chuyển chung quanh mặt trời với các thế giới thấy được. Khi tập trung tư tưởng vào quả địa cầu chúng ta, sinh viên chẳng những phải nghĩ đến hình cầu nhỏ bằngvật chất hữu hình mà còn phải nghĩ đến các khối chung quanh của những bầu thế giới xuyên qua nhau từ cái này đến cái khác.
mục lục chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
CHƯƠNG BỐN
SỰ TIẾN HÓA CỦA SỰ SỐNG
Những luồng sóng sinh hoạt đã hình thành các cõi mà tôi vừa mô tả đều là công trình của Ngôi Ba của Ðức Thái Dương Thượng Ðế, do đó cái tựa của chương này là �Ðấng đã cho sự sống�, Ðấng đã bao trùm trên nước của không gian mà chúng ta gặp trong các Thánh kinh Thiên chúa giáo. Theo từ ngữ Thông Thiên Học, các luồng sinh hoạt ấy được xem trong toàn thể của nó. Nó cấu tạo điều mà người ta gọi là luồng sóng sinh hoạt của sự sống.
Khi các cõi phát triển đến độ này và các nguyên tố hóa học được cấu tạo xong, luồng sinh hoạt thứ nhì xuất phát do Ngôi Hai của Ðức Thái Dương Thượng Ðế. Nó có quyền năng phối hợp và cố gắng kết hợp các nguyên tố hiện hữu trong tình trạng phôi thai thành những hình thể. Các hình thể này về sau được cấp một linh hồn.
Do thế đó, bảy giới thiên nhiên ra đời, được Thông Thiên Học nhìn nhận. Thông Thiên Học tách giới nhân loại khỏi giới cầm thú, xem xét nhiều giai đoạn tiến hóa mà mắt thường không thấy được và đặt cho tên là giới tinh hoa.
Sự sống thiêng liêng từ trên cao trút xuống vào vật chất và sự vận hành của nó được chia ra hai giai đoạn: nó khởi đầu bằng cách lấy hình tướng càng ngày càng đông đặc, rồi sau đó nó cởi bỏ lần lần các hình tướng bề ngoài ấy. Cõi trí là tầng thứ năm nếu chúng đi từ trên xuống, từ tinh vi đến thô kệch, là tầng thứ nhất mà chúng ta có thể quan sát một cách khoa học các thể thiêng liêng và cũng ở tầng ấy ta gặp những bầu thế giới riêng biệt. Muốn dễ nghiên cứu, cách giản dị nhất là chúng ta nên chia cõi trí ấy ra làm hai phần : thượng trí và hạ trí, tùy theo mâït độ các chất mà ta gặp ở đó. Thượng trí gồm ba tế phần tinh vi của chất tư tưởng và hạ trí gồm bốn tế phần của chất tư tưởng dày đặc hơn.
Khi sự sống thiêng liêng giáng xuống đến cõi thượng trí, nó phối hợp các nguyên tố dĩ thái đang có ở đó. Theo mật độ ấy người ta có thể gọi là chất; trong các chất ấy, sự sống trú ngụ. Ðó là các chất mà Thông Thiên Học gọi là giới tinh hoa chất thứ nhất.
Sau một thời gian tiến hóa dài trong những hình thể thượng trí, luồng sóng sinh hoạt càng ngày càng xuống sâu, học cách tự đồng hóa trọn vẹn với các hình thể đó, cho đến đỗi nó có thể giữ các hình thể ấy lâu dài, hoàn toàn chiếm giữ thay vì rời bỏ chúng sau mỗi kiếp luân hồi. Cùng cách ấy, luồng sóng sinh hoạt có thể chiếm ngụ các hình thể thấp hơn ở các tế phần hạ trí, mặc dù linh hồn của luồng sinh hoạt còn ở thượng trí. Các chất được linh hoạt ở hạ trí, chúng ta đặt tên là giới tinh hoa thứ nhì.
Sau một thời kỳ dài bằng thời kỳ trước, luồng sóng sinh hoạt tự đồng hóa một lần nữa với những hình thể mà nó chiếm ngụ thật thụ ở hạ trí. Nó có thể sử dụng các hình thể thuộc về cõi vía là cõi thứ sáu từ trên kể xuống và được gọi là giới tinh hoa thứ ba.
Mặc dù hình thể của giới tinh hoa thứ ba tại cõi vía không hoàn toàn trong sáng, nó cũng tế nhị hơn các hình thể ở cõi trần hữu hình. Mỗi một giới trong ba giới tinh hoa vừa kể đều biểu lộ sự sống căn bản khác biệt nhau giống như sự khác biệt giữa giới động vật và giới thực vật.
Sau khi tự đồng hóa với các hình thể thuộc giới tinh hoa thứ ba, luồng sóng sinh hoạt đem sinh khí xuống các phần dĩ thái của khoáng sản và làm cho chúng linh hoạt. Nhờ sức ép đi từ trên xuống, sự sống thiêng liêng tự đồng hóa với chất dĩ thái của thế giới hữu hình và chiếm ngụ chất thô của khoáng sản mà mắt trần chúng ta không thấy được.
Chúng tôi gom vào giới khoáng sản, kim thạch chẳng những tất cả các khoáng chất, mà còn các chất lỏng, chất hơi và một phần lớn các chất dĩ thái mà khoa học Âu Tây chưa nhìn thấy. Chất nào cũng có sẵn bên trong sự sống đang phát triển tiệm tiến. Khi luồng sóng sinh lực đến điểm trung tâm giai đoạn khoáng chất, sức ép từ trên xuống dưới được thay bằng ý hướng từ dưới lên trên; như vậy sự nhập thế chấm dứt, sự xuất thế bắt đầu.
Sau khi đã đi qua hết các bậc của giới khoáng sản, sự sống thiêng liêng ngụ lại tại cõi vía, mang theo nó kết quả của những kinh nghiệm ở cõi hữu hình. Từ đó, nó làm linh hoạt các hình thể thực vật và có thể phát lộ rõ rệt trong sự tiến hóa này các khả năng sinh tồn mà chúng ta gặp trong đời sống của mọi loài thực vật. Khi nó hoàn tất giai đoạn phát triển trong giới thực vật, nó bỏ giới này và làm linh hoạt các hình thể động vật. Sau đó nó rút khỏi thế giới hữu hình và ngụ tại cõi hạ trí. Nhưng sau rốt, khi muốn hoạt động trực tiếp trên chất đặc, nó phải tái sử dụng chất vía trung gian. Chất ấy trong trường này không còn là sự biểu lộ của một hồn khóm tập thể, mà nó trở nên, như tôi sẽ chứng minh sau này, thể vía cá nhân của một động vật thông thường nào đó.
Luồng sóng sinh lực lưu lại chẳng những trong một thời gian, đối với chúng ta, gần như vô tận trong mọi giới, nhưng nó tiến lên xuyên qua một khoản tiến hóa xác định khởi sự từ những biểu lộ thô sơ nhất của một giới để đến các biểu lộ cao nhất. Lúc đầu của thời kỳ thực vật, thí dụ sinh lực đem sinh khí cho cỏ và rong rêu, rồi sau đó trở thành linh hồn của những cây lớn trong rừng. Còn ở giới động vật nó mang sinh khí đầu tiên cho muỗi và vi sinh vật thông thường, rồi sau đó nó làm linh hoạt các mẫu động vật có vú.
Ðó là quá trình tiến hóa tiệm tiến và đều dặn của những hình thể hạ cấp, đơn giản, để tiến lần đến hình thể cao cấp, phức tạp. Sự tiến hóa không phải là hình tướng mà là sinh lực, là sự sống trong các hình tướng; các hình tướng cũng trở nên hoàn hảo hơn trong mục đích duy nhất là tạo ra các thể phù hợp với những làn sóng sinh khí càng ngày càng phát triển. Sau khi vượt qua mức cao nhất của giới động vật, sự sống thiêng liêng xuất hiện trong giới con người dưới ảnh hưởng của vài điều kiện mà tôi sẽ giải rõ sau này.
Ðợt sóng sinh lực từ bỏ mọi giới để tiến lên một giới khác và nếu ta chỉ chú ý một làn sóng duy nhất của đợt sóng ấy, thì chỉ có một giới mà thôi.
Nhưng Thượng Ðế cho phát xuất một loạt những đợt sóng sinh lực và một số đợt ấy khởi sự hoạt động một lượt. Chúng ta hình dung một trong các đợt sóng ấy và chúng ta thấy tiến hóa bên cạnh ta một làn sóng khác của động vật, làn sóng cho ra bởi Thượng Ðế trong giai đoạn sau giới con người. Giới thực vật biểu thị làn sóng thứ ba, giới khoáng sản , đợt thứ tư , và các nhà huyền bí học nhìn nhận chung quanh chúng ta có sự hiện diện của ba giới tinh hoa; đó là các làn sóng thứ năm, thứ sáu và thứ bảy. Tập hợp các đợt dao động ấy biểu hiện các làn sóng liên tiếp của một làn sóng lớn; đó là làn sóng của Thượng Ðế Ngôi Hai.
Dưới mắt chúng ta, chúng thấy có một kế hoạch tiến hóa. Trong đó chúng thấy sự sống thiêng liêng được vật chất hóa càng ngày càng sâu đậm để cảm xúc với một vài rung động không kích động nó được nếu không có sự giúp vào của vật chất. Các dao động khác khởi dấy nơi nó một tốc độ dao động tương ứng. Về sau, nó sẽ đủ sức tạo lại các dao động ấy bởi tự sức mình và sẽ trở nên một sinh vật có năng lực tâm linh.
Chúng ta có thể tưởng tượng rằng sự phát xuất ra sự sống có lẽ có bản chất đồng nhất khi nó mới được Thượng đế cho ra, ở mức độ vượt quá tầm quan niệm của con người. Lúc nó biểu lộ trước tiên trong môi trường kiến thức của chúng ta, nghĩa là lúc nó ngụ tại cõi trực giác và làm linh hoạt các chất thượng trí, nó không còn biểu lộ trong trạng thái của một linh hồn bao la; nó chia ra thành một số lớn linh hồn riêng biệt. Chúng ta hãy tưởng tượng một cái thang. Ở phần chót thang, ta thấy một sự phát xuất đồng đều; ở phần chót kia, đại hồn tách rời ra, bắt đầu ở giai đoạn con người, làm thành cả triệu linh hồn tương đối nhỏ của con người có cá tính khác nhau. Nếu chúng ta quan sát một trong những bậc giữa của chiếc thang ấy, chúng ta sẽ thấy một trạng thái trung gian; nghĩa là linh hồn của thế giới chia ra từng phần, nhưng chưa đạt được kích thước chung của những vi phần sẽ dành cho chúng trong tương lai.
Ðiều phân biệt người với động vật và thực vật là chỉ riêng con người mới là một linh hồn thật sự.
Ở con người, trong thế giới hữu hình, linh hồn này có thể biểu lộ xuyên qua một xác thân mà thôi; còn ở động vật và thực vật, hồn có thể đồng thời mang lấy nhiều thể khác nhau. Hơn nữa, khi con người rời bỏ xác thân, nó vẫn còn là một thực thể riêng biệt với các thực thể khác và trạng thái này thì vĩnh cữu, trường tồn. Trái lại, khi một con sư tử chết, hồn nó được trả lại cái khối chung mà từ đó nó đến và khối ấy tạo nhiều hồn cho nhiều con sư tử. Khối ấy chúng ta gọi là hồn khóm.
Thí dụ có một trăm xác thể thuộc loài sư tử nhập vào một hồn khóm. Dĩ nhiên là mỗi một thể tiếp nhận được một phần một trăm của hồn khóm và giữ phần đó suốt thời gian sống của nó. Con sư tử này sẽ hiện ra riêng biệt giữa đồng loại nó và cũng như người, nó được xem như một cá thể. Thật ra, cá tính nó không trường tồn. Sau khi bỏ xác, hồn nó trở về nhập vào hồn khóm. Hơn thế, khi nó tách ra khỏi hồn khóm một lần nữa, hồn nó lần này không giống y như hồn nó lần trước.
Một so sánh sẽ giúp ta dễ hiểu hơn điều nêu trên. Hãy tưởng tượng hồn khóm như nước chứa trong một vật chứa nào đó, như một cái thùng chẳng hạn, và một trăm xác thể của các con sư tử như một trăm cái ly. Mỗi cái ly nhúng vào thùng múc ra đầy nước. Nước này tượng trưng một hồn được tách ra. Nó giữ hình dáng cái ly chứa nó. Nó tạm rời khối nước đựng trong thùng và nước đựng trong các cái ly khác.
Thí dụ, bây giờ, người ta cho vào mỗi ly một chất màu hay chất thơm nào đó chẳng hạn, nhưng khác nhau. Người ta sẽ biểu thị phẩm chất đặc biệt đạt được bởi hồn riêng biệt của mỗi con sư tử trong mỗi khoảng thời gian sinh sống. Nếu sau đó người ta đổ nước của cái ly trở lại thùng chứa, người ta tượng trưng cái chết của con sư tử. Chúng ta để ý rằng các phần tử của chất lỏng ấy sẽ pha lẫn với phần nước còn lại trong thùng. Chất màu hay chất thơm của cái ly sẽ tan ra trong khối nước chung và khối nước này sẽ có một màu lợt hơn hay một mùi ít nồng hơn các phần khác. Phẩm chất đạt được nhờ kinh nghiệm của hồn một con sư tử cũng thế. Một khi trả về hồn khóm, chúng nó tràn ra hồn khóm với một mức độ bảo hòa ít hơn.
Cũng dễ quan niệm rằng nước người ta múc lại từ trong thùng nước lần sau không thật giống chất nước đã có ở đó từ trước. Nhưng nó còn giữ dấu vết màu và vị đặc biệt của mỗi thứ nước mà người ta đã đổ vào đó. Vì thế, phẩm tính đạt được do kinh nghiệm của một con sư tử trở thành tính chất chung cho tất cả các con sư tử sắp sinh ra từ một hồn khóm. Giá trị của các phẩm tính ấy yếu hơn phẩm tính của cá thể sư tử đã phát triển.
Ðiều này giải thích khá rõ sự di truyền của bản năng. Chúng ta sẽ hiểu rằng tại sao con vịt con do gà mái ấp lại thích nước và lội một cách tự nhiên; tại sao gà con vừa mới nở lại biết thu hình và trốn khi nó vừa thấy bóng chim ưng; tại sao một con chim ấp một cách nhân tạo và không bao giờ thấy cái ổ, lại tự biết làm ổ giống như truyền thống của loài nó.
Ở phía dưới của nấc thang động vật, người ta thấy nhiều vô kể, những xác thể thuộc về một hồn khóm. Khi người ta leo lên các bậc cao thì thấy số hồn thuộc về một hồn khóm càng trở nên hạn chế. Do đó, có những khác biệt giữa những cá nhân.
Các hồn khóm có thể được phân chia ra. Muốn dễ nhận thức, chúng ta hãy trở lại sự so sánh với cái thùng. Từ khi cái ly múc lần lượt nước đựng trong thùng và trả nước lại vào thùng, khối nước có màu càng ngày càng đậm. Giả thiết trong lúc đó, từ từ, có một màng thẳng đứng chia thể tích thùng ra làm hai phần. Giả thiết mỗi lần người ta múc một ly nước trong mỗi phần nửa thùng, người sẽ trả lại cho nó nguyên vẹn. Ðến một lúc, chất lỏng chứa trong một phần của thùng sẽ có khác biệt với nước của phần kia. Chừng đó chúng ta sẽ có hai thùng khác nhau. Ðó là một hiện tượng tương tự sự phân chia của hồn khóm. Nó chia làm hai phần như tế bào bởi một sự phân chia thật sự. Sự phân chia càng tăng, hồn khóm ngày càng nhỏ và càng nhiều. Ðến giới hạn cao nhất, xuất hiện con người, phân cách vĩnh viễn ra khỏi hồn khóm.
Mỗi đợt sóng sinh lực mang sinh khí lại cho một giới trọn vẹn. Các hồn khóm không nhất thiết phải chuyển kiếp vào một nhóm khác thuộc giới của nó từ cái sơ đẳng đến cái hoàn hảo. Tôi giả thiết đây là một hồn khóm thực vật đã cung cấp nhiều hồn cho nhiều cây lớn trong rừng. Ðến một mức độ nào đó của sự phát triển, hồn khóm đã được hoàn hảo để chuyển kiếp sang qua giới động vật. Nó bỏ qua một bên những thể thấp như loài sâu bọ và loài bò sát. Người ta có thể nói gần đúng là nó chuyển kiếp liền qua đời sống động vật, ở trình độ những thú có vú hạ cấp. Cũng một lý luận tương tự, người ta có thể chấp nhận rằng sâu bọ và loài bò sát từ trước thuộc hồn khóm thực vật, vì một lý do nào đó đã bỏ qua các thể thấp thực vật để chuyển kiếp ngay vào giới sâu bọ hay bò sát. Cũng như thế, hồn khóm động vật đến trình độ phát triển cao nhất trong giới động vật không nhất thiết phải cá nhân hóa thành người rừng hoang dại, nhưng mà cá thể hóa thành người có mức tiến cao hơn. Những linh hồn của người rừng hoang dại là do những hồn khóm đã bỏ giới động vật ở trình độ thấp.
Tổng số các hồn khóm có thể chia ra thành bảy loại lớn theo lệnh vị thừa hành của Thượng Ðế. Qua trung gian của vị ấy, sự sống được ban rải ra. Người ta có thể phân biệt dễ dàng các loại trong những giới lớn của thiên nhiên và trong những phần nhỏ của nó. Từng loạt không dứt của các loài, từ động vật, thực vật cho đến khoáng chất và những loài chót vô hình của những tinh hoa các chất, người ta có thể hợp thành bảy nhóm chiùnh hoàn toàn riêng biệt từ nhóm này đến nhóm kia, cho đến đỗi làn sóng sinh khí đã đi qua một trong những nhóm này sẽ không bao giờ chuyển hướng về nhóm nào khác.
Người ta chưa lập thành danh sách các động vật, thực vật và khoáng chất xét về phương diện này. Không thể chối cãi rằng sự sống một hồn của một khoáng chất không đem sinh khí cho hồn của một khoáng chất khác cùng một lúc, mặc dù nó có thay đổi trong môi trường của nó. Cũng xảy ra như thế đối với thực vật và động vật. Cuối cùng, khi sự sống ngẫu nhiên đạt tới trình độ nhân loại, nó tự cá nhân hóa theo một mẫu riêng biệt.
Phương pháp cá nhân hóa một hồn thú đã đến trình độ cao tột trong hồn khóm là không để nó trở về hồn khóm nữa. Nhưng chỉ có vài con thú mà trí não đến một trình độ phát triển cao mới đạt được kết quả. Một cách tổng quát, phải đưa con thú trực tiếp với người. Sự cá nhân hóa có thể xảy ra cho những con thú vật nhà, nhưng không phải chung cho các loài. Ðứng đầu mỗi nhóm trong bảy nhóm đã nói ở trên có một mẫu thú vật nhà. Ấy là con chó, con mèo, con voi, con khỉ v.v Các con khác có thể có tên trong bảy đường dẫn đến bảy mẫu thú. Thí dụ chồn, chó sói thuộc về loài chó, còn sư tử, cọp, beo thuộc loài mèo. Vì thế, hồn khóm đem lại sự hoạt động cho một trăm con sư tử mà chúng ta đã kể làm thí dụ, có thể đến một trình cao của sự tiến hóa, nó có thể tự chia ra làm năm hồn khóm, mỗi hồn khóm này làm sinh động năm con mèo.
Làn sóng sinh lực duy trì rất lâu trong mỗi giới. Cho đến ngày nay, chúng ta chỉ đạt tới hơn phân nửa của một chu kỳ như thế. Do đó, điều kiện hiện thời không thuận tiện cho việc cá nhân hóa, chỉ có thể đạt được vào cuối thời kỳ tiến hóa. Tuy nhiên, người ta cũng thấy có rất hiếm thú vật nhà được cá nhân hóa nhờ gần gũi mật thiết với con người nên đạt được sự phát triển trên mức trung bình. Con thú nếu được đối xử một cách dịu dàng, tỏ lộ với chủ nó một sự trìu mến chân thành , và chắc chắn sự cố gắng của nó để hiểu chủ nó, đoán những ý muốn của chủ, sẽ phát triển trí thông minh của nó. Thêm vào đó, những cảm xúc và tư tưởng của con người luôn luôn ảnh hưởng đến con thú có khuynh hướng nâng cao khả năng cảm xúc và khả năng trí tuệ của nó. Dưới ảnh hưởng của những trường hợp thuận lợi, sự phát triển đó có thể nâng cao đến mức độ hoàn hảo làm cho nó bỏ hẳn khóm của nó; vì lúc đó một phần hồn khóm của nó có thể đáp ứng với sự phát xuất luồng sinh lực từ Ngôi Một của Thượng Ðế.
Sự phát xuất cuối cùng ấy không giống các lần trước. Nó không phải như một con suối mạnh có thể cùng ảnh hưởng một lượt hàng triệu sinh vật. Nó chỉ ảnh hưởng đến mỗi người có khả năng tiếp nhận được nó. Hiện giờ nó ở cõi trực giác và không bao giờ nó xuống khỏi ranh giới ấy. Hồn con thú phải vượt lên để đón nó. Ngay lúc ấy, luồng sinh lực thứ ba cũng xuống gặp hồn thú, hình thành ở cõi thượng trí một chơn nhơn, một cá thể trường cữu. Chúng ta nên để ý rằng, dù sao cá thể ấy cũng có một hạn cuộc cứu cánh : đó là sự duy nhất thiêng liêng đã đưa nó đến đây và là nơi nó trở về. Mục đích cuối cùng của chơn nhơn là như thế. Trong sự cấu tạo chơn nhơn, phần hồn khóm từ trước tới nay chỉ đóng vai trò một hồn thú, nay được linh hoạt như một hình thể bởi điểm linh quang của Ðức Thượng Ðế chiếu vào nó. Ðiểm linh quang này có thể xem như cứ bay phất phơ trên hồn khóm và trong cõi chơn thần suốt thời gian tiến hóa trước. Chỉ khi nào phần tương ứng của nó bên dưới phát triển nhiều và đầy đủ, sự liên kết của điểm linh quang với phần hồn khóm tiến hóa đó mới thực hiện được để thành chơn nhơn.
Sự đứt rời khỏi phần còn lại của hồn khóm và sự thành lập một chơn nhơn cá biệt là dấu hiệu rõ ràng nhất giữa động vật cao đẳng với người hạ đẳng.
(1) Bà Annie Besant, Hội trưởng Hội Thông Thiên Học có chọn một số từ để thay thế cho những từ đã sử dụng từ trước cũng như trong quyển 2 của Huyền bí bọc trong thiên nhiên. Sau đây là danh sách những từ xưa và nay
Tên cũ
Tên mới
Tiếng Việt
Nơi hoạt động của
Plan Adi
Monde Divine
Tối Ðại Niết Bàn
Các Vị Thượng Ðế
Anupadaka
Monadique
Ðại Niết Bàn
Các Vị Thượng Ðế
Atmique ou
Nirvanique
Spirituel
Niết Bàn
Người được Ðiểm đạo
Bouddhique
de l'Intuition
Bồ Ðề
Người được Ðiểm đạo
Mental
Mental
Thượng Giới
Loài người, cầm thú thảo mộc, và kim thạch
de l'Emotion
Astral
Trung Giới
Loài người, cầm thú thảo mộc, và kim thạch
Physique
Physique
Hồng Trần
Loài người, cầm thú thảo mộc, và kim thạch
mục lục chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
CHƯƠNG NĂM
SỰ CẤU TẠO CON NGƯỜI
Con người, trong bản thể, là một tia sáng của ngọn lửa thiêng liêng (một điểm linh quang) thuộc cõi Chơn thần. Từ đây ta gọi nó là Chơn thần. Vì mục đích tiến hóa của con người, Chơn thần tự biểu lộ trong những cõi thấp. Khi nó đổi giai đoạn và vào cõi tâm linh (cõi Niết Bàn), nó tự phô bày như một đơn vị Tâm linh có ba trạng thái khác nhau (Thượng Ðế cũng có ba Ngôi trong những cõi tối cao). Trạng thái thứ nhất mà chúng ta gọi là Anh linh trong con người ngụ luôn luôn tại cõi Ðại Niết Bàn. Trong cõi Trực giác (Bồ Ðề) biểu lộ trạng thái thứ nhì : đó là Trực giác nơi con người. Còn trạng thái thứ ba, chúng tôi gọi là .Trí thông minh trong con người, nó phát lộ nơi cõi thượng trí. Xét trong toàn bộ, ba trạng thái hợp thành Chơn nhơn; đó là hồn của một phần hồn khóm đã tiến lên thành linh hồn người. Như thế, con người vừa là Chơn thần ở cõi chơn thần (cõi Ðại Niết Bàn), vừa là Chơn nhơn ở cõi thượng trí và biểu lộ ba trạng thái của nó( Anh linh, Trực giác, Trí thông minh ) nhờ một khí thể làm bằng chất thượng trí mà chúng ta gọi là Nhân thể (thể nhân quả).
Chơn nhơn chỉ là con người trong giai đoạn tiến hóa của mình. Thế thì quan niệm thông thường và không khoa học về con người chỉ gần đúng mà thôi. Chơn nhơn không bị một thay đổi nào chi phối trừ sự phát triển của nó từ lúc thoát kiếp thú khi cá thể hóa đến lúc vượt qua khỏi nhân loại để thành tiên thánh. Sự sanh và sự tử không ảnh hưởng đến nó chút nào vì cái mà chúng ta gọi là sự sống ở cõi trần chỉ có một ngày của nó mà thôi. Xác thân được thấy, sanh ra rồi chết chỉ là một lớp áo mà nó mặc vào vì nhu cầu của một giai đoạn tiến hóa.
Vã lại, xác thân này không phải là thể duy nhất của nó. Trước khi có xác thân để hoạt động tại cõi trần, nó phải tiếp xúc, liên lạc với cõi này qua trung gian của cõi hạ trí và cõi vía (cõi trung giới). Nếu nó muốn nhập thế xuống thấp, nó dùng chất khí cõi hạ trí bao phủ nó để tạo thành thể trí. Nhờ thể hạ trí này nó mới phát ra những tư tưởng cụ thể. Chơn nhơn phát ra những tư tưởng trừu tượng chỉ ở cõi thượng trí mà thôi.
Sau đó, chơn nhơn rút chất khí cõi tình cảm tức cõi trung giới để tạo thể vía. Nhờ thể này nó mới biểu lộ các đam mê, tình cảm, cùng những ý tưởng nhuộm màu ích kỷ và cảm xúc cá nhân. Nhưng trong trường hợp này, thể vía hay hoạt động song song với các phần thấp của thể trí. Chỉ sau khi mặc hai áo trí và vía, chơn nhơn mới có thể tiếp xúc với thể xác thơ ấu để xuất hiện tại cõi trần mà chúng ta thấy, biết. Từ đó, trong thời gian dài hoặc ngắn mà người ta gọi là kiếp sống, nó thâu thập những đức tính do các kinh nghiệm đã trải qua. Ðến cuối đời sống của xác thân, khi xác thân đã mòn mỏi, chơn nhơn lộn ngược quá trình từ cao đến thấp đã đưa nó xuống trần, bằng cách lột bỏ từ cái một, những thể tạm thời như thể vía và thể hạ trí. Cái mà nó bỏ trước hết là xác thân hồng trần. Sự sống của nó tập trung vào thể vía hay thể tình cảm và sống bằng thể ấy ở cõi trung giới.
Thời gian nó ngụ trong thể này tùy thuộc vào tổng số các đam mê và cảm xúc nó đã phát triển trong đời sống thế tục. Nếu chúng nó mãnh liệt, thể vía có sinh khí mạnh mẽ sẽ bị duy trì lâu. Trái lại, nếu chúng nó yếu, thể vía nhận ít sinh khí, chơn nhơn bỏ nó dễ dàng và chỉ giữ lại thể trí. Sức mạnh của thể trí tùy theo những tư tưởng quen thuộc của chơn nhơn. Thời gian chơn nhơn ngụ tại cõi trí thường rất dài. Sau giai đoạn này, thể trí đến phiên nó bị tan rã. Lúc bây giờ, chơn nhơn hoàn toàn ngụ tại cõi chính của nó tức là cõi thượng giới.
Tại cõi này, chơn nhơn chưa hoàn toàn ý thức được hoàn cảnh xung quanh, giống như ở cõi trần mắt ta không ý thức được tia cực tím, vì sự rung động của tia này mau lẹ quá. Cũng giống như thế, tại cõi thượng trí, các rung động của chất khí rất mau, nên không kích thích được chơn nhơn. Sau một thời gian ngơi nghỉ tại cõi thượng trí, nó thấy cần những rung động mà nó có thể thâu nhận được để tưởng rằng mình có sống. Nên nó lập lại quá trình đi xuống cõi thấp, trong vật chất dày đặc hơn và khoác một thể hạ trí, rồi thể vía và cuối cùng là xác thân. Các thể mới này khác biệt với các thể nó có khi trước, vì các thể ấy, từ cái một, đã tan rã hết rồi. Mặc dù sống ở cõi trần trong xác thân, nó phải nhờ thể trí để nhớ lại. Nếu chúng ta để ý rằng thể trí mới tạo và nó được tạo ra để cho chơn nhơn sử dụng trong kiếp này thì chúng ta hiểu rằng khó cho nó nhớ lại những gì đã xảy ra trong kiếp trước mà nó không có tham dự. Xét về bản thể, chơn nhơn nhớ tất cả các đời sống của nó đang ngụ tại chính cõi thượng giới của nó và nhiều khi, một kỷ niệm nhỏ của các đời sống ấy hoặc một ảnh hưởng của chúng cũng có thể thấm đến các thể thấp của nó. Cho nên, một cách tổng quát, mặc dù các thể thấp của chơn nhơn không giữ được ký ức nào của kiếp trước, nhưng ít nhất chúng nó cũng phát lộ các đức tính do kinh nghiệm của các kiếp trước mang lại. Vậy mỗi người trong chúng ta đúng là người của các kiếp trước. Nếu trong các kiếp đó, y đã thụ đắc đức tính tốt, thì kiếp này y cũng có các đức tính ấy. Nếu y chểnh mảng không làm việc thiện, và do đó, y tỏ ra yếu hèn dễ bị cám dỗ và không đủ sức chống lại chúng thì đời sống hiện tại của y bị ảnh hưởng xấu, cứ luôn có khuynh hướng như vậy. Nói tóm lại, những tính tốt hay xấu mà con người có lúc tái sinh là những tính tốt hay xấu mà nó đạt được ở các kiếp trước.
Toàn thể quá trình nhập thế xuống các cõi thấp là để phát triển chơn nhơn. Thật vậy, chơn nhơn lần lượt mang hết thể này đến thể khác, nhiều lần như vậy là vì nhờ đó nó có thể đáp ứng những rung động khác nhau. Ðiều ấy giúp cho các khả năng tiềm tàng của nó được khởi động. Mặc dù con người từ cõi trên xuống, nhưng cũng nhờ nhập vào các cõi thấp như vậy, y mới có thể đạt được sự hiểu biết trọn vẹn về các cõi cao. Khả năng tiếp nhận và đáp ứng tất cả rung động của một cõi nào đó đều xác định tình trạng tâm thức trong toàn cõi ấy. Vì lẽ đó, thông thường, con người chưa ý thức về mình ở mọi cõi, dù cho ở cõi trần con người còn tưởng lầm là đã biết hết. Nhưng vì con người có thể sử dụng quyền năng tri giác của mình ở các cõi, đồng thời y có thể phát triển tâm thức nên y quan sát được các dữ kiện mà tôi trình bày ở đây.
Thượng trí hay nhân thể là thể trường cửu ở cõi thượng thiên (cõi thượng trí) . Vật liệu của nó gồm các chất của cảnh thứ nhất, cảnh thứ nhì và cảnh thứ ba từ trên tính xuống. (cảnh thứ tư, thứ năm, thứ sáu và thứ bảy thuộc hạ trí). Trong người thường, nhân thể không hoạt động đầy đủ, vì trong trường hợp này của y chỉ có chất khí của cảnh thứ ba được linh hoạt mà thôi. Lần lần trên đường tiến hóa, khi chơn nhơn phát triển các đức tính tiềm tàng, những chất ở các cảnh trên mới được linh hoạt. Nhưng chơn nhơn chỉ đạt mức toàn thiện khi con người đắc quả vị Chơn tiên thôi. Người nào có được huệ nhãn của chơn nhơn mới thấy được các chất ở cảnh cao.
Khó mô tả đầy đủ một nhân thể hay thể thượng trí vì các giác quan của nó không giống các giác quan thường của chúng ta, bởi chúng ở trình độ cao hơn, tinh vi hơn nhiều. Song, một người có huệ nhãn, khi y có thể đem ký ức của các cảnh cao vào não bộ, y sẽ thấy nhân thể hiện ra có hình bầu dục bao phủ thể xác tủa ra khỏi thể này chừng 45 phân. Ở người cổ lổ chưa tiến hóa, nó giống như một bọc không khí trống rỗng. Thật ra nó chứa toàn các chất cảnh thượng trí, nhưng vì các chất ấy chưa được linh hoạt nên nó có vẻ trong suốt và không màu sắc. Càng tiến hóa, lần lần thượng trí được kích thích, khởi dậy nhờ các rung động từ những thể thấp đưa lên. Nhưng sự biến đổi rất chậm vì các hoạt động của con người trên bước đầu tiến hóa không đủ sức làm kích thích các chất ở cảnh cao. Ðến khi con người tiến đến trình độ có thể tạo ra những tư tưởng trừu tượng và những tình cảm vị tha thì chất của thượng trí mới được kích thích nhiều.
Từ đó, thay vì là một bọc trống rỗng, thượng trí lần lần biến đổi thành một bầu chứa đầy chất có màu sắc thanh nhã và tế nhị. Nó trở thành một thể kỳ diệu có một vẻ đẹp không thể quan niệm được. Kinh nghiệm chứng minh rằng mỗi màu sắc có một ý nghĩa khác nhau. Cho nên màu hường lợt là dấu hiệu của tình thương vô vị lợi; màu vàng chỉ một trí lực rất phát triển; lòng thiện cảm được mô tả bởi màu xanh lá cây; màu xanh da trời chỉ lòng sùng đạo; còn màu xanh lam nhuộm hường biểu lộ một tâm linh siêu việt. Các màu sắc vừa kể cũng áp dụng cho những thể thô kệch hơn. Nhưng chúng ta so sánh màu sắc của cõi trần với màu sắc của thượng trí, ta sẽ thấy màu sắc hồng trần kém tế nhị, kém sống động hơn nhiều.
Ở cõi trần, con người thường đem vào các thể thấp của y những tật xấu không phù hợp với chơn nhơn, như kiêu căng, nóng giận, đam mê nhục dục. Các tật xấu cũng như các tính tốt đều biến thành rung động; những rung động thô kệch, xấu xa không kích thích được thượng trí vì nó được cấu tạo bằng các chất của ba cảnh cao của cõi trí. Phải để ý rằng mỗi phần của thể vía tác động một cách mạnh mẽ trên phần tương ứng của thể trí và chỉ trên phần đó mà thôi. Kết quả là chỉ có ba phần cao của thể vía mới có khả năng kích động đến thượng trí. Những rung động của chúng chỉ tương ứng với những đức tính tốt. Như vậy con người chỉ mang vào chơn nhơn y những đức tính tốt mà thôi. Còn những tật xấu là tạm bợ, nhất thời, khi con người tiến cao y sẽ bỏ lại tất cả tật xấu vì y đã lột bỏ các chất đã giúp các tật xấu biểu lộ.
Cái khác biệt giữa thượng trí của người chưa tiến hóa với thượng trí của bậc thánh là cái thì trống rỗng không màu sắc, cái kia thì lấp lánh, sáng chói. Khi con người tiếp tục phát triển để trở nên hoàn hảo, vượt qua trạng thái thánh thiện, có quyền năng tâm linh, thì thượng trí của y cũng phát triển về kích thước vì y có dịp biểu lộ và ban rải ra tứ phương những tia sáng mạnh mẽ, sống động. Ở bậc chơn tiên, thượng trí có những kích thước rất to lớn.
Thể hạ trí được cấu tạo bằng các chất của bốn cảnh thấp của cõi trí (ba cảnh trên là của thượng trí). Các tư tưởng cụ thể là sản phẩm của hạ trí. Ở thể hạ trí này ta cũng gặp những màu sắc của thượng trí, nhưng ít tươi sáng hơn mà còn gồm thêm một hay màu nữa. Ðó là màu vàng cam chỉ tánh kiêu căng và màu đỏ thắm sáng chỉ tánh hay nóng giận. Chúng ta còn có khi gặp màu nâu lợt của tánh hà tiện, màu nâu xám của tánh ích kỷ và màu xám xanh lá cây của tánh hay lừa đảo, bần tiện. Có khi nhiều màu pha lẫn nhau, thí dụ tình thương, trí năng, lòng sùng đạo có thể bị nhuộm tánh ích kỷ; những màu riêng biệt của các tánh tốt ấy pha trộn với màu nâu xám của tánh ích kỷ thành màu có vẻ bẩn như bùn. Các phần cấu tạo thể trí di chuyển với một tốc độ kinh khủng; đồng thời tổ chức của thể trí cũng ít ổn định.
Kích thước và hình dạng của thể trí được qui định bởi thể thượng trí. Thể trí mang những đường vạch mà các đường ấy chia thể trí thành từng đoạn không đều tương ứng với những vùng riêng biệt trong não bộ vật chất. Thành thử mỗi loại tư tưởng được phát động nhờ phần não dành riêng cho nó. Ở phần lớn những người thường, đến ngày nay, thể trí chưa được phát triển nên các vùng của não bộ chưa được linh hoạt. Vì lẽ đó, một tư tưởng thuộc về một trong những vùng của não bộ bắt buộc phải khai thông một lối đi đột ngột xuyên qua một con kinh không thuộc về nó. Ðó là nguyên do của một tư tưởng vụng về và khó hiểu. Vì thế mà người thì có khiếu về toán học, người thì không làm rành một bài toán cộng. Cũng vì đó mà có nhiều người thông hiểu và phán đoán âm nhạc một cách bẩm sinh, nhưng cũng có nhiều người không phân biệt được hai điệu nhạc.
Tất cả các chất của thể trí phải được lưu chuyển tự do. Thường thường không được như vậy. Thỉnh thoảng người ta để tư tưởng cố định, tập trung, đóng cứng trên một vấn đề riêng biệt. Sự lưu thông bế tắc, ứ động; trên thể trí tạo ra một cục bướu. Ðó là một thành kiến đã xuất hiện. Con người không thể suy tư đúng đắn hay phán đoán rõ ràng trước khi cục bướu tiêu tan và trước khi sự luân chuyển tự do được tái lập. Sự ứ đọng cản không cho các làn sóng bên trong cũng như bên ngoài được tự do lưu chuyển.
Khi con người sử dụng một phần của thể trí, thì phần này rung động mau lẹ, nở lớn và phát triển kích thước. Nếu một tư tưởng phát ra, được kéo dài trên một đề tài đặc biệt, sự tăng trưởng của thể trí được thêm lên. Như vậy, mỗi người đều có thể làm tăng trưởng thể trí mình theo hướng tốt hoặc hướng xấu.
Trong thể trí, những tư tưởng lành tạo nên những rung động các chất tế nhị. Các chất này vì trọng lượng nhẹ nên tựu lên phần trên của quả cầu hình bầu dục như quả trứng. Những tư tưởng xấu đáng trách như ích kỷ hay hà tiện tương ứng với những chất nặng trược nên có khuynh hướng chìm xuống phần dưới. Kết quả của các sự quan sát ở người thường, thấy cho ra những tư tưởng ích kỷ đủ loại, nên y làm phát triển phần dưới của thể trí thành ra phần dưới này nở lớn. Trái lại, người nào biết kềm chế những tư tưởng thấp hèn và chỉ chú trọng đến các tình cảm cao thượng có chiều hướng làm nới rộng phần trên của thể trí thì hình cái trứng hiện ra đầu trên lớn. Nhờ sự quan sát các màu sắc và các đường vạch trên thể trí của một người, người có thần nhãn biết cả tính tình và mức tiến hóa của người ấy trong kiếp sống này. Cũng do sự xem xét các nét trên thượng trí mà người có huệ nhãn biết những tiến bộ của chơn nhơn đã đạt từ lúc nó được cấu tạo, nghĩa là từ khi nó thoát kiếp thú.
Khi một người đưa tư tưởng của y trên một vật cụ thể, một quyển sách, một cái nhà, một cảnh trí, thì ở phần trên của thể trí y hình thành một ảnh nhỏ của vật đó, ngang tầm mắt y. Thời gian xuất hiện của ảnh ấy tùy thuộc cường độ và sự rõ nét của tư tưởng. Vã lại, ảnh ấy có thật vì một người khác cũng thấy y như vậy nếu y mở được tầm thấy biết của thể trí y. Cũng thế, khi ta nghĩ đến một người nào, ta cũng tạo ra trong thể trí mình một ảnh nhỏ của người ấy. Nếu tư tưởng chúng ta chỉ là suy nghĩ suông, không đượm tình thương hay ghét, hoặc ý muốn trông thấy người ấy thì người ấy không bị kích thích gì cả.
Trái lại, nếu có một tình cảm chen vào, như tình thương chẳng hạn, thì ngoài việc tạo hình ảnh còn có một hiện tượng khác. Tư tưởng yêu thương tự tạo nên một hình ảnh xác định dựa trên chất của thể trí. Hơn nữa, vì có cảm xúc mà nó chứa đựng, nó kéo thêm chất của thể vía. Như vậy, một hình dạng vừa tình cảm vừa tư tưởng thoát ra và bay trong không gian theo hướng của vật hay người được thương tưởng. Khoảng cách không gian giữa người suy tư và vật được suy tư không trở ngại gì cả, miễn là tư tưởng mạnh. Nhưng một cách tổng quát, tư tưởng yếu chỉ có hiệu quả trong một khoảng cách hạn chế. Ở mọi trường hợp, khi tư tưởng gặp người nó kiếm, nó trút vào thể trí và thể vía của người ấy cường độ của rung động. Nói cách khác, là có sự chuyển giao một số lượng sức mạnh và số lượng chất từ người phát ra đến người nhận. Thế thì, nếu chúng ta trở lại tư tưởng thương yêu, chúng ta sẽ thấy ở người nhận sự khởi dậy tình thương hỗ tương, đồng thời với một tăng trưởng nhẹ sự trìu mến nơi y. Một tư tưởng như thế cũng tăng cường tính trìu mến ở người phát ra nữa, rốt cuộc cả hai người đều cảm thấy hiệu quả tốt lành của tư tưởng.
Mỗi tư tưởng đều có một hình dạng. Nếu nó được gởi đến người nào, nó sẽ di chuyển đến hướng ấy. Nếu đó là tư tưởng vị kỷ thì nó lẩn quẩn xung quanh người đã phát ra nó. Nếu nó không thuộc loại nào cả thì nó bay lang thang một thời gian rồi từ từ tan rã. Mỗi người trong chúng ta để lại phía sau lưng y, bất kỳ lúc y ở đâu, một loạt hình tư tưởng. Ở ngoài đường có vô số hình tư tưởng như vậy trong không trung. Chúng ta đang đi lẫn lộn trong chúng. Thỉnh thoảng, khi con người để trí trống rỗng, những tư tưởng ngoại lai bủa vây y, nhưng không kích động y được bao nhiêu. Ðôi khi, một tư tưởng đột hiện và làm cho y để ý. Y chiếm lấy tư tưởng ấy, coi như của chính y phát ra, làm cho nó mạnh thêm bằng chính sức mạnh của y, rồi ném nó trở lại ra ngoài làm cho người khác cũng bị kích động như y. Như vậy, con người không gánh trách nhiệm về tư tưởng đi ngang qua trí y, vì nó không phải của y. Nhưng nếu y chiếm lấy nó, làm cho nó mạnh lên rồi tuôn nó ra ngoài thì y gánh chịu trách nhiệm.
Những tư tưởng ích kỷ lảng vảng quanh người phát ra. Thể trí của phần đông con người bị nó bao phủ như một cái vỏ. Cái vỏ ấy làm mờ đi sự thấy biết của thể trí và làm nảy sinh những thành kiến.
Mỗi hình tư tưởng là một thực thể tạm thời. Người ta có thể so sánh nó như một bình điện đầy ắp chỉ chờ lúc tuôn điện ra. Nó tạo trong thể trí nào nó chạm đến một số làn rung động bằng với số rung động của nó và làm nảy sinh nơi đó một tư tưởng giống y nó. Thế nhưng, nếu thể trí này đang rung động theo một nhịp độ mau, nó không nhập vào được, nó bay lượn xung quanh, đợi lúc thuận tiện mới nhập vào. Nó trút hết năng lực vào đó rồi tan biến mau lẹ.
Một tư tưởng cá nhân vị kỷ, hoạt động y như trên đối với người phát ra nó và cũng trút sức lực vào trí y khi thuận tiện. Nếu đó là một tư tưởng xấu, không trong sạch, y liền cho rằng đó là một ám ảnh của ma quỉ cám dỗ; chớ thật ra là chính y tự cám dỗ y. Thông thường, mỗi tư tưởng đều tạo ra một hình thể, gọi là hình tư tưởng. Nhưng trong vài hoàn cảnh, sự lập đi lập lại của một tư tưởng, thì tư tưởng ở những lần sau không tạo hình mà chỉ hợp vào hình đã lập trước để trở thành một sức mạnh. Vì vậy, sự suy tư hay tham thiền lâu dài về một đề tài sẽ tạo nên một hình tư tưởng mạnh kinh khủng. Nếu nó là một tư tưởng xấu, nó sẽ gây biết bao nhiêu tai hại trong nhiều năm. Nó sẽ có bề ngoài và những quyền năng của một thực thể sống động.
Tất cả những tư tưởng vừa bàn đến đều là những tư tưởng nảy sinh trong trí không có ý định trước. Có những tư tưởng được cấu tạo theo ý định trước với mục đích giúp ích người khác. Ðó là những tư tưởng đặc biệt của những người muốn phụng sự nhân loại. Những tư tưởng đã mạnh lại được điều khiển một cách sáng suốt thông minh giúp ích rất nhiều cho người nhận chúng nó. Chúng nó là thần hộ mạng; chúng nó bảo vệ người nhận chúng chống các ô nhiễm, chống tính nóng giận và lòng sợ sệt.
Sự quan sát các hình thể và màu sắc của tư tưởng là một ngành lý thú của sự nghiên cứu học hỏi này. Các màu sắc chỉ rõ tính chất của tư tưởng và phù hợp tuyệt đối với những màu mà chúng tôi mô tả ở các thể. Hình dạng thì thay đổi thật nhiều; mỗi hình dạng thuộc một loại xác định của tư tưởng.
Ngoài những hình dạng, mỗi tư tưởng đều có tính cách xác định, như tư tưởng về tình thương hay hận thù, tư tưởng sùng đạo hay đa nghi, tư tưởng nóng giận hay sợ hải, tư tưởng kiêu căng hay ghen ghét, đều tạo ra những rung động. Chỉ xem màu sắc của nó ta cũng biết nó được phát ra từ phần nào của thể trí. Các tư tưởng phát ra đều liên lạc với chất khí xung quanh thể trí giống như những làn sóng âm thanh và túa ra tứ phía. Trên đường túa ra, khi gặp một thể vía thụ động hay ở vào tình trạng tiếp nhận đồng nhịp thì các rung động đó liền liên lạc một phần với thể trí ấy. Các rung động không thể chuyển đạt một tư tưởng xác định và đầy đủ như hình tư tưởng đã làm. Chúng nó chỉ gắng sức làm nảy sinh một tư tưởng đồng tính với tư tưởng đã tạo ra chúng . Cho nên một tư tưởng sùng đạo chỉ thúc đẩy lòng sùng đạo tổng quát mà thôi. Nhưng đối tượng của lòng sùng đạo không nhất thiết phải giống nhau trong mọi trường hợp. Nó có thể thay đổi tùy từng người mà thể trí nhận được sự rung động ấy. Trái lại, hình tư tưởng chỉ kích thích một người mà thôi. Nó chuyển đến y, nếu y nhạy cảm, chẳng những lòng sùng đạo mơ hồ mà luôn cả hình ảnh của đối tượng được tôn sùng.
Phần trên của thể trí nơi người thường hoàn toàn chưa được sử dụng. Trái lại, ở bậc trí thức cao của nhân loại, chính nó sản xuất những tư tưởng thanh sạch, tốt lành và mạnh mẽ. Như vậy, mỗi thành viên của hàng trí thức cao là một sức mạnh thánh thiện của nhân loại. Vì các rung động của y phát ra có khuynh hướng khởi dậy phần trên của thể trí ở người thụ cảm và có thể đáp lại. Chúng nó tiết lộ cho người ấy nhiều lãnh vực tư tưởng mới.
Ðó không phải hoàn toàn là tư tưởng đã nhận mà chỉ có cùng một tính chất. Như vậy, những tư tưởng do một bộ óc tập trung về Thông Thiên Học phát ra không gợi lên những tư tưởng Thông Thiên Học ở người xung quanh, nhưng chúng gợi ra nơi họ những hoài bão tự do và thanh cao. Ðó là sự khác biệt giữa các hình tư tưởng và những làn sóng; bởi vì phát sinh trong hoàn cảnh giống nhau, nó chỉ định nơi người sẵn sàng tiếp nhận những ý tưởng rõ rệt và chính xác về Thông Thiên Học.
Những màu sắc của thể vía cũng có cùng một ý nghĩa với màu sắc ở thể trí và nhân thể (thượng trí). Nhưng chúng ở bát độ thấp hơn và gần giống màu sắc mà ta thấy ở cõi vật chất hữu hình. Thể vía là trụ sở của đam mê và cảm xúc. Vì vậy, nó có màu sắc phụ giúp con người biểu lộ những tình cảm ít tế nhị hơn. Thí dụ: một màu nâu đỏ lợt diễn tả sự ưa thích nhục dục; những vầng mây đen chỉ sự xảo quyệt và lòng thù hận; màu xám kỳ dị và xanh mét nói lên sự sợ hãi; màu xám sậm hơn xếp thành những hình tròn nặng nề chung quanh hình trứng mô tả trạng thái suy kém thể chất hoặc tinh thần. Tính hay nóng giận tự biểu lộ bằng một số dấu đỏ đậm mà mỗi dấu tương ứng với một cơn giận dữ. Sự ganh tị tự biểu lộ bằng màu nâu xanh lá cây có đượm nhiều dấu đỏ đậm như vừa kể trên. Thể vía cũng giống về kích thước và hình dạng với các thể khác. Trong nhiều trường hợp, đường bao quanh nó được xác định rõ ràng. Nhưng ở người hoang dã, đường bao quanh đó không đều và giống như một lùm mây có màu sắc khó chịu.
Khi thể vía ở tình trạng ổn định tương đối (sự nghỉ ngơi ổn định tuyệt đối không bao giờ có ở đó), những màu sắc người ta thấy ở nó chỉ rõ những cảm xúc thuộc thói quen của người chủ nó. Khi một cảm xúc mạnh gây ra từ bên ngoài được cảm thấy nơi thể vía thì cường độ của các rung động chế ngự một lúc thể vía. Nếu là lòng sùng đạo chẳng hạn, thì toàn thể thể vía nhuộm màu xanh da trời. Suốt thời gian cảm xúc mạnh đó còn tồn tại, thì xuyên qua màu da trời, người ta có thể thoáng thấy các màu sắc bình thường của nó. Muốn thấy các màu sắc bình thường tái lập lại, cường độ của cảm xúc phải dịu bớt. Sự co giật của cảm xúc, nếu tôi có thể nói như thế, sẽ có kết quả là sự tăng trưởng rõ rệt phần xanh dương của thể vía. Chung qui, nơi người có cảm xúc sùng đạo ấy thường xuyên thì thể vía của y có diện tích màu xanh dương rộng lớn.
Lòng sùng đạo thường đi đôi với lòng thành kính. Mặc dù các tư tưởng đó được cấu tạo ở cõi trí, chúng nó cũng nhuộm nhiều chất cõi vía. Vì thế, tác động của chúng được trông thấy ở hai cõi. Ở hai cõi cũng có các rung động của chúng. Thế nên người thành kính là một trung tâm sùng đạo có thể thu hút người xung quanh chia xẻ cả tư tưởng và tình cảm của y. Các nhận xét trên cũng đúng cho tất cả mọi trường hợp, trong tình thương, giận ghét hay một đam mê nào khác.
Nên để ý rằng thể trí bị kích thích một cách yếu ớt bởi thể vía. Tuy nhiên, thể vía này cũng cản bước hoạt động của thể trí tiến đến não bộ. Không phải vì thể trí bị động chạm, mà vì thể vía làm trung gian giữa thể trí và xác thân lại bị rung động quá tầm, nên nó không thể chuyển đạt những tốc độ rung động không phù hợp với nó.
Các màu sắc thường xuyên của thể vía tác động trên thể trí. Chúng nó tự lập lại trên thể này với những sắc thái tương ứng nhưng trên bát độ cao hơn, y như một âm thanh tự lập lại trên bát độ cao. Thể trí tới phiên nó lại tác động trên nhân thể (thượng trí). Nhờ vậy, những tính tốt từ các thể thấp đưa lên đều trú ngụ vĩnh viễn ở thượng trí. Còn về các tật xấu thì không giống như vậy, vì các rung động của nó không truyền đạt được vào chất khí cao của thượng trí.
Từ trước đến đây, tôi đã mô tả các thể làm vật chuyển vận các biểu lộ của chơn nhơn ở các cõi riêng biệt. Các thể ấy chơn nhơn tự tạo, tự cung cấp cho mình. Còn ở cõi trần, thể xác được cung cấp cho nó bởi định luật thiên nhiên mà tôi sẽ trình bày sau này. Nếu phải kể thể xác như một biểu hiện của chơn nhơn, thì nó không phải là một biểu hiện hoàn toàn.
Cái mà chúng ta thấy bằng mắt chỉ là một phần của xác thân. Ðó là phần cấu tạo bởi các tiểu phần hay các cảnh đặc và lỏng của vật chất hữu hình.. Thể xác còn chứa chất của bảy tiểu phần tất cả. Mỗi chất của bảy cảnh ấy đều có vai trò và sự ích lợi trong đời sống của thể xác.
Phần kia thì vô hình, mắt thường không thấy được. Chúng tôi gọi nó là cái phách hay xác thân thứ hai. Ta gọi là thứ hai vì phần này có hình dạng và kích thước giống y như phần vật chất ta thấy được. Nó được cấu tạo bởi các chất dĩ thái : chất này tinh vi hơn vật chất hữu hình, những rung động của nó truyền ánh sáng vào võng mạc của mắt ta. (Chúng ta đừng lầm chất dĩ thái này với dĩ thái tinh vi hơn của không gian mà ta gọi là chất hư không). Phần vô hình này của thể xác rất có ích cho chúng ta. Một mặt, nó làm trung gian chuyển đến thể xác hữu hình các sinh lực thiên nhiên để nuôi thể xác, mặt khác, nó chuyển đến thể xác các rung động của thể vía và thể trí. Không có nó, chơn nhơn không thể sử dụng các tế bào của bộ óc.
Trong đời sống, thể xác phải chịu nhiều thay đổi liên tục. Người ta phải cung cấp cho nó lương thực để tiêu hóa, không khí để nó thở và sinh lực để nó hấp thụ. Do thực chất của nó, sinh lực là một sức mạnh. Khi sinh lực được bao phủ bằng chất khí của cõi nào thì nó hoạt động ở cõi ấy. Bây giờ, chúng ta chỉ chú trọng đến sức mạnh của sinh lực ở tiểu phần cao nhất của cõi trần. Giống như máu chảy trong các mạch, sinh lực lưu thông theo các dây thần kinh. Một bất thường nhỏ mọn nào về hấp thụ hay lưu thông sinh lực cũng gây ra ở các phần tế nhị của cơ thể những tai biến giống như các tai biến xảy ra khi máu lưu thông không bình thường.
Sinh lực phát xuất từ mặt trời. Khi một nguyên tử căn bản hồng trần mang đầy sinh lực, nó hút vào quanh nó sáu nguyên tử khác lập thành một nguyên tố dĩ thái. Sinh lực đầu tiên chia ra làm bảy và mỗi nguyên tử chứa một phần. Trong thân thể con người, phần dĩ thái của lá lách có phận sự hấp thụ nguyên tố dĩ thái vừa cấu tạo. Các phần sinh lực trong nguyên tố liền phân tán ra và tiến vào các vùng nào của cơ thể cần đến nó.
Lá lách là một trong bảy trung tâm sinh lực thuộc về phần dĩ thái của cơ thể. Trong mỗi thể của chúng ta, bảy trung tâm như thế phải hoạt động. Chỉ người đã mở thần nhãn mới thấy được điều này. Chúng nó xuất hiện trước mắt y như những luồng trốt xoáy nhẹ và nhờ đó sinh lực các thể cao mới nhập được vào thể thấp hồng trần. Trong xác thể hồng trần này có bảy trung tâm sinh lực : 1 - ở phần chót xương sống; 2 - ở tùng thái dương nằm gần rún; 3 - ở lá lách; 4 - ở trên trái tim; 5 - ở cuồng họng; 6 - ở giữa hai chơn mày; 7 - ở đỉnh đầu. Ngoài bảy trung tâm vừa kể, có những trung tâm tiềm tàng mà sự khởi dậy không tốt.
Hình dạng của các thể cao do những người có thần nhãn trông thấy đều có hình bầu dục như cái trứng; nhưng các chất cấu tạo chúng không phân chia vị trí như ở cái trứng. Ngay chính giữa là thể xác. Thể xác hút các chất của thể vía, thể vía lại hút các chất của thể trí. Ðiều đó giải thích tại sao các chất của thể vía và thể trí đều phần lớn tập trung ở thể xác. Nếu ta quan sát thể vía ở cõi riêng biệt của nó, ta thấy các chất vía đều tập trung nơi thể xác và có hình dạng giống y thể xác. Ðành rằng chất nó lỏng hơn và cho cảm giác như một đám sương mù dày đặc bao phủ bởi đám sương khác tinh vi hơn. Một hiện tượng giống như thế cũng được trông thấy ở thể trí. Vì vậy, khi ta gặp một người bạn ở cõi vía hay cõi trí, ta nhìn nhận ra được hắn liền giống như ở cõi trần.
Tóm tắt, đây là sự cấu tạo thật sự của con người; trước hết là một Chơn thần hay Ðiểm Linh Quang của Thượng Ðế. Kế đó là một Chơn nhơn, tức là một biểu lộ của Chơn thần được tạo ra với mục đích tiến hóa bằng nhiều giai đoạn và có thể trở về hợp nhất với Chơn thần khi mang theo các đức tính đã đạt được nhờ kinh nghiệm kết tinh. Sau đó là một phàm nhơn, tức là sự biểu lộ từng phần của chơn nhơn ở các cõi thấp. Chữ personnalité là phàm nhơn do tiếng la tinh persona là cái mặt nạ. Có phải phàm nhơn là cái mặt nạ mà chơn nhơn phải mang để biểu hiện ở các cõi thấp? Chơn nhơn là một phần nhỏ và là một biểu hiện không trọn vẹn của chơn thần như thế nào thì phàm nhơn là một phần nhỏ và là một biểu hiện không trọn vẹn của chơn nhơn như thế ấy. Nói tóm lại, cái mà chúng ta gọi là một người, chỉ là một phần của một phần mà thôi.
Phàm nhơn phải mang ba thể : thể trí, thể vía và thể xác. Khi con người còn gọi là sống và còn tỉnh táo ở trên mặt địa cầu, y bị hạn chế bởi xác thân. Y dùng thể vía và thể trí như những trung gian để liên lạc với thể xác. Một bằng chứng hay nhất để chứng tỏ rằng thể xác bị hạn chế là điều sau đây. Xác thân này dễ mệt mỏi và cần nghỉ ngơi từng chập. Mỗi đêm, con người ngủ và tự rút vào thể vía; thể này không bao giờ mệt mỏi nên nó không cần nghỉ ngơi. Khi con người ngủ, y hoạt động ít nhiều tự do trong thể vía tùy theo mức độ phát triển tiến hóa của y. Như vậy, vía của người dã man ít tiến hóa chỉ rời xác thân chừng vài dặm và chỉ giữ ý thức mơ màng về trạng thái xuất vía của mình. Người tiến hóa thì thường thường có thể đi du lịch bằng thể vía đến bất cứ nơi nào y muốn. Y có nhiều ý thức hơn người dã man. Tuy nhiên, sau khi thức giấc, y thường không nhớ rõ điều y đã thấy hay điều y đã làm trong cõi trung giới. Ðôi khi, y nhớ một sự việc tình cờ làm cho y chú ý, một kinh nghiệm làm cho y phát triển. Y diễn tả trạng thái này và y cho rằng y nằm mộng thấy rõ rệt và đúng như thật... Nhưng thường thường các ký ức đó rối nùi, trong đó có xen lẫn cái nhớ mang máng của đời sống hằng ngày và các cảm xúc phát ra ngoài từ cái phần dĩ thái của não bộ y. Ðó là phần nhiều các giấc mộng vô lý và mơ hồ. Người thật tiến hóa cũng hoạt động và có ý thức ở cõi vía cũng như ở cõi trần khi y thức. Y nhớ tất cả những gì y thấy và việc y đã làm ở cõi vía. Cuộc đời của y không còn đứt đoạn nữa và trôi lướt đủ hai mươi bốn trên hai mươi bốn giờ mỗi ngày hoàn toàn có ý thức. Y luôn luôn như vậy trong đời sống hồng trần và cả sau khi bỏ xác thân nữa.
mục lục chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
CHƯƠNG SÁU
SAU CÁI CHẾT
Chết là bỏ thể xác. Sự cởi một cái áo ngoài đối với thể xác như thế nào thì sự chết đối với chơn nhơn cũng thế. Sau khi rời bỏ xác thân, chơn nhơn tiếp tục sống trong thể vía cho đến chừng nào sức mạnh của các cảm xúc và đam mê trong đời sống vật chất khô cạn. Chừng đó mới xảy ra cái chết thứ nhì. Chơn nhơn lột bỏ thể vía và sống trong thể trí, nơi cõi hạ trí. Sự sống ấy kéo dài đến chừng nào các tư tưởng của đời sống hữu hình và sức mạnh của trí khôn mòn hẳn. Cuối cùng, chơn nhơn từ bỏ thể thứ ba (tức thể hạ trí) để sống trong cõi chính của mình và ngụ trong thượng trí hay thể nhân quả.
Như vậy, không có gì giống như chúng ta quan niệm về cái chết cả. Thật ra, đời sống chúng ta có tính cách tuyệt đối liên tục gồm một loạt ba giai đoạn kế tiếp trong ba cõi. Sự phân chia thời gian sống trong ba cõi ấy thay đổi tùy theo trình độ tiến hóa của mỗi người. Người cổ sơ, hoang dã sống gần hoàn toàn trong thể xác và chỉ sống vài năm trong thể vía ở cõi trung giới, sau mỗi đời sống ở cõi trần. Lần lần, y phát triển chút ít, đời sống của y được dài thêm. Sau đó, khi trí thông minh được dần dần nảy nở, khi y có thể có một số tư tưởng, suy nghĩ, thì y có thể sống một thời gian ngắn ở cõi trí. Người của các giống dân thông minh sống lâu trong thể trí hơn trong thể vía hay thể tình cảm. Tóm lại, có thể nói rằng người càng tiến hóa càng sống lâu trong thể trí hơn trong thể vía.
Ðời sống bằng thể vía ở cõi trung giới là kết quả toàn bộ những tình cảm còn nhuộm màu ích kỷ. Lòng ích kỷ càng nặng thì đời sống trong thể vía càng thê thảm. Trái lại, nếu các tình cảm tốt và nhân hậu mặc dù còn mang tính cá biệt, thì đời sống ở trung giới tương đối dễ chịu hơn, nhưng cũng còn hạn chế nhiều. Ðối với hoài bão và tư tưởng hoàn toàn vị tha, chơn nhơn hưởng những hậu quả tốt và chỉ sống ở cõi trí mà thôi. Ðời sống ở cõi này hoàn toàn hạnh phúc. Ðời sống trong thể vía thê thảm hay dễ chịu tương ứng với cõi luyện tội của Thiên Chúa Giáo. Còn đời sống hạnh phúc ở cõi trí tương ứng với cõi thiên đàng của họ.
Như vậy, con người tự tạo ra địa ngục hay thiên đàng. Ðó chỉ là những trạng thái tâm thức riêng biệt, chớ không phải là những nơi chốn, những địa giới theo quan niệm thường tình chấp nhận. Ðịa ngục chỉ là sự tưởng tượng, sự bày đặt của thần học. Nói cách khác, là không có địa ngục. Tuy nhiên, một đời sống vô trật tự và quái đản sẽ dẫn đến một trạng thái địa ngục thảm sầu và lâu dài nhưng không đời đời, vì cả thiên đàng lẫn địa ngục không cái nào đời đời, vĩnh cữu cả. Thật vậy, một nhân hữu hạn không bao giờ dẫn đến một quả vô hạn cả. Về điểm này khó mà đưa ra những con số chính xác. Có quá nhiều khác biệt giữa đời sống của các cá nhân, nếu chúng ta cho những con số, chắc chắn phải phạm nhiều lầm lạc. Dưới đây, chỉ là cái nhìn đại cương để chúng ta có một ý niệm về vấn đề này mà thôi. Ðối với người bậc thấp của giai cấp trung bình, như người buôn bán nhỏ, người giúp việc thương mãi, đời sống trung bình trong thể vía của họ ở cõi trung giới khoảng bốn mươi năm, đời sống trong thể trí của họ chừng hai trăm năm. Còn người có tâm linh khá và trình độ văn hóa khá thì đời sống của họ chừng hai mươi năm ở trung giới và một ngàn năm ở cõi trí. Sau rốt, người tiến hóa đặc biệt, có thể giảm đời sống ở trung giới chừng vài ngày hoặc vài giờ, rồi trú ngụ ở cõi trí lối một ngàn năm trăm năm.
Ngoài thời gian ở hai cõi khác nhau, điều kiện sống ở hai cõi ấy còn khác nhau một cách rõ rệt. Có một sự kiện mà chúng ta không thể bỏ qua là sinh lực của những chất cấu tạo các thể. Thể xác được cấu tạo bởi các tế bào; mỗi tế bào có một sự sống riêng biệt. Các tế bào ấy hoạt động được là nhờ luồng sinh lực thứ nhì của Ngôi Hai của Ðức Thượng Ðế. Chúng có nhiều loại và nhiều chức năng khác nhau : có biết bao nhiêu công việc tự thực hiện trong thể xác nếu con người muốn biết và muốn giữ gìn sức khỏe.
Những điều quan sát như trên cũng áp dụng cho thể vía và thể trí. Trong đời sống tế bào của các thể ấy chưa có gì để so sánh với trí khôn. Chỉ có một bản năng mạnh mẽ thúc đẩy cuộc sống của chúng theo hướng tiến bộ của chúng. Sức sống đem lại sự hoạt động các chất trong thể vía và thể trí còn ở vòng cung ngoài của sự tiến hóa. Sức sống này di chuyển từ trên xuống dưới hay từ trong ra ngoài, bằng cách nào để nó có thể hạ xuống các thể đông đặc; nhờ đó nó mới tự biểu lộ ra được. Nhưng sự tiến bộ của con người hoàn toàn đi ngược lên. Thật thế, sau khi chìm sâu vào vật chất, con người tự giải thoát bằng cách đi lên để trở về nguồn nguyên thủy. Những trạng thái mâu thuẩn ấy làm nảy sinh xung đột giữa nội tâm và sự sống của các thể khác nhau. Vì thế, đời sống của các tế bào có khuynh hướng đi xuống, còn con người thật có khuynh hướng đi lên để trở nên hoàn thiện.
Chất của thể vía (hay đúng hơn là sự sống làm linh hoạt các phân tử của nó) đòi hỏi cho sự tiến bộ của nó các rung động càng sai biệt và càng thô trược càng tốt. Người ta biết rằng sự sống ấy sẽ làm linh hoạt thể xác ở giai đoạn tiến hóa tới. Nó cần phải làm quen với các rung động chậm của vật chất hữu hình. Muốn được như vậy, nó phải tìm các rung động thật chậm của thể vía trước. Nó làm như vậy không phải do trí khôn mà là do bản năng giúp nó tìm cách dễ nhất để tạo vật chất hữu hình.
Cũng như các phân tử của thể xác, các phân tử của thể vía thay đổi luôn luôn. Tuy nhiên, sự sống trong khối phân tử tình cảm đó có một ý thức, mặc dù còn mơ hồ, để lập thành một toàn thể, một thứ thực thể tạm thời. Nó không biết nó là thành phần của thể vía và không ý thức được thế nào là một con người. Nó phỏng đoán các điều kiện hiện hữu giúp nó thu nhận những rung động vừa nhiều vừa mạnh hơn là khi nó bay lang thang trong khí quyển. Như vậy, các tia bức xạ của đam mê và cảm xúc chạm đến nó; bây giờ nó ở trung tâm các rung động đó, nhận được tất cả từ rung động yếu đến rung động thật mạnh, không sót một cái nào. Do đó, nó có cảm giác đang ở vị trí tốt nhất và cố gắng giữ vị trí mà nó chiếm được ấy. ? d?y, nó tiếp xúc với một yếu tố tinh vi hơn nó; đó là chất khí của thể trí. Nó trực hiểu rằng, nếu nó kéo được chất ấy liên kết với nó thì những làn rung động của nó sẽ thật mạnh và sẽ kéo dài thật lâu.
Như chúng ta biết, chất vía vận chuyển các ham muốn, chất trí vận chuyển các tư tưởng. Các bản năng ấy (nếu chúng ta có thể gọi như thế) sẽ hoạt động cách nào để khi thể vía thuyết phục chúng ta đồng ham muốn như nó thì không bao giờ tránh khỏi bị cái vía lôi cuốn chúng ta vào ham muốn của nó. Như vậy, con người bị một áp lực chậm mà có phương pháp, đưa chúng ta đến lòng ham muốn không nhàm chán hay một xúi giục làm điều bỉ ổi, xấu xa. Nếu nó có khuynh hướng nhục dục, nó sẽ đưa ta đến đường thấp hèn, bẩn thỉu. Nếu nó có khuynh hướng hung tợn, nó sẽ đưa ta vào đường nóng giận.
Người chưa hiểu rõ tầm quan trọng của các định luật trên sẽ mắc vào một trong hai sai lầm sau đây. Một là y sẽ nghĩ lầm rằng sự cám dỗ do bởi bản chất xấu của y. Hai là y sẽ tưởng tượng áp lực làm quấy do bởi ma quỉ từ bên ngoài đưa đến. Chơn lý nằm ở giữa hai điều đó. Aùp lực là lẽ tự nhiên bình thường, không đối với người, mà chỉ đối với thể vía của y sử dụng. Ham muốn là bình thường và chính đáng của thể vía, nhưng cái đáng buồn là con người không biết chống lại nó. Nếu trái lại, y chống đối những cảm xúc đã gợi ra thì sẽ xảy ra sự kiện sau đây : các phần tử đòi hỏi những rung động thấp hèn sẽ uể oải vì thiếu chất dinh dưỡng; chúng gầy mòn và rời bỏ thể vía vì không hạp nữa. Chúng được thay thế bằng các phần tử có những rung động đồng nhịp với những gì con người chấp nhận cho vào thể vía y.
Ðó là điều giải thích cái mà người ta gọi là những gợi ý hay cám dỗ của chất thấp. Khi con người không chống cự quyết liệt các cám dỗ ấy, thì chúng sẽ tăng cường nơi y đến khi y không còn có thể chế ngự hay ngăn cản chúng được nữa. Cuối cùng, y tự đồng hóa với chúng và làm thỏa mãn một đời sống kỳ dị của một phần thể vía.
Khi ta bỏ xác (gọi là chết) trạng thái yếu ớt của tâm thức trên được báo động. Nó nhận ra đời sống của nó bị đe dọa vì là một khối rời rạc. Nó chuẩn bị để tự vệ và giữ vị trí của nó càng lâu càng tốt. Nó liền chiếm lấy các phần của thể vía và sắp xếp các phần ấy thế nào để chống lại các xâm nhập. Như vậy, thể vía biến thành một cái vỏ; ở phía ngoài có các phần thô trược, nặng đặc, và ở bên trong xếp lớp các phần khác thành nhiều lớp đồng tâm, lớp thanh nhẹ nhất ở tận bên trong. Lúc ấy toàn bộ thể vía có thể chống đỡ các cọ sát bên ngoài cho tới chừng nào sự cấu tạo của nó có thể được. Như vậy, thể vía có thể giữ hình dạng của nó càng lâu càng tốt.
Tất cả các căn nguyên ấy tạo cho con người nhiều hậu quả khó chịu. Sinh lý học của thể vía hoàn toàn khác với sinh lý học của thể xác. Trước hết, thể xác nhận từ bên ngoài các cảm giác nhờ những cơ quan đặc biệt, gọi là ngũ quan, còn thể vía không có giác quan nào cả. Thí dụ trong thể vía, cái tương ứng với thị giác của thể xác là khả năng mà các phần tử vía đáp ứng những kích thích từ bên ngoài, từ những phần tử giống chúng nó. Cho nên, vì con người có trong thể vía của mình tất cả các chất thuộc các cảnh của cõi trung giới, nên cái vía của y có thể thấy các vật do các cảnh ấy cấu tạo.
Bây giờ, tôi giả thiết trong cõi trung giới có một vật cấu tạo bởi chất của cảnh thứ nhì và thứ ba. Chắc chắn rằng vật đó chỉ có thể thấy được bởi người nào có ở bề mặt của thể vía y những phần tử nhỏ thuộc các cảnh thứ nhì và thứ ba. Chỉ riêng những phần tử nhỏ này mới có khả năng nhận và ghi các rung động phát ra từ vật vừa kể.
Trái lại, người nào vì có một tâm thức mơ màng, khi chết bỏ xác như ta thấy ở trước, lại để cho cái vía của y tự xếp lớp các chất cấu tạo nó thành nhiều lớp đồng tâm, chất nặng trược ở bên ngoài thì y không thấy vật kể trên. Cũng giống như mắt vật chất của chúng ta không thấy không khí và các chất dĩ thái.
Trong đời sống hồng trần, các chất của thể vía chuyển động liên tục. Sự chuyển động này có thể so sánh với sự chuyển của các phân tử nước đang sôi. Như vậy, đủ loại các chất của thể vía đều có thể luôn luôn ở mặt ngoài. Nhờ vậy, khi con người sử dụng thể vía lúc y ngủ, y có thể thấy các vật ở cõi trung giới.
Sau khi chết, rất tiếc là phần đông con người vì dốt nên để cho hiện tượng xếp lớp của thể vía xảy ra, đưa họ vào điều kiện khác hơn lúc ngủ. Lúc đó, bề mặt ngoài của thể vía y gồm toàn những chất thấp hèn, nặng trược. Như vậy, y chỉ nhận được các kích thích nặng trược từ bên ngoài. Do đó, thay vì y có thể chiêm ngưỡng tất cả các cảnh vật quanh y ở trung giới, y chỉ thấy được vật ở cảnh thứ bảy là cảnh trọng trược nhất trong bảy cảnh của trung giới. Ở cảnh ấy, các rung động nặng trược chỉ biểu lộ các cảm xúc đáng trách mà người ta có thể xếp vào hạng các thực thể trung giới kém nhất. Rõ ràng là ở điều kiện như vậy, con người chỉ gặp những dân cư kém tiến hóa nhất của trung giới và chỉ nhận những ảnh hưởng khốc hại và tầm thường mà thôi.
Người ấy bị bao quanh bởi những kẻ mà thể vía có bẩm tính tầm thường. Y chỉ thấy và cảm nhận những cái gì nặng trược, thấp hèn ở những kẻ ấy, và những kẻ ấy tự biểu lộ trước y như những quái vật không còn cách gì cứu rỗi được. Thậm chí, các bạn của y cũng khác khi trước và cũng dễ hiểu, là bởi vì giờ đây y không còn thấy ở các bạn ấy những đức tính tốt nữa. Không lạ gì khi y cho cảnh trung giới ấy là địa ngục. Lỗi lầm này không phải của cõi vía mà là của chính y. Trước hết, y để dung dưỡng các chất nặng nề, sau đó y để một tâm thức mơ hồ thống trị y và rốt cuộc y để cho thể vía tự xếp lớp.
Người nào đã nghiên cứu học hỏi các vấn đề trên đều tuyệt đối cố gắng chống lại áp lực các chất vía khi còn sống và không cho thể vía tự xếp lớp sau khi chết. Chỉ như thế y mới có đủ năng lực thấy trọn các cảnh của cõi vía, chớ không phải chỉ thấy các cảnh thấp hèn ô trược của cõi này.
Cõi trung giới của thể vía có nhiều điểm giống cõi hạ giới của thể xác. Cũng như cõi trần, cõi trung giới có nhiều trạng thái khác nhau tùy người và tùy từng giai đoạn sống. Nó là trụ sở của cảm xúc và của những tư tưởng thấp hèn. Các cảm xúc cũng tác động mạnh mẽ ở cõi ấy hơn ở cõi trần. Nơi một người đang thức tỉnh, phần lớn các cảm xúc ta khó thấy được, vì tất cả sức mạnh của nó đều huy động để kích thích phần đông đặc của bộ não. Bởi thế, ở cõi trần này, ta khó đánh giá đúng mức một tình thương chẳng hạn. Vì ta chỉ thấy phần nhỏ còn lại của tình thương, sau khi phần lớn được huy động để kích thích bộ não. Như vậy, cảm xúc nó rất mạnh ở cõi vía hơn ở cõi trần. Nếu ta chủ trị được chúng thì chúng không thể loại trừ các tư tưởng thanh cao. Do vậy ở cõi vía, ta có thể nghiên cứu học hỏi, giúp ích đồng loại như ở cõi trần hoặc không hoạt động gì cả và đi lang thang không mục đích.
Cõi trung giới của thể vía trải rộng đến khoảng cách trung bình của quỉ đạo mặt trăng. Người nào sau khi chết không để cho cái vía tự xếp lớp đều có thể chu du khắp trung giới. Nhưng phần lớn dân cư cõi này không ở cách xa mặt đất bao nhiêu. Các chất ở các cảnh của cõi này đều xuyên thấu qua nhau một cách tự do. Nhưng tổng quát, chất nặng đặc có khuynh hướng rõ rệt tập trung vào trung tâm. Ðiều đặc biệt này giống như hiện tượng mà người ta quan sát được ở trong chai chứa nước có nhiều chất có tỉ trọng khác nhau đang lơ lửng. Chừng nào nước còn xao động, các chất lơ lửng còn lẫn lộn nhau luôn. Nhưng người ta vẫn thấy ở đáy chai có tích tụ phần lớn các chất nặng. Tóm lại, mặc dù chúng ta không coi các cảnh của cõi trung giới xếp lớp như các lớp trong củ hành, ta cũng phải nhìn nhận rằng cõi trung giới có đặc tính gần như vậy.
Các chất cõi vía đi xuyên qua cõi trần y như là cõi này không có. Nhưng các tiểu phần hay các cảnh của cõi trần hút mạnh các chất tương ứng của cõi vía. Cho nên các vật thể ở cõi trần đều có thể vía cả. Chúng ta lấy một cái ly và đặt nó lên bàn. Cả cái ly và cái bàn hữu hình đều bị chất vía của cảnh thấp nhất xuyên qua. Nước là chất lỏng bị xâm nhập bởi chất lỏng của thể vía, nghĩa là chất của cảnh thứ sáu của cõi trung giới. Còn không khí bao quanh hai vật lại bị chất của cảnh thứ năm trung giới xâm nhập. Nhưng, cả không khí, nước, cái ly và cái bàn đều thấm nhuần bởi chất tế nhị hơn nữa mà chúng ta gọi là dĩ thái hồng trần (có bốn loại dĩ thái hồng trần ở cảnh thứ tư, thứ ba, thứ nhì, thứ nhất của cõi trần). Nên để ý rằng chất của cảnh thứ bảy nặng nhất của cõi vía cũng ít đông đặc hơn chất nhẹ nhất của dĩ thái ở cảnh thứ nhất của cõi trần.
Sau khi chết, con người qua cõi vía, nếu y không để cho thể vía tự xếp lớp thì y không để ý chút nào đến sự khác biệt với lúc y còn thể xác. Y có thể đi đi lại lại theo các hướng và tùy ý. Nhưng y thích trú ngụ gần nơi y đã sống trước đây. Y có khả năng thấy nhà, phòng, bàn ghế, thân quyến và bạn bè của y. Các người còn sống, vì không tin, không biết có các cõi trên tưởng rằng họ đã mất trọn vẹn người vừa bỏ xác. Trái lại, người chết không bao giờ có cảm giác là họ không còn sống, mặc dù trong chốc lát.
Trong thể vía, con người không thể phân biệt được thể xác của những người thân. Nhưng y thấy rõ thể vía của họ, vì các thể vía này giống hệt như các thể xác. Chừng đó, y mới nhận ra sự hiện diện của các bạn y. Mỗi người bạn ấy dường như bị bao phủ bởi một lớp sương mù hình quả trứng sáng ngời. Nếu y có chút ít khả năng quan sát, y sẽ thấy có nhiều thay đổi nhỏ chung quanh y. Y biết chắc chắn rằng y không được đưa lên thiên đàng hay đày xuống địa ngục nào, mà vẫn còn tại cõi trần, còn liên lạc với những gì mà y từng quen thuộc ở đây, mặc dù dưới một khía cạnh khác trước.
Người chết thấy rõ thể vía của người sống, nên y chưa tin rằng y đã xa lìa họ. Nhưng y không gây nơi họ một ảnh hưởng nào cả lúc họ đang thức, vì lúc đó, tâm thức của họ đang hoạt động ở cõi trần và thể vía của họ chỉ làm phận sự trung gian mà thôi. Người chết không thể giao thiệp với những người sống và cũng không đọc được tư tưởng cao siêu của họ. Nhưng trái lại, y có thể biết các cảm xúc của họ nhờ sự thay đổi màu sắc trong thể vía của họ. Với một chút quan sát và thực hành, y có thể đọc dễ dàng các tư tưởng của họ, nếu những tư tưởng này có màu sắc ích kỷ hay ham muốn.
Trong lúc người sống ngủ, sự việc diễn tiến một cách khác hẳn. Trong lúc đó, họ ý thức trong cõi vía, họ sống bên cạnh người chết và có thể tiếp xúc với y như lúc cả hai đang còn ở cõi trần. Các cảm xúc của người sống kích thích mạnh người chết khi người chết còn thương yêu người sống. Nếu người sống có chuyện buồn phiền thì người chết đau khổ nhiều.
Sau khi chết, số khác biệt các điều kiện sống gần như vô tận. Nhưng người nào rán nghiên cứu và học hỏi về cõi vía đều có thể xác định chúng. Tính chất ấy không thay đổi bởi cái chết. Các tư tưởng, các cảm xúc và các điều ham muốn đều giống y như lúc còn sống. Con người còn y như trước, trừ thể xác. Hạnh phúc hay đau khổ của y bị ảnh hưởng bởi sự mất thể xác. Nếu các hoài bão của y chỉ biểu lộ nhờ thể xác thì y đau khổ nhiều. Một dục vọng vào loại đó biểu lộ bằng các rung động của thể vía. Nhưng lúc ta còn sống, phần lớn các rung động ấy được sử dụng để kích động các phần nặng nề của thể xác. Bây giờ không còn thể xác, tất cả sức mạnh của rung động đều tập trung vào thể vía. Như vậy, nếu con người không quen chế ngự chúng và nếu y không thỏa mãn chúng thì trong đời sống ở cõi trung giới của y sẽ kéo dài và đau khổ nhiều.
Muốn dễ hiểu, chúng ta lấy thí dụ của một người vô độ và ham mê tình dục. Khi còn xác thân, các tật xấu ấy chế ngự lý trí, lẽ phải, danh dự và tình thương gia đình. Sau khi chết, ở cõi vía, các thèm muốn của người ấy còn nguyên và y không làm sao thỏa mãn chúng được vì không còn xác thân. Ðời sống như thế ở trung giới quả là địa ngục. Thật ra, chỉ có địa ngục duy nhất đó mà thôi. Không ai hành phạt y cả; y gặt hái kết quả của những hành động của chính y. Lần lần, sức mạnh của các dục vọng càng ngày càng hao mòn sau nhiều đau khổ; đối với tội nghiệp này một ngày dài bằng ngàn năm. Y không ý niệm được thời gian như chúng ta ở cõi trần. Chính những cảm xúc của y cho y ý niệm về thời gian. Quan niệm phạm thượng về địa ngục đời đời là biến chất của các vía vừa kể.
Cũng có những trường hợp khác ít cực đoan hơn, trong đó có một thèm khát không thỏa mãn được biến thành một dày vò. Thí dụ trường hợp của người không có thói xấu đặc biệt, như vô độ trong ăn uống hay ham mê tình dục, nhưng lại gắn bó với mọi vật ở thế gian và phung phí thời giờ vào việc lặt vặt hay vào đời sống phóng túng không mục đích. Ðối với y, đời sống ở cõi vía là đau khổ. Những điều hạp với sở thích không còn nữa. Mặc dù các bạn bè thân thích vẫn còn, xã hội hoàn toàn đổi khác, không còn muôn việc tầm thường ở thế gian.
Tuy nhiên, đó chỉ là một số trường hợp ngoại lệ. Ðối với phần đông con người, đời sống bên kia cửa tử sung sướng, hạnh phúc hơn ở cõi trần rất nhiều. Cảm giác đầu tiên mà người chết hưởng được là một sự tự do lạ lùng và tuyệt diệu. Không có gì khuấy rầy y cả, không có phận sự chi phải làm, ngoài phận sự mà y tự lựa chọn cho mình. Trừ vài ngoại lệ, con người đặt tất cả đời sống hồng trần của mình vào các hoạt động nhiều khi trái ngược với sở thích và hoài bão của mình để chu toàn những nhu cầu của chính mình và của gia đình. Ðời sống ở cõi vía không có một nhu cầu nào hết. Thể vía không cần ăn uống, che mưa che nắng gì cả, vì sự nóng và sựï lạnh không ảnh hưởng đến nó. Do cách vận động của tư tưởng, mỗi người tự che ấm tùy sở thích. Lần đầu tiên từ tuổi ấu thơ, con người mới được hoàn toàn tự do sử dụng trọn thời giờ của mình để làm điều gì mình thích.
Những sự vui chơi bất cứ loại gì ở cõi này đều gia tăng rất nhiều; trừ trường hợp cần một thể xác để biểu lộ. Nếu có người thích các cảnh đẹp thiên nhiên, y có thể đi du lịch với một tốc độ mau lạ lùng mà không biết mệt nhọc; y đi khắp mọi nơi để thưởng ngoạn các phong cảnh tuyệt diệu nhất và thám hiểm những nơi chưa từng biết. Nếu y say mê nghệ thuật, những tác phẩm lừng danh đều sẵn sàng để y sử dụng. Nếu y thích âm nhạc, cũng không có gì ngăn cản y đến nơi hòa nhạc; y sẽ thưởng thức nhiều hơn, tốt hơn và đánh giá đúng hơn là khi y còn sống. Mặc dù y không còn nhận được các âm thanh hữu hình, nhưng y cũng có thể nhận các hiệu quả của âm nhạc, nó kích thích y nhiều hơn và rộng rãi hơn trước. Nếu khoa học hấp dẫn y, y có thể đến viếng các nhà thông thái danh tiếng nhất hoàn cầu và lượm lặt những tư tưởng cùng ý hướng của họ. Vã lại, không có gì cản trở y tìm tòi nghiên cứu khoa học ở cõi vía và đạt được những thành tựu rất có hiệu quả mà y chưa bao giờ làm được. Cuối cùng, người có niềm hạnh phúc thật sự là giúp ích đồng loại sẽ tìm được trong cõi vía một môi trường thênh thang để thực hiện các hoạt động bác ái của mình.
Ở cõi vía, con người không còn đau khổ vì đói, lạnh hay bệnh hoạn gì hết. Nhưng người ta còn gặp một số đông người vô minh, không biết tình trạng của họ. Họ muốn học hỏi thì họ lại bị các dục vọng hồng trần dày vò. Họ cần sự giải thích để có thể giúp họ lên cảnh trên. Họ bị tấm lưới tưởng tượng của họ bao phủ và không biết làm thế nào phá ra được. Như vậy họ bị bắt buộc phải cần đến sự giúp ích của những người đã quen sống ở cõi vía, biết rõ cõi này và chỉ dạy cho họ những thực tại ở cõi vía, chỉ cho họ thấy điều sai lầm của họ. Các người khốn khổ ấy cần sự giúp ích của người có lòng tốt và sáng suốt. Có nhiều người đột nhiên bị đưa qua bên kia cửa tử hoàn toàn không biết chút gì về cõi trung giới. Họ vẫn tưởng là họ còn sống và khi biết rằng họ chết họ lại đâm ra sợ hãi số phận không thể tránh như đã mô tả bởi các giáo điều thần học sai lầm. Ở đây, sự nâng đỡ tinh thần với lời khuyến khích của người hiểu biết các định luật thiên nhiên rất cần cho họ.
Như vậy, những công việc hữu ích cùng sự không thiếu những người bạn đối với người có đời sống hữu lý ở cõi trần. Bởi vì, ở cõi trần hạgiới cũng như ở cõi trung giới, những người đồng sở thích, đồng hoài bão rất giống nhau và họ thường tụ họp lại với nhau. Vã lại, có rất nhiều vùng thiên nhiên bị che lấp bởi màn vật chất hồng trần lại hiện rõ trước mắt những người ưa thích nghiên cứu về chúng ở cõi vía.
Một cách tổng quát, có thể nói rằng mỗi người tự tạo cho mình môi trường sống và láng diềng ở cõi vía. Chúng tôi có lưu ý độc giả về bảy tiểu phần hay bảy cảnh của cõi vía. Nếu ta đếm chúng từ trên xuống, nghĩa là từ tế nhị đến nặng trược, chúng ta thấy nó chia làm ba loại; loại thứ nhất gồm cảnh nhất, nhì, ba; loại hai gồm cảnh bốn, năm, sáu; và loại ba gồm cảnh thấp nhất là cảnh thứ bảy.
Như tôi đã nói, mặc dù các chất ở các cảnh, các cõi xuyên qua nhau, nhưng chúng tự sắp xếp theo tỉ trọng của chúng; nghĩa là chất càng tinh vi, càng nhẹ thì tràn xa khỏi địa cầu, còn chất càng trược, càng nặng thì chìm xuống dưới. Như vậy, không có gì lạ khi một dân sự ở cõi vía, mặc dù y có thể di chuyển lẹ làng đi khắp mọi nơi, lại có khuynh hướng cứ bay là đà ở mức tương ứng với tỉ trọng của các chất cấu tạo thể vía của y. Người nào sau khi chết, không để cho các chất của thể vía tự động sắp xếp theo bản năng thì không bị chi phối bởi các luật ở cõi vía. Trái lại, người nào để cho vía mình tự sắp xếp thì bị kẹt vào nhiều ngang trái. Không phải có cái gì cản họ vượt lên cao hay cản họ xuống thấp, nhưng vì họ chỉ nhận được các cảm xúc ở phần nhất định nào đó của cõi vía mà thôi.
Tôi đã có dịp trình bày tình trạng của người ở mức độ thấp, bị gò bó trong cái vỏ dày của vật chất. Vì tỉ trọng của chất này nặng hơn chất khác nên chỉ nhận được rất ít rung động hơn người ở bất kỳ cảnh nào khác. Trọng lượng của thể vía y có khuynh hướng đưa y bay là đà dưới mặt đất. Vật chất hữu hình của cõi trần không có đối với y. Y cảm thấy như bị hút một cách tự nhiên bởi chất vía ít tế nhị nhất; chất này chính là phần đối lập của chất rắn của địa cầu. Người ấy ẩn náu trong cảnh thấp nhất, rất tối tăm, xa cách với các người chết khác; vì các người này trú ngụ ở các cảnh cao hơn. Các cảnh thứ sáu, thứ năm và thứ tư của cõi vía tính từ dưới lên là nơi trú ngụ của phần lớn nhân loại sau khi bỏ xác. Các cảnh này là phần đối lập của cõi trần, có thể nói là sự lập lại của cảnh hữu hình. Nghĩa là trong cảnh thứ sáu đời sống giống như ở cảnh trần, trừ thể xác và các nhu cầu của nó. Nếu ta đi lên cảnh thứ năm rồi đến cảnh thứ tư, ta sẽ thấy đời sống ở đây bớt nặng trược và xa lần lần cõi trần cùng những quyền lợi xấu xa của nó. Cảnh thứ ba, thứ nhì và thứ nhất cho chúng ta cảm giác là chúng ta đã tiến lên xa cõi trần, mặc dù cùng chung một không gian. Các cảnh này tế nhị và thanh thoát hơn các cảnh thấp. Người ngụ ở các cảnh này không còn thấy địa cầu và các sự vật ở đó. Y thường sống bằng cách tự tập trung vào chính y và tự tạo láng diềng trực tiếp. Nhưng các người và vật chung quanh được cấu tạo ấy cũng khá khách quan để các người đồng mức độ và người có thần nhãn có thể thấy được.
Vùng này là Summerland (thế giới trường hạ), là xứ có mùa hè vĩnh viễn, là điều người ta thường nghe ở các hiệp hội thần linh học, là nơi mà dân cư có thể tạo nhà cửa, trường học, thành phố bằng sức mạnh tư tưởng của mình. Những vật này tuy giả tạo đối với chúng ta, nhưng rất thật đối với họ. Họ coi các nhà cửa, đền chùa hay nhà thờ ấy cũng thật có như xây cất bằng gạch đá của chúng ta. Rất nhiều người có đời sống thật dễ chịu khá lâu dài suốt nhiều năm trong nhà cửa của tư tưởng họ đã tạo ra như thế. Một vài phong cảnh được tạo dựng như vậy thật kỳ diệu. Ao hồ thơ mộng, núi non hùng vĩ, vườn chơi tốt đẹp vượt xa tất cả những cái ta có ở thế gian; nghĩa là ở đó không thiếu cái gì cả. Nhưng không phải luôn luôn như vậy và một vài hình tư tưởng có vẻ buồn cười đối với người có thần nhãn thành thạo (nghĩa là người đã tập nhìn sự vật đúng tình trạng của chúng), thí dụ các hình tư tưởng của người vô minh rán cấu tạo mà ta thường thấy các kinh sách mô tả một cách tượng trưng. Khi thể vía của người dân quê cấu tạo một hình tư tưởng con vật có con mắt bên trong hay một cái biển vừa trong vắt như pha lê vừa cháy rực như lửa; chắc chắn cái hình tư tưởng như thế thật kỳ quái đối với chúng ta nhưng lại thỏa mãn người tạo ra nó.
Cõi vía hay cõi trung giới đầy dẫy những hình ảnh và những phong cảnh được cấu tạo như thế. Người của mọi tôn giáo thường hình dung đức giáo chủ và thiên đàng của họ ở cõi này tùy theo quan niệm quen thuộc của họ. Họ được hoàn toàn hạnh phúc cho đến ngày họ lên cõi trí, nơi mà họ tự thấy tiến bộ hơn trên đường tìm chân lý.
Tất cả những người sau khi bỏ xác đã để cho thể vía tự sắp xếp các lớp của nó, thì như tôi đã nói ở trước, đều phải tiến qua các cảnh trung giới lần lượt hết cảnh thấp đến cảnh cao. Không vì vậy mà họ ý thức được hết các cảnh. Thể vía của người kém tiến hóa nhưng có nhân phẩm chỉ chứa đựng một số lượng rất ít chất của cảnh thứ bảy, nên không đủ để tạo một cái vỏ cứng và dày ở bên ngoài. Ở phần nhiều các trường hợp, chất của cảnh thứ sáu pha lẫn chất của cảnh thứ bảy; người chết có thể thấy phần đối lập của cõi trần.
Chơn nhơn rút lần vào trong và lần lượt bỏ các cảnh trung giới. Nhưng thời gian ở các cảnh ấy không đều nhau vì số lượng các chất trong mỗi lớp của thể vía không đều nhau. Chất của lớp nào càng nhiều thì phải ở lâu trong cảnh tương ứng ấy. Sự thành lập thể vía tùy thuộc vào đời sống hồng trần, vào các dục vọng và chót hết, vào các chất vía mà con người tự rút vào mình. Khi con người ở cảnh thứ sáu, giữa những nơi và những người quen thuộc, thì người có đức hạnh trung bình, lần lượt theo thời gian sẽ thấy người hồng trần chung quanh mờ dần và mất hết sự quan trọng đối với y. Y có ý tự tạo những bằng hữu thân thuộc phù hợp với tính chất tư tưởng của y. Khi y tiến lên cảnh thứ ba, đặc tính ấy cũng còn làm mờ tầm nhìn của y ở cõi vía.
Cảnh thứ nhì ít vật chất hơn cảnh thứ ba. Nếu cảnh thứ ba là thiên đàng của các nhà thần linh học thì cảnh thứ nhì là thiên đàng của phái Gia tô chính thống dốt nhất. Còn cảnh thứ nhất cao hơn cả, hình như dành cho những người mà trọn đời chỉ chú tâm vào công việc vừa vật chất vừa tinh thần, không phải với mục đích giúp ích đồng bào mà với mục đích làm thỏa mãn tham vọng cá nhân hay làm thỏa mãn trí tuệ. Nên thêm rằng, họ tưởng họ hoàn toàn được sung sướng. Về sau, khi họ có thể phê phán các điều cao siêu, họ sẽ đạt được trình độ cao hơn, giúp họ sống hài hòa hơn ở cõi trí.
Ở cõi trung giới, vía của những người chung một quốc gia và chung một quyền lợi trần gian đều tụ họp thành nhóm như ở hạ giới chúng ta. Thí dụ người mộ đạo nhiệt thành đã tự tạo một cõi trời riêng không tụ họp với những người khác đạo; vì những người này có ý tưởng hạnh phúc thiên đàng không hạp với y. Tuyệt nhiên không có gì cản trở sự đi đi lại lại của một người Thiên chúa giáo ở cảnh trời của người Bà la môn hay Hồi giáo. Nhưng ít khi họ làm như vậy, vì quyền lợi vàsự lôi cuốn đều thuộc về tôn giáo riêng của họ; nơi đó họ gặp những bạn bè cùng chia xẻ tín ngưỡng của họ. Ðừng bao giờ tin rằng những cảnh trời cấu tạo như thế là thật; đó chỉ là tưởng tượng mà thôi. Chúng tôi sẽ có dịp bàn lại cõi thiên đàng thật, khi chúng ta nghiên cứu cõi trí.
Người nào sau khi bỏ xác không để cho thể vía tự xếp lớp theo bản năng thì có thể tự do di chuyển trong cõi vía và đi đến bất cứ nơi nào tùy ý ở cõi ấy. Y sẽ thấy toàn diện các điều y quan sát khác hẳn các người chỉ thấy có một phần. Y không thấy có đông đảo dân chúng ở cõi vía. Vì cõi vía rộng rãi thênh thang hơn mặt đất nhiều và dân cư ở đây cũng không đông đảo.
Ở cõi này, dân cư không phải chỉ toàn là người đã bỏ xác, mà còn có cở một phần ba là thể vía của người đang ngủ. Hơn nữa, cũng có phần lớn dân cư không thuộc nhân loại. Có nhiều loài thấp hơn mà cũng có nhiều loài cao hơn nữa. Ðó là các loài tinh linh mà phần lớn ở cõi trung giới. Có nhiều loại cũng ở cõi trần, chúng mang thể cấu tạo bằng chất dĩ thái hồng trần vừa đúng ngay ở ranh giới của tầm nhìn mắt thịt thông thường. Những trường hợp ta gặp chúng không phải là hiếm. Người dân quê thường gặp chúng ở nơi hẻo lánh, trong kẹt núi, rừng hoang như ta thường thấy trong các thần thoại. Chúng có tên là tiên, là quỉ lùn, là thổ địa, là yêu quái, là thần.
Chúng hay thay đổi hình dạng. Thường thường chúng thích lấy hình người nhưng thu nhỏ lại. Vì chúng chưa có hồn riêng biệt, nên người ta có thể coi chúng như thú cầm dĩ thái hay thú cầm cõi vía. Trong hàng ngũ của chúng cũng có nhiều vị thông minh như nhân loại. Chúng cũng thuộc nhiều quốc tịch và nhiều kiểu người như chúng ta. Thường người ta chia chúng ra bốn hạng : thần đất, thần nước, thần gió và thần lửa. Chỉ có thần gió mới ở cõi vía; chúng đông đến nỗi bất kỳ ở đâu cũng có cả.
Một loài lớn khác cũng có mặt ở cõi vía. Ðó là các Thiên thần (Dévas). Sự tiến hóa của họ cao hơn loài người. Chỉ những vị nào ít tiến hóa nhất mới cư ngụ tại cõi vía; mức tiến hóa của các vị này có thể so sánh với mức tiến hóa của hạng con người tốt.
Nhân loại chúng ta không phải là dân cư duy nhất và quan trọng trong thái dương hệ. Có những đường tiến hóa khác cũng phát triển song song với đường tiến hóa của nhân loại; nhưng không trải qua giai đoạn nhân loại, mặc dù bị bắt buộc phải trải qua một trình độ tương đương với trình độ nhân loại. Một trong những con đường tiến hóa là đường tiến hóa của tinh linh vừa kể trên. Ở phía trên con đường này có con đường rộng lớn của thiên thần. Ở trình độ tiến hóa ngày nay, chúng ta khó có dịp tiếp xúc với các thiên thần. Nhưng trong tương lai, khi ta phát triển khá, có lẽ ta sẽ gần gũi họ nhiều hơn.
Khi tất cả các cảm xúc, tâm tình thấp hèn đều tiêu mòn tôi muốn nói khi các cảm xúc không vướng vít một chút ích kỷ, chừng đó đời sống của thể vía ở cõi trung giới mới chấm dứt. Chơn nhơn sang qua cõi trí. Không nên tưởng rằng lúc ấy có biến động trong không gian. Chỉ đơn giản là một sự vượt qua khỏi chất tế nhị nhất của cõi vía. Lúc đó, con người chỉ hoàn toàn ý thức cõi trí mà thôi. Mặc dù thể vía của y chưa hoàn toàn tan rả. Nó đang lần lần tan rã. Nó còn, nhưng chỉ còn với tình trạng một xác chết của thể vía. Nó bị bỏ rơi như trước kia thể xác đã bị bỏ rơi thành xác chết. Hai thứ xác chết này có vài điểm khác nhau cần nghiên cứu vì những hậu quả của chúng mang lại.
Khi con người bỏ xác, sự chia lìa giữa thể vía và thể xác gần hoàn toàn. Ðối với thể vía, các chất của nó tế nhị hơn thể xác nên sự việc diễn tiến khác hơn. Lúc còn sinh tiền, con người thường lúng túng rất nhiều trong các chất của thể vía. Nói cách khác là con người tự đồng hóa mình rất nặng vào các dục vọng, nên chơn nhơn không còn đủ sức để tách rời khỏi thể vía. Vì vậy, khi tách rời vĩnh viễn khỏi thể vía để sống trong cõi trí, chơn nhơn mất một phần nghị lực. Phần này còn bị nhốt lại trong các chất của thể vía.
Cho nên cái xác chết của thể vía còn giữ ít nhiều sự sống. Nhờ đó, nó có thể di chuyển tự do và làm cho người sống nào dốt nát tưởng lầm nó là vía của người đã chết. Cái phần nhỏ mọn của ý thức còn tồn tại đó tự cho mình và nói về mình như thật. Ðành rằng nó còn giữ một vài ký ức, nhưng toàn là ký ức yếu ớt và giả dối. Nhiều khi trong các cuộc cầu cơ của phái thần linh học, người ta tiếp xúc với những thực thể như thế. Rồi người ta lấy làm lạ và tự hỏi vì sao con người quá thay đổi sau khi chết. Chúng tôi gọi những thực thể như thế là những bóng quế.
Ðến một giai đoạn sau, phần tri thức nói trên tắc nghẽn trong thể vía và không trở về nhập với chơn nhơn. Không vì vậy mà các xác chết của thể vía phải tan rã. Nó còn tồn tại nhưng không biểu lộ chút nào các nét sống trước. Chúng tôi gọi các xác chết ấy là những cái vỏ. Các vỏ ấy không còn khả năng tiếp xúc với loài người ở các cuộc cầu cơ. Nhưng thường thường các cái vỏ ấy bị một tinh linh quỉ quái xâm chiếm như một nơi trú ngụ. Một cái vỏ bị chiếm ngụ như vậy có thể tham gia vào cuộc cầu cơ và nói về mình như của một người thật , vì một vài nét đặc biệt hay một vài ký ức lu mờ còn sót lại trong xác chết của cái vía được tinh linh gợi lại.
Khi con người ngủ, y rút vào thể vía và như bỏ rơi thể xác. Khi y chết, y kéo phần dĩ thái của thể xác theo. Vì vậy, khi còn mang phần dĩ thái này thì y không còn biết gì , vô tri, chưa có ý thức gì cả. Phần dĩ thái này mà chúng tôi gọi là cái phách không phải là một thể riêng biệt. Cho nên khi còn mang chất này, con người không ý thức cả cõi trần lẫn cõi vía. Cũng có người tự vất bỏ cái phách trong phút chót. Người khác giữ nó hàng giờ, hàng ngày, nhiều khi hàng tuần.
Vã lại, không chắc gì người nào vừa bỏ cái phách lại có ý thức liền ở cõi vía. Vì còn tồn nơi y một phần lớn các chất nặng trược của thể vía. Nó bao bọc y như một cái vỏ cứng. Y lại không có khả năng sử dụng chất ấy. Nếu y sống thành thật, lương thiện, y không quen sử dụng chất ấy hay đáp lại những rung động của nó, như vậy y sẽ ở tình trạng vô ý thức đến chừng nào, một mặt chất ấy mòn lần và mặt khác, chất của y quen sử dụng tràn ra mặt ngoài thể vía. Dù sao, sự bế tắc không bao giờ trọn vẹn. Trong một cái vỏ chặt chẽ, nhiều khi các chất tế nhị cũng mở được một đường tràn ra ngoài mặt thể vía; lúc đó, người chết thấy chập chờn từng lúc những người và vật chung quanh y.
Có những người bám víu một cách tuyệt vọng vào thể xác và cũng không muốn rời thể phách. Họ cố gắng giữ chúng lại. Có đôi khi họ thành công nhưng họ phải hi sinh rất nhiều hạnh phúc. Họ bị loại ra khỏi cảhai cõi; cõi trần vật chất và cõi trung giới. Họ tự thấy bị bao trùm bởi một lớp sương mù xám ngắt; xuyên qua đó, họ thấy cõi trần mờ mờ và không màu sắc. Họ phải rán tranh đấu triền miên để giữ tình trạng đau khổ ấy, họ cứ gan lì bám chặt vào đó. Cái phách dường như tối cần đối với họ. Họ cảm giác rằng cái phách làm vật liên lạc với cõi duy nhất mà họ biết. Vì thế, họ đi lang thang, cô đơn và đau khổ, đến khi vì quá mệt nhọc họ không còn sức chịu đựng được nữa mới thôi. Họ không còn giữ cái phách được và họ lướt qua trong hạnh phúc tương đối của đời sống trung giới. Nhiều khi trong tuyệt vọng, họ bám một cách mù quáng vào những thể xác khác và rán sức chui vào đó. Có lúc họ thành công. Thí dụ họ nắm lấy xác thân của một cháu bé, loại đi phàm nhơn của cháu bé ra khỏi thể xác rồi nhập vào đó. Ðôi khi họ chiếm thể xác của một con thú. Tình trạng rối loạn như thế thường sinh ra do sự dốt nát hoàn toàn. Chuyện như thế không bao giờ xảy ra cho người nào biết các định luật về sự sống và sự chết.
Ðến chừng đời sống ở cõi vía chấm dứt, con người chết ở cõi ấy và thức tỉnh ở cõi trí. Ðối với y, cõi này hoàn toàn khác hẳn sự quan sát của người có huệ nhãn thuần thục, vì người này đi chu du khắp cõi trí và sống ở đó y như sống ở cõi vía và cõi trần giữa những người thân thuộc quen biết chung quanh. Suốt đời sống hồng trần, một người thường bị bao phủ bởi một khối hình tư tưởng. Có những hình tư tưởng ngắn ngủi thoáng qua không được quan tâm đến nhiều nên đã tan rã từ lâu. Còn các hình tư tưởng thuộc về những quyền lợi thiết yếu của đời y thì lảng vảng chung quanh y và càng ngày càng mạnh thêm. Những hình tư tưởng ích kỷ đã trút hết sức lực của chúng vào đời sống cõi vía vừa qua nên giờ khô cạn. Nhưng những hình tư tưởng hoàn toàn vị tha thì thuộc cõi trí. Vậy khi ở cõi trí, y hoàn toàn có khả năng phê phán cõi này xuyên qua các tư tưởng ấy.
Thể trí của y cũng chưa hoàn toàn phát triển. Chỉ riêng những phần đã được y sử dụng để làm việc đại độ giúp đời mới hoạt động mạnh mẽ và đầy đủ. Sau khi bỏ thể vía, điều mà y cảm biết đầu tiên là một đại hạnh phúc, một sinh lực không thể quan niệm được, một sự sống hoan lạc cho đến nỗi y không còn muốn gì khác. Niềm hoan lạc ấy là căn bản của sự sống trong các cõi cao của toàn thể Thái dương hệ. Ðời sống trung giới cũng hiếm dịp may có hạnh phúc; hạnh phúc này cũng sung mãn hơn các hạnh phúc mà chúng ta biết. Nhưng đời sống ở cõi trí lại hạnh phúc hơn nữa, cho đến nỗi ta không lấy gì so sánh được. Trên các cõi cao, mọi người đều có cảm giác ấy. Dường như ở đó, niềm hoan lạc được tuyệt đối. Nhưng khi lên cõi cao siêu hơn nữa, người ta hưởng được niềm hoan lạc thâm diệu hơn niềm hoan lạc trước.
Song song với niềm hoan lạc ấy, lại nảy sanh sự minh triết và sự siêu việt các tư tưởng. Biết bao người đã vùng vẫy trong cõi vật chất in trí rằng mình là người hoạt bác nhất, chạy chọt giỏi nhất và khôn ngoan nhất. Khi vừa chạm cõi vía họ liền nhận thấy sự thật. Họ thấy rằng bấy lâu nay họ chỉ là con sâu, không biết quá tầm cái lá, giờ là con bướm mở rộng cánh bay lượn khắp nơi dưới ánh mặt trời thênh thang bát ngát. Khi bỏ ngöôøi cõi vía và bước vào cõi trí, họ cũng có cảm giác như thế. Họ thấy rằng đời sống ở đây thật đầy đủ, bao la, mãnh liệt hơn ở cõi vía, và như tôi nói, không có gì so sánh được. Nhưng khi người ta nghĩ đến cảnh cao hơn nữa, là cõi trực giác, thì người ta thấy rằng đời sống ở cõi trí đối với cõi trực giác này chỉ như ánh sáng mờ của mặt trăng đối với ánh sáng huy hoàng của mặt trời.
Vị trí của người ở cõi trí khác rất xa đời sống ở cõi vía. Ở cõi vía, y sử dụng một thể mà y đã quen dùng từ lâu, vì mỗi đêm lúc ngủ y thường hay sử dụng nó. Ở cõi trí, y sử dụng một vận cụ mà y chưa biết. Vã lại vận cụ ấy chưa hoàn toàn phát triển, phân cách y với thế giới chung quanh và không giúp y nhận thấy thế giới này. Ở thời kỳ �luyện tội�, phần thấp kém của thể vía y đã tan biến hết; bây giờ y chỉ còn giữ những tư tưởng thanh cao, tế nhị và những hoài bão từ thiện của cõi trần. Tất cả những cái đó kết tụ lại và bao phủ y như một cái vỏ. Nhờ trung gian của cái vỏ đó, y sống hòa hợp với các rung động của các chất tinh vi ở cõi trí.
Các tư tưởng ấy là những sức mạnh thật sự giúp y rút ở kho tàng thiên nhiên những gì tương ứng với các tư tưởng và hoài bão ấy. Vì trong kho tàng thiên nhiên đó mới có toàn vẹn Thiên Ý. Ngài mở rộng tình thương vô bờ bến đối với linh hồn của chúng ta, tùy theo tài năng của mỗi người. Người nào đã hoàn tất con đường tiến hóa của nhân loại và phát triển trọn vẹn mầm thiêng liêng ở y sẽ không lấy làm lạ trước sự huy hoàng như thế. Nhưng đến nay, chưa một người nào trong chúng ta tiến đến mức ấy. Vì chúng ta tiến từ từ đến sự hoàn hảo đó, nên đến nay chúng ta không lấy làm lạ khi chúng ta không có được quan niệm tổng quát về điều ấy.
Mỗi người trong chúng ta rút ở đó phần của mình và phần này tương xứng với những cố gắng mà y đã thi thố trước đây. Các cá nhân khác nhau không có những khả năng giống nhau. Ở Ðông phương, người ta cho rằng tất cả chúng ta, mỗi người mang theo một cái ly, cái thì nhỏ, cái thì lớn, nhưng tất cả đã đều đầy tràn. Biển hạnh phúc dư sức làm đầy tất cả các ly ấy.
Nếu con người muốn thưởng thức sự kỳ diệu và sự huy hoàng chưa từng nghe thấy ấy, y phải tự chuẩn bị mở những cửa sổ để giúp y thực hiện được. Nói cách khác, mỗi hình tư tưởng là một cửa sổ giúp y tiếp xúc với các rung động bên ngoài. Nếu trong suốt đời sống trần gian, y chỉ lo vẹn toàn công việc vật chất và quên lo mở các cửa sổ ấy, thì ánh sáng rực rỡ ở các cõi trên không thể lọt vào được. Rất ít khi một người tiến hóa hơn mức dã man lại không có một tấm tình bác ái; cho nên cũng có lần một trong các cửa sổ của y đã mở.
Một người thông thường thì ít có hoạt động ở thể trí. Trước hết, y chỉ thụ cảm, còn về các hoạt động bên ngoài lớp vỏ tư tưởng của y, thì y lại tỏ ra yếu kém. Ở cõi đó, đời sống của y được bao trùm bởi những thần lực sinh động, những thiên thần, những dân cư đầy vẻ huy hoàng. Những vị này rất nhạy cảm với những hoài bão của con người và sẵn sàng đáp ứng mau lẹ. Con người hưởng được lợi ích của điều này khi y đã chuẩn bị sẵn sàng. Ðúng vậy, các tư tưởng và hoài bão của y hướng theo nhiều đường, nhiều lối cũ và y không thể tạo liền các tư tưởng mới. Như vậy các tư tưởng cao siêu cũng có rất nhiều hướng, nhiều thứ. Ta có thể kể : âm nhạc, nghệ thuật, triết học. Một người mà sự thích thú hướng về các ngả đó sẽ gặp nhiều giải trí vô kể và một kiến thức không giới hạn. Ðó là những giải trí và kiến thức thụ đắc được nhờ sức mạnh tư tưởng của y đã đạt.
Phần đông con người chỉ có những tư tưởng cao thượng thuộc về tình thương hay lòng sùng đạo. Nếu người này thương người kia nhiều hoặc nếu y có lòng ngưỡng mộ đậm đà với một vị thánh tiên nào thì y tạo ra một hình tư tưởng mạnh mẽ của người kia hay vị thánh nọ; đối tượng ấy hiện rõ trong trí y. Không thể tránh được, y sẽ mang hình ấy theo y khi y tiến lên cõi trí vì chính các chất tư tưởng này là chất của cõi trí.
Trước hết, chúng ta hãy đề cập đến tình thương : tình thương cấu tạo và giữ nguyên một hình tư tưởng như vậy. Hình tư tưởng đó có đủ sức mạnh để tiến đến kích thích phần trên của thể trí và cả chơn nhơn của người được thương. Thật vậy, chính là chơn nhơn đó được thương yêu chớ không phải là thể xác vì thể xác chỉ là một phần nhỏ của người được thương mến. Lúc chơn nhơn nhận được sự rung động, tức thì tự động nó đáp lại liền và tự trút vào hình tư tưởng ấy ý muốn của nó. Vì thế, các mối liên quan giữa bạn thân càng thân mật ở cõi trí hơn trước. Mặc dù người bạn còn sống hay chết, sự việc vẫn giống y như thế. Sự lưu thông được thiết lập không phải với phần bị nhốt trong thể xác mà với con người thật, với chơn nhơn ở tại các cõi của nó và luôn luôn nó đáp ứng lại. Thí dụ, một có một trăm bạn thân, y có thể đồng một lượt và không sót một ai đáp ứng lại tình thương của tất cả. Mặc dù số lượng hình tư tưởng có nhiều và ở cõi thấp hơn, chơn nhơn cũng đáp ứng đầy đủ và khả năng này không bao giờ sút giảm.
Như vậy, mỗi người ở cõi trí sống giữa các bạn thân của chính y mà y đã tìm cách để giao thiệp. Họ rất thân mật đối với y vì y đã tạo cho họ cái hình tư tưởng làm cho họ dễ biểu lộ trước mặt y. Trong thế giới vật chất, vì bị hạn chế, chúng ta có thói quen nhìn bạn ta dưới khía cạnh hẹp hòi, nên khó cho ta có quan niệm cao cả đối với họ. Ở cõi trí, sự giao thiệp của ta với các bạn bè thân mật hơn ở cõi trần. Về lòng sùng đạo cũng thế. Ở cõi trí, người sùng đạo được gần đối tượng hay thần tượng của y hai lần gần hơn là lúc y còn ở cõi trần và nhờ vậy kinh nghiệm của y có tính cách siêu việt hơn nhiều.
Cũng như cõi vía, cõi trí cũng chia làm bảy cảnh. Cảnh thứ nhất, thứ nhì, thứ ba là nơi cư ngụ của chơn nhơn ở trong chơn thân (thượng trí), còn thể trí chính thức gồm các chất ở bốn cảnh kia và trong hoàn cảnh đó diễn ra sự sống ở cõi trời. Tuy nhiên, con người không đi qua hết cảnh này đến cảnh kia như ở cõi vía, vì ở đó không có sự xếp lớp các chất như trong cái vía. Ở cõi trí, con người tự đặt mình trực tiếp vào trình độ tương xứng nhất với sự tiến hóa của y. Y cư ngụ tại đây suốt thời gian y phải sống ở cõi trời. Vì mỗi người tự tạo đời sống ở cõi trí của mình như vậy, nên sự khác biệt giữa mọi người rất nhiều.
Một cách tổng quát, chúng ta có thể xác nhận tính cách của tình thương gia đình ở phần thấp nhất. Tình thương này thật tận tâm không vị kỷ vì các tình cảm ích kỷ đã tiêu mòn ở cõi vía. Ðặc tính của cảnh thứ sáu là lòng sùng tín do thuyết thần nhân đồng hình mà có. Còn lòng sùng tín ở cảnh thứ năm có đặc tính là các công tác thực dụng. Ba cảnh chót : cảnh thứ năm, cảnh thứ sáu và cảnh thứ bảy thuộc các biểu hiện của lòng sùng tín đối với người thường (như là bà con, bạn thân hay một thần linh đặc biệt nào đó) thay vì đối với nhân loại, vì lòng sùng tín đối với nhân loại chỉ biểu lộ ở cảnh kế trên. Cảnh thứ tư này có bốn loại chính : sự đeo đuổi vô tư lợi về kiến thức tâm linh; triết lý cao hay khoa học; biệt tài về văn chương hay mỹ thuật thực dụng trong mục đích duy nhất là vị tha, và chót hết là sự sốt sắng giúp đỡ đồng loại với ý tưởng cứu giúp vô tư.
Ðời sống huy hoàng này cũng có kết cuộc. Chừng đó thể trí cũng tan ra như các thể thấp và con người khởi sống trong chơn thân (thượng trí). Ở đó, y không còn cần các cửa sổ mở như trước vì y sống trong nhà thực của y và các vách tường đều trống rỗng. Phần đông con người không ý thức được mức cao như thế. Họ mơ màng, không nhận thức được gì cả. Nhưng những gì họ thấy cũng có phần thực tùy mức độ tiến hóa của từng người. Nhưng mỗi lần họ trở lại trình độ ấy, vì họ đã tiến bộ, đời sống thực nhất trong các đời sống của họ, sẽ tự nhiên rộng thênh thang và có cường độ mạnh mẽ hơn.
Lần lượt sau các thay đổi ấy, đời sống chơn thân càng dài hơn nhiều đối với các đời sống những cõi thấp. Lần lần con người có khả năng chẳng những tiếp nhận mà còn ban ra. Chỉ chừng đó, sự thành công mới thật đến gần con người, vì y đã học đủ bài học của Ðấng Christ. Ðó là kết cuộc huy hoàng của việc hi sinh sự sống mình để làm nhẹ bớt đau khổ của đồng loại. Ðó là sự từ bỏ cái ta vì mọi người, là sức mạnh để phụng sự nhân loại, một nhân loại đang chiến đấu trên mặt địa cầu. Ðó là một phần đời sống đã mở trước chúng ta. Ðó là nấc thang vàng ở dưới chót, từ đó ta có thể nhìn thấy các nấc cao hơn. Tất cả những điều này giúp chúng ta biết và để chúng ta giúp những người chưa biết đặng họ được hân hạnh mở mắt đón nhận một sự huy hoàng chói lọi chung quanh tại đây và ngay bây giờ trong đời sống đen tối mỗi ngày của họ. Ðó là phần phúc âm của Thông Thiên Học, là sự chắc chắn của một tương lai cao cả mà mọi người có thể đến được. Thật vậy, tương lai này chắc chắn vì nó đang xuất hiện ở địa cầu và muốn đạt được nó, chúng ta phải tỏ ra xứng đáng.
mục lục chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
CHƯƠNG BẢY
SỰ LUÂN HỒI
Ðối với người tiến hóa, đời sống chơn nhơn trong cõi riêng biệt của nó rất đẹp đẽ và hoàn toàn sung sướng. Nó lại giữ một vai trò nhỏ bé đối với người thường. Chơn nhơn của những người này chưa phát triển đến trình độ đủ sức thức tỉnh ở chơn thân (thượng trí). Ðúng theo luật của thiên nhiên, nó cũng rút vào chơn thân; nhưng đồng thời nó cũng mất cảm giác của sự sống. Cái thèm khát sự sống lại thúc giục nó một lần nữa hạ xuống vật chất.
Trong tình trạng phát triển của con người, đây là con đường tiến hóa y phải theo : y phát triển bằng cách xuống nhập vào vật chất trọng trược và trở lên, mang theo kết quả của những kinh nghiệm mà y đã thực hiện. Sự thật, đời sống của y kéo dài hàng triệu năm. Còn cái mà chúng ta gọi là kiếp sống chỉ là một ngày của đời sống ấy. Muốn cho đúng, ta phải nói đó là một phần của một ngày. Bởi vì một kiếp sống chừng bảy mươi năm ở cõi trần được kéo dài bởi thời gian hai mươi lần lâu hơn ở các cõi cao. Chúng ta đã để lại sau chúng ta một loạt các kiếp sống vật chất ấy. Ðối với người thường, y còn phải trải qua nhiều kiếp sống như thế nữa trước mặt y. Mỗi một kiếp sống, nếu tôi có thể diễn tả như thế chỉ là một ngày đến lớp học. Chơn nhơn khoác vào mình chiếc áo xác thịt và đến trường của thế giới vật chất đặng học một số bài. Suốt ngày ấy, tức là trọn đời sống hồng trần này, nó học được hết các bài hoặc nó không học được gì cả, hoặc nó chỉ học được một phần tùy theo trường hợp. Kế đó, nó lột bỏ chiếc áo xác thịt và trở về nhà nó, ở ngay mức độ nó, để nghỉ ngơi và giải lao. Buổi sáng của đời sống mới, nó tiếp tục bài học của nó đúng vào chỗ đã để lại hôm qua. Có nhiều bài nó học thuộc trong một ngày, cũng có nhiều bài nó phải học nhiều ngày mới thuộc. Nếu nó là một học sinh giỏi và học rất mau điều mà nó cần biết, nếu nó biết điều lệ của trường và cố gắng lập hạnh theo đúng thì thời gian học hỏi của nó sẽ thâu ngắn tương đối. Rồi, khi được trang bị đầy đủ kiến thức, nó ra khỏi trường và trở về đời sống thực của nó ở các cõi cao; các kiếp sống trước chỉ lànhững bước chuẩn bị. Có nhiều chơn nhơn ít thông minh hơn, ít mẫn tiệp sốt sắng hơn, thì chúng học khó khăn hơn. Có nhiều đứa không nắm hết luật lệ của trường, nên chúng không tuân thủ. Có những đứa khác biết rõ luật lệ của trường, nhưng chúng lại cứng đầu ngỗ nghịch không khép mình vào khuôn khổ. Ðối với những đứa này, thời gian học hỏi lại thật dài. Như vậy, do hành động của mình, các chơn nhơn tự xác định thời gian phân cách chúng với đời sống thực ở các cõi cao. Bởi vì, ở trường học này không có học trò thi rớt. Tất cả đều đến đích một cách chắc chắn. Về việc đó, không có lựa chọn, nhưng trái lại, thời gian nó cần để tự hoàn thiện và chuẩn bị các cuộc thi cao hơn tùy thuộc hoàn toàn vào nó. Ðứa học trò biết điều, khôn ngoan, hiểu rằng đời sống ở trường này không có gì đáng quí đối với chính nó. Ðó chẳng qua là sự chuẩn bị cho đời sống huy hoàng hơn và vô cùng phát triển hơn. Thế nên, nó rán tự đồng hóa với các luật lệ của trường và trong phạm vi các phương tiện của nó. Nó làm cho cuộc đời nó phù hợp với cuộc sống của trường một cách chặt chẽ, cho đến nỗi, nó không mất một phút để học hỏi các điều cần thiết. Nó hợp tác một cách thông minh với các Huấn luyện viên, bắt đầu hành động và làm tối đa công việc để đạt càng sớm càng tốt sự trưởng thành hầu tiến vào vương quốc huy hoàng của chơn nhơn.
Thông Thiên Học giải thích những luật lệ của trường này. Ðó là một lợi ích lớn lao cho những người học hỏi. Ðịnh luật tối thượng là định luật tiến hóa. Mỗi người trong chúng ta phải trở nên hoàn thiện. Muốn vậy, y phải mở rộng các khả năng thiên phú còn nằm tiềm tàng trong y. Ðây là phương tiện duy nhất đưa y đến mục đích. Luật tiến hóa này thúc giục chúng ta một cách có phương pháp đi đến các chinh phục cao cả. Con người thật minh triết cố gắng đi ngay đến những gì luật này đòi hỏi. Y phòng bị thấy trước những khóa học cần ích. Làm như vậy, không những y tránh được những đụng chạm đau đớn mà còn đạt được sự giúp đỡ tối đa. Người nào trì hoãn trong cuộc đua của sự sống sẽ vĩnh viễn bị gò bó bởi sức ép đau đớn nếu y đề kháng dữ dội. Thế nên, trên đường tiến hóa, con người có cảm giác vừa bị rượt đuổi, vừa bị dẫn dắt bởi định mạng. Trái lại, người nào tự giúp mình một cách thông minh thì được hoàn toàn tự do lựa chọn con đường y thích vì y biết rằng đường ấy sẽ dẫn y tiến tới và đưa y lên cao.
Ðịnh luật lớn thứ nhì chi phối sự tiến hóa là luật nhân quảû. Không bao giờ có kết quả mà không có nguyên nhân, và không có nguyên nhân nào lại không có kết quả. Thật ra, hai cái chỉ là một; vì kết quả là một phần của nguyên nhân. Người nào tạo cái này đều đồng thời làm nảy sinh cái kia. Vì thế, trong thiên nhiên, không việc gì gọi là có ý định thưởng hay phạt. Tất cả đều đi từ nhân đến quả. Trong cơ học và hóa học ta thấy rõ điều này. Người có thần nhãn càng thấy rõ hơn, kể cả các bài toán khó của sự tiến hóa. Những định luật tương tự thống trị, chi phối các cõi cao và cõi thấp. Ở trên đó cũng như ở dưới này, góc phản chiếu bằng với góc tới. Ðịnh luật cơ học chỉ rõ lực động và lực phản động bằng nhau và ngược chiều. Ðịnh luật này cũng áp dụng ở các cõi. Tuy nhiên, ở các chất vô cùng tế nhị của những cõi cao, sự phản xạ không luôn luôn xảy ra tức thời. Ðôi khi phải đợi một thời gian lâu; nhưng nó phải xảy ra một cách chắc chắn như toán học. Do định luật nhân quả ấy, cũng như nhân quả ở cơ học vật chất, người nào, tùy theo y phát ra tư tưởng tốt hoặc xấu; tùy theo y làm việc tốt hoặc làm việc xấu, y sẽ gặt hái trở lại một cách chắc chắn điều lành hoặc điều dữ. Chúng tôi xin nhắc lại, đây không phải là sự thưởng hay phạt do một ý định bên ngoài, mà là một hiện tượng giản dị xác định bởi hành động của đương sự. Hiện tượng này rất dễ nhận thấy ở cơ học vật chất vì lực phản động nảy sinh ra liền tức thời; do vậy người ta nhận thấy ngay giá trị của kết quả. Nhưng ở các cõi cao không phải giống y như vậy, vì tác động của luật nhân quả xảy ra lâu hơn ở cõi trần, nên nhiều khi phải chờ đến kiếp sau.
Sự áp dụng định luật này cho ta một giải đáp thỏa đáng nhiều bài toán ở cuộc sống hồng trần. Nhờ đó chúng ta hiểu rằng, mỗi người trong chúng ta đều có định mệnh, có nhiều khác biệt trong đời sống của con người. Nếu một người tỏ ra thông minh về một môn nào đặc biệt , còn người khác lại đần độn, là vì trong tiền kiếp, người trước cố gắng học tập về môn ấy, còn người sau chỉ mới học môn này lần đầu tiên. Các thiên tài và các thần đồng là những thí dụ rõ nhất. Ðây không phải là đặc ân, là thiên vị của thần thánh nào, mà là kết quả có thể đạt được sau nhiều kiếp lao động và chuyên cần. Các việc xảy ra chung quanh chúng ta, cũng như tất cả các đức tính của chúng ta đều là kết quả trực tiếp của những hành động đã qua của chúng ta. Chúng ta hiện nay là cái gì chúng ta đã tạo khi trước và tất cả hoàn cảnh của đời sống chúng ta là trực tiếp do những công đức của chúng ta đã thụ đắc từ trước.
Nhưng tất cả cái đó đều được điều chỉnh hoặc phân phối tùy từng kết quả. Mặc dù định luật nhân quả là tự nhiên và máy móc, nhưng sự thi hành của nó được giao cho các vị �Ðại Thiên thần� quản lý. Dĩ nhiên các vị này không thay đổi chút nào các quả của tư tưởng hay việc làm, nhưng các Ngài có thể, trong một giới hạn nào đó, làm chậm lại hoặc thúc giục sự tác động và quyết định cách thế diễn biến tác động ấy.
Ở giai đoạn đầu của sự tiến hóa, con người dã man tự nhiên có nhiều hành động ác hơn thiện. Nếu các quả báo đều tác động tức thời thì e rằng một ít tính tốt vừa được đánh thức ở y lại hoàn toàn bị tiêu diệt vì còn non yếu quá.
Ngoài ra, quả của các hành động thay đổi nhiều tính cách. Có cái tác động tức thời, có cái phải chờ một thời gian. Vì vậy, con người càng sống bao nhiêu thì trên đầu y càng có một cụm mây nhân quả càng nhiều vì chúng chưa được hóa giải. Trong đó có cái tốt có cái xấu. Ðó là một khối mà chúng gọi là món nợ đối với thiên nhiên. Một phần trong số nợ ấy được trả trong mỗi kiếp; ta có thể gọi phần nợ ấy là định mệnh của mỗi người trong mỗi đời sống riêng biệt.
Ðiều đó có nghĩa giản dị là niềm vui và nỗi khổ rất xác định dành cho mỗi người, và các nỗi niềm ấy sẽ xảy đến không tài nào tránh khỏi. Con người có chấp nhận định mệnh đó hay không ? Y sử dụng định mệnh của y như thế nào ? Ðó là tất cả các việc tùy thuộc nơi y. Một mớ thần lực phải hao mòn khi tác động thì không có gì ngăn trở được. Nhưng khi áp dụng, một thần lực khác có chiều ngược lại, ta có thể điều chỉnh được, giống như trong cơ học. Quả của một nhân xấu là một món nợ. Ta có thể thanh toán món nợ ấy bằng một chi phiếu có giá trị lớn ở ngân hàng của cuộc đời; nghĩa là ta gánh một tai họa khủng khiếp. Hoặc ta trả bằng cách góp làm nhiều kỳ, nghĩa là ta bị các lo âu, phiền muộn, hoặc ta có thể trả góp bằng nhiều kỳ nhỏ hơn, nghĩa là ta phải gặp nhiều nghịch cảnh nho nhỏ. Có một điều chắc chắn là bằng cách này hay bằng cách khác, cuối cùng ta phải trả dứt nợ, không trốn tránh được.
Như vậy, không thể chối cải rằng hoàn cảnh của ta hiện nay là do hành động của ta ở quá khứ. Ta cũng có thể nói các hành động hiện tại của ta xác định hoàn cảnh của kiếp sau. Một ngưỡi bị hạn chế bởi các phương tiện của y hoặc bởi hoàn cảnh bên ngoài không do ý muốn của y, không thể trong đời này trở thành cái mà y đã ước mơ hoặc tự tạo cho mình một đời sống lý tưởng. Nhưng chắc chắn y có thể thành tựu trong kiếp vị lai. Các hành vi của ta chẳng những quan hệ đối với ta mà còn quan hệ đối với mọi người chung quanh ta. Trong vài trường hợp, các kết quả không đáng kể; trong trường hợp khác, các quả có tầm quan trọng đặc biệt. Ở trường hợp trước, chỉ là những vay trả nhỏ, nhưng trong trường hợp sau, các quả xấu hay tốt có tính cách cá biệt, phải trả trực tiếp cho người chủ nợ.
Một bữa cơm cho người ăn xin, một lời an ủi làm cho người được phấn khích, đó là những việc làm tốt. Kết quả được nhập vào kho minh triết thiên nhiên, kho chung của điều thiện. Nhưng, khi một người vì một hành vi tốt đã làm đổi hướng cuộc đời của một người khác, chắc chắn trong một kiếp sau, hai người sẽ gặp nhau để người sau có thể trả ơn người trước. Nếu là một hành vi xấu, chắc chắn ta cũng phải bị đau khổ cách này hay cách khác theo tỉ lệ tương ứng. Nhưng có thể ta không bao giờ gặp lại người mà ta đã làm đau khổ. Trái lại, nếu là một điều quấy quan trọng, như làm tan nát cuộc đời hay làm chậm bước tiến hóa của kẻ khác, chắc chắn ta sẽ gặp lại nạn nhân của ta trong thời gian gần hay xa; vì chắc chắn chúng ta phải có dịp để sửa chữa lỗi ấy bằng lòng tốt hay sự quên mình để hàn gắn việc chúng ta đã gây ra. Tóm lại, các món nợ quan trọng có tính cách cá nhân, còn các món nợ nhỏ có thể làm cho phần tài sản chung to tát thêm.
Như vậy, nói chung, đây là yếu tố quyết định sự tái sinh của con người. Trước hết là định luật tiến hóa sẽ hướng dẫn con người đến vị trí khiến y có hoàn cảnh thuận tiện để phát triển các đức tính cần thiết cho y. Trong mục đích tổng quát ấy, nhân loại được chia thành nhiều giống dân mà ta gọi là giống dân chánh. Các giống dân chánh này luân phiên cai quản và chiếm ngụ địa cầu. Giống dân chánh A-rien hay Indo-caucasien hiện nay gồm những người văn minh nhất địa cầu, là một trong số đó. Giống dân chánh trước trong cơ tiến hóa là giống dân Mông cổ mà văn chương Thông Thiên Học gọi là giống Atlantic. Sở dĩ có tên này vì xưa kia, trước khi di cư rải rác khắp địa cầu, giống dân này chiếm ngụ một châu rất lớn nằm ngay vị trí Ðại Tây Dương ngày nay. Trước nữa, có giống dân da đen, con cháu giống dân này vẫn còn đến nay mặc dù đã lai với các giống dân hiện tại. Từ những giống dân chánh đó nảy sinh các giống dân phụ, như từ giống dân A-rien nảy sinh giống dân phụ La mã hay teutonique; từ giống dân phụ này sinh ra người Pháp, người Ý, người Anh và người Ðức.
Các sự sắp xếp đó có mục đích cung cấp cho các chơn nhơn một sự lựa chọn rộng rãi về nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau. Mỗi giống dân có một lý do sinh tồn riêng. Lý do đó là sự phát triển các đức tính cần thiết cho cơ tiến hóa.
Trong mỗi quốc gia có vô số điều kiện khác nhau; có giàu sang mà cũng có nghèo nàn. Ðối với người này có cả ngàn dịp tiến thân, đối với người kia không có gì cả. Với người này có nhiều phương tiện để làm lành, người kia lại gặp biết bao trở ngại. Thế nhưng trong tất cả các trường hợp, sức ép của định luật tiến hóa vẫn là hướng dẫn con người đến gặp điều thuận tiện nhất để phụng sự quyền lợi trong đời sống hiện tại của y.
Nhưng ý hướng của định luật tiến hóa lại bị hạn chế bởi luật nhân quả mà chúng ta đã bàn ở trên. Có thể trong quá khứ con người đã hành động như thế nào mà nó không xứng đáng, nếu ta có thể nói như thế, tìm ngược lại trên đường tiến hóa những cơ hội thuận lợi nhất cho sự phát triển của y. Có thể y đã huy động một vài sức mạnh và sức mạnh ấy lại bị hạn chế, cản trở y, nên y chỉ nhận được một lợi tức nhỏ bé trong những dịp mà y gặp. Như vậy, cũng đúng khi nói rằng sự áp dụng định luật tiến hóa riêng nó sẽ mang lại cho chúng ta một mối lợi lớn. Sự áp dụng đó lại bị cản trở bởi các hành vi quá khứ của ta.
Một yếu tố quan trọng có tác động mạnh vào điều thiện; đó là ảnh hưởng của một nhóm chơn nhơn có dính líu với một người trong quá khứ, bằng tình thương hay bằng oán hận, để giúp y hay để hại y và trên đường tiến hóa lại bị bắt buộc phải gặp y vì các oan trái ấy. Ở trường hợp này phải kể đến các oan trái ấy khi ta muốn xác định nơi nào, khi nào và hoàn cảnh nào mà đương sự phải tái sinh.
Ý muốn của Thượng Ðế là sự tiến hóa của nhân loại. Sự cố gắng của tạo hóa là ban cho con người những gì phù hợp nhất để giúp nó tiến hóa. Nhưng sự tiến hóa chính nó lại phụ thuộc vào công đức và oan trái của y trong quá khứ. Người ta có thể giả thiết rằng con người khi đầu thai có thể học những gì cần ích cho đời sống hiện tại, bất kể vị trí nào. Ở phân nửa các trường hợp hay nhiều hơn, điều kể trên không thể có, vì con người bị ràng buộc chặt chẽ vào hành vi của y trong những kiếp trước. Trong một vài may mắn còn lại, các hành vi quá khứ của y giúp y được gặp lại trong gia đình y hoặc trong những người quanh y, những chơn nhơn mắc nợ y vì các sự giúp đỡ của y đã làm cho họ, hoặc những chơn nhơn mà y còn nợ tình thương.
mục lục chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
CHƯƠNG TÁM
MỤC ÐÍCH CỦA ÐỜI SỐNG
Muốn làm tròn phận sự của chúng ta theo thiên cơ, chúng ta phải tìm hiểu chẳng những thế nào là thiên cơ mà còn phải biết phần dành riêng cho mỗi người trong cơ ấy. Chính trong khoáng sản là nơi linh khí nhập trước tiên vào chất trọng trược nhất. Linh khí ấy tiến đến sự cá thể hóa tuyệt đỉnh không phải ở mức thấp nhất nơi vật chất mà là khi nó tiến đến loài người trên đường xuất thế của cơ tiến hóa. Thế nên cơ tiến hóa chia làm ba giai đoạn :
a. Cung giáng hạ. Trong giai đoạn này ta thấy một khuynh hướng rõ rệt vừa cá thể hóa vừa vật chất hóa tối đa. Ở đây tinh thần tự bao mình bằng một lớp vật chất để tập thu nhận xuyên qua đó những cảm xúc từ bên ngoài.
b. Cung thăng thượng. Ở đây, khuynh hướng cá thể hóa càng rõ nét, đồng thời phát sinh hướng tinh thần hóa và vật chất lần hồi bị bỏ rơi. Trong giai đoạn này, tinh thần tập thống trị vật chất và xem vật chất như sự biểu lộ đơn giản của chính nó.
c. Phần chót của cung thăng thượng. Ðây là điểm cuối của sự cá thể hóa đồng thời với khuynh hướng tiến lên sự hợp nhất và tinh thần hóa cao. Trong thời gian này, tinh thần đã học tập thuần thục cách thu nhận và biểu lộ cảm xúc qua vật chất, đánh thức các quyền năng tiềm tàng, đem các quyền năng này phụng sự Thượng Ðế.
Mục đích của toàn thể sự tiến hóa là tạo những chơn nhơn có thể biểu lộ các đặc tính của Chơn thần. Chơn nhơn tới phiên mình cũng tiến hóa. Muốn vậy, chơn nhơn phải lần lượt đi xuống và nhập vào một số phàm nhơn. Người nào không biết như thế đều xem phàm nhơn như chính con người mình. Do đó, y chỉ sống và thu xếp đời sống để phục vụ phàm nhơn mà thôi. Trái lại, người hiểu biết thấy rõ chỉ có đời sống của chơn nhơn là quan trọng. Y sử dụng phàm nhơn để phục vụ sự phát triển của chơn nhơn. Cho nên khi y phải chọn giữa hai con đường, y không lý luận như người thường. Y tự hỏi : đường nào làm lợi cho phàm nhơn tôi nhất và đường nào giúp cho sự tiến bộ của chơn nhơn tôi nhất. Kinh nghiệm giúp y hiểu rằng không có cái gì tốt cho y hoặc cho một người khác lại không tốt cho tất cả mọi người. Như vậy y tập quên mình và chỉ muốn điều gì có thể phụng sự cho nhân loại mà thôi.
Chừng đó, ở giai đoạn tiến hóa này, y thấy rõ rằng tất cả cái gì hướng về sự hợp nhất và về tâm linh đều phù hợp với kế hoạch của Thượng Ðế, đều thuận tiện cho chúng ta; còn cái gì hướng về sự chia rẽ và về vật chất đều không tốt. Có nhiều tư tưởng và tình cảm hướng về sự hợp nhất như : tình thương, thiện cảm, cung kính và nhân hậu. Cũng có tư tưởng và tình cảm hướng về sự chia rẽ như : thù hận, ganh tị, ham muốn, kiêu hảnh, hung ác, lo sợ. Không thể nói khác được là nhóm thứ nhất biểu thị điều thiện, nhóm thứ nhì biểu thị điều ác.
Trong những tư tưởng và tình cảm thật xấu, cái trội nhất là lòng ích kỷ. Trái lại, trong các tư tưởng và tình cảm tốt, cái trội nhất là lòng vị tha, quên tất cả những gì thuộc về cái �ta�. Vì thế, phải kết luận rằng lòng ích kỷ là cái xấu nhất và trái lại, sự quên mình là hạnh cao nhất. Ðó là chỉ dẫn quí nhất cho sự sống mà chúng ta phải theo. Người nào muốn hợp tác với Thượng Ðế phải tránh xa tất cả thuộc về quyền lợi và sự vui thích cá nhân, dành tất cả cố gắng để thực hiện ý muốn của Thượng Ðế bằng cách làm việc cho điều thiện và cho hạnh phúc của kẻ khác.
Lý tưởng ấy đẹp nhưng khó đạt vì chúng ta có một số lượng ích kỷ còn sót từ trước. Phần đông chúng ta còn xa hạnh vị tha. Làm sao chúng ta có thể thực hiện hạnh ấy khi ta còn thiếu tánh tốt và còn mang nhiều tật xấu. Ðây là lúc chúng ta phải áp dụng luật nhân quả đề cập ở trên. Nếu chúng ta đã tin các định luật tự nhiên ở cõi vật chất, tại sao ta lại không tin các định luật tự nhiên chi phối các cõi cao ? Các tật xấu gặp ở nơi ta đều lần lần tăng trưởng do vô minh và sự dễ dãi đối với chính chúng ta. Bây giờ sự hiểu biết đã thay thế cho sự vô minh nên chúng ta nhìn nhận rằng các tật xấu đều làm hại ta, những phương tiện để dứt bỏ chúng cũng hiện rõ trước mắt ta.
Ðối với mỗi tật xấu phải lấy một hạnh tốt chống lại. Nếu một tật xấu nào muốn trú ngụ nơi ta, ta phải cương quyết phát triển một hạnh ngược lại. Nếu chúng ta biết trong quá khứ ta đã tỏ ra ích kỷ, nghĩa là trước hết, chúng ta có thói quen chỉ nghĩ về mình, chỉ muốn thỏa mãn lòng mình, làm vui thích chính mình mà không nghĩ đến các kết quả gây phiền muộn cho kẻ khác, thì ta phải khởi sự phát triển các đức tính hoàn toàn ngược lại. Trước khi hành động ta phải cố gắng suy nghĩ về những hậu quả. Ta tập thói quen làm vui lòng kẻ khác dù việc này có gây cho ta phiền muộn hay mất mát. Lần lần ta cảm thấy chúng rất tự nhiên với ta. Như thế một tiùnh tốt đã diệt được một tật xấu.
Nếu chúng ta nhận thấy chúng ta có tật hoài nghi, luôn luôn sẵn sàng gán cho kẻ khác một ý định hay một hành vi xấu thì ta phải vun bồi một cách có phương pháp lòng tin cậy kẻ khác. Chúng ta hãy tin rằng họ hành động với thiện ý. Người ta có thể bác bỏ điều này và cho rằng như thế ta khó tránh khỏi gặp nhiều thất vọng; lòng tin cậy như vậy không đúng chỗ. Lời biện bác này không quan hệ, vì tốt hơn thà là ta chấp nhận một vài lừa dối đối với lòng tin của ta hơn là lòng hoài nghi triền miên nơi ta. Hơn nữa, lòng tin làm nảy nở đức trung thành. Không nghi nan người thì người không dối ta. Trái lại, khi ta nghi ngờ một người nào, rất có thể trước sau gì người ấy cũng sẽ dối ta.
Nếu chúng ta có khuynh hướng hà tiện, chúng ta phải tức khắc rời con đường ấy, chúng ta hãy tìm dịp tỏ ra rộng lượng. Nếu chúng ta hay nóng giận, chúng ta hãy tập tiùnh kiên nhẫn. Nếu tính tọc mạch dày xéo chúng ta, chúng ta phải cương quyết không thỏa mãn nó. Nếu chúng ta thường nãn chí ngã lòng thì chúng ta kiên nhẫn tập tính vui vẻ bất kỳ ở hoàn cảnh khó khăn nào.
Bất cứ trường hợp nào, người ta có thể nói một cách tổng quát rằng tật xấu nào có trong phàm nhơn thì không có đức tính tương xứng ở chơn nhơn. Phương thế ngắn nhất để từ bỏ một tật xấu là ngừa sự tái xuất hiện của nó bằng cách lấp chỗ trống trong chơn nhơn bởi một đức tính tốt. Một đức hạnh được phát triển như thế sẽ là sở hữu của chơn nhơn và sẽ là thành phần cá tính của con người ở các kiếp sau. Một chơn nhơn không bao giờ xấu; chỉ chưa chứa đầy đức tính tốt mà thôi. Không thể chối cãi rằng những đức tính được phát triển ở chơn nhơn đều tốt cả. Những đức tính tốt ấy cũng có trong các phàm nhơn. Các phàm nhơn ấy không có tội vì những tật xấu đối nghịch. Nhưng chẳng qua là vì có các khoảng trống ở chơn nhơn, nên phàm nhơn không thể cản ngăn tật xấu đối nghịch tự phát rồi lớn dần. Ngoài ra, người chung quanh đều mang tật xấu, mà con người lại có đặc tính hay bắt chước, nên thế nào rồi tật xấu cũng bén rễ nơi y. Dù sao, tật xấu chỉ thuộc các thể thấp chứ không thuộc con người thật. Sự lập đi lập lại tật xấu sẽ thành thói quen khó trị. Nhưng nếu chơn nhơn cố gắng phát triển đức tính đối nghịch thì tật xấu bị tiêu diệt tận gốc và không còn tái hiện ở tất cả các kiếp sau.
Người đạt được các đức tính tốt phải gặp cả ngàn chướng ngại. Y cần tập chiến thắng các trở ngại ấy. Một chướng ngại to tát nhất là óc hay phê bình chỉ trích của thời này. Tật này giục ta chê bai tất cả, làm mất giá trị của việc làm tốt, tìm cái xấu ở mọi nơi và mọi người. Muốn tiến hóa ta phải làm tất cả cái ngược lại. Chúng ta phải tìm cái tốt ở mọi nơi và phát hiện Ðức Thượng Ðế ở mọi người. Chỉ với điều kiện duy nhất đó, ta mới có thể giúp đời và rút ra phần lợi tốt ở mọi việc.
Một chướng ngại nữa là sự không bền chí. Ở thời đại này, ít có đức tính kiên nhẫn. Vừa định làm một việc gì là chúng ta muốn hưởng liền kết quả. Nếu chúng ta nhận kết quả mà chúng ta cho là chưa đầy đủ, ta liền bỏ việc đó để chạy theo một việc khác. Nhưng nếu muốn học khoa huyền môn thì con đường đi phải khác hẳn. Chúng ta cố gắng giới hạn cuộc tiến hóa của chúng ta trong một hay hai kiếp khi mà định luật tự nhiên đòi hỏi cả trăm kiếp. Sự tiến hóa không phải là công việc cho kết quả liền tay. Cố gắng diệt trừ một thói quen xấu riêng nó cũng là một công việc khó. Tại sao vậy ? Vì có lẽ trên hai chục ngàn năm qua ta đã để nó lôi kéo ta, cho nên không thể ngày một ngày hai mà chúng ta có thể lay chuyển cái ách của nó. Vì chúng ta đã để thói quen xấu thành một tật lớn., chúng ta phải lần lần chế ngự nó trước khi đưa một sức đối nghịch mạnh đến can thiệp. Ðiều này cần có thời gian. Chắc chắn chúng ta sẽ thắng nếu chúng ta kiên trì. Bởi vì tật ấy dù mạnh đến đâu cũng vẫn là một giá trị hữu hạn, còn sức mạnh ta đem đối chọi lại là một sức mạnh vô bờ bến của ý chí con người. Nó có thể được lập đi lập lại không ngừng từ ngày này sang ngày khác, từ năm này sang năm khác và có thể từ kiếp này sang kiếp khác, nếu cần.
Chướng ngại lớn thứ ba trên đường đạo là sự không rõ ràng trong tư tưởng. Người phương Tây có tư tưởng ít rõ ràng về vấn đề tôn giáo. Những tư tưởng đó mơ hồ và khó hiểu. Ðó là điều tai hại cho sự phát triển huyền môn. Quan niệm chúng ta phải rõ ràng, hình tư tưởng phải xác định. Những đức tính cần thiết khác là điềm tĩnh và vui tính. Các đức tính này rất hiếm ở đời sống thời nay; lại rất cần trong công việc chúng ta ở đây.
Phương pháp phải theo để tạo tính tình nó cũng có tính khoa học như phương pháp tập luyện bắp thịt. Nhiều người than phiền rằng bắp thịt của mình mềm nhũn, thiếu mạnh mẽ, và tin tưởng rằng đó là do tình trạng sức khoẻ của họ. Trái lại, ai có vài hiểu biết về cơ thể con người đều hiểu rằng nhờ các vận động lập đi lập lại nhiều lần, các bắp thịt lấy được sự dẽo dai và làm cho sức khoẻ được khả quan. Sức khoẻ của tinh thần cũng như thế. Người phiền muộn, bi quan về tính xấu của mình, người có khuynh hướng hà tiện hoặc hoài nghi hoặc dễ dãi đối với mình, thường lầm lạc đổ trách nhiệm cho trời. Họ cho rằng đó là bẩm sinh, là thiên phú. Cho nên họ buông xuôi và cho rằng họ bất lực, không thể sửa đổi được.
Trong trường hợp này hay trường hợp trước, phương thuốc điều trị nằm trong tay họ. Thật vậy, một vận động đều đặn và thích hợp làm nảy nở một bắp thịt riêng biệt; cũng y như thế, một sự tập luyện tinh thần thích nghi làm mở mang đức tính mà chúng ta thiếu . Một người thường không hiểu rằng y có thể sử dụng phương tiện ấy. Mặc dù y có biết thì y cũng không biết với mục đích nào mà y phải hành động như vậy. Y cho rằng việc ấy đòi hỏi nhiều cố gắng và quyền lực trên sức y. Y cho rằng không có lý do đầy đủ để thực hành một công tác cực nhọc và khó khăn như thế.
Lý do này nằm trong khoa học của chân lý. Người nào có ý tưởng rõ rệt và chính xác về hướng tiến hóa đều cảm thấy chẳng những là quyền lợi mà còn là đặc quyền và vui tươi của y nếu y cộng tác với cơ tiến hóa. Ai muốn cứu cánh đều cũng muốn phương tiện. Muốn làm việc thiện cho đời phải mở mang sức mạnh và những đức tính cần thiết. Người nào muốn cải tạo thế gian phải cải tạo mình trước. Y tập quên các quyền lợi của y. Y rán làm hết bổn phận và tập thói quen xem các liên lạc của y với đồng loại là những dịp để y giúp ích họ bằng mọi cách. Người nào nghiền ngẫm vấn đề này một cách thông minh đều nhận biết sự rộng lớn của quyền năng tư tưởng và đều biết cần thiết phải chế ngự nó. Mỗi hành động đều phát sinh từ một tư tưởng hiện tại; nếu không vậy, hành động cũng do những tư tưởng, sở thích và cảm xúc bẩm sinh mà con người đã để phát triển nơi y từ quá khứ.
Vì vậy, người khôn ngoan, minh triết sẽ phải quan sát các tư tưởng của y một cách kỹ lưỡng bởi chúng là dụng cụ mà y phải sử dụng một cách tốt lành. Y có phận sự điều khiển tư tưởng của y. Không vậy, y có thể hành động quá trớn, gây thiệt hại cho y và cho người khác. Y cũng có bổn phận phải phát triển quyền năng tư tưởng của y, vì chỉ có điều kiện duy nhất đó, y mới có thể làm việc đắc lực và tốt lành đối với người chung quanh.
Kềm hãm tư tưởng và hành động, diệt trừ các mầm ác nơi mình, mở mang các đức tính tốt, con người sẽ mau lẹ tiến cao hơn đồng loại và tự phân biệt rõ rệt như những người làm việc thiện chống việc ác, làm việc cho tiến hóa chống lại trì độn.
Nhân viên Quần Tiên Hội, nắm giữ sự tiến hóa của nhân loại, luôn luôn tìm những người tốt như thế. Các vị này chỉ cho họ điều phải làm để giúp vào đại cuộc. Các vị hiền triết sẽ hấp dẫn sự chú ý của họ một cách tự nhiên. Ðầu tiên các Ngài sẽ dùng họ như một dụng cụ đơn giản. Tùy theo khả năng họ thi thố, họ sẽ tiến mau hay chậm.
Sau đó, con người được phân cho một trách vụ đặc biệt và thành người tập sự. Nhờ cố gắng giúp các Ðấng Chơn Sư trong công việc dìu dắt thế gian trên đường tiến hóa; một ngày kia người tập sự sẽ giống các Chơn Sư và sẽ gia nhập vào Quần Tiên Hội của các Ngài.
Nhưng muốn đạt đến những danh dự như thế thì lòng tốt thông thường chưa đủ. Ðành rằng trước hết con người phải tốt, vì nếu không y không thể là người hữu ích. Thêm nữa, y cần phải khôn ngoan và mạnh mẽ. Ðiều cần không chỉ là con người tốt mà còn phải là con người có quyền lực tâm linh. Từ bỏ những gì yếu hèn chưa đủ, y còn phải thụ đắc những đức tính mạnh mẽ và cụ thể trước khi đến trình diện Chơn Sư. Như vậy y mới có hi vọng được thu nhận. Không phải bằng hành động một cách ngu xuẩn hay ích kỷ, mà bằng hành động của một chơn nhơn minh triết, có ý thức về vai trò dành cho mình trong hệ thống vũ trụ. Kế đó, y còn phải quên mình trọn vẹn, từ chối ý tưởng về quyền lợi vật chất, về lạc thú hoặc về sự tiến bộ riêng tư. Y phải hi sinh tất cả, phải hi sinh cả bản thân cho quyền lợi cao cả của công việc phải làm. Sống giữa trần thế nhưng y không phụ thuộc trần thế, bất cần dư luận trần thế. Khi cần đến giúp đồng loại, y phải tự coi như vĩ đại hơn người thường : sáng chói, vui vẻ, không gì lay chuyển nổi; y sống trọn vẹn cho kẻ khác. Cuối cùng, mục đích của y là biểu lộ tình bác ái thiêng liêng ở cõi trần. Một lý tưởng tốt đẹp, cao thượng vô ngần ! Nhưng là một lý tưởng có thể vói tới vì đã có người đạt được rồi.
Khi một người đã thành công trong sự phát triển các quyền năng tiềm tàng thì gây sự chú ý của các Chơn Sư minh triết, đây là điều có thể xảy ra. Một trong các vị ấy nhận y như một người sơ tu. Thời gian thử thách lâu chừng bảy năm. Thời gian này có thể rút ngắn hay tăng thêm tùy ý Chơn Sư. Nếu việc làm của người sơ tu được hài lòng Ngài, y sẽ trở thành đệ tử được chấp nhận. Chừng đó y được liên lạc trực tiếp với Chơn Sư. Các rung động do tư tưởng của Chơn Sư đến với y không ngớt, cho đến nỗi, từ từ y trở nên có khả năng xem mọi việc giống như Chơn Sư. Sau một thời gian nữa, nếu thật sự y tỏ ra xứng đáng thì các liên lạc giữa y với Chơn Sư càng chặt chẽ hơn. Chừng đó người ta gọi y là Con của Thầy.
Ba giai đoạn trên chỉ đơn giản là sự liên lạc giữa người đệ tử và Chơn sư của y chớ không phải giữa y với Quần Tiên Hội. Vì Quần Tiên Hội chỉ nhận vào đoàn những người được Ðiểm đạo từ một lần trở lên.
Người ta có thể nói rằng sự gia nhập vào Quần Tiên Hội là bước ngoặc vĩ đại thứ ba trong cuộc tiến hóa của con người. Thật vậy, bước ngoặc thứ nhất là lúc con người tự cá thể hóa, từ bỏ loài cầm thú, thụ đắc thượng trí để thành người. Bước ngoặc thứ nhì là cái mà người Thiên chúa giáo gọi là sự cải hóa, tin Chúa, mà người Ấn độ giáo gọi là đắc sự phân biện, còn người Phật giáo gọi là mở tâm. Chừng đó, các sự kiện lớn lao của cuộc đời đều hiện rõ trước mắt người được Ðiểm đạo. Người được Ðiểm đạo quay lưng lại với tất cả những điều ích kỷ và nhập vào dòng tiến hóa vĩ đại để vâng mạng lệnh của Thượng Ðế. Bước ngoặc thứ ba là bước to lớn hơn cả, vì sự Ðiểm đạo mở cửa Quần Tiên Hội tiếp rước người đạo đồ. Từ đây người đạo đồ không giây phút nào quên phụng sự Thiên ý. Do vậy, người tiến đến trình độ này được Thiên chúa giáo gọi là người được tuyển lựa, người được cứu rỗi, Phật giáo gọi là người nhập lưu. Người đạo đồ chắc chắn sẽ vượt qua trạng thái ấy và sẽ tiến đến bậc Chơn tiên; đây là bậc siêu nhân loại.
Người đến trình độ Chơn tiên đã thực hiện Thiên ý, ít nhất trong dãy hành tinh của chúng ta. Ðến giờ này, ở giữa cuộc tiến hóa hiện tại, vị Chơn tiên đã đạt giai đoạn cuối cùng của cơ tiến hóa chỉ định cho nhân loại. Vị này được tự do, trong thời gian còn lại, để hoặc giúp đỡ đồng loại hoặc làm việc cho các cuộc tiến hóa cao hơn. Người không được điểm đạo có thể bị bỏ rơi khỏi làn sóng tiến hóa hiện nay mà Ðức Christ gọi đó là kết án lâu dài (condamnation éonienne) bị người ta dịch sai là địa ngục đời đời (damnation éternelle). Ðịnh mệnh này đưa con người đến sự thất bại trong cuộc tiến hóa lâu dài, trừ người đã được điểm đạo. Vị này đã nhập lưu; nghĩa là đã nằm trong làn sóng tiến hóa hiện nay để tiến đến tình trạng của bậc Chơn tiên. Tuy thế, ở đó, vị được điểm đạo này còn có thể bằng hành động của mình làm chậm hoặc tiến mau trên đường đạo.
Cuộc điểm đạo lần thứ nhất có thể so sánh với việc ghi tên sinh viên vào Ðại học và sự thăng chức Chơn tiên tương ứng với bằng tốt nghiệp Ðại học. Sinh viên huyền môn muốn đạt bằng này phải qua các kỳ thi trung gian mà chúng ta gọi là điểm đạo lần thứ nhì, lần thứ ba, lần thứ tư. Cuộc điểm đạo chót lần thứ năm là bậc Chơn tiên. Ta sẽ có một ý niệm tổng quát về loại tiến hóa cao siêu này bằng cách nghiên cứu những dây xiềng xích phải chặt đứt của kinh sách Phật giáo. Ðó chẳng qua là các tật xấu mà con người cần phải dứt bỏ lần lượt trên con đường tiến hóa. Ấy là: hoài nghi, do dự, mê tín dị đoan, ham mê dục lạc, thù hận, thích sống ở cõi này hay ở cõi cao, kiêu hảnh, nóng giận và chót hết là vô minh. Người bậc Chơn tiên có đủ khả năng phát triển tinh thần một cách hoàn hảo. Cuộc tiến hóa tương lai mở ra trước mắt vị này, là mở mang kiến thức sâu rộng hơn, là thụ đắc quyền năng tâm linh kỳ diệu hơn vậy.
mục lục chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
CHƯƠNG CHÍN
CÁC DÃY HÀNH TINH.
Kế hoạch tiến hóa của địa cầu chúng ta không phải là kế hoạch duy nhất trong Thái dương hệ. Trong Thái dương hệ có tất cả mười kế hoạch tiến hóa giống như thế. Mỗi kế hoạch tiến hóa đều trải qua trên một dãy các bầu hành tinh và mỗi dãy như thế phải luân hồi bảy lần trong suốt cuộc tiến hóa.
Kế hoạch phải theo trong tiến hóa chung và trong các lần luân hồi liên tiếp của dãy gồm các nét như sau : lần lần xuống sâu trong vật chất và sau đó cũng lần lần tiến lên vất bỏ vật chất.
Mỗi dãy có bảy bầu hành tinh. Các bầu cũng như các dãy đều phải theo một định luật tổng quát, nghĩa là trước hết phải xuống trong vật chất rồi sau đó mới tiến lên. Ðể dễ hiểu điều này, chúng ta lấy thí dụ dãy Ðịa cầu chúng ta. Hiện giờ, dãy Ðịa cầu chúng ta ở vào lần luân hồi (chu kỳ) thứ tư, nghĩa là lần xuống sâu vào vật chất nhất. Cho nên, ba trong số bảy bầu đều thuộc cõi vật chất, hai bầu thuộc cõi trung giới và hai bầu thuộc cõi hạ trí. Làn sóng sinh hoạt thiêng liêng trong toàn dãy đi liên tiếp từ bầu này đến bầu kia, khởi sự từ bầu tinh vi nhất xuống lần lần đến bầu trọng trược nhất rồi lại đi lên trở về mức cũ.
Ðể dễ hiểu hơn, chúng ta gọi tên bảy bầu bằng bảy chữ đầu của bảng chữ cái và bảy lần luân hồi bằng bảy con số. Như vậy, vì ta ở cuộc luân hồi thứ tư nên bầu thứ nhất được gọi là bầu 4A, bầu thứ nhì là bầu 4B, bầu thứ ba là bầu 4C, bầu thứ tư là bầu 4D (tức Ðịa cầu), bầu thứ năm là 4E, bầu thứ sáu là 4F và bầu thứ bảy là 4G.
Tất cả các bầu ấy không phải cấu tạo toàn bằng vật chất. Bầu 4A không chứa chất thấp hơn chất hạ trí. Nó có đối phần của nó ở các cõi cao. Bầu 4B ở cõi trung giới, nhưng bầu 4C là bầu vật chất thấy được bằng viễn vọng kính. Ðó là Hỏa tinh. Bầu 4D là bầu Ðịa cầu của chúng ta, làn sóng sinh hoạt đang tác động ở bầu này. Bầu 4E là Thủy tinh cũng ở cõi vật chất. Bầu 4F ở cõi trung giới; nó tương đương với bầu 4B ở cung đi xuống. Bầu 4G tương ứng với bầu 4A ở cõi hạ trí. Như vậy, ta thấy một dãy những bầu xuất phát từ cõi hạ trí, xuống cõi trung giới và cõi trần rồi trở lên cõi trung giới và cõi hạ trí như trước. Ðó là chấm dứt một lần luân hồi.
Các cuộc luân hồi liên tiếp của mỗi dãy đều diễn ra như thế. Chúng ta vừa trình bày tình trạng của cuộc tuần hoàn thứ tư. Nếu chúng ta nhìn về quá khứ, chúng ta thấy cuộc luân hồi thứ ba phát xuất từ cõi thượng trí chớ không phải từ cõi hạ trí. Như vậy, hai bầu 3A và 3G đều cấu tạo bằng chất thượng trí. Các bầu 3B và 3F ở cõi hạ trí; hai bầu 3C và 3E ở cõi trung giới. Chỉ riêng bầu 3D cấu tạo bằng vật chất hồng trần mà mắt thường chúng ta thấy được. Mặc dù cuộc luân hồi thứ ba đã mãn từ lâu rồi nhưng chúng ta còn thấy được cái xác chết của bầu 3D. Ðó là mặt trăng. Chúng ta đều biết rằng mặt trăng là một hành tinh đã tới thời kỳ tan rã. Cho nên chúng ta gọi dãy hành tinh đó là dãy Nguyệt tinh ở cuộc luân hồi thứ ba.
Cuộc luân hồi thứ năm của dãy hành tinh chúng ta sẽ xuất hiện ở tương lai rất xa và tương ứng với cuộc luân hồi thứ ba. Trong cuộc luân hồi thứ năm này, hai bầu 5A và 5G sẽ được cấu tạo bằng chất thượng trí, các bầu 5B và 5F bằng chất hạ trí, các bầu 5C và 5E bằng chất trung giới, chỉ riêng bầu 5D được cấu tạo bằng vật chất hồng trần. Lẽ tự nhiên là bầu 5D chưa được thành lập.
Những cuộc luân hồi khác của dãy cũng theo nguyên tắc trên và sẽ càng bớt vật chất. Những bầu 2A ,2G, 6A và 6G đều ở cõi trực giác (bồ đề). Các bầu 2B, 2F, 6B và 6F thuộc cõi thượng trí; các bầu 2C, 2E, 6C và 6E thuộc hạ trí; hai bầu 2D và 6D thuộc cõi trung giới. Cũng như thế, các bầu 1A, 1G, 7A và 7G đều thuộc cõi tâm linh; bầu 1B, 1F, 7B và 7F thuộc cõi trực giác; bầu 1C, 1E, 7C và 7E thuộc cõi thượng trí; bầu 1D và 7D thuộc cõi hạ trí.
Như vậy, ta thấy rằng làn sóng sinh hoạt đi xuyên qua các bầu của một dãy từ trên xuống và từ dưới lên đều theo một lối luân hồi liên tiếp trong một dãy và đều giống y như nhau.
Có tất cả mười hệ tiến hóa hiện hữu bây giờ trong Thái dương hệ của chúng ta, nhưng chỉ có bảy trong chúng có bầu vật chất. Ðó là :
1/. Hệ tiến hóa của một hành tinh chưa nhận ra, gọi là Hỏa vương tinh, ở gần mặt trời nhất, đã tiến đến cuộc luân hồi thứ ba, chỉ có một bầu vật chất thấy được.
2/. Hệ Kim tinh. Ðang ở cuộc luân hồi thứ năm, chỉ có một bầu vật chất thấy được.
3/. Hệ Ðịa cầu , Hỏa tinh và Thủy tinh có ba bầu vật chất và đang ở cuộc luân hồi thứ tư.
4/. Hệ Mộc tinh
5/. Hệ Thổ tinh
6/. Hệ Thiên vương tinh
Cả ba hệ này đang ở cuộc luân hồi thứ ba của mỗi hệ.
7/. Hệ Thủy vương tinh
Và hai hệ không tên ở ngoài quỉ đạo Thủy vương tinh.
Hệ Thủy vương tinh ở vào cuộc luân hồi thứ tư và có ba hành tinh vật chất như hệ Ðịa cầu chúng ta.
Trong mỗi lần luân hồi của một dãy hành tinh ( mà ta gọi là một đời của dãy), làn sóng sinh hoạt thiêng liêng đi lần lượt bảy vòng xuyên qua bảy bầu. Một vòng như vậy được gọi là một cuộc tuần hoàn. Thời gian của làn sóng sinh hoạt ở một bầu được gọi là thời kỳ của một bầu. Trong mỗi thời kỳ của bầu có bảy giống dân chánh như chúng tôi đã giải ở trước. Mỗi giống dân chánh có bảy giống dân phụ; rồi mỗi giống dân phụ lại chia thành nhánh.
Ðể hiểu sự kiện này, chúng tôi xin tóm tắt thành bảng sau đây:
7 giống dân phụ hợp thành 1 giống dân
7 giống dân phụ chánh hợp thành 1 giống dân
7 giống dân chá 1 thời kỳ bầu
7 thời kỳ bầu 1 cuộc tuần hoàn
7 cuộc tuần hoàn 1 đời của dãy
7 đời của dãy 1 hệ hành tinh
7 hệ hành tinh 1 thái dương hệ của chúng ta
Rõ ràng là giống dân chánh thứ tư , của bầu thứ tư, của cuộc tuần hoàn thứ tư, của dãy thứ tư là điểm chính giữa của một hệ tiến hóa. Hiện nay, chúng ta vừa qua khỏi điểm giữa ấy. Giống dân chánh A-rien của chúng ta hiện nay là giống dân chánh thứ năm của bầu thứ tư. Cho nên trung tâm điểm của hệ tiến hóa Ðịa cầu là thời kỳ của giống dân chánh thứ tư, tức giống Aùt-lăng. Như vậy, tổng quát thì nhân loại đã đi quá nửa đường tiến hóa. Chỉ có một vài linh hồn đã đến gần mức Chơn tiên, là mức cao nhất mà con người sau khi đã vượt qua khỏi các đồng loại trên đường đạo mới đến được.
Tại sao vài người ấy có thể tiến lên như thế ? Ðối với vài người, một phần làvì họ đã làm việc vất vả. Một cách tổng quát, họ là những chơn nhơn già giặn, vì họ đã thoát kiếp thú từ lâu về trước và họ đã có thời gian hoàn tất phần làm người ở cuộc tiến hóa của họ.
Làn sóng sinh hoạt phát xuất từ Ðức Thái Dương Thượng Ðế đòi hỏi một cách tổng quát thời gian của một dãy cho mỗi loài lớn trong thiên nhiên. Ở dãy thứ nhất của Ðịa cầu, làn sóng sinh hoạt làm linh hoạt loài tinh hoa thứ nhất, cũng làm linh hoạt loài tinh hoa thứ nhì ở dãy thứ nhì, làm linh hoạt loài tinh thứ ba ở dãy thứ ba (dãy Nguyệt tinh) và hiện đang làm linh hoạt loài khoáng sản ở dãy thứ tư. Trong dãy thứ năm, nó sẽ làm linh hoạt loài thảo mộc; nó sẽ làm linh hoạt loài cầm thú ở dãy thứ sáu và loài người ở dãy thứ bảy.
Như vậy chúng ta đã là khoáng sản ở dãy thứ nhất, là thảo mộc ở dãy thứ nhì, cầm thú ở dãy thứ ba (dãy Nguyệt tinh). Ở dãy Nguyệt tinh, một phần trong chúng ta thoát kiếp thú và thành người. Loài người đã khởi phát như thế ở dãy Ðịa cầu. Một phần khác tiến chậm hơn nên bị rớt lại và phần này còn phải giữ trong một thời gian nữa ở dãy này trước khi thành người.
Tất cả mọi người không phải phát triển một lượt ở dãy Ðịa cầu. Khi dãy Nguyệt tinh ở giai đoạn chót, loài người ở đó có nhiều trình độ khác nhau. Không phải ở trình độ Chơn tiên mà là ở trình độ tương đương với bậc thứ tư trên Ðường đạo; đó là trình độ cao nhất được chỉ định và là trình độ mà mọi người mong ước. Những người đạt trình độ đó ở dãy Nguyệt tinh được Thông Thiên Học gọi là Thần Nguyệt tinh, có luôn luôn trước mặt các vị này bảy con đường để họ lựa chọn. Một trong bảy con đường đó đưa họ, hay một số nhỏ của họ vào dãy Ðịa cầu để thành những người phụng sự dìu dắt và dạy dỗ các giống dân sơ khai đầu tiên. Phần lớn con người Nguyệt tinh chưa đạt trình độ cao này phải tái xuất hiện thành con người Ðịa cầu. Ngoài ra có một khối to tát cầm thú ở Nguyệt tinh cũng tiến đến lúc thành người. Một phần đã thành người rồi; một phần khác còn phải luân hồi thành thú ở dãy Ðịa cầu. Giờ chúng ta không bàn đến chúng nữa.
Nhân loại gồm nhiều hạng người, cách phân phối ở dãy Ðịa cầu cũng nên được giải thích. Trước tiên, đây là một định luật tổng quát : Những người đã đạt trình độ cao ở bất cứ dãy hành tinh nào, ở bất cứ bầu nào, ở bất cứ giống dân chánh nào, đều không phải là đã sinh ra lúc đầu tiên của dãy trước, bầu trước hay giống dân chánh trước. Các giai đoạn mở đầu đều dành cho những người tiến chậm. Chỉ chừng nào các người này đến một phần lớn của đường tiến hóa và đến gần trình độ của các người kia thì các người kia mới khởi sự xuống đầu thai để gặp họ. Thế có nghĩa là hình như phân nửa trước của cuộc tiến hóa ở một giống dân, ở một bầu hay ở một dãy hành tinh đều gần như để dành cho những người tiến chậm theo kịp người tiến mau. Trong lúc ấy, người tiến mau thì đang nghỉ ngơi vui tươi ở cõi trí. Sau đó, những người tiến mau này đầu thai và tiếp tục cùng những người kia tiến bước đến hết một thời kỳ.
Thế nên, những chơn nhơn đầu tiên đi từ mặt trăng sang dãy Ðịa cầu tuyệt nhiên không phải là người tiến hóa cao. Thật ra, ta có thể nói họ là những người mới chuyển kiếp thú thành người. Ðó là những người-thú. Xuất hiện như vậy trong một dãy hành tinh vừa mới tổ chức, họ có phận sự thành lập hình dạng của các loài thiên nhiên. Ðó là công việc chỉ làm một lần thôi, trong thời gian của cuộc tuần hoàn thứ nhất ở một dãy hành tinh mới. Thật thế, mặc dù sự sống đang tập trung trên một trong bảy bầu vào một thời kỳ nhất định nào, sự sống ấy cũng không phải hoàn toàn mất hẳn ở các bầu khác. Thí dụ, hiện nay làn sóng sinh hoạt của dãy hành tinh này đang hoàn toàn tập trung vào Ðịa cầu. Ðiều này không cản trở rằng trên hai bầu kia, Hỏa tinh và Thủy tinh, chẳng có sự sống. Người ta cũng thấy ở đây con người, cầm thú, thảo mộc. Cho nên, khi làn sóng sinh hoạt tạo một vòng tuần hoàn và linh hoạt ở một hành tinh này hay một hành tinh kia, không cần thiết phải tạo hình thể mới, vì các hình thể cũ vẫn tồn tại. Nhưng sự phong phú bất chợt và lạ lùng sẽ tạo mau chóng các loài thiên nhiên, số dân chúng đang trụ một lúc nay phát triển đến một tỉ lệ rất cao.
Như vậy, chính là người-thú, nghĩa là người ít tiến hóa nhất ở dãy Nguyệt tinh đã tạo các hình thể trong cuộc tuần hoàn thứ nhất ở dãy Ðịa cầu. Kế đó, những con thú tiến hóa nhất trong loài thú Nguyệt tinh đến chiếm những hình thể đã lập sẵn. Ðến cuộc tuần hoàn thứ nhì của dãy Ðịa cầu, những người-thú ít tiến hóa nhất trong loài người Nguyệt tinh thành người dìu dắt người Ðịa cầu. Những con thú tiến hóa nhất ở Nguyệt tinh đồng thời thành lập các giai thấp kém ở nhân loại chúng ta. Hiện tượng tương tự đã xảy ra ở cuộc tuần hoàn thứ ba : luôn luôn một phần lớn thú vật dãy Nguyệt tinh đến lúc chuyển kiếp thành người thì thành người trong hàng ngũ chúng ta. Ở giữa cuộc tuần hoàn thứ ba này, trên bầu D (tức là Ðịa cầu), một giai cấp cao con người, hạng thứ nhì của người Nguyệt tinh đến đầu thai và liền đó, họ nắm quyền chỉ huy.
Ðến cuộc tuần hoàn thứ tư, là cuộc tuần hoàn hiện nay, hạng nhân loại thứ nhất ở Nguyệt tinh lan tràn trên chúng ta. Ðó là những người tiến hóa nhất và tốt nhất ở Nguyệt tinh nhưng chưa đạt mục đích cuối cùng của dãy. Một số người này ở Nguyệt tinh đã để chân lên đường đạo và đã gần đạt đạo. Họ đã thành Chơn tiên Thánh thiện và đã rời Ðịa cầu. Một số người khác, ít tiến hóa hơn, cũng đã đắc Chơn tiên, tương đối gần chúng ta hơn, nghĩa là chừng vài ngàn năm. Ðó là các vị Chơn tiên hiện nay. Chúng ta thuộc nhân loại tiến hóa hiện nay, đã là hàng thấp nhất đối với các vị Chơn tiên này. Nhưng có nhiều dịp đến với chúng ta, nếu chúng ta muốn tiến bước theo các vị ấy.
Cuộc tiến hóa mà chúng tôi vừa mô tả là cuộc tiến hóa của chơn nhơn, của cái mà ta có thể gọi là linh hồn con người. Nhưng đồng thời cũng là cuộc tiến hóa của thể xác. Những hình thể đã tạo ở cuộc tuần hoàn thứ nhất rất khác xa các hình thể chúng ta biết hiện nay. Thật ra chúng ta miễn cưỡng gọi đó là các hình thể, vì lúc ban sơ các hình thể ấy được tạo ra bằng chất dĩ thái. Chúng nó giống như các cụm mây, nổi trôi, không hình dáng rõ rệt. Ðến cuộc tuần hoàn thứ nhì, chúng nó mới là vật chất hữu hình nhưng cũng không có hình dáng rõ nét và rất nhẹ nên có thể bay bổng lang thang theo chiều gió.
Chỉ đến cuộc tuần hoàn thứ tư, các hình thể ấy mới có một vài điểm giống con người hiện nay. Cách thức sinh sản các hình thể ấy cũng khác với cách thức hiện nay. Ta có thể so sánh cách thức sinh sản ấy với cách thức sinh sản các mẫu sống thô sơ nhất. Con người ở thời kỳ sơ khởi ấy đều lại cái (bán nam bán nữ). Sự phân chia hai tính đực cái chỉ xảy ra khoảng giữa cuộc tuần hoàn thứ ba. Từ đó các hình thể con người tuần tự tiến hóa có phương pháp để thành như ngày nay. Chúng lần lần được tinh luyện và được cứng cát hơn trước. Chúng đứng thẳng, không còn bò như trước và lần lần tự phân biệt với hình thể các con thú.
Có một ngoại lệ lạ lùng trên đường tiến hóa đáng được nêu ra. Trên bầu Ðịa cầu của ta, ở vào cuộc tuần hoàn thứ tư, có một sự đổi hướng. Một cách tổng quát, Ðịa cầu là bầu thứ tư ở cuộc tuần hoàn thứ tư. Chính giữa đường tiến hóa của nó là thời gian cuối cùng để loài thú chuyển kiếp. Vì vậy, một cố gắng lớn được đem ra thử, một kế hoạch đặc biệt được dựng lên để tạo một dịp may chót cho chúng. Những cơ hội, những điều kiện của cuộc tuần hoàn thứ nhất và thứ nhì được tái lập; đó là những cơ hội mà các con thú chậm tiến đã bỏ dở. Nhờ có tiến bộ chút ít ở cuộc tuần hoàn thứ ba, một vài con thú trễ ấy đã nắm được cơ hội. Chúng chuyển kiếp vào giờ chót, trước khi cửa trời đóng lại. Và chúng đã thành người. Tự nhiên là chúng không thể đạt liền mức cao được. Dù sao, đến dãy hành tinh tương lai, chúng có sẵn một chút kinh nghiệm về trường hợp này.
Cuộc tiến hóa của Ðịa cầu chúng ta có một sự kích thích mạnh mẽ từ một bầu chị em; đó là bầu Kim tinh. Bầu Kim tinh hiện nay ở vào cuộc luân hồi thứ năm của dãy và vào cuộc tuần hoàn thứ bảy; cho nên dân cư ở bầu ấy tiến hơn chúng ta tới một cuộc tuần hoàn rưỡi. Như thế, dân cư ở hành tinh đó tiến hóa hơn chúng ta; đã đến lúc các Ðấng Chơn tiên ở Kim tinh được chuyển đến Ðịa cầu đúng vào thời kỳ xáo trộn trước khi cửa trời đóng lại vào giữa giống dân chánh thứ tư.
Các Ðấng Oai Nghi ấy chúng ta gọi là các Hỏa Ðức Tinh quân hoặc là các Hoàng tử của Sương mù lửa. Các Ðấng ấy có một ảnh hưởng rất to lớn đối với sự tiến hóa của chúng ta. Trí hóa thông minh mà nhân loại chúng ta thường tự hào cũng chỉ nhờ sự hiện diện của các Ðấng ấy. Ðúng ra, trên đường tiến hóa thông thường phải vào cuộc tuần hoàn sau ở Ðịa cầu mới có các tiến bộ về trí thức ấy. Theo đúng lẽ, ở cuộc tuần hoàn thứ tư hiện nay chúng ta chỉ phát triển được năng khiếu cảm xúc mà thôi. Như vậy là chúng ta vượt quá chương trình đã định. Sự đi trước ấy có được là nhờ sự giúp đỡ duy nhất mà các Ðấng Hỏa Ðức Tinh quân đã ban cho chúng ta. Phần nhiều các Ðấng ấy chỉ ở với chúng ta trong thời kỳ khủng hoảng của Ðịa cầu hiện nay mà thôi. Vài Ðấng ấy còn có mặt ở Ðịa cầu làm tròn các trọng trách mà Quần Tiên hội đã giao và tiếp tục ở lại đến thời kỳ mà nhân loại được hoàn thiện. Chừng đó các Ðấng ấy mới rảnh tay và từ biệt chúng ta.
Sự tiến hóa trước mặt chúng ta có hai phương diện là sự sống và hình thể. Vì trong các cuộc tuần hoàn sắp tới, khi các chơn nhơn, một cách có phương pháp, đã lớn mạnh về minh triết và bác ái thì các thân thể vật chất cũng phải tốt đẹp và hoàn mỹ hơn. Trong thế giới hiện nay của chúng ta có nhiều hạng người ở nhiều giai đoạn tiến hóa khác nhau. Chúng ta dễ dàng thấy nhiều bộ lạc dã man còn ở sau xa đối với các giống dân văn minh, xa cho đến nỗi họ không bao giờ theo kịp. Sau này, trên đường tiến hóa của chúng ta hiện nay có một lúc mà các linh hồn ấu trĩ không còn cách thế nào để tiến kịp nữa. Họ bị bắt buộc phải tách ra.
Cũng giống như các nhà giáo sắp xếp các học sinh ra từng nhóm. Trong năm học, họ chuẩn bị cho các học sinh đi thi Ðến giữa năm học, họ có thể nói em nào sẽ đậu. Cũng có nhiều em học hành trễ nãi nên không hi vọng thi đậu. Thầy giáo buộc lòng phải nói một cách hữu lý với các học sinh yếu ấy như vầy:
Các con cố gắng cũng vô ích, không sao các con theo kịp chúng bạn. Từ đây về sau bài vở sẽ khó hơn đối với các con. Các con không thể hiểu hết. Các con không sẵn sàng để đi thi. Sự rán sức sẽ làm cho các con mệt thêm một cách vô ích. Hơn nữa, các con còn làm trở ngại sự tiến bộ của các bạn. Tốt hơn các con không nên theo đuổi một sự hão huyền. Hãy học lại các bài vở của lớp dưới mà các con chưa học kỹ. Năm tới các con sẽ đi thi. Các cuộc thi hiện nay đều quá tầm tay của các con, nhưng chúng sẽ dễ dàng cho các con sau này.
Ðiều trên đây cũng giống y như vậy trong giai đoạn tiến hóa đặc biệt ở tương lai của chúng ta đối với các linh hồn còn non trẻ. Những linh hồn này sẽ tách ra khỏi nhóm và xuống nhập vào nhóm trước. Ðó là sự kết án lâu dài đã được nói ở trên. Người ta ước lượng có khoảng hai phần năm nhân loại sẽ rơi vào tình trạng ấy. Ba phần năm nhân loại còn lại sẽ tiếp tục tiến mau đến số phận huy hoàng đang chờ họ.
mục lục chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
CHƯƠNG MƯỜI
KẾT QUẢ CỦA SỰ NGHIÊN CỨU THÔNG THIÊN HỌC.
Các hội viên của Hội Thông Thiên Học nghiên cứu các chân lý ấy; còn các nhà Thông Thiên Học đem chúng ra áp dụng. Nhờ các kiến thức ấy, người Thông Thiên Học thật sự là người như thế nào ? Y rút ra được lợi gì trong cuộc sống hằng ngày của y ?
Người Thông Thiên Học biết rằng có một Quyền lực tối thượng, vô cùng minh triết, vô cùng bác ái, đang điều khiển dòng tiến hóa, nên y thấy tất cả sự hiện tồn đều nằm trong kế hoạch mà Quyền lực ấy đã vạch ra để thúc đẩy mức tiến bộ. Y hiểu rằng đây không phải là bày vẽ thơ mộng suông, cũng không phải là một ước vọng thành kính để ru ngủ khi các Thánh kinh đều bảo : Tất cả đều vì hạnh phúc chung. Y biết rõ rằng đây là một sự kiện khoa học. Y tin chắc chắn tuyệt đối vào mức vinh quang vô lượng của loài người mặc dù điều kiện hiện hữu của mỗi người như thế nào. Nhưng không phải chỉ có thế là hết. Ở cõi trần hiện nay mỗi người đều hướng về sự vinh quang ấy. Tất cả các hoàn cảnh đều có lý do của chúng. Sở dĩ các hoàn cảnh đó hiện diện không phải là bày ra các chướng ngại. Mỗi người phải hiểu tại sao chúng lại có mặt trên đường tiến hóa của mình. Than ôi, trên đời sống đành rằng có các điều xấu xa, các đau khổ, các phiền muộn dày vò chúng ta. Nhưng người Thông Thiên Học, theo phương diện cao của y, y không lo ngại mặc dù các phiền não ấy có kinh khủng như thế nào; vì y biết rằng các phiền não ấy chỉ tạm thời, ở trên bề mặt. Chúng còn giúp y tiến mau là đằng khác.
Khi còn vô minh và khi y xem các phiền não ấy theo quan niệm thấp kém, y không biết rằng các phiền não chẳng quan trọng gì cả. Khi y xem xét lẽ sống từ phía dưới, y chỉ luôn luôn thấy các việc đều có vẻ xấu xa, y không bao giờ nắm được ý nghĩa thật của sự sống. Bây giờ, khi y tiến lên các mức cao của tư duy và của tâm thức, khi y xem xét lẽ sống từ bên trên nhìn xuống bằng cặp mắt của tinh thần và khi y xem xét toàn bộ cuộc đời, y bị bắt buộc phải nhận rằng tất cả đều vì sự tốt lành. Sự tốt lành này không phải đợi đến một tương lai xa vời nào, mà ngay ở hiện hữu, giữa các khó khăn và tranh đấu bề ngoài, dòng tiến hóa mạnh mẽ cứ luôn trôi chảy không ngừng. Tất cả đều tốt lành vì tất cả đều có một mệnh lệnh toàn hảo hướng về mục đích tối hậu tốt lành.
Khi vượt lên khỏi các cơn bão lòng và những bất trắc của cõi trần, người Thông Thiên Học mới trực nhận những điều mà y cho là những tai nạn và chú ý rằng dường như những tai nạn ấy chống lại dòng tiến hóa. Thật ra, nếu so sánh chúng với dòng tiến hóa thiêng liêng, ta thấy chúng cũng giống như các cụm bọt trên dòng thác vĩ đại Niagara, nghĩa là không quan hệ gì cả. Thế nên, khi thông cảm với người đau khổ, người Thông Thiên Học có một ý niệm về nỗi khổ của họ. Vì vậy, ta có thể nói rằng y không bị chi phối bởi sự thất vọng hay lòng chán nãn. Y áp dụng cảm tưởng này vào nỗi đau buồn và lo lắng của chính y cũng như của người khác. Ðối với y, giáo lý Thông Thiên Học có một kết quả đáng khen là đã giữ y trong sự an tịnh hoàn toàn, có thể nói là đã cho y một niềm hoan lạc trường cữu và một khí sắc luôn luôn vui tươi.
Ở nơi y, không bao giờ có buồn phiền. Làm sao có buồn phiền, lo âu được khi y biết rõ rằng tất cả đều tốt lành ? Thông Thiên Học là khoa làm cho y thành người rất lạc quan. Thông Thiên Học cho y thấy rằng một điều ác ở một người nào hay ở một động tác nào chỉ là việc tạm thời trên đường tiến hóa bất biến; rằng điều thiện ở một người nào hoặc ở một động tác nào phải được bền vững vì phía sau có một sức mạnh toàn năng nâng đỡ; rằng từ đây, điều thiện ấy vẫn tồn tại và chắc chắn tiến đến khải hoàn.
Tuy nhiên, không nên một phút nào ta nghĩ rằng rốt cuộc điều thiện sẽ đắc thắng rồi thờ ơ lãnh đạm đối với điều ác vây quanh ta. Trái lại, ta có bổn phận phải phấn đấu chống lại chúng nếu chúng ta muốn làm việc phù hợp với sức mạnh tiến hóa toàn năng và muốn mau được đến mức khải hoàn vinh quang tối thượng. Ta phải giúp đồng loại hơn mọi người vì ta không còn cảm giác bất lực và chán nãn của người thường.
Nghiên cứu, học hỏi giáo lý Thông Thiên Học còn một điều lợi khác nữa. Ðó là giải thoát khỏi sự sợ hải. Có biết bao người thường lo âu xao xuyến, sợ hải việc sẽ xảy đến, sợ một toan tính bị thất bại, thành ra không bao giờ họ được yên nghĩ. Ðiều mà họ sợ nhất là sự chết. Người Thông Thiên Học không bao giờ sợ chết. Y tin tuyệt đối vào định luật luân hồi. Y biết rõ rằng từ lâu y đã bỏ nhiều thể xác, lần lượt hết cái này đến cái khác; rằng cái chết chỉ là một giấc ngủ. Y biết rằng, cũng như giấc ngủ giữa hai ngày làm việc đem lại cho ta sự ngơi nghỉ và giải lao cần thiết; sự chết là một đêm dài giữa hai kiếp sống hồng trần; rằng đời sống của thể vía ở trung giới và thể trí ở thượng giới cũng đem đến sự ngơi nghỉ và giải lao; đồng thời hai cuộc sống ấy còn giúp vào sự tiến hóa cá nhân.
Như vậy, đối với người Thông Thiên Học, sự chết chỉ là sự cởi lớp áo xác thịt mặc ngoài một các tạm thời. Y biết rằng y có bổn phận phải giữ chiếc áo ấy càng lâu càng tốt, để y có thể khai thác được nhiều kinh nghiệm. Nhưng đến lúc cần cởi bỏ nó thì y vui lòng cởi bỏ không tiếc rẻ vì y biết chiếc áo mới mà y mặc sẽ dễ chịu hơn nhiều. Do đó, y không sợ chết. Nhưng điều quan trọng là y biết rằng là y phải sống đến cùng vì y hiểu rõ là y phải làm việc cho sự tiến bộ của chính y. Sự tiến bộ đó mới thật là điều quan trọng. Như vậy, quan niệm về đời sống của y hoàn toàn khác với quan niệm của người thường. Mục đích của y không phải là rán trở nên giàu sang, có địa vị này địa vị kia. Ý niệm duy nhất của y là thực hiện kế hoạch thiêng liêng. Y biết rõ rằng mục đích duy nhất của y ở cõi trần là như thế và tất cả sự việc khác đều vô nghĩa trước lý tưởng ấy.
Hơn nữa, y được hoàn toàn giải thoát khỏi sự sợ sệt, sự ngần ngại và sự trói buộc của các tôn giáo. Ðối với y, các sự ấy không còn quan trọng nữa. Y biết rằng mục đích duy nhất của y là sự tiến bộ đến lý tưởng tối thượng, đến cái mà Thượng Ðế muốn. Chúng ta không thể nào ở ngoài cuộc tiến hóa chung ấy mặc dù có bao nhiêu trở ngại cho y nhưng tất cả đều đồng giúp y tiến hóa. Rốt cuộc, chỉ có chính y là người có thể làm chậm sự phát triển của y mà thôi. Không còn lo âu, không còn sợ sệt đối với y nữa. Một cách đơn giản là y chỉ còn tiến bước và rán làm tròn bổn phận của y, vì y tin chắc rằng khi cư xử như thế thì tất cả đều thuận tiện cho y.
Cho nên các lo âu triền miên của người thường đối với y không còn nữa. Thỏa mãn hoàn thành bổn phận và rán giúp đồng loại làm cho y vui sướng vì y tin chắc vào Quyền năng tối thượng đã giúp y tiến tới mặc dù chậm chạp nhưng chắc chắn khi y đi đúng đường và làm tròn bổn phận.
Chừng đó, y biết rằng tất cả chúng ta đều là một phần của cuộc tiến hóa vĩ đại, đều là con một cha; cho nên y tin chắc rằng tình huynh đệ đại đồng không phải là một quan niệm thơ mộng mà là một sự kiện xác định, chẳng phải là một không tưởng mà là một thực tế. Sự chắc chắn của tình huynh đệ đại đồng ấy mở ra trong đời sống y những chân trời bao la hơn và giúp y xem xét tất cả sự việc theo một quan điểm cao hơn. Y trực nhận rằng quyền lợi của tất cả chúng ta đều như nhau, rằng không một lợi lạc riêng cho người này lại không gây mất mát hay phiền muộn cho người khác. Lý thuyết này không phải là một tín điều suông nhưng là một sự kiện khoa học mà các tìm tòi của y đã chứng minh. Y thấy rằng, nếu thật sự nhân loại là một, thì tổn hại của người này không thể là một lợi lạc cho người khác, vì điều ác không những làm hại cho người tạo ra mà còn gây hại cho tất cả những người chung quanh nó.
Y tin quyết rằng niềm lạc thú thật sự là niềm lạc thú mà y chia xẽ với tất cả. Y thấy rằng sự tiến bộ về tâm linh hay sự phát triển của y không những có lợi cho y mà còn lợi cho kẻ khác. Nếu y thụ đắc những kiến thức hay sự tự chủ bản thân, dĩ nhiên điều ấy có lợi cho cá nhân y mà cũng đồng thời không làm thiệt hại đến người chung quanh; trái lại, như thế y giúp và khuyến khích họ một cách tốt đẹp hơn.
Vì tin chắc vào sự thuần khiết tuyệt đối về tâm linh nhân loại nên người Thông Thiên Học biết rằng, dù ở cõi trần này, không một lợi lôïc nào thụ đắc được mà không do nhân danh và do điều thiện cho toàn nhân loại; rằng sự tiến bộ đối với con người là làm nhẹ bớt gánh nặng cho kẻ khác; rằng tiến bộ của y là tiến bộ của nhân loại; rằng dù ít oi thế nào, khi mỗi người gánh chịu một cách cao quí sự đau khổ và những khó khăn trong tranh đấu để tiến về ánh sáng là người ấy làm nhẹ bớt gánh nặng phải mang của các anh em y.
Vì y biết rằng tình huynh đệ đã liên kết mọi người không phải là một ảo tưởng riêng của kẻ thất vọng mà là một sự kiện xác định kết quả tất yếu của các sự việc khác, cho nên thái độ của y đối với những người chung quanh thay đổi toàn vẹn tận gốc rễ. Y trở nên người có khả năng giúp đời, ban rải lòng trắc ẩn, vì y thấy rằng tất cả cái gì đi ngược lại quyền lợi cao cả của họ không thể có ích và tốt lành đối với y.
Do đó, y có một sự khoan dung rộng khắp và một đức tính từ thiện tuyệt đối. Ta có thể quan niệm dễ dàng tại sao y có tính khoan dung. Khoa triết học của y, chứng minh cho y thấy rằng không quan trọng khi ta theo một tin tưởng này hay một tin tưởng khác. Ðiều quan hệ đối với y là con người phải tốt bụng và thành thật. Mặt khác, y không thể không từ thiện. Những kiến thức uyên bác của y không làm cho y có đủ sức chấp nhận một số lớn sự việc mà người thường không nắm được sao ? Lý tưởng của người Thông Thiên Học về việc thiện hay về việc ác bao giờ cũng cao hơn người ít học; mặc dù y rất khoan dung đối với kẻ có tội vì y có ý tưởng rất rõ về bản chất con người. Y tìm những hoàn cảnh giảm khinh cho kẻ lỗi lầm và sẵn sàng tha thứ hơn người khác dốt về mặt đó.
Y còn đi xa hơn sự khoan dung, lòng từ ái và thiện cảm : y nhận thấy một tình thương thật sự đối với nhân loại. Ðiều này đưa y đến sự tận tâm và lòng bác ái cao đẹp. Y thấy trước rằng sự giao thiệp với kẻ khác là dịp may cho y thật sự, các kiến thức bổ túc cho sự nghiên cứu của y làm cho y có thể giúp ích và cho ra lời khuyên nhủ tốt trong tất cả các trường hợp. Không phải y luôn luôn có ý muốn ép kẻ khác chấp nhận tư tưởng của y. Y biết rằng đó là một lỗi lầm lớn của người vô minh. Y biết rằng càng biện luận càng hao thần lực; cho nên y không hay cãi vã. Nếu có ai muốn hỏi một lời giải thích hay một ý kiến thì y lấy làm sung sướng mà cho ra và không bao giờ có ý muốn cải tạo một người khác phải chấp nhận cách tư tưởng của y.
Trong trọn đời y, luôn luôn có ý tưởng giúp ích mọi người, chẳng những đồng loại mà còn đối với thú cầm sống quanh y. Một vài con thú giao tiếp thân mật với y; thêm một lý lẽ để y làm gì giúp chúng. Người Thông Thiên Học biết rằng thú vật cũng là đàn em của y nên y có bổn phận đối với chúng. Cho nên y làm việc và hướng tư tưởng của y luôn luôn đến chúng và không bao giờ làm gì có hại cho chúng.
Trước hết và trên hết, Thông Thiên Học đối với y là một giáo lý thường thức. Nó trình bày cho y các dữ kiện thuộc về Thượng Ðế và các quan hệ giữa con người với nhau. Nhờ đó, y luôn luôn hành động hợp lý và đúng với lương tri. Y sắp đặt đời sống y theo định luật tiến hóa, định luật mà Thông Thiên Học đã dạy y. Ðiều đó dẫn y đến vị trí hoàn toàn khác hẳn và cho y cách thử lòng để y làm tròn mọi việc; trước hết là các tư tưởng, tình cảm và hành động của y và sau đó là tất cả những gì đến với y ngoài đời.
Luôn luôn y áp dụng tiêu chuẩn : việc này tốt hay xấu ? Việc này có giúp vào sự tiến hóa hay làm trì trệ sự tiến hóa ? Ngay khi một tư tưởng nảy sinh trong lòng y, y liền xem xét coi nên khuyến khích nó hay không ? Khi y thấy tư tưởng đó mang lại điều lành cho nhiều người thì tư tưởng ấy tốt. Khi y thấy tư tưởng đó gây trở ngại hay làm trì trệ sự tiến bộ một người nào thì tư tưởng ấy xấu vày phải tránh. Lý do đó cũng phải được sử dụng trước bất kỳ một vấn đề nào, dù cho vấn đề ấy không liên hệ đến y. Một việc nào y thấy tốt, y phải hổ trợ nó không ngần ngại. Nếu nó không tốt thì y không lo nghĩ đến nó nữa.
Ðối với y, vấn đề quyền lợi riêng tư của y không đáng kể. Y chỉ nghĩ đến điều cần cho sự tiến hóa chung. Như vậy, y có một điểm tựa vững chắc và một tiêu chuẩn quyết định giúp y tránh khỏi nhiều băn khoăn do dự, không quyết định. Thiên Ý là sự tiến hóa của loài người. Ðiều gì giúp vào sự tiến hóa ấy là tốt; điều gì chống lại hay làm chậm trễ nó nhất định là xấu; mặc dù dư luận quần chúng hay tập quán thế gian có mạnh mẽ đến đâu.
Vì y biết rằng chơn nhơn là con người thật chớ không phải là thể xác, nên rất dễ dàng cho y hiểu rằng đời sống của chơn nhơn mới đáng quí, còn tất cả cái gì liên quan đến xác thân phải phụ thuộc vào các quyền lợi cao cả. Y hiểu rằng sự sống ở cõi trần chỉ có mục đích duy nhất là làm cho y phát triển trên đường tiến hóa và chỉ có sự phát triển ấy là quan trọng hơn cả. Cứu cánh đích thực của sự sống phải chăng là sự biểu dương các khả năng và sự cấu tạo các đức tính ? Y ý thức được sự quan trọng của sự phát triển thể xác, cũng như sự phát triển trí não và tâm linh. Y hiểu rằng các sự phát triển ấy là một đòi hỏi tuyệt đối và các phương tiện để thụ đắc đều nằm trong tay y. Thời gian để y tiến đến sự hoàn thiện thì vô tận; nhưng được hoàn thiện sớm chừng nào thì càng hữu ích và càng hạnh phúc cho y chừng nấy.
Tóm lại, y hiểu rằng đời sống hồng trần của y chỉ là một ngày đến trường, rằng thể xác y chỉ là y phục tạm thời chỉ cần mặc vào để đi học. Ðiều quan trọng là y phải thuộc bài và người nào đổi chiều hướng để chạy theo những việc vô nghĩa là người nhẹ dạ chưa từng thấy. Ðời sống khi có mục đích vật chất như tạo ra giàu sang, danh vọng; đối với y chỉ là trò chơi trẻ con, là vô ý hi sinh tất cả cái gì có giá trị để vun đắp cho vật chất tạm thời. Y bám vào các quan niệm cao siêu mà loại bỏ các quan niệm hồng trần. Không phải y sợ các quan niệm hồng trần làm lạc đường chân chính của y mà chỉ vì y biết rõ các hư ảo của thế gian này. Y không ngừng làm việc để nâng cao tầm mắt của y. Y biết rằng không nên xem xét các việc từ dưới lên; rằng các dục vọng xấu xa và những tình cảm đê tiện bao quanh y như đám sương mù dày đặc không cho phép y thấy rõ sự vật một cách đúng đắn.
Khi y chiến đấu với chính bản thân y, y nhớ rõ rằng chơn nhơn của y là cao cả hơn hết; còn cái gì ở dưới đều không phải thật là y, mà là đam mê bất trị thuộc về một trong các thể thấp của y.
Mặc dù thất bại nhiều lần trên đường tiến hóa, y vẫn không nghi ngờ các lý do tại sao y phải rán đạt mục đích; sau lần vấp ngã thứ một ngàn cũng như lần vấp ngã đầu tiên vậy. Cho nên y biết rằng chẳng những là vô ích mà còn tai hại và xấu xa nếu y nãn chí ngã lòng.
Vì thế, y phấn đấu dấn thân vào đường tiến bộ. Thật ra, nếu y thực hiện ngay từ bây giờ thì tốt hơn hẹn lại về sau. Nhất là, khi y đã cố gắng ngay từ bây giờ và thụ đắc được một vài tiến bộ; đồng thời y tiến lên bậc cao và như thế, y có đưa tay cứu giúp người đi sau y. Vậy thì, dù ít oi, y cũng tham gia vào công cuộc tiến hóa thiêng liêng.
Y biết rằng nhờ các cố gắng lâu bền y mới đến vị trí hôm nay, cho nên y không cố ý đạt được sự hoàn thiện ngay bây giờ. Y biết rõ sự bất di bất dịch của định luật nhân quả; và biết cách diễn tiến của nó, nên biết áp dụng nó một cách hoàn toàn có ý thức trong công việc phát triển trí não và tâm linh, giống như ở cõi vật chất chúng ta áp dụng các định luật khoa học theo ý ta. Vì biết rõ sự chết là thế nào nên y không lo sợ nó đối với bản thân y và đối với người thân thích. Y nói rằng đây không phải là lần thứ nhất y chết, rằng y đã chết nhiều lần nên y đã quen thuộc. Ðối với y, chết là đi thêm một bước, bước từ cõi trần để tiến vào cõi cao hơn. Không một cách giả dối, y chào thần chết đến với y, luôn cả thần chết đến với thân nhân y, vì y biết rằng như thế y có lợi. Ðành rằng y cũng có một chút ít đau buồn trước các chia ly ấy; nhưng y cũng thật sự được an ủi vì y biết đó chỉ là một xa cách tạm thời và chỉ có ở cõi vật chất mà thôi. Y biết rằng các người mà ta gọi là chết đều còn ở quanh y và chỉ cần y bỏ thể xác y qua một bên thì y có thể ở gần họ như khi trước.
Cả thế giới là một, là thuần nhất đối với y và y biết rằng các định luật thiêng liêng chi phối chặt chẽ các thế giới, dù hữu hình hay vô hình đối với mắt phàm. Vì vậy, y không cảm nhận một dao động thần kinh hay một ngạc nhiên nào khi y bước qua từ thế giới này sang thế giới kia, và y cũng không cảm thấy chắc chắn ấn tượng thiếu nào của thế giới bên kia. Y học được rằng cuộc sống cao cả ấy mở ra trước mắt y một triển vọng của dịp may huy hoàng: dịp may mà y có thể nắm được để thụ đắc những kiến thức mới hoặc để làm việc công ích. Y biết rằng đời sống ngoài thể xác có cường độ và vẻ đẹp nhiều hơn các vui tươi và lạc thú ở cõi trần. Tầm hiểu biết rộng rãi ấy, đức tin an lạc ấy, sức mạnh của sự sống ấy xuất phát từ y và chiếu rọi đến mọi người chung quanh y.
Sự nghi ngờ về tương lai không còn đối với y, vì nếu y nhìn lui lại gặp người hoang dã, y thấy rõ hình ảnh của y trước kia. Cũng như khi y nhìn cái đẹp và cái cao quí trong nhân loại, y biết rằng y sẽ thành như thế về sau này. Y thấy trước mắt y một dãy không đứt đoạn của sự phát triển, một cái thang hoàn thiện mà các nấc đều có nhân loại đang bước lên. Như vậy, y không còn nghi ngờ rằng y cũng sẽ bước lên các nấc thang ấy. Ðúng là nhờ định luật nhân quả bất biến mà y có thể bước lên thang này, vì định luật tác động luôn luôn một các không sai chạy. Cho nên y có thể lợi dụng nó cũng như lợi dụng các định luật khoa học. Sự thông hiểu định luật ấy chứng minh cho y thấy rằng điều gì xảy đến cho y là do y tự tạo bằng việc làm, lời nói và tư tưởng ở các kiếp trước. Y hiểu rằng tất cả phiền não nào chỉ là món nợ phải trả; cho nên các phiền lụy trong đời sống đối với y là những bài học mà y phải khai thác. Vì biết rằng do đâu các phiền lụy ấy đến, cho nên y rất vui lòng xem chúng như những dịp đến với y để y được trả dứt một số nợ.
Nhưng y không chỉ xét các phiền não ấy theo quan điểm duy nhất đó mà y cón thấy rằng nếu y chấp nhận chúng một cách kiên nhẫn, không than trách; y còn rút thêm được một cái lợi khác. Nghĩa là y không tự dày vò, băn khoăn vì những phiền não chưa đến. Vì vậy, khi chúng đến y không than trách một cách dại khờ. Y nhìn thẳng vào chúng và y sẵn sàng chịu đựng những cái không thể tránh được một cách cứng cõi và kiên nhẫn. Không phải y để chúng khuất phục y như những định mệnh. Trái lại, y xem nghịch cảnh như một liều thuốc kích thích y mở mang thêm đức tính nhẫn nhục. Như vậy sau một loạt dài đau khổ, y tạo được hạt mầm của một cuộc gặt hái tốt trong tương lai. Vì đồng thời trả được các nợ nần, y còn phát triển được tính can đảm và quyết tâm. Nhờ đó, y sẽ vững bước trên đường tiến hóa về sau.
Y tự phân biệt với người thường của thế gian do tính khí tốt đẹp vĩnh viễn, do can đảm kiên cường trước mọi khó khăn, do tính thiện cảm sâu sắc và do sẵn lòng trong mọi trường hợp. Y cũng là người có bổn phận xem cuộc đời là quan trọng; y biết rằng mỗi người có trọng trách phải làm tròn trong đời mình và y không để mất thời giờ. Y có một sự quyết chắc thâm sâu rằng chẳng những y làm việc cho chính số phận của y mà còn cho số phận của các người chung quanh y. Như vậy, trách nhiệm nặng nề trên các hành vi của y biểu lộ theo đúng giá trị của nó.
Y biết rằng nhờ tư tưởng, người ta có thể làm nhiều việc ác hoặc nhiều việc thiện; rằng con người không phải chỉ sống cho riêng mình vì mỗi tư tưởng đều ảnh hưởng đến kẻ khác; rằng các rung động phát xuất từ trí não và bản chất trí tuệ của y đều di chuyển sang trí não và bản chất trí tuệ của người chung quanh. Do đó, y trở thành nguồn cội sức khoẻ hoặc bệnh hoạn của tinh thần cho những người tiếp cận y.
Như vậy, sự kiện ấy bắt buộc y phải có một qui luật đạo đức cao thượng hơn qui luật của người cai trị thế giới bên ngoài. Vì y biết rằng y phải kiểm soát chẳng những hành vi, lời nói của y, mà còn tất cả tư tưởng của y; bởi vì hậu quả của tư tưởng quan trọng hơn và lan truyền xa hơn rất nhiều đối với sự việc vật chất. Y cũng biết rằng, mặc dù y không hướng tư tưởng đến một người nào, y cũng ảnh hưởng họ ít nhiều đến điều thiện hoặc điều ác; rằng ngoài việc sử dụng vô ý thức như thế, y có thể dùng tư tưởng ấy một cách hữu ý vào việc thiện. Y thiết lập những luồng tư tưởng mang sự giúp đỡ và tăng cường tinh thần người đau khổ; và y tự mở một chân trời thênh thang đầy việc thiện phải làm.
Y luôn luôn lựa những tư tưởng tốt, thanh cao và gạt bỏ những thèm khát thấp hèn. Dứt khoát, y tìm thấy sự vật bằng cặp mắt lạc quan chớ không bi quan. Là con người, y hành động theo người quân tử chớ không theo kẻ tiểu nhân, vì y thấy rằng đó là cách nhìn sự vật đúng hơn cả.
Bằng cách thấy và tìm cái tốt trong tất cả; và bằng cách rán củng cố quan niệm ấy, bằng cách rán sức giúp đời chớ không bao giờ làm hại đời, y trở thành một trợ thủ quí báu của bạn bè. Như vậy, dù ít oi đến đâu, y cũng cộng tác với kế hoạch tiến hóa thiêng liêng. Y tuyệt đối quên mình, chỉ sống cho người khác, tự coi mình như một bộ phận của kế hoạch ấy. Y cũng cảm thấy Thượng Ðế ngự nơi y và y học cách biểu lộ Ngài càng ngày càng thật. Ðó là tại sao khi thi hành Thiên Ý, chẳng những y được phò trợ, mà y cũng là người phò trợ cho mọi người.
HẾT
mục lục chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
Để làm quen với quan niệm của Thông Thiên Học mời các bạn đọc những tác phẩm sau:
Thông Thiên Học Dẫn Giải
Thông Thiên Học Khái Lược
Thông Thiên Học Giảng Lược
Thông Thiên Học Là Gì
Chân Nhân Và Các Hạ Thể (đang soạn)
Những Tài Liệu Nghiên Cứu :
Dưới Chân Thầy
Bí Quyết Thông Thiên Học
Giáo Lý Bí Truyền (đang soạn)
Nữ Thần Isis Lộ Diện (đang soạn)
Books
Magazines
THÔNG THIÊN HỌC THẾ GIỚI
THÔNGTHIÊN HỌC HOA kỲ
Hội Thông Thiên Học Ðược Thành Lập 7-11-1875
Bởi Bà Helena Petrovna Blavatsky Và Ông Henry Steel Olcott
The Theosophical Society Adyar, Chennai 600020, India Phone: 91-44-4912815
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
Bản quyền Copyright @ www.thongthienhoc.com 2001
Mọi bản sao hay trích dẫn kính xin quí vị đề rõ nơi xuất xứ chân thành cám ơn.
Xin giữ nguyên bản. Mọi sự liên hệ xin liên lạc e-mail sau: nhusee@yahoo.com
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com